🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Nhà Chính Trị - Lê Minh Quốc full prc pdf epub azw3 [Lịch sử] Ebooks Nhóm Zalo TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ1 nhà xuất bản trẻ BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM HOAN NGHÊNH BẠN ĐỌC GÓP Ý PHÊ BÌNH NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 161b Lý Chính Thắng - Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: 9316211 - 8465595 - 8465596 - 9316289 Fax: 84.8.8437450 E-mail: [email protected] Website: http://www. nxbtre.com.vn 4 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ LỜI NÓI ĐẦU “Nước lấy người làm gốc. Trong đó nhân phẩm có cao thấp không giống nhau. Trên có vua sửa sang chỉnh đốn việc nước, dưới có các sĩ phu: kẻ xuất người xử. Người hiền hay không có khác nhau, thì việc nước trị hay nước loạn do đó mà có khác... Nước Việt ta phong khí đã mở mang, khí tinh hoa đều hợp lại. Trong khoảng đó, các bậc minh quân kế tiếp nổi lên, danh khanh lương tá thường xuất hiện ra. Các danh tài tuấn kiệt đời đời đều có, hoặc có người được ghi công vào đỉnh vạc, hoặc có người lập công với lưỡi búa cờ mao, có người nổi tiếng ở làng văn, có người tỏ khí tiết trong lúc ngặt nghèo, đều là những người có nhiều tài năng đáng chép, có công nghiệp danh vọng đáng khen mà trên dưới một nghìn năm xuất hiện đều đặn...”. Khi soạn Các nhà chính trị việt Nam - trong bộ KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - bên tai chúng tôi vẫn còn nghe vọng lại lời dặn dò xác đáng của nhà bác học Phan Huy Chú. Trong khuôn khổ có hạn của một tập sách chúng tôi xin được bắt đầu từ Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi. Khi đi sứ, ông đã ứng đáp thông minh, linh hoạt, sắc sảo khiến cả vua quan phương Bắc phải khâm phục; khi về làm dân, ông đã có nhiều việc làm ích Nước lợi Dân được đời sau ngưỡng mộ. Tiến sĩ Nguyễn Bá Lân - người đã viết phú Nôm Ngã ba Hạc phú, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thể loại này trong tiến trình văn học Việt Nam. Suốt đời làm quan ông đã để lại tấm gương liêm khiết, cương trực, không cúi đầu trước bạo lực đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, do đó, không phải ngẫu nhiên mà sau khi ông mất được tôn làm Thành hoàng. Ở thế kỷ XVIII, làm sao có thể quên được La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, người đã có quan niệm xuất - xử rạch ròi, có nhiều đóng góp trong nền giáo dục triều đại Tây Sơn. Rồi các nhân vật không chỉ lừng lẫy một thời, mà công đức của họ còn tạo 5 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM dấu ấn ở thế hệ mai sau như nhà sử học, nhà chính trị Ngô Thì Sĩ, Trịnh Hoài Đức... Một trong những nhân vật mà ta không thể quên là Tổng đốc Hoàng Diệu - người đã kiên quyết giữ thành Hà Nội trong trận đánh oanh liệt ngày 25/4/1882. Cho dù thất bại, phải chọn lấy cái chết để tỏ lòng trung hiếu với Dân với Nước, nhưng nói như Giáo sư sử học Đinh Xuân Lâm thì: “Chính cái chết oanh liệt của Hoàng Diệu đã có tác dụng thúc đẩy tức thời phong trào kháng chiến lên một bước, dẫn tới chiến thắng Cầu Giấy lần thứ 2 sau đó (19/5/1883), chỉ huy giặc Rivière đã phải đền tội”. Và cũng trong giai đoạn thăng trầm nhất của lịch sử nước nhà, chúng tôi còn đề cập đến Kỳ Đồng - một thần đồng nổi tiếng nhất Việt sử cận đại. Điều thú vị là nhân vật này đã đi vào tranh dân gian, đi vào trong tâm trí quần chúng với nhiều huyền thoại. Như chúng ta đã biết, dưới ngọn cờ chính nghĩa của anh hùng Đề Thám, nghĩa quân Yên Thế đã ròng rã đánh giặc hơn ba mươi năm trời. Trong lúc nguy khốn nhất, chính Kỳ Đồng là người đã lập đồn điền ở Chợ Kỳ với mục đích hỗ trợ vũ khí, lương thực cho Đề Thám. Lại có những người không trực tiếp xông pha hòn tên mũi đạn, nhưng đã thực hiện nhiều công trình văn hóa như nhân vật Trương Vĩnh Ký, người đã bày tỏ thái độ chính trị rạch ròi “Ở với họ mà không theo họ”. Đó cũng là cách lực chọn của nhiều sĩ phu thời ấy. Khi ngọn cờ Cần vương đã kết thúc vai trò trên vũ đài chính trị nước nhà, nhiều đảng cách mạng đã ra đời nhằm tìm một đường hướng mới trong công cuộc cứu nước. Chúng tôi đề cập đến danh nhân Tôn Đức Thắng, được đời sau tôn kính gọi “Bác Tôn” - người cộng sản Việt Nam đã dũng cảm kéo cờ đỏ ủng hộ cuộc cách mạng tháng Mười Nga vang dội toàn thế giới, chính Bác là người công nhân đã lập ra Công hội đỏ đầu tiên để rèn luyện, giáo dục giai cấp công nhân Việt Nam từ năm 1920. Đội ngũ của những người cộng sản đã góp phần tích cực trong công cuộc cứu nước, trong phạm vị tập sách này, chúng tôi còn đề cập đến nhà cách mạng Nguyễn Hữu Tiến - người đã có ý thức vẽ cờ của Tổ quốc; nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, bằng ý thức chính trị nhiệt thành, bằng tài năng lớn đã viết lịch sử dân tộc bằng âm nhạc, đặng qua đó đánh thức quần chúng ý thức và học tập tinh thần bất khuất của tiền 6 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ nhân; nhà thơ Bút Tre người đã tạo nên “trường phái” thơ Bút Tre và có ý thức làm thơ là nhằm phục vụ cho công tác chính trị. Ông cũng là người đã ghi lại câu nói của Bác Hồ đã nói với Đại đoàn Quân Tiên phong “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” để sau này chúng ta ghi nhớ và học tập. Ngoài ra, chúng tôi còn viết về những nhân vật văn võ song toàn như đại tướng Nguyễn Chí Thanh, trung tướng Nguyễn Bình, thiếu tướng Nguyễn Sơn... Không chỉ là những nhà quân sự đầy tài năng mà họ còn là những nhà chính trị lỗi lạc đã có nhiều cống hiến nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn lịch sử khác nhau. Tất nhiên, chúng ta không thể không đề cập đến nhà chính trị, Tổng bí thư Lê Duẩn. Một trong những đóng góp quan trọng nhất của ông đối với lịch sử đấu tranh cách mạng Việt Nam là đã dự thảo Đề cương cách mạng miền Nam sau khi Hiệp định Genève được ký kết. Có thể khẳng định, bản Đề cương này đã có những đóng góp lớn cho sự ra đời của Nghị quyết 15 về đường lối cách mạng miền Nam - được của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) thông qua vào tháng 1/1959. Nhận thức này đã mở ra bước ngoặt cho cách mạng miền Nam phát triển từ thế giữ gìn lực lượng lên thế tiến công, đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, tạo bước nhảy vọt, mà đỉnh cao là phong trào Đồng khởi năm 1960 và tiếp tục dẫn đến thắng lợi vĩ đại 30/4/1975 thống nhất đất nước. Cứu nước, canh tân đất nước không là công việc của riêng ai. Có những người dù không đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng nếu có những đóng góp to lớn vì Dân vì Nước thì người đương thời và thế hệ sau cũng đều ghi nhớ. Chúng tôi đề cập đến nhà hùng biện, nhà tư tưởng, nhà hoạt động cách mạng Nguyễn An Ninh - dám từ bỏ cuộc sống vương giả để dấn thân vào con đường tù đày đấu tranh cho quyền sống của người lao khổ. Nhà yêu nước Phan Thanh, là người chiến sĩ kiên cường chống lại thực dân Pháp bằng những hoạt động nghị trường có hiệu quả. Nhà cách mạng Phạm Tuấn Tài - một trong những người sáng lập Việt Nam Quốc Dân Đảng - sau này từ trong lao tù của thực dân, đế quốc đã đi đến với chủ nghĩa Mác - Lê Nin vì nhận ra đó là con đường tích cực nhất để giải phóng dân tộc. Đây là những nhân vật đã thể hiện rõ nét nhân cách mẫu mực của 7 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM người cách mạng trong tù đày, lúc hiên ngang bước lên máy chém. Khí phách anh dũng này còn khiến thế hệ sau đời đời ngưỡng mộ. Tên tuổi họ sống mãi cùng hồn thiêng sông núi. Tuy nhiên, do khuôn khổ tập sách có hạn nên chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập đến các danh nhân khác trong những tập sau. Nhân đây chúng tôi xin được nhắc lại, bộ sách KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM do nhà thơ Lê Minh Quốc thực hiện đã phát hành các tập: Danh nhân quân sự Việt Nam, Danh nhân khoa học Việt Nam, Các vị Tổ ngành nghề Việt Nam, Danh nhân Sư phạm Việt Nam, Danh nhân văn hóa Việt Nam, Nam, Các vị nữ danh nhân Việt Nam, Những nhà cải cách Việt Nam, Danh nhân cách mạng Việt Nam, Những người Việt Nam đi tiên phong, Những nhà chính trị Việt Nam và sẽ còn phát hành các tập tiếp theo, mời các bạn tìm đọc. Để bộ sách thật sự hữu ích cho bạn đọc - nhất là các bạn thanh thiếu niên- chúng tôi rất mong được sự chỉ giáo, giúp đỡ chân tình của các học giả uyên bác, của các nhà sử học và của các bạn đọc xa gần để tập sách ngày một hoàn hảo hơn. Trước hết xin bạn đọc ghi nhận ở đây sự biết ơn sâu xa của chúng tôi. NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 8 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Mạc Đĩnh Chi Chính là sen ở giếng vàng đầu non Vào thế kỷ thứ XIII tại làng Lũng Động, huyện Chí Linh (Hải Dương) có đôi vợ chồng ngoài bốn mươi xuân, nhưng vẫn chưa sinh con trai. Họ đi cầu tự tại đền Chử Đồng Tử ở Hưng Yên. Tối hôm đó, người vợ nằm ngủ mơ thấy một vật sáng quắc từ trên trời cao rơi xuống giữa nhà, rồi hóa thành một con hầu (khỉ) chạy vào trong lòng. Giật mình tỉnh dậy, người vợ đem chuyện này kể cho chồng, nghe xong, ông nói: - Cứ như mộng này thì tất có tin mừng, có lẽ sẽ được quý tử. Không rõ có phải vậy không mà năm 1272, người đàn bà đó sinh ra đứa con trai có tướng mạo xấu xí, lại sinh nhằm giờ, ngày, tháng thuộc Thân nên mọi người càng tin là hầu tinh giáng thế. Đó là những truyền thuyết dân gian truyền tụng về Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên đời Trần. Nhưng có điều chắc chắn, Mạc Đĩnh Chi thuộc dòng dõi Mạc Hiển Tích - Trạng nguyên đời Lý. Ngay từ nhỏ, Mạc Đĩnh Chi đã bộc lộ tư chất thông minh hơn người. Cha ông mất khi ông mới lên 5 tuổi. Bấy giờ, có hoàng tử nhà Trần là Chiêu Quốc Công mở trường dạy học, ông được mẹ dẫn đến xin nhập học. Do tướng mạo xấu xí nên Mạc Đĩnh Chi thường bị bạn bè chê bai, trêu chọc, chỉ riêng thầy mới biết ông là người phi thường hơn thiên hạ. Thật vậy, ông học một biết mười, học đâu nhớ đấy, nổi tiếng là thần đồng. Do đó Chiêu Quốc Công đem lòng yêu mến, muốn nuôi ở luôn trong nhà cho ăn học để 9 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Đền thờ Mạc Đỉnh Chi (1272- 1346) tại Hải Dương làm bạn đọc sách với các công tử. Nhưng Mạc Đĩnh Chi vốn có hiếu, học xong là ông xin phép thầy để về nhà giúp đỡ cho mẹ, chứ không chịu ở luôn tại trường. Nhà nghèo, mẹ thường đi hái củi bán để lấy tiền nuôi Mạc Đĩnh Chi ăn học. Do đó, ông không yên lòng khi mẹ phải vất vả vì mình và nét buồn thường hiện trên mặt. Chiêu Quốc Công lấy làm lạ một hôm gặng hỏi thì ông thành thật thưa hết mọi chuyện với thầy. Cảm động vì cậu học trò nhỏ có hiếu và học giỏi, Chiêu Quốc Công cho đón cả mẹ con Mạc Đĩnh Chi về nuôi. Ngược lại từ khi ở nhà thầy, Mạc Đĩnh Chi cũng hết lòng thờ thầy, sớm khuya hầu hạ, chẳng khác gì con đối với cha. Năm 1304, ông thi đậu Trạng nguyên, nhưng vua Trần Anh Tôn thấy tướng mạo xấu xí nên không hài lòng và cũng không muốn cho đậu! Biết ý của vua, ông bèn dâng lên bài Ngọc tỉnh liên phú để tự ví mình như sen trong giếng ngọc: Giống quý ấy ta đây có sẵn Tay áo này ta chứa đã lâu 10 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Phải đâu đào, lý thô màu Phải đâu mai, trúc dãi dầu tuyết sương Cũng không phải tăng phường câu kỷ Cũng không là Lạc Thủy mẫu đan Cũng không là cúc, là lan Chính là sen ở giếng vàng đầu non Bài phú với từng dòng như châu như ngọc, khiến vua xem xong phải ngợi khen không tiếc lời và cho ông đậu Trạng nguyên. Khi vua hỏi đến chuyện trị nước, ông đều đối đáp trôi chảy và được vua ban làm Hàn lâm Đại học sĩ, ít lâu sau lại thăng làm Đại liêu bang - đứng đầu bá quan. Ông làm quan dưới ba đời vua Anh Tông, Minh Tông và Hiến Tông được người đời khen là cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Có lần để thử Mạc Đĩnh Chi, vua Minh Tông nửa đêm sai người bí mật đem đặt mười quan tiền trước cửa nhà ông. Tờ mờ sáng hôm sau, sau khi thức dậy ngồi uống trà và đọc sách, ông rảo bước ra sân thì thấy những đồng tiền đó. Ông hỏi láng giềng chung quanh có ai đánh rơi thì đến nhận lại. Không ai nhận cả. Khi vào chầu, ông đem số tiền nhặt được tâu với nhà vua và nộp vào công quỹ. Nhà vua lắc đầu: - Nếu không có ai nhận, mà tiền lại ngay trước cửa nhà khanh thì đó là tiền của khanh. Vậy việc gì phải nộp vào công quỹ? Ông khẳng khái: - Tâu bệ hạ, nếu thần đổ công sức thì đó mới là tiền của thần. Bỗng dưng có được số tiền lớn này, không phải do lao động cật lực mà có thì thần không dám nhận. Đức tính thanh liêm ấy của ông được người đời khen ngợi mãi. Dù làm quan cao, chức trọng nhưng ông vẫn sống bình dị. Không chỉ là vị quan thanh liêm, Mạc Đĩnh Chi còn nổi tiếng về đối đáp ngoại giao giỏi. Khoảng năm 1314, ông được cử làm Chánh sứ đi sang Trung Quốc. Khi khởi hành đã có công văn thông báo, hẹn ngày để quân Tàu 11 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM mở cửa ải nghinh tiếp. Nhưng vì thời tiết xấu, phái đoàn ta không đến đúng hẹn, vài ngày sau mới đến nơi thì quân Tàu đóng cửa ải không cho vào. Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi phải khẩn cầu mãi, cuối cùng quan coi cửa ải ra điều kiện: nếu đối được một câu đối thì sẽ mở cửa cho qua, bằng không thì... quay lui! Mạc Đĩnh Chi chấp thuận. Quan coi cửa ải đọc: - Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan; (Qua cửa quan chậm, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan). Oái oăm của câu đối này là chỉ 11 chữ mà có đến 4 chữ “quan” lại nói đúng hoàn cảnh lúc bấy giờ. Không ngờ, khi họ vừa dứt lời thì Mạc Đĩnh Chi đối lại ngay: - Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối. (Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước). Câu đối lại cũng đủ 4 chữ “đối” và cũng phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ khiến quan Tàu phải cúi đầu khâm phục cho tài mẫn tiệp, đối đáp khôn khéo của quan Trạng nước ta. Cửa ải liền được mở rộng cho đoàn sứ bộ nước ta đi qua. Trong thời gian ở kinh đô Trung Quốc, có lần ông đến phủ Tể tướng nhà Nguyên, thấy trên tường có bức trướng thêu con chim sẻ đậu trên cành trúc, nghệ thuật thêu đạt đến mức hoàn hảo nhìn như thật. Mạc Đĩnh Chi cũng tưởng nhầm nên đưa tay lên định bắt khiến mọi người cười òa chế giễu. Không một chút nao núng, ông liền cầm bức trướng ấy ném xuống đất, nói: - Tôi nghe người ta thường vẽ chim sẻ đậu cành mai, chứ không thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc. Hỡi ôi! Chim sẻ là tiểu nhân, cành trúc là quân tử, tại sao lại cho tiểu nhân ở trên quân tử? Tôi sợ đạo tiểu nhân ngày một thịnh, đạo quân tử ngày một suy nên vì thánh triều mà trừ bỏ điều xấu ấy đi! Tể tướng nhà Nguyên biết ông chữa thẹn, nhưng cũng phục tài biện bác rất chí lý ấy nên không nỡ giận. Đến khi vào chầu Nguyên Thế Tổ, nhân sứ thần các nước dâng cái quạt, vua Nguyên cho các sứ 12 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ thi tài với nhau: đề tài là “Phiến minh” để vịnh cái quạt. Một tiếng trống gióng giả vang lên, ông chưa kịp suy nghĩ thì đã thấy sứ thần Cao Ly cắm cúi viết (dịch ý): - Khi nóng bức thì quạt đắc dụng như Y Doãn, Chu Công, Khi mùa đông giá rét thì quạt xếp xó như Bá Di, Thúc Tề. Mạc Đĩnh Chi nhanh trí triển khai tứ thơ đó thành bài thơ tuyệt hay (dịch ý): - Lúc chảy vàng nung đá, trời đất nóng như lò lửa thì lúc ấy chiếc quạt như Y Chu được đắc dụng, Khi gió rét lạnh lẽo, mưa tuyết ngập đường thì quạt nào khác gì Bá Di, Thúc Tề chết đói trên núi Thủ Dương mà không ai biết đến. Than ôi! Ai dùng thì làm, không dùng thì để đó, Chỉ có ta với ngươi là vậy. Với bài thơ này, vua Nguyên phải khâm phục mà phong cho ông làm “Lưỡng quốc Trạng nguyên” (Trạng nguyên của hai nước). Tiếng tăm của Mạc Đĩnh Chi càng lừng lẫy nhưng cũng khiến cho nhiều quan Tàu tỏ ý ghen ghét. Gặp lúc nàng công chúa yêu của vua qua đời. Vua Nguyên vời ông vào đọc văn tế. Khi các quan đưa cho ông tờ văn tế, điều hiểm hóc khó hiểu là trên đó chỉ có bốn chữ “nhất”. Biết người ta thử tài mình, ông ứng khẩu đọc ngay (dịch): Trời xanh một đám mây Lò hồng một giọt tuyết Vườn thượng uyển một cành hoa Cung quảng hàn một vầng nguyệt Than ôi! Mây tán! Tuyết tiêu! Hoa tàn! Trăng khuyết! Ai nghe cũng phải khen là hay. Bốn câu trên câu nào cũng có chữ “nhất” ví dung nhan người đã mất, hai câu sau tỏ ý khóc than thương tiếc! Tương truyền trong thời gian ở Trung Quốc, nhiều quan Tàu đã thử tài với ông. Có lần quan Tàu ra câu: 13 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM -Vy, ly, võng, lượng, tứ tiểu quỷ; (Quỷ Vy, quỷ Ly, quỷ Võng, quỷ Lượng là bốn thằng tiểu quỷ); Vì bốn chữ này đều có một chữ quỷ đứng bên, ngụ ý chê ông xấu như quỷ. Không ngờ, Trạng đối ngay: - Cầm, sắt, tì, bà bát đại vương. (Đàn cầm, đàn sắt, đàn tì, đàn Bà là tám vị đại vương). Bốn chữ này mỗi chữ đều có hai chữ vương, ông ngụ ý mình chẳng hèn kém, cũng bậc đại vương. Nghe câu đối của ông, quan Tàu phải chịu là ứng đối giỏi. Để chê bai giọng nói của người nước ta, quan Tàu lại ra câu đối: - Quích tập chi đầu đàm Lỗ Luận: tri tri vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri; (Chim đậu đầu cành đọc sách Lỗ Luận, biết thì bảo là biết, chẳng biết bảo chẳng biết, ấy là biết đó); Câu này chơi âm “tri tri” để chỉ tiếng nói của ta ríu rít như chim. Mạc Đĩnh Chi cũng không phải tay vừa, ông đối ngay: - Oa minh trì thượng độc Châu Thư: lạc dữ độc lạc nhạc, lạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc. (Chẫu chuộc trên ao đọc sách Châu Thư: cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui hơn). Ở đây, ông Trạng của ta đã dùng âm “lạc nhạc” để nhạo lại người Tàu nói ồm ộp như chẫu chuộc! Tài trí của ông khiến quan Tàu nể phục, phải từ bỏ ý định thử tài. Có lần, ông cưỡi lừa đi ngắm cảnh trong kinh thành. Đang nghênh ngang đi và ngắm nhìn cảnh vật, ngờ đâu chạm phải quan Tàu cưỡi ngựa đi phía trước. Người này bực mình quay lại quát một câu láo xược: - Xúc ngã kî mã, Đông di chi nhân dã, Tây di chi nhân dã? (Chạm ngựa ta đi là người rợ phương Đông hay là người rợ phương Tây?) Với câu hỏi xấc xược, lấy ở sách Mạnh Tử hai chữ “Đông di” để chỉ người mọi rợ, Mạc Đĩnh Chi bực mình, đáp lại thẳng thắn: 14 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ - Át dư thừa lư, Nam Phương chi cường dư, Bắc phương chi cường dư? (Ngăn lừa ta cưỡi, hỏi người phương Nam mạnh hay người phương Bắc mạnh?) Quan Tàu tái mặt bởi Mạc Đĩnh Chi đã lấy hai chữ “Nam phương” trong sách Trung Dung - lời lẽ ngang tàng ý bảo chưa chắc người phương Bắc mạnh hơn phương Nam! Thái độ của ông Trạng nước ta thật rạch ròi và cứng cỏi. Trong đời mình, Mạc Đĩnh Chi hai lần đi sứ, nhưng lần nào ông cũng đối đáp thông minh, lịch thiệp khiến người phương Bắc phải kính nể. Có lần vua Nguyên muốn thăm dò khí tiết của ông bèn ra câu đối: - Nhật hỏa, vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ; (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng). Vua Nguyên tự kiêu ví mình là mặt trời, coi nước ta như vầng trăng, ban ngày nhất định phải bị mặt trời thôn tính! Không một chút nao núng, ông đối lại chan chát từng câu từng chữ: - Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô. (Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời). Vua Nguyên ra câu đối đã giỏi, nhưng người đối lại còn giỏi hơn bội phần. Mỗi câu đều ăn miếng trả miếng cực kỳ chính xác khiến vua Nguyên rất đau, nhưng không có cách gì bắt bẻ được! Sau khi đi sứ về, Mạc Đĩnh Chi được thăng chức Tả bộc xạ (tương đương với Thượng thư), thời gian này (1313) ông đã chỉ đạo việc xây dựng lại quy mô chùa Dâu ở Thuận Thành. Vua Trần Anh Tôn tôn trọng ông thường gọi là Tiết Phu, chứ không gọi tên. Dù ngất ngưởng trên danh vọng, nhưng ông vẫn liêm khiết, ăn mặc thường giản dị. Có lần vua ái ngại hỏi: - Trẫm nghe nhà Trạng túng, nếu có thiếu gì thì cứ nói, trẫm sẽ tư cấp thêm. Mạc Đĩnh Chi cúi đầu tâu: - Hạ thần trên nhờ ơn vua dưới nhờ lộc nước, vợ con không phải đói rét là may, đâu dám cầu vinh thân phì gia để thêm mang tội. 15 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Xin bệ hạ đừng thương hạ thần nghèo, chỉ xin thương lấy muôn dân, giữ nghiệp tổ tông, sửa sang chính trị, khiến lũ hạ thần được làm hết chức trách bày tôi, đó là ước nguyện của hạ thần. Ước nguyện ấy thực hiện được thì hạ thần dẫu áo vải cơm rau cũng là đủ. Nếu ước nguyện ấy không được thực hiện thì hạ thần dẫu mỹ vị cao lương, áo quần gấm vóc, ngựa xe trăm cỗ, nô bộc ngàn người thì cũng là thiếu. Cúi xin bệ hạ xét cho! Trong đời thường, Mạc Đĩnh Chi đã sống đúng như thế. Tương truyền ông có viết Giáo tử phú Một trang trong tác phẩm Thuyết Mạc viết về Mạc Đỉnh Chi của Đinh Gia Thuyết in năm 1925 (bài phú dạy con): “Miễn được an nhàn. Trọng pháp kính thầy. Thí bần tác phúc. Ăn cơm phải bữa. Ai đói thì cho. Bớt miệng xui lòng. Mỗi người một chút. Kim cương thường đọc. Bố thí làm duyên...” mà nay đọc lại vẫn còn thấy đúng. Năm 1339, Mạc Đĩnh Chi dâng sớ xin về hưu trí. Vua Trần Hiến Tôn xem ông là quốc lão nguyên huân lại là thầy dạy học nên năn nỉ ông ở lại, nhưng ông vẫn cố xin. Bất đắc dĩ, vua phải chấp thuận. Lại sai người đưa về đến tận làng và gia tặng Hầu tước. Về quê, Mạc Đĩnh Chi dựng am ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh) ngày ngày vui thú điền viên, dạo chơi danh lam thắng cảnh, lấy chữ nhàn làm vui. Trong đời mình, Mạc Đĩnh Chi làm nhiều thơ nhưng nay hầu hết đều thất lạc. Ngoài Ngọc tỉnh liên phú, nay chỉ còn 16 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Bia thờ Mạc Đỉnh Chi mới phát hiện tại xã Thanh Quang, huyện Nam Sách (Hải Dương) lại bốn bài thơ truyền lại cho đời sau. Qua những thi phẩm này, chúng ta thấy được khí tiết cao đẹp của ông. Khi nói Đào Tiềm không vì “đấu gạo phải khom lưng” thì chính ông cũng bộc lộ tư tưởng: Nhàn khoáng ấy tính trời So đâu kẻ đua đòi Gẫy lưng vì đấu gạo Treo ấn bỏ quan thôi Đạm bạc, cúc một giậu Lưa thưa, liễu dăm chồi Nghìn năm sau mờ mịt Danh tiếng cảm đến tôi (Huệ Chi dịch) Mạc Đĩnh Chi mất năm 1346 dưới đời vua Trần Dụ Tôn. Vua thương tiếc sai các quan về dụ tế, lại truy tặng làm phúc thần, cấp tiền cho dân sở tại dựng đền thờ tại Lũng Động nay là Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Thanh, Hải Dương. 17 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Nguyễn Bá Lân “Ngự sử đức tài xứng kỳ chức” Dòng sông Hồng cuồn cuộn sóng. Trời về chiều. Một chiếc đò chở hai cha con ông Nguyễn Công Hoàn đang xuôi về làng Cổ Đô - nơi nổi tiếng về nghề dệt lụa mà ca dao còn ghi “Chính tông lụa cống các cô ưa dùng”. Nhìn về bên kia sông, thấy đàn dê đang đi nhởn nhơ, ông Hoàn bảo với cậu con trai: - Này! Con có thấy gì không? Cha ra bài phú (1) với đầu đề là “Dịch đình dương xa phú” (Bài phú xe dê cung cấm). Nếu sang bờ bên kia, cha làm xong trước mà con chưa xong thì cha sẽ ném con xuống sông; còn nếu con làm xong trước thì con cứ việc xô cha xuống sông. Cha không trách con đâu! Nghe cha nói thế, cậu con trai ậm ừ gật đầu. Hơn ai hết cậu biết tính nghiêm khắc của cha. Dù vậy, cậu cũng cố nhẩm trong đầu cho xong bài phú. Khi chiếc đò cập bến, cậu đã làm xong bài phú, nhưng cha cậu chỉ mới làm một nửa. Chẳng lẽ phải xô cha xuống sông sao? Nghĩ vậy, cậu ngần ngừ không dám đọc. Đến khi người cha làm xong bài phú thấy con vẻ mặt đăm chiêu, tưởng cậu chưa làm xong liền đánh (1) Phú: Một thể văn có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi của Trung Quốc và Việt Nam để tả phong cảnh, kể sự việc, bàn chuyện đời… Trong ba loại “phú, tỷ, hứng” thì phú là phô diễn, là miêu tả trực tiếp chứ không qua so sánh, liên tưởng như tỷ, hứng. Kinh thi viết: “Phú là phô bày thẳng sự thực”. Có hai loại phú: phú cổ thể làm theo lối văn biền ngẫu (biền phú) hoặc như một bài văn xuôi có vần (phú lưu thủy) và phú cận thể hay phú Đường luật. Ở Trung Quốc, phú nẫy mầm cuối đời Chiến quốc, định hình và thịnh hành đời nhà Hán với các tác giả như Giả Nghị, Tư Mã Tương Như... Ở Việt Nam từ đời nhà Lý đã có phú. Nhưng chỉ còn truyền lại những bài phú từ các đời Trần - Hồ về sau. (Xem Từ điển văn học - NXB Khoa học Xã hội 1984, trang 227) 18 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ cho một trận. Cậu con trai đành phải nói ra và đọc cho cha nghe. Bài phú của cậu nổi tiếng đến nỗi mà sau này người ta truyền tụng là “Bài phú hoàn thành trên một chuyến đò ngang”. Thế là người cha tự nhảy luôn xuống sông, tự bơi vào như đã giao hẹn trước với con trai. Tính tình của ông Hoàn là vậy. Dù học giỏi, văn hay chữ tốt, nhưng nhiều lần thi trượt nên ông dồn hết tâm trí để rèn cặp cho con với thái độ nghiêm khắc. Ngay cả vợ ông cũng chia xẻ với suy nghĩ của chồng và từng dặn dò cậu con trai: - Ta là đàn bà không hiểu văn Bia tiến sĩ thượng thư Nguyễn Bá Lân (1700-1785) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) chương nông sâu ra sao, chỉ biết ông nội dạy cha con đến thành danh. Những gì là sở trường trong lòng cụ truyền hết cho đấy, nhưng do học lực chuyên cần hay nới lỏng mà kết quả sự nghiệp cũng khác. Thế mới biết, trời không phụ công người chăm đọc sách. Lời ngạn ngữ từ xưa không phải nói ngoa, vả lại ta thấy cha con từ sau khi đỗ thi Hương thì ngày đêm làm bạn với đèn sách, thế mà liên tiếp đi thi còn chưa thể tranh được đầu bảng, không rõ các vị đỗ đầu bảng họ còn chăm chỉ đến thế nào? Con nên kịp thời lo việc học hành gắng sức cho công phu, chớ mê mải chuyện khác, đừng thấy mình còn kém mà thoái lui, đừng thấy đã khá mà tự cao, mục tiêu lớn hay nhỏ cũng phải gắng công giành lấy. Cửa trời tuy rộng mở nhưng chưa chắc ai cũng tới được. Cứ phải gắng lên như đào giếng sắp tới mạch, đắp núi đã gần xong, con người phải gắng lên cho tới đích. Nếu chẳng được làm quan trong triều thì cũng làm thầy dạy học, như vậy cũng trả được món nợ của người đi học, mà tiếng nhà không mai một, con còn trẻ hãy ghi nhớ lời ta! 19 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Những lời mẹ dạy đã khiến cậu ghi nhớ nằm lòng. Rồi lần nọ, hai cha con cùng thi nhau học kinh sử, ông Hoàn bảo vợ đặt cây roi mây bên cạnh bàn học và bảo với con: - Mày ngủ gục thì tao đánh mày, tao ngủ quên thì mày đánh tao. Với lời giao ước như thế nên cậu con trai chăm chú học. Đêm đã khuya. Ngoài vườn hoa ngọc lan dìu dịu hương thơm, tiếng dế kêu rả rích… Hai mắt nặng trĩu nhưng cậu vẫn không dám chợp mắt. Lát sau, nhìn sang, bên cạnh thì đã thấy cha úp mặt vào trang sách ngáy khò khò. Thấy cha mệt mà ngủ quên đi, cậu không dám cầm roi đánh cha mà chỉ khẽ lay cha dậy. Ông Hoàn giật mình tỉnh giấc liền quát: - Ô hay! Sao mày không đánh cho tao dậy ngay? Mày muốn hại tao à? Nói xong, lấy roi phết vào mông cậu mấy roi đau điếng. Thế là cậu cũng tỉnh ngủ hẳn và ngồi học cùng cha cho đến rạng sáng. Lại một lần khác, hai cha con thi tập làm văn, ông Hoàn bảo: - Tao làm hơn mày thì tao ăn cơm, mày nhịn; mày làm hơn tao thì tao nhịn, mày ăn cơm. Cũng như mọi lần, cậu con làm hay hơn, nhanh hơn, thế là ông bố cương quyết nhịn ăn để nhường suất cơm đó cho con. Chưa hết, biết tuổi của con còn ham chơi hơn ham học nên có lần ông Hoàn đưa cậu trên một cái chòi, dưới cắm chông và bỏ thang để không còn đường leo xuống. Bao giờ học xong thì ông mới cho xuống. Học kiểu này thì khổ quá, cậu con trai tinh nghịch nghĩ ra một cái mẹo khôn ngoan. Một tối, trước khi lên chòi ngồi học, cậu lén mang theo khúc cây chuối. Giữa khuya, lúc cả nhà sắp đi ngủ, bỗng nghe “rầm” ở ngay bãi chông. Cả nhà hoảng hốt chạy ra, người lo lắng đầu tiên là ông Hoàn, ông kêu lên hoảng hốt: - Thế là nhà ta mất một tiến sĩ rồi! Nhưng khi đến nơi chỉ thấy thân cây chuối, còn cậu con trai vẫn ung dung ngồi học bài ở phía trên, bây giờ ông mới hoàn hồn. Nhưng không vì thế mà ông bỏ cái lệ này. Có giai thoại kể lại rằng, cách rèn 20 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ cặp này cũng đã khiến ông Hoàn áy náy, do đó, sáng hôm sau, ông sai người nhà mang gói chè lam lên chòi cho con và ngoài ghi hai chữ “Trà lam”- đọc lái là “làm cha”, ý nói đạo làm cha thì phải thế, con chớ mang lòng oán trách. Hiểu ý của cha, cậu con trai viết trả lời hai chữ “Còn lam” - đọc lái là “làm con”, ý nói cậu cũng hiểu đạo làm con phải tuân phục sự dạy dỗ của cha, chứ nào dám trái ý cha. Biết ý hướng của con, ông Hoàn không gửi con học trực tiếp ở trường nào, mà chỉ nghe ngóng nơi nào có danh sĩ tài giỏi, tiếng tăm thì tìm mọi cách gửi con đến để học hỏi. Nhờ học với cha và cách dạy nghiêm khắc của cha nên cậu con trai không một phút lơi lỏng bài vở. Cậu con trai ấy là Nguyễn Bá Lân- về sau đậu tiến sĩ, giữ chức thượng thư và làm được nhiều việc ích nước lợi dân. Sau này, Quốc sử quán triều Nguyễn đã nhận xét cậu có được học thức ấy có được là nhờ ở gia đình. Điều đó không sai chút nào cả. Trong Gia phả của dòng tộc mình, Nguyễn Bá Lân có cho biết: “Họ Nguyễn ta vốn quê ở thôn Ngoại, xã Hoài Bào, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc vốn dòng dõi là thi thư”. Nhưng tổ tiên ông gặp buổi binh đao phải lánh về ở làng Cổ Đô (nay xã Cổ Đô, huyện Ba Vì, Hà Tây) và ông sinh ra tại nơi mà ca dao xưa đã ca ngợi: Đồn rằng Hà Nội vui thay Vui thì vui vậy chưa tày Cổ Đô Cổ Đô trên miếu dưới chùa Trong làng lắm kẻ nhà Nho có tài Gái thì giữ việc trong nhà Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa Trai thì đọc sách ngâm thơ Dùi mài kinh sử để chờ khoa thi Nguyễn Bá Lân sinh giờ Tuất ngày 27 tháng giêng năm Canh Thìn (1700) là con trai đầu của ông Nguyễn Công Hoàn. Ông Hoàn mồ côi cha từ nhỏ nên năm lên bốn tuổi ở với chú. Dù được chú cho học hành, nhưng ông ham chơi bê trễ đèn sách. Ngày nọ, mẹ của ông sang chơi hỏi em chồng là bao giờ con trai của bà đi thi được? Ông chú cười mà đáp: “-Tuổi cháu đã lớn mà học vẫn không ra gì, chị nên 21 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM kiếm giấy bút để cháu về ghi chép thuế cho xã nhà cũng được, chứ nói đến chuyện thi cử làm gì?”. Nghe vậy, người mẹ chỉ còn biết rưng rức khóc. Không ngờ, lúc đó ông Hoàn đứng dựa cột sau nhà đã lén nghe hết mọi chuyện. Bực mình với nhận xét của chú, ông liền bỏ nhà trốn đi. Không biết ông ở đâu, cả nhà hoảng hốt đi tìm. Suốt mấy tháng trời cũng bặt âm vô tín. Không ai ngờ lúc đó, ông tới ở nhờ những gia đình đã chịu ơn chú mình mượn sách để học. Học bất kể ngày đêm, nhờ vậy ông trở nên người hay chữ nhất thời bấy giờ, được khen ngợi là một trong “tứ hổ” nổi tiếng văn chương ở kinh thành Thăng Long “Nhất Quỳnh, nhị Nham, tam Hoàn, tứ Tuấn”. Mãi đến năm ba mươi tuổi, ông mới có con trai đầu là Nguyễn Bá Lân, vì thế ông dồn hết mọi nỗ lực để con học giỏi làm nở mày nở mặt gia đình. Ngay thuở nhỏ, Nguyễn Bá Lân đã tỏ ra thông minh, đỉnh ngộ hơn người. Bấy giờ, một trong những “tứ hổ” của đất Tràng An là tiến sĩ Lê Anh Tuấn vinh quy bái tổ về làng. Còn nhỏ tuổi nên Nguyễn Bá Lân vẫn nhởn nhơ đứng chơi bên đường, chứ không hề tỏ ý sợ hãi. Thấy vậy, tiến sĩ xuống lọng, biết là học trò nên ra câu đối thử tài: - Sỉ tính cương, thiết tính nhu, cương tính bất như nhu tính cửu; (Răng thì cứng, lưỡi thì mềm, răng cứng không bền như lưỡi mềm) Vừa dứt lời, Nguyễn Bá Lân đối lại ngay: - Mi sinh tiền, tu sinh hậu, tiền sinh mạc nhược hậu sinh trường. (Lông mày mọc trước, râu mọc sau, lông mày mọc trước không dài bằng râu mọc sau). Tiến sĩ Lê Anh Tuấn khen cho cậu học trò không những ứng đối lanh lẹ mà còn bộc lộ khí phách khá ngang tàng. Biết đó là con trai của Nguyễn Công Hoàn, bạn mình thì tiến sĩ lại thêm vui. Nguyên do trước đây, trong kỳ thi sát hạch học trò ở phủ Quảng Oai, quan huấn đạo có hỏi trong hai người thì ai giỏi hơn ai? Ông Hoàn đáp: “- Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào!”