🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Vị Tổ Ngành Nghề Việt Nam - Lê Minh Quốc full prc pdf epub azw3 [Lịch sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
1
Biểu ghi biên mục trước xuất bản được thực hiện bởi Thư viện KHTH TP.HCM
Lê Minh Quốc
Các vị tổ ngành nghề Việt Nam / Lê Minh Quốc. - Tái bản có chỉnh sửa, bổ sung. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2009.
208tr. : tranh ảnh, hình vẽ ; 24cm. - (Kể chuyện danh nhân Việt Nam; T.1)
1. Danh nhân -- Việt Nam. 2. Nghề nghiệp -- Việt Nam -- Lịch sử. 3. Nghề thủ công -- Việt Nam -- Lịch sử. I. Ts. II. Ts: Kể chuyện danh nhân Việt Nam.
959.7092 -- dc 22
L433-Q16
nhà xuất bản trẻ
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
HOAN NGHÊNH BẠN ĐỌC GÓP Ý PHÊ BÌNH NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
161b Lý Chính Thắng - Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: 9316211 - 8465595 - 8465596 - 9316289 Fax: 84.8.8437450
E-mail: [email protected]
Website: http://www. nxbtre.com.vn
4
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Lời nói đầu
“Các vị tổ ngành nghề Việt Nam” là tập sách mở đầu cho bộ sách nhiều tập KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM do nhà thơ Lê Minh Quốc biên soạn. Tập sách này đã được tái bản nhiều lần. Nay theo yêu cầu của độc giả, chúng tôi sắp xếp, bổ sung thêm nhiều tư liệu, hình ảnh trong điều kiện có thể để phục vụ tốt hơn nữa. Khi thực hiện bộ sách này, chúng tôi mong muốn giúp cho bạn đọc – nhất là thanh thiếu niên – hiểu được sự hình thành của các ngành nghề và thấm nhuần công đức của các danh nhân đã có nhiều đóng góp trong các ngành nghề truyền thống. Đây là điều cần thiết trên hành trình “về nguồn” để chúng ta cùng tự hào, hãnh diện với những tên tuổi gắn liền với một ngành nghề nhất định.
Chúng tôi tin rằng, bạn đọc sẽ cùng chia sẻ và đồng tình với chúng tôi về suy nghĩ mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu nhân Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1969: “Trong nhiều truyền thống tốt đẹp, dân tộc Việt Nam ta luôn giữ vững một truyền thống có ý nghĩa hay và đẹp vô cùng: tưởng nhớ tổ tiên, tưởng nhớ những người đã có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước. Trong phạm vi của một tập thể nhỏ là làng xóm, bao gồm nhiều họ, nhiều gia đình, cũng như trong phạm vi cả nước, dân tộc Việt Nam ta, trong đời sống tinh thần, đời sống tư tưởng và đời sống của mình đều gắn liền hiện tại với quá khứ, quê hương nhỏ với Tổ quốc và dân tộc, từ đó mà giữ vững và phát huy những đức tính cổ truyền tốt đẹp: lòng yêu nước, tình đoàn kết, chí kiên cường, bất khuất, niềm tin sâu xa và mạnh mẽ vào tài năng của mình”. Thiết nghĩ, đã là
5
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
người Việt Nam chúng ta không thể không biết đến công đức trời biển các vị Vua Hùng đã công dựng nước và Tứ bất tử Việt Nam rất gắn bó trong tâm thức dân gian, do đó, chúng tôi đặt lên đầu bộ sách.
Khi khảo sát các ngành nghề truyền thống, ta cần hiểu rằng, không phải chỉ khi có vị Tổ truyền nghề thì ở nước Nam ta mới có nghề ấy. Mà thật ra ngay từ thuở bình minh dựng nước, tổ tiên ta đã biết thành thạo các ngành nghề ấy. Đã đành các vị Tổ là người có công dạy nghề cho dân, nhưng những người thợ tài hoa có công cải tiến nghề, đem lại lợi ích cho cộng đồng thì cũng được tôn vinh là tổ nghề. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh hoàn toàn có lý khi khẳng định: “Tổ nghề (tổ sư hay thánh sư) không nhất thiết là con người thực, do đó, gạt bỏ những nhân vật huyền thoại, là không đúng với thực tế, nhất là sự thực ở tấm lòng và ở cảm quan thẩm mỹ của người dân”. Có một số ngành nghề gắn liền với thần thoại hoặc cùng một nghề nhưng mỗi địa phương lại thờ các Tổ khác nhau, cũng có những nghề mà người ta không rõ Tổ của mình là ai v.v... Phần lớn các ngành nghề truyền thống đề cập trong trang sách này như: nghề mộc, nghề thêu, nghề hát xẩm, hát ả đào, nghề in, nghề kim hoàn, nghề dệt chiếu, nghề đúc đồng, nghề dệt... không phải mới ra đời từ thời ông Tổ đó – mà có thể đã có trước đó rất lâu. Vậy tại sao làng nghề lại chọn người đó làm Tổ của nghề? Đây là điều hết sức thú vị và cũng phản ánh rõ nét đạo lý của người Việt là luôn biết ơn cả những vị đã góp phần nâng cao, cải tiến nghề nghiệp của mình để năng suất ngày một hiệu quả hơn. Và đúng như sự phân tích của Giáo sư Vũ Ngọc Khánh: “Việc thờ phụng các Tổ ngành nghề (người thực hay nhân vật huyền thoại) thật ra là cốt để khẳng định, tôn vinh ngành nghề ấy. Một ngày giỗ Tổ, một dịp hội hè, cũng là một bằng chứng cụ thể để thấy vị trí của ngành nghề trong cuộc nhân sinh và “Ngày giỗ Tổ bao giờ cũng là dịp “trình nghề”. Không phải sự trình nghề chung, đồng loạt như ta thấy ở hội lễ nông nghiệp, mà thật sự là một cố gắng giới thiệu những thành tựu của nghề. Những thành tựu ấy ít nhiều có liên quan đến vị Tổ sư và gợi ra nhiều suy nghĩ”.
6
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Tiếc thay, công đức của các Tổ ngành nghề ấy, trải qua bao thăng trầm lịch sử chưa được ghi lại thật đầy đủ. Chính vì thế, dù có tham vọng muốn đề cập thêm một số ngành nghề cần tìm hiểu, nhưng do tư liệu còn quá mỏng nên chúng tôi xin trở lại vào một dịp thuận lợi hơn.
Trong quá trình biên soạn chúng tôi tham khảo nhiều tư liệu và sử dụng khá nhiều hình ảnh minh họa – nhằm giúp cho bạn đọc hiểu rõ hơn về ngành nghề đó. Ảnh minh họa chủ yếu được sử dụng theo tranh khắc gỗ của Henri Oger – cựu sinh viên trường Đại học Sorbonne – thực hiện đầu thế kỷ XX, (cụ thể là những 1908-1909 tại Hà Nội), báo ảnh Việt Nam, kể cả một số ảnh sưu tập trên internet mà chúng tôi không rõ tác giả. Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến với các tác giả tập sách, tác giả ảnh đã thực hiện nhằm giúp cho chúng tôi thuận lợi hơn về mặt tư liệu khi biên soạn.
Để bộ sách thật sự hữu ích cho người đọc – nhất là các bạn thanh thiếu niên – và ngày một hoàn hảo hơn, chúng tôi rất mong được sự chỉ giáo, giúp đỡ chân tình của các học giả uyên bác, của các nhà sử học và của các bạn đọc xa gần. Trước hết xin độc giả nhận ở đây sự biết ơn sâu xa của chúng tôi.
NHÀ XUẤT BẢN Trẻ
7
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
8
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Vua Hùng
Biểu tượng sự đoàn kết,
thống nhất của dân tộc Việt
Cõi Nam riêng một góc trời
Hùng Vương gầy dựng đời đời nghiệp vua
Phong Châu là chốn kinh đô
Chia mười lăm bộ bản đồ mênh mông
Trứng Rồng lại nở ra Rồng
Ngàn con muôn cháu vốn dòng Lạc Long
Cây kia ăn quả ai trồng
Sông kia nước uống hỏi dòng từ đâu?
Quân thần hai chữ trên đầu
Hiếu trung hai chữ dãi dầu lòng son
Ba tòa chót vót đầu non
Ngàn thu sùng bái vẫn còn khói hương
Bụi hồng mấy cuộc tang thương
Bia xanh còn đó, khoán vàng còn đây
Trời cao bể rộng đất dày
Sông Thao, núi Tản chốn này còn ghi
Bốn bề cây cỏ xanh rì
Nhìn xem phong cảnh khác gì Đào Nguyên
Đường mây sẵn bậc bước lên
Rõ ràng lăng miếu mẹ Tiên, cha Rồng...
Bài Chúc phúc Hội Đền Hùng này ra đời trong những năm đầu
9
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
thế kỷ XX, nay đọc lại vẫn còn xúc động. Tác giả là ai? Không rõ. Chỉ biết nó được truyền miệng từ đời này qua đời khác.
Còn có câu ca dao mộc mạc, chân tình, ghi sâu vào trí nhớ của nhiều thế hệ:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm
Dựa vào truyền thuyết dân gian và chính sử của các triều đại trước, nhà giáo, nhà sử học Trần Trọng Kim đã viết về nước ta thời thượng cổ như sau:
“Họ Hồng Bàng: Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là dòng dõi Long Quân, nhà ngươi là dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được; nay được trăm con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải”.
Nước Văn Lang: Lạc Long Quân phong cho người con trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương. Cứ theo sử cũ thì nước Văn Lang chia ra làm 15 bộ:
10
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Đền thờ Kinh Dương Vương
Bức tượng thờ
Quốc Mẫu Âu Cơ
được tạo tác từ thời Lê
11
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Các tập tục dân gian của người Việt cổ
được mô phỏng lại trong ngày
Lễ hội giỗ Tổ Âu Cơ
Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ
ở Hạ Hòa, Phú Thọ
Lễ giỗ Mẹ Âu Cơ tại Thành phố Hồ Chí Minh
12
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
1. Văn Lang (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên)
2. Châu Diên (Sơn Tây)
3. Phúc Lộc (Sơn Tây)
4. Tân Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)
5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)
7. Lục Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng Yên)
9. Dương Tuyền (Hải Dương)
10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình) 11. Cửu Chân (Thanh Hóa)
12. Hoài Hoan (Nghệ An)
13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)
14. Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị)
15. Bình Văn (?)
Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (bây giờ ở vào địa hạt huyện Bạch Hạc, tĩnh Vĩnh Yên), đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính. Quyền chính trị thì cứ cha truyền con nối, gọi là Phụ Đạo.
Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, đến năm Quý Mão (158 trước Tây lịch) thì bị nhà Thục lấy mất nước. Xét từ đời Kinh Dương Vương đến đời vua Hùng Vương thứ 18, cả thảy 20 ông vua.
Từ năm 1969, Hội Sử học Việt Nam bắt đầu nghiên cứu về đề tài Hùng Vương; công việc kéo dài tiếp tục trong các năm 1961-1963 và 1966-1970. Các nhà nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam đã vận dụng phương pháp nghiên cứu khoa học tổng hợp và có ý niệm chung là văn hóa thời Hùng Vương phát triển qua 4 giai đoạn lớn: giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Mậu, Gò Muôn và Đông Sơn. Viện trưởng Viện Khảo cổ học Phạm Huy Thông cho biết: Địa bàn của văn hóa Đông Sơn chính là địa bàn mà sử sách nói về 15 bộ (hay 15 bộ lạc) của
13
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
nước Văn Lang và trung tâm xuất phát văn hóa Đông Sơn, chính là vùng hợp lưu các sông Thao - sông Hồng, sông Đà, sông Lô, nơi văn hóa Phùng Nguyên đậm nét, nơi sử sách và truyền thuyết nhớ là đất tổ Phong Châu, trung tâm nước Văn Lang của các vua Hùng”.
Đến với truyền thuyết về thời đại Hùng Vương là ta đến với tâm linh của nguồn cội, của tình cảm gắn bó máu thịt “nước non vẫn nước non nhà”, của đồng bào “máu chảy ruột mềm”,... Tình cảm
Trống đồng thời các vua Hùng
Hải điểu bay mừng khi thuyền về
(trên trống đồng thời các vua Hùng)
Hình người giã cối trên trống đồng
Nhạc sĩ thổi khèn trên trống đồng
Rìu bằng đồng thời vua Hùng
14
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
ấy bất biến, tồn tại trường cửu như sức sống của cả một dân tộc có hơn 4.000 năm văn hiến.
Khu di tích Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích - xã Hy Cương - huyện Lâm Thao (Phú Thọ) – cách trung tâm thành phố Việt Trì 7km về phía Bắc, cách thủ đô Hà Nội 90km. Đền Hùng được xây dựng trên núi Hùng – còn gọi là núi Cả theo tiếng địa phương, (hay còn có nhiều tên gọi khác nhau như Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn…), thuộc đất Phong Châu – vốn là đất kế đô của Nhà nước Văn Lang hơn 4.000 năm trước đây.
Cổng đền được xây dựng vào năm 1917, có khắc bức đại tự “Cao sơn cảnh hành”. Riêng 4 chữ này nên hiểu như thế nào? Đã có cuộc tranh luận rất thú vị. Theo ông Lê Trung Việt thì Viện Hán Nôm dịch “Núi cao đường lớn” là chưa đúng, phải dịch là “Núi cao cảnh đẹp”. Không đồng ý, theo ông Nguyễn Lưu hai chữ “Cảnh hành” theo một từ điển là “Đức hạnh cao minh” – vì thế phải hiểu theo nghĩa “Đức cao như núi”. Cụ thể trong trường hợp này là dùng để ca ngợi đức cao cả của Tổ tiên, chứ không phải nhằm tả cảnh đẹp đền Hùng. Hai bên cổng đền còn có câu đối (Vũ Kim Biên dịch):
Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông quy một mối;
Lên cao nhìn rộng, ngàn trùng đồi núi tựa bầy con.
Từ cổng đền, bước lên núi. Trước hết, ta thấy Nhà bia ghi công đức các vua Hùng. Tại đây có bia đá, ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19-9-1954:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Gần đó là đền Hạ, chùa Thiên Quang và gác chuông. Đền Hạ được xây dựng lại trên nền đất cũ vào thế kỷ XVII-XVIII. Tương truyền đây là nơi Bà Âu Cơ trở dạ sinh ra một bọc trứng nở thành 100 con trai. Dấu tích giếng “Mắt Rồng” là nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng, nay còn ở phía sau đền. Hai tiếng “đồng bào” (cùng bọc) vì thế mà có. Hẳn chúng ta không thể quên những câu thơ thống thiết, mà
15
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
nhà giáo Ngô Quý Siêu đã viết để giảng dạy học trò từ thời Đông Kinh nghĩa thục:
Đã sinh cùng giống, cùng nòi
Cùng trong đất nước là người đồng thân
Phải coi ruột thịt cho gần
Phải thương, phải xót quây quần lấy nhau
Phúc cùng hưởng, họa cùng đau
Một gan một dạ ghi sâu chữ “đồng”
May ra trời cũng xiêu lòng
Đời đời để giống Lạc Hồng này cho
Gió thu hiu hắt song hồ
Sử xanh còn đó, địa đồ còn đây
Mấy câu mượn bút giãi bày
Xin người trong nước non này cùng nghe
Rời đền Hạ, lên đền Trung. Tương truyền, đây là nơi các Vua Hùng thường họp bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng; cũng là nơi hoàng tử Lang Liêu dâng bánh dày, bánh chưng, được vua Hùng thứ 6 khen “bánh thì ngon, ý thì hay” và được nối nghiệp là Hùng Vương thứ 7.
