🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Khái Niệm Cơ Bản Về Kinh Tế (Song Ngữ) Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Table of Contents THÔNG TIN EBOOK THỬ THÁCH MỌT SÁCH - 2015 LỜI GIỚI THIỆU PART 1: MICRO ECONOMICS - KINH TẾ VI MÔ 1. Definitions Of Economics 1. CÁC ĐỊNH NGHĨA VỀ KINH TẾ HỌC 2. Economic Specializations 2. CÁC CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ 3. Invisible Hand 3. BÀN TAY VÔ HÌNH 4. Opportunity Cost 4. CHI PHÍ CƠ HỘI 5. Markets: Supply And Demand 5. THỊ TRƯỜNG: CUNG VÀ CẦU 6. Market Equilibrium (Market Clearing) 6. CÂN BẰNG THỊ TRƯỜNG 7. Changes In Demand That Affect Market Equilibrium 7. NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CẦU TÁC ĐỘNG ĐẾN CÂN BẰNG THỊ TRƯỜNG 8. Changes In Supply That Affect Market Equilibrium 8. NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CUNG TÁC ĐỘNG ĐẾN CÂN BẰNG THỊ TRƯỜNG 9. Economists Love Motorbikes 9. CÁC NHÀ KINH TẾ HỌC YÊU THÍCH XE MÁY 10. Markets And Resource Allocation 10. THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ PHÂN BỔ NGUỒN LỰC 11. Markets And Consumer Welfare 11. THỊ TRƯỜNG VÀ PHÚC LỢI NGƯỜI TIỀU DÙNG 12. Markets And Producer Welfare https://thuviensach.vn 12. THỊ TRƯỜNG VÀ PHÚC LỢI NHÀ SẢN XUẤT 13. Social Benefit (SB) 13. LỢI ÍCH XÃ HỘI (SB) 14. Let’s Not Forget The Full Costs 14. ĐỪNG QUÊN KHÁI NIỆM CHI PHÍ TOÀN BỘ 15. Internalizing The Externality 15. "NỘI HÓA" NGOẠI TÁC 16 . Marginal Analysis: Why the farmer should care, and everybody else too 16. PHÂN TÍCH CẬN BIÊN: TẠI SAO TỪ BÁC NÔNG DÂN ĐẾN TẤT CẢ MỌI NGƯỜI ĐỀU PHẢI CHÚ Ý 17. Choosing The Level of Output That Maximizes Profit 17. CHỌN LỰA MỨC SẢN LƯỢNG MANG LẠI LỢI NHUẬN TỐI ĐA 18. Monopolies: How Do They Thrive? 18. ĐỘC QUYỀN PHÁT TRIỂN THỊNH VƯỢNG NHƯ THẾ NÀO? 19 . Regulating Monopoly 19. KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN 20. Uncertainty And Risk 20. RỦI RO VÀ BẤT TRẮC 21. Flying Dangerously 21. HIỂM NGUY TRÊN KHÔNG 22 . Asymmetric Information 22. THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG 23. Signaling 23. PHÁT TÍN HIỆU 24. Screening: Risk Levels Detection 24. SÀNG LỌC: TÌM HIỂU MỨC ĐỘ RỦI RO 25. The Principal-Agent Dilemma 25. VẤN ĐỀ GIỮA NGƯỜI ỦY NHIỆM VÀ NGƯỜI THỪA HÀNH https://thuviensach.vn 26 . Transfer Pricing 26. ĐỊNH GIÁ CHUYỂN GIAO NỘI BỘ 27 . Transfer Pricing: The Reverse Of The Medal 27. CHUYỂN GIAO GIÁ NỘI BỘ: MẶT TRÁI CỦA VẤN ĐỀ 28. Speculation On Car Price 28. XÉT ĐOÁN GIÁ Ô TÔ 29. Economic of gifts 29. KINH TẾ HỌC QUÀ BIẾU 30. Guanxi: A Ties That Bind 30. QUAN HỆ: SỢI DÂY RÀNG BUỘC 31. Home Bound Ticket 31. VÉ VỀ QUÊ 32. Revisiting SARS 32. THĂM LẠI BỆNH SARS 33 . What Is The Meaning of Economic Value? 33. Ý NGHĨA CỦA GIÁ TRỊ KINH TẾ LÀ GÌ? PART II MACRO AND INTERNATIONAL CONOMICS - KINH TẾ VĨ MÔ VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ 34. Measures of Economic Performance: There is More Than Meets The Eye! 34. ĐO LƯỜNG THÀNH QUẢ KINH TẾ: KHÔNG CHỈ LÀ VỪA MẮT! 35. Fiscal Policy 35. CHÍNH SÁCH (THU CHI) NGÂN SÁCH (CÒN GỌI LÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA) 36. Monetary Policy 36. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 37. Inflation 37. LẠM PHÁT 38. Deflation: Good or Bad 38. GIẢM PHÁT: TỐT HAY XẤU 39. To Intervene or Not To Intervene? https://thuviensach.vn 39. CAN THIỆP HAY KHÔNG CAN THIỆP? 40. Nominal vs. Real 40. GIÁ TRỊ DANH NGHĨA SO VỚI GIÁ TRỊ THỰC 41. The Exchange Rate 41. TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI 42. The Real Exchange Rate and Competitiveness 43. The Dance of The Exchange Rate 43. VŨ ĐIỆU CỦA TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI 44. Floating Exchange Rates 44. TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI THẢ NỔI 45. The Appreciation of The Chinese Yuan 45. SỰ TĂNG GIÁ CỦA NHÂN DÂN TỆ (RMB) 46. Exchange Rate and Financial Crisis 46. Ti GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 47. Hong Kong and The Speculative Double Play 47. HỔNG KÔNG VÀ THUẬT ĐẦU CƠ SONG THỦ HỖ BÁC 48. Industrialization Through Protection? 48. CÓ NÊN CÔNG NGHIỆP HÓA DỰA VÀO BẢO HỘ? 49. Industrialization Through Exports 49. CÒNG NGHIỆP HÓA DỰA VÀO XUẤT KHẨU 50. Technology Policy for Growth 50. CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ CHO TĂNG TRƯỞNG 51. Soft Infrastructure 51. HẠ TẦNG MỀM 52. Competitiveness 52. TÍNH CẠNH TRANH 53. Fungibility: A Fact of Life 53. TÍNH BẤT PHÂN ĐỊNH CỦA ĐỒNG TIỀN: MỘT THỰC TẾ 54. FDl and Critical Mass 54. FDI VÀ SỐ ĐÔNG 55. Comparative Performance Measurement https://thuviensach.vn 55. ĐỐI CHIẾU THÀNH QUẢ CHI TIÊU 56. What is Dumping? 56. BÁN PHÁ GIÁ LÀ GÌ? 57. Predatory Dumping 57. BÁN PHÁ GIÁ HỦY DIỆT 58. International Price Discrimination and Dumping 58. SỰ PHÂN BIỆT GIÁ QUỐC TẾ VÀ BÁN PHÁ GIÁ 59. Fair value: Market and Non-market Economies 59. GIÁ TRỊ HỢP LÝ: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ PHI THỊ TRƯỜNG 60. Globalization 60. TOÀN CẦU HÓA 61. Globalization: Winners and Losers 61. TOÀN CẦU HÓA: NGƯỜI THẮNG VÀ KẺ THUA 62. Natural Resources and Economic Development 62. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 63. The Trend of Gold Prices 63. XU HƯỚNG GIÁ VÀNG 64. Foreign Aid 64. VIỆN TRỢ NƯỚC NGOÀI 65. The Rule of 72 65. NGUYÊN TẮC 72 PART III: FINANCE AND TAX - TÀI CHÍNH VÀ THUẾ KHÓA 66. Taxation 66. THUẾ KHÓA 67. Direct Versus Indirect Taxes 67. SO SÁNH THUẾ TRỰC THU VÀ GIÁN THU 68. Economic Versus Accounting Income 68. SO SÁNH THU NHẬP KINH TẾ VÀ THU NHẬP KẾ TOÁN 69. Progressive and Regressive Income Tax 69. THUẾ THU NHẬP LŨY TIẾN VÀ LŨY THOÁI https://thuviensach.vn 70.Equity Versus Efficiency In the Tax System 70. TÍNH CÔNG BẰNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG THUẾ 71. Tax Incentives 71. ƯU ĐÃI THUẾ 72. Taxation of State Owned Enterprises 73. Tax Competition 74. Tax Shifting 74. DỊCH CHUYỂN THUẾ 75. Taxes and Public Goods 75. THUẾ VÀ HÀNG HÓA CÔNG 76. Responsibility of Taxpayer 76. TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐÓNG THUẾ 77. An Introduction to the Financial System 77. GIỚI THIỆU HỆ THỐNG TÀI CHÍNH 78. From Financial Repression to Financial Liberalization 78. TỪ ÁP CHẾ TÀI CHÍNH ĐẾN TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH 79. Credit Rating 79. ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM 80. Information from Financial Institutions 80. THÔNG TIN TỪ CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH 81. Market Efficiency Theory 81. LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ 82. The Efficient Market Hypothesis and Investment 82. ĐẦU TƯ VÀ GIẢ THUYẾT HIỆU QUẢ THỊ TRƯỜNG 83. Is It Possible to Create Value with Debt Financing? 83. LIỆU VIỆC VAY NỢ CÓ TẠO RA GIÁ TRỊ HAY KHÔNG? 84. Owners - Managers: Can Their Interests Be Aligned? 84. CÓ THỂ HÀI HÒA LỢI ÍCH CỦA CHỦ SỞ HỮU VÀ NGƯỜI QUẢN LÝ? 85. Stock Options in the Real World 85. QUYỀN CHỌN MUA CỔ PHIẾU VÀ THỰC TẾ https://thuviensach.vn 86. Fixing the Stock Option Dilemma 86. KHẮC PHỤC TỒN TẠI CỦA QUYỀN CHỌN MUA CỔ PHIẾU 87. Measuring Executive Performance 87. ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ CỦA NHÀ QUẢN LÝ 88. Belief to save 88. NIỀM TIN TIẾT KIỆM 89. Small Savers and Speculative Savers 89. NHỮNG NGƯỜI TIẾT KIỆM NHỎ VÀ TIẾT KIỆM ĐẦU CƠ 90. Formal vs. Informal Savings 90. LOẠI HÌNH TIẾT KIỆM CHÍNH THỨC VÀ KHÔNG CHÍNH THỨC 91. Micro-Credit: It’s A Fiihing-pole 91. TÍN DỤNG VI MÔ: CẦN CÂU 92. Venture Capital Comes to Vietnam 92. VỐN ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ĐẾN VIỆT NAM 93. Econometrics Made Easy 93. KINH TẾ LƯỢNG GIẢN ĐƠN 94. Econometricians and Gender Issue 94. NHÀ KINH TẾ LƯỢNG VÀ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH 95. Using a 2 by 2 Matrix to Pigeonhole a Project 95. SỬ DỤNG MA TRẬN 2X2 ĐỂ PHÂN LOẠI DỰ ÁN 96. Social Capital 96. VỐN XÃ HỘI 97. The 6P's of Marketing Provinces 97. 6 CHỮ P TRONG MARKETING ĐỊA PHƯƠNG 98. Unintended Consequences of Public Policy 98. HỆ QUẢ NGOÀI DỰ TÍNH CỦA CHÍNH SÁCH CÔNG https://thuviensach.vn THÔNG TIN EBOOK Tên Sách: Basic Economic Concepts - Các khái niệm cơ bản về kinh tế (Song ngữ Anh - Việt) Thể loại: Economic Tác Giả: Nhiều tác giả Ebook: Hanhdb, Thanhhaitq - TVE-4U Read Freely - Think Freedom Nhà Xuất bản Tp. Hồ Chí Minh - 2010 https://thuviensach.vn THỬ THÁCH MỌT SÁCH - 2015 Mỗi tuần chỉ cần thanh toán một cuốn, quá dễ dàng để có cả năm đầy ý nghĩa. Là một người đọc chân chính, tôi và bạn phải có trách nhiệm phải khuyến khích và chia sẻ về đam mê văn hóa đọc. Tôi tin tri thức là một trong những cách tốt nhất để rút ngắn khoảng cách giữa người Việt với các dân tộc khác. Thói quen đọc sẽ làm nên một con người trưởng thành, một xã hội có văn hóa, một dân tộc hùng cường. Topic: Thử thách mọt sách Topic: Thể lệ thử thách mọt sách https://thuviensach.vn LỜI GIỚI THIỆU Cuốn sách này chứa đựng một loạt bài viết ngắn giải thích một cách khúc chiết các khái niệm cơ bản về kinh tế học và cung cấp các kiến thức nền tảng về kinh tế thị trường. Các bài viết này do Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright (FETP) biên soạn. Đây là một chương trình hợp tác sau đại học giữa Trường Quản lý Nhà nước Kennedy của Đại học Harvard với Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Những người biên soạn đã chú trọng chọn lọc các khái niệm) các kiến thức cần thiết nhất và trình bày bằng một văn phong ngắn gọn, sinh động, nhiều khi dí dỏm, với những ví dụ gần gũi từ thực tiễn của đời sống kinh tế Việt Nam. Nhờ vậy mà các nội dung thuộc về kinh tế học vốn dĩ vẫn thường khô khan, khó hiểu đã trở nên sáng sủa, nhẹ nhàng, thú vị. Bên cạnh đó, việc thể hiện dưới dạng song ngữ Anh - Việt cũng đem lại một giá trị tăng thêm cho người đọc. Các bài viết này trước đây đã được đăng tải trên tờ Saigon Times Daily (thuộc nhóm thời báo Kinh tế Sài Gòn,) trong các năm từ 2002 đến 2004. Nay vì tính hữu ích của chúng đối với những sinh viên khoa kinh tế nói riêng và đông đảo những người có quan tâm đến kinh tế học nói chung, những người biên soạn đã tập hợp, hiệu đính, sắp xếp lại để làm thành cuốn sách này. Nhân đây, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright đã đồng ý cho xuất bản cuốn sách hữu ích này trong khuôn khổ Tủ sách Kiến thức của Saigon Times Foundation; đồng thời đóng góp toàn bộ tiền tác quyền vào Quỹ Saigon Times Foundation để sử dụng trong các đợt cấp học bổng vẫn được tiến hành liên tục từ nhiều năm qua. Saigon Times Foundation https://thuviensach.vn (Nhóm Thời báo Kinh tế Sài Gòn) https://thuviensach.vn PART 1: MICRO ECONOMICS - KINH TẾ VI MÔ 1. Definitions Of Economics Some version of the traditional definition of economics is found in almost every introductory economics textbook: "Economics is the study of how scarce resources are most efficiently allocated among alternative goals." When an economist refers to "scarce resources," they do not necessarily mean something rare, like diamonds. They mean resources that are not available in unlimited quantity at zero cost. Thus, scarce resources include everything we can think of that might be used in producing any kind of good or service. Economists often classify resources into three types: capital, labor, and land. When an economist refers to an "efficient allocation," she means that the mix of inputs chosen to produce a given quantity of some good or service is the minimum cost mix of inputs. Finally, "alternative goals" simply means that people cannot have unlimited amounts of goods and services, so we have to choose among them. Because of this, economics is sometimes defined as the "study of choice." An excellent definition of economics was provided by the famous British economist John Maynard Keynes: "... economics is a way of thinking..." https://thuviensach.vn This definition reflects the fact that economists work with models that represent judicious simplifications of the real world. The real world is enormously complex, and thinking about all economic interactions at once is impossible. For any given issue, some economic interactions are important and some are not. Judicious simplifications enable economists to focus on the most important elements of an issue. If these definitions of economics are true, then economics is a powerful discipline, indeed. In subsequent articles, we will demonstrate that this is true. 1. CÁC ĐỊNH NGHĨA VỀ KINH TẾ HỌC Trong các sách giáo khoa nhập môn kinh tế học, ta có thể tìm thấy cách định nghĩa truyền thống như sau: "Kinh tế học là môn học nghiên cứu cách phân bổ một cách hiệu quả nhất những nguồn lực khan hiếm cho những mục tiêu phải lựa chọn khác nhau". Khi một nhà kinh tế đề cập đến "các nguồn lực khan hiếm", không nhất thiết đó phải là những gì hiếm có, chẳng hạn như kim cương, mà là những nguồn lực có số lượng hạn chế và có chi phí. Do đó, nguồn lực khan hiếm bao gồm tất cả những gì được sử dụng để sản xuất ra bất kỳ loại hàng hóa và dịch vụ nào. Các nhà kinh tế thường chia nguồn lực làm ba loại: vốn, lao động và đất đai. Khi nói đến sự phân bổ hiệu quả, nhà kinh tế muốn nói về một số lượng định mức hàng hóa và dịch vụ được sản xuất từ một tập hợp các nhập lượng có chi phí thấp nhất. Sau cùng, “các mục tiêu phải lựa chọn khác nhau ” đơn giản là do con người không thể có hàng hóa và dịch vụ với số lượng vô hạn, vì vậy họ https://thuviensach.vn phải chọn thứ này hay thứ khác. Vì vậy, kinh tế học đôi khi còn được xem là "nghiên cứu về sự chọn lựa”. Nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes đã đưa ra một định nghĩa rất xác thực:" .. kinh tế học là một cách tư duy..." Định nghĩa này nói lên một thực tế là các nhà kinh tế sử dụng những mô hình đơn giản hóa đời thực một cách hợp lý. Thực tại rất phức tạp, ta không thể nào xét đến tất cả các mối quan hệ tương tác kinh tế cùng một lúc. Trong một vấn đề nhất định nào đó, những mối tương tác kinh tế này có thể quan trọng, còn những mối tương tác kinh tế khác có thể không. Việc đơn giản hóa một cách hợp lý giúp các nhà kinh tế tập trung vào những yếu tố quan trọng nhất của vấn đề đó. Nếu những định nghĩa kinh tế học trên là đúng, kinh tế học thực sự là một môn học có ảnh hưởng lớn. Trong những bài viết tiếp theo, chúng tôi sẽ chứng minh thực tế này. (Saigon Times Daily ngày 3-6-2002) 2. Economic Specializations Economics is a discipline that covers virtually every area of human activity. When you decide where to buy lunch, when your father decides to save money for his daughter's education, when a company decides to hire more workers, when a worker decides to migrate from the countryside to the city, and when the government decides to let the exchange rate depreciate: each of these is an economic decision. Individual economists often develop interests in specific types of economic decisions, and they become specialists in various fields of economics. The fundamental dichotomy in economic specializations is the division into microeconomics and macroeconomics. https://thuviensach.vn Microeconomics is concerned with the choices made by individual economic agents and with the behavior of prices and quantities in markets for specific goods or services. A consumer, a worker, and a firm are individual economic agents. The market for mangoes is a subject for microeconomics, as is the labor market. International trade is often considered to be a microeconomic field because the tools of microeconomics are used to analyze the choices facing individual countries in world markets. Macroeconomics is concerned with the behavior of the economy at an aggregate level. Important issues that macroeconomists study include economic growth, the rate of inflation, the national unemployment level, and the level of the exchange rate. Most economists specialize more narrowly than just in microeconomics or macroeconomics. Popular fields of study include Economic Development, International Trade, International Finance, Labor Economics, Public Finance, Banking and the Financial Sector, the Economics of Education, Environmental Economics, and Health Economics. Related subjects include Accounting and Financial Analysis, Marketing, and Project Appraisal. Economics students always begin by studying microeconomic principles and macroeconomic principles to establish the foundation for more detailed study of their fields of interest. Accordingly, the next few articles will focus on the basics of micro and macro. With this foundation in place, we will be well-prepared to move on to several particular fields. 2. CÁC CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ Kình tế học là môn học bao quát hầu như mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Mỗi một hoạt động sau đây đều là một quyết định kinh tế: Bạn chọn nơi ăn trưa, người cha tiết kiệm tiền để con gái học đại học, một công https://thuviensach.vn ty thuê thêm công nhân, một lao động di cư từ nông thôn lên thành phố, hay việc chính phủ quyết định giảm giá tỉ giá hối đoái. Cá nhân các nhà kinh tế thường hướng sự quan tâm vào các quyết định kinh tế cụ thể và trở thành những chuyên gia kinh tế thuộc các lĩnh vực khác nhau. Phân nhánh cơ bản trong các chuyên ngành kinh tế là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vi mô chú trọng đến những lựa chọn của mỗi tác nhân kinh tế cùng với động thái về giá và lượng của một mặt hàng hay dịch vụ nào đó trên thị trường. Một người tiêu dùng, một công nhân, một công ty đều là những tác nhân kinh tế đơn lẻ. Thị trường xoài là một chủ đề của kinh tế học vi mô và thị trường lao động cũng vậy. Ngoại thương cũng tương tự vì các công cụ kinh tế học vi mô thường được dùng để phân tích những chọn lựa đối mặt với từng quốc gia trên thị trường thế giới. Kinh tế học vĩ mô xét hành vi của nền kinh tế theo cấp độ tổng gộp. Các nhà kinh tế vĩ mô nghiên cứu về những vấn đề quan trọng như tăng trưởng kinh tế, tỉ lệ lạm phát, mức thất nghiệp quốc gia và tỉ giá. Đa số các nhà kinh tế có chuyên ngành hẹp hơn là kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. Các chuyên ngành phổ biến gồm có Phát triển Kinh tế, Ngoại thương, Tài chính Quốc tế, Kinh tế Lao động, Tài chính Công, Khu vực Tài chính và Ngân hàng, Kinh tế Giáo dục, Kinh tế Môi trường, Kinh tế Y tế. Ngoài ra còn có các môn học liên quan như Kế toán và Phân tích Tài chính, Marketing và Thẩm định Dự án. Các sinh viên học kinh tế luôn bắt đầu với những nguyên lý của kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô nhằm thiết lập nền tảng cho việc học sâu hơn về các lĩnh vực mà họ quan tâm. Chính vì thế, trong những bài viết tiếp theo chúng tối sẽ tập trung vào các nguyên tắc cơ bản của vi mô và vĩ mô. Trên nền tảng đó chúng ta sẽ sẵn sàng để đi sâu vào những lĩnh vực chuyên ngành khác. https://thuviensach.vn (Saigon Times Daily ngày 10-6-2003) 3. Invisible Hand Economists define efficiency in a way different from, say, engineers. An engineer would say that if cook stove A uses less energy to produce die same amount of heat as cook stove B, then cook stove A is more efficient. But the economist would say that the efficient cook stove is the one with the lower cost for a given amount of heat produced. Resources, the term in economics for the goods and services which are used to produce other goods and services, should be directed to those areas where society values them most. Many people in Ho Chi Minh City eat breakfast at small cafes or noodle stands. These people are directing their labor to where it will give them the most value - rather than spending time shopping, cooking and cleaning, they get to work earlier (or sleep a little later) by letting someone else cook breakfast for them. This society values good, inexpensive food that is readily available and resources have flowed into that industry. The sidewalks are crowded with food stalls and vendors. How does this work? It would seem to be more efficient to have market activities planned. Surely human intervention can do better than the chaotic, unrelated activities of buyers and sellers. Ah, but this is the beauty of market economics, and the genius of Adam Smith, who posited that the market is not chaotic at all, but instead is guided by an "invisible hand." As Smith pointed out, it is not the goodness of their hearts that motivates people to sell food on the street. They are motivated by theữ own self interest in having goods and opportunities for themselves and their families. This "invisible hand" is what keeps resources flowing to those activities where they will have the most value, thereby increasing the "wealth of the nation." https://thuviensach.vn 3. BÀN TAY VÔ HÌNH Các nhà kinh tế định nghĩa hiệu quả theo cách khác với những kỹ sư. Nếu bếp lò A tiêu thụ ít năng lượng hơn trong khi cho nhiệt lượng tương đương với bếp lò B, một kỹ sư sẽ coi là bếp lò A hiệu quả hơn. Nhưng nhà kinh tế lại nói bếp lò hiệu quả là bếp tạo ra một lượng nhiệt với một chi phí thấp hơn. Kinh tế học gọi các hàng hóa và dịch vụ được dùng để sản xuất các hàng hóa và dịch vụ khác là nguồn lực, các nguồn lực này cần được hướng đến những khu vực mà ở đó chúng được xã hội đánh giá cao nhất. Nhiều người ở thành phố Hồ chí Minh ăn sáng tại các quán cà phê hay quầy phở. Họ phân bố sức lao động của mình vào chỗ có giá trị nhất cho họ - thay vì tốn thời gian đi chợ, nấu ăn, rửa dọn, họ có thể làm việc sớm hơn (hay ngủ muộn hơn) bằng cách để cho người khác chuẩn bị bữa sáng cho họ. Xã hội ghi nhận giá trị của thức ăn nhanh gọn, ngon với giá vừa phải. Các nguồn lực chảy vào ngành này, vỉa hè tràn ngập các quán ăn. Hệ thống hoạt động như thế nào? Dường như các hoạt động thị trường sẽ hiệu quả hơn nếu được đưa vào kế hoạch. Chắc chắn có con người can thiệp vẫn tốt hơn để các hoạt động của người mua và người bán tự diễn ra một cách hỗn loạn. Nhưng đây chính là nét đẹp của kinh tế học về thị trường và là thiên tài của Adam Smith, người đã nhận thấy thị trường thực ra hoàn toàn không hỗn loạn mà được dẫn dắt bởi một “bàn tay vô hình" Theo Smith thì người ta bán hàng trên phố không phải do động cơ của trái tim hào hiệp, mà là lợi ích trong việc mang lại hàng hóa và cơ hội cho bản thân họ và gia đình. Chính ‘‘bàn tay vô hình " làm cho nguồn lực chảy vào các hoạt động mà ở đó chúng có giá trị cao nhất, từ đó nâng cao “sự giàu mạnh của quốc gia". (Saigon Times Daily ngày 8-12-2002) 4. Opportunity Cost https://thuviensach.vn When an economic choice is made, economists measure the cost of that choice in terms of opportunity cost, which is defined as the value of the best alternative forgone. Self-employment provides an interesting example of opportunity cost. Suppose that you start a software firm. You rent office space, hire programmers, and sell software. Suppose that after one year, all of your direct costs can be listed as follows: Office rent: US$12,000 Salaries : US$24,000 Utilities : US$10,000 Total costs for the year are US$46,000. Also suppose that your software sales were US$48,000. You might be very happy with US$2,000 profit! However, the accounting profit that we just calculated is not the relevant measure of your success. Suppose that you could have worked for an international bank and earned US$8,000. Your forgone opportunity to earn US$8,000 is your opportunity cost. You have earned an economic loss of US$6,000. Another example concerns a university that wanted to expand, and which owned some land in a large city. One university official said that since the university already owned the land, it was "free." In fact, the land was not "free" because it had alternative uses. It could, for example, be sold and the money used to build on cheaper land. Opportunity cost is a useful concept for thinking about government activity. When government subsidizes some industry, the opportunity cost is the value of best alternative use for the money, such as education or health. The next article discusses how a market economy determines prices and ensures that resources flow to the highest-value uses. https://thuviensach.vn 4. CHI PHÍ CƠ HỘI Khi một chọn lựa kinh tế được thực hiện, các nhà kinh tế đo lường chi phí của chọn lựa đó dưới dạng chi phí cơ hội, được định nghĩa là giá trị của chọn lựa thay thế tốt nhất bị bỏ qua. Một ví dụ thú vị về chi phí cơ hội là tự kinh doanh. Bạn muốn thành lập một công ty phần mềm, bạn phải thuê văn phòng, tuyển lập trình viên và sau đó bán phần mềm. Sau một năm, chi phí trực tiếp là: Thuê văn phòng : 12.000 đô-la Mỹ Lương : 24.000 đô-la Các chi phí tiện ích : 10.000 đô-la Tổng chi phí trong năm là 46.000 đô la. Giả sử doanh số phần mềm là 48.000 đô-la, bạn sẽ rất vui vì lợi nhuận là 2.000 đô-la! Tuy nhiên, lợi nhuận kế toán tính theo cách này không đo lường chính xác sự thành công của bạn. Giả sử bạn có thể làm việc cho một ngân hàng quốc tế và kiếm được 8.000 đô-la. Vậy cơ hội kiếm được 8.000 đô-la bị bỏ qua chính là chi phí cơ hội, theo đó bạn đã mất đi một khoản lợi kinh tế là 6.000 đô-la. Một ví dụ khác, một trường đại học muốn mở rộng cơ sở trên mảnh đất của trường ở một thành phố lớn. Một cán bộ trường cho rằng vì đất đã có sẵn nên “không phải tốn chi phí". Thật ra, mảnh đất trên vẫn có chi phí vì có thể được sử dụng vào mục đích khác. Nhà trường có thể bán mảnh đất này đi và dùng tiền để xây cơ sở trên một mảnh đất rẻ tiền hơn. Khái niệm chi phí cơ hội cũng rất hữu ích khi nói đến hoạt động của Chính phủ. Nếu một Chính phủ trợ giá cho các ngành, chi phí cơ hội chính là giá trị sử dụng khoản tiền này cho mục tiêu thay thế tốt nhất, chẳng hạn giáo dục và y tế. https://thuviensach.vn Những bài viết tiếp theo sẽ bàn về cơ chế xác định giá của thị trường, đảm bảo sao cho nguồn lực được sử dụng một cách tốt nhất. (Saigon Times Daily ngày 17-6-2002) 5. Markets: Supply And Demand Microeconomics is often called price theory because it focuses on the manner in which markets operate to determine the prices of goods and services. In microeconomics, a market is not a physical place where exchange takes place. Instead, a market represents the interaction between the demand and supply relationships. Demand is the relationship between the price of a good and the quantity demanded of that good, holding all other variables constant. Price is measured in money per unit and quantity demanded is measured in units consumers are willing and able to buy per time period. The law of demand specifies that the relationship between price and quantity demanded is inverse: as price rises, consumers decrease their quantity demanded. Supply is the relationship between the price of a good and the quantity supplied of that good, holding all other variables constant. Quantity supplied is measured in units producers are willing and able to sell per time period. The law of supply specifies that the relationship between price and quantity supplied is direct: as price rises, producers increase their quantity supplied. Equilibrium occurs at the price for which the quantity demanded equals the quantity supplied. If the market price is below the equilibrium price, quantity demanded by consumers exceeds quantity supplied by producers; if the market price is above the equilibrium price, quantity demanded by consumers is less than the quantity supplied by producers. The next article describes how markets adjust until equilibrium is achieved. https://thuviensach.vn 5. THỊ TRƯỜNG: CUNG VÀ CẦU Kinh tế học vi mô thường được gọi là lý thuyết về giá vì môn này tập trung vào cơ chế xác định giá hàng hóa và dịch vụ của thị trường. Trong kinh tế vi mô, thị trường không phải là một địa điểm diễn ra trao đổi, mà chủ yếu nói lên mối quan hệ tương tác giữa cung và cầu. Cầu là mối quan hệ giữa giá của một mặt hàng với lượng cầu đối với mặt hàng đó, trong điều kiện những yếu tố khác không đổi. Giá được đo theo đơn vị tiền và lượng cầu được tính theo đơn vị hàng mà người tiêu dùng sẵn lòng mua và có thể mua trong một thời điểm. Quy luật cầu cho thấy mối quan hệ nghịch biến giữa giá và lượng cầu: khi giá tăng, lượng cầu của người tiêu dùng giảm đi. Cung là mối quan hệ giữa giá của một mặt hàng và lượng cung của mặt hàng đó, trong điều kiện các biến số khác không đổi. Lượng cung được tính theo đơn vị hàng mà nhà sản xuất sẵn lòng bán