. Nghe thế, quan liền ra đề tài con mèo để hai người cùng ứng khẩu thành bài thơ Đường luật. Trong lúc, ông Hoàn còn tìm giấy bút thì ông Tuấn đã đọc xong bài thơ. Buồn vì thua bạn, ông Hoàn có thề: “- Từ nay, ta không thèm bước qua cổng nhà 22 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ huynh nữa”. Vậy mà bây giờ cậu nho sinh này đối đáp cứ chan chát, đúng là hậu sinh khả úy. Nhưng sự đời không dễ dàng được như thế. Năm 18 tuổi, Nguyễn Bá Lân đã thi đậu Giải Nguyên, nhưng các lần thi sau thì cứ lận đận mãi. Chẳng hạn, khoa thi Hội năm 1727, bài làm của Nguyễn Bá Lân được khảo quan khuyên đỏ tới hơn một trăm chỗ và xếp lên thứ nhất nhưng do bỏ sót mất một chữ ở đầu đề nên cuối cùng bị đánh rớt. Trong Gia phả, ông có viết: “Khảo quan lập kế định xin xem xét lại xem các khoa trước có ai bị sót chữ ở đầu đề mà vẫn trúng tuyển (để viện tiền lệ đó xin cho Nguyễn Bá Lân đậu vì quyển văn hay quá), nhưng không có ai như thế cả, vì vậy Lân không được trúng tuyển, nhưng quyển văn ấy thiên hạ ai cũng truyền nhau chép, có người nghĩ rằng tại đất ấy không có người đỗ đại khoa, có người cho rằng tại số tác giả không đỗ đại khoa. Từ đó, lòng hăm hở về học nghiệp của ta nguội lạnh”. Năm 1730, vua Dụ Tông chầu trời nên triều đình hoãn lại thi Hội, qua năm sau mới mở và tiến sĩ Lê Anh Tuấn được cử làm chủ khảo. Trước khoa thi, ông Tuấn về làng Thượng Mơ làm giỗ bố. Việc cúng tế đang tiến hành thì người nhà báo có hai người đàn ông, một già một trẻ, không đi cổng chính mà lội ao sau nhà để vào dinh. Trông dáng dấp của họ thì không có gì đáng nghi ngại cả, mỗi người đang đội trên đầu một quả bí to. Nghe lạ, tiến sĩ bước ra sân thì nhận ra cha con ông Hoàn, liền mời vào từ đường. Họ kính cẩn đặt hai quả bí lên bàn thờ, làm lễ xong, cả hai lặng lẽ quay trở về, dù ông Tuấn có níu kéo cách nào cũng không được. Bấy giờ, ông Tuấn mới kể cho mọi người về lời thề xưa của ông Hoàn và bảo: “Ông Hoàn tính khẳng khái, vì thương con nên mới đến đây vì ngại ta đánh trượt Nguyễn Bá Lân. Nhưng ta biết sức học của Lân xứng đáng đỗ đại khoa. Quan trường không vì hiềm khích riêng tư mà gạt bỏ những thí sinh giỏi”. Quả thật, khoa thi Hội năm 1731, Nguyễn Bá Lân đã đậu Tiến sĩ. Từ đây bước đường hoạn lộ của ông đã rộng mở thênh thang, lên đến ngôi cao ngất ngưởng mà ông tự nhận là “ân sủng trùng điệp”. Trong suốt quãng đời làm quan của ông, nhà sử học Phan Huy Chú đã nhận xét trong Lịch triều hiến chương loại chí là “nổi tiếng trong sạch cẩn thận”; 23 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Việt sử thông giám cương mục ghi nhận “là người có văn học, chất phác, thẳng thắn, mạnh dạn, dám nói”. Nguyễn Bá Lân đã xét xử hơn một trăm vụ án, ai cũng khen là công bằng. Mỗi lần xử án, ông ngầm khấn với cao xanh: “Trí tôi muốn cứu người ta. Nếu đứa nào trong bọn con cháu tôi dám dọa dẫm người ta để đòi đút lót, thì đó do tôi không sáng suốt mà xét hết được. Xin trời đất quỷ thần chứng giám cho lòng thành của tôi”. Không chỉ để lại phẩm chất lương thiện trong lúc làm quan được người đời ca ngợi, Nguyễn Bá Lân còn là tác giả của bài phú nổi tiếng Ngã ba Hạc phú ảnh hưởng đến sự phát triển của văn biền ngẫu Nôm ở thế kỷ XVIII và nhiều bài thơ chữ Hán khác mà nay hầu hết đã thất lạc. “Phú Ngã ba Hạc có bút pháp tả thực, trào lộng hóm hỉnh… có ngôn ngữ bình dị, uyển chuyển mà lại rất ít dùng điển cố, từ ngữ Hán học. Có thể xem Phú Ngã ba Hạc của Nguyễn Bá Lân là bằng chứng về sự thoát ly ngày càng nhiều ảnh hưởng của Hán học vào biền văn Nôm, đồng thời cũng là bằng chứng về khả năng to lớn của ngôn ngữ văn học dân tộc trong cấu trúc văn biền ngẫu” (Từ điển văn học - NXB Khoa học xã hội 1984, trang 47). Bài phú này theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân thì có 26 liên, nhưng bản in của học giả Dương Quảng Hàm chỉ có 14 liên, còn bản của nhà nghiên cứu Phong Châu lại có 19 liên. Mở đầu bài phú, tác giả như reo như hát trước cảnh đẹp của thiên nhiên: Vui thay Ngã ba Hạc! Lạ thay Ngã ba Hạc! Dưới hợp một dòng, trên chia ba ngác Ngóc ngách khôn đo rộng hẹp, dòng biếc lẫn dòng đào; lênh lang dễ biết sâu nông, nước đen pha nước bạc. “Ngác” là cách sáng tạo ngôn ngữ khi Nguyễn Bá Lân muốn gợi lên cái ngóc ngách của luồng lạch, nơi gặp nhau của sông Hồng, sông Lô và sông Đà. Bên trái ngã ba là làng Bạch Hạc, bên phải là thành phố Việt Trì. Từ xưa, nhà chính trị thiên tài Nguyễn Trãi đã ghi nhận trong Địa dư chí: “Bạch Hạc là đất Phong Châu đời cổ, nhân có con hạc trắng làm tổ trên cây nên gọi là Bạch Hạc”. Đọc qua ta thấy Nguyễn Bá Lân đã cho ta biết ở sông Hạc có nhiều rùa vàng trong hang, có cá anh vũ tuyệt ngon. Còn người dân nơi 24 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ đây được ông miêu tả họ có đời sống bình dị như Lã Vọng buông câu, như Chử Đồng Tử lúc chài lưới “Lơ thơ đầu ông Lã thả cần; trần trụi mặc Chử Đồng ngâm nước “hoặc “giương nách khom lưng chèo tếch ngược” rồi cảnh trên bến dưới thuyền thật là nhộn nhịp, trù phú: “Dùi điểm thùng thùng trống gọi, cửa tuần ty rộn rã khách chen vai” v.v… Bài phú như hút người đọc đi theo tâm trạng hào sảng của tác giả qua nhiều trường đoạn khác nhau... Nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc ghi nhận: “Phú có quy định chặt chẽ về luật, vần, đối, nói chung là khá chật hẹp. Vậy mà Nguyễn Bá Lân vượt mọi ràng buộc trên, tung hoành ngòi bút, Việt hóa thành công một thể văn ngoại lai. Cạnh đó, còn tình yêu thiên nhiên nước Việt. Bến nước, dòng sông, con thuyền, rồi một cánh cò, một tiếng trống, một hồi chuông, bờ tre, bãi cỏ… tất cả thiên nhiên đó ùa vào bài phú, xôn xao cử động như có nhân cách. Nếu không yêu đất nước, non sông thì không thể làm được như trên”. Năm 1766, lúc 65 xuân, Nguyễn Bá Lân đang giữ chức Thượng thư bộ Công thì xin về hưu. Ông có nói một câu nổi tiếng mà nay chưa Hội thảo khoa học danh nhân Nguyễn Bá Lân năm 1995 tại Hà Tây 25 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM hẳn đã mất tính thời sự: - Quay xe về làng cũ đó là nguyện vọng của người xưa. Được tin dùng đến như Sơ Phó còn biết thời cơ dừng lại. Có trách nhiệm như Mạnh Khoa còn khuyên người đừng ở mãi ngôi cao. Thế mà ta được thoát khỏi nơi sóng gió, không còn vuớng vào trường danh lợi. Nếu không tự răn giới về sự ham công danh thì làm cho khí suy. Nếu không biết thời để dừng lại thì trí tuệ bị u ám. Chẳng những dư luận không tán thành, mà làng Nho cũng cho là đáng thẹn… Nhưng ông trời cũng tai quái, một người muốn xa lánh vòng danh lợi phiền toái lại cứ bị níu kéo mãi. Vì qua năm sau, 1767, Trịnh Sâm cầm quyền gặp lúc hạn hán kéo dài nên gọi ông ra xin ý kiến. Không thể chối từ được, dù 67 xuân nhưng ông phải vào kinh chầu chúa. Nhân cơ hội này, ông dâng sớ thân oan cho những người bị oan ức, khoan thứ cho những người bị tội lây, cứu vớt những người xiêu tán, tha cho những người thiếu thuế chồng chất… Việc làm nhân nghĩa này, nghĩ cho cùng cũng là cốt cách văn hóa trong ứng xử của Nguyễn Bá Lân. Chúa Trịnh nghe theo và bảo ông: - Khanh dẫu già, sức còn làm được việc. Vả chăng chọn được người xứng chức rất khó. Ta đang chọn người có thể thay cho khanh. Khi khanh làm quan cũng có kẻ gièm pha, nhưng ta vẫn không ngờ vực. Nay khanh từ chức, nên ở lại kinh, phòng khi ta hỏi đến. Thế là không còn cách nào khác, Nguyễn Bá Lân phải tiếp tục đảm đương công việc, ông được thăng lên thượng thư bộ Lễ, rồi đổi sang bộ Hộ, hàm Thiếu bảo, bậc Ngũ lão hầu chúa. Năm 1781, Trịnh Sâm chầu trời, để lại di chiếu bỏ quận Tông (con trai với bà Ngọc Hoan), lập quận Cán (con trai với bà Đặng Thị Huệ). Biết rõ âm mưu của chúa chè Huệ đã tác động trong việc làm ám muội này nên Nguyễn Bá Lân chưa có ý kiến tán thành. Biết vậy, bà Huệ sai em là Bá Cung mang một kiếm vàng, mười dật vàng nén, mười tấm lụa màu lén lút sang biếu ông. Đến nơi, Bá Cung đuổi hết mọi người ra, chỉ để hai người nói chuyện kín với nhau. Nhưng ông lấy cớ đã già, tai nghễnh ngãng không nghe được gì cả, nói thế nào ông cũng làm như không 26 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Nhà thờ Nguyễn Bá Lân tại xã Cố Đô, huyện Ba Vì (Hà Tây) hiểu và cương quyết không nhận quà đút lót. Bá Cung hậm hực bỏ ra về. Ngay lúc đó ông nói với thuộc hạ thân tín: - Thiên hạ loạn rồi, ta đã ngoài 80 xuân, già rồi, chẳng xoay chuyển được tình thế gì đâu. Thôi mau khăn gói về quê. Quyết định của ông như thế là sáng suốt. Như chúng ta đã biết, sau khi Trịnh Sâm mất thì binh lính Tam phủ nổi loạn, phế Trịnh Cán, truất Đặng Thị Huệ xuống thứ dân, sau Huệ uống thuốc độc chết. Loạn kiêu binh ngày càng ghê gớm, phò Trịnh Tông lên ngôi, coi trăm quan như cỏ rác, chỉ riêng Nguyễn Bá Lân là chúng không đụng đến và xem như “Phật sống”. Trở về quê nhà, nhưng tâm hồn ông không thảnh thơi để vui thú điền viên. Vận nước như thế thì một bậc túc nho như ông có thể nào nhắm mắt làm ngơ? Nhưng tuổi già sức yếu, ông mất ngày mồng 6/4 năm Ất Tî (1785) được triều đình truy tặng Thái tể, tước quận công và gia phong làm Thần thành hoàng “Linh phù tri thần” của năm xã trong tổng nhà. Cuộc đời của Nguyễn Bá Lân còn để lại cho 27 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM đời sau nhiều bài học quý báu từ hành động đến ứng xử. Nhà sử học Trần Quốc Vượng đã phát biểu tại Hội thảo khoa học về danh nhân Nguyễn Bá Lân - do Viện Sử học Việt Nam, Ủy ban Nhân dân huyện Ba Vì, Ủy ban Nhân dân xã Cố Đô, Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây phối hợp tổ chức ngày 23/11/1995: “Nguyễn Bá Lân cũng như Lê Quý Đôn và một số bậc đại nho khác là những nhà nho không suy đồi ở một thời đại mà nhìn chung Nho giáo đã suy đồi. Ông, do đó là một nhân vật quý hiếm: văn giỏi võ, võ giỏi văn. Tôi dốt cả văn lẫn võ chỉ dám ngưỡng mộ ông trên hai lãnh vực đó mà không dám bình phẩm ông một câu gì về Ngã ba Hạc phú hay võ nghiệp bình trị thiên hạ của ông. Cái tôi tâm phục nhất nơi ông là đức trung thực, là tính cương trực của ông, là khí thế không sợ cường quyền của ông, là tính không a dua, không bè phái, chất phác, thẳng thắng, mạnh dạn, dám nói của ông. Thế mới là Ngự sử đức tài xứng kỳ chức”(1). (1) Danh nhân văn hóa Nguyễn Bá Lân - Con người và sự nghiệp- Viện sử học, Ủy ban Nhân dân huyện Ba Vì chủ biên, TT UNESCO thông tin tư liệu và văn hóa Việt Nam cùng Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây XB 1995). 28 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Nguyễn Thiếp Tùy thời co duỗi âu là phải Trong cõi anh hùng sinh lắm kẻ Mỗi người một chí phải đâu chung Người ra, đức cả, công lừng thế Kẻ ẩn, danh cao, đạo thuận lòng Mục Dã mảnh nhung gây đại nghiệp Lô Sơn chồi liễu nổi thanh phong Tùy thời co duỗi âu là phải Đạo ấy ta đây rắp gắng công (Hoàng Xuân Hãn dịch) Bài thơ Sĩ các hữu chí có thể cho thấy đôi điều về lẽ xuất xử của một nhân vật lừng lẫy ở vùng đất “Ngàn Hống chon von. Biển Ngư bát ngát. Thịnh trị gặp thời. Nhân tài đua phát”. Đó là La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp. Cái lẽ co (ở ẩn), duỗi (ra), học giả Hoàng Xuân Hãn bình: “La Sơn phu tử cũng giống như Khổng phu tử, không phải cho điều ẩn dật là mục đích của mình. Gặp thời vô đạo thì ẩn. Nếu đời có đạo thì bằng ra thi thố chí mình”. Khi vừa đầy tháng, Nguyễn Thiếp được cha mẹ đặt tên húy là Minh, lớn lên đặt tự là Quang Thiếp, Khải Xuyên, Hạn Ham, rồi đặt hiệu là Lạp Phong cư sĩ, Bùi Phong cư sĩ, Cuồng Ẩn, Điên Ẩn, Hạnh Am. Người đời kính trọng mà đặt hiệu là Hầu Lục Niên, Lục Niên tiên sinh, Hạnh Am tiên sinh, La Giang phu tử, La Sơn phu tử, La Sơn tiên sinh, Nguyệt Ao tiên sinh. Ông sinh vào giờ thìn, ngày 25 tháng 8 năm 1723 tại làng Mật Thôn, xã Nguyệt 29 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Ao, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, trấn Nghệ An. Sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu đậm đến tài năng, nhân cách sau này của Nguyễn Thiếp. Cha ông là Quản lĩnh Nguyễn Quang Trạch, mẹ thuộc dòng họ Nguyễn Huy - một dòng họ lớn, có tiếng về văn học lúc bấy giờ. Cha mẹ ông đã dạy con rất nghiêm. Thuở nhỏ ông học với chú là tiến sĩ Nguyễn Hành. Năm 21 tuổi, Nguyễn Thiếp đi thi lần đầu đậu hương giải. Đề thi của năm đó như sau: “Ông Thuấn làm anh tốt mà lại có em là Tượng ác, như thế hóa ra câu “Gốc nhà là ở mình” là sai chăng? Quản Trọng, Gia Cát trị một nước giỏi, thế mà không làm nên cơ nghiệp lớn, thế hóa ra câu “Gốc thiên hạ là ở xứ mình” là sai chăng?” v.v... Dù thi đậu nhưng bị chứng “cuồng dị” như trong Hạnh Am ký, Nguyễn Thiếp cho biết: “Ta tự bỏ mình, từ biệt việc đời mà ẩn náu trong núi rừng, kẻo sợ bệnh không thôi hẳn. Bởi vậy, ta bỏ hết học khoa cử, chuyên đọc các sách Tính lý, Tứ thư, Ngũ kinh đại toàn. Vui cùng rừng hồ. Núi sông miền Nam Châu, dấu chân có gần khắp. Thường hay chơi ở núi Thiên Nhận ở Nam Hà. Ở phía đông núi Lạp Đính, ở phía tây núi Bạch Tượng, khoảng giữa thấy một núi con, tên gọi Bùi Phong. Có suối ẩn kín, không hổ báo quấy nhiễu. Núi trồng cây được, đất hoang dễ cày, cỏ tốt dễ giữ. Ta mừng thay”. Tác phẩm Kinh thi giải âm của Nguyễn Thiếp (1723-1804) 30 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Trong năm tháng ở ẩn, Nguyễn Thiếp chuyên tâm nghiên cứu những sách Tính lý, Tứ thư, Ngũ kinh đại toàn để thành người “khuyến giáo” của đạo Khổng. Mới ngoài 20, cuộc đời còn thênh thang rộng mở, do đó, nghe lời khuyên của thầy là Nguyễn Nghiễm, năm 1748 ông lại đi thi Hội và trúng Tam trường. Lúc này, tuy mới 26 tuổi, nhưng ông đã trở thành người đủ uy tín để khiến người khác nghe theo lời khuyên của mình. Đó là lần ông đi ra Bắc gặp hai cha con gia đình nọ ở ẩn trên núi Chung Sơn, cứ lục đục nhau mãi. Nguyễn Thiếp thay lời người con viết bài thơ tạ từ cha, nhờ vậy cha con họ lại hòa thuận. Lại có ông Huyền Võ say đắm vì rượu, ông đã làm bài thơ tặng và khuyên người này mỗi lần thèm rượu thì đọc bài thơ để tự răn: “Rượu uống làm chi/ Rượu làm loạn tính/ Mê tâm rượu nọc/ Sáng trở nên mờ/ Trong khiến nên đục/ Cửa nhà tan hoang/ Người thành thô tục...”. Nhờ vậy mà ông Huyền Võ bỏ được rượu. Dù không muốn thi đậu để ra làm quan, chỉ muốn ở ẩn, nhưng rồi vì nhà nghèo phải nuôi mẹ nuôi con nên ông đành “phải lụy thân” vào chốn “hư danh”. Năm 1756, ông làm Huấn đạo Anh Đô (Nghệ An), rồi sau làm tri huyện Thanh Giang. Làm quan chỉ là một kế sinh nhai đó thôi “Ai hay túng phải làm quan” như ông từng tự trào. Trong khi đó, tâm trí ông chỉ mơ ước: Thế sự chi bằng học với cày, Lụt thì ta nghỉ, ráo ra tay. Học đừng vụn vặt nên suy rộng, Sách không cần nhiều, cốt tình hay. Do đó, năm 1768, ông xin từ quan và ở ẩn trên núi Thiên Nhận. Trong Hạnh Am ký, ông cho biết: “Lúc ấy ta cùng hai ba học trò lớn bé, giảng dạy các việc cũ của tiên nho. Dạo xem cảnh núi, ngồi dãi bóng trăng. Tìm suối, xem trăng, thần tứ sảng khoái”. Ông tự xưng là Điên Ẩn hoặc Cuồng Ẩn, trong nhà thờ Chu Hi - một bậc Tống nho có công truyền bá Đạo Khổng. Mỗi sáng, ông đốt hương trầm, ngồi thẳng lưng, không tựa, khách đến thì mời cơm rau. Ngoài việc dạy học, ông còn để tâm nghiên cứu về lý số, phong thủy - mà thiên hạ đồn rằng ông đang tu tiên và gần đắc đạo! Tiếng tăm của ông vang lừng khắp nơi. Quan hiệp trấn Bùi Huy Bích ca ngợi: 31 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Ngẫm trông am núi cách vời Núi cao rừng thẳm một trời mây xanh Muốn lên thăm hỏi sự tình Lại e một nỗi ông khinh người phàm Năm 1780, chúa Trịnh Sâm viết tờ truyền “Đại đức chiếu đến Nguyễn Thiếp, rất có học hạnh, nay cho mời về kinh...”. Về để làm gì? Lúc bấy giờ, chính sự đang nhiễu nhương, các thế lực phong kiến tranh giành ngôi báu khiến nhân dân cơ cực trăm phần. Từ năm 1527 họ Mạc chiếm ngôi nhà Lê. Sau đó, họ Trịnh phá tan nhà Mạc, lập nghiệp chúa Trịnh rồi đánh nhau với họ Nguyễn. Vua Lê chỉ là hư vị. Các thế lực đang xâu xé đẫm máu như thế, làm sao một người chỉ muốn ở ẩn như Nguyễn Thiếp có thể yên tâm “phò vua giúp nước”? Nhưng lệnh chúa đã triệu, bất đắc dĩ Nguyễn Thiếp phải về kinh. Tại đây ông đã khuyên chúa Trịnh không nên đoạt quyền vua Lê. Thái độ cứng cỏi này đã khiến các sĩ phu phải kính phục. Tình hình lúc này đã báo hiệu có sự thay đổi. Và cuộc khởi nghĩa như bão táp của anh em Tây Sơn đã xảy ra. Năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Thăng Long diệt Trịnh và tôn phò vua Lê. Nghe tiếng tăm của Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ đã mời ông ra cộng tác. Vị anh hùng áo vải Tây Sơn đã sai người mang thư và lễ vật đến núi Thiên Nhận để đón ông về. Trong thư viết: “Đã lâu nghe tiếng Phu tử đức tuổi đều cao, kinh luân có sẵn. Chính tôi muốn tới nhà gặp mặt, để thỏa lòng tìm kiếm khó nhọc. Nhưng vì kẻ sinh phương Tây, người lánh cõi Bắc, chẳng phải như Sằn Dã, Nam Dương gần gụi, có thể nghe tiếng sấm mùa xuân mà đánh thức Ngọa Long. Vậy đặc sai một hai đình thần đem vật mọn đến (vàng năm nén, lụa màu hai tấm) gọi là để tỏ lòng thành thô sơ. May chi, Phu tử không lấy thế làm lạ, bỏ cái nhã thú lâng lâng, nghĩ tới lòng tôi chân thành đau đáu, mà bỏ cày, quẳng câu, cáng đáng sự nghiệp Y, Khương. Không những riêng tôi may mắn mà dân mười hai Thừa tuyên ở Bắc cũng được may. Xin chớ làm tôi thất vọng, mong Phu tử lượng thứ cho”. Lúc này, Nguyễn Thiếp đã 60 xuân, ông từ chối lời mời của Nguyễn 32 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Huệ. Không nản lòng, Nguyễn Huệ tiếp tục khẩn khoản mời ông ra cộng tác đến lần thứ ba. Tháng tư năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, lại viết thư mời ông. Hai người đã gặp nhau tại đại bản doanh của Nguyễn Huệ đóng tại núi Nghĩa Liệt, gần bến Phù Thạch. Theo Gia phổ mà học giả Hoàng Xuân Hãn đã viết trong tác phẩm La Thư của vua Quang Trung gởi Nguyễn Thiếp Sơn phu tử (NXB Minh Tân, 1952) khi ông đến, Nguyễn Huệ đã trách: - Đã lâu nghe đại danh. Ba lần cho tới mời. Tiên sinh không thèm ra. Ý tiên sinh cho quả nhân là thằng giặc nhỏ, không đủ làm kẻ anh hùng trong thiên hạ chăng? Ông từ tốn đáp: - Hơn hai trăm năm nay, quyền về tay họ Trịnh hung bạo. Vương mới đưa quân ra một lần mà dứt được, lập lại nhà Lê. Với danh nghĩa chính, thì anh hùng ai lại chẳng theo. Nếu giả tiếng nhân nghĩa, nói dối tôn vua để lấy tiếng, thì lại hóa ra một kẻ gian hùng. Nghe lời nói này, Nguyễn Huệ đổi sắc mặt ngồi dịch ra mà tiếp đãi rất trọng. Từ đây, những việc hệ trọng, Nguyễn Huệ đều hỏi ý kiến của Nguyễn Thiếp. Khi chọn vị trí đóng đô ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường (nay thuộc thành phố Vinh) vì nhận thấy “hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng”, Nguyễn Huệ đã xuống chiếu mời ông chọn đất. Do đó, Phượng Hoàng Trung Đô - nơi Nguyễn Huệ đóng quân - đã được xây dựng. Ngay cả trước khi dẫn quân đánh tan quân Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ cũng đến hỏi ý kiến của ông. Ông hiến 33 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM kế “Quân quý thần tốc” và nói “Người Thanh từ xa tới, vào sâu trong đất lạ. Không biết tình hình chủ khách. Chỉ trong mười ngày bị phá tan”. Sự việc đã diễn ra đúng như tiên đoán của ông. Sau khi trừ được thù trong giặc ngoài, trong số những học giả được vua Quang Trung mời ra cộng sự, Nguyễn Thiếp là người được ngài trọng dụng và tin cậy nhất. Đặc biệt, nhà vua đã giao cho ông lo việc tổ chức nền giáo dục mới và ông đã giữ chức Viện trưởng Viện Sùng Chính chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm. Vua Quang Trung rất kính trọng ông, chỉ gọi Tiên sinh, chứ không gọi tên. Trong đặc chiếu viết năm 1791, nhà vua đã viết: “Tiên sinh tuổi đức đều cao, tất cả sĩ phu đều trông theo như trông núi Thái Sơn, sao Bắc Đẩu”. Như chúng ta đã biết, ban đầu, Nguyễn Thiếp chần chừ không muốn cộng tác với nhà Tây Sơn, nhưng về sau đã cảm được sự tri ngộ và thấy chính nghĩa của Tây Sơn nên mới bằng lòng ra cộng tác. Chính những năm tháng này, ông đã có nhiều đóng góp lớn trong việc trị nước. Ông đã khuyên vua muốn trị nước thì trước hết vua phải là người có đức “ấy là gốc vạn sự” và “Từ xưa thánh hiền chưa có ai không bởi sự học mà có đức”. Vua có đức thì cảm hóa được dân, “Việc thiên hạ muốn chuyển vần dễ như trở bàn tay vậy”. Về quan lại thì ông chủ trương không cần nhiều, “Quan càng nhiều dân càng bị quấy nhiễu. Tổ chức nhà nước không nên cồng kềnh, cần chọn những người có phẩm hạnh, có học vấn”. Về nhân tâm, ông khẳng định “Dân là gốc nước, gốc có vững nước mới yên”. Khi dân bị mất mùa thì phải cứu giúp, giảm thuế, khiến dân “mến kẻ có nhân” và có thế lòng dân mới quy phục. Riêng về học pháp ông nhấn mạnh: “Ngọc không chuốt, không thành đồ, người không học không biết đạo. Đạo là những lẽ thường theo để làm người. Kẻ đi học là học điều ấy vậy. Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến bây giờ, chính học lâu ngày mất. Người ta chỉ tranh nhau đua tập việc học từ chương, cầu công lợi và quên bẵng có cái giáo tam cương ngũ thường. Chúa tầm thường, tôi nịnh hót. Quốc phá, gia vong, những tệ kia đều ở đó mà ra. Cúi xin từ rầy, ban hạ chiếu thư cho trường, phủ, huyện, khiến thầy trò các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện thì đi học”. Tư tưởng chính trị của Nguyễn Thiếp đến nay vẫn chưa lỗi thời. Trong thời gian cộng tác với nhà Tây 34 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Sơn, ông đã dịch các sách Tiểu học, Tứ thư và được vua Quang Trung xuống chiếu khen ngợi: “Vậy đặc ban thưởng cỗ tiền một trăm quan, do trấn quan chiểu theo mà cấp, lĩnh để chung hưởng ân tứ. Khi xong công việc bộn bề, trẫm nghỉ ngơi, vui ý đọc sách. Tiên sinh học vấn uyên bác, nên vì trẫm mà phát huy những ý thư, khiến cho bổ ích thêm”. Sau đó, ông còn tiếp tục dịch ba bộ kinh Thi, Thư, Dịch... Việc vua Quang Trung khuyến khích Nguyễn Thiếp dịch sách “Phàm một chữ, một nghĩa, phải gắng cho được mười phân thông rõ, để xứng với thượng chỉ. Chớ có làm lảo thảo cho qua chuyện” đã được người đời sau - cụ thể là học giả Hoàng Xuân Hãn - ghi nhận: Đó là ông vua không phải chỉ thượng võ mà còn là người hiếu học. Ngược lại, với cương vị Viện trưởng Viện Sùng Chính, là người đã tập hợp được nhiều sĩ phu tài giỏi như Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch... để dịch sách thì Nguyễn Thiếp đã góp phần không nhỏ cho chính sách giáo dục tiến bộ dưới triều Tây Sơn. Chiếu của vua Quang Trung khen Nguyễn Thiếp về việc dịch sách Công việc đang tiến hành với nhiều thuận lợi thì vào giờ Dạ Tý (tức khoảng từ 11 đến 12 giờ khuya) ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tý (tức 16/9/1792) vua Quang Trung băng hà. Điều này khiến Nguyễn Thiếp “thảm thiết khôn xiết”. Ông quyết định: “Những lộc ban cho ngày trước, nay cúi đầu xin nộp lại, ngõ hầu tránh khỏi tội ăn không ngồi rồi” và xin quay về ở ẩn. Những tưởng từ đây được vui thú điền viên, mở trường dạy học, nhưng chẳng bao lâu vua Cảnh Thịnh lại mời ông vào Phú Xuân để hỏi việc nước. Rồi nhà Tây Sơn mất vào tay chúa Nguyễn, Nguyễn Ánh mời ông đến gặp tỏ ý trọng đãi nhưng 35 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM ông từ chối. Khi Nguyễn Ánh hỏi: - Ngụy Tây Sơn đã mời Tiên sinh làm thầy, vậy thầy đã dạy họ ra sao? Ông đáp: - Có tám điều trong sách Đại học, có chín đường trong sách Trung dung, người giỏi thì làm được, người không giỏi thì không làm được. Nguyễn Ánh nghe câu nói ấy lấy làm thích thú lắm, trọng đãi Nguyễn Thiếp nồng hậu. Tám điều ở sách Đại học là: Cách vật (xét vật) để trí tri (biết rõ), để thành ý (thật ý), để chính tâm (thẳng lòng), để tu thân (sửa mình), để tề gia (liệu nhà), để trị quốc (trị nước), để bình thiên hạ (yên thiên hạ). Còn chín đường ở sách Trung dung là tu thân (sửa mình), tôn hiền (trọng người hiền), thân thân (yêu bà con), kính đại thần (kính người giúp việc giỏi), thể quần thần (rộng rãi với kẻ giúp việc), tử thứ dân (coi dân như con), lai bách công (đến với thợ thuyền), nhu viễn nhân (tử tế với người xa tới), hoài chư hầu (yêu chư hầu). Câu nói của Nguyễn Thiếp đến nay vẫn là điều mà chúng ta vẫn còn suy ngẫm... Sau khi từ chối cộng tác với Nguyễn Ánh, ông quay về quê nhà và qua đời vào giờ Hợi ngày 25 tháng chạp năm Quý Hợi (đầu năm 1804), thọ 81 xuân. Sau khi mất, Nguyễn Thiếp còn để lại tập thơ Hạnh Am thi cảo gồm trên một trăm bài thơ bằng chữ Hán. Đó là những vần thơ chia sẻ sâu sắc với tình cảnh của dân nghèo, gắn bó với quê hương xứ sở và thể hiện một thái độ sống: Biết tu sửa đức ấy là thánh hiền, Trái bỏ đức ấy là ma quỷ. Phan Huy Chú đã bình phẩm “Thơ ông thanh nhã, thung dung, lý thú, thật là lời của một người có đức”. Cái chết của Nguyễn Thiếp đã gây cho giới sĩ phu và những người hiếu học niềm thương tiếc khôn nguôi. Các học trò đã dựng trước cửa nhà thờ ông tấm hoành phi có chữ Bùi phong cao (Cao như đỉnh núi Bùi). Trong văn tế của Tiến sĩ Trần Bá Lãm có những câu thống thiết: “Chí của Tiên sinh chưa kịp thi hành, Tây 36 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Sơn đã mất. Tiên sinh cũng mất theo. Thực là Tiên sinh không thể không có điều hận, mà mọi người cũng không thể không tiếc cho Tiên sinh. Nếu không thế, với thực học ấy, với danh phong ấy, gặp thời đắc dụng, sự nghiệp há chỉ có thế thôi sao! Thật đáng hận thay!”. Hai mươi năm sau, Tri phủ Đức Thọ là Nguyễn Đồ đã làm bài văn tế ca ngợi công đức Nguyễn Thiếp - dù Nguyễn Thiếp là người đã từng hợp tác với “ngụy” Tây Sơn - lời lẽ chí tình, cảm động: “Ô hô! Từ ngàn xưa ai người không chết, chỉ có tinh thần khí tiết không nát mà thôi... Ai mà không có học, cái học của Tiên sinh dò tới tận gốc nguồn, người đời theo đó làm khuôn. Ai mà chẳng làm thơ, thơ của Tiên sinh vào ra phong nhã, người đời noi đó làm gương... Tài Tiên sinh chấn động trong nước đã lâu... Nghĩa chưa từng quên lãng, cương thường trọng tựa nghìn xưa. Chí chẳng làm quan, phú quý coi khinh như cỏ rác... Tiên sinh nay đã mất, nhưng danh thơm vẫn còn đây... Danh thơm ấy không bao giờ mục...”. Có lẽ cũng nên đánh giá lại quan niệm xuất xử của Nguyễn Thiếp mà trong bài thơ Sĩ các hữu chí ông từng quan niệm: “Tùy thời co duỗi âu là phải”. Đây là câu ông muốn giải thích cho việc ra hợp tác với nhà Tây Sơn của mình mà dư luận đương thời có người khen kẻ chê. Nhưng ý kiến của Tạ Ngọc Liễn trong cuốn Những gương mặt trí thức Việt Nam (NXB Văn hóa Thông tin - 1997) đã nhìn nhận rất đúng về ông như sau: “Hơn nữa, Nguyễn Thiếp đã biết lựa chọn con đường đi đúng Từ đường Nguyễn Thiếp tại Hà Tĩnh 37 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM đắn nhất đối với một trí thức khi đứng trước thời cuộc. Đó là con đường gắn bó cùng dân tộc, nhân dân: con đường hợp tác với một lực lượng chính trị tiến bộ nhất ở thời đại để được cống hiến giúp đời”. Thật vậy, thái độ xuất xử của Nguyễn Thiếp là bản lĩnh của bậc quân tử nên mới có thể tiến thoái thung dung như vậy. Khi dưới thời vua Lê - chúa Trịnh nhiễu nhương không thể thực hiện chủ trương “đức trị” và “nhân chính” thì ông lui về ở ẩn. Chỉ đến khi vua Quang Trung thật sự muốn cầu hiền và có chính sách đào tạo nhân tài theo đúng ý nguyện của mình thì ông mới ra hợp tác. Và chính sự hợp tác này đã tạo nên dấu ấn của Nguyễn Thiếp trong nền giáo dục mới thời Tây Sơn. Có một câu chuyện khiến thấy được phẩm chất của Nguyễn Thiếp. Lúc sinh thời, ông đã từng “thấy vàng không thèm ngoảnh cổ lại nhìn”, từ chối biết bao nhiêu báu vật của triều đình dâng tặng nên khi nằm xuống gia đình rất túng quẫn. Nhà thờ ông rất sơ sài, đến đời Duy Tân có sắc thần ban cho, nhưng tộc trưởng trong họ không có đủ hai đồng bạc để lãnh sắc! Bọn lính đem sắc thần về từ đường Nguyễn Thiếp, vì không được nhận tiền nên chúng ra ruộng xiết cả cái cày của ông tộc trưởng. Oái oăm thay, ông này phải đem cái chuông treo trong nhà thờ đem bán cho người đàn bà giàu có trong làng để chuộc cái cày về! Chi tiết nhỏ này đủ thấy thuở sinh thời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã sống liêm khiết như thế nào. Ôi! Bậc đại trí, đại nhân như ông không phải đời nào cũng có. 38 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Ngô Thì Sĩ Không hổ là bậc danh nho Đất nước ta có những dòng họ mà trải qua nhiều đời, chỉ đeo đuổi một lãnh vực trong hoạt động nghệ thuật hoặc phát về con đường khoa bảng. Ở Nghệ An và Hà Tĩnh, ta có thể kể đến dòng họ Nguyễn ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân; họ Phan Huy ở huyện Thiên Lộc; họ Hồ ở huyện Quỳnh Lưu v.v... Hoặc nổi danh âm nhạc có thể kể đến họ Trần ở làng Vĩnh Kim (Mỹ Tho)... Tinh hoa của những dòng họ này, nghĩ cho cùng cũng là niềm tự hào chung cho mọi con dân trong một đất nước. Ở xã Tả Thanh Oai trấn Nam Sơn (Hà Tây) có dòng họ Ngô Thì cũng là một dòng họ nổi danh về văn học. Dù chưa tạo nên một trường phái, một khuynh hướng sáng tác trong tiến trình văn học Việt Nam, nhưng các cây bút lỗi lạc của dòng họ này thì thế hệ nào cũng có và để lại nhiều tác phẩm có giá trị lâu dài. Xin được bắt đầu từ Ngô Thì Sĩ. Ngô Thì Sĩ có ông nội là Ngô Thì Trân, cha là Ngô Thì Ức và em là Ngô Thì Đạo đều có tài về văn học. Con của Ngô Thì Sĩ là Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Hương, Ngô Thì Trí... đều là những nhân vật lẫy lừng trong trường văn trận bút. Họ đã lập ra một Ngô gia văn phái (Môn phái văn học nhà họ Ngô). Mở đầu cho văn phái này là Ngô Thì Trân (1679-1760) và tác giả cuối cùng là Ngô Thì Giai (1818-1881), tổng cộng gồm 16 tác giả. (Tuy nhiên, theo Từ điển văn học thì văn phái này bắt đầu từ Ngô Thì Ức (1709-1936) - như vậy văn phái này thực sự chỉ có 15 tác giả). Nhắc đến Ngô gia văn phái, chúng ta lập tức nghĩ đến một dòng họ giàu truyền thống trước tác 39 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM văn học, nhiều người đỗ đạt... Khi viết tựa cho bộ Ngô gia văn phái, danh sĩ Phan Huy Ích (con rể của Ngô Thì Sĩ) đã viết: “Nay nhờ phúc ấm của tổ tiên mà dòng văn đời đời tiếp nối, tinh hoa đầy rẫy trong văn từ, mà bản lĩnh vẫn quy vào đạo lý. Rõ ràng là phong cách của một đại gia, vẻ đẹp, mùi thơm của mọi người không phải riêng một nhà mình. Toàn tập có hơn hai mươi quyển, gần đây đã truyền bá khắp trong nước, ai cũng ca tụng”. Ngô Thì Sĩ sinh ngày 15/10/1726 hiệu Ngọ Phong, tự Thế Lộc. Năm lên 10 tuổi thì cha qua đời, Ngô Thì Sĩ được ông nội nuôi ăn học. Do quan niệm nếu con trai chỉ đậu Hương cống thì cháu mình phải đỗ đạt cao hơn nữa, do đó, Ngô Thì Sĩ được ông nội dạy rất nghiêm khắc. Lớn lên, Ngô Thì Sĩ được nhập môn với các bậc danh nho như Nghiêm Bá Đĩnh, Nhữ Đình Toản. Năm 18 tuổi, ông thi đậu Giải nguyên khoa thi Hương, nhưng hỏng khoa thi Hội. Tương truyền rằng, ông có tư tưởng phóng khoáng được thể hiện qua bút pháp mới lạ, không phù hợp với lối văn trong thi cử nên thường bị đánh rớt. Trong tác phẩm Vũ Trung tùy bút, Phạm Đình Hổ có kể lại những điều bất công trong thi cử thời bấy giờ: “Đầu đời Cảnh Hưng, có ông Ngô Thì Sĩ nổi tiếng là bậc hay chữ, bị bọn quan đương thời ghen ghét, khi đến thi Hội, các khảo quan dò xét, hễ quyển nào giọng văn hơi giống nhau thì bảo: “Quyển này hẳn là khẩu khí Ngô Thì Sĩ”, thế là họ hết sức bới móc đánh hỏng đi. Chúa Trịnh Doanh biết có thói lệ ấy, nên khi thi cử xong rồi, truyền đem quyển hỏng của Ngô Thì Sĩ ra duyệt lại. Các khảo quan bấy giờ nhiều người bị truất phạt, nhưng vẫn không cấm được cái tệ ấy”. Dù vậy, Ngô Thì Sĩ vẫn không nhụt chí, ông vẫn quyết tâm đeo đuổi con đường khoa bảng. Mãi đến năm 1766 - lúc 40 tuổi - ông mới đậu Hoàng giáp. Phạm Đình Hổ có Tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô Thì Sĩ (1726-1780) 40 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ kể một chi tiết khá thú vị: “Khoa năm Bính Tuất (1766) Ngô công bị bệnh tả, vào thi trường đệ tứ, cố làm qua loa cho xong quyển. Khảo quan chấm quyển, bảo: “Quyển này kim văn thì luyện đạt lắm, đáng cho văn Hội nguyên, nhưng văn khí hơi yếu, không phải giọng văn Ngô Thì Sĩ”. Chấm đến quyển ông Nguyễn Bá Dương lại bảo nhau: “Quyển này văn khí mạnh mẽ khác thường, giống giọng văn Ngô Thì Sĩ, nhưng kim văn lại kém, Thì Sĩ tất không làm như thế”. Vì họ hồ đồ, không biết định quyển nào là văn Ngô Thì Sĩ mà đánh hỏng, nên Thì Sĩ mới chiếm Hội nguyên!”. Nghe ra khá nực cười cho các quan chấm thi thời ấy. Có lẽ, cũng nên đọc lại bài thơ Sáng sớm tới trường thi của Ngô Thì Sĩ để thấy được nỗi nhục nhằn của học trò thế kỷ XVIII lúc lai kinh ứng thí: “Cất bước từ khi chửa sáng trời/ Mũi thở như lùa gió, mồ hôi vã ra như mưa, cũng không dám dừng chân nghỉ/ Đầu phơi dưới nắng gay gắt như đổ lửa, đến chấy cũng phải chết/ Chân dính bùn chừng như cỏ có thể mọc trên đó/ Mặc cho đàn muỗi bu lại trên môi/ Mặc cho hàng vạn con kiến bò trong bụng/Bạn cũ không nhìn ra bộ dạng mới của mình/ Đứng bên cạnh hỏi tên họ là gì!”. Suốt 13 năm ròng đi thi nhưng đều bị đánh hỏng, bởi vậy gia đình ông rất nghèo, nhờ đó khiến ông có được Bài văn trách ma nghèo tuyệt hay! Ngô Thì Sĩ 40 xuân mới nên danh phận, thế cũng đã may. Trong khi đó, cha ông nản chí trong khoa cử, lui về sống ẩn dật. Còn ông nội mãi đến năm 73 tuổi mới đậu khoa Hành từ, được bổ chức đứng đầu chính sự ở một huyện! Dù đậu muộn màng, nhưng từ đây, con đường hoạn lộ của Ngô Thì Sĩ tương đối thuận lợi. Năm 1767 ông được bổ chức Hiến sát Thanh Hoa (tức Thanh Hóa ngày nay). Trong bài ký viết ở công đường Ty hiến sát - cơ quan trông coi về việc tư pháp, xét xử - ông đã viết để răn người và tự răn mình: “Đây là nhà làm việc chứ không phải để ngắm cảnh. Những kẻ bước lên nhà này, hoặc quan hoặc lại phải nhớ rằng được no ấm đều nhờ ơn nước, bổng lộc là máu mỡ của dân. Non sông gấm vóc nhìn ngắm suốt ngày ắt phải nhớ đây là mảnh đất thành trì của vua ta, phải thận trọng giữ gìn cho vững chắc. Thấy kẻ mặt gầy áo rách, vì cớ nào đó mà đến đây ắt phải nghĩ đó là con dân vua ta, phải giảng giải vỗ về, để họ được an cư lập nghiệp. Làm cho phong tục được tốt đẹp, 41 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM khiến cho có nơi nghe hỏi mà không có kẻ vu cáo, giấy tờ sổ sách không phiền hà, hình phạt ít dùng đến... Còn nếu như dung túng bọn cường hào, lừa gạt kẻ mồ côi gái góa, khéo dùng từ để thắt buộc khi xử án, giỏi ăn hối lộ để làm giàu, chẳng để tâm đến cái gốc của nước, chỗ dựa của dân, túi tham vơ vét, đầy rồi bỏ đi, để lại tiếng xấu làm tủi hổ non sông, những kẻ như thế thực là con mọt lớn của nước nhà...”