Rời đền Trung, lên đền Thượng. Tương truyền là nơi các vua Hùng tiến hành các nghi thức cúng tế Trời đất, Thần lúa, thờ Thánh Gióng để muôn dân ấm no hạnh phúc, hưởng thái bình an lạc đời đời... Vì thế, đền Thượng vẫn còn gọi là Kính thiên Lĩnh điện (điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh). Theo truyền thuyết dân gian, nơi này vua Hùng thứ 18 đã truyền ngôi lại cho cháu là Thục Phán. Để giữ lời thề giữ vững cơ nghiệp của vua Hùng, giữ vững non sông gấm vóc, Thục Phán cho dựng hai cột đá thề. Cột đá cao 1,3m, rộng 0,3m, hình vuông; năm 1968 Ty Văn hoá Vĩnh Phú tôn tạo lên bệ như hiện nay. Tại đây còn có những bức hoành phi như Hùng Vương linh tích (vết tích thiêng liêng của Vua Hùng), Hùng Vương tổ miếu (Miễu tổ Hùng Vương), Triệu tổ Nam bang (Tổ muôn đời của nước Nam)... và nhiều câu đối chữ Hán, chữ Nôm như:
16
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
- Vật đổi sao dời, phúc tổ vẫn lưu nền Cổ tích;
Nước nguồn cây cội, đạo người nên nhớ mộ Hùng Vương. - Con cháu ba kỳ thăm mộ Tổ;
Non sông muôn thuở rạng nòi Tiên.
- Thần thánh mở cơ đồ, đến nay đất vẫn thế, dân vẫn thế; Công huân thờ đền miếu, đó là cây có gốc, nước có nguồn. - Cung cũ Hồng Lạc còn đây, trùng điệp núi đồi nhiều sông hợp lại;
Khí thiện Đế Vương vẫn đấy, thét gió mưa gào một ngọn núi đứng cao.
- Con cháu còn, tôn tổ vẫn còn, nòi giống nhà ta sinh sản mãi; Nắng mưa thế, miếu lăng vẫn thế, non sông đất nước vững bền lâu.
Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6 – nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Tương truyền trước lúc lâm chung, ngài trăn trối: “Hãy chôn ta trên núi cao để ta trông nom bờ cõi cho con cháu”.
Từ đền Thượng đi xuống gần chân khu Đền Hùng, ta sẽ gặp đền Giếng, tên chữ là Ngọc Tỉnh – xây dựng vào thế kỷ XVIII. Tương truyền hai công chúa của vua Hùng là Tiên Dung (sau lấy Chữ Đồng Tử), Ngọc Hoa (sau lấy Tản Viên) thường đến đây soi gương, chải tóc. Từ năm 2001, ta xây dựng thêm Đền thờ Mẹ Âu Cơ. Trong đền ngoài tượng thờ Mẹ Âu Cơ còn có hai Lạc hầu, Lạc tướng. Tiếp đó là Nhà bảo tàng Hùng Vương – nằm gần vị trí cổng lên Đền Hùng – được khởi công xây dựng vào năm 1996 và được khánh thành đúng ngày khai hội Đền Hùng năm 2003 do Tổng Bí thư Đỗ Mười cắt băng khánh thành. Bảo tàng có gần 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 4.000 hiện vật, 162 bức ảnh, khắc hoạ chủ đề tổng quát: “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử”.
Có thể nói, Đền Hùng không chỉ là thắng cảnh đẹp, non nước hữu tình, mà còn là một di tích lịch sử – văn hóa đặc biệt quan trọng
17
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
đối với người Việt Nam. “Thời kỳ Văn Lang, thời kỳ Hùng Vương là một giai đoạn rất trọng yếu của lịch sử Việt Nam. Chính thời kỳ này xây dựng nền tảng dân tộc Việt Nam, văn hóa Việt Nam và truyền thống tinh thần Việt Nam” (Lịch sử Việt Nam- NXB Khoa học Xã hội - 1971).
Đường lên Đền Hùng
Sơ đồ Đền Hùng hiện
nay (2007)
18
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Lễ giỗ Tổ Hùng Vương
năm 1905
Đền Hùng
tại Thành phố Hồ Chí Minh
Đền thờ vua Hùng
của bà con Việt kiều ở Úc
19
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Thờ cúng gia tiên - một phong tục văn hóa của người Việt Nam
20
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Thánh Tản Viên
Bách nghệ Tổ sư của nước Nam
Trong tâm thức dân gian của người Việt, đứng đầu “tứ bất tử”, đệ nhất phúc thần – biểu tượng cho sự trường tồn, bất diệt của dân tộc ta là Thánh Tản Viên (còn gọi là Tản Viên sơn thánh, Sơn Tinh, Thanh Sơn đại vương). Về sự tích Thánh Tản Viên, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:
Cuối thời Hùng Vương, nhà vua có người con gái gọi là Mî Nương, nhan sắc rất xinh đẹp. Nhà vua muốn tìm người xứng đáng để gả, mới nói rằng: “Đứa con gái này là giống Tiên, cho nên chỉ ai đủ tài đức ta mới cho làm rể”.
Bấy giờ, có hai người cùng vào lạy dưới sân xin cầu hôn. Nhà vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng, một người là Sơn Tinh, một người là Thuỷ Tinh, đều là ở trong cõi của nhà vua cả. Nay, nghe tin nhà vua có thánh nữ, bèn đánh bạo tới xin chờ mệnh của vua.
Vua hạ lệnh cho hai người, rằng đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ tới trước thì sẽ gả con cho người ấy. Hai người nghe xong, lạy tạ rồi ra về. Hôm sau, Sơn Tinh đem các thứ châu báu bạc vàng, cùng chim rừng thú núi tới dâng. Nhà vua y hẹn, gả con gái cho Sơn Tinh. Sơn Tinh đón vợ về trên đỉnh cao của núi Tản Viên. Thủy Tinh cũng đem sính lễ đến, nhưng muộn hơn, bèn kéo mây làm mưa, dâng nước tràn ngập, rồi đem các loài thuỷ tộc đuổi theo. Nhà vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chắn ngang khu vực thượng lưu sông Từ Liêm (tức khúc sông Hồng, chảy qua Chèm, ngoại thành Hà Nội) để ngăn lại.
21
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Thuỷ Tinh lại theo sông khác, từ vùng Lî Nhân vào chân núi Quảng Oai, rồi men sông Hát và tràn ra sông Lớn (tức sông Hồng) mà ngoặt sang sông Đà để đánh lên Tản Viên. Ở đâu Thuỷ Tinh cũng đào vực, đào chằm để chứa nước hòng đánh úp Sơn Tinh. Sơn Tinh có phép thần biến hoá, sai người đan tre thành hàng rào chắn nước, lấy cung nỏ bắn xuống, khiến cho các loài thuỷ tộc đều bị trúng tên mà chạy trốn. Rốt cuộc, Thuỷ Tinh không sao xâm phạm được núi Tản Viên. Tục truyền, từ đó Thủy Tinh đời đời thù oán, hàng năm vẫn dâng nước đánh Sơn Tinh.
Tước bỏ những yếu tố hoang đường, ta sẽ thấy được công việc trị thủy của người Việt thời cổ xưa. Xét trong lời ăn tiếng nói của dân gian, từ bao đời này vẫn còn truyền lại như nước lụt thì lút cả làng; lụt to lút ngỏ, lụt nhỏ lút đồng; mưa tháng tư hư đất; mưa ngâu lâu ngày cũng lụt; mưa thúi đất thúi trời...; hoặc trong “thủy, hỏa, đạo, tặc”, thì “thủy” vẫn là khó khăn đầu tiên. Tuy nhiên, trong sản suất nông nghiệp, nước lại là yếu tố đầu tiên “nước, phân, cần, giống”. Vì thế chế ngự lũ lụt là điều bức thiết của dân tộc ta từ đời này qua đời khác. Nhưng có một điều thú vị, thậm chí còn mang cả yếu tố lạc quan, trong chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh ông cha ta đã hình tượng bằng cuộc tranh giành người đẹp của hai vị thần si tình! Trong Đại Nam quốc sử diễn ca viết:
Thủy Tinh lỡ bước chậm chân
Đùng đùng nổi giận đem ân oán thù
Mưa tuôn gió thổi mịt mù
Ào ào rừng nọ, ù ù núi kia
Thì ra, lũ lụt dữ dội ấy cũng là do lòng ghen tức của vị thần không... chiếm được trái tim giai nhân đấy thôi!
Càng cua lởm chởm giơ như mác
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao
Sơn Tinh hiểu thần ghen, tức khắc
Niệm chú, đất nẩy vù lên cao
Hoa tay thần vẫy hùm, voi, báo
22
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Đuôi quắp, nhe nanh, giơ vuốt đồng
Đạp long đất núi, gầm xông xáo
Máu vọt phì reo muôn ngấn hồng
Sự tích Thánh Tản Viên đã phản ánh sức mạnh lớn lao của người Việt trong cuộc chiến đấu thắng lũ lụt. Không những thế, trong tâm thức dân gian Thánh Tản Viên còn là một con người vẹn toàn, có công trong việc giữ nước và làm được nhiều ích nước lợi dân. Ngoài việc giúp vua Hùng giữ được vẹn toàn lãnh thổ, Thánh Tản Viên còn dạy dân làm ra lửa, làm ruộng, mở hội, săn bắt, kéo vó, dệt lụa... nên được nhân dân từ ngàn xưa tôn là “Bách nghệ tổ sư của nước Nam”.
Sinh hoạt của người Việt ngày xưa
23
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Nhân đây thiết tưởng cũng nên nhắc đến nhân vật Cao Biền để thấy thêm uy lực của Thánh Tản Viên. Thành ngữ Việt Nam có câu: “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non”. Cao Biền (821-887) là ai? Y là một viên tướng của nhà Đường, sang làm Tiết độ sứ cai quản nước Giao Châu ta. Y là người quỷ quyệt, tinh thông lý số, giỏi về pháp thuật “tản đậu thành binh”. Mỗi khi cần có quân lính, y chỉ cần rắc đậu vào một bãi đất, rồi ủ kín, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính! Y sang Giao Châu nhằm triệt phá long mạch và yểm bùa nơi có vượng khí làm lớn mạnh của nước Nam. Có lần y nuôi 100 âm binh để phục vụ mục đích này. Để nuôi đủ 100 âm binh y nhờ một bà hàng nước mỗi ngày thắp một nén hương để gọi dậy một âm binh. Biết được âm mưu của y, bà lão đã phá bằng cách thắp cả một lượt 100 nén hương trong vòng một ngày. Kết quả là âm binh của y đã dậy đủ 100. Nhưng vì không đủ ngày, dậy non nên không có tác dụng! Lần khác y tìm đến núi Tản, thì gặp Thánh Tản Viên cưỡi ngựa trắng ngồi trên mây bay ngang qua, nhìn thấy. Để tỏ ý khinh bỉ trò khôi hài của Biền, ngài bèn nhổ xuống một bãi nước bọt, rồi bỏ đi, không thèm nói năng. Cao Biền thấy vậy cả sợ, bèn dẹp ngay trò quỷ thuật lại, rồi than rằng: “Linh khí phương Nam không thể lường được. Vượng khí ở đây không bao giờ dứt. Ta phải về thôi!”.
Qua mẩu chuyện này, ta thấy tinh thần cảnh giác trước âm mưu kẻ thù của người Việt thể hiện ở mọi tầng lớp nhân dân, ngay cả bà lão bán nước cũng ý thức nữa huống là... Thứ hai, dù đã về trời, nhưng Thánh Tản Viên vẫn còn giúp nước, uy linh của ngài vẫn còn khiến kẻ thù phải khiếp sợ. Điều này cho thấy, không riêng gì Đức Thánh Tản mà những ai một lòng một dạ với nước, dẫu mất đi thì linh hồn vẫn còn đi theo phù trợ người trên cõi dương trần.
Hiện nay, Thánh Tản Viên được nhân dân thờ phụng chu đáo qua nhiều đền, miếu. Có thể kể đền thờ thần Tản Viên thuộc xã Trung Hưng, (Sơn Tây). Lễ hội được tổ chức ba năm một lần vào ngày 15 tháng 1 âm lịch. Mở đầu là lễ rước kiệu Thánh Tản Viên từ Đông Cung lên đến đền thờ Thánh trên núi Ba Vì. Sau đó có tục lệ đánh cá, lấy nước sông Hồng tắm tượng thánh ở đền. Ở huyện Phong Châu (Vĩnh Phú) tối 30 tháng Chạp hàng năm còn có lễ hội
24
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Vi Trẹo rước chúa gái – diễn lại cuộc đón dâu của Sơn Tinh; hoặc lễ hội Tản Viên đánh Thục v.v...
Đánh giá về vai trò Thánh Tản Viên, trong tập Hùng Vương dựng nước (NXB Khoa học Xã hội - 1974), nhà nghiên cứu Đoàn Công Hoạt đã có những nhận xét xác đáng:
“Những truyền thuyết về Sơn Tinh - Thủy Tinh cho ta thấy ngay từ thời kỳ cuối các vua Hùng nhân dân ta đã có những truyền thống đạo đức và tinh thần rất tốt đẹp. Vì điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, con người thời Sơn Tinh trước hết là con người lao động hết sức kiên cường. Bản thân Sơn Tinh là điển hình chói lọi về con người lao động ấy. Có thể nói một mình Sơn Tinh đã làm đủ các nghề “ngư, tiều, canh, mục”, từ đốn củi, phát nương đến cấy cày, chài lưới. Nhưng rực rỡ nhất vẫn là hình tượng Sơn Tinh – người khổng lồ làm thủy lợi: Sự tích núi Sụ Bá và Thạch Khoán cùng sự tích đồi Vai, đồi Đùm kể rằng Sơn Tinh gánh đất đắp núi chặn nước sông do Thủy Tinh dâng lên, mải miết ngày đêm đến nỗi đứt quang, gãy đòn gánh mà vẫn không nghỉ.
Chỉ với tinh thần lao động quên mình như vậy, tổ tiên ta mới có thể chế ngự được nạn lụt khủng khiếp của những dòng sông lớn, mới có thể đứng vững chân trên mảnh đất mới đồng bằng. Trên ý nghĩa đó mà nói thì có thể coi truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh là bài ca lao động hùng tráng, là bài ca chiến thắng vẻ vang của sức lao động sáng tạo và vĩ đại.
Gắn liền với ý thức bảo vệ lãnh thổ, khẳng định quyền tồn tại và phát triển trên địa bàn sinh tụ mới là truyền thống quật cường thượng võ của người Việt thời Hùng Vương. Chuyện rèn quân luyện võ của Sơn Tinh đã nói rõ truyền thống đó.
Mặc dù trải qua nhiều gian khổ nhưng Sơn Tinh luôn luôn là người chiến thắng. Điều đó phản ánh ước mơ mà cũng phản ảnh hiện thực. Nó nói lên ý chí bất khuất, quyết tâm sắt đá của ông cha ta kiên quyết đánh thắng mọi kẻ thù.
Sức sống mãnh liệt đó, phẩm chất tinh thần tốt đẹp đó qua nhiều thời đại luôn luôn được dân tộc ta nuôi dưỡng và phát huy mạnh mẽ.
25
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Một trong những phẩm chất đạo đức cao quý thường được nhắc đến trong truyền thuyết là tinh thần dân chủ, bình đẳng, quan điểm “thân dân” của Sơn Tinh. Không những Sơn Tinh cùng làm cùng hưởng với mọi người, có khi ông còn có hành động quên mình vì dân. Sự tích núi Che thuật chuyện Sơn Tinh đắp núi ngăn nước ở vùng Bất Bạt (thuộc Ba Vì - Hà Tây), lâu ngày không trở về nhà. Thủy Tinh cho quân giả làm người nhà của Sơn Tinh đến báo tin vợ con ông ốm nặng. Sơn Tinh thản nhiên nói: “Mọi người còn đang khốn khổ vì bọn giặc dữ. Dù vợ con ta có mệnh hệ nào chăng nữa thì ta cũng không thể bỏ việc để về nhà được”. Một số truyền thuyết còn kể chuyện Sơn Tinh thường xuyên đi mọi nơi thăm hỏi dân tình: có nơi ông dạy dân trồng lúa, có nơi ông chữa cứu dân bị dịch,....