và có thể bán trong một thời điểm. Qui luật cung nêu lên mối quan hệ trực tiếp giữa giá và lượng cung: khi giá tăng, nhà sản xuất tăng lượng cung ứng. Tại một mức giá mà lượng cầu bằng lượng cung ta gọi là cân bằng thị trường. Nếu giá thị trường thấp hơn giá cân bằng, lượng cầu của người tiêu dùng sẽ vượt lượng cung của nhà sản xuất; nếu giá thị trường cao hơn mức giá cân bằng, lượng cần của người tiêu dùng sẽ ít hơn lượng cung của nhà sản xuất. Bài viết tiếp theo sẽ mô tả cơ chế điều chỉnh của thị trường để đạt mức cân bằng. (Saigon Times Daily ngày 24-6-2002) 6. Market Equilibrium (Market Clearing) If the market price is below the equilibrium price, the quantity demanded by consumers exceeds the quantity supplied by producers. The https://thuviensach.vn difference between quantity demanded and quantity supplied is called excess demand, or shortage. When a shortage exists, consumers who value the good most highly will offer sellers a higher price. As the price rises producers respond by increasing the quantity supplied and consumers respond by decreasing the quantity demanded. Once the quantity supplied and quantity demanded are equal, there is no further pressure for the price to rise,,and equilibrium has been established. If the market price is above the equilibrium price, quantity demanded by consumers is less than the quantity supplied by producers. The difference between quantity supplied and quantity demanded in this case is called excess supply, or surplus. When a surplus exists, producers compete by offering their goods to consumers for a lower price. As the price falls, consumers respond by increasing their quantity demanded and producers respond by decreasing their quantity supplied. Equilibrium is established when the price falls sufficiently that quantity demanded and quantity supplied are equal. Our analysis assumes that demand and supply are fixed relationships and that other variables, like consumer income, prices of other goods, and prices of inputs are constant (the ceteris paribus assumption). The next article will discuss how demand, supply, and market equilibrium respond to changes in these other variables. 6. CÂN BẰNG THỊ TRƯỜNG Khi giá trên thị trường thấp hơn mức giá cân bằng, lượng cầu của người tiêu dùng sẽ vượt lượng cung của nhà sản xuất. Chênh lệch giữa lượng cầu và lượng cung được gọi là dư cầu hay thiếu hụt hàng hóa. Khi một mặt hàng bị thiếu hụt, những người tiêu dùng nào đánh giá mặt hàng đó cao nhất sẽ trả giá cao hơn cho người bán. Khi giá tăng, nhà sản xuất sẽ phản ứng bằng cách tăng lượng cung và người tiêu dùng sẽ đáp lại bằng cách https://thuviensach.vn giảm lượng cầu. Một khi lượng cung và lượng cầu bằng nhau thì sẽ không còn áp lực tăng giá. Sự cân bằng lúc này đã được thiết lập. Nếu giá thị trường cao hơn mức giá cân bằng, lượng cầu của người tiêu dùng sẽ thấp hơn lượng cung của nhà sản xuất. Lúc này chênh lệch giữa lượng cung và lượng cầu được gọi là dư cung hay dư thừa hàng hóa. Khi đó, các nhà sản xuất sẽ cạnh tranh bằng cách chào bán với giá thấp hơn cho người tiêu dùng. Khi giá giảm, người tiêu dùng sẽ phản ứng bằng cách tăng lượng cầu và nhà sản xuất sẽ đáp lại bằng cách giảm lượng cung. Khi giá giảm xuống mức vừa đủ để lượng cung và lượng cầu bằng nhau thì cân bằng thị trường được thiết lập. Khi phân tích, chúng ta giả định các mối quan hệ cung và cầu là cố định trong khi các biến số khác như thu nhập của người tiêu dùng, giá các loại hàng hóa khác, giá của nhập lượng là không đổi (theo giả định ceteris paribus,). Bài viết kỳ sau sẽ bàn về phản ứng của cung, cầu và cân bằng thị trường khi các biến số này thay đổi. (Saigon Times Daily ngày 1-7-2002) 7. Changes In Demand That Affect Market Equilibrium Previous articles discussed market equilibrium and defined demand and supply as the relationships between prices and quantities, holding other variables constant. This article describes how equilibrium responds to changes in consumer incomes, prices of substitute goods, and prices of complementary goods. If consumer incomes increase, then at any price, consumers increase quantity demanded, so demand increases. If demand increases at the equilibrium price, the quantity demanded exceeds the quantity supplied and the price is bid up. Producers respond by increasing the quantity supplied. https://thuviensach.vn Price rises until a new equilibrium is established; the new equilibrium price is higher and the new equilibrium quantity is higher. When the price of seafood increases, consumers seek substitutes. Pork is a substitute for seafood, so at every price for pork the quantity demanded increases. The increase in the price of seafood induces an increase in demand for pork: the result is that the equilibrium price and quantity of pork both increase. Gasoline and tires are complementary goods: they are used together. When the price of gasoline increases, consumers drive less, so they replace their tires less frequently: the demand for tires decreases. Producers compete by reducing the price of tires, and by reducing the quantity of tires that they supply. The tire market reaches a new equilibrium at a lower price and smaller quantity. As exercises, readers may analyze equilibrium responses to decreasing consumer incomes or decreasing prices of substitute or complementary goods. 7. NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CẦU TÁC ĐỘNG ĐẾN CÂN BẰNG THỊ TRƯỜNG Trong các bài viết trước, chúng ta đã thảo luận về cân bằng thị trường và định nghĩa cung cầu theo mối quan hệ giữa lượng và giá, trong khi các yếu tố khác không đổi. Bài viết này sẽ mô tả phản ứng của cân bằng thị trường đối với những thay đổi như: thu nhập của người tiêu dùng, giá các hàng hóa thay thế hay hàng hóa bổ sung. Nếu thu nhập của người tiêu dùng tăng, họ cũng sẽ tăng lượng cầu hàng hóa ở mọi mức giá, do đó cầu tăng. Từ mức giá cân bàng, khi lượng cầu tăng lên vượt lượng cung thì giá sẽ bị đẩy lên. Nhà sản xuất đáp ứng bằng https://thuviensach.vn cách tăng lượng cung. Giá sẽ tăng đến khi một sự cân bằng mới được thiết lập; ở đó lượng và giá mới đều cao hơn ban đầu. Khi giá hải sản tăng, người tiêu dùng sẽ tìm hàng hóa khác để thay thế hải sản. Một trong những mặt hàng đó là thịt heo, lúc này dù đang ở bất kỳ mức giá nào thì cầu thịt heo cũng tăng lên. Giá hải sản tăng khiến cho cầu thịt heo tăng: kết quả là cả giá lẫn lượng thịt heo cân bằng trên thị trường đều tăng. Xăng và lốp xe là hai loại hàng bổ sung cho nhau vì chúng được sử dụng cùng lúc. Khi xăng lên giá, người tiêu dùng bớt dùng xe, do đó không phải thường xuyên thay lốp xe nên cầu lốp xe giảm. Các nhà sản xuất lốp xe cạnh tranh bằng cách giảm giá bán và giảm sản lượng cung ứng. Khi đó thị trường lốp xe đạt được mức cân bằng mới với giá và lượng thấp hơn ban đầu. Bạn đọc có thể thực tập phân tích sự cân bằng đáp ứng với các tình huống: cho thu nhập của người tiêu dùng giảm, giảm giá hàng hóa thay thế hay hàng hóa bổ sung. (Saigon Times Daily ngày 8-7-2002) 8. Changes In Supply That Affect Market Equilibrium This article describes how market equilibrium responds to changes in input prices and technology. Input prices may rise due to increased demand for the inputs or due to factors like tariffs on imported inputs. When input prices increase, producers have to sell their products at higher prices. As the price is bid up, some consumers will reduce the quantity of the product that they buy. The new equilibrium price is higher and the new equilibrium quantity is lower: consumers and producers are worse off. https://thuviensach.vn If an input price declines, producers may compete with each other by passing the cost savings to their consumers, i.e., they lower their product prices. As the product price falls, some consumers will increase the quantity of the product that they buy. The new equilibrium price is lower and the new equilibrium quantity is higher: consumers and producers are better off. Improving technology makes it possible to produce a given quantity of a product at lower unit cost. Competing firms can then sell their product at a lower price; as price falls, consumers buy more units of the goods. Again, consumers and producers are better off. In a well-functioning market economy, competing firms strive to adopt the technology that allows them to produce at lowest cost, given local input prices, so that they can sell more of their product domestically and possibly on export markets. Inefficient firms fail, and the average productivity of the industry rises. 8. NHỮNG THAY ĐỔI VỀ CUNG TÁC ĐỘNG ĐẾN CÂN BẰNG THỊ TRƯỜNG Bài viết này mô tả phản ứng của cân bằng thị trường khi giá nguyên liệu và công nghệ thay đổi. Giá nguyên liệu có thể tăng do cầu nguyên liệu tăng hoặc do những nhân tố khác ví dụ như tăng thuế nhập khẩu nguyên liệu. Khi đó, các nhà sản xuất phải nâng giá bán sản phẩm. Khi giá bán tăng lên, một số người tiêu dùng sẽ mua ít đi. Lúc này giá cân bằng mới sẽ cao hơn trong khi lượng cân bằng mới thì thấp hơn: cả người tiêu dùng lẫn nhà sản xuất đều bị thiệt. Nếu giá nguyên liệu giảm, các nhà sản xuất có thể cạnh tranh với nhau bằng cách để người tiêu dùng được hưởng khoản chi phí tiết kiệm, nói cách khác là hạ giá bán sản phẩm. Khi đó, một số người tiêu dùng sẽ tăng lượng https://thuviensach.vn sản phẩm mà họ mua. Giá cân bằng mới lúc này sẽ thấp hơn và lượng cân bằng mới thì cao hơn: cả người tiêu dùng lẫn nhà sản xuất đều được lợi. Cải tiến công nghệ sẽ giúp giảm giá thành sản phẩm, với một mức sản lượng cho trước. Khi đó các công ty cạnh tranh có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn; khi giá giảm, người tiêu dùng sẽ mua hàng nhiều hơn và cả bai bên đều được lợi. Trong một nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả, với giá nguyên liệu nội địa cho trước, các công ty cạnh tranh sẽ nỗ lực ứng dụng công nghệ sao cho chi phí sản xuất là thấp nhất. Nhờ vậy, họ có thể bán nhiều sản phẩm ra thị trường trong nước và có thể xuất khẩu. Các công ty kém hiệu quả sẽ thất bại, năng suất bình quân cả ngành sẽ tăng lên. (Saigon Times Daily ngày 15-7-2002) 9. Economists Love Motorbikes Economists love the motorbike market because it provides good examples for illustrating the effects described in previous articles. These effects may occur simultaneously, and the changes in equilibrium price and quantity reflect all of them. However, for clarity we describe each effect individually. First, consumer incomes have been rising for several years. As expected, this has increased the demand for motorbikes. For some time, the strong demand made it possible for motorbike sellers to increase prices. Second, the strong demand for motorbikes induced Chinese producers to target the Vietnamese market for their exports. The supply of low-price (and low quality) motorbikes increased rapidly and a large number of consumers bought these instead of locally-assembled motorbikes: the demand for locally-assembled motorbikes decreased. The equilibrium https://thuviensach.vn price and quantity of locally-produced motorbikes decreased as a result. Honda responded by introducing a new model, Wave Alpha, that was price competitive with the Chinese products and higher quality. Consumers benefited from this competition: they now have a wider variety of motorbikes to choose from, and at lower prices. Third, the Vietnamese government uses trade policy to support the domestic producers of motorbike components. The tariff on imported motorbike parts increases if motorbike producers have smaller domestic content in their products. The increased cost due to the tariff increases the equilibrium price for the assembled motorbike and reduces the equilibrium quantity of assembled motorbikes. Domestic motorbike assemblers and domestic consumers bear higher costs while domestic parts producers ride happily down the boulevard. 9. CÁC NHÀ KINH TẾ HỌC YÊU THÍCH XE MÁY Các nhà kinh tế học yêu thích thị trường xe máy vì đây là một ví dụ rõ nét về những tác động đối với cân bằng thị trường như đã mô tả trong những bài viết trên đây. Các tác động này có thể xảy ra cùng lúc và được phản ánh qua những thay đổi về giá và lượng cân bằng. Tuy nhiên, để phân biệt ta sẽ trình bày rõ từng tác động một. Tác động thứ nhất, thu nhập người tiêu dùng đã gia tăng trong những năm gần đây khiến cho nhu cầu mua xe máy cũng tăng theo. Trong một khoảng thời gian nhất định, mức cầu cao làm cho người bán xe máy có thể tăng giá. Tác động thứ hai, do cầu tiêu dùng xe máy ở Việt Nam tăng mạnh nên các nhà sản xuất Trung Quốc chọn Việt Nam làm thị trường xuất khẩu xe máy. Cung xe máy với giá rẻ (với chất lượng thấp) tăng nhanh và một lượng lớn người tiêu dùng đã chọn mua xe Trung Quốc thay vì mua xe lắp ráp trong nước: lúc này cầu xe máy lắp ráp trong nước giảm dẫn đến giá và https://thuviensach.vn lượng cân bằng ở thị trường xe máy nội địa giảm. Công ty Honda phản ứng bằng cách trình làng một mẫu xe mới, đó là Wave Alpha, với giá tương đương giá xe Trung Quốc nhưng chất lượng tốt hơn. Kết quả là người tiêu dùng được lợi từ sự cạnh tranh này: họ có nhiều chọn lựa hơn với giá thấp hơn. Tác động thứ ba, Chính phủ Việt Nam áp dụng chính sách thương mại hỗ trợ các nhà sản xuất linh kiện xe máy trong nước. Nếu sản phẩm xe máy của các nhà sản xuất có hàm lượng nội địa thấp thì họ phải chịu thuế nhập khẩu linh kiện cao. Chi phí tăng do thuế nhập khẩu sẽ đẩy giá thành lắp ráp xe máy lên và hạ thấp sản lượng xe máy lắp ráp lúc này đang ở trạng thái cân bằng. Các nhà sản xuất xe máy lắp ráp và người tiêu dùng nội địa phải chịu phí tổn cao hơn trong khi các nhà sản xuất linh kiện trong nước cưỡi xe bát phố một cách khoái chí. (Saigon Times Daily ngày 22-7-2002) 10. Markets And Resource Allocation Several articles have described changes in market equilibrium in terms of changes in price and quantity. These changes have important implications for resource allocation. Economists typically refer to three types of resources: labor, capital, and land. Sometimes entrepreneurship is added to the list. Labor refers to productive services