. Trong đời làm quan, Ngô Thì Sĩ đã làm đúng điều tự răn như thế. Người vợ của ông cũng không tham tiền đút lót mà làm hại đến thanh danh của chồng. Năm 1768 gặp kỳ thi Hương có sĩ tử đến nhờ cậy đút lót chồng, bà cự tuyệt nghiêm khắc: - Tôi lẽ nào vì chút lợi nhỏ xíu mà hại đến tiết tháo thanh liêm của chồng tôi! Ngoài ra những việc kiện tụng, nài xin, bà đều không nghe ai cầu cạnh. Năm 1770, Ngô Thì Sĩ được giao làm Tham chính Nghệ An. Khi coi thi do có lầm lẫn - nhưng chủ yếu do bè phái dèm pha, ganh ghét - nên ông bị triều đình cách chức. Trở về làm dân, ông đóng cửa viết sách, xem lợi danh trên đời này là phù vân: “Phú quý cũng nồng mà cũng nhạt”. Năm 1774, chúa Trịnh đi tuần phương Nam, biết ông bị oan nên mới có ý cất nhắc. Qua năm sau ông được triệu vào Kinh làm hiệu lý Viện Hàn lâm kiêm hiệu chính quốc sử. Ít lâu sau ông được thăng chức Thiêm đô Ngự sử, nhân đó, ông có điều trần bốn việc: “Xin định rõ phép khảo xét các quan. Xin sửa sang luật lệ kiện tụng. Xin truy tôn các bậc tiên nho. Xin sửa lại thể thức làm văn”. Ông lại điều trần về việc binh, việc dân, chúa đều khen và làm theo. Ít lâu sau, ông được bổ làm Đốc trấn Lạng Sơn. Đây cũng là dịp thử thách tài năng và bản lĩnh của Ngô Thì Sĩ. Lúc bấy giờ, hạt Lạng Sơn đang đói vì mất mùa, dân chúng xiêu tán bỏ đi nơi khác, người chết đói đầy đường. Khi đến, ông đã tìm cách cấp cứu, rồi chiêu dụ dân lưu tán về khẩn ruộng hoang, tự mình đứng ra đôn đốc việc cày bừa. Có thể thấy được quan điểm của ông qua bản điều trần về việc này, những điểm chính là: cường hào ác bá chiếm ruộng đất thì nay bị thu thuế với mức thuế thu ruộng công. Ruộng đất bỏ hoang thì giao cho hào mục địa phương chiêu dụ dân về cày cấy, nếu không thì sung vào ruộng công và mộ 42 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ dân nơi khác đến canh tác. Nhờ vậy, dân lưu tán vì đói, vì việc quan nặng nề lần lượt kéo về. Không những thế, với người nông dân cày cấy trên đất của mình, ông đã nghĩ đến lúc thời chiến họ sẽ là người lính cầm vũ khí chiến đấu. Ông viết: “Đó là phép giấu binh lính trong phép “tỉnh điền” của nhà Chu, gửi quân lệnh vào trong nội chính nước Tề ngày xưa. Tích trữ nhiều và phòng ngừa đầy đủ, binh khí có sẵn để đề phòng những sự bất ngờ, nước giàu thì quân mạnh, gốc vững thì nước được yên”. Năm đó được mùa lớn, trộm giặc tiêu tan, trong hạt lại yên ổn “lúa chín rộ, trên đồng dưới lũng lúa rủ vàng, trong ấp ngoài thôn vựa cót đầy ắp”, ai ai cũng khen quan Đốc Ngô Thì Sĩ. Khi việc tuần phòng được nhàn rỗi, ông đích thân đi xem xét, hỏi han dân tình, tìm hiểu phong tục và ngao du sơn thủy. Có thể nói không chỗ nào mà ông không đặt chân đến. Những chốn thanh u, hiểm trở đều được ông đến đề thơ, ngâm vịnh. Chính ông là người đặt tên cho động Nhị Thanh như ông cho biết: “Động sao gọi là Nhị Thanh? Người làng Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tự hiệu là Nhị Thanh, đứng ra sửa sang, nên vì thế mà thành” và nó đã trở thành một điểm du lịch lý tưởng đến ngày nay. Những năm tháng ở Lạng Bài thơ của Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Du tại Động Tam Thanh (Lạng Sơn) 43 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Sơn theo lời Giáng chỉ: “Ở lâu trong đài sảnh, nên biết sự khó nhọc của dân. Hãy vì nước vỗ về nuôi dưỡng dân điêu linh, chớ ngại chốn biên cảnh xa xôi mà từ chối”, Ngô Thì Sĩ đã vâng mệnh và làm tròn nhiệm vụ được giao. Ông đã ở đây cho đến lúc qua đời, năm 1780. Đánh giá về ông, Phan Huy Chú ghi nhận: “Ông học vấn sâu rộng, văn chương hùng vĩ, làm rạng rỡ cho tông phái nhà Nho, là một đại gia ở Nam Châu (tức vùng Sơn Nam, huyện Thanh Oai, thuộc Sơn Nam Thượng). Tuy ông không được làm quan to nhưng đức trạch về thi thư của ông để lại đời sau được nhờ vẫn chưa hết”. Thật vậy, Ngô Thì Sĩ đã đóng góp ở nhiều mặt “mà không hổ là bậc danh nho”. Trước hết, ông là một thi sĩ, là một nhân vật quan trọng trong Ngô gia văn phái. Các sáng tác của ông được tập hợp trong các tập Anh ngôn thi tập, Anh ngôn phú tập, Ngọ phong văn tập, Khuê ai lục... đề cập đến nhiều vấn đề trong xã hội với cảm xúc chân thành. Đáng chú ý nhất là ở tập Khuê ai lục mà các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận định đây là tác phẩm “với tình cảm thống thiết, lời lời gây xúc động sâu sắc, được coi như một nét mới trong thơ trữ tình của Việt Nam thời trung đại” (Tổng tập văn học Việt Nam - tập 10A, trang 163). Lần đầu tiên Ngô Thì Sĩ đã đem tình yêu, hạnh phúc gia đình của chính ông để đưa vào thơ văn với những cảm xúc mãnh liệt, chân thực nhất. Thật đáng ngạc nhiên, những bài thơ khóc vợ của Ngô Thì Sĩ lại có những tứ thơ cực kỳ hiện đại: Yêu nàng muốn vẽ ảnh nàng Giữ lại nhan sắc huy hoàng không phai Nàng cười: - Tóc bạc hãy hay Ngờ đâu nàng vội vén mây về trời Độc đáo nhất vẫn là mười bài tứ tuyệt Mười nhớ; rồi Mười không thương nhớ. Trong đó có bài: Nhớ nàng lại mặc áo nàng Mùi hương phảng phất dịu dàng thơm lâu Đường kim mũi chỉ nàng khâu Vẫn còn đó. Nay người đâu? Nát lòng! 44 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Ngô Thì Sĩ còn là một nhà sử học, ngoài bộ Đại Việt sử ký tiền biên, Đại Việt sử ký tục biên (cùng biên soạn với một số người khác) phải kể đến bộ Việt sử tiêu án, trong đó ông có bình luận xác đáng, bổ sung cho sử cũ - viết từ thời Hồng Bàng đến ngoại thuộc nhà Minh. Ngô Thì Sĩ còn là một nhà chính trị xuất sắc. Qua những bản điều trần nhằm cải cách tình trạng xã hội và qua những việc làm thiết thực, Ngô Thì Sĩ đã làm tròn trách nhiệm của một trí thức khi tham gia chính sự. Thế nhưng khi “tự họa” về mình, ông khiêm tốn viết: “Người là ai? Khăn áo đạo sĩ, vẻ mặt nhà nho. Thân cao một thước sáu, lưng nhỏ ba chét tay, râu thưa tóc mai trụi, má hóp lưỡng quyền gầy. Văn dốt vũ dát, chính sự vụng, đi đứng tuềnh toàng, không một nét đáng ghi lại”. Tác phẩm nổi tiếng của Ngô Thì Sĩ in tại miền Nam (1969) Những kẻ hậu sinh chúng ta, nay vẫn học được ở con người tự nhận là “văn dốt vũ dát” ấy nhiều điều quý báu. Đáng quý nhất, là không đầu hàng số phận, là cái chí tự vượt qua được cái nghèo để đạt mục đích lớn trong đời. Trong Bài văn trách ma nghèo của “ông họ Ngô sống trong cảnh túng thiếu, hằng ngày gạo củi bức bách”, ông viết: “Nhà ta dột nát, ngươi bảo chưa thể sửa chữa; khách khứa, tế tự không chu đáo đầy đủ, ngươi bảo chưa thể rộng rãi. Những điều ngươi thỉnh cầu, ta đều nghe theo; ta có mưu tính gì ngươi đều ngáng trở, khiến ta năm nay vì đấu lương mà gãy lưng, một đồng tiền cũng chẳng dính tay. Năm nay được mùa, ấm áp mà vẫn bị đói rét, nông nỗi ấy đều do ngươi làm ra”. Những lời trách này được ma nghèo trả lời thấu đáo, 45 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM mà qua đó chúng ta thấy được nhân sinh quan của Ngô Thì Sĩ. Ông viết: “Tiên sinh lầm rồi! Cứ xem từ thời Hạ, Thương, Chu trở xuống, ở các nơi danh hương hiền phố, các vị khanh tướng có danh tiếng trong thiên hạ, hết thảy đều qua tay tôi điểm hóa trước, sau đó mới luyện đức tốt, thêm trí lực, rồi mới lập nên sự nghiệp phi thường. Thí dụ như Y Doãn trước nấu bếp, Thái Công Vọng làm nghề mổ gia súc, Nịnh Tử chăn trâu, Tô Quý Tử mặc áo cầu rách, đó đều là những tấm gương rõ ràng ở đời trước. Có mười mẫu ruộng chỉ làm được ông lão nông; có nghìn vàng ở chợ chỉ được khen là anh lái buôn giàu. Nhưng một chàng áo vải thường làm nên khanh tướng, thế thì cái nghèo có phụ gì người đời đâu!”. Lời khuyên này thật chí lý thay! Ma nghèo còn nói: “-Giàu vốn làm cho đời sống người ta phong phú, nhưng nghèo há chẳng lại rèn luyện ta nên người đó sao? Tôi nghe nói: lợi nhiều thì trí mờ ám, tiền dễ thì thêm mắc lỗi”. Chính vì ý thức được điều này, nên sau khi đã đạt được chí, ra làm quan ăn lộc nước, Ngô Thì Sĩ không mảy may vì chữ lợi mà làm mờ thanh danh của mình. Ông từng ngao du sơn thủy, đọc sách, viết sử, làm thơ... há chẳng phải là người xem thường chữ lợi đó sao? Xem thường chữ lợi để đạt chí, đạt danh, Ngô Thì Sĩ đã làm được điều đó. Không phải ngẫu nhiên mà danh sĩ Phan Huy Ích đã hết lời ca ngợi gia đình vợ mình - so sánh với gia đình Tô Đông Pha nhà Tống - và viết về bố vợ của mình là Ngô Thì Sĩ “được núi sông hun đúc, thấu hiểu khí bao la của trời đất, nắm được tinh hoa của sách vở, phong cách hào phóng hùng hồn, tinh vi, uyên bác...”. 46 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Trịnh Hoài Đức Sáng cùng nhật nguyệt rạng trời Nam Tương truyền, từ triều vua Minh Mạng (1820-1841) trở về sau này, những quan được bổ nhiệm chức vụ trọng yếu tại Nam kỳ trước lúc lên đường đều tìm đọc tác phẩm Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Bởi lẽ, đây là cuốn địa chí ghi chép chu đáo, đầy đủ nhiều mặt về núi sông, cương giới, tài nguyên, phong tục thành trì, con người ở Gia Định. Không những thế, khi triều đình nhà Nguyễn biên soạn các bộ sách như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam nhất thống chí cũng đều có tham khảo bộ sách của Trịnh Hoài Đức. Ông sinh năm 1765, còn có tên là An, tên tự là Chỉ Tượng Trịnh Hoài Đức (1765-1825) tại thành phố Hồ Chí Minh Sơn, tên hiệu là Cấn Trai. Tổ tiên vốn gốc người Trường Lạc, huyện Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc). Đầu đời nhà Thanh, ông nội là Trịnh Hội thuộc nhóm “bài Mãn Thanh phục Minh” di cư qua 47 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Việt Nam - cư ngụ tại Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay). Lúc Trịnh Hoài Đức mới lên mười thì cha là Trịnh Khánh qua đời. Gặp thời buổi loạn lạc, ông theo mẹ - người phụ nữ Việt - dời vào ở Phiên Trấn (tức Gia Định, phía Bắc Sài Gòn). Tại đây, ông được thụ giáo với bậc thầy xử sĩ Gia Định là Võ Trường Toản tiên sinh. Suốt thời gian đi học, ông tỏ ra có chí và thông minh hơn người, chơi thân và kết bạn với Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh - mà người đời thường gọi là “Gia Định tam gia”. Năm 1788, Trịnh Hoài Đức thi đậu rồi ra làm quan với triều đại Nguyễn Ánh. Dù trải qua nhiều chức vụ khác nhau nhưng lúc nào ông cũng tỏ ra là người thanh liêm, chính trực. Sau khi lên ngôi, tháng 5/1802, Nguyễn Ánh thăng cho ông chức Thượng thư bộ Hộ và giao làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Như vậy sứ bộ này gồm có Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Hoàng Ngọc Uẩn - là sứ bộ đầu tiên của triều Nguyễn đi sứ nhà Thanh. Trong chuyến đi này, họ có nhiệm vụ dâng Quốc thư, cống vật lẫn cả sách ấn của Tây Sơn và đóng gông áp tải bọn hải tặc từng quấy rối vùng biển nước ta. Trong chuyến đi này, Trịnh Hoài Đức đã hoàn thành tập thơ Bắc sứ thi tập, trong đó có 18 bài thơ Nôm liên hoàn - với hơi thơ khỏe khoắn, đằm thắm tình yêu đối với quê hương đất nước. Qua bài XI dưới đây có thể thấy tình cảm của ông đối với đất Việt đã từng cưu mang ông - một người có hai dòng máu Hoa - Việt: Nước nhà xưa có phụ chi ai? Nhắn với bao nhiêu kẻ cõi ngoài. Gắng sức dời non khoan nói tướng, Trải lòng nâng vạc mới rằng trai. Nắng sương chưa đội trời chung một, Sông núi đừng cho đất rẽ hai. Giúp cuộc Võ Thang ra sức đánh, Người coi để tiếng nhắc lâu dài. Làm quan dưới thời Gia Long, Trịnh Hoài Đức có hai lần làm Hiệp tổng trấn Gia Định vào năm 1808 và 1816, vì nhà vua cho rằng “Gia Định là một thành lớn phương Nam lại có việc giao thiệp với lân bang 48 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ rất hệ trọng, cần phải có người giỏi trấn nhiệm mới được”. Năm 1819, Gia Long mất, Minh Mạng nối ngôi. Bấy giờ, có người khuyên nhà vua nên giao việc cho hạ thần, ngồi khoanh tay, không cần làm việc gì, để bắt chước phép trị nước đời xưa. Minh Mạng đem ý kiến này hỏi các quần thần, Trịnh Hoài Đức mạnh dạn tâu rằng: - Đời xưa bảo không làm là không thấy vết tích việc làm mà thôi. Cái lẽ ở đời, không khó nhọc sao được an nhàn, cho nên muốn không làm, thì trước hết phải làm. Ý kiến của ông được Minh Mạng cho là đúng. Lòng yêu quý và tin dùng của Minh Mạng đối với Trịnh Hoài Đức, còn hơn cả thời Gia Long. Trước đây, quan văn chưa có một ai được trao nhất phẩm, nay Minh Mạng trao cho ông với lời dụ: - Hiện nay, ban văn không có ai hơn ngươi, nên cố gắng làm hết chức vụ, để giúp trẫm những điều chưa biết tới, ngươi chớ nên từ chối. Tháng 9 năm 1821 ông được thăng hàm Hiệp biện đại học sĩ, nhận chức Thượng thư bộ Lại kiêm Thượng thư bộ Binh. Cũng trong năm này, ông hộ giá vua Minh Mạng đi Bắc tuần các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa. Dù nhận nhiều nhiệm vụ, nhưng ông vẫn không ngừng để tâm nghiên cứu học thuật. Tháng 3/1822, ông giữ chức Chánh chủ khảo trường thi Hội, đến tháng 9 cùng năm thì ông đã dâng lên vua hai bộ sách là Lịch triều kỷ nguyên và Khang tế lục. Không những giỏi về văn mà Trịnh Hoài Đức còn nhiều ý kiến xác đáng về việc võ. Ông từng khuyên nhà vua: “Nhà nước tuy yên nhưng không nên quên việc chinh chiến”. Và những kế hoạch của ông về tổ chức nhân sự trong quân ngũ đã được Minh Mạng phê đáp: “Sự lý ngươi dâng nói, nay và xưa tuy khác, nhưng việc hay thì cũng nên chọn mà thi hành”. Thật lạ, với cương vị như vậy, nhưng Trịnh Hoài Đức vẫn không có... nhà riêng! Biết được chuyện này, nhà vua đã cấp cho ông 3000 quan tiền và gỗ, gạch ngói để làm nhà! Lúc này ông được kiêm thêm chức Thượng thư bộ Lễ. 49 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Tháng 7/1823, cảm thấy đã sắp hết lứa tuổi 50 “ngũ thập tri thiên mệnh” nên ông dâng biểu xin nghỉ việc, với lý do trong người đang bị chứng bệnh hàn thấp. Còn ở Gia Định, vợ chết chưa chôn, con đang chịu tang và xin về bằng đường biển để thỏa nguyền “cáo chết quay đầu về núi”. Đọc tờ biểu, vua Minh Mạng đầm đìa nước mắt, cấp cho sâm quế để điều trị bệnh, nhưng vẫn không cho về. Sau khi lành bệnh, ông lại dâng biểu xin nghỉ ba tháng để về thăm nhà, vua Minh Mạng đành chấp thuận. Có thể nói, Gia Định là nơi mà Trịnh Hoài Đức dành nhiều tình cảm nhất. Khi quân Tây Sơn đánh vào Gia Định năm 1783, phải chạy qua Cao Miên, ông từng thao thức “Gia Định hương quan nhập mộng hồn” (Quê hương Gia Định nhập vào trong mộng). Và cũng chính trên mảnh đất này, ông là một trong những người sáng lập ra Bình Dương thi xã và nhóm Sơn Hội. Đây là hai trong những thi xã nổi tiếng ở đất Nam Kỳ lục tỉnh. Đặc biệt những thành viên sáng lập đều có chữ Sơn như Chỉ Sơn Trịnh Hoài Đức, Nhữ Sơn Ngô Nhơn Tịnh, Hối Sơn Hoàng Ngọc Uẩn... Những bài thơ của Trịnh Hoài Đức được tập hợp trong tập Cấn Trai thi tập và Bắc sứ thi tập, trong đó ông miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên, con người cần cù lao động với cảm xúc nồng nàn, đằm thắm và “Có lẽ lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam xuất hiện hình ảnh, sinh hoạt của đất nước Chân Lạp với vẻ đẹp của Biển Hồ, Đế Thiên, Đế Thích, với cảnh người dân Khơme đánh trống đua thuyền rước nước. Tác giả còn nói đến tình thân như một nhà của hai dân tộc Việt - Miên. Tình cảm gia đình của ông cũng rất sâu nặng, nhưng chưa bao giờ vì những tình cảm ấy mà ông quên nhiệm vụ” (Từ điển văn học, tập II, trang 444). Nhưng đóng góp lớn nhất của Trịnh Hoài Đức là bộ Gia Định thành thông chí - tác phẩm biên khảo này đã nâng ông lên tầm vóc của một nhà văn hóa Việt Nam, một nhà địa phương chí có tầm cỡ trong văn hóa Việt Nam. Trịnh Hoài Đức đã viết tác phẩm này vào thời điểm nào? Theo Đại Nam thực lục chánh biên, đệ nhị kỷ, quyển III có chép vào tháng 5/1820 dưới đời vua Minh Mạng: “Trẫm nghĩ, đời trước các đấng đế vương trị vì, đều có sử sách ghi chép việc hành chánh để lưu truyền đời sau... Trẫm thích xem cổ điển, noi chí tiền nhơn, muốn rộng việc tìm cũ 50 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ tích xưa, để giao phó cho sử quan biên chép. Nhưng vì sau cơn binh cách, sách vở vương phủ không còn bao nhiêu; nay chỉ trông cậy vào các tư gia uẩn súc văn chương, hoặc giả còn có biên chép lại. Vậy truyền rao quan dân trong kinh ngoài quân, nhà nào có ghi chép Tiên triều cổ điển, bất câu tường lược, hoặc đưa vào nguyên bản dâng lên, hoặc cho quan mượn chép lại đều có khen thưởng”. Vâng theo chiếu chỉ này, Trịnh Hoài Đức đã dâng bộ Gia Định thành thông chí (3 quyển) và Minh bột di ngự văn thảo thư, được nhà vua khen ngợi và ban thưởng vàng bạc. Như vậy, căn cứ vào văn bản với những câu như “Thần v.v...” thì biết ông vâng lệnh triều đình mà biên soạn, hoặc cách xưng vua Gia Long là Thế tổ Cao hoàng đế - theo tập quán viết sử của Trung Quốc và Việt Nam thì tuyệt nhiên không có lệ lấy “tôn hiệu” xưng các đế vương đương triều - do đó, ta tạm kết luận biết sách được biên soạn vào năm đầu triều Minh Mạng. Sách này chia thành 6 phần: Tinh dạ chí, Sơn xuyên chí, Phong tục chí, Cương vực chí, Sản vật chí và Thành trì chí. Từ năm 1863, học giả G. Aubaret đã đem tác phẩm này dịch ra tiếng Pháp và cho xuất bản tại Paris. Đây là tài liệu quý báu cho bất cứ ai muốn nghiên cứu lịch sử, địa lý đất Nam kỳ thuở xưa. Chẳng hạn, trong Gia Định thành thông chí có một đoạn Trịnh Hoài Đức viết về chợ Tân Cảnh (tục danh Chợ Quán): “Cách phía nam Trấn hơn 6 dặm rưỡi, phố chợ đông đúc, thường năm đến ngày Tết người ta thường bày các trò chơi vân xa, đu tiên, thực là một chợ rất lớn. Ngày trước, cứ đến cuối năm, giết tù tử tội ở đây. Năm 1770, mùa xuân tháng giêng, ngày 25, lúc đêm khuya vắng người, có một con cọp lớn vào nhà dân ở phía nam chợ, gầm hét vang dậy, mọi người đều kinh hoàng, chạy báo đồn dinh, phái binh đến vây bắt. Người ta triệt hạ nóc nhà, làm hàng rào vây quanh mấy lớp. Nhưng con cọp rất dữ ác, không ai dám gần. Vây được có ba ngày, có thầy sãi viễn phương hiệu Hồng Ân cùng đồ đệ Trí Năng tình nguyện vào bắt cọp. Hồng Ân đấu với cọp hồi lâu, cọp bị côn đánh đau, nhảy núp vào bụi tre. Hồng Ân đuổi