Thông qua hình ảnh Sơn Tinh, ta còn thấy được người Việt thời xưa là con người có nghĩa, có tình, có tâm hồn đôn hậu, thủy chung. Truyền thuyết kể rằng từ khi đến miền đất mới, mặc dù ngăn sông cách núi, nhưng hằng năm Sơn Tinh vẫn trở về thăm quê cũ Lăng Xương và về lễ Tết ở đền Hùng. Do đó, các làng ven sông Đà miền Bất Bạt cũ thường có lệ cuối năm lại chở thuyền “rước quân Thánh Tản” qua sông về quê lễ Tết. Người lái thuyền được chọn phải tắm gội sạch sẽ, nửa đêm hôm tất niên mặc quần áo lễ toàn màu đỏ, xuống thuyền chở “tượng trưng” ba chuyến từ bến sông Đà bên Ba Vì sang miền Thanh Thủy. Và chiều mồng ba tết, lại qua sông sang miền Thanh Thủy chở ba lượt thuyền về bên bến Ba Vì (tất nhiên cũng vẫn chở thuyền không). Nghi thức này được nhân dân địa phương hết sức tôn trọng vì nó phù hợp với truyền thống tôn trọng tổ tiên; uống nước nhớ nguồn vốn có từ lâu đời của dân tộc” (tr. 443-444).
26
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Đức Thánh Gióng
Biểu tượng chống ngoại xâm của dân tộc Việt Thánh Gióng (tranh dân gian)
Sáu đời Hùng vận vừa suy
Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài
Làng Phù Đổng có một người
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười, trơ trơ Những ngờ oan trái bao giờ
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích ngang Lời thưa mẹ, dạ cần vương
Lấy trung làm hiếu một đường phân minh
27
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Sứ về tâu trước thiên đình
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào
Trận mây theo ngọn cờ đào
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan
Áo nhung cởi lại Linh San
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên
(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Phong giao Kinh Bắc xưa có câu: “Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu cũng kéo về xem hội Gióng”; “Lâm râm hội Khám, u ám hội Dâu, vỡ đầu hội Gióng” hoặc:
Ai ơi mồng chín tháng tư
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời
Từ truyền thuyết dân gian, nhà văn hóa Phan Kếâ Bính đã viết lại chuyện Thánh Gióng trong tập Nam hải dị nhân như sau:
“Vào đời Hùng Vương thứ sáu, thiên hạ thái bình, dân gian giàu có; vua Hùng không triều cống nhà Ân bên Tàu. Thấy vậy, vua nhà Ân giả tiếng đi tuần thú, muốn đem quân xâm chiếm nước Nam. Hùng Vương lo sợ, vời quần thần vào để hỏi mưu mẹo đánh giặc ngoại xâm và giữ yên bờ cõi. Có người phương sĩ thưa với vua rằng:
- Bệ hạ nên kêu khấn với Long Quân để Ngài sai thiên tướng xuống giúp thì mới xong.
Vua nghe lời, lập đàn chay, cúng cấp ba ngày cầu khấn. Bỗng đâu trời nổi cơn giông, sấm sét ầm ầm, mưa như trút nước. Rồi có một cụ già cao lớn chín thước, đầu bạc râu trắng, ngồi ở một ngã đường cái, vừa cười vừa nói, ngâm hát múa mênh. Ai trông thấy cũng cho là lạ, mới tâu vua. Vua thân hành đến mời ông cụ đến nơi làm đàn chay, đem cơm rượu thiết đãi. Ông cụ ấy không ăn uống và cũng không nói năng câu nào.
Vua hỏi rằng:
- Sắp có giặc phương Bắc xâm phạm nước Nam, được thua thế nào, xin cụ bảo cho.
28
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Một hồi lâu, ông cụ mới nói:
- Ba năm nữa, giặc Bắc tất kéo đến đây. Nhà vua nên tìm khắp cả thiên hạ, cầu người kỳ tài, phá được giặc, thì nên chia đất, phong tước cho người ta, truyền mãi vô cùng. Nếu được người giỏi phá giặc không khó gì nữa.
Nói xong, cụ già bay vụt lên trời, biến mất.
Vua lấy làm lạ, mới tuân lời ấy, sai sứ đi khắp trong nước cầu người tài. Bấy giờ, ở làng Phù Đổng, tên nôm là làng Gióng, huyện Võ Ninh (bây giờ là Võ Giàng), có một ông ngoài 60 tuổi, chỉ sinh được một cậu con trai 3 tuổi mà chưa biết nói, mà chỉ nằm ngửa, không ngồi đứng lên được. Khi nghe sứ giả đi cầu người tài, đến làng ấy, người mẹ đã nói bỡn với con rằng:
- Đẻ được một chút con trai chỉ biết ăn uống, ngồi đứng không được thì đánh thế nào được giặc, để mà lãnh thưởng của vua, đền công sinh dưỡng cho cha mẹ.
Người con nghe vậy, bỗng nhiên biết nói, bảo mẹ gọi sứ giả lại đây. Bà mẹ lấy làm lạ lùng, bảo với láng giềng. Người láng giềng thấy lạ chuyện, xui người nhà thử gọi sứ giả đến xem sao.
Khi sứ giả đến, trông thấy người còn bé, hỏi rằng: - Tiểu nhi kia, gọi ta đến để làm gì?
Cậu bé ngồi dậy, bảo với sứ giả rằng:
- Sứ giả trở về cho mau, tâu với vua, đúc cho ta một con ngựa sắt cao 18 thước; một thanh kiếm dài 7 thước và một cái nón sắt, đem đến cho ta. Giặc đến trông thấy ta, tự nhiên phải sợ mà chạy, vua can gì phải lo.
Sứ giả mừng lắm, về tâu với vua. Nhà vua mừng rỡ bảo với quần thần rằng:
- Đây là Long Vương cứu ta đây! Năm trước ông cụ già nói chuyện, quả nhiên không sai, các ngươi chớ hồ nghi gì nữa!
Vua lập tức sai thợ rèn đúc ngựa sắt, kiếm sắt đến, sai người đem
29
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
lại đưa cho tiểu nhi. Sứ giả sắp đến, mẹ ở nhà lo lắm, chỉ sợ con nói xằng thì vạ lây đến cả nhà.
Tiểu nhi cười ầm lên nói rằng:
- Mẹ kiếm rượu thịt cho nhiều, cho tôi ăn uống, còn việc đánh giặc, mẹ không phải lo.
Tiểu nhi tự bấy giờ mỗi ngày một lớn, cơm ăn áo mặc tốn lắm, mẹ không đủ nuôi cho ăn, hàng xóm phải tư cấp giúp thêm; nào kẻ giúp đỡ gạo thóc, người dâng rượu thịt mà ăn vẫn không được no; vải lụa nhiều cũng mặc không đủ; cửa nhà ở cũng không vừa, phải ken cỏ lau lợp một cái nhà to để ngài ở.
Khi giặc Ân kéo đến núi Châu Sơn (thuộc về huyện Tiên Du), thì sứ giả đem ngựa, kiếm đến nhà trao cho ngài. Ngài vươn vai đứng lên, cao hơn hai trượng, ngẩng mặt lên trời, gầm vài mươi tiếng, rồi rút thanh kiếm cầm trên tay quát lên rằng:
- Ta là thiên tướng nhà trời đây!
Lập tức đội nón nhảy lên ngựa phóng đi. Ngựa hét ra lửa và chạy như bay, chỉ chớp mắt đã đến chỗ quân đóng. Ngài trỏ gươm đi trước, quan quân kéo theo sau, tiến sát đến trại giặc. Giặc bày trận dưới chân núi Châu Sơn, ngài xông vào trận đánh giết một hồi lâu, gẫy mất cả kiếm, mới vớ lấy bụi tre bên cạnh đường cầm cả tảng tre mà quật vào đám giặc. Quân giặc tan nát tựa hồ đất lở ngói tan, tranh nhau lạy phục xuống đất, kêu rằng:
- Lạy Ngài, Ngài là thần tướng trên trời, chúng tôi xin chịu hàng cả.
Khi đánh đến núi Ninh Sóc thì giặc tan hết cả rồi, ngài cởi áo bỏ đấy, rồi cưỡi ngựa bay lên trời.
Đến bây giờ vẫn còn dấu người và ngựa ở trên núi.
Vua nhớ, không biết lấy gì báo được, mới phong ngài làm Phù Đổng Thiên Vương, miếu thờ ngay ở vườn nhà khi trước, ban cho dân một trăm mẫu ruộng tự điền bắt bốn mùa phải cúng tế.
Từ đấy giặc phương Bắc không dám sang xâm phạm nữa. Bốn
30
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
phương nghe chuyện làm vậy, đâu đâu cũng hòa hiếu với nước Nam.
Đến đời nhà Lý, vua gia phong làm Xung Thiên Thần Vương. Bây giờ vẫn còn thờ ở làng Gióng, mà tượng thì được tạc trên núi Vệ Linh, mỗi năm đến mồng 9 tháng 4 dân làng ấy mở hội to lắm. Những bụi tre ngài nhổ lên đánh giặc bây giờ thành rừng ở huyện
Tượng Phù Đổng Thiên Vương tại Thành phố Hồ Chí Minh
Gia Bình, gọi là tre Đằng Ngà. Chỗ con ngựa sắt thét ra lửa đốt cháy mất một làng, cho nên bây giờ gọi là làng Cháy”.
Cho đến nay, trong tâm thức dân gian thì Thánh Gióng vẫn là nhân vật có thật, những di vật liên quan đến ngài đến nay vẫn còn. Xã Phù Đổng trước kia thuộc huyện Tiên Du (Bắc Ninh), năm 1961 nhập vào huyện Gia Lâm (Hà Nội). Trong tập Làng xã ngoại thành Hà Nội (Bùi Thiết - NXB Hà Nội - 1985) cho biết:
“Trước thôn Đổng Viên (tên nôm là Gióng Một) có một tảng đá lớn có một vết sâu lõm ở chính giữa, tựa dấu chân; tương truyền là dấu chân ông Đổng - một con người khổng lồ thường gặp trong các huyền thoại Việt Nam: theo lời kể, mẹ Thánh Gióng, một phụ nữ nghèo chuyên trồng cà, một buổi sáng sớm đi hái cà, đã vô tình
31
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
dẫm lên dấu chân ông Đổng. Thế rồi bà có thai, bị dân làng mắng nhiếc, bỏ làng lên rừng Trại Nòn sinh sống.
- Cố Viên, tức vườn cũ, nay ở giữa đồng thôn Đổng Viên, tương truyền là vườn cà của mẹ Thánh Gióng, cũng tại đây bà đã dẫm phải dấu chân ông Đổng. Tại Cố Viên có một ngôi nhà nhỏ gọi là cây hương, có khắc hai chữ Hán “Cố Viên”. Tảng đá có dấu chân ông Đổng cũng ở vườn này.
- Miếu Ban, thuộc thôn Phù Dực, tên cũ là rừng Trại Nòn; tương truyền đây là nơi sinh của Thánh Gióng. Sau toà miếu có có một ao nhỏ, giữa ao có gò nổi, trên gò có một bể con bằng đá. Tương truyền Gióng đã sinh ra ở đây, để kỷ niệm Gióng, không biết từ thuở nào nhân dân tạc bể đá tượng trưng cho bồn tắm, và một chiếc liềm bằng đá là dụng cụ cắt rốn người anh hùng thuở lọt lòng.
- Đền Mẫu là nơi thờ mẹ Thánh Gióng, xây ở ngoài đê.
- Giá Ngự, kiến trúc này được xây dựng lại từ đầu thế kỷ XX với hai cột trụ và bể cao. Tại Giá Ngự vào ngày hội đền mồng 9-4 âm lịch hàng năm, dân làng kéo ngựa thờ gọi là “Long Giá“đặt ở đây để trông ra khu “Soi Bia“ cạnh đền Mẫu, nơi biểu diễn điệu múa cờ trong ngày hội.
- Mộ Trâu Đô Thống, ở gần trước đền Phù Đổng, ông người thôn Phù Dực, một trong những tướng tiên phong của Gióng, ông được thờ làm thần hoàng làng Lệ Chi (xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm)
- Miếu Chợ, thờ ông Trấn Quốc, người làng Phù Đổng, là một tướng tiên phong của Gióng.
- Và đặc biệt là đền Phù Đổng thờ Thánh Gióng ở Làng Gióng. Đây là một phức hệ kiến trúc tưởng niệm người anh hùng làng Gióng. Ngôi đền nằm sát chân đê bờ bắc sông Đuống. Xuống khỏi chân đê là một ao nước, xưa nay gọi là Ao Rối, bởi vì giữa ao có một ngôi thuỷ đình có kiến trúc đặc biệt xây từ thế kỷ XVI - XVII dùng làm nơi biểu diễn rối nước. Qua khu vực này bằng một sân rộng là Tam quan đền Thượng (đền Phù Đổng hay gọi là đền Gióng), kiến
32
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
trúc Tam quan có niên đại 1705, mới được sửa lại vào thế kỷ trước. Vào khỏi tam quan là các nếp kiến trúc Thiêu Hương, Tiền Tế, hai toà này do Diên quân công (người làng Phù Dực) tiến cúng và Đặng Công Chất (người làng Phù Đổng) đỗ Trạng nguyên năm 1661 xây dựng. Chính điện thờ Thánh Gióng với tượng Gióng ở chính giữa và một số tướng ở xung quanh. Trong đền có nhiều câu đối hoành phi và những đồ thờ tự có giá trị từ thời Lê để lại.
Tượng thờ Thánh Gióng
tại đền Sóc Sơn (Hà Nội)
Lễ hội Thánh Gióng
tại Hà Nội
33
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Cùng với hàng trăm dấu tích Thánh Gióng ở các tỉnh Hà Bắc, Hà Nội, các di tích tưởng niệm Gióng ở Phù Đổng, giúp cho chúng ta nhiều tài liệu quý để nghiên cứu và ghi nhớ sự tích kỳ vĩ đi vào huyền thoại”.
Trong đền thờ Thánh Gióng còn lưu câu đối tuyệt hay (Giang Quân - Phan Tất Liêm dịch):
Người thánh trời sinh, dẹp tan giặc Bắc;
Dấu thần đất cũ, giữ vững trời Nam.
Tuy nhiên, theo chúng tôi viết về Thánh Gióng hay nhất vẫn là câu đối của thi sĩ Cao Bá Quát (Giang Quân- Phan Tất Liêm dịch):
Đánh giặc, lên ba hiềm vẫn muộn;
Vuột trời, tầng chín hận chưa cao.
Và ông cũng có bài thơ Vịnh Đổng Thiên Vương mà đến nay nhiều người vẫn nhớ:
Ba năm rồng náu chửa ai hay,
Oanh liệt ra tay bỗng một ngày.
Phá giặc roi vàng gầm sấm sét
Lên không ngựa sắt lạ xưa nay.
Công ghi cõi Việt so trời đất,
Oai dẹp quân Ân khiếp cỏ cây.
Miếu cũ thông reo khi gió động,
Tưởng quân thắng trận trở về đây.
(Vũ Mộng Hùng dịch)
Nhà sử học Trần Quốc Vượng đã nhìn hình tượng Phù Đổng qua những nhận xét rất chí lý: “Phù Đổng là biểu tượng của tuổi trẻ anh hùng Việt Nam, biểu tượng của chính Việt Nam, của cả Việt Nam anh hùng, bởi vậy tôi đã nói đến hằng sa số Phù Đổng của lịch sử tuổi trẻ Việt Nam và riêng về lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, thì quả thật có một phép biện chứng Phù Đổng Việt Nam mà nhiều nước lớn, nước mạnh không lường hết được, không lường trước được.
34
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Cấu trúc đối ứng của chuyện đậm đà sắc thái văn hóa dân gian Việt Nam này còn thể hiện ở mô típ vũ khí đánh giặc:
Roi sắt và gậy tre ngà.