people provide, including physical work and intellectual work like business management. In microeconomics capital means physical capital: buildings and machines. Land includes land surface and resources that may lie above or below the land. Resource allegation to production of alternative goods and services depends on prices that are determined by markets. If consumer demand for particular goods increases, the price rises. The higher price induces https://thuviensach.vn entrepreneurs to organize resources to produce more of the popular goods; new producers mây even enter the market. In a competitive environment, producers have strong incentives to select technologies and resources to produce cost-efficiently. The sequence of events set off by an increase in consumer demand is beneficial for consumers, for producers, and for resource owners. Keep in mind that individual citizens may be all of these; most of us are both consumers and owners of labor resources. Of course, this sequence can be reversed. If consumer demand falls, the price of the good falls, then resources are released from producing that good and must be deployed in their next best alternative. In a market economy, the price mechanism guides resource allocation to the goods and services that consumers want. 10. THỊ TRƯỜNG VÀ SỰ PHÂN BỔ NGUỒN LỰC Các bài viết trước đã mô tả sự thay đổi của cân bằng thị trường thông qua những thay đổi giá và lượng. Những thay đổi này có quan hệ mật thiết đến sự phân bổ nguồn lực. Các nhà kinh tế thường đề cập đến ba loại nguồn lực: lao động, vốn và đất đai. Đôi khi họ còn thêm vào yếu tố tinh thần sáng tạo kinh doanh. Khi nói lao động người ta nói đến hoạt động sản xuất do con người thực hiện, gồm hoạt động chân tay và hoạt động trí óc, chẳng hạn như hoạt động quản lý kinh doanh. Trong kinh tế vi mô, vốn có nghĩa là vốn vật chất: nhà xưởng và máy móc. Đất đai gồm có mặt bằng và các nguồn lực nằm bên dưới hay trên mặt đất. Việc phân bổ nguồn lực để sản xuất hàng hóa và dịch vụ thay thế lẫn nhau phụ thuộc vào giá do thị trường quyết định. Nếu nhu cầu tiêu dùng https://thuviensach.vn một hàng hóa tăng thì giá sẽ tăng. Giá tăng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp vận dụng nguồn lực để sản xuất nhiều hơn mặt hàng đang ăn khách; ngay cả các nhà sản xuất mới sẽ tham gia thị trường. Trong một môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp có động lực cao để chọn lựa công nghệ và nguồn lực nhằm sản xuất với chi phí thấp. Bắt đầu từ việc tăng nhu cầu tiêu dùng, chuỗi sự kiện tiếp theo sẽ có lợi cho cả người tiêu dùng, nhà sản xuất và chủ sở hữu nguồn lực. Lưu ý là mỗi cá nhân có thể là tất cả những đối tượng này; phần lớn chúng ta vừa là người tiêu dùng vừa là chủ sở hữu nguồn lực lao động. Tất nhiên, quá trình trên có thể là ngược lại. Nếu nhu cầu tiêu dùng một mặt hàng giảm, giá sẽ giảm, khi đó nguồn lực dùng để sản xuất mặt hàng này được giải phóng và chuyển sang cho mục đích thay thế tốt nhất. Trong một nền kinh tế thị trường, cơ chế giá cả sẽ hướng sự phân bổ nguồn lực vào những hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng muốn. (Saigon Times Daily ngày 29-7-2002) https://thuviensach.vn 11. Markets And Consumer Welfare Market transactions make buyers and sellers better off. When a consumer buys pho, she does so because she prefers to satisfy her hunger rather than keep VND6,000 in her pocket. The pho shop is pleased to sell because they prefer to earn money instead of keeping pho on hand. When many consumers buy many bowls of pho from many sellers, they are all better off. The gams that buyers and sellers receive from market transactions contribute to the economic welfare (we will deliberately define this concept in other articles). We analyze consumers' gains with the demand curve shown below. Price (VND/unit) is on the vertical axis and quantity demanded (units/time period) is on the horizontal axis. Demand slopes down because consumers increase quantity demanded as price falls. In a competitive market consumers all pay the equilibrium price (P*). But, according to our demand curve, if the quantity were restricted, some consumers would be willing to pay higher prices. These consumers receive consumer surplus equal to the difference between the value they perceive from the good and the equilibrium price. https://thuviensach.vn Total consumer surplus is defined as the area below the demand curve, but above P*; it is the shaded area in the diagram. If the quantity sold is less than then total consumer surplus is smaller. At equilibrium price P* consumers will not buy more than. Therefore, when the equilibrium price is P* consumer surplus is maximized at the equilibrium quantity. The next article shows how the sellers' gains are measured. 11. THỊ TRƯỜNG VÀ PHÚC LỢI NGƯỜI TIỀU DÙNG Các giao dịch trên thị trường làm cho cả người mua và người bán cùng được lợi. Khi một người tiêu dùng (NTD) mua phở, cô ta muốn thỏa mãn cơn đói của mình hơn là để dành 6.000 đồng trong túi. Còn tiệm phở cũng sẵn lòng bán, vì họ muốn được tiền hơn là giữ lại phở trong cửa tiệm. Khi có nhiều người mua phở và nhiều người bán phở thì cả đôi bên đều có lợi. Lợi ích mà người mua và người bán thu được từ những giao dịch trên thị trường góp phần hình thành nên phúc lợi kinh tế (chúng ta sẽ định nghĩa chi tiết khái niệm này trong những bài tới). Chúng ta phân tích lợi ích của NTD dựa theo đường cầu ở hình bên. Mức giá (đồng/đơn vị hàng) được thể hiện trên trục tung và lượng cầu được thể hiện trên trục hoành (đơn vị hàng/thời kỳ). Đường cầu dốc xuống vì NTD sẽ tăng lượng cầu khi giá giảm. Trong một thị trường cạnh tranh, mọi người mua đều trả theo giá cân bằng (P*). Nhưng đưa vào đường cầu, ta thấy nếu số lượng hàng hóa bị hạn chế, một số NTD sẽ sẵn sàng trả giá cao hơn. Những người này sẽ có được thặng dư người tiêu dùng tương đương với chênh lệch giữa giá trị do họ nhìn nhận từ món hàng và giá cân bằng thị trường. Tổng thặng dư được xác định bởi diện tích tô đậm trên đồ thị, bên dưới đường cầu và trên đường giá P*. Nếu lượng hàng bán ra ít hơn thì tổng thặng dư sẽ nhỏ hơn. Tại mức giá cân bằng P, NTD sẽ không mua một https://thuviensach.vn lượng hàng nhiều hơn. Do đó, khi giá cân bằng là P' thì thặng dư sẽ được tối đa hóa tại lượng cân bằng. Bài viết sau đây trình bày cách đo lường lợi ích mà người bán thu được. (Saigon Times Daily ngày 5-8-2002) 12. Markets And Producer Welfare Market transactions make buyers and sellers better off. The above article showed how consumers' gain in the consumption of pho is measured. This article shows how economists measure the gain that Tpho restaurants enjoy from market transactions. We analyze producers' gains with the supply curve of pho shown below. Price (VND/bowl) is on die vertical axis and Quantity Supplied (bowls/time period) is on the horizontal axis. The supply curve tells us how many bowls of pho will be supplied at each possible price. The higher the price, the greater the quantity supplied. In a competitive market, producers all sell at the equilibrium price (P*). But the diagram shows that some producers would be willing to produce at a price lower than P*, since they are more efficient and therefore can produce additional units at a lower cost. These producers receive producer surplus equal to the difference between the price at which they are willing to sell and the price at which they actually sell. https://thuviensach.vn Total producer surplus is defined as the area above the supply curve, but below P* (the shaded area in the diagram). At equilibrium price P* the restaurants will not produce more than Qs*. Any reduction in either P* or Qs* would reduce the producer surplus. The next article defines net social welfare and demonstrates that it is maximized at the equilibrium price and quantity. 12. THỊ TRƯỜNG VÀ PHÚC LỢI NHÀ SẢN XUẤT Các giao dịch trên thị trường giúp cả người mua và người bán cùng được lợi. Bài viết trên đây cho thấy cách đo lường lợi ích mà người ăn phở nhận được. Bài viết kỳ này nói về cách các nhà kinh tế đo lường lợi ích mà tiệm phở thu được từ các giao dịch trên thị trường. Chúng ta phân tích lợi ích của nhà sản xuất theo đường cung phở ở hình bên. Trục tung thể hiện giá (VND/tô phở) và trục hoành thể hiện lượng cung (số tô phở/thời điểm nhất định). Đường cung cho ta biết số tô phở sẽ được cung ứng ở một mức giá bất kỳ. Giá càng cao, càng có nhiều tô phở được bán. Trong một thị trường cạnh tranh, các nhà sản xuất đều bán tại mức giá cân bằng (P*). Nhưng đồ thị cho thấy một số nhà sản xuất sẵn sàng sản https://thuviensach.vn xuất ở một mức giá thấp hơn P*. Do có hiệu quả cao hơn, họ có thể sản xuất thêm lượng hàng với giá thành đơn vị thấp hơn. Những người này sẽ thu được thặng dư nhà sản xuất bằng với chênh lệch giữa mức giá mà họ muốn bán và mức giá họ thật sự bán được. Tổng thặng dư nhà sản xuất được xác định bởi diện tích nằm trên đường cung, nhưng dưới đường giá P’ (phần diện tích được tô đậm trên đồ thị). Tại mức giá cân bằng P* họ sẽ không sản xuất nhiều hơn lượng Qs*. Giá thấp hơn P' hay lượng thấp hơn Qs* đều làm giảm thặng dư nhà sản xuất. Bài tiếp theo định nghĩa lợi ích xã hội ròng và chứng minh rằng nó được tối đa hóa khi thị trường ở trạng thái cân bằng. (Saigon Times Daily ngày 12-8-2002) 13. Social Benefit (SB) Market transactions make buyers and sellers better off. The last two articles analyzed consumer surplus (CS) and producer surplus (PS) in the pho market. This article explains social benefit (also economic welfare) as the sum of cs and PS, and demonstrates that social benefit is maximized at market equilibrium. Market equilibrium is established at the price for which quantity demanded equals quantity supplied. On a market graph, the intersection of demand and supply gives the equilibrium point. SB is the sum of the shaded areas on the graph. Suppose that market quantity is Q1instead of Q*. In this case, the price rises to P1, because that is what consumers are willing to pay. We see that some cs is transferred to PS but we also see that the small triangles of CS https://thuviensach.vn and PS between Q1 and Q* are lost. For quantities less than Q* SB is less than SB at Q*. Now suppose that market quantity is Q2. For quantities greater than Q* the supply curve is above the demand curve. This indicates that the resource costs required to increase quantity from Q* to Q2 are greater than the value that consumers place on the additional units of the good. The SB at Q2 is calculated as the SB at Q* minus the area of the triangle ABC. Social benefit is maximized at market equilibrium. In the discussion, we supposed that the market quantity deviated from the equilibrium quantity. In the next articles we will examine some reasons why that might occur, and we will discuss the consequences. 13. LỢI ÍCH XÃ HỘI (SB) Các giao dịch trên thị trường làm cho cả người mua và người bán đều được lợi. Hai bài viết trước đã phân tích thặng dư người tiêu dùng (CS) và thặng dư nhà sản xuất (PS) trên thị trường phở. Bài viết này cho thấy lợi ích xã hội (còn gọi là phúc lợi kinh tế) là tổng của CS và PS và chứng minh rằng lợi ích xã hội đạt tối đa khi thị trường ở trạng thái cân bằng. https://thuviensach.vn Cân bằng thị trường được thiết lập tại mức giá mà lượng cung và lượng cầu bằng nhau. Trên đồ thị biểu diễn thị trường, giao điểm của đường cung và đường cầu cho ta điểm cân bằng. Lợi ích xã hội là tổng diện tích tô đậm trên đồ thị. Giả sử lượng hàng trên thị trường là Q1thay vì Q*. Khi đó giá tăng lên P1 vì đây là mức giá mà người tiêu dùng sẵn sàng chi trả. Ta thấy một phần CS được chuyển sang PS nhưng có hai tam giác nhỏ thuộc CS và PS trong khoảng Q1, và Q* mất đi. Khi lượng hàng thấp hơn Q* thì lợi ích xã hội tương ứng sẽ thấp hơn lợi ích xã hội tại Q*. Bây giờ giả sử lượng hàng trên thị trường là Q2. Tại bất kỳ lượng hàng nào nhiều hơn Q* ta thấy đường cung nằm bên trên đường cầu. Điều này cho thấy các chi phí nguồn lực cần thiết để tăng lượng hàng từ Q* lên Q2 là lớn hơn giá trị của lượng hàng tăng thêm này theo nhìn nhận của người tiêu dùng. SB ở Q* được tính bằng SB ở Q* trừ cho diện tích tam giác ABC. Lợi ích xã hội được tối đa hóa tại mức cân bằng thị trường. Trong phần phân tích, chúng ta đã giả định số lượng hàng trên thị trường có thể chệch khỏi lượng cân bằng. Trong những bài viết sau đây chúng ta sẽ xem xét các nguyên nhân và kết quả của hiện tượng này. (Saigon Times Daily ngày 19-8-2002) 14. Let’s Not Forget The Full Costs The recent Conference on Sustainable Development in South Africa highlighted the fact that in efforts to achieve higher rates of growth, countries have often found the cost of this goal to be damage to the environment. The question now being asked is what can be done to reverse this trend and why can't markets allocate resources efficiently. https://thuviensach.vn The answer lies in understanding the concept of externalities. In the case of an externality, some costs (negative externalities) or benefits (positive externalities) of the use of a resource fall on individuals or groups that are external to the market transaction. A simple example of negative externalities is higher pollution and noise levels that have resulted from the proliferation of motorbikes. These negative factors are felt by everyone regardless if they own a motorbike. Thus, the full costs of a motorbike are not reflected in the price paid by consumers. While consumers' decisions are based on the market price (the private cost), resources will only be allocated efficiently if the full costs, the private plus social costs, are taken into account. Since the full costs are greater than that reflected in the market, resources will tend to be over allocated. Thus, too many motorbikes are purchased and society is burdened with the environmental hazards. How to reallocate resources to better reflect the full costs of the production is an issue currently under debate by policymakers. The next article will provide more details on some economic solutions. 