tiếp, cọp quay đầu đấu nữa. Hồng Ân thối lui, vấp chân ngã vào mương nước, bị cọp vồ trọng thương. Đồ đệ Trí Năng tiếp viện, dùng côn đánh cọp trúng đầu, cọp chết tốt. Thương tích Hồng Ân quá nặng, nên ông cũng chết liền lúc ấy. Người chợ cảm nghĩa nhà sư, chôn cất và dựng tháp ngay tại chỗ, hiện nay đương 51 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM còn”. Ông viết biên khảo mà nay đọc lại, chúng ta lý thú như đọc truyện cổ tích vậy. Không những thế, tác phẩm của Trịnh Hoài Đức giúp cho người đọc hiện nay hiểu được nhiều điều thú vị về đất Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh thuở trước. Thì ra, vào thế kỷ XVIII, vùng đất này vẫn còn có bóng dáng... ông cọp! Hoặc về địa danh Sài Gòn, ông ghi: “Sài Gòn là danh từ để gọi thành phố của người Trung Quốc ăn ở, phát âm giọng Tàu là “Tai-ngôn” hoặc “Tin-gan” v.v... Trong toàn bộ tác phẩm của ông đều là những chi tiết có giá trị lâu bền về mặt nghệ thuật cũng như khảo cứu như thế. Từ tháng 10/1823 sau khi về Gia Định thăm nhà và dưỡng bệnh, qua tháng 3/1824 ông lại trở ra Kinh để nhận nhiệm vụ ở bộ Lại, bộ Lễ như trước. Năm đó, ông được giao chức Tổng tài để biên soạn ngọc phả rồi lãnh thêm công việc ở ty Thương bạc. Nhưng chẳng bao lâu, bệnh cũ tái phát, mùa xuân năm 1825 ông qua đời, thọ 61 xuân. Vua Minh Mạng nghe tin rất lấy làm thương tiếc, bảo các thị thần: - Trịnh Hoài Đức giữ tính thuần thục, có công từ lâu. Buổi đầu trung hưng rất được Tiên đế đặc chỉ bổ dụng, khi đi sứ nhà Thanh, lúc vào Hiệp trấn Gia Định đều làm nên công trạng, nổi tiếng thuần Đình Minh Hương (TP. Hồ Chí Minh) nơi có tượng thờ Trịnh Hoài Đức 52 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ lương. Từ ngày trẫm lên nối ngôi đến nay, vốn biết Đức là người trung hiền, cất lên làm chức lớn, thường bàn chính sự, Đức có nhiều ý kiến rất hay. Vẫn tưởng đãi ngộ dài lâu, gìn giữ mãi ngôi cao lộc cả, chẳng ngờ năm ngoái Đức mắc bệnh nặng, ta tức khắc sai Ngự y điều trị. Gần đây, bệnh lại nặng hơn, ta khiến thị vệ đem nhung quế thuốc y dụng ban cho, nhưng thuốc thang không cứu kịp. Nay Đức chết đi, ta nghe tin mà không ngờ nước mắt rỏ xuống... Sau đó, nhà vua cho nghỉ triều ba ngày, phong tặng Trịnh Hoài Đức hàm Thái bảo, thiếu phó Cần chánh điện đại học sĩ, đặt tên thụy là Văn Khác và cho gấm đỏ, gấm Tống mỗi thứ 4 cây, sa sô nhiễu đoạn mỗi thứ 4 cây, nhiễu lụa 11 cây, tiền 2.500 quan, gạo 500 vuông, dầu 3.000 cân. Ngày đem chôn, vua sai hoàng tử Miên Hoành thay mặt vua ban ngự tửu. Đám tang đến đất Gia Định, tổng trấn Lê Văn Duyệt thân hành đi viếng. Hiện nay, lăng mộ của ông nằm ở vị trí từ Biên Hòa đi theo Quốc lộ I khoảng 100 mét, rẽ trái vào con hẻm lớn của phường Trung Dũng. Ngôi mộ được xây dựng toàn bộ bằng hợp chất với trình độ kỹ thuật cao, theo lối kiến trúc cổ. Trước đây, ngày 24/8/1938 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định số 1889 cho phép trường Viễn Đông Bác cổ liệt hạng lăng mộ là cổ tích xứ Nam Kỳ. Ngày 27/2/1990, Nhà nước ta đã ra quyết định xếp hạng di tích và đầu xuân 1999 các nhà khảo cổ Viện Khoa học xã hội tại TP. Hồ Chí Minh và Sở Văn hóa Thông tin Đồng Nai khảo sát, khôi phục lại Lăng mộ Trịnh Hoài Đức. Được biết, trước khi khôi phục các nhà khảo cổ đã tiến hành 20 lần thí nghiệm để tìm mã số cũ của hợp chất cách đây gần 2 thế kỷ. Sau đó, họ dùng mã số ấy đưa hợp chất mới vào chế tạo và kéo dài thời gian của nó lên gần 100 lần tuổi để bắt kịp với hợp chất cổ, tạo nên sự bền vững mới và lâu dài. Ghi nhận về công đức của nhà văn hóa lớn Trịnh Hoài Đức, có thể dùng những nhận xét trong Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn cũng đủ ý: “Đức là người cẩn thận, phong độ, trầm tĩnh, nghiêm chỉnh, học vấn rộng rãi, nghị luận văn chương thường giữ đại thể”. Riêng tại TP. Hồ Chí Minh, Trịnh Hoài Đức còn được thờ tại đình Minh Hương (380 Trần Hưng Đạo B, phường 11, Q.5) - là một trong những ngôi đình 53 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Bản đồ Gia Định và vùng phụ cận (vẽ ngày 14 tháng Chạp năm Gia Long thứ 14 (1815) xưa được xây dựng từ năm 1797. Đặc biệt trong đình có câu đối do Trịnh Hoài Đức làm từ năm 1821 (bản dịch của Bảo tàng cách mạng TP. Hồ Chí Minh): Sáng cùng nhật nguyệt rạng trời Nam, lân múa, phượng bay thêm gấm vóc; Hương khắp đất trời thơm cõi Việt, rồng chầu hổ phục thịnh văn chương. 54 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Hoàng Diệu Nghìn thuở núi Nùng nêu chính khí Trời mới rạng sáng. Gió lạnh buốt xương. Có tiếng gà gáy vọng lại. Mới từ trong Nam ra nhậm chức, Tổng đốc Hoàng Diệu dường như chưa quen với cái lạnh như xé da, cắt thịt ở xứ Bắc. Tuy thế, ông vẫn giữ thói quen dậy sớm. Sáng nay, ngồi trước án thư, Tổng đốc vẫn cắm cúi nhìn xuống sơ đồ thành Hà Nội. Hơn ai hết, ông biết rằng đây là long mạch của mảnh đất Rồng thiêng. Khu vực này đã có từ xa xưa, đời nhà Lý đã đắp thành Thăng Long trên vị trí thành Đại La của Cao Biền. Các triều vua kế tiếp cũng xây dựng, cho dù quy mô có thay đổi chút ít nhưng vẫn ngay vị trí cũ. Rồi đến năm 1805, vua Gia Long sau khi thắng Tây Sơn cũng cho dựng lại thành. Theo Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ ta biết đại thể thành vuông vức, tường thành xây bằng gạch hộp, chân tường có hai lớp, trên là đá ong, dưới là đá tảng xanh. Thành có 5 cổng, trên nóc cổng có lầu canh gọi là thú lâu. Tại mỗi thú lâu có một cơ binh thay phiên nhau canh gác ngày đêm (1). Nhìn xuống sơ đồ của thành Hà Nội, Hoàng Diệu đã vạch ra những kế hoạch phòng thủ, mặc dù trước ngày ra nhận chức vua Tự Đức có dặn dò: “Liệu lấy mà làm, đừng kinh động, giặc Pháp lấy cớ mà (1) Hiện nay, vị trí của thành cổ Hà Nội đời nhà Nguyễn được xác định, bốn cạnh của bốn tường thành là bốn đường Phan Đình Phùng (bắc), Hùng Vương (tây), Trần Phú (nam), Phùng Hưng (đông). Thuở đó, trong thành chia thành nhiều khu như: khu trung tâm là điện Kính Thiên xây hơi lệch về phía tây (để lấy hướng phong thủy), đi thẳng ra là Đoan Môn, phía sau điện là Hành cung...;phía đông là dinh Tổng đốc, Án sát, Tuần phủ...; khu phía tây là kho tiền, thuốc súng, lương thực...; góc đông bắc có nhà ngục...; cột cờ xây phía ngoài Đoan Môn v.v... Trong phiên họp Hội đồng thành phố ngày 23/7/1893, thực dân Pháp quyết định phá bỏ bốn phía tường thành. Công việc này khởi công từ tháng 2/1894 đến cuối năm 1897 thì hoàn tất. 55 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM gây sự”. Thật vậy, trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” và cứ sau mỗi lần điều đình hay ký được hiệp ước thì ngay lập tức chúng củng cố vị trí vừa chiếm được và tìm cớ để tiếp tục gây chiến... Và hiện tại, từ ngày 2/4/1882, trung tá Hải quân Henri Rivière đã kéo quân viễn chinh ra Hà Nội. Quan Tổng đốc đã dành nhiều tâm lực Hoàng Diệu (1829-1882) tìm hiểu thực chất ý đồ của chúng. Nâng chén trà thơm đang bốc khói nghi ngút, ông chiêu một ngụm nhỏ và thấy ấm lòng. Ngay lúc đó, có viên đội hầu, bước vào kính cẩn: - Bẩm quan lớn, có mấy tên thông ngôn vừa đến trước hành cung nhưng không giở mũ, cúi đầu. Đã thế khi lính canh hỏi lại thì hắn còn trả lời hỗn láo... Ông ngước mặt lên, giọng nói rắn rỏi: - Nọc trước tỉnh đường phạt một trăm roi! Có tiếng “dạ” ran và lập tức lệnh được thi hành. Đó là cá tính của một người Quảng Nam mà trên các bước đường làm quan của ông, Đại Nam chính biên liệt truyện của nhà Nguyễn đã ghi nhận “tính tình cương trực, thanh liêm, lâm sự quyết đoán, có phong độ bậc đại thần”. Sở dĩ, Tổng đốc cứng rắn như thế vì tình thế đang loạn lạc, nhốn nháo, dựa hơi quân cướp nước, bọn Việt gian đã không còn coi phép nước ra gì cả! Còn quân viễn chinh thì ôm súng đi nghênh ngang... Xâu chuỗi lại các sự kiện đã diễn ra thì Hoàng Diệu không thể bình tâm được. Ông nhớ lại, trước đó, ngày 26/10/1872, những tên lái buôn Jean Dupus (Đồ Phổ Nghĩa) và Millot cùng với một người Tàu là Lý 56 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Ngọc Trì từ Hồng Kông dẫn hai pháo hạm, một xà-lúp chạy hơi nước, một thuyền buồm, ba thuyền vận tải chở 7.000 súng trường, 30 đại bác, 15 tấn đạn... vào Hải Phòng để lên Vân Nam (Trung Quốc). Hộ tống cho chuyến đi này có 150 lính Tàu, 25 lính Âu châu. Nhận được tin này, Khâm sai Lê Tuấn chận lại không cho vào. Thế là sự việc rắc rối, nhùng nhằng mãi, rồi lấy cớ này tháng 10/1873, đại úy hải quân Francis Garnier kéo quân từ Sài Gòn ra đánh chiếm lấy thành Hà Nội lần thứ nhất. Còn bây giờ thì sự việc cũng tương tự như thế. Sáng ngày 8/10/1881, hai tên lái buôn Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi Vân Nam, nhưng khi chúng đến gần Lào Cai thì bị quân Cờ Đen tấn công nên không thể tiếp tục đi được nữa. Thế là dù đã chủ trương “Biểu dương lực lượng để Việt Nam sợ mà khuất phục, chứ không cần phải dùng đến võ lực”, nhưng sau khi nghe tin này Thống đốc Nam kỳ là Le Myre de Vilers đổi ý. Y viết thư gửi về Pháp đề xuất ý kiến là phải dùng đến võ lực. Cùng lúc, y viết thư gửi cho triều đình Huế phàn nàn “Đất Bắc kỳ loạn lạc, luật nhà vua không được ai tôn trọng. Người Pháp có giấy thông hành của quan Việt Nam cấp, nhưng đi đến đâu cũng bị quân Cờ Đen cản trở; còn ở Huế thì quân Việt Nam lại thất lễ với quan Khâm sứ Rheinart”, rồi hăm dọa: “Vì thế nước Pháp phải tìm mọi cách để bảo vệ quyền lợi của mình”. Điều mỉa mai là dưới lá thư này, y còn thòng thêm một câu mềm mỏng rằng sự việc diễn ra là ngoài ý muốn chứ “Nước Pháp không hề muốn chiến tranh...”! Vậy là ngày 25/8/1882, từ Sài Gòn, trung tá Tổng chỉ huy Henri Rivière kéo quân ra Bắc. Đến Hà Nội, lực lượng hùng hậu này đã phối hợp hai đại đội thủy quân lục chiến đóng tại Đồn Thủy đang bảo vệ tòa Lãnh sự Pháp - do Thiếu tá Berthe De Villers chỉ huy - để ngang nhiên tỏ thái độ uy hiếp thành Hà Nội. Nhìn xuống sơ đồ, Hoàng Diệu nghiến chặt hàm răng lại. Ngay từ lúc mới nhận chức Tổng đốc Hà Ninh, ông quyết định cho đắp tường thành lên hơn 1,50 mét, có đoạn cao hơn; bồi bề dày từ 0,6 mét đến 0,8 mét và cho khoét thêm nhiều lỗ châu mai để sẵn sàng đánh trả lại sự 57 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM tấn công của giặc! Mặt khác, ông cũng quan tâm ổn định đời sống của dân chúng trong công bằng và trật tự. Ngay ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, ông cho dựng tấm bia Thân cấm khu tệ (Lệnh cấm trừ tệ), nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay, cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quy định cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn như cấm các sĩ quan Pháp vào thành Hà Nội - trừ trường hợp chính thức v.v... Và ông cũng đã viết biểu dâng lên vua Tự Đức đề nghị không chỉ phòng thủ thành Hà Nội mà còn phải bố trí cả vòng ngoài “Kinh lý kỹ hơn, làm mạnh thượng du để bảo vệ trung châu, bọn giặc chỉ sở trường dưới nước chứ đánh nhau trên núi chỉ là sở đoản...”; phối hợp với cả Thống đốc Quan vụ Hoàng Kế Viêm đem quân từ Sơn Tây về Hà Nội để đối phó với tình thế, nhưng vua Tự Đức lại cho rằng đó là việc làm “rối rít, nếu triệt hết binh về trung châu thì lại sợ bọn phỉ đổ ra tụ tập, lại thêm lộ tăm tiếng”. Khi xuống dụ như thế nghĩa là ngài sợ giặc Pháp biết trước ta đang phòng bị (!) Thật ra việc chủ động phòng bị như đề xuất của Hoàng Diệu là tích cực vì nó sẽ khiến cho giặc chùn bước, nhưng vì vua quá ươn hèn nên không ủng hộ! Đã thế, lúc này mới gấp rút phòng bị cũng đã quá trễ, nhưng vua Tự Đức lại chỉ đạo một cách kỳ quặc: “Phàm mọi việc nên chủ yếu xếp khéo, chớ để động hình lộ tích, nếu như có thể cứ im lặng mà làm cho họ thay đổi rút đi càng tốt; còn nếu họ dám hoạnh, việc đến nước cùng thì tùy đó mà làm để giữ trọn trách nhiệm giữ đất”. Bàn về thái độ của vua Tự Đức, sau này nhà sử học Trần Văn Giàu chỉ bình luận ngắn gọn mà chua chát, thâm thúy “Đề phòng đã trễ mà còn không dám phòng bị một cách công nhiên! Sợ Tây nó thấy thì nó cũng lấn, Bá Nghị trước đó cũng lý luận theo kiểu này nên mất đứt Biên Hòa và Nam kỳ!”(1). Nhận được lệnh trên, Hoàng Diệu không lấy gì làm vui. Nhưng lần này, Henri Rivière đã kéo quân ra Bắc kỳ thì tình thế không còn đơn giản nữa rồi. Suy nghĩ như thế, ông ngước nhìn bóng nắng yếu ớt vờn ngoài sân và ngẫm nghĩ về năm tháng đã qua... (1) Chống xâm lăng – Trần Văn Giàu - NXB Xây dựng- Hà Nội - 1956, tr.139 58 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Thuở nhỏ, ông có tên là Kim Tích, nhưng sau đổi thành Hoàng Diệu, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày 10/2 năm Kỷ Sửu (tức ngày 5/3/1829) tại làng Xuân Đài, nay thuộc xã Điện Quang, vùng Gò Nổi, huyện Điện Bàn (Quảng Nam) trong gia đình có truyền thống khoa bảng và yêu nước. Ông thân sinh là Hoàng Văn Cự làm hương chức, qua đời lúc 54 tuổi. Bà thân mẫu Phạm Thị Khuê thọ 88 tuổi, tần tảo làm ruộng và chăn tằm, nuôi dạy con cái. Trong khoa thi Hương tại Thừa Thiên năm 1848, hai anh em ông là Hoàng Kim Giám, 23 tuổi và Hoàng Kim Tích (tức Hoàng Diệu), 20 tuổi cùng đậu Cử nhân. Bấy giờ, chánh chủ khảo - Tham tri bộ Binh Hoàng Tế Mỹ và phó chủ khảo - biện lý bộ Lễ Phan Huy Thực thấy trong văn bài của hai anh em có những điểm giống nhau nên ngờ vực. Được tấu trình, Tự Đức cho tổ chức phúc hạch riêng hai anh em, mỗi người ngồi một phòng ở tả vu và hữu vu điện Cần Chánh... Sau khi xét duyệt, Tự Đức ngự phê: “Sự hành văn là việc chung, cốt để chọn chân tài, anh em đỗ đồng khoa là việc tốt đẹp”. Tiếp tục sôi kinh nấu sử, năm 1853, lúc 25 tuổi Hoàng Diệu đậu Ất khoa Lễ vi - gọi như thế vì thi Hội tổ chức ở bộ Lễ và Ất khoa là Phó bảng. Bước đường làm quan của Hoàng Diệu mở ra từ đây. Ban đầu ông được nhận chức Hàn lâm kiểm thảo, nhưng chỉ một năm sau ông xin về quê chịu tang cha. Sau thời hạn mãn tang, Hoàng Diệu được bổ làm tri phủ ở Tuy Phước, Bình Định. Do nha lại lầm lẫn án từ, ông bị giáng chức làm tri huyện Hương Trà, Thừa Thiên. Năm 1864, xảy ra vụ nổi dậy của Hồng Tập - con hoàng thân Miên Áo, em chú bác của Hồng Nhậm tức vua Tự Đức - cùng với một số người khác. Bại lộ, Hồng Tập và Nguyễn Văn Viện bị án chém. Hoàng Diệu đến nhậm chức tri huyện Hương Trà thay Tôn Thất Thanh bị đổi đi nơi khác, bấy giờ có mặt trong lúc hành quyết ông đã nghe Hồng Tập nói: “- Vì tức giận về hòa nghị mà bị tội, xin chớ ghép vào tội phản nghịch” nên dâng sớ xin nhà vua xét lại bản án. Trước đó, các quan Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ và Biện Vĩnh cũng đã đề nghị tương tự như Hoàng Diệu. Tự Đức giận lắm, ngài phán “vụ án đã được đình thần thẩm xét kỹ” và quyết định giáng chức những người này (1). 59 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Tháng 9 năm Giáp tý (1864), Đặng Huy Trứ đang là Bố chánh Quảng Nam, trong một bản sớ tiến cử người hiền tài trình lên Tự Đức đã viết: “... Ông Nguyễn Quýnh, nguyên Bố chánh Khánh Hòa, người trong hạt của thần, ông Hoàng Diệu, nguyên tri phủ Hương Trà và ông Phan Thanh Nhã, cả ba người này đều Cử nhân, Phó bảng xuất thân, đều là người cương trực, mẫn cán, lúc còn đương chức đương quyền không nhiễu dân, tuy nay mắc lỗi lầm chưa khôi phục, nhưng khi ở địa phương hoặc phủ huyện đều được sở dân tin yêu, khi ra đi mọi người đều nhớ. Những người như vậy không có nhiều. Nếu họ được nhà vua bỏ qua lỗi lầm mà đem dùng thì ở một huyện, họ là tri huyện hiền tài, ở phủ có thể là tri phủ tốt, ở tỉnh có thể giữ chức quan trọng, nghĩ rằng không nên vì một chi tiết mà để một số người suốt đời mai một. Huống chi lúc này, nước nhà đang gặp nhiều việc, lại có người không được dùng vào việc gì thì thật là uổng phí, triều đình đã mất nhiều năm đào tạo, dạy bảo mới được những người như thế. Trong số này, ông Nguyễn Quýnh có thể đảm nhận được chức Bố chánh, Án sát một tỉnh lớn. Các ông Hoàng Diệu, Phan Thanh Nhã có thể đảm đương chức Tri huyện, Tri phủ một nơi quan yếu còn khuyết...”. Nhờ vậy, các ông Nguyễn Quýnh, Phan Thanh Nhã và Hoàng Diệu mới được phục chức (2). Nhờ lời tâu này mà ít lâu sau, Hoàng Diệu được chuyển đi làm tri phủ Lạng Giang, sau làm Án sát Nam Định, rồi Bố chính Bắc Ninh. Đầu năm 1877, ông lại về Huế giữ chức Tham tri bộ Hình, rồi đổi sang bộ Lại và kiêm nhiệm ở Đô sát viện. Những năm tháng này, ông được sử nhà Nguyễn đánh giá: “Người ta đều khen là liêm chính”. Vào năm 1878, ở Quảng Nam xảy ra nạn lụt rất lớn gọi là “nạn lụt bất quá” vì dân chúng cho là “bất quá nước tràn đến sân là cùng”, nên chủ quan không đề phòng... Nhưng rồi nước tràn về rất mạnh, cuốn trôi nhiều nhà cửa, thóc lúa và gia súc, nhiều người chết trôi, đồng ruộng nhiều nơi ngập úng, hư hại. Tiếp đó, nhiều phủ huyện lâm vào cảnh bệnh tật, chết đói, trộm cướp nổi lên như rươi, dân chúng phải (1) Đại Nam thực lục chính biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974. (2) Đặng Huy Trứ, con người và tác phẩm - Đặng Huy Côn chủ biên, nhóm Trà Lĩnh xuất bản năm 1990. 