Roi sắt là hữu hạn, gậy tre là vô cùng, roi sắt rồi cũng gãy, tre đằng ngà thì còn mãi mãi... Roi sắt là của vua quan sai rèn cho Phù Đổng, tre đằng ngà là của tự nhiên, của dân trồng lớn theo tinh thần trường tồn đánh giặc. Người anh hùng
đích thực là người anh hùng
vô danh và mãi mãi vô danh.
Lớn lên như thổi và lớn lên là
để cứu nước. Cứu nước xong,
thì biến đi chứ không ở lại để
kể công, cầu danh, như con em
người dân thường khi có giặc
thì đánh giặc; giặc tan, lại trở
về làm dân, trở về với dân, vô
tư vì nghĩa lớn... Vô danh mà
tên tuổi vẫn để đời. Đấy là biện
chứng của lịch sử.
Trẻ em tập võ đầu thế kỷ XX
35
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Chử Đồng Tử
Ông Tổ nghề buôn
Tượng thờ Tây Sa - Chử Đồng Tử - Tiên Dung.
Về vị thần linh Chử Đạo Tổ tức Chử Đồng Tử, trong các thư tịch sách cổ của nước ta đều có ghi chép rõ ràng. Trong Lĩnh Nam chích quái liệt truyện có truyện Nhất Trạch Dạ (theo bản dịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam - NXB Thế Giới - 1997) như sau:
“Hùng Vương truyền đến đời vua thứ ba thì sinh được một gái tên là Mî nương Tiên Dung, mười tám tuổi, dáng người xinh đẹp, không muốn lấy chồng, chỉ ham dạo chơi, thích tuần du trong thiên
36
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
hạ, vua yêu chiều nên cho nàng tùy ý. Mỗi năm vào khoảng tháng hai tháng ba, sắm sửa thuyền bè lênh đênh chơi nơi hải ngoại, đôi lúc mải vui quên cả về.
Bấy giờ ở hương Chử Xá có Chử Vi Vân sinh ra Đồng Tử, hai cha con tính vốn từ, hiếu. Nhà gặp hỏa hoạn của cải sạch sanh, chỉ còn lại một chiếc khố vải, hai cha con ra vào thay nhau mà mặc. Đến lúc cha già, lâm bệnh, bảo Đồng Tử rằng:
- Cha chết thì cứ để truồng mà chôn, giữ khố lại cho con, may khỏi xấu hổ.
Nhưng đến khi cha mất, Đồng Tử cứ lấy khố liệm chôn, còn mình thì thân thể trần truồng, đói rét khổ sở. Đi đến bên sông cầm cần câu cá, mỗi khi thấy có thuyền buôn thì xuống dưới nước đứng xin ăn.
Không ngờ thuyền Tiên Dung đột nhiên tới. Nghe tiếng chiêng trống sáo kèn, thấy đầy những nghi trượng cờ quạt, Chử Đồng Tử kinh sợ, không biết chạy núp vào đâu. Trên bãi cát có một chòm lau lơ thơ ba bốn gốc, bèn vào ẩn tránh trong đó, noi cát thành hố để giấu thân, lại lấy cát phủ lên trên. Trong khoảnh khắc, thuyền của Tiên Dung xốc tới, bèn đậu ở đấy để lên bãi dạo chơi, rồi ra lệnh quay màn chung quanh chòm lau làm nơi tắm gội. Tiên Dung vào trong màn cởi áo tắm rửa, dội nước làm cho cát dạt đi, lộ ra thân hình Đồng Tử. Tiên Dung kinh ngạc, nhìn một lúc lâu biết đó là người con trai, Tiên Dung nói:
- Ta vốn không muốn lấy chồng. Nay gặp người này ở trần truồng chung một hố, ấy là trời khiến như thế. Chàng nên mau dậy tắm rửa đi.
Nàng ban cho áo quần, rồi bảo xuống chung một thuyền, ăn uống tiệc tùng vui vẻ. Người trong thuyền ai nấy đều cho là cuộc gặp gỡ tốt đẹp xưa nay chưa hề có. Đồng Tử nói hết lý do vì sao đến đây. Tiên Dung bùi ngùi than thở, bảo chàng cùng kết duyên vợ chồng. Đồng Tử từ chối. Tiên Dung nói:
- Sự việc gặp nhau xui ra như thế, đừng cố chối từ nữa! Những kẻ theo hầu vội về tâu với Hùng Vương. Vua giận nói:
37
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Bãi Tự Nhiên (Hưng Yên) -
nơi phát tích huyền thoại Chử Đồng Tử - Tiên Dung
- Tiên Dung không tiếc danh tiết, không tiếc của cải của ta, rong chơi ngoài đường, hạ mình lấy người nghèo, còn mặt mũi nào thấy ta nữa. Từ nay mặc mày muốn làm gì thì làm, không được trở về nữa.
Tiên Dung nghe sợ, không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở quán chợ, lập phố xá, mua bán với dân, liền thành cái chợ lớn (chợ Thám).
Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán, kính thờ Tiên Dung - Đồng Tử làm chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng:
- Quý nhân hãy bỏ ra một dật vàng, năm nay cùng thương nhân nước ngoài mua vật quý, sang năm được lãi mười dật.
Tiên Dung nghe ngóng, bảo Chử Đồng Tử rằng:
- Vợ chồng ta là bởi trời là nên, cái ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên mang một dật vàng cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quý để buôn bán sinh sống.
Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn bán, lênh đênh khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Vi, trên núi có am cỏ. Thương nhân ghé thuyền vào múc nước, Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có một tiểu tăng tên Phật Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử bèn
38
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
lưu lại đấy để học phép, đưa tiền cho thương nhân mua hàng. Thời gian sau, thương nhân quay trở lại, tới am để chở Đồng Tử về. Tiểu tăng tặng cho Đồng Tử một cây gậy một chiếc nón lá và bảo:
- Các phép linh dị thần thông đã ở đây cả rồi!
Đồng Tử về, đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ cả quán chợ, nghề buôn để cùng Đồng Tử tìm thầy học đạo. Có một hôm đi xa, trời tối chưa kịp đến nhà, tạm nghỉ lại dọc đường, dựng gậy úp nón để tự che thân. Đêm đến canh ba, hiện ra đủ các thứ thành quách, lầu châu điện ngọc, đài các lang vũ, phủ khố miếu xã vàng bạc châu ngọc, giường chiếu trướng màn, kim đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt trước mắt. Sáng hôm sau, ai trông thấy cũng kinh ngạc, liền đem các thứ hương hoa ngọc thực đến dâng, xin làm bề tôi. Từ đó có trăm quan văn võ, chia quân túc vệ, riêng thành một nước.
Hùng Vương nghe tin, cho là con gái làm loạn, bèn đem quân đi đánh. Khi quân Hùng Vương sắp tới nơi, quần thần xin được lệnh đem binh chống giữ. Tiên Dung cười nói:
- Không phải do ta làm, chính là trời khiến vậy. Sống chết tại trời, con đâu dám chống lại cha. Cứ tin theo lẽ đúng, mặc cho chém giết.
Bấy giờ những dân cư mới tới đều sợ chạy tứ tán, chỉ có dân cũ ở lại cùng Tiên Dung. Khi quân Hùng Vương đến, đóng doanh trại ở châu Tự Nhiên, còn cách một con sông lớn, thì gặp trời tối, chưa kịp tiến quân. Đến nửa đêm, bỗng nổi gió to, nhổ cây tung cát, quân Hùng Vương hỗn loạn. Tiên Dung, Chử Đồng Tử cùng quần thần, bộ hạ, thành quách phút chốc bay lên trời. Chỗ đất cũ sụt xuống thành cái chằm lớn. Ngày hôm sau nhân dân nhìn không thấy nữa, cho là linh dị, liền lập miếu thờ, thường xuyên cúng tế. Đặt tên cái chằm ấy là “Nhất Dạ Trạch”, bãi cát ấy là “Tự Nhiên Châu” hay “Mạn Trù Châu”, cái chợ ấy là “Hà Thị” (tr.166 - 168).
Trong truyện cổ tích, nếu tước đi yếu tố huyền thoại sẽ thấy được cái lõi của lịch sử, của sự thật. Chuyện tình Tiên Dung - Đồng Tử theo tôi, là câu chuyện tình hay nhất trong thư tịch cổ nước nhà, vì
39
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
nó mang được những nét rất tiến bộ. Chỉ một câu Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” ra đời sau đó hàng ngàn năm vẫn còn khiến không ít người “đạo đức” nhăn mặt, khó chịu, thì ở đây, nàng Tiên Dung đã chủ động đến với người mình yêu, dù tin đó là “cơ duyên” do “trời khiến”. Nàng dũng cảm đặt vấn đề trước, không phải bị ràng buộc bởi quan niệm “trâu tìm cột, đời nào cột tìm trâu”. Tình yêu đôi lứa là một sự tự nguyện, chứ không phải theo lễ giáo “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” và Tiên Dung cũng không cần “môn đăng hộ đối”! Riêng chi tiết, “Tiên Dung vào trong màn cởi áo tắm rửa, dội nước làm cho cát dạt đi, lộ ra thân hình Đồng Tử”, là một chi tiết gợi cảm rất hiện đại, và rất đắt giá của... nghệ thuật thứ bảy!
Một thú vị nữa, trong truyện còn cho biết vợ chồng nàng đã ăn nên làm ra, “thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn” và nhất là biết bỏ vốn ra để... đi buôn! Những chi tiết này cùng với việc học đạo - đạo Tiên, của vợ chồng nàng, chứng tỏ truyện này ra đời từ thuở bình minh của người Việt cổ, lúc ấy đạo Phật và đạo Khổng chưa du nhập vào nước ta.
Do buôn bán giỏi nên vợ chồng Tiên Dung trở nên giàu có. Điều đáng nói là họ không bo bo làm giàu cho riêng mình, mà còn biết làm cho cả một vùng đất trở nên trù phú, thịnh vượng, thu hút dân chúng tìm đến lập nghiệp sinh sống... Làm ăn phát đạt, Chử Đồng Tử còn đem vốn liếng vượt biển đi buôn! Chứng tỏ người Việt cổ sở trường về sông nước, không chỉ phát huy để đánh giặc giữ nước mà còn tận dụng sở trường ấy để làm giàu. Hình ảnh Chử Đồng Tử phong ba nơi sóng to, gió lớn tìm đến những vùng đất xa lạ khác hoặc những thuyền thương nhân nơi xa tìm đến chợ Thám buôn bán, trao đổi hàng hóa cho thấy sự giao thương thuở ấy đã hình thành và nền thương nghiệp của người Việt cổ đã phát triển.
Liên tưởng đến truyện Mai An Tiêm, người ở nơi hoang đảo đã đem dưa hấu do chính tay mình trồng đổi lấy lúa gạo, vật dụng với các thương nhân nước ngoài đã góp phần chứng minh sự nhận định trên là có cơ sở. Chỉ đến khi đạo Khổng du nhập vào nước ta,
40
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Chợ quê Việt Nam trong ngày hội Văn hóa tại Khu Du lịch Văn Thánh.
với quan niệm “tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, dân hữu tứ sĩ vi chi tiên” thì nghề buôn mới bị rẻ rúng. Quan niệm lệch lạc này tồn tại hàng ngàn năm và nó chỉ thay đổi khi mà làn gió Duy tân đầu thế kỷ XX do các nhà nho cấp tiến khoáy động rầm rộ từ Nam chí Bắc.
Nếu Mai An Tiêm được nhân dân tôn là “Bố cái dưa Tây” thì Chử Đồng Tử không chỉ được tôn là ông Tổ của đạo Tiên (Chử Đạo Tổ), mà còn được tôn là anh hùng khai phá (chinh phục đầm lầy, mở mang nghề nông, phát triển buôn bán... nhằm phát triển sự thịnh vượng của cộng đồng). Ta có thể khẳng định Chử Đồng Tử là thương nhân đầu tiên của nước Việt và trong tâm thức của người Việt ông còn là vị thần linh bảo hộ nghề buôn bán. “Cũng từ xa xưa, tại bến Đa Hòa nơi nhìn sang bãi Tự Nhiên bên kia sông Hồng, dân chài lưới lập một hành đài thờ Chử Đồng Tử -Tiên Dung. Các nhà buôn mỗi lần qua đây để lên Kẻ Chợ hoặc xuống Phố Hiến cất hàng, bán hàng đều dừng thuyền lên đền thờ vọng này thắp hương khấn cầu vợ chồng ngài phù hộ. Và các quan, có năm không vào được Đền Hóa, tổ chức dâng hương ngay tại hành đài này. Ngôi đền nhỏ, cheo leo trên bờ
41
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
sông dốc đứng nhưng ngày đêm rực rỡ hương đăng, tấp nập khách thập phương lễ bái”(1).
Tưởng nhớ ơn đức của Chử Đạo Tổ, nhân dân lập đền thờ ngài ở nhiều nơi, nhưng quần thể văn hóa thuộc làng Đa Hòa, huyện Châu Giang (Hưng Yên), cách Hà Nội hơn 20km vẫn là nơi nổi tiếng đẹp và trang nghiêm nhất: Đền Chính (tức đền Đa Hòa vì nằm trên địa phận làng này); đền Hóa (tức đền Đền Dạ Trạch) thuộc xã Dạ Trạch, tương truyền đây là nơi ngài cùng vợ bay về trời; Bãi cát Tự Nhiên (thuộc xã Hồng Châu), khi diễn ra lễ hội nhân dân che tàn vàng lọng tía rước kiệu thờ ra đây dìm xuống nước, tưởng như xưa kia công chúa Tiên Dung vây màn tắm nơi này; Đền và lăng Thánh Phụ, Thánh Mẫu (xã Văn Đức, thôn Chử Xá) là nơi thờ ông bà thân sinh Chử Đồng Tử.
Hội làng Đa Hòa diễn ra từ hàng năm diễn ra trong 3 ngày từ ngày 10 đến ngày 15 tháng Ba âm lịch; tại làng Dạ Trạch diễn ra từ ngày 10 đến ngày 12 tháng Hai âm lịch với nhiều nghi thức trang nghiêm nhằm tưởng nhớ ơn đức của vợ chồng Chử Đồng Tử. Nhân dân tại đây còn kiêng gọi tên hoặc gọi chệch một số vị thánh thần như: tử - tải; dung - dong; tiên - tơn; man -muôn; lương - lang...
Không rõ Chử Đạo Tổ sinh và “hóa” vào ngày tháng nào, chỉ biết hiện nay tại đền Dạ Trạch chọn ngày sinh Chử Đồng Tử (12/8 âm lịch); ngày “hóa” bay về trời 17 tháng 11 âm lịch.
(1) Chử Đồng Tử – Tiên Dung vùng đất và con người – Lê Văn Ba - NXB Văn Hóa – 1994.