14. ĐỪNG QUÊN KHÁI NIỆM CHI PHÍ TOÀN BỘ Cuộc hội thảo về Phát triển Bền vững ở Nam Phi gần đây đã nêu rõ thực tế rằng trong nỗ lực đạt mức tăng trưởng cao, các nước đã quên đi cái giá của mục tiêu này là sự tổn hại đối với môi trường. vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải làm gì để đảo ngược xu hướng trên và tại sao thị trường không thể phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả. Câu trả lời nằm trong sự hiểu biết về khái niệm ngoại tác. Ngoại tác xảy ra khi một số chi phí (ngoại tác tiêu cực) hay lợi ích (ngoại tác tích cực) của https://thuviensach.vn việc sử dụng một nguồn lực rơi vào các cá nhân hay các nhóm không tham gia vào giao dịch thị trường. Một ví dụ đơn giản về ngoại tác tiêu cực là mức độ ô nhiễm và tiếng ồn do số lượng xe gắn máy gia tăng quá nhanh. Các yếu tố tiêu cực trên ảnh hưởng đến mọi người dù họ có xe máy hay không. Do đó, chi phí toàn bộ của một xe gắn máy không được phản ánh đầy đủ trong mức giá mà người tiêu dùng trả. Trong khi các quyết định của người tiêu dùng dựa vào giá thị trường (chi phí tư nhân) thì các nguồn lực chỉ được phân bổ một cách hiệu quả nếu xét chi phí toàn bộ tức là chi phí tư nhân cộng thêm chi phí xã hội. Do tổng chi phí lớn hơn chi phí thể hiện trên thị trường nên các nguồn lực có xu hướng được phân bổ quá mức. Vì vậy, nếu càng có nhiều xe máy được mua thì xã hội càng phải gánh chịu những hiểm họa về môi trường. Việc tái phân bổ nguồn lực để phản ánh chính xác hơn toàn bộ chi phí của sản phẩm là một vấn đề đang được các nhà hoạch định chính sách tranh luận. Bài viết kế tiếp sẽ nói rõ hơn về các giải pháp mang tính kinh tế. (Saigon Times Daily ngày 16-9-2002) 15. Internalizing The Externality When negative externalities occur, full costs of production are not reflected in the market. This creates a divergence between the private cost and social cost resulting in resources being over allocated to the sector involved. One common remedy to reducing consumption of a good that has negative externalities is to increase the cost of production so full costs - private cost of production plus the cost to society due to the externalities - are reflected in the market. This can be done through policies such as https://thuviensach.vn imposing taxes or restricting the use of a good. An illustration of such policies is the recent suggestion to double the consumption tax on motorbikes and create "off-limits" zones in a number of downtown streets in HCMC. To better understand the effect of a tax policy, consider the diagram below. The supply curve, Sp, represents die private costs of production and does not include the negative externalities. Curve Dpis market demand for motorbikes. The market solution would result in Qm motorbikes being purchased at price of Pm. However, if a policy such as a tax is implemented to "internalize" the externalities the supply curve will shift to the left. The new supply curve will be St. This results in a lower quantity of motorbikes being consumed (QT) and, hence, lower level of air and noise pollution. The tax revenue could also be used to pay for improving air quality or health-related expenses of motorbike use. https://thuviensach.vn 15. "NỘI HÓA" NGOẠI TÁC Khi ngoại tác tiêu cực xảy ra, chi phí toàn bộ của sản xuất không được phản ánh trên thị trường. Điều này tạo ra chênh lệch giữa chi phí tư nhân và chi phí xã hội mà kết quả là nguồn lực bị phân bổ quá mức cho ngành liên quan. Một biện pháp phổ biến nhằm hạn chế tiêu dùng một mặt hàng, khi việc tiêu dùng này gây ra ngoại tác tiêu cực, là làm tăng chi phí sản xuất. Mục đích là để toàn bộ chi phí - bao gồm chi phí sản xuất tư nhân cộng với chi phí đối với xã hội do ngoại tác - được phản ánh trên thị trường. Biện pháp này có thể được thực hiện thông qua các chính sách như đánh thuế hoặc hạn chế tiêu dùng. Đơn cử là một đề nghị gần đây cho rằng nên tăng gấp đôi thuế tiêu thụ xe gắn máy và hạn chế lưu thông xe máy trên một số tuyến đường trung tâm Thành phố Hồ Chỉ Minh. Để hiểu rõ hơn tác động của một chính sách thuế, ta xem xét đồ thị trên đây. Đường cung Spthể hiện chi phí sản xuất tư nhân và chưa bao gồm ngoại tác tiêu cực. Đường Dplà cầu thị trường xe gắn máy. Nếu theo giải pháp thị trường thì lượng xe gắn máy bán ra là Qm tại mức giá Pm . Tuy nhiên, nếu thực hiện chính sách thuế nhằm “nội hóa" ngoại tác thì đường cung sẽ dịch sang trái. Vị trí mới của đường cung là St. Kết quả là lượng tiêu thụ xe gắn máy ít hơn (QT) dẫn đến mức độ ô nhiễm và tiếng ồn cũng thấp hơn. Số thuế thu được có thể dùng để cải thiện chất lượng không khí hay trang trải cho những phí tổn y tế có liên quan đến việc sử dụng xe gắn máy. (Saigon Times Daily ngày 23-9-2002) 16 . Marginal Analysis: Why the farmer should care, and everybody else too https://thuviensach.vn In economics and management theories, marginal analysis plays a crucial role. This is one of the basic approaches in business decision-making. Let's take paddy rice production as an example. One farmer on one hectare of land might produce 5 tons of paddy rice by using 6 bags of urea fertilizer. Holding other inputs such as labor and land fixed, if the farmer added one more bag of urea, the yield would be 5.5 tons. Economists call the increase of 500kg in output being the marginal product of the seventh bag of urea. In general, marginal product is the additional output produced as an input is increased by one unit (holding other inputs constant). Why should the farmer be concerned with marginal product? If he continually added urea to his one-hectare land, he might produce more output per extra bag of urea, but at a lower rate. After adding bag number 8, for example, the additional output may increase only 300kg and if a ninth bag is added, too much urea poisons the paddy and output may decline. At that point the marginal product becomes negative. Thus, the marginal product of urea will eventually diminish as the farmer uses it more and more. What happened above is called the law of diminishing marginal product. It holds not only for fertilizer, but also for other inputs and other production processes in the economy. The marginal concept also applies to revenue, profit, cost, and tax rates, etc. These may follow different rules. Upcoming articles will discuss some of these concepts. 16. PHÂN TÍCH CẬN BIÊN: TẠI SAO TỪ BÁC NÔNG DÂN ĐẾN TẤT CẢ MỌI NGƯỜI ĐỀU PHẢI CHÚ Ý https://thuviensach.vn Trong lý thuyết kinh tế cũng như quản trị, phân tích biên tế có vai trò thiết yếu. Đây là một trong nhưng cơ sở căn bản khi đưa ra quyết định kinh doanh. Lấy sản xuất lúa làm ví dụ. Trên một hécta đất, một bác nông dân sử dụng 6 bao phân urê và thu hoạch được 5 tấn lúa. Với các yếu tố đầu vào khác như lao động và đất đai không đổi, nếu bác nông dân tăng thêm một bao urê nữa thì sản lượng là 5,5 tấn. Các nhà kinh tế gọi mức sản lượng tăng thêm 500 kg là năng suất biên của bao phân thứ bảy. Tổng quát, năng suất biên là phần sản lượng gia tăng khi sử dụng thêm một đơn vị yếu tố đầu vào (với điều kiện các đầu vào khác không đổi). Tại sao bác nông dân phải quan tâm đến năng suất biên? Nếu tiếp tục tăng số phân urê trên thửa ruộng một hécta, mỗi bao urê có thể giúp tăng sản lượng, nhưng mức tăng sẽ không cao như trước. Chẳng hạn khi bón thêm bao phân thứ 8 sản lượng lúa chỉ tăng thêm 300 kg, đến bao thứ 9 thì quá nhiều phân urê lại gây ngộ độc cho cây lúa, do đó sản lượng có thể giảm đi. Lúc này năng suất biên trở thành âm. Như vậy, năng suất biên của urê sẽ giảm dần khi người nông dân cứ tiếp tục sử dụng nhiều urê hơn. Hiện tượng trên được gọi là qui luật năng suất biên giảm dần. Quy luật này không chỉ đúng cho phân bón, mà còn phổ biến đối với nhiều loại đầu vào và nhiều ngành sản xuất khác trong nền kinh tế. Khái niệm biên còn được sử dụng trong những chỉ tiêu như doanh thu, lợi nhuận, chi phí, thuế suất... và có thể tuân theo những qui luật khác nhau. Một số sẽ được đề cập trong những bài sau. (Saigon Times Daily ngày 28-10-2002) 17. Choosing The Level of Output That Maximizes Profit https://thuviensach.vn Firms face the question of how many units of output should be produced to maximize profit. The response depends on two important economic indicators: marginal cost and marginal revenue. Suppose that on his one-hectare land, a farmer spends VND8 million to produce 55 quintals of paddy rice, which he sells at the market price of VND200,000/quintal. If our farmer wants to increase output by one quintal, he must employ more inputs such as labor and fertilizer, and total cost will increase by say VND140,000. This extra expense is called the marginal cost of producing the 56th quintal of paddy rice, or the increase in cost resulting from the production of one more unit of output. But let's say that to increase output further to 57 and 58 quintals, it will cost the farmer an extra VND200,000 and VND220,000 respectively. This increase in marginal cost is due to the diminishing marginal product of inputs. On the other hand, the price that our individual farmer can get for his product is a market price, which does not change when he produces a different quantity of output. The market price of paddy rice is also the marginal revenue that the farmer will receive as he sells one extra quintal of paddy rice. Balancing cost and revenue, the farmer realizes that with the 56th quintal sold his profit goes up by VND60,000; with the 57th quintal, the profit is unchanged. But selling the 58th quintal would actually lower his profit by VND20,000. Thus, the farmer reaches maximum profit when marginal cost equals marginal revenue, and his output is 57 quintals of paddy rice. 17. CHỌN LỰA MỨC SẢN LƯỢNG MANG LẠI LỢI NHUẬN TỐI ĐA https://thuviensach.vn Các doanh nghiệp thường phải đối mặt với câu hỏi nên sản xuất bao nhiêu sản phẩm để đạt lợi nhuận tối đa. Câu trả lời dựa vào hai chỉ tiêu kinh tế quan trọng: chi phí biên và doanh thu biên. Giả sử trên khoảnh đất một hecta, một bác nông dân bỏ ra chi phí 8 triệu đồng để trồng lúa và thu hoạch được 55 tạ. Giá lúa trên thị trường là 200 ngàn đồng/tạ. Để tăng sản lượng thêm một tạ, bác nông dân phải sử dụng thêm lao động và phân bón, nên tổng chi phí tăng thêm 140 ngàn đồng. Khoản tăng thêm này được gọi là chi phí biên của tạ lúa thứ 56, hay chi phí tăng thêm để sản xuất thêm một đơn vị sản lượng. Nhưng nếu bác nông dân tăng sản lượng lên 57 rồi 58 tạ, chi phí phải bỏ ra cho mỗi tạ lúa tăng thêm này sẽ lần lượt là 200 ngàn đồng và 220 ngàn đồng. Sự gia tăng của chi phí biên là do các yếu tố đầu vào có năng suất biên giảm dần. Mặt khác, giá bán của người nông dân là giá thị trường, mức giá này không thay đổi dù bác ta có sản xuất ở các mức sản lượng khác nhau. Do đó, giá lúa cũng chính là doanh thu biên mà bác nông dân nhận được nếu bán thêm một tạ lúa. Cân đối giữa chi phí và doanh thu, bác nông dân thấy khi bán tạ lúa thứ 56 lợi nhuận tăng thêm 60 ngàn đồng; tạ lúa thứ 57 không làm thay đổi lợi nhuận; nhưng khi bán đến tạ lúa thứ 58 lợi nhuận bị giảm 20 ngàn đồng. Do đó, bác nông dân đạt lợi nhuận tối đa khi chi phí biên bằng doanh thu biên với mức sản lượng là 57 tạ lúa. (Saigon Times Daily ngày 4-11-2002) 18. Monopolies: How Do They Thrive? Monopoly, in simple terms, means a market with only one seller. A monopoly occurs when there is one producer but many buyers in an https://thuviensach.vn industry whose products have no close substitutes. * Monopoly exists due to several factors. First, firms become monopolists for holding patents on production technology, or having access to strategic resources. Microsoft and some oil companies are typical examples. Secondly, a government may grant monopoly power to one firm by not giving business licenses to others. VNPT was the sole company allowed to manage and conduct activities in the long distance and international telecom system in Vietnam. Finally, a firm may have invested heavily in capital goods so that it can produce the entire output of the market at a cost that is lower than what it would be if there were several firms. This is called natural monopoly and is often found in railroad, power, and gas industries. A monopolist is in a unique position to manipulate market price by limiting output. The price it sets is always higher than its marginal cost, thus enabling the monopolist to earn extra profit. In a competitive market, this practice is not possible because other firms will enter the market and drive down the price towards the marginal cost. In a noncompetitive market, however, thanks to entry barriers to the industry such as patents and licenses, the monopolist does and will continue with its practice. Consequently, higher price and lower quantities earn the monopolist larger profits than would be the case in a competitive environment. Is a monopoly a good thing or bad thing? If bad, what measures can the government take to control it? The next article will address this issue. * Oligopoly means a market where only a few firms account for most or all of total industry's production. 18. ĐỘC QUYỀN PHÁT TRIỂN THỊNH VƯỢNG NHƯ THẾ NÀO? https://thuviensach.vn Độc quyền theo cách nói đơn giản là một mình một chợ. Độc quyền xảy ra khi trong ngành chỉ có một doanh nghiệp duy nhất cung ứng sản phẩm cho nhiều người mua và không có sản phẩm khác thay thế tốt.