60 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ ăn củ chuối trừ bữa. Tiếp được biểu chương của quan địa phương, Tự Đức quyết định xuất tiền gạo công quỹ để chẩn tế và tìm người giao phó trách nhiệm. Biết Hoàng Diệu là người chính trực, am hiểu dân tình, phong tục đất Quảng Nam nên Tự Đức trao cho ông chức khâm sai đại thần cầm cờ tiết và quyền “tiện nghi hành sự”, lo việc chẩn tế an dân, dẹp trừ trộm cướp. Đi sát tìm hiểu dân tình, sử dụng quyền hành thận trọng, Hoàng Diệu sớm hoàn thành trọng trách, ổn định lại tình hình. Hồi ấy ở làng Giáo Ái có một cường hào tên là Hương Phi, lợi dụng tình hình nhiễu nhương, tổ chức một bọn tay chân chuyên đi cướp bóc dân lành. Bị khống chế, bà con trong vùng sợ y báo thù, không dám tố giác với cửa quan, Hoàng Diệu được tin liền mở cuộc điều tra, nắm bắt các bằng chứng xác thực, rồi bàn với quan tỉnh gọi Hương Phi đến xét hỏi. Thấy vậy, nhiều nạn nhân gửi đơn tới tỉnh đường tố cáo tội ác của tên gian tế. Hoàng Diệu cho niêm yết tội trạng của Hương Phi và lên án trảm quyết. Dân chúng yên tâm, tin tưởng và vui mừng khôn xiết. Từ đó, bọn cướp không còn dám hoành hành nữa. Cũng trong thời gian ấy, Hoàng Diệu phát giác tại các địa phương trong tỉnh có một người đỗ Cử nhân khoa Bính tý (1876) vì đã nhờ người khác làm bài, và hai người mang danh “Tú tài” nhưng không có thực học. Đã thế, nhân nạn đói họ còn đầu cơ tích trữ, mua rẻ bán đắt, vơ vét từng xu của dân nghèo để làm giàu nên dân chúng càng oán ghét. Hoàng Diệu tìm hiểu chu đáo, trực tiếp gặp họ cũng như những nhân sĩ trong vùng, qua đó thẩm tra học vấn. Tất nhiên, sau đó, bọn này đều bị ông truất bằng và phạt tội. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, từ Quảng Nam ra Huế, năm 1878, Hoàng Diệu nhận chức tổng đốc An Tịnh (Nghệ An - Hà Tĩnh). Bấy giờ, tình hình giao thiệp với Pháp đã có nhiều rắc rối, do đó, chỉ vài tháng sau ông lại được triệu về kinh nhậm chức Phó sứ đại diện cho triều đình Huế giao thiệp với các sứ đoàn Ý và Tây Ban Nha. Giữ trọng trách này lúc mới ngoài 40 xuân, thế mới biết Hoàng Diệu được triều đình tín nhiệm biết chừng nào. Cuối năm 1879, Hoàng Diệu lại được 61 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM lãnh hàm Thượng thư bộ Binh, đi trấn nhiệm Hà Ninh (1) với chức vụ Tổng đốc. Trước ngày lên đường ông được về thăm mẹ già đã 80 tuổi. Vào dịp này, Tự Đức ban thưởng sâm, quế, lụa và bạc, Hoàng Diệu dâng biểu tạ ơn, có câu: “Thần bận việc nước nên chưa dám lo việc nhà. Xin hết lòng làm việc có lợi cho nước...” Đang thả tâm hồn trôi về những năm tháng dĩ vãng với nhiều thăng trầm, bỗng có tiếng động mạnh, Tổng đốc Hoàng Diệu giật mình ngoái lại. Viên đội hầu đã quỳ xuống và dâng lên bức tối hậu thư của Henri Rivière gửi cho ông. Trong bóng nắng vẫn yếu ớt, ông bình tâm chăm chú đọc lá thư viết ngày 25/4/1882. Trong thư có những đoạn rất láo xược phê phán việc ông củng cố thành Hà Nội (Anh Minh dịch): “... Từ đây đã trở thành mối nguy của quân đội Pháp nên phải phá thành đi! Bây giờ ngài hãy nghe tôi: lời đề nghị của tôi là một phương tiện để hòa hợp cùng nhau, ngõ hầu sự kình địch hiện thời giữa hai chính phủ không trở nên nghiêm trọng. Tôi đề nghị ngài nộp thành Hà Nội theo những điều kiện sau đây: Trong mục đích ấy, hiện nay và ngày sau, sau khi đọc hết thư này, ngài phải ra lệnh cho binh lính rút ra khỏi thành sau khi bỏ lại súng ống; phải mở các cửa thành và để mệnh lệnh ấy đã được thi hành đúng tám giờ sau, ngài phải đích thân đến hàng phục tôi, cùng với những quan Tuần phủ, Bố chính, Án sát, Đề đốc, Lãnh binh, Phó lãnh binh v.v... Thời hạn ngắn ngủi, nhưng ngài có thể đoán trước những kết quả tai hại của những công việc hiện hành mà không lấy làm kinh ngạc về thời hạn ngắn ngủi ấy. Vậy tám giờ ngày mai, tôi sẽ chờ ngài tại dinh của tôi. Binh lính của tôi sẽ chiếm đóng thành theo sự thỏa thuận của ngài, và nhất thiết không có sự kháng cự nào. Tôi lưu ý đến việc chọn những thể thức mà tôi xét ra là phù hợp - để làm cho thành trì từ đây trở nên vô hại cho quân đội chúng tôi. Song le sau khi đã chọn những thể thức ấy, mất độ ba hôm, tôi cam kết cùng ngài (1) Về địa danh ghép “Hà - Ninh” có những chú thích khác nhau: Trong sách dịch của Viện Hán - Nôm, trong các bài của Nguyễn Văn Tố, Khuê Trai trên báo Tri Tân, ghi là Hà Nội - Ninh Bình; Hoàng Xuân Hãn lại chú thích là Hà Nội - Bắc Ninh. Cũng có sách ghi là Hà Nội - Ninh Hải (Ninh Hải tức Hải Phòng). 62 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ là sẽ trả thành Hà Nội cùng mọi kho tàng, mọi công thự và công sở cùng một phần thành quách lại cho ngài; không có gì thay đổi trong nội bộ của tỉnh, tỉnh vẫn thuộc quyền của Hoàng đế Việt Nam. ... Nhưng nếu trước 8 giờ sáng mai, ngài không thân hành đến sứ quán cùng những viên chức kể trên - để cho thấy ngài chấp thuận những điều kiện của tôi đã đưa ra, thì quân đội tôi sẽ tấn công thành ngay tức khắc”. Lời lẽ hăm dọa láo xược trong tối hậu thư đã khiến Tổng đốc Hoàng Diệu giận run người. Ngay lập tức, ông cho triệu tập bộ tham mưu để bàn biện pháp đối phó. Sau khi bàn bạc, Án sát Tôn Thất Bá cúi đầu xin nhận nhiệm vụ đi thương thuyết cùng giặc. Từ trên thành cao leo dây xuống đất để ra ngoài, tim của Bá đập thình thịch như muốn vọt ra khỏi lồng ngực, do quá sợ hãi nên dù trời rét, mồ hôi của Bá vẫn tuôn ra đầm đìa. Ra khỏi thành, Bá chạy tọt vào dinh Henri Rivière và trốn luôn ở trong đó! Trong khi đó, giặc Pháp đã triển khai lực lượng chiến đấu. Dù chưa đến 8 giờ sáng, nhưng hàng loạt đại bác từ các pháo hạm La Fanfare, La Massue, La Carabine đậu trên sông Hồng đã pháo kích vào thành như mưa trút... Không một chút nao núng, Tổng đốc Hoàng Diệu hiên ngang bước ra chiến tuyến, ông mặc áo dài thâm, đầu chít khăn đen, tay cầm gươm chỉ huy kêu gọi binh lính liều chết mà giữ thành. Đúng như trong Hà thành chính khí ca (1) đã miêu tả khí thế cầm cự của ta: “Văn quan, vũ tướng nghe lời/ Hầm hầm xin quyết một bài tận trung/ Ra oai xuống lệnh vừa xong/ Bỗng nghe ngoài đã ầm ầm pháo ran/ Tiêm cừu nổi giận xung quan/ Quyết rằng chẳng để chi đoàn chó dê/ Lửa phun súng nổ bốn bề/ Khiến loài bạch quỷ hồn lìa phách xiêu/ Bắn ra nghe cũng chết nhiều/ Phố phường trông thấy tiếng reo ầm ầm/ Quan quân đắc chí, bình tâm/ Cửa Đông cửa Bắc vẫn cầm vững binh/ Chém cha cái lũ hôi tanh/ Phen này quét sạch sành sanh mới là!”. (1) Tác phẩm này được sáng tác ngay sau khi Hà Nội thất thủ lần thứ hai (1882) nhằm đề cao chính khí của Hoàng Diệu tuẫn tiết và phê phán nghiêm khắc bọn quan lại hèn nhát chạy trốn giặc và đầu hàng lúc ấy, tương truyền tác giả là Nguyễn Văn Giai, tục danh Ba Giai, nhưng chưa có tài liệu xác minh. 63 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Vũ khí của nghĩa quân kháng chiến chống Pháp đầu thế kỷ XX Trước khí thế cầm cự oanh liệt như trên, Henri Rivière biết không thể dùng hỏa lực để trấn áp tinh thần của đối phương, y khôn ngoan thay đổi chiến thuật. Đúng 10 giờ 45, y lệnh ngưng pháo kích và cho tiến quân theo ba hướng: Cánh quân thứ nhất do đại úy Retrouvey chỉ huy, chúng được trang bị một khẩu đại bác 86 ly 5, làm nhiệm vụ nghi binh, đánh vào cửa thành phía đông; cánh thứ hai do thiếu tá Chanu tổng chỉ huy, chia làm hai đội, đội thứ nhất của đại úy Thesmar được trang bị súng lục, dao găm, thang tre... và đội thứ hai của đại úy Martin cũng được trang bị tương tự nhằm đánh vào cửa thành phía tây nam, vì đây là hướng tấn công chính nên cánh quân này còn được một lực lượng trù bị đi theo, sẵn sàng yểm trợ nếu có tính huống xấu nhất xẩy ra; cánh quân thứ ba do thiếu tá Berthe de Villers chỉ huy tấn công vào cửa thành phía bắc. Ngoài ra còn có thủy quân của thiếu tá Flaschi, đi theo bộ chỉ huy lưu động của Henri Rivière. Như thế giặc Pháp đã tung hết lực lượng của mình đang có mặt tại Hà Nội để tham chiến. Lực lượng quân giặc hùng hậu từng bước áp sát vào mục tiêu đã định trước. 64 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Nhưng chúng tiến quân một cách khó khăn vì trên thành, Tổng đốc Hoàng Diệu đã hạ lệnh cho các đại bác của ta bắn ra dữ dội, từng khối lửa trút xuống, ghìm chân giặc. Cùng lúc, trai tráng Hà Nội xung phong cầm võ khí xung trận, họ nổi lửa đốt hết dãy nhà dọc phố bờ sông để chận bước chân của chúng. Và hầu hết các nhà dân, đình chùa đều nổi trống, gõ mõ, khua chiêng vang dội áp đảo tinh thần của giặc, hỗ trợ cho tinh thần quyết chiến của quân ta trong thành. Nhưng trong lúc ấy tại cửa Đông, Đề đốc Lê Văn Trinh lại hoảng sợ bỏ chạy trước; ở cửa Tây, Lãnh binh Lê Trực cũng khiếp đảm rút lui; còn ở cửa Nam, Lãnh binh Nguyễn Đình Đường cố chống cự nhưng không thể chống chọi lại vũ khí tối tân của giặc; còn Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng thì nhanh chân chạy trốn trong Hành cung... Riêng ở cửa Bắc thì khí thế chiến đấu vẫn hừng hực, vì chính Hoàng Diệu cùng Phó Lãnh binh Hồ Văn Phong đang đích thân chỉ huy. Lợi dụng những cửa thành đã bỏ trống, giặc ùa vào; còn cánh quân thứ hai do thiếu tá Chanu tổng chỉ huy, nhờ có thang tre nên cũng đã leo được vào trong thành. Tình thế hết sức nguy ngập. Tiếng hô xung phong rền trời. Tiếng gươm khua dậy đất. Hai bên đánh trực diện. Người chết như rạ! Kẻ rụng như sung! Đang chỉ huy trận đánh, Tổng đốc Hoàng Diệu càng vững lòng khi nhận được tin từ đình Quảng Văn (nay là khu vực vườn hoa Cửa Nam), hàng ngàn dân quân tự vệ trang bị giáo, mác, gậy gộc... do Cử nhân Nguyễn Đồng chỉ huy đang hùng dũng tiến vào thành để tham gia chiến đấu. Nhưng than ôi! Giữa lúc ấy, đột ngột kho thuốc súng dự trữ trong thành bị nổ tung. Lửa cháy sáng rực cả một góc thành. Ai đã làm nội phản cho giặc? Điều này đã khiến tinh thần quân ta hoang mang tột cùng. Biết không thể kháng cự được nữa, Tổng đốc Hoàng Diệu ra lệnh: - Ai muốn về phụng dưỡng cha già mẹ yếu thì về, ai muốn đánh nữa thì lên Sơn Tây xin vào đội quân của ông Hoàng Kế Viêm! Nói xong, Hoàng Diệu cởi bỏ thắt lưng điều và gươm lệnh, ông đi xăm xăm về phía nam thành. Bấy giờ, giặc Pháp đã hoàn toàn chiếm được những nơi hiểm yếu và củng cố vị trí đang đứng chân. 65 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Khi đến Võ miếu, Hoàng Diệu đã bình tâm viết “Di biểu” (Biểu để lại) như sau (Hoàng Tạo dịch): “Tôi học lực thô sơ, trách nhiệm quá lớn, được ủy thác được giữ cả một phương diện, trong khi ba cõi chưa yên. Một gã thư sinh, vốn chưa quen việc chính trị, mười năm hòa ước, tin sao được lòng dạ kẻ thù. Tôi từ khi vâng mệnh ra đây, đã được ba năm, thường huấn luyện quân sĩ, sửa sang thành trì, không những chỉ để củng cố đất ta, mà còn để ngăn chận loài lang sói nữa. Dè đâu chim còn đang ràng tổ, thú đã vội thay lòng, ngày tháng hai năm nay bỗng thấy tầu Tây tụ tập, đồn quân thêm nhiều, quân nó từ xa đến, lòng dân ta xôn xao. Tôi thiết nghĩ Hà Nội là cổ họng của miền Bắc, mà là đất trọng yếu của nước nhà, nếu một khi mà sụp đổ, thì các tỉnh khác cũng tan rã theo, vì thế tôi lấy làm lo sợ, một mặt kíp tư cho các tỉnh lân cận, một mặt báo tin lên triều đình, xin cho thêm quân để kịp đối phó. Không ngờ mấy lần có chiếu xuống: hoặc trách tôi là nắm bính quyền mà lòe nạt, hoặc kết tội tôi là xử lý chưa được thích nghi; cúi đọc lời phán truyền, thực nghiêm khắc hơn rìu búa! Kẻ dưới quyền thất vọng, khôn tính bước tiến lùi. Vẫn biết rằng chuyên chế kém tài, đâu dám cậy cái nghĩa bậc đại phu ra giữ bờ cõi, chỉ nơm nớp tự mình nhắc nhở, phải kính theo tấm lòng thờ vua của người xưa. Hàng ngày bàn bạc với đôi ba người chức việc, có người bàn nên mở cổng cho chúng tự do ra vào; có người bàn nên rút hết quân đi, để chúng khỏi ngờ vực. Những kế đó dù tôi có thịt nát xương tan, cũng không bao giờ nỡ làm. Việc điều động chưa xong thì chúng liền giở mặt. Ngày mồng 7 tháng này, chúng hạ chiến thư, ngày hôm sau là chúng tiến đánh, quân chúng đông như kiến tụ, súng chúng gầm như sấm vang: ngoài phố lửa cháy tràn lan, trong thành ai nấy táng đởm, tôi vẫn gượng bệnh đốc chiến, đi trước quân lính, bắn chết được hơn trăm tên, giữ thành được nửa ngày. Vì chúng sung sức mà quân ta kiệt hơi rồi, lại thêm tuyệt đường cứu viện, thế lâm đã cùng, quan võ thì sợ giặc chạy trốn từng đàn, quan văn nghe gió cũng chạy theo nốt! Lòng tôi đau như cắt, một tay không thể duy trì. Đã không tài làm tướng, 66 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ than thân sống chết cũng bằng thừa; thành mất cứu không xong, biết chắc chết không hết tội. Rút lui để mà tính toán về sau ư? Mưu trí đã thua Tào Mạt, cắt cổ để cho tắc trách, hành vi đành bắt chước Trương Tuần. Dám rằng trung nghĩa gì đâu, chẳng qua là sự thế phải thế. Trung nguyên mà đắm chìm thành đất giặc, sống cũng sạn mặt với nhân sĩ kinh kỳ, cô trung quyết sống thác với Long thành, thì xin theo bậc tiên thần họ Nguyễn (tức Nguyễn Tri Phương) dưới chín suối. Mấy dòng lệ máu, muôn dặm cửa trời, chỉ mong rực rỡ đôi vầng, xét soi tấm lòng son là đủ!” Viết xong, tưởng chừng như trút cả tâm lực mà trăng trối với hậu thế, Hoàng Diệu đặt Di biểu trước ngãi trống ở Hành cung, rồi ông thắt cổ chết trên một cành cây tại Võ Miếu. Đó là ngày 25/4/1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm ngọ). Trong Hà thành chính khí ca có đoạn viết: “Một cơn gió thảm mưa sầu/ Nấu nung gan sắt, dãi dầu lòng son/ Chữ trung còn chút cỏn con/ Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây/ Trời cao, biển rộng, đất dầy/ Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi/ Thương thay gặp buổi truân nguy/ Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung”. Người Hà Nội vô cùng đau đớn. Ngay hôm sau, nhiều người tụ họp lại, sắm sửa tử tế, rước thi hài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội) và khóc bằng những bài thơ thống thiết như: ...Võ Miếu treo cây dây tiết nghĩa, Nùng sơn đá tạc chữ cương thường. Thành năm Quý Dậu nào ai trách, Chính khí nào ai thẹn tuyết sương. (Viếng Hoàng Diệu) hoặc: ... Sống thừa ngày nọ tâm còn thẹn, Giặc nghịch năm nao sợ rụng rời. Nghìn thuở núi Nùng nêu chính khí, 67 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Anh hùng đến đấy, lệ tuôn rơi. (Sĩ tử Hà thành viếng Hoàng Diệu) Mỉa mai thay, ngay sau khi Hoàng Diệu mất, Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng - lúc giặc tấn công thành giả vờ ốm, trốn chui nhủi trong Hành cung - thì nay quyết... nhịn ăn để chết cho trọn lòng với nước! Nhưng chỉ nhịn được... ba ngày thì Tôn Thất Bá vác xác đến bàn với y là cùng đứng ra nhận lại thành do Pháp giao cho, y cắm mặt xuống đất mà nhận lời! Cái chết oanh liệt của Hoàng Diệu đã khiến mọi người thương tiếc khôn nguôi. Đối với Henri Rivière, y thú nhận “Ông ấy là người bình tĩnh và cương quyết. Nay ông chết là có lợi cho ta lắm. Do sự can đảm và ảnh hưởng của ông, nếu ông còn sống là gây nhiều rắc rối cho ta nhất là nếu ông liên kết với Hoàng Kế Viêm ở thành Sơn Tây”. Thật ra điều mà y lo sợ thì Hoàng Diệu cũng đã nghĩ đến, nhưng rất tiếc kế hoạch này đã không được vua Tự Đức chấp thuận! Tin Pháp thắng trận đã khiến dư luận chính quyền Pháp ở Sài Gòn và chính quốc rất hả hê. Triều đình nhà Nguyễn và vua Tự Đức vẫn ngây thơ tin rằng, nếu ta khôn khéo thương lượng thì giặc sẽ trả lại Đội tự vệ Cứu quốc Hoàng Diệu tại Hà Nội (1946) 68 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ thành Hà Nội như chín năm trước và tình hình sẽ ổn định. Nhưng mọi phán đoán trên đều sai lầm. Đầu năm 1883, sau khi có thêm viện binh, Henri Rivière lập tức tung quân lên đánh chiếm vùng mỏ Hòn Gai, Quảng Yên nhằm khống chế và bảo đảm cho quyền lợi của người Pháp trên vùng biển Bắc kỳ. Thừa thắng xông lên, chúng lại kéo quân từ Hà Nội xuống đánh chiếm Nam Định... Điều mà vua Tự Đức không ngờ là tinh thần của dân quân không ươn hèn như bản thân của ngài, họ đã dũng cảm chiến đấu gìn giữ từng tấc đất của Tổ quốc. Đây cũng là thời điểm mà hai người con trai Hoàng Diệu từ Quảng Nam ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy. Tượng “Hoàng Diệu với Thăng Long” tại Quảng Nam Hiện nay, khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25/1/1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là di tích Lịch sử - Văn hóa của nước nhà. Sau lần trùng tu thứ nhất năm 1982, ngày 3/4/1998 công cuộc trùng tu lần thứ hai khu lăng mộ đã hoàn thành. Khang trang và khiêm tốn giữa một vùng đồng quê văn vật, trên diện tích khuôn viên khoảng 1.600 mét vuông, công trình này mãi mãi tồn tại trong lòng ngưỡng mộ của người dân đất Quảng và của cả nước. Đánh giá về vai trò của Tổng đốc Hoàng Diệu, sau này nhà sử học Đinh Xuân Lâm nhận xét xác đáng: “Tấm lòng “cô trung thề với Long thành” của Hoàng Diệu sở dĩ không có điều kiện thực hiện, nguyên nhân 69 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM chính là do sự hèn nhát, bất lực của triều đình Huế và của vua Tự Đức, không những đã không có biện pháp đối phó thích hợp và kịp thời, mà còn ngăn cản, kìm chế người khác hành động. Kết quả làm cho thành Hà Nội, lẽ ra phải là một căn cứ đề kháng mạnh của Bắc kỳ và cả nước, thế mà đã bị lâm vào một tình thế “cô thành”, để rồi nhanh chóng rơi vào tay giặc. Cái chết lẫm liệt của Hoàng Diệu đã gây xúc động lớn trong sĩ phu, văn thân và nhân dân, văn thơ ca ngợi ông đã phản ánh sự đánh giá cao của những người đương thời. Ngay đối thủ Henri Rivière cũng phải tỏ lòng ngưỡng mộ: “Quan tổng đốc là một người quân tử. Việc ông tự tử đã chứng minh điều đó”. Chính cái chết oanh liệt của Hoàng Diệu đã có tác dụng thúc đầy tức thời phong trào kháng chiến lên một bước, dẫn tới chiến thắng Cầu Giấy lần thứ 2 sau đó (19/5/1883), chỉ huy giặc Henri Rivière đã phải đền tội”(1). Sau này, trong cuộc kháng chiến thần thánh chống giặc Pháp, tên ông được Thành ủy Đảng Cộng sản Đông Dương Hà Nội đặt cho Đội Tự vệ Cứu quốc Hoàng Diệu - làm hạt nhân để tổ chức các lực lượng vũ trang tại các Liên khu kháng chiến trong Mặt trận Hà Nội, sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh toàn quốc kháng chiến. (1) Tạp chí Thế giới mới số ra ngày 16/10/2000. 70 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Kỳ Đồng Việc đời vẩn đục sao đành ngồi trông? Đây là nhân vật rất lạ lùng trong lịch sử cận đại của Việt Nam. Trong 4.577 bức tranh dân gian do Henri Oger sưu tập được và công bố ở Paris thì có đến 5 bức tranh khuyết danh vẽ Kỳ Đồng. Bức tranh vẽ cậu học trò đang ngồi khom mình trước trang sách, bên cạnh là cụ đồ nho nghiêm khắc, phía trên có hàng chữ Nôm: “Ở xã Ngọc Đình, tỉnh Thái Bình, có một nhà nho nghèo đã lọt qua trường hai, trường ba, sau sinh được một bé trai, đang lên sáu, thiên tư đỉnh ngộ, miệng lưỡi lanh lợi. Một hôm khi nghe cha đọc sách thì cậu bé vừa nghe vừa đồ theo. Đột Kỳ Đồng (1875-1929) nhiên cậu bé chất vấn nghĩa lý, người cha không trả lời được bèn đi hỏi các quan huyện, tỉnh. Nhưng cũng không ai giải đáp được nên mới đặt tên cậu là “Kỳ Đồng”. Thật ra, Kỳ Đồng tên thật là Nguyễn Văn Cẩm, sinh ngày 8/10/1875 ở làng Ngọc Đình, tổng Hà Lý, huyện Duyên Hà, phủ Tiên Hưng (nay xã Văn Cẩm, huyện Hưng Hà - Thái Bình), con trai của cụ Đồ Tî đã đậu nhị trường, sống bằng nghề dạy học và đan rổ rá. 71 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Thuở nhỏ, Kỳ Đồng học với cha. Một hôm có người khách lại chơi, thấy cậu bé lên năm đang hý hoáy tập viết chữ bèn nói đùa: - Tam tài: thiên, địa, nhân; Khách vừa dứt thì Kỳ Đồng ứng khẩu đọc: - Tứ thi: phong, nhã, tụng. Ai nấy đều kinh ngạc. Năm lên mười tuổi, có kỳ thi hạch ở tỉnh Hưng Yên, thấy Kỳ Đồng còn bé mà cũng đi thi, quan huyện ra câu đối: - Đứng giữa làng Trung Lập; Không ngờ cậu bé đối lại ngay: - Dấy trước phủ Tiên Hưng. Mọi người đều lấy làm lạ, ra thêm một câu đối nữa để thử tài: - Khổng môn truyền đạo chư hiền: Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử; Vế ra có cái khó và lắt léo như thế nhưng không để mọi người đợi lâu, Kỳ Đồng đối luôn: - Chu thất khai cơ liệt thánh: Thái Vương, Vương Quý, Văn Vương. Ai nấy đều lấy làm kinh dị, liền làm sớ dâng về kinh. Vua Tự Đức đã sắc ban cho hai chữ “Kỳ Đồng” và phê vào tờ sớ: “Tên này còn ít tuổi chưa thể lục dụng được, nay giao cho tỉnh thần Hưng Yên dạy bảo, dành để khi lớn lên, nhà nước sẽ dùng”. Trong Đại Nam thực lục của Sử quán triều Nguyễn có ghi lại thời vua Tự Đức xuống dụ: “Cấp cho trẻ lạ Nguyễn Văn Cẩm mỗi tháng 3 quan tiền. một phương gạo, quần áo mỗi thứ hai cái, mỗi năm cho một lần”. Từ đó tiếng tăm và huyền thoại Kỳ Đồng càng lan xa. Ứng với lời “Sấm truyền” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Bao giờ Nhân Lý có đình Trạm Chay mở chợ Ngọc Đình có vua Bao giờ Tiền Hải có chùa Trạm Chay mở chợ thì vua ra đời 72 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Mọi người đều tin rằng đó là Kỳ Đồng, người được trời phái xuống để cứu nước thoát giặc ngoại xâm. Các nhà yêu nước đã lợi dụng những câu sấm truyền đó và hiện tượng Kỳ Đồng - nhằm tạo sự tin tưởng trong nhân dân về thắng lợi của cuộc kháng chiến đang âm ỉ diễn ra... Thế là ngày 27/3/1887, một đám rước đưa Kỳ Đồng từ chùa Vị Xuyên về làm lễ tại Phủ Giày, huyện Vụ Bản (Nam Định) đã diễn ra. Đám rước này thu hút hàng trăm người đi theo. Họ khăn áo chỉnh tề, giương cờ hiệu Thái bình thần tướng, trang bị gươm đao đều bằng gỗ. Kỳ Đồng ngồi chễm chệ trên kiệu, tay cầm cờ trông rất oai phong lẫm liệt! Đoàn rước kiệu đi trang nghiêm, thỉnh thoảng phải dừng lại để mọi người nhìn rõ mặt cậu bé 12 tuổi mà họ tin rằng có “chân mạng”đế vương. Những lúc đó, Kỳ Đồng lại đọc thơ, đại loại như bài Dòng Xích Bích - nói về tổng Lý Hà có con sông Tẻ chạy qua làng Ngọc Đình (Phạm Môn dịch): Dòng Xích Bích nước trôi lênh láng Nào ai sang Phú Lãng cùng anh Thơ rằng: phong cảnh trong xanh Xanh mây in bóng chốn lành thánh sinh Sinh ra trời đất thái bình Việc đời vẩn đục sao đành ngồi trông? Trông ra thiên địa hổ rồng Rồng đang lợi thế non sông - dân tình Tình người sông Nhỉ kết sinh Sinh ra thánh chủ tự giành chiến công hoặc những câu như: Trời còn muốn mở nền thịnh trị Không tớ thì ai giúp nước nhà? Mọi người vỗ tay hoan nghênh ầm ĩ. Với một đoàn người được vũ trang như thế, nhưng bọn cho săn tai mắt của giặc lại cho là Kỳ Đồng có ý muốn đánh chiếm thành Nam Định và các phủ huyện. Tin này lập tức được cấp báo về cho công sứ Ninh Bình - Nam Định. Viên công 73 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM sứ Brière đã báo cáo lên Tổng công sứ Trung - Bắc kỳ như sau: “Kỳ Đồng chỉ là một đứa trẻ và bản thân nó chẳng có gì nguy hiểm. Phong trào tiếng là có tính chất tôn giáo, do Kỳ Đồng hay những người khác thúc đẩy Kỳ Đồng gây ra cũng có thể trở thành một phong trào chính trị, dẫn đến những hậu quả tai hại”. Và không muốn ra mặt đàn áp sợ làm kinh động trong dân chúng, nên công sứ Brière chỉ sai lính bắn thị uy và giải tán đám đông. Về sự kiện này trong dân gian có tranh vẽ với lời ghi chú khác hẳn nhưng có chủ đích: “Kỳ Đồng rất nghịch ngợm, trò chơi của cậu thường là cùng 5, 6 trẻ em nghèo, mỗi cậu cầm một tờ giấy đi dạo trong phố, đánh trống, hét to rằng: “Khởi nghĩa của Kỳ Đồng muốn hạ thành Nam Định”, bị quan tỉnh thu hồi, hạ ngục”. Để ngăn ngừa với hậu họa có thể xẩy ra, chính phủ Pháp đã đối phó bằng cách cấp học bổng cho Kỳ Đồng du học mười năm ở Algérie. Đây cũng là chính sách chung mà thực dân cũng đã áp dụng cho con em các lãnh tụ kháng chiến, chúng quỷ quyệt thi hành một đường lối giáo dục mới để “tẩy não” tinh thần phản kháng của thế hệ kế tiếp. Rời khỏi đất nước năm 13 tuổi, Kỳ Đồng sẽ là người Việt Nam đầu tiên đậu Tú tài Pháp về khoa học lẫn văn chương. Năm 1886, Kỳ Đồng về cố hương.Trên chuyến tàu trở về nước, ông làm quen với bác sĩ Gillard. Hai người cùng bàn bạc kế hoạch cộng tác mở đồn điền ở miền ngược. Theo yêu cầu của Kỳ Đồng, bác sĩ Gillard đã viết thư cho Thống sứ Bắc kỳ. Bức thư ngày 21/7/1897 nêu rõ: “Nhằm giúp cho tôi dễ dàng trong việc tăng dân cư vùng Yên Thế, nhất là vùng đất tôi đã làm đơn xin lập đồn điền, tôi tha thiết xin ngài Thống sứ những điều sau đây: 1. Thông báo cho các ông công sứ ở các tỉnh Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình và Hải Dương biết Kỳ Đồng được phép mộ dân An Nam đi khẩn điền ở Yên Thế. Thông báo cho dân bốn tỉnh trên biết ai muốn theo Kỳ Đồng thì đến gặp ông ta tại nhà riêng để thỏa thuận. 2. Có những biện pháp thích đáng nhất nhằm đảm bảo hành trình cho người An Nam đi lên Yên Thế, một khi ngày giờ đã được 74 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ xác định”. Lời đề nghị này nhanh chóng được chấp thuận, nó thuận lợi vì ngày 26/7 năm đó, chính phủ Pháp đã bắt vua Thành Thái ký dụ bãi bỏ Nha Kinh lược Bắc kỳ để chuyển mọi quyền hành sang Thống sứ Pháp ở Bắc kỳ. Nhờ có uy tín của mình ngày trước, nên chỉ trong một thời gian ngắn, Kỳ Đồng đã mộ được hàng ngàn nông dân lên khai khẩn đồn điền ở Chợ Kỳ. Ngoài ra để khuếch trương thanh thế của phong trào này, ông đã làm bài thơ chữ Hán: Đường lên Yên Thế. Đây là một bài thơ độc đáo và chơi chữ thuần túy Việt Nam: hai chữ cuối của câu trên, nói lái lại tiếp thành hai chữ đầu của câu cuối. Chẳng hạn: Hà sự phân vân thuyết lộ ky, Kî lô tương cố một tương tùy. Tuy tường thiên nhận, do ngu nạn, Nan ngụ cô sơn tác trụ trì. (Bước đi ngàn dặm xa vời vợi - Cưỡi lừa ngoảnh lại không thấy người đi theo - Dầu bay cao đến nghìn dặm, vẫn phải lo quốc nạn Khó lòng lấy chốn núi non heo hút này làm nơi trụ trì). Bài thơ này được truyền tụng sâu rộng trong quần chúng. Tháng 8/1897 việc tuyển mộ này đã trở thành một phong trào rộng lớn. Những tên mật thám Pháp dĩ nhiên không thể làm ngơ trước sự kiện này. Chúng trà trộn, cải trang để tìm hiểu thực chất của việc tuyển người. Từ những nguồn thông tin này, Toàn quyền Paul Doumer đã báo cáo về Bộ Thuộc địa: “Trong số 2.500 đến 3.000 người tập trung chung quanh Kỳ Đồng ở Yên Thế, có nhiều người quan lại cũ và nho sĩ hơn là nông dân, những người chưa hề mó tay đến ruộng đất. Đáng lưu ý là có cả chiến sĩ của phong trào Cần Vương mang theo lương thực, gia dụng và dụng cụ lao động tình nguyện đi khai phá đồn điền”. Trong khi đó, lúc trực tiếp đôn đốc việc khẩn hoang thì Kỳ Đồng lại động viên họ... bằng thơ! Có lúc ông cao hứng đọc bài Niềm vui vỡ đồn điền (Nguyễn Tiến Đoàn dịch): 75 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Phương đoài ứng triệu giáng sinh Chín tầng rồng hiện trời xanh tuyệt trần Phá nương thánh xuống cõi trần Mãnh sĩ mưu thần như nước như non Trần công một tấm lòng son Đào Tiềm đi ẩn cũng toan xuất hành Chu Công, Y Doãn triều thần Ngõ hầu trở lại tinh thần Đường Ngu Thái bình thiên hạ vui ca Đông Tây yên ổn nước nhà thành công Đầu tháng 9/1897 công việc của Kỳ Đồng tạm ổn. Ông đã lập được năm đồn điền bát ngát ở Yên Thế và khéo léo xây dựng thành những làng pháo đài, tuy bề ngoài vẫn như làng xóm bình thường. Hầm hào phòng thủ đã được triển khai. Tổ chức và sinh hoạt được thực hiện theo một số quy định nghiêm khắc, có nghĩa quân bí mật canh gác, kiểm tra người lạ mặt, tập dượt cứu hỏa, phổ biến mật hiệu báo động v.v... Đáng lưu ý là Kỳ Đồng đã ban hành 5 điều quy định, trong đó có những câu “khó hiểu” như: “Vào rừng đốn cây, khi gặp người cũng đang đốn cây thì phải có thái độ kính trọng (?), ai gây khó khăn cho họ sẽ bị xử phạt nghiêm khắc (?)”. Đây là tầm nhìn chiến lược của Kỳ Đồng và chủ đích của ông khi mộ dân lên đây. Hơn ai hết, ông biết rằng khi lên Yên Thế dứt khoát sẽ gặp những nghĩa binh của anh hùng Đề Thám đang lén lút hoạt động. Và sự thật ông cũng tìm cách liên lạc với ngọn cờ Cần Vương mà Đề Thám đang nắm giữ một cách kiên cường và dũng cảm. Qua sự móc nối của bà Ba Cẩn - vợ ba Đề Thám, Kỳ Đồng đã nhiều lần giúp đỡ lương thực, tiền bạc cho nghĩa quân Hùm Thiêng Yên Thế. Không những thế, ông còn khuyến khích các dân phu gia nhập lực lượng kháng chiến. Chính nhờ sự hậu thuẫn tích cực và có hiệu quả này mà Đề Thám tiếp tục chiến đấu một cách ngoan cường. Việc làm tày trời của Kỳ Đồng đã không qua cái mũi thính hơi của lũ chó săn mật thám Pháp. 76 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Ngày 21/9/1897, chúng đã phát hiện những thuộc hạ của Kỳ Đồng đang khẩn trương dỡ những kiện hàng. Mặc dù bó lại bằng chiếu, nhưng vẫn lộ ra những nòng súng xếp chéo. Giặc Pháp đã có đủ bằng chứng về căn cứ trá hình tại Chợ Kỳ của Kỳ Đồng. Đây là số vũ khí mà ông dự định tiến hành một cuộc bạo động- nhằm phối hợp cùng các đợt tiến công của nghĩa quân Đề Thám- như trong bài thơ Nổi binh, ông có cho biết: Giờ đây quân dậy khắp tây đông, Ai dám vùng lên lập đại công. Cả nước phen này vui gặp gỡ, Võ văn chính hội giúp non sông. Lệnh truyền nhanh chóng qua binh trạm, Vận nước vần xoay lướt gió đồng. Tình thế kíp rồi không để lỡ, Rồng nằm vươn dậy lập kỳ công. (Nguyễn Tiến Đoàn dịch) Thi hành lệnh bắt khẩn cấp của Toàn quyền Paul Doumer, tên Péroz- chỉ huy đạo binh Yên Thế- đã bí mật bắt Kỳ Đồng vào lúc giữa khuya ngày 22/9/1897. Ông mắng xối xả vào mặt hắn: - Thiếu tá Péroz! Tôi e rằng ngài đã bị cuốn vào một việc làm bẩn thỉu! Chúng nhanh chóng đưa Kỳ Đồng đến Phủ Lạng Thương và tại đó có chiếc tàu thủy Querné đang đợi để bí mật đưa ông về Hải Phòng. Sau đó, chúng lại đưa ông vào Sài Gòn ngay lập tức. Căn cứ vào nguồn tư liệu về Kỳ Đồng ở Kho lưu trữ Aix-en-Provence (Pháp), nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Quang cho biết thêm những thông tin mới: “Sự đề phòng này là có cơ sở, vì khi nghe tin Kỳ Đồng bị bắt và đem đi một cách bí mật vội vã, trong dân gian các tỉnh Bắc kỳ lan truyền nhanh chóng nhiều “chuyện lạ” về Kỳ Đồng, thể hiện sự ngưỡng mộ người thủ lĩnh “bất tử” cũng như sự bất bình của dân chúng trước kiểu bắt người lén lút của “chính phủ bảo hộ” chẳng khác nào một vụ bắt cóc. 77 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Trong khoảng tháng 10/1897, điệp viên các vùng phụ cận Hà Nội, liên tiếp báo về những tin đồn xôn xao dư luận. Ngày 15/10 điệp viên ở Thanh Oai và Chương Mỹ cho biết: “Dân An Nam ở nhiều làng nói rằng người Pháp sẽ mang Kỳ Đồng về Hà Nội cho dân chúng xem mặt. Ai muốn đi thăm Kỳ Đồng, khi đến cửa ô phải nhận một tấm thẻ, gặp cảnh binh kiểm soát mà không có thẻ sẽ bị bắt giữ và hạ ngục ba tháng. Lại có tin đồn rằng: ngày 28 âm lịch tháng này (23/10/1897) sẽ có một cuộc “thi tài” giữa Kỳ Đồng và người Tây. Nếu người này ném một hòn đá xuống nước mà hòn đá vẫn cứ nổi lềnh bềnh, thì người kia (ý nói Kỳ Đồng) tài hơn: ném một chiếc bong bóng xuống nước, bong bóng lập tức chìm nghỉm”. Cũng ngày, điệp viên ở Vân Đình báo rằng: “Ban đêm tôi ngủ trong quán trọ nghe đồn có cô vợ người bếp lính tập kể rằng Kỳ Đồng bị Tây bắt, nhưng đã được trả về Bắc kỳ. Về đến nơi, Kỳ Đồng dùng phép thuật làm cho tất cả lính tráng đứng đờ người như tượng gỗ trong khi quan công sứ đi duyệt binh. Quan sứ bắt Kỳ Đồng nhốt vào cũi sắt nhưng Kỳ Đồng đã biến mất, sau đó bỗng xuất hiện trước đội pháo binh. Một người lính trông thấy, lên đạn nhắm Kỳ Đồng bóp cò nhưng ông không chết. Ngay sau đó, người ta phát hiện một nửa súng trong kho cũng đã biến mất. Người Tây lại bắt giữ Kỳ Đồng một lần nữa, đem chôn xuống đất nhưng đến khi đào lên Kỳ Đống vẫn sống nhăn! Lại nghe đồn rằng: hồi Kỳ Đồng đi mở đồn điền, có một quan ba đi theo đến bờ sông trưng dụng một chiếc thuyền máy cho Kỳ Đồng qua sông, nhưng ông khước từ thuyền máy và qua sông trên một chiếc dĩa!” Tin của điệp viên ở chợ Canh: “Người ta kháo nhau rằng các công sở Hà Nội đều phải đóng cửa cho đến mồng Một âm lịch tháng sau, vì Kỳ Đồng đã dùng phép thuật tắt hết đèn lửa suốt ngày đêm để cho Tây biết tài lạ của mình (Kho lưu trữ ở Aix-GG. 6201)” (1). (1) Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm - GS Nguyễn Phan Quang - NXB Thành phố Hồ Chí Minh - 1993, trang 98 - 99) 78 TẬP 10: CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ Những tin đồn đại loại như thế này khá nhiều, ta còn có thể thấy trước đó, từ năm 1887, khi ông bị bắt đi “du học” thì trong nhân dân đã lưu truyền khá nhiều về huyền thoại Kỳ Đồng. Chẳng hạn, qua những tranh dân gian như tranh với chú thích: “Kỳ Đồng bị hạ ngục, nói năng ngạo nghễ, quan tỉnh đường nghị án, đem Kỳ Đồng ra góc thành mà bắn. Khi phát pháo, cậu bé có phép thuật làm cho ban ngày trở nên tối mịt khiến chẳng thấy đâu mà bắn”; hoặc tranh “Kỳ Đồng phạm tội phản nghịch, quan đầu tỉnh Nam Định cùng với quan công sứ Pháp họp nhau nghị án, bèn đem chôn sống song cậu vẫn sống lại”; hoặc tranh “Kỳ Đồng phạm Kỳ Đồng hiên ngang trước giặc Pháp (tranh dân gian) tội phản nghịch bị đem chôn sống, việc ấy xẩy ra từ lâu. Một đêm, khi trời vừa bừng sáng, chợt thấy cậu bé sồng xộc đi vào tỉnh đường. Quan đầu tỉnh hỏi: “Mày từ đâu đến?” Cậu bé trả lời: “Từ trong mồ đến”. Thấy cậu bé đi một chiếc giày, quan đầu tỉnh bèn ra vế đối: - Đầu che bốn lọng Cậu bé ứng khẩu đáp: - Chân đi một giày” Rõ ràng, Kỳ Đồng là nhân vật cách mạng rất lạ lùng, có thể nói là lạ lùng nhất trong sử cận đại Việt Nam- vì ông đã được thiên hạ ngưỡng mộ như một người của... cõi trên! Tất nhiên tạo nên huyền thoại này là chủ đích của những người kháng chiến. Chính vì thế, ngay sau khi Kỳ Đồng bị bắt thì lập tức đêm 16/12/1897, một vụ biến động lớn đã diễn ra ở Hải Phòng và Hải Dương. Có khoảng từ 150 đến 200 người tiến theo đường Lạch Tray, sông đào Bonnard tiến vào bao vây tòa sứ và một số dinh thự 79