42
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Lễ hội Chử Đồng Tử cuối thế kỷ XX
Lễ hội Chử Đồng Tử tại Hưng Yên
43
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Một sức sống bền vững và biến hoá
“Có lẽ trong văn học nghệ
thuật Việt Nam, trong văn hóa
dân gian, trong đời sống tinh thần
và tâm linh con người Việt Nam
hiếm có nhân vật nào lại hiện lên
trong một cốt cách đa diện và đa
dạng như thế, có một sức sống bền
vững và biến hóa như thế – do
biến hóa mà bền vững và có bền
vững mới biến hóa được. Một phụ
nữ như là sự kết tụ, lại như là sự
phân tỏa theo thời gian và không
gian, những ước mơ và cứu rỗi,
những khát vọng và niềm tin của
con người, tồn tại bên nhiều hình
tượng phụ nữ khác của văn hóa
Tranh vẽ Thánh mẫu Liễu Hạnh
thành văn, trong một đất nước phải chấp nhận và chịu đựng các
giáo lý Khổng Mạnh mà xét về hệ ý thức chính thống của thời đại và của giai cấp thống trị thì dường như chưa hề bị phá vỡ hoặc thương tổn trong suốt trường kỳ lịch sử, cho đến thế kỷ XX”(1). Nhân vật phụ nữ huyền thoại này là ai? Đó là Thánh mẫu Liễu Hạnh mà hậu thế chúng ta không thể không biết đến. Bà “là người trần và người trời –
44
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
người trời giáng xuống trần, hoặc người trần được tôn vinh thành người trời, là nhân vật của truyền thuyết và nhân vật của văn bản văn chương; là người của một vùng rồi thành của nhiều nơi; là nhân vật có nơi phát tích nhưng rồi gắn với nhiều địa danh – có nơi sinh và trú ngụ, quê cha và quê chồng, nơi du ngoạn hoặc nơi hành hiệp, nơi gây nên các sự cố hoặc nơi ghi các chiến công… Và có lẽ cũng chưa phải là cuối cùng, một người phụ nữ vừa đời thường như bất cứ ai, vừa có đủ các phép thiêng, vừa dịu dàng vừa tinh ác, vừa có khả năng ban phúc, vừa có thể gieo họa…”(2). Kết hợp nhiều nguồn tài liệu khác nhau, chúng ta có thể thấy được hình ảnh của Thánh mẫu Liễu Hạnh.
Theo truyền thuyết thì bà giáng trần ở đầu thời vua Lê Thái Tổ (1418-1433), còn theo Truyền kỳ tân phả của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm thì bà xuống trần vào đời Lê Anh Tông (1557-1573). Lúc bấy giờ, tại thôn An Thái, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản (nay là huyện Vụ Bản, Nam Định) có gia đình ông bà Lê Thái Công tu tâm tích đức, chăm làm việc thiện. Tuy vậy, ngoài 40 xuân ông bà vẫn chưa có con. Bỗng một ngày kia, bà có thai nhưng chỉ thích hoa thơm quả lạ, ngửi trầm chứ không thiết ăn uống.
Lạ thay, qua chín tháng mười ngày mà bà vẫn chưa sinh nở. Đêm nọ chồng bà nằm mơ thấy mình lên tiên giới chứng kiến cảnh con gái Ngọc Hoàng phạm lỗi lầm nên bị đày xuống trần gian. Ông giật mình tỉnh giấc. Đó cũng là lúc vợ ông sinh được người con gái tuyệt đẹp, đặt tên là Lê Thị Thắng – mà nhân dân trong vùng thường gọi là Giáng Tiên. Thật ra, ông Lê Thái Công vốn họ Trần. Sự đổi họ là hiện tượng thường thấy trong lịch sử nước nhà. Chẳng hạn thời Trịnh Mạc, để tránh sự trả thù của vương triều Lê Trịnh, họ Mạc đã đổi thành nhiều họ như Bế, Hoàng, Phan, Liễu, Thạch…; hoặc đời nhà Trần, Lý là tên ông nội vua Trần Thái Tông, do đó họ Lý phải đổi ra họ Nguyễn để kiêng tên tổ và cũng là để dứt sự trông ngóng của nhân dân đối với họ Lý, v.v… Như vậy từ họ Trần của Thánh mẫu Liễu Hạnh đổi sang họ Lê là cũng có lý do tương tự như thế.
(1 & 2) Tạp chí Văn học số 5, 1992.
45
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Có hai cách để lý giải: Vì vợ của vua Lê Thái Tổ là bà Trần Thị Ngọc Trần nên từ năm 1460 họ Trần phải đổi thành họ Trình (theo Đại Việt sử ký toàn thư) hoặc cũng có thể do cuối đời Trần, họ Hồ cướp ngôi rồi giặc Minh sang chiếm nước ta, con cháu họ Trần bị tàn sát nhiều nên phải đổi sang họ khác – như họ Lê…
Ngay từ thuở nhỏ, Giáng Tiên đã tỏ ra thông minh hơn người. Nhan sắc tuyệt đẹp. Không những công dung ngôn hạnh vẹn toàn mà bà còn có thiên tư về thi ca và âm nhạc. Bà có viết bốn bài từ(1) phổ vào đàn sáo để tu tâm dưỡng tính. Nhà nghiên cứu Phan Kế Bính có dịch nôm tuyệt hay:
Xuân từ (điệu xuân quang hảo):
Cảnh như vẽ, khéo ai bày
Hoa đào mím miệng, liễu dương mày
Bướm nhởn nhơ bay
Oanh vàng líu lo trong bụi, én đỏ ríu rít trên cây Buồng xuân dìu dặt mối tình ngây, đề thơ này,
Hạ từ (điệu cách phổ liên)
Trời đất phần nhiều nóng nẫu
Đành cành rức giọng ve, bãi cỏ vang tiếng chẫu
Vò võ cuốc kêu sầu, eo éo oanh hót ngẫu
Dường bảo nhau: Chúa xuân về rồi thôi cũng hão! Cảnh sắc đường kia, ngao ngán cầm lòng khôn đậu May đâu thần Chúc Dung gây một khúc nam huân Hương sen thoảng đáo
Một trận gió bay, sạch lòng phiền não.
(1) Từ: Thể thơ Trung Quốc bắt nguồn từ dân gian, xuất hiện vào thời Đường – Ngũ đại, rất phát triển dưới triều Tống. Từ nguyên là những bài hát phổ nhạc do ca kỹ, nhạc công sống bằng nghề đàn hát lấy ở bài hát dân gian hoặc thơ tuyệt cú của văn nhân. Để phối hợp với tiết tấu của âm nhạc, họ cải biên hoặc sáng tác một số lời, câu dài ngắn xen kẽ. Do đó, Từ có giá trị nghệ thuật độc lập, có cách luật cố định về mặt âm thanh, tiết tấu. Vì Từ có câu dài câu ngắn nên còn được gọi là “trường đoản cú thi”. Từ có hàng trăm điệu (Từ điển Thuật ngữ văn học – NXB Giáo dục 1992, trang 263).
46
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Thu từ (điệu bộ bộ thiềm)
Mặt nước trong veo tựa ngọc
Gió vàng hây hẩy khua khóm trúc
Hoa lau muôn dặm trắng phau phau
Cây cối vẻ hồng pha vẻ lục
Cung Thiềm sáng quắc ả Hằng Nga
Dạo bước thềm giao trình rạo rực
Chi bằng đến thẳng giậu hoa cúc thơm
Thảnh thơi dạo đàn gảy một khúc.
Đông từ (điệu nhất tiễn mai)
Khí đen mờ mịt tỏa non sông
Hồng về nam xong, nhạn về nam xong
Gió bấc căm căm tuyết mịt mùng
Tựa triện ngồi trông, tựa triện đứng ngông
Sưởi lò mặt vẫn giá như đồng
Ngồi chẳng yên lòng, nằm chẳng yên lòng
Dậy xem phong cảnh lúc trời đông
Hoa quên lạnh lùng, người quên lạnh lùng
Một hôm, Lê Thái Công đi dạo trong vườn, nghe tiếng đàn từ phòng con gái vang dìu dặt, ngôn từ thanh tao nhưng đượm màu tiêu dao thoát tục nên lấy làm lo lắng. Ít lâu sau, ông gả con cho con trai họ Trần, tên Đào Lang. Năm đó, bà mới 19 tuổi xuân. Đào Lang từ khi có vợ đẹp đâm ra xao nhãng việc đèn sách, thấy vậy nhân lúc canh khuya dệt vải bà đã làm bài thơ khuyên chồng. Từ đó Đào Lang trở nên chuyên cần đèn sách. Tương truyền, ở với nhau được ba năm thì hết hạn bị đày xuống trần, một ngày kia, dù không bệnh nhưng bà mất, để lại cho Đào Lang hai con, một trai và một gái. Đó là ngày 3-3. Dù trở về tiên cảnh, nhưng trần duyên chưa dứt, tơ tình còn vương nên bà thường buồn bã. Thấy vậy, Thượng đế lại cho bà xuống trần lần thứ hai. Gia đình ông Lê Thái Công vui mừng khôn xiết. Lần này, bà thường đi mây về gió, biến hóa khôn lường.
47
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Lần nọ, bà đi viếng cảnh chùa ở Lạng Sơn. Thấy phong cảnh hữu tình, thông reo vi vút, suối tuôn róc rách mà lòng vui ôm đàn ngồi hát. Lúc đó Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan trên đường đi sứ về, nghe tiếng đàn bèn nói trêu:
Tam mộc sân đình, tọa trước hảo hề nữ tử
(Ba cây che sân, ngồi đó là cô gái xinh)
Trạng đã chơi chữ lắt léo: Tam mộc là ba chữ mộc tức chữ sâm. Chữ hảo là do chữ nữ và chữ tử ghép lại. Nghe tiếng nói trêu ấy, bà ngước lên thấy một người chít khăn nhà nho, mặc áo rộng, cưỡi con ngựa tốt, có mấy chục người đi theo sau, cờ xí rợp trời, bà liền đáp:
Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân
(Lần núi đi ra, hẳn đó là quan sứ)
Ở đây bà cũng chơi chữ tài hoa không kém Trạng Bùng: Trùng sơn là hai chữ sơn tức chữ xuất. Chữ sứ là do chữ nhân và chữ lại ghép thành. Nghe đáp lại như thế, Trạng Bùng đã xuống ngựa để hỏi han thêm vì biết không phải là người tầm thường. Hỏi đến đâu, bà đáp trôi chảy đến đó, Trạng lấy làm khâm phục lắm. Nhưng giây lát sau lại không thấy bà đâu nữa, chỉ thấy trên cây gỗ có ghi bốn chữ: “Mão khẩu công chúa” và một tấm biển đề: “Băng mã dĩ tẩu”. Suy nghĩ một lúc, ông mới luận ra rằng: cây gỗ là chữ mộc, bộ mộc thêm chữ mão là chữ Liễu, bộ mộc thêm chữ khấu là chữ Hạnh. Đó là Liễu Hạnh công chúa. Còn bộ băng đi với chữ mã thành chữ Phùng, chữ dĩ đi với chữ tẩu là chữ khởi, ý của bà Liễu Hạnh bảo họ Phùng này sửa lại ngôi chùa bên đường. Phùng Khắc Khoan đã làm đúng yêu cầu của bà và đề ở chùa “Tùng Lâm tịch mịch phất gia nhân” (Trong rừng rậm tịch mịch có nhà Phật). Lần khác, Trạng Bùng cùng hai người bạn là Ngô và Lý dạo chơi Hồ Tây. Cả ba văn nhân thơ thẩn dạo chơi, chợt thấy có quán rượu bên hồ, liền thong thả bước vào. Họ thấy trên tường có treo bài thơ tứ tuyệt mà nét mực còn tươi rói. Đọc xong, họ dạt dào cảm xúc. Trong lúc tửu hứng, họ muốn làm chung bài thơ để kỷ niệm, chưa biết nghĩ đề tài gì thì bỗng thấy người hầu trong quán bưng ra một cái khay trên đó có giấy hoa
48
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
tiên viết dòng chữ:
Tây Hồ biệt chiếm nhất hồ thiên.
Ba người ngạc nhiên, biết là câu mở đầu cho bài thơ liên cú. Thế là họ cùng viết tiếp thành bài thơ dài bốn mươi câu, đến câu kết chưa biết kết thúc như thế nào thì bỗng nghe từ buồng trong vọng lên:
Đắc nguyệt ưng tri ngã thị tiên
Không hẹn mà gặp, cả ba người đều vỗ tay khen ngợi câu kết thật đắc địa, tuyệt hay. Như vậy chỉ cần ghép hai câu của chủ quán sẽ thành (Trần Lê Sáng dịch):
Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời
Trăng tròn soi bóng một tiên thôi
Bài thơ Tây Hồ quan ngự đã ra đời trong hoàn cảnh độc đáo như thế. Ít lâu sau, họ ghé lại thì quán cũ đã không còn, chỉ thấy trên cây có ghi bài thơ, đại ý: “Lấy mây làm xiêm áo, lấy gió làm xe. Buổi sáng chơi vùng trời Đâu Suất, buổi chiều ngao du nơi mây khói. Người đời muốn biết tên họ ta. Ta là tinh hoa Ngọc Quỳnh của tiên trên trời”. Đọc xong, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan bâng khuâng sực nhớ đến chuyện đã gặp bà Liễu Hạnh ở Lạng Sơn. Có thể nói, đây là giai thoại văn chương tuyệt đẹp giữa người trần và người tiên – làm phong phú, đa dạng cho kho tàng văn học Việt Nam.
Thời gian thấm thoát trôi qua, Đào Lang – chồng bà qua đời, rồi bố mẹ cũng mất. Không còn vướng bận tình riêng, bà lại thường phiêu du đây đó. Sau khi dời khỏi Hồ Tây, bà vào tận làng Sóc ở Nghệ An. Nhưng theo Can Lộc huyện phong thổ chí thì sự việc này diễn ra dưới thời Hồng Đức (1460-1497). Nơi đây phong cảnh hữu tình. Non xanh nước biếc. Trời ngả về chiều, bà đang ngồi bên suối hái hoa thì thấy một thư sinh bước đến. Người này dáng nho nhã có tài tựa ngựa làm thơ, thông làu kinh sử. Bà biết đây là hậu thân của Đào Lang nên buông lời muốn kết duyên trăm năm. Vì không rõ duyên ước kiếp trước nên thư sinh này từ chối, cứ lẳng lặng bước đi. Qua ngày sau, thư sinh này qua lại chỗ cũ thì thấy trên cành đào
49
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
có bức hoa tiên đề bài thơ. Đọc xong, thư sinh ngửa mặt lên trời mà than: “Chao ôi! Sức bút đều đặn, lời thơ tươi đẹp, không ngờ trong thế gian lại có nữ tài dường này! Dẫu Di An, Thục Chân đời Tống có sống lại cũng chưa chắc ai hơn ai kém”. Nói xong liền họa bài thơ. Từ đó, thư sinh tương tư người nữ sĩ tài hoa ấy. Mấy hôm sau, tiết xuân mưa dầm, lòng lại thêm nhớ, thư sinh lại làm thơ cho vơi nỗi sầu. Một buổi sáng, trời quang mây tạnh, đi đến chỗ cũ lại thấy một bài thơ nữa, thư sinh lại họa. Vừa viết xong dòng chữ cuối cùng thì nghe tiếng nói vang lên ngọt ngào:
- Người quân tử lại đến đây à?
Thư sinh quay lại thấy một cô gái xinh đẹp nên mừng khôn xiết và nói:
- Trước kia được mỹ nhân để ý đến, lòng cảm động, tự nghĩ tài mọn không xứng đáng. Ai ngờ trong lòng ngày đêm lưu luyến. Nay gặp lại, không rõ kẻ thư sinh này kiếp trước có tu hay không mà nay có được kỳ ngộ này?
Bà đáp:
- Thiếp là con nhà quan huyện bên kia, cha mẹ mất sớm, nhà cửa tiêu điều, có ý muốn kén chồng, nhưng e nhiều kẻ trêu ghẹo. Do đó, thiếp xa lánh nơi phồn hoa, vào nơi rừng núi lại nhận thấy lang quân là người nho sĩ phong nhã nên lòng cũng quyến luyến. Nếu người quân tử không hẹp hòi câu nệ, kết nghĩa tóc tơ, có lẽ cũng là duyên ước lửa ba sinh vậy.
Thư sinh lòng mừng, bèn nói là sẽ cậy người mai mốt. Bà cười:
- Người trượng phu làm việc không câu nệ lễ nghi lặt vặt. Kìa xem nàng Văn Quân, nàng Hồng Phất đời sau chẳng ai chê là trái lễ mà chỉ khen là biết yêu tài. Thiếp với lang quân, trên không có cha mẹ, dưới không có thân thích, tri kỷ gặp nhau, một lời như vàng đá, còn phải mối lái làm gì?
Thư sinh đồng ý. Như vậy, lần thứ nhất bà lấy chồng là do sự sắp đặt của cha mẹ, còn lần thứ hai là tự bà tìm đến người mình yêu
50
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
vượt qua lễ giáo của phong kiến. Thư sinh này có tên là Nguyễn Phán, sau thời gian chung sống họ sinh được hai con là Nguyễn Cả và Nguyễn Hai. Về sau, Nguyễn Phán thi đậu, ra làm quan giữ chức Thị nội văn hàn. Bấy giờ bà cưỡi mây về trời. Phán buồn rầu, xin thôi việc quan để về nhà lấy sơn thủy làm vui. Đến năm 1471, hai con của Nguyễn Phán đã thành thanh niên khôi ngô tuấn tú, đi theo giúp vua Lê Thánh Tông đánh giặc Chiêm Thành. Khi chết được nhà vua phong là Thượng đẳng thần, lúc đoàn phong sắc đi qua đền thờ bà ở phố Cát (huyện Thạch Thành – Thanh Hóa) thì bà
Thánh mẫu Liễu Hạnh về trời
51
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
lại hiển ứng ban cho một đôi long bàn để dân rước về thờ phụng. Đền này được gọi là đền Thường Lạc Sơn – nay còn ở huyện Can Lộc (Hà Tĩnh).
Về trời, nhưng bà Liễu Hạnh vẫn khao khát cuộc sống trần thế, bà lại xin thượng đế cho xuống dương gian lần nữa. Lần này diễn ra dưới thời Cảnh Trị (1663-1671) xuống theo với bà còn có hai tiên nữ là Quế và Thị. Để thử tâm tính người trần mắt thịt, bà mở quán nước ở phố Cát. Thấy bà xinh đẹp, những đấng mày râu tục tử ngu dốt nhưng hiếu sắc thường đến trêu ghẹo. Những kẻ này đều bị bà trừng trị đích đáng. Còn những ai hiền lành, làm việc thiện, tu tâm tích đức thì được bà giúp đỡ. Bỗng một ngày kia, quán nước biến mất, đêm đêm có tiếng hát ngọt ngào, ai ai cũng lấy làm kinh dị và lập đền thờ – tức đền Sòng hiện nay ở Thanh Hóa. Ai cầu xin điều gì thì được bà giúp đỡ, ai nghịch phá thì bị bà trừng phạt. Chuyện này đến tai vua Lê Huyền Tông, ngài nghĩ đó là yêu quái nên phái chúa Trịnh cầm quân đi dẹp để trừ giúp dân. Các đền thờ bà đều bị phá, nhưng sau đó trong nhân dân lại bị biết bao tai họa về dịch bệnh, thiên tai… Bà hiển linh hiện lên nói:
- Ta là tiên nữ trên trời, hiển thánh xuống trần, lũ chúng ngươi phải xin phép triều đình làm lại đền mới, ta sẽ trừ tai họa, ban phúc lành, nếu không thì trong vùng này không còn ai sống sót!
Theo nguyện vọng của nhân dân, triều đình vua Lê chúa Trịnh cho làm lại đền nhưng không phong sắc. Bấy giờ, giặc Chiêm Thành thường sang quấy phá nước ta, nhà vua sai Quận công Phan Văn Phái đi dẹp. Khi kéo quân qua đền thờ bà, Quận công có ghé vào dâng lễ xin bà phù hộ. Quả nhiên lúc quân sắp bị quân Chiêm Thành đánh bại thì giông tố đùng đùng nổi lên đánh đuổi quân giặc để chuyển thua thành thắng. Từ đó, quân Chiêm Thành phải khuất phục và hàng năm đều sang triều cống. Biết chuyện này, nhà vua cảm tạ ơn của bà mà phong là “Chế thắng hòa điệu đại vương”. Đến năm 1672 vua Lê Gia Tông phong tước hiệu là Liễu Hạnh công chúa.
Từ những truyền thuyết này, chúng ta đã thấy được gì? Xin
52
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
được dành lời giải thích cho giáo sư Vũ Ngọc Khánh: “Những văn bản đã phát hiện cho chúng ta thấy rõ: Liễu Hạnh chắc chắn là một con người có thực. Cho nàng gia nhập vào thế giới huyền thoại, tôn vinh thành một nữ thần, một Thánh mẫu là những câu chuyện về sau, trên cơ sở con người có thực” và “Ở Liễu Hạnh, ta gặp một người yêu, một người vợ. Liễu Hạnh khi là một cô gái, một nàng tiên, khi là một nhà văn, một nữ tướng. Nàng là phụ nữ Việt Nam và phụ nữ Việt Nam có những tiềm lực, những khả năng như thế. Đến đây với những xuất xứ dân gian của Liễu Hạnh, tôi có cảm giác nên đi tới kết luận như vậy. Những huyền thoại đắp thêm cho nhân vật có thực đúng là do người dân Việt Nam sáng tạo ra. Trên cơ sở tâm thức Folklore của mình, họ đã hình dung ra biểu tượng Thánh mẫu phù hợp với nguyện vọng của họ”(1).
Hiện nay, trên đất nước ta có nhiều nơi lập đền thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh. Theo quan niệm của người Việt Nam xưa về Đạo Mẫu thì có biểu tượng về ba Đức Mẹ hình thành đạo Tam Phủ hay còn gọi là Tam Tòa Thánh mẫu. Đó là Mẫu Cửu Thiên huyền nữ cai quản vùng Thiên Phủ tức vùng trời, Mẫu Thượng Ngàn cai quản vùng Nhạc Phủ tức rừng núi và Mẫu Thủy (nhân dân thường gọi là Mẫu Thoải) cai quản vùng Thủy Phủ tức vùng sông biển. Khi Thánh mẫu Liễu Hạnh xuất hiện thì sự kiện này giáo sư Đinh Gia Khánh lý giải: “Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện trong đạo Tam Phủ như một sự bổ sung tất yếu cho đạo Tam Phủ để đáp ứng tình cảm của nhân dân gắn với muôn mặt đời thường và do đó gần gũi, thân thiết với quần chúng nhân dân. Khác với Mẫu Cửu Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thủy tức những vị Mẫu ở nơi nào đó xa xôi, chúa Liễu là một nữ thần xuất thân từ xã hội loài người”(2). Từ đây Thánh mẫu Liễu Hạnh đã hội nhập và trở thành Tứ bất tử của Việt Nam, được nhân dân tôn thờ, ngưỡng vọng hơn bất cứ vị Thánh mẫu nào khác.
Từ xưa đến nay, lễ hội truyền thống của nước ta đã tôn vinh Thánh mẫu Liễu Hạnh ở nhiều nơi trên khắp mọi miền Tổ quốc, nhưng tiêu biểu nhất vẫn là hội Phủ Giầy. Địa danh này trước mang
(1 & 2) Tạp chí Văn học số 5, 1992.
53
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Tượng thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh - Theo tín ngưỡng dân gian của người Việt, thờ mẫu thể hiện ý thức tôn kính và tưởng nhớ tổ tiên
tên Kẻ Giầy, khi bà được triều đình sắc phong thì gọi là Phủ Giầy. Lễ hội diễn ra từ ngày 1 đến ngày 10/3 (chính hội là ngày 3-3 âm lịch). Hệ thống kiến trúc ở đây liên quan đến Thánh mẫu Liễu Hạnh là Phủ chính, Phủ Vân Cát và lăng Liễu Hạnh:
Còn trời còn nước còn non
Mồng Năm rước Mẫu ta còn đi xem
Ai về nhắn chị cùng em
Bảo nhau dắt díu đi xem hội này
Tất cả quần thể kiến trúc ấy gần như tập trung trong phạm vi xã Kim Thái, xưa là xã An Thái, thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, cách thành phố Nam Định khoảng 15km. Đó là vùng đồng bằng với những cánh đồng lúa bát ngát, có những ngọn núi đá thấp nằm rải rác, làng mạc trù phú, có dòng sông hiền từ uốn khúc quanh co, tạo nên cảnh sắc thiên nhiên và văn hóa rất nên thơ.
54
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Lăng Thánh mẫu Liễu Hạnh hiện nay tại Phủ Giầy
Đền thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh
tại 17 Hoàng Hoa Thám, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh
55
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
“Tháng Tám giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ”
Đó là câu nói cửa miệng của bất cứ người Việt nào sinh sống trên quê hương hay đã tha phương nơi đất khách quê người. Trong tâm thức dân gian, vua Hùng là ông Tổ nên “Dù ai đi ngược về xuôi. Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”, còn Liễu Hạnh là Mẫu (Mẹ), Trần Hưng Đạo là Cha, cả dân tộc coi cộng đồng mình như một gia tộc, có Tổ tiên, có cha mẹ”(1). Tại thành phố Hồ Chí Minh, cũng có đền thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh tại 17 Hoàng Hoa Thám, quận Bình Thạnh. Đặc biệt nơi đây còn có cả bệ thờ hai nữ anh hùng dân tộc là chị em Bà Trưng.
Cho đến nay, đã có nhiều sách và hội thảo về thần thoại và truyền thuyết Thánh mẫu Liễu Hạnh. Đây là vấn đề lớn có liên quan đến tín ngưỡng và văn hóa cộng đồng của dân tộc Việt, mà mỗi nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đều tìm thấy ở hình tượng Liễu Hạnh nhiều góc độ khác nhau. Bước đầu, chúng ta có thể chia sẻ với ý kiến của giáo sư Vũ Ngọc Khánh: “Nét riêng rất đáng nghiên cứu là Mẫu Liễu Hạnh là một bậc Mẹ, nhưng không phải là Mẹ Đất, Mẹ Xứ Sở hay Mẹ Sáng Tạo. Sinh rằng con người, phát triển nòi giống đã có bà mẹ khác: bà Âu Cơ. Mẹ Liễu Hạnh không làm công việc sáng tạo ấy. Bà thực sự là con người trần gian được nâng lên thành nữ thần, vì bà là biểu trưng cho sức sống giải phóng, cho tự do, cho lòng nhân đạo. Bà đã là một vị thánh trong Tứ bất tử vì có những phẩm chất này. Thì cũng chính những phẩm chất này mà bà trở thành Mẫu nghi thiên hạ.Thế là có đủ bốn cõi cần thiết cho nhu cầu tín ngưỡng của con người, giúp cho con người tạo ra một thế giới thứ hai để mơ ước, nhưng không chỉ mơ ước mà còn tu dưỡng”(2).
(1) Lễ hội cổ truyền – Viện Văn hóa dân gian biên soạn – NXB KHXH, 1992. (2) Vân Cát thần nữ – NXB Văn hóa dân tộc 1990, trang 18
56
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Những ông tổ nghề gốm
Muốn ăn cơm trắng cá trôi
Thì về lò gốm chuốt nồi cùng em
Nghe vậy, những người thợ đúc nồi vui tính, yêu nghề nói: Anh đây chính thợ đúc nồi
Em có muốn đúc, xin mời... Giận ư?
Giận anh, em bỏ đi tu
Anh vô trình Phật, đúc thằng cu cho em ẵm bồng
Truyền thuyết về ông tổ đầu tiên của nghề gốm có tên là ông Nồi. Ông tên là Đào Nồi, con ông Đào Hoằng, từ xưa vốn ở đất Tuyên Quang. Ông tổ ba đời của Đào Hoằng đi lập nghiệp ở làng Hương Canh (Vĩnh Phú) chuyên sống về nghề nặn nồi niêu. Đào Hoằng sinh con đặt tên là Nồi, một phần do thực tế nghề nghiệp của gia đình và một phần ước mơ con mình lớn lên sẽ nối nghiệp, sẽ trở thành tay thợ khéo léo. Thật vậy, Nồi nặn nồi rất giỏi. Các loại nồi lớn, nhỏ của anh đều được người tiêu dùng tín nhiệm, ưa chuộng. Nhiều thợ trong làng tôn anh là bậc thầy, bậc đàn anh. Anh cưới vợ là người làng Chiêm Trạch, họ Dương, sinh được hai con là Đống và Vực. Không những giỏi nghề nặn nồi, Nồi còn là người tinh thông võ nghệ, khi An Dương Vương (246-210 trước Công nguyên) mở khoa thi võ, anh đi thi và trúng tuyển. Sau được bổ làm quan võ ngay kinh đô Âu Lạc, chức Nồi hầu. Hai con là Đào Vực, Đào Đống cũng làm tướng dưới triều Thục. Khi Triệu Đà diệt nhà Thục, vợ chồng Đào Nồi cùng hai con chạy về Chiêm Trạch giả dạng làm
57
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
người bán nồi. Giặc đuổi theo, để giữ khí tiết, cả gia đình Đào Nồi dùng dao quyên sinh. Vợ chồng cùng con cái ông được chôn ở khu gò gọi là Mộ Thánh hóa (thôn Vĩnh Thanh, làng Vĩnh Ngọc).
Truyền thuyết ở Vĩnh Phú còn kể thêm về một nhân vật là Cao Lỗ, là tay đô vật giỏi nên dân gọi là Đô Lỗ, sau là tướng giỏi của An Dương Vương, đã chế ra lẫy nỏ bắn một phát ra nhiều mũi tên diệt được nhiều giặc. Dù giữ chức cao nhưng ông lại là tay nặn nồi giỏi nên dân gọi là Nồi hầu. Khi Triệu Đà cầu hôn Mî Châu cho con trai, Cao Lỗ biết đó là mưu thâm độc nên hết lời can gián, nhưng An Dương Vương không nghe, đuổi Cao Lỗ về làng. Cao Lỗ lại sống với nghề nặn nồi nhưng luôn nghe ngóng tin tức triều đình. Khi Triệu Đà chiếm Cổ Loa, cướp được nước Âu Lạc, Cao Lỗ bèn đem quân đi đánh lại Triệu Đà. Trong một trận quyết chiến ở Hương Canh, bị giặc bao vây, Cao Lỗ tử tiết với lưỡi dao trên tay. Đầu Cao Lỗ văng về phía Nam, vào địa phận làng Hiển Lễ (Kim Anh), thân Cao Lỗ bay về nhận chìm thuyền giặc ở Đầm Vạc (Vĩnh Yên). Với sự tích này, dân làng Hương Canh sau này làm nồi mà không làm vung – vì đầu Cao Lỗ đã bay sang làng Hiển Lễ. Còn Hiển Lễ nặn vung mà không nặn nồi vì chỉ giữ được đầu Cao Lỗ mà thôi. Những người thợ bảo rằng, nặn nồi phải lấy đất đầm Vạc vì đó là thịt xương Cao Lỗ hóa thành. Ca dao xưa còn ghi những địa danh nổi tiếng về nghề như:
Sành Móng Cái, vại Hương Canh
Ngói lò Cánh, bánh quán Đanh
Làng Cánh là Hương Canh, nay thuộc xã Tam Cánh (Tam Đảo) nổi tiếng với nghề gốm truyền thống, sản xuất chum, vại tiểu sành, chĩnh, ngói... chất lượng cao nên đâu đâu cũng chuộng. Ngoài những truyền thuyết trên, các địa phương có nghề gốm còn thờ phụng những ông tổ khác.
Làng Hương Canh còn thờ thêm ông Tổ là Đỗ Quang. Ngày giỗ là ngày Tổ mất ngày mồng 6 tháng giêng âm lịch. Trong ngày này, ông thợ cả ra đền đốt hương rồi tổ chức rước kiệu Tổ đi quanh làng. Người khênh kiệu phải là 8 nam và 8 nữ chưa lập gia đình. Sau kiệu
58
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Thợ gốm
Sản xuất nồi đất tại Vĩnh Cửu – Đồng Nai
59
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
là những người con cháu thợ gốm đi sau, những người ngoài nghề không được đi theo. Kiệu đi qua các ngõ, mọi gia đình đều chuẩn bị đuốc, soi mặt Tổ, nếu thấy mặt Tổ hồng hào thì năm đó làm ăn phát đạt. Ngày khai nghiệp được tổ chức vào ngày 16 tháng giêng âm lịch, để sang ngày hôm sau thì bắt đầu sản xuất.
Có nhiều địa phương thờ vị Tổ của nghề gốm lại là Bà Chúa Chuốt, Bà Chúa Sành, Ông Sủ Lò. Trong Huyền tích kinh xưa (NXB Khoa học Xã hội) cho biết: “Làng gốm Ngãi Chánh, Vân Sơn, Nhạn Tháp (Bình Định) lại giỗ Tổ là vua Thuấn, lấy tiều điển tích “Thuấn vãn dung hà khốc du sơn”, vua Thuấn đi chơi núi, sai quân nặn đồ trôi từ một thứ đất lạ, sau này là phát tích của nghề sành sứ. Lễ cúng tổ xuân thu nhị kỳ, xuân thì mồng 6 tháng Giêng, thu thì mồng 6 tháng Bảy” (tr.363). Tại đền thờ Xóm Trong của làng Vân Sơn còn có câu đối (dịch nghĩa):
Sáng nghiệp từ ngàn năm thuở có thành Đồ Bàn; Nghề tinh xảo vẫn còn do truyền dạy mãi mãi.
Và đến nay vẫn còn lưu truyền:
Em về làng gốm lấy chồng
Nồi đất vị đậm, nồi đồng vị tanh
Tại chợ Bộng (thuộc huyện Yên Thành – Nghệ An) lại thờ ông Đặng Quý Khoách làm ông tổ của nghề. Thuở nhỏ, ông học trọ tại làng Viên Sơn trong nhà của một bà già khó tính. Đêm đêm tiếng học bài như cuốc kêu mùa hạ của ông đã làm bà không ngủ được. Bực mình, bà đuổi không cho ông trọ học nữa. Không nản chí, ông dựng lều tại bãi rậm rừng hoang để trau giồi kinh sử. Nhờ bền chí, ông thi đậu và ra làm quan. Sau đó, trên nền đất cũ của thuở hàn vi dựng lều học, ông lập ra chợ Bộng. Chuyện này xảy ra dưới thời Lê Trung Hưng. Là người khởi xướng và lập làng, để giúp dân làng có nghề sinh sống, ông đã đón thợ làng Vồm (Thanh Hóa) về dạy cho dân. Sở dĩ như thế vì ông nhận thấy tại đây cũng có loại đất mà dân làng Vồm đã dùng để làm gốm, đúc nồi.
Làng Thổ Hà (Bắc Ninh, Hà Bắc) và Lò Chum (Thanh Hóa) thờ
60
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Hàng gốm, sành, sứ tại chợ quê thế kỷ XX
Thợ gốm đầu thế kỷ XX
61
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
ông Trương Trung Ái. Vào thời Triệu Đà có người thợ gốm gốc Trung Hoa đến Cửu Chân (Thanh Hóa) làm nghề nặn chum vại... Ông Trương Trung Ái, người làng Đậu Khê, huyện Thanh Lam (Hải Dương) theo học và truyền lại cho dân làng.
Làng gốm Phước Tích (Huế) thờ Tổ Hoàng Minh Hùng. Dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) thủy tổ họ Hoàng là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cảm Quyết (Nghệ An) đã theo vua vào Nam bình Chiêm. Sau khi thắng lợi trở về, ông ủng hộ chủ trương của triều đình, chiêu mộ dân binh vào Nam. Khi xem xét dòng Ô Lâu, từ Khe Trăn, Khe Trác đến xứ Cồn Dương thấy đất đai tươi tốt, phù hợp với dự tính lâu dài là phát triển nghề gốm, ông liền chiêu tập nhân dân đến lập nghiệp dựng làng xã... Từ đó, nhân dân vùng này sống thịnh vượng bằng nghề làm gốm. Hiện nay, làng vẫn còn miếu Bổn Nghệ, trước miếu có ghi câu:
Theo dáng chết thành khí
Tùy vật nặn ra hình
Gia phả họ Hoàng ở làng Phước Tích còn ghi:
Thợ tạo lò trời sẵn có đôi
Một bàn xoay mãi mãi không thôi
Vật tùy lớn nhỏ tùy theo dáng
Đều bởi bàn tay khéo nặn nhồi
Truyền thuyết dân gian còn nói đến Tổ nghề gốm ở Bát Tràng là Hứa Vĩnh Kiều, cùng với Tổ hai làng gốm khác có liên hệ chặt chẽ với Bát Tràng là Đào Trí Tiến (làng Thổ Hà) và Lưu Phong Tú (làng Phù Lãng). Họ cùng khởi nghề ở Bát Tràng, sau đó đi học được nghề gốm ở Thiều Châu (Quảng Đông - Trung Quốc) về truyền nghề cho dân ba làng đó và kết nghĩa ăn thề với nhau. Thử hỏi, làng gốm Bát Tràng có từ bao giờ? Từ câu đối treo tại đình, người ta đoán rằng chính người thợ gốm ở làng Bồ Bát (tức Bạch Bát, huyện Yên Mô - Ninh Bình) đã đến và lập nghiệp tại đây:
Bồ di thủ nghệ khai đình vũ;
Lan nhiệt tâm hương bái thánh thần.
62
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Gốm Bát Tràng
(Dân làng Bồ dời nghề ra đây xây dựng đình vũ; lòng người tỏa ngát hương lan kính tạ thánh thần).
Theo truyền thuyết, những thợ gốm làng Bồ Bát ngược sông Hồng buôn bán, đến gần Thăng Long, thấy bãi đất phì nhiêu họ bèn ghé nghỉ qua đêm. Đêm ấy, có người mơ thấy vua Thủy Tề rước xuống thủy cung chơi. Do thật thà, không ham vàng bạc lúc “tham quan” nên lúc về vua Thủy Tề sai một đoàn thợ đi theo và xây cho một tòa nhà lộng lẫy bằng đất thó. Tỉnh dậy, người nằm mơ bèn kể lại giấc mơ kỳ lạ đó, mọi người cho là điềm lành nên lập nghiệp nơi này, cắm đất, dựng làng... Nếu đúng như thế thì làng gốm Bát Tràng đã có từ lâu lắm rồi, ít ra từ thế kỷ XIV. Bởi trong Địa dư chí của Nguyễn Trãi cho biết từ đầu nhà Lê nhà nước định lệ mỗi lần đi cống Trung Quốc thì phải cung ứng bảy mươi bộ bát đĩa. Sang thế kỷ XV, thì gốm Bát Tràng đã là một “thương hiệu” nổi tiếng. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã có nhận xét: “Đất ở xứ này màu trắng, các đồ nung thì men, sắc không kém gì hàng Trung Quốc”. Bài phú làng Bát Tràng đã cho thấy không khí nhộn nhịp của một làng nghề mà nay vẫn còn tiếng thơm:
63
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Nối đuôi nhà ngói, lớp trước lớp sau, liền cánh tường như tri như trát.
Đất thiêng nảy lắm người hiền, vận đỏ có nhiều kẻ phát. Kẽ ngạch liền bên Chúa, uy quyền tiếng sấm rầm vang. Dài tay với đến trời, tiền của nước sông lưu loát.
Nhà chập chen tiếng ngựa xe, cửa thấp thoáng bóng tàn bóng quạt.
Văn cùng vũ nổi danh ngoài nước, quan sang rạng rỡ, lẫy lừng. Công với thương nức tiếng trong vùng, hàng đắt rộn mù xô xát. Nắn hòn đã có các cô các chị, cuộc vần xoay dưới gót, dong ngựa bàn bước chạy ve ve. Dùi lỗ thì mọi chú mọi anh, quyền tạo hóa trong tay vỗ dùi gỗ tiếng đua chan chát.
Lò chen chúc anh em bạn hữu, quanh năm tuôn vẻ khói đen sì. Bát no nê con cái vợ chồng, các thức đãi màu men trắng toát...
Từ xưa nay, ta vẫn tự hào với: “Gốm Bát Tràng, vàng Định Công”; hoặc “Sống làm con trai Bát Tràng. Chết làm thành hoàng Kiêu Kî” – nói đến con trai Bát Tràng nhàn nhã, không phải nai lưng làm ruộng vất vả nắng mưa...
Ở vùng Gia Định - Đồng Nai tuy sinh sau đẻ muộn nhưng vẫn có những lò gốm nổi tiếng. Từ thế kỷ XII những người thợ gốm Trung Hoa – di thần của nhà Tống – chạy sang nước ta mở lò gốm ở Thanh Hóa, dần dần họ đi vào phương Nam định cư và lập nghiệp ở Biên Hòa, Đồng Nai. Rồi đến thế kỷ XV, XVI do những xung đột của Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn, tiếp đến một bộ phận dân ở Đàng Ngoài theo thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (1868) vào Nam khai phá lập nghiệp thì có những người thợ gốm đi về phương Nam. Những lò gốm mọc lên. Gốm Biên Hòa nổi tiếng với men xanh mà thế giới gọi là “vert de Bien Hoa”. Ở Sài Gòn nổi tiếng với xóm Lò Gốm mà Phú cổ Gia Định phong cảnh vịnh miêu tả: “Lạ lùng xóm Lò Gốm, chân vò vò bàn cổ xây trời”. Những địa danh liên quan đến nghề gốm như đường Lò Siêu, đường xóm Đất, đường Lò Gốm, bến Lò Gốm, rạch Lò Gốm, kênh Lò Gốm, khu Lò Lu v.v... còn truyền đến ngày nay.
64
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Nghề gốm truyền thống của ta từ xưa đến nay đã tinh xảo, hoàn hảo và không thua kém bất cứ nước nào. Đó là nhờ ơn những ông Tổ của nghề đã chịu khó học hỏi những tinh hoa ở nơi khác đem về. Lòng biết ơn ấy không bao giờ phai nhạt – như những người thợ Bát Tràng đã kính cẩn ghi ở đình làng thờ Tổ: “Lòng dân thơm ngát hương lan kính tạ thánh thần”. (Lan nhiệt tâm hương bái thánh thần).
Trong xưởng làm gốm
tại Thuận An - Bình Dương ngày nay
Nghệ nhân người Chăm làm gốm thủ công
65
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Triển lãm gốm mỹ thuật trên đường hoa Nguyễn Huệ
66
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Nguyễn Minh Không –
Dương Không Lộ
Tổ nghề đúc đồng
Trong những di tích văn hóa của thời kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc ta thì trống đồng là một sản phẩm độc đáo. Điều này cho thấy nghề đúc đồng đã xuất hiện khá sớm. Trong nhân dân đã tôn ông Tổ nghề đúc đồng là hai thiền sư Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ.
Tượng Thiền sư Nguyễn Minh Không
67
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Theo Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính thì sư Nguyễn Minh Không làng Đàm Xá, phủ Tràng An (Nam Định) tên là Nguyễn Chí Thành. Lúc nhỏ đi theo học đạo với Từ Đạo Hạnh, thầy khen là người có chí nên truyền ấn quyết và đổi tên là Minh Không thiền sư. Năm 1138, vua Lý Thần Tông bỗng có bệnh kỳ dị, có lúc lại hóa ra hổ, không sao chữa khỏi. Minh Không nghe vậy bèn chống gậy đến chỗ trẻ con đang chơi và dạy chúng bài đồng dao:
Tập tầm vông
Ông Nguyễn Minh Không
Chữa được hoàng thái tử
Đám trẻ hát vậy, dần dần lọt vào triều đình, liền sai sứ đi mời Minh Không. Khi thấy sứ giả của triều đình đến, ông sai thổi nồi cơm cho bọn chở thuyền cùng ăn. Mọi người cười ầm lên:
- Ối dào! Nồi cơm như thế thì ăn chả bõ dính răng! Ông từ tốn đáp:
- Hãy cứ ăn đi, lúc nào thiếu hãy hay!
Minh Không mới sai dỡ cơm ra rá, càng dỡ càng nhiều, hằng trăm người ăn mà cũng không hết. Ai nấy đều ngạc nhiên. Ăn xong, ông lại bảo:
- Các anh cứ ngủ đi một lát, đợi lúc nào có nước thủy triều lên hãy đi.
Mọi người nghe theo lời, nằm ngủ cả trong thuyền, một lát sau tỉnh dậy thì đã thấy đến kinh đô, ai nấy mừng rỡ cho là phép lạ. Khi Minh Không đến nơi, thấy ông ăn mặc tuềnh toàng, quê mùa cộc kệch nên các thầy thuốc đều tỏ ý khinh thường. Ông bèn lấy cái đinh dài 6 tấc đóng vào cột, nói:
- Hễ ai rút được cái đinh này thì mời chữa bệnh cho hoàng đế.
Không ai làm được cả, thế là ông dùng tay nhổ bật cái đinh ra ngoài. Xong ông bước đến trước mặt vua thét lớn:
- Bậc đại trượng phu làm đến thiên tử sao tâm còn cuồng loạn như thế?
68
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Vua sợ hãi run bần bật, ông sai lấy cái vạc đổ thuốc hòa nước đun lên cho sôi sùng sục, lại lấy tay khoắng vào trong vạc thuốc hai ba lượt rồi múc nước cho vua tắm. Bao nhiêu lông lốt hổ tuốt ra hết mà khỏi bệnh. Sư Minh Không được phong làm quốc sư và mất năm 1154.
Còn sư Dương Không Lộ vốn xuất thân làm nghề đánh cá. Ông đã sớm theo học đạo, tu ở chùa Keo (Thái Bình) và hành đạo ở nhiều nơi. Không những là vị sư thông tuệ kinh Phật mà ông còn có pháp thuật cao cường như có thể dùng tay moi được đồng trong lòng đất để chế tạo vũ khí trừ gian diệt bạo và các vật dụng khác. Hằng ngày, ông đi khắp nơi để chữa bệnh cho nhân dân và quyên góp đồng để đúc chuông cho các ngôi chùa. Một ngày kia, ông sang tận Trung Quốc để chữa bệnh cho Thái tử khỏi chứng nan y. Cảm kích trước tài năng của ông vua Tàu đã cho ông rất nhiều vàng bạc, nhưng ông lắc đầu:
- Muôn tâu thánh thượng! Bần đạo chỉ xin đựng đầy đồng trong túi ba gang này thôi.
Nhà vua đồng ý, cho ông vào kho muốn lấy bao nhiêu tùy ý. Ông đã thu vào tất cả mười kho đồng mà túi vẫn chưa đầy. Như thế đủ biết túi này nặng biết chừng nào! Và dĩ nhiên là không có ghe, thuyền nào có thể chở nổi. Ông bèn lật cái nón đang đội trên đầu thả xuống nước làm thuyền, ung dung vượt trùng dương về cố hương.
Về nước, ông đem đồng đã quyên được đúc chuông. Tương truyền hai ông đã góp phần tạo nên “tứ đại khí” của nước ta cách đây 1000 năm. Đó là:
- Tượng khổng lồ ở chùa Quỳnh Lâm, huyện Đông Triều (Quảng Ninh) cao 20 mét.
- Tháp Báo Thiên dựng ở chùa Sùng Khánh (Thăng Long) gồm 12 tầng, cao 70 mét.
- Chuông Quy Điền ở chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) cao đến 3 sải, mấy người ôm không xuể, do quá to lớn không làm sao đánh cho kêu, người ta mới đem ra bỏ ở khu ruộng nước gần chùa. Từ đó rùa thường vào làm ổ nên được gọi là ruộng rùa (Quy Điền).
69
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
- Vạc chùa Phổ Minh (Nam Hà) sâu 4 thước, rộng 10 thước, nặng 6.150 cân.
Tứ đại khí này về sau thời thuộc Minh (1414) đều bị giặc phá hủy. Chúng dùng đồng để đúc vũ khí chống lại cuộc khởi nghĩa như vũ bão của anh hùng Lê Lợi. Xin trở lại với ông Tổ nghề đúc đồng, có nơi đã gọi là Đức Thành Khổng Minh Không hoặc có nơi gọi là Không Lộ:
Nam mô Không Lộ như lai
Giáng sinh triều Lý đương thời thái minh
và:
Túi đồng đã quẩy về Nam
Đúc nên “tứ khí” để làm chân tâm
Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ (Đền Quán Thánh - Hà Nội)
bằng đồng đen là một trong những tuyệt tác về kỹ thuật đúc đồng
của người Việt đầu thế kỷ XVII. (trang 49 Báo Ảnh Việt Nam, 8/2007)
70
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Nếu tước đi những chi tiết hoang đường thì chúng ta có thể thấy được những dấu hiệu liên quan đến nhân vật ông Tổ nghề đúc đồng ở ba địa bàn khác nhau: vùng Nam Hà (quê nhà sư), Hà Bắc (nơi trụ trì), và Hà Nội (nơi nhà sư hành đạo). Riêng Hà Nội có những địa điểm mang tên nghề truyền thống này là phố Lò Đúc, phố Hàng Đồng và khu Ngũ Xã.
Truyền thuyết còn kể lại rằng: Tổ sư Không Lộ đã truyền nghề cho hai chú tiểu của mình là Phạm Quốc Tài (quê ở Đề Kiều) và Trần Lạc (quê làng Đông Mai) rồi hai người này đem nghề đó truyền cho dân làng mình. Do đó, ở các làng đúc đồng ngoài việc thờ Tổ sư Không Lộ còn thờ cả hai chú tiểu này.
Chú tiểu Tài truyền nghề cho dân xóm Rí Hạ, Rí Thượng, Xóm Mé và Xóm Điền ở làng Đề Cầu (Hà Bắc), còn chú tiểu Lạc về truyền nghề cho dân làng Nôm (Hải Dương). Làng Đề Cầu và Nôm tuy hai tỉnh khác nhau nhưng lại gần nhau, có chợ giáp ranh gọi là chợ Cầu Nôm – nơi nổi tiếng với nghề thu mua đồng nát. Đến đời nhà Lê, nhà nước chủ trương lập trường đúc ở Thăng Long để đúc tiền và các khí vật bằng đồng nên đã tập trung dân của năm làng trên về bên bờ hồ Trúc Bạch để hành nghề, gọi là Ngũ Xã tràng và đã trở thành một làng nổi tiếng với nghề truyền thống này. Còn ở Huế có câu hò:
Chuông giả, động đến thì kêu
Anh giả giọng nói, em xiêu tấm lòng
và nổi tiếng với Phường Đúc. Các xóm làm nên phường này là Giang Dinh, Giang Tiền, Kinh Nhơn, Bổn Bộ, Trường Đồng đã đi vào ca dao:
Kinh Nhơn, Bổn Bộ, Trường Đồng
Ba o con gái góa chồng cả ba
Ca dao Bình Định còn có câu:
Thợ đúc im lặng như chuông
Đến khi lên tiếng thì thường thanh tao
Không chỉ thờ Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ, ở làng
71
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Trộng (tức An Lộng nay thuộc xã Quỳnh Hoàng, huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình), người thợ đúc đồng còn ghi nhớ cả công ơn của ba anh em Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Nghiện, Nguyễn Văn Khích đã có công truyền nghề và phát triển, cải tiến kỹ thuật đến sự hoàn thiện của nghề. Cũng như nhiều nơi khác, những người thợ đúc đồng thường giấu nghề. Thông thường nghề đúc đồng tổ chức có tính chất gia đình, đứng đầu là thợ cả – người có tay nghề cao, chịu trách nhiệm chính. Thợ cả chỉ truyền “bí quyết” của nghề cho con trai cả. Không riêng gì nghề đúc đồng, mà hầu hết các ngành nghề truyền thống của ta cũng giữ lệ này, do đó, một số nghề hiện nay đã thất truyền.
Còn ở Sài Gòn, nghề đúc đồng từ thế kỷ XVIII đã hình thành ở một số khu vực chuyên môn hóa nghề này. Khu vực ra đời sớm nhất là địa bàn Chợ Quán với ba làng cổ Tân Kiểng, Nhân Giang và Bình Yên. Các nghệ nhân đúc đồng bấy giờ là từ các phường thợ Quy Nhơn vào. Kế đó là khu vực Tân Hòa Đông (Quận 6) rồi khu vực Thuận Kiều, Thông Tây Hội (Gò Vấp). Theo quy định thì ngày 25 tháng 12 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ nghề đúc đồng ở Tân Hòa Đông.
Thợ đúc Hà Nội cuối thế kỷ XIX
72
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Sản phẩm đồ đồng
của người Việt Nam
cuối thế kỷ XIX
Có thể nói nghề đúc đồng đã phát triển nhiều nơi trong cả nước, nhưng nổi tiếng nhất là ở Thanh Hóa và Huế. Chúng ta không thể không nhắc đến làng Kẻ Chè, còn gọi là làng Trà Đúc (nay là làng Trà Đông - Thanh Hóa):
Làng Chè vui lắm ai ơi
Một ngày hai bữa chỉ ngồi ăn không
Việc làm đã có ông chồng
Đúc một nồi đồng nuôi chín miệng ăn
Nơi đây còn thu mua phế liệu, đồng nát đem về chế biến lại để đúc nên sản phẩm mới – nên mới có câu đố vui của những người thợ làng Chè:
- Cô kia má đỏ hồng hồng
Đến khi lấy chồng lại bỏ quê cha
Bao giờ tuổi tác về già
Quê chồng lại bỏ, quê cha lại về
Hoặc ở làng Cầu Nôm (Bắc Ninh) có câu:
Đồng nát về lại Cầu Nôm
Con gái nỏ mồm về ở với cha
Ngày xưa nơi khu vực sản xuất cấm người lạ mặt bước vào vì
73
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
sợ học nghề và cấm phụ nữ bước đến vì sợ ô uế. Nhưng nếu người ngoài lanh lợi, học nghề giỏi thì vẫn được dân trong nghề công nhận và đề cao, do đó có câu: “Con nhà dỏng nằm đất, con nhà vất nằm giường cao”. Sản phẩm làm ra như chuông, cồng, trống phải điều chỉnh âm thanh mà giới chuyên môn gọi là “lấy tiếng”. Thợ có trình độ “lấy tiếng” không nhiều, giá trị của tay nghề này như là vai trò quyết định cho số phận của sản phẩm. Nếu âm thanh không vang xa, không rền, không chính xác thì cồng, chuông, trống ấy chỉ là một cục đồng mà thôi. Kỹ thuật “lấy tiếng” này rất bí truyền, chỉ có cha truyền cho con, ông truyền cho cháu chứ con gái và con rể rất ít khi được truyền nghề. Ngoài ra, sản phẩm đúc nào cũng phải “rập” tức giống hệt sản phẩm mẫu, đạt đến trình độ đó thì gọi là “trọi” hay “troại” và điều quan trọng là khi đúc xong thì “thịt” phải lành lặn – tức khuôn hở mà kim loại nóng chảy sẽ lấp đầy tạo nên sản phẩm hoàn hảo sau khi đúc. Dù có những khó khăn trong nghề, nhưng dân làm thợ đúc đồng vẫn tự hào với nghề của mình:
Muốn uống nước chè cắm tăm
Mời về Trà Đúc mà làm đất khuôn
Muốn ăn cơm trắng với tôm
Thổi bể thúc dồn chớ có ngơi tay...
Hiện nay, làng Trà Đúc (làng Trà Đông) vẫn còn giữ ngôi đền thờ Thánh Khổng Minh Không, trong đền có pho tượng bằng đồng nặng khoảng 500 kg, cao 0,65m, dáng uy nghi, đĩnh đạc. Bên cạnh pho tượng thánh treo nón đồng, túi đồng và chiếc gậy đồng. Có nơi như phố Ngũ Xã (Hà Nội) ngoài tượng Tổ sư Minh Không còn có thờ cả hai chú tiểu Phạm Quốc Tài và Trần Lạc lẫn các vị có công đầu mở mang nghề nghiệp. Việc giỗ Tổ hàng năm diễn ra hai lần vào ngày sinh (tháng giêng) và ngày kî (tháng chín) của sư Tổ nghề. Còn tại làng đúc đồng Điện Phương (huyện Điện Bàn - Quảng Năm) thì giỗ Tổ lại diễn ra vào ngày 20 tháng giêng âm lịch, con cháu làng nghề dù sinh sống nơi đâu cũng tìm cách quy tụ về dự lễ bái, cúng tế, bày tỏ sự thành kính của mình đối với Tổ nghề. Lễ giỗ Tổ này đông vui, đầm ấm không kém lễ hội kỳ yên ở đình làng.
74
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Giỗ Tổ Hội nghề đồng
Biểu diễn phương pháp đúc đồng
bằng công cụ cổ xưa
tại Festival nghề truyền thống
Huế 2007
75
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Nguyễn Công Truyền
Tổ nghề gò đồng
Gò đồng là một trong
những nghề khá lâu đời
ở nước ta. Khác với nghề
đúc đồng, gò đồng chủ
yếu là làm những đồ
dùng trong gia đình như
nồi, mâm, chậu... Đó là
những vật dụng quen
thuộc mà dân ta trước
kia thường dùng. Ông tổ
của nghề theo Bắc Ninh
phong thổ tạp ký: “Tiên
sư họ Nguyễn, húy Công
Truyền, người xã Đại
Bái, làm quan Hiệu úy.
Khoảng năm Hồng Đức
được cử làm tùy viên đi
sứ Trung Quốc học thêm
được nghề luyện đồng.
Khi đi sứ về được trao
Tranh dân gian về thợ gò đồng
chức Phấn Lực tướng
quân nhưng từ chối, trở về làng đem phép luyện đồng dạy cho dân xã làm mối lợi muôi đời”. Nhưng theo Phương ngôn xứ Bắc (Sở Văn
76
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
hóa Thông tin và Thể thao Hà Bắc, XB 1994): “Theo các tài liệu ở địa phương thì nghề đồng do Nguyễn Công Truyền dạy cho dân từ đời Lý (1010) chứ không phải mãi đến đời nhà Lê (1428). Ông sinh năm 989 mất năm 1060, từ 6 tuổi đã theo gia đình vào Thanh Hóa học được nghề đồng ở Đại Bái. Năm 25 tuổi ông giữ chức Đô úy. Năm 30 tuổi ông về quê là Văn Lãng dạy dân làm nghề và đổi tên làng là Đại Bái”. Do đó mọi người theo nghề đã tôn ông là Đại Bái tiên sư. Làng Đại Bái là một làng nhỏ của huyện Gia Lương (Hà Bắc) có tên nôm là làng Bưởi. Những câu ca dao xưa còn ghi lại:
Làng Bưởi là đất gò nồi
Làng Vó chuyên đúc là nơi lành nghề
hoặc:
Muốn ăn cơm trắng cá trôi
Thì về làng Bưởi đánh nồi với anh
Muốn ăn cơm cá trắng ngần
Thì về làng Bưởi cầm cân buôn đồng
Muốn ăn cơm trắng cá ngon
Thì về làng Vó nặn khuôn đúc nồi
hoặc:
Trời mưa nước chảy qua sân
Lấy chồng thợ đúc một lần mà thôi
Lạy trời cho ướt lá trầu
Lấy chồng thợ đúc không giàu cũng vui
Nếu ở làng Bưởi thờ tổ nghề là Nguyễn Công Truyền thì ở làng Vó (Quảng Bố) lại thờ ông Nguyễn Công Nghệ. Sự tích về ông Nghệ không thấy lưu truyền, chỉ biết hiện nay vào tháng 10 hằng năm ở Bắc Ninh có Hội Vó ở xã Quảng Phú - Long Tài ngoài tế lễ Nguyễn Công Nghệ còn có nhiều trò vui như múa sư tử, bơi bắt vịt, chọi gà...; hát tuồng, chèo...
Làng Đại Bái có bốn xóm đều chuyên về nghề gò đồng, ngoài
77
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
việc thờ Nguyễn Công Truyền họ còn thờ vị hậu tiên sư nữa. Chẳng hạn, xóm Tây thờ hậu tiên sư Phạm Ngọc Thanh - ngành đánh mâm; xóm Giữa thờ Nguyễn Viết Lai, Nguyễn Công Tâm - ngành đánh ấm; còn xóm Xôn chuyên ngành đánh chậu, không thấy thờ hậu tiên sư. Sở dĩ như thế vì những ông này đậu tiến sĩ trong thế kỷ thứ XV, XVI đã có công tổ chức mở rộng sản xuất và nhất là phân công chuyên môn hóa ngành nghề, đã thành lập các phường sản xuất riêng từng loại mặt hàng. Chẳng hạn có phường chuyên gò nồi đồng, phường làm mâm, phường làm ấm, phường làm chậu thau, phường làm thau lá, rút dây đồng làm hàng bạc và phường hàng chợ chuyên mua bán để cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ hàng hoá. Nhờ có sự tổ chức hoàn chỉnh đã giúp cho làng Đại Bái nhanh chóng phát triển với ngành nghề đúc đồng, gò đồng với sự nâng cao rõ rệt về kỹ thuật luyện đồng.
Trong quá trình làm nghề người ta đã rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu: Đồng dong, khuôn chín, dậu đổ đầy, nhìn kèo, trông khói, không nói, nghe thanh và bảo nhau khi làm đất nặn khuôn:
Thợ gò đồng
78
TẬP 1: CÁC VỊ TỔ NGÀNH NGHỀ VIỆT NAM
Đất vừa là xé dọc tơ
Đất non dễ nứt chỗ đưa vào lò
Sản phẩm của làng Đại Bái là đúc khóa (khóa tua, khóa hòm, khóa cửa) rồi gò nồi, mâm, ấm, chậu... Truyền thuyết còn kể rằng, ngày xưa làng này còn làm được nồi đồng dọc rất được mọi người ưa dùng, vì nó nhẹ, bền, dẫn nhiệt nhanh. Nếu thủng, chỉ cần cắt một miếng đồng con rồi vá vào dễ dàng. Còn có loại đồng điếu (loại đồng đỏ) có khi dùng cả đời không hỏng. Theo tài liệu Làng Đại Bái gò đồng (Viện Hán Nôm xuất bản 1987) của Đỗ Thị Hảo:
Mồng 7 hội Khám, mồng 8 hội Dâu
Mồng 10 hội Bưởi không đâu vui bằng
Trong ngày hội làng Bưởi có tế Tổ của nghề gò đồng. Lễ tế có một cái lệ rất đặc biệt là lễ thắp hương của những người đồng niên. Tất cả dân làng và những người làng đã đi cư ngụ nơi khác, nếu có điều kiện về lại quê hương đều theo một quy ước chung: cứ đến tuổi 49 là tuổi ra lềnh, người nào cũng có nhiệm vụ thắp hương hàng ngày ở đền thờ Tổ. Lần lượt năm nay số người đồng niên đến lễ, năm sau lại là tốp người kế tiếp vào tuổi ấy, ra thắp hương từ sáng sớm. Người ở xa không về được, có thể gửi hương về nhờ bạn cùng lứa tuổi mình thắp hộ.
Trong một năm có ba ngày lễ để tưởng nhớ tiền tiên sư. Hai ngày thuộc loại xuân thu nhị kỳ là ngày mồng 6 tháng 2 (lễ đầu năm) và ngày 16 tháng 8 (lễ nhị tiết). Ngày giỗ Tổ là ngày mất của ông Nguyễn Công Truyền vào 29 tháng 9 âm lịch. Việc tế Tổ được phân công cho những người đứng đầu các họ lớn, là những họ chủ trì ở các xóm, các phường nghề - gọi là các cụ trùm, hương trùm. Chỉ các vị này mới được giao vai tế lễ, còn các chức sắc, quan viên trong làng dù lớn cỡ nào cũng không được nhận trách nhiệm vẻ vang này, vì họ không phải là những người đại diện cho nghề.
Lễ vật dâng lên trong ngày tế tổ gọi là cỗ soạn, mỗi xóm biện hai mâm, ngoài ra có thêm xôi gà, quà bánh. Sau khi cúng tế, cỗ soạn là
79