* Độc quyền tồn tại do một số nguyên nhân. Thứ nhất, doanh nghiệp trở thành độc quyền do sở hữu bằng sáng chế công nghệ sản xuất hay những nguồn lực chiến lược, ví dụ như Microsoft hay các công ty dầu khí. Thứ hai, Nhà nước chủ động tạo thế độc quyền cho một doanh nghiệp khi không cấp phép hoạt động cho các doanh nghiệp khác. Ví dụ VNPT đã từng được độc quyền khai thác và quản lý hệ thống viễn thông quốc tế và đường dài ở Việt Nam. Thứ ba là khi một doanh nghiệp đã đầu tư tài sản cố định rất lớn và có thể cung cấp hàng hóa cho cả thị trường với giá thành thấp hơn so với các doanh nghiệp khác trong ngành. Hiện tượng này gọi là độc quyền tự nhiên và phổ biến trong các ngành như đường sắt, năng lượng và khí đốt. Doanh nghiệp độc quyền có vị thế đặc biệt nhờ vào khả năng thao túng giá trên thị trường bằng cách hạn chế sản lượng. Doanh nghiệp này luôn định giá cao hơn chi phí biên để tăng lợi nhuận. Trong một thị trường cạnh tranh, hành vi này là không thể thực hiện được vì các doanh nghiệp khác sẽ tham gia vào thị trường khiến cho giá giảm xuống gần với chi phí biên. Tuy nhiên, trong một thị trường phi cạnh tranh, do tồn tại những rào cản gia nhập ngành như bằng sáng chế và giấy phép nên doanh nghiệp độc quyền vẫn và sẽ tiếp tục thực hiện được hành vi trên. Kết quả, doanh nghiệp này thu được lợi nhuận siêu ngạch vì giá cao hơn và sản lượng thấp hơn so với khi cạnh tranh. Vậy độc quyền có lợi hay có hại ? Nếu có hại, chính phủ có biện pháp gì để kiểm soát độc quyền ? Bài sau sẽ trả lời những vấn đề này. * Còn độc quyền nhóm là khi phần lớn hay toàn bộ sản lượng của một ngành chỉ do một vài doanh nghiệp cung ứng. (Saigon Times Daily ngày 11-11-2002) https://thuviensach.vn 19 . Regulating Monopoly In a competitive market, equilibrium price and output show the levels of production and consumption that result in optimum economic efficiency. In a monopolistic market, however, since output is lower and price is higher than the competitive equilibrium there is a loss to society. The government therefore often takes measures to regulate or control monopolies. One measure is to make the market more competitive. A few years ago, for example, Honda motorbike producers could be considered monopoly in the Vietnamese market and the unit price was close to US$2,500. However, since the government allowed imported and domestically assembled motorbikes of different brands to be sold, the resulting competitive pressure forced Honda motorbike producers to lower their prices by 50%. With regard to monopolies that have exclusive access to strategic resources such as energy and gas, the government can use taxes to reduce their excess profits. The corporate income tax, for example, levied on oil companies in Vietnam is 50% while the typical rate applied to other industries is 32%. Price control is another measure that the government uses to regulate natural monopolies such as railroad, power, and water supplies. In this case, a maximum price is allowed based on a fair rate of return that the monopolist will earn from its capital investment and the risk that it will face. Yet, eliminating monopoly can at times be adverse to social welfare if governments do not have additional measures to prevent negative externalities. The motorbike problem in Vietnam traffic today is an example. Therefore, the need and method of regulating monopolies is a topic still under debate in economics. https://thuviensach.vn 19. KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN Trong thị trường cạnh tranh, sản lượng và giá cân bằng thể hiện mức sản xuất và tiêu dùng có hiệu quả kinh tế tối ưu. Tuy nhiên, trong thị trường độc quyền, do sản lượng thấp hơn trong khi giá thì cao hơn so với mức cân bằng cạnh tranh nên xã hội luôn bị tổn thất. Vì thế chính phủ thường áp dụng các biện pháp điều tiết hay kiểm soát độc quyền. Biện pháp đầu tiên là cho phép thị trường trở nên cạnh tranh hơn. Chẳng hạn, vài năm trước các nhà sản xuất xe máy của hãng Honda có thể xem là độc quyền trên thị trường Việt Nam, giá mỗi chiếc lên đến 2.500 đô-la Mỹ. Thế nhưng từ khi cho phép bán các loại xe mang nhãn hiệu khác được nhập hay lắp ráp trong nước, sức ép cạnh tranh đã buộc các nhà sản xuất xe máy Honda phải giảm giá bán hơn 50% so với trước. Đối với những ngành được độc quyền khai thác các nguồn lực chiến lược như năng lượng và khí đốt, chính phủ có thể đánh thuế để giảm bớt lợi nhuận siêu ngạch của nhà độc quyền. Ví dụ, thuế thu nhập áp dụng cho các công ty dầu khí ở Việt Nam là 50%, trong khi thuế suất phổ biến cho các ngành khác chỉ là 32%. Kiểm soát giá là một biện pháp khác mà chính phủ thường áp dụng cho các ngành độc quyền tự nhiên như đường sắt, điện, nước. Lúc này, một mức giá tối đa sẽ được ấn định trên cơ sở xác định một suất sinh lợi hợp lý của nhà độc quyền, có xét đến vốn và độ rủi ro trong đầu tư của họ. Tuy nhiên việc xóa bỏ độc quyền đôi khi có thể gây tác động bất lợi cho phúc lợi xã hội nếu chính phủ không có thêm những biện pháp ngăn ngừa các ngoại tác tiêu cực. Vấn nạn xe máy trong giao thông Việt Nam ngày nay là một ví dụ. Vì thế, sự cần thiết cùng biện pháp điều tiết độc quyền hiện vẫn là một chủ đề gây tranh cãi trong lĩnh vực kinh tế. (Saigon Times Daily ngày 18-11-2002) https://thuviensach.vn 20. Uncertainty And Risk The presence of uncertainty means that more than one outcome is possible. Tossing a com presents a situation of uncertainty since two outcomes are possible. If no information is available on the nature of the coin, we then cannot make any ex-ante estimation of the probability of receiving one outcome or another. Economists call this situation unmeasurable uncertainty. In contrast, measurable risk is what we have when probability estimates can be attached to a range of possible outcomes. In tossing a fair coin, we know that there is a 50 percent chance of getting heads or tails. It seems that we are not living in a very certain world with more economic boom and burst, more natural catastrophe, and more man-made threats ranging from the environment to terrorism. Take an example of the on-going bird-flu outbreak in Asia which is causing havoc to not only farmers but.also restaurants and tourism. This is pure uncertainty since no historical data are available to estimate the probability that the disease occurs. This makes the task of insuring against and managing this type of uncertainty extremely difficult. Unsurprisingly, we therefore prefer a situation in which we can obtain probability estimates based on accumulated historical data so that risk can be quantified and managed. The bright side is that with increased use of information technology and sophisticated markets, this task can now be done with greater ease. Nevertheless, research has shown that misjudging risks is in human nature. Over-optimism is a common factor leading to mistakes. People have high hopes for the future. In a real-estate bubble, investors tend to discount the risk of market collapse and believe in ever-rising prices. Likewise, in financial distress, panic sets in causing investors to make irrational decisions to unload their investments as soon as possible. https://thuviensach.vn 20. RỦI RO VÀ BẤT TRẮC Bất trắc hay sự không chắc chắn nghĩa là có thể có hai hay nhiều kết quả khác nhau. Việc tung một đồng xu là thể hiện một tình huống không chắc chắn vì có thể có hai kết quả. Nếu chúng ta không có thông tin gì về bản chất của đồng xu, chúng ta không thể dự kiến trước xác suất nhận được mặt này hay mặt kia. Các nhà kinh tế gọi tình thế đó là sự không chắc chắn không đo lường được. Ngược lại, rủi ro đo lường được là tình huống khi mà chúng ta có thể ước tính xác suất của mỗi kết quả có thể xảy ra. Khi tung một đồng xu thông thường, chúng ta biết là mỗi cơ hội được mặt ngửa hay mặt sấp đều là 50%. Dường như thế giới chúng ta đang sống đầy rẫy những bất trắc, khi mà kinh tế trồi sụt thất thường hơn, thiên tai nhiều hơn và hàng loạt những mối đe dọa do con người gây ra từ môi trường đến khủng bố. Một ví dụ là dịch cúm gà hiện nay đang hành hoành ở châu Á, gây ra tổn thất kinh tế không chỉ cho nông dân mà cả những nhà hàng hay ngành du lịch. Đây hoàn toàn là sự không chắc chắn bởi vì không có số liệu nào trước đó để ước tính xác suất nạn dịch có thể xảy ra. Do vậy việc bảo hiểm hay đối phó với loại hình không chắc chắn này là hết sức khó khăn. Tất nhiên chúng ta muốn tình huống mà xác suất có thể ước tính được trên cơ sở số liệu tích lũy được trong lịch sử, để từ đó có thể lượng hóa và quản lý được rủi ro. Ngày nay, công việc này dễ dàng đi rất nhiều nhờ vào việc áp dụng công nghệ thông tin cũng như các thị trường cao cấp. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cho thấy đánh giá sai rủi ro vẫn là bản chất của con người. Quá lạc quan là một yếu tố thường dẫn đến sai lầm. Người ta quá kỳ vọng vào tương lai. Trong một vụ bong bóng bất động sản, các nhà đầu tư có xu hướng coi nhẹ rủi ro thị trường sụp đổ mà cứ tin là giá sẽ tăng mãi. Tương tự, khi có khủng hoảng tài chính, các nhà đầu tư trong hoảng loạn thường có quyết định không hợp lý là rút vốn về càng nhanh càng tốt. https://thuviensach.vn (Saigon Times Daily ngày 9-2-2004) https://thuviensach.vn 21. Flying Dangerously All things being equal, workers in more hazardous environments are paid more money than other workers. From an economist's viewpoint, this wage differential exists to compensate the workers for the higher risks they face. Market efficiency is achieved when the wage is set so that workers are willing to trade their safety for extra money. Piloting airplanes is a risky job and almost everywhere around the world civilian pilots earn high incomes. According to some estimates, the total income of a Vietnam Airlines' Boeing 777 pilot is around VND 40 million a month. We can use the concept of risk to determine whether the pilot's extra income is justified. The probability that an airplane may be lost during a certain period of time is based on the accident rate per cruise hour. To adjust for increased risk during takeoff and landing, 3.7 hours of cruising are added for each flight. Thus, a 1.75-hour flight between Hanoi and Ho Chi Minh City will be equivalent to 5.45 hours of cruising. Statistical surveys show that on average one plane is lost per 1,566,000 "equivalent hours." A Vietnam Airlines Boeing 777 pilot normally flies 227 equivalent hours in a month. His probability of being killed because his plane is lost in the course of a month is, therefore, equal to 227/1,566,000 = 0,0145%. Let's assume that if the pilot worked in a safe environment with the same degree of technical requirements and stress level as piloting a plane, he would earn VND20 million per month. Therefore the other VND20 million of his income is the risk premium for accepting the risk of flying. The value he puts on his life is 20/0.0145% = VND138,000 million or US$8.8 million. https://thuviensach.vn Is the above figure too high for a working person in Vietnam? According to some international estimates, the price that people put on a life varies from as little as US$800,000 for South Koreans to US$4 million for Western Europeans, US$7 million for an Americans, and US$10 million for risk-averse Japanese. 21. HIỂM NGUY TRÊN KHÔNG Với mọi yếu tố tương đương thì những người làm việc trong môi trường nguy hại hơn sẽ được trả nhiều tiền hơn so với người khác. Dưới cái nhìn của một nhà kinh tế, chênh lệch về tiền lương như vậy là để đền bù cho rủi ro cao hơn của người lao động. Khi tiền lương đạt đến mức mà người lao động sẵn lòng đánh đổi sự an toàn với thu nhập vượt trội, đó là thị trường hiệu quả. Lái máy bay là một công việc rủi ro và hầu như ở khắp thế giới các phi công dân sự đều có thu nhập cao. Theo một số ước tính, một phi công Boeing 777 của Hàng không Việt Nam có tổng thu nhập khoảng 40 triệu đồng một tháng. Chúng ta có thể sử dụng khái niệm rủi ro để xem thu nhập vượt trội của phi công có hợp lý không. Xác suất rơi máy bay trong một khoảng thời gian nhất định được tính bằng tỉ lệ tai nạn theo giờ bay. Để xét đến cả rủi ro khi cất cánh và hạ cánh, mỗi chuyến bay được cộng thêm 3,7 giờ bay. Do đó, một chuyến bay kéo dài 1,75 giờ giữa Hà Nội và TPHCM sẽ tương đương 5,45 giờ bay. Các khảo sát thống kê cho thấy bình quân cứ mỗi 1.566.000 “giờ bay tương đương" thì có một máy bay bị rơi. Một phi công Boeing 777 của Hàng không Việt Nam mỗi tháng có khoảng 227giờ bay tương đương. Do vậy xác suất thiệt mạng do rơi máy bay trong một tháng là 227/1.566.000 = 0,0145%. https://thuviensach.vn Giả định người phi công có thu nhập 20 triệu đồng một tháng nếu làm việc trong môi trường an toàn với cùng yêu cầu chuyên môn và mức độ căng thẳng như lái máy bay. Thế thì 20 triệu đồng còn lại chính là khoản đền bù cho rủi ro khi chấp nhận lái máy bay. Người phi công đánh giá tính mạng của mình tương đương 20/0,0145% = 138 tỉ đồng hay 8,8 triệu đô-la. Liệu con số trên có quá cao đối với một người lao động ở Việt Nam? Theo một số ước tính quốc tế, người ta đặt giá cho sinh mạng của mình từ mức thấp như 800 ngàn đô-la đối với người Hàn Quốc đến 4 triệu đô-la cho người Tây Âu, 7 triệu đô-la cho người Mỹ và 10 triệu đô-la cho người Nhật không thích rủi ro. (Saigon Times Daily ngày 16-2-2004) 22 . Asymmetric Information One of the reasons markets fail sometimes, is asymmetric information, and this phenomenon has recently emerged as a major concern to many economists. Asymmetric information occurs when one party to a deal knows more than the counterpart. A seller offering a product whose quality a buyer cannot easily judge. An employer seeking to fill a vacancy who cannot easily identify the most qualified applicant in the pool. Or consider borrowers, they know their ability to repay a loan better than their creditors ever will. Information gaps can be costly and can prevent many goods and services from accessing the market. Take market for Chinese motorbike as an example. Presumably, there are only two types of motorbikes in the market: the good quality motorbikes and the poor quality motorbikes (also called lemons). Suppose a quality Chinese motorcycle costs US$700, while a "lemon" costs only US$300. should the buyers be able to spot the quality difference, they might be https://thuviensach.vn willing to pay US$800 for a high quality motorcycle and US$400 for a low-end one. Yet in reality, sellers know the quality of their inventory, what the buyers will merely obtain once they have purchased and used die goods. This is often the case in nascent markets such as this one, in which information between the parties is uneven and untested. Thus, a seller of lemons has every incentive to lie about the true quality of his motorbikes. Buyers, who know that, will be willing to pay only the average price of a good motorbike and a lemon, such as US$550. This price forces the good motorcycles out of the market, since it is significantly lower than their cost, leaving the market to be dominated by low-end motorbikes. Above is the classic case of "adverse selection" due to hidden information. The next article will show how there is room for good motorcycles in a market where sellers can signal the true quality of their products and/or buyers can screen the gems from the lemons. 22. THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG Đôi khi một lý do khiến các thị trường thất bại là thông tin bất cân xứng. Hiện tượng này đã trở thành mối quan tâm chính của các nhà kinh tế trong thời gian gần đây. Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên tham gia thỏa thuận biết nhiều hơn bên kia. Một người bán đưa ra món hàng mà người ta không dễ đánh giá chất lượng. Một người tuyển dụng lao động khó có thể biết trong số các ứng viên ai là người có năng lực nhất. Người cho vay không bao giờ biết rõ hơn người đi vay về khả năng thanh toán nợ. Sự cách biệt thông tin có thể gây tốn kém và làm cho nhiều hàng hóa hay dịch vụ không thể tham gia thị trường. Lấy thị trường xe máy Trung Quốc làm ví dụ. Giả định chỉ có hai loại xe trên thị trường này: loại chất lượng tốt và loại chất lượng kém (hay hàng dỏm). Cũng giả định giá thành một xe Trung Quốc chất lượng tốt là 700 https://thuviensach.vn đô-la Mỹ, trong khi xe dỏm chỉ có 300 đô-la. Nếu người mua có khả năng nhận biết sự khác biệt về chất lượng, họ có thể sẵn lòng trả 800 đô-la cho xe tốt và 400 đô-la cho xe xấu. Thực tế, người bán biết về chất lượng hàng của mình, còn người tiêu dùng chỉ biết được sau khi đã mua và sử dụng. Điều này thường xảy ra ở những thị trường mới xuất hiện như ví dụ đang được đề cập, nơi thông tin của hai bên là không tương đồng và chưa được kiểm chứng. Vì thế, người bán xe dỏm luôn có động cơ để nói dối về chất lượng thật của chiếc xe. Biết vậy nên người mua chỉ chấp nhận giá ở mức trung bình giữa hai loại xe, khoảng 550 đô-la. Mức giá này thấp hơn hẳn giá thành của xe tốt nên đẩy loại xe này ra khỏi thị trường, khiến thị trường chỉ còn toàn xe chất lượng thấp. Trên đây là trường hợp kinh điển về “sự lựa chọn bất lợi" do thông tin bị che đậy. Bài viết sau sẽ cho thấy làm thế nào xe máy chất lượng tốt vẫn trụ được trên thị trường, khi người bán có thể phát tín hiệu về sản phẩm của họ và người mua có thể phân biệt được vàng thau. (Saigon Times Daily ngày 24-2-2003) 23. Signaling In a market, adverse selection occurs when low quality products push high quality products out of the market because of an information gap. In the previous motorbike example, we showed how the low-quality motorcycles dominated the Chinese motorcycles market as a result. However, the story doesn't end here. In an effort to reposition their product, the sellers of the good motorcycles will try to expose the true quality of their product to the potential buyers. In other words, they will devise a signal for customers to differentiate their product from others. Warranty is one of those common signals that a seller can offer. Sellers of the bad products cannot afford to provide a warranty, the cost would be https://thuviensach.vn too high to them. In the labor market, educational degrees and certificates are other types of signal that employers normally look for when they recruit new employees. This encourages the potential employee to invest in education and training to signal her real productivity to employers and distinguish herself from those without similar degrees, who by implication are deemed to have lower-productivity. The degree-holders, therefore, have a better chance of getting jobs and enjoy higher wages. Thus, investment in signaling can help solve asymmetric information problems. Yet, this activity entails costs, which can be quite significant. In addition, the signal only works if it is credible and cannot be imitated by the providers of bad products or services. The next article will discuss the screening process by which consumers in different markets detect the bad products from the good ones. 23. PHÁT TÍN HIỆU Trong một thị trường, hiện tượng chọn lựa bất lợi xảy ra khi chất lượng kém đẩy sản phẩm chất lượng tốt ra khỏi thị trường, do nguyên nhân chênh lệch thông tin. Trong ví dụ xe máy ở bài trước, chúng tôi đã cho thấy kết quả làm thế nào xe chất lượng kém thống trị thị trường xe Trung Quốc. Tuy nhiên, câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Trong nỗ lực giành lại vị trí cho sản phẩm của mình, người bán xe chất lượng tốt sẽ cố gắng thể hiện cho người muốn mua xe thấy chất lượng thật hàng của mình. Nói cách khác họ sẽ tạo ra một tín hiệu để phân biệt hàng của mình với hàng hóa khác. Bảo hành là một trong những dấu hiệu thông dụng mà người bán xe máy tốt có thể đưa ra. Người bán xe dỏm sẽ không có khả năng đưa ra đảm bảo này vì chi phí sẽ rất tốn kém. https://thuviensach.vn Trong thị trường lao động, bằng cấp và chứng chỉ giáo dục là các loại tín hiệu khác mà chủ lao động thường tìm kiếm khi tuyển nhân viên mới. Điều này khuyến khích người làm thuê tương lai đầu tư vào giáo dục và đào tạo để phát tín hiệu về năng suất thật của mình, đồng thời để tách biệt bản thân cô ta với những người không có bằng cấp tương tự. Theo ngụ ý thì đây là những người có năng suất thấp hơn. Người có bằng do đó sẽ có một cơ hội tìm được việc làm tốt hơn và hưởng lương cao hơn. Vì vậy, đầu tư vào việc phát tín hiệu có thể giúp giải quyết các vấn đề thông tin bất cân xứng. Nhưng hoạt động này có thể tốn khá nhiều chi phí. Hơn nữa, một tín hiệu chỉ thành công khi tín hiệu đó đáng tin cậy và không thể bị giả mạo bởi những người cung cấp hàng hóa hay dịch vụ dỏm. Bài viết kế tiếp sẽ thảo luận quá trình sàng lọc, theo đó người tiêu dùng trong các thị trường khác nhau có cách phân biệt hàng xấu với hàng tốt. (Saigon Times Daily ngày 3-3-2003) 24. Screening: Risk Levels Detection Asymmetric information affects many kinds of market transactions. Yet, a player $an sometimes capture the information of the counterpart through screening, a technique which consists in offering a number of alternative arrangements. A monopoly insurance company for example, may offer owners of motorcycles an insurance policy against theft. People who have to park their motorbikes in insecure places will be particularly interested in such coverage. Since the insurance company does not have information on the parking places of these potential applicants, it cannot know levels of risk of different customers in order to charge different premiums. But setting a "blanket" average premium would be insufficent to cover claims associated with high risk motorcycles and would be deemed too expensive by owners who are always cautious with their parking places. , https://thuviensach.vn The rational thing to do for the insurance company, is to screen its clients by offering different policies. Type A Policy will cover the entire value of the insured motorbike at a high insurance premium rate designed to meet the expected claims of those with a high theft risk. Type B Policy will cover only part of the insured motorbike's value at a reasonably lower premium rate. Those with low risk will be deterred by the high price of the first policy, despite the fact that the compensation would cover the entire value of the motorcycle in the unlikely event of a theft. Likewise, high-risk owners will find the second policy insufficient as only a part of the motorcycle is insured. As a result, customers with different levels of risk will choose different policies. The insurance company thus can detect the truth about its customers' level of risk. However, that approach works only if the company has market power, i.e. it cannot be used if a customer has the ability to take advantage of the cheap rates by insuring some parts of his motorcycle with one company and other parts with another company. 24. SÀNG LỌC: TÌM HIỂU MỨC ĐỘ RỦI RO Thông tin bất cân xứng ảnh hưởng đến nhiều loại giao dịch trên thị trường. Tuy vậy, đôi khi một đối tác có thể lấy thông tin từ phía bên kia nhờ vào quy trình sàng lọc, trong đó có thủ thuật đưa những giải pháp khác nhau cho phía đối tác chọn. Ví dụ như một công ty bảo hiểm độc quyền có thể chào các chủ xe máy một hợp đồng bảo hiểm mất trộm. Những người thường phải để xe máy ở nơi không an toàn sẽ đặc biệt thích cách bảo hiểm này. Do không có thông tin về nơi đậu xe của các khách hàng trên, công ty bảo hiểm không thể biết mức độ rủi ro của những khách hàng khác nhau để tính mức phí bảo hiểm khác nhau. Một mức phí bảo hiểm trung bình được áp dụng "đồng loạt"sẽ https://thuviensach.vn không đủ để trang trải cho những người rủi ro cao, trong khi lại quá cao đối với những khách hàng luôn cẩn thận trong việc đậu xe. Điều hợp lý công ty bảo hiểm cần phải làm là sàng lọc khách hàng bằng cách chào những hợp đồng khác nhau. Hợp đồng A sẽ bảo hiểm toàn bộ chiếc xe với tỉ lệ phí bảo hiểm cao được tính đủ để thanh toán mức bồi thường dự kiến cho những người bị rủi ro mất cắp cao. Hợp đồng B sẽ chỉ bảo hiểm một phần giá trị chiếc xe với một tỉ lệ phí bảo hiểm tương đối thấp hơn. Những người rủi ro thấp sẽ không thể chấp nhận mức phí cao của hợp đồng thứ nhất, mặc dù họ có thể nhận lại toàn bộ giá trị chiếc xe trong trường hợp hiếm hoi là bị mất cắp. Tương tự, những chủ xe có độ rủi ro cao sẽ thấy hợp đồng thứ hai không thỏa đáng vì chỉ có một phần giá trị chiếc xe được bảo hiểm. Kết quả là những nhóm khách hàng có mức độ rủi ro khác nhau sẽ tự chọn các hợp đồng khác nhau. Như vậy công ty bảo hiểm có thể phát hiện sự thật về mức độ rủi ro của khách hàng. Tuy nhiên phương pháp này chỉ áp dụng được nếu công ty có sức mạnh độc quyền. Phương pháp này không thể áp dụng nếu một khách hàng có khả năng tận dụng tỉ lệ phí bảo hiểm thấp để bảo hiểm một phần chiếc xe ở công ty này và, bảo hiểm phần còn lại ở một công ty khác. (Saigon Times Daily ngày 10-3-2003) 25. The Principal-Agent Dilemma In a typical business structure, owners (principals) hire managers (agents) and delegate to the agents a certain amount of authority to run the business. Since the owners are not directly involved in the running of the firm, they are less informed than the managers. As a result, the agents may have actions that do not serve the principals interests. This can occur in several ways. https://thuviensach.vn Usually, a manager's wage does not vary with the effort he expends in serving the ultimate interest of the owners: maximizing the value of their investment. Therefore the manager has no incentive to expend his best efforts in attaining this goal. Neither an increase nor a decrease in the firm's stock price as the result of its business performance will affect the payment to the manager. This problem is often referred to as "moral hazard." A more serious problem is the conflict of interest between the principal and his agent. The manager of a firm may pursue his own goals. He may indulge in perks at the expense of the company, such as constructing luxurious facilities or undertaking other excessive spending sprees. He may look for sale bonuses rather than optimum sale prices of the company. He may seek to take on large projects in order to expand his power, even when the projects are not profitable or too risky. These goals may not help increase, and may even decrease, the market value of the owners' equity. The most obvious mechanism for limiting these agency problems is for the principal to engage in direct monitoring of the agents to ensure that the agents act in the principal's interest. However, monitoring is costly and can be unfeasible. In the next article, we will consider an indirect mechanism that uses stock options to align the interests of principals and agents. 25. VẤN ĐỀ GIỮA NGƯỜI ỦY NHIỆM VÀ NGƯỜI THỪA HÀNH Trong một cơ cấu doanh nghiệp thông thường, chủ sở hữu (người ủy nhiệm) thuê các nhà quản lý (người thừa hành) và trao cho họ một số quyền để điều hành doanh nghiệp. Do chủ sở hữu không trực tiếp điều hành công ty nên họ có ít thông tin hơn các nhà quản lý. Kết quả là người thừa hành có thể có các hành động không phục vụ cho lợi ích của chủ sở hữu. Điều này có thể xảy ra theo nhiều cách. https://thuviensach.vn Thông thường, lương của một nhà quản lý không thay đổi tùy theo nỗ lực của anh ta dành cho lợi ích cao nhất của chủ sở hữu, đó là tối đa hóa giá trị vốn đần tư. Do đó, nhà quản lý không có động cơ để cố gắng đạt được mục đích này. Việc giá cổ phiếu của công ty tăng hay giảm không ảnh hưởng đến số tiền trả cho anh ta. Vấn đề này thường được đề cập đến như là “tâm lý ỷ lại". Vấn đề nghiêm trọng hơn là mâu thuẫn về lợi ích giữa người ủy nhiệm và người thừa hành. người quản lý của một công ty có thể theo đuổi các mục đích riêng của mình. Anh ta có thể thực hiện các đặc quyền gây tốn kém cho công ty, chẳng hạn lắp đặt tiện nghi xa xỉ hay chi tiêu hoang phí quá mức. Anh ta sẽ tìm kiếm tiền thưởng theo số hàng bán hơn là giá bán tối ưu cho công ty. Anh ta có thể chạy theo các dự án lớn nhằm mở rộng quyền lực của mình, dù các dự án đó không có lãi hay quá rủi ro. Những mục tiêu này không làm tăng, thậm chí còn làm giảm giá trị của vốn chủ sở hữu trên thị trường. Nhằm hạn chế các vấn đề về thừa hành như vậy, cơ chế hiển nhiên nhất là người chủ trực tiếp giám sát người thừa hành để đảm bảo họ hành động theo lợi ích của mình. Tuy nhiên, việc giám sát là tốn kém và có thể không khả thi. Trong bài kế tiếp, chúng ta sẽ xem xét một cơ chế gián tiếp trong đó quyền chọn cổ phiếu được sử dụng để hài hòa các lợi ích của người chủ và người thừa hành. (Saigon Times Daily ngày 14-4-2003) 26 . Transfer Pricing Today, most production processes cross national borders. As we can see, a cell phone assembled in one country may contain parts produced in several other countries. When such an international supply chain belongs to one corporation, the issue of transfer pricing arises. "Transfer pricing" refers to the price at which subsidiaries of a single company "sell" goods or https://thuviensach.vn services to each other. The practice affects not only the performance of subsidiaries but also national tax revenues. Transfer prices can be based on market price, cost, or determined by negotiation. Oftentimes, however, minimizing tax liabilities is a central factor. For example, if corporate income tax rates in Taiwan and Malaysia are 20% and 40% respectively, a company's Taiwanese subsidiary can overcharge its Malaysian subsidiary for goods or services transferred. If the overcharge amount is $100,000, the profit reported in Taiwan is increased by $100,000 and the tax paid to the Taiwanese government is increased by $20,000. At the same time, the profit reported in Malaysia is reduced by $100,000 and the tax paid to the Malaysian government is reduced by $40,000. Over all, the company realizes a $20,000 tax savings. Governments find it difficult to control transfer pricing. In 1993, Nissan was fined $170 million by the United States for "unreasonably inflated" transfer prices of automobiles imported from Japan. Japan retaliated by fining Coca-Cola $150 million for "overcharging" its Japanese subsidiary on inputs imported from the us. One might conclude that the low tax rates employed by many developing countries would help the governments boosting tax revenues, since multinationals would attribute as much profits as possible to their operations in those countries. Unfortunately in reality, this is not always the case. The next article will examine how developing countries often find themselves losers in the transfer pricing game. 26. ĐỊNH GIÁ CHUYỂN GIAO NỘI BỘ Ngày nay, phần lớn các quy trình sản xuất đi qua nhiều nước. Chúng ta có thể thấy một điện thoại di động được lắp ráp ở một nước với linh kiện sản xuất từ nhiều nước khác. Khi một công ty sở hữu dây chuyền sản xuất quốc tế như vậy thì sẽ xảy ra vấn đề định giá nội bộ. Đây là giá mà các chi https://thuviensach.vn nhánh trong cùng một công ty “bán" hàng hóa hay dịch vụ cho nhau. Việc định giá nội bộ không chỉ tác động lên kết quả hoạt động của chi nhánh mà còn lên số thu thuế quốc gia. Giá nội bộ có thể dựa trên cơ sở thị trường, chi phí hay qua thương lượng. Tuy nhiên, thường yếu tố quyết định vẫn là giảm thiểu số thuế công ty phải nộp. Ví dụ, nếu thuế thu nhập công ty ở Đài Loan là 20% và Malaysia là 40% thì chi nhánh ở Đài Loan của một công ty có thể tăng giá chuyển giao hàng hóa và dịch vụ cho chi nhánh ở Malaysia. Nếu khoản nâng giá là 100.000 đô-la, lợi nhuận báo cáo ở Dài Loan sẽ tăng 100.000 đô-la và thuế nộp cho chính phủ nước này tăng thêm 20.000đô-la. Đồng thời, lợi nhuận báo cáo ở Malaysia bị giảm đi 100.000đô-la và số thuế phải đóng ở đây giảm 40.000 đô-la. Tóm lại, công ty tiết kiệm được 20.000 đô la tiền thuế. Các chính phủ không dễ kiểm soát được việc định giá nội bộ. Năm 1993, công ty Nissan bị chính phủ Mỹ phạt 170 triệu đô-la vì đã "nâng giá một cách vô lý" ô-tô nhập khẩu từ Nhật. Nhật đã trả đũa bằng cách phạt hãng Coca-Cola 150 triệu đô-la vì tính giá “quá đáng" các nguyên liệu nhập khẩu từ Mỹ cho chi nhánh ở Nhật. Có người cho rằng thuế suất thấp ở nhiều nước đang phát triển sẽ làm tăng số thu thuế của chính phủ các nước này, vì các công ty đa quốc gia sẽ muốn chuyển càng nhiều lợi nhuận càng tốt sang những chi nhánh ở đó. Đáng tiếc là thực tế không phải luôn như vậy. Bài viết kế tiếp sẽ phân tích vì sao các nước đang phát triển thường là kẻ thua thiệt trong cuộc chơi định giá nội bộ. (Saigon Times Daily ngày 30-6-2003) 27 . Transfer Pricing: The Reverse Of The Medal https://thuviensach.vn Some economists argue that by adopting a policy of low corporate taxation, developing countries may actually boost their tax revenues. According to this argument, low rates will attract multinational enterprises (MNEs) to set up affiliates in the country and through transfer pricing attribute their global profits to these affiliates. The Dominican Republic, Panama, and the Bahamas have made themselves tax havens and have even induced MNEs to relocate their headquarters. However, other developing countries are victimized by the transfer pricing game when MNEs inflate the price of inputs and lower the price of their subsidiaries' output. To avoid this scenario, governments employ the arm's length principle of price regulation. By definition, an arm's length price is the price negotiated between unrelated parties under similar conditions. The arm's length price can be determined by the market price or the cost of production. Unfortunately, tax administrations in developing countries often lack the information and technical expertise to calculate arm's length prices. An additional complicating factor is that many transactions in developing countries take the form of licensing fees, payment for consulting and management services, or royalties. Determining the fair price of these transactions is difficult. In fact, it is in the service sector that price inflation is most prevalent. The under-invoicing of imported goods can be another method of tax evasion by MNEs in high-tariff jurisdictions. Finally, MNEs may manipulate transfer pricing to circumvent restrictions on foreign exchange or capital repatriation. Research suggests that manipulation of transfer pricing is not substantial. Still, it can significantly erode the tax base of poor countries dependent on foreign investment. To guard tax revenues, governments of developing countries are often advised to improve their tax administration systems, adopt international standards of accounting and transfer pricing regulation, and participate in cross-border transfer pricing agreements. https://thuviensach.vn 27. CHUYỂN GIAO GIÁ NỘI BỘ: MẶT TRÁI CỦA VẤN ĐỀ Một số nhà kinh tế cho rằng bằng áp dụng chính sách đánh thuế doanh nghiệp thấp, các nước đang phát triển thực sự có thể tăng số thu thuế của mình. Theo lập luận này, thuế suất thấp sẽ thu hút các công ty đa quốc gia (MNE) thành lập chi nhánh ở đó và đưa lợi nhuận toàn cầu của công ty về các chi nhánh này bằng hoạt động chuyển giá nội bộ. Cộng hòa Dominic, Panama, và Bahamas đã tự biến mình thành những nơi tránh thuế và thậm chí làm cho các MNE chuyển cả trụ sở chính của họ đến đấy. Tuy nhiên, các nước đang phát triển khác lại trở thành nạn nhân trong cuộc chơi chuyển giao giá nội bộ khi MNE tăng giá đầu vào và hạ giá đầu ra từ những chi nhánh của họ. Để tránh tình huống này, các chính phủ áp dụng nguyên tắc giá thuận mua vừa bán. Theo định nghĩa giá thuận mua vừa bán là mức giá đàm phán giữa hai bên không có quan hệ trong điều kiện mua bán tương tự. Mức giá này có thể được xác định dựa trên giá thị trường hoặc chi phí sản xuất. Tiếc thay, cơ quan thuế ở các nước đang phái triển thường thiếu thông tin và chuyên môn cần thiết để tính toán mức giá thuận mua vừa bán này. Một yếu tố phức tạp khác là nhiều giao dịch ở các nước đang phát triển xảy ra dưới dạng phí li-xăng, tiền trả cho các dịch vụ tư vấn và quản lý hoặc phí sử dụng bằng phát minh. Việc xác định mức giá hợp lý của những giao dịch này là rất khó. Thực tế, khu vực dịch vụ là nơi tình trạng đội giá phổ biến nhất. Một phương pháp trốn thuế khác mà các MNE sử dụng ở những nơi có thuế quan cao là kê hóa đơn giá hàng nhập khẩu thấp. Sau cùng, MNE có thể lợi dụng giá chuyển giao nội bộ để tránh né những quy định kiểm soát ngoại hối hay việc chuyển vốn về nước. Các nhà nghiên cứu gợi ý rằng việc lạm dụng giá chuyển giao nội bộ thật ra không đáng kể. Tuy nhiên, hoạt động này có thể gây xói mòn nghiêm trọng cơ sở thuế của các nước nghèo, vốn phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài. Để đảm bảo số thu thuế, lời khuyên dành cho chính phủ các nước đang phát https://thuviensach.vn triển thường là cải thiện hệ thống quản lý thuế, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán quốc tế và quy định chuyển giao giá nội bộ, đồng thời tham gia vào những hiệp ước chuyển giao giá nội bộ xuyên quốc gia. (Saigon Times Daily ngày 7-7-2003) 28. Speculation On Car Price During the last few months automobile manufacturers have conducted an aggressive campaign to urge consumers to purchase cars before January 1, 2004, when a new tax on motor vehicles will come into effect. Currently, the special consumption tax (SCT) on cars is 100%, but the government provides an exemption of 95%. In 2004, although the SCT levied on cars will fall to 80%, the government exemption will be only 70%. The result for to-be purchased cars is an increase in actual taxes from 5% to 24%. In addition, the value added tax (VAT) on sedans will increase from 5% to 10%. Overall, the increase in taxes will total 24%. Manufacturers have already announced that the price of cars may also increase by 24%. For example, a Ford Ghia which currently sells for $28,000 may be priced at $35,000 in 20Ò4. The tax increasement of $7,000 will be passed along to the consumer, while the manufacturer's revenue on this car will remain unchanged. However, the argument that car prices will automatically increase by 24% is not correct. Consumers bear the entire tax incidence only when demand is not sensitive to price. An example is demand for coffins. An increase in the price of coffins will not translate into decreased demand, and vice versa. Consumers also pay all of the tax when the cost of supply does not fluctuate with quantity consumed. An example is a small country that imports a commodity at the world price. Fortunately cars in Vietnam do not fall in to either of these examples. https://thuviensach.vn The conclusion is that while the price will rise, the incidence of the 24% increase in taxes will be shared by manufacturers and purchasers. The Ford Ghia might possibly be priced at $31,000, with purchasers paying $3,000 more, producers earning $3,000 less, and $6,000 goes to the government's tax revenue. Time will tell how supply and demand will impact the distribution of tax incidence in this case. 28. XÉT ĐOÁN GIÁ Ô TÔ Vài tháng qua các nhà sản xuất ô tô đã ráo riết tiến hành một chiến dịch thúc hối khách hàng mua xe trước ngày 1/1/2004, thời điểm xe bắt đầu chịu thuế mới. Ô tô hiện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (SCT) 100%, nhưng Chính phủ cho miễn giảm 95%. Sang năm 2004, mặc dù SCT đánh vào ô tô giảm xuống 80% nhưng chính phủ chỉ cho miễn giảm 70%. Kết quả là các xe mua sau này bị tăng thuế từ 5% lên 24%. Ngoài ra, thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với ô tô con sẽ tăng từ 5% lên 10%. Như vậy tổng mức tăng hai loại thuế này là 24%. Các hãng sản xuất cũng đã thông báo là giá xe có thể tăng lên 24%. Ví dụ, xe Ford Ghia hiện bán 28.000 USD sang năm 2004 có thể sẽ bán 35 000 USD. Khoản tăng thuế 7.000 USD sẽ do người mua gánh chịu, trong khi doanh thu của nhà sản xuất loại xe này vẫn không đổi. Tuy nhiên, thật sai lầm khi lập luận là giá xe sẽ đương nhiên tăng 24%. Gánh nặng thuế chỉ đổ hoàn toàn lên người mua khi cầu không thay đổi theo giá. Ví dụ đơn giản là nhu cầu mua quan tài. Tăng giá quan tài không làm giảm nhu cầu mua và ngược lại. Người tiêu dùng cũng chịu toàn bộ thuế khi giá thành không biến động theo số lượng tiêu dùng. Ví dụ như một nước nhỏ nhập hàng theo giá thế giới. May mà ô tô ở Việt Nam không rơi vào trường hợp nào. Tóm lại, giá ô tô sẽ tăng, nhưng gánh nặng khoản tăng thuế 24% sẽ được chia sẻ giữa nhà sản xuất và người mua. có thể giá bán xe Ford Ghia sẽ là https://thuviensach.vn 31 000 USD, người mua trả thêm 3-000 USD, nhà xe chịu giảm doanh thu 3-000 USD, và khoản thuế 6.000 USD này chuyển vào ngân sách nhà nước. Thời gian sẽ cho thấy quan hệ cung và cầu tác động như thế nào lên việc phân chia gánh nặng thuế trong trường hợp này. (Saigon Times Daily ngày 22-12-2003) 29. Economic of gifts Have you ever received a gift that you would have never bought with your own money and you have almost no demand? Or perhaps you have received a gift of something you like, but you already received several, so an additional one does little to increase your satisfaction. Such a circumstance is especially common during year-end holidays, such as X'mas or Tet. People give gifts for various reasons. It can be a demonstration of friendship, love, family ties and status or for reciprocal favors. Parents value their kids' pleasure of receiving gifts from Santa Claus more than the prices they paid on those gifts. On New Year's Eve, bosses raise their statuses by giving red envelops to the inferiors who in turn are happier to serve the bosses. These instances bring benefits to both givers and receivers which, in economic terms, is expressed as an increase in utility for both sides. Yet, more often than not, gifts turn out to be unwanted by the receivers because they are unsuitable or redundant. Some givers try to guess what receivers like and buy the gift accordingly. Others will just go ahead and buy common-gifts, say a Buche de Noel or boxes of Chinese sausage and deliver it. Guess tends to be wrong and common-gifts are plentiful to the receivers. No wonder gifts are changing hands more frequently over the holidays. Do not be surprised if you happen to receive from a friend the very bottle of whisky that you previously gave to another friend! Let alone https://thuviensach.vn receivers often value gifts less than the prices that givers paid. Society thus incurs deadweight loss. An estimate shows that 10% of money spent on gifts is wasteful. Given the amounts spent on gifts for birthdays, weddings, and even promotions during the year, this amounts to a large figure. What would an economist do? Well, she would find it more effective to choose and deliver gifts to close friends and relations, whose preferences she knows, and more efficient to give cash or gift voucher to others. After all it is the sentiment that counts. 29. KINH TẾ HỌC QUÀ BIẾU Bạn đã từng nhận được món quà mà bạn không bao giờ tự mình bỏ tiền ra mua và cũng chẳng có nhu cầu? Hoặc bạn nhận thêm một món đồ ưa thích nhưng cũng không vui hơn vì đã nhận được quá nhiều. Tình huống này đặc biệt phổ biến trong những ngày lễ cuối năm, chẳng hạn Giáng sinh hay Tết. Có nhiều lý do để người ta cho quà. Đó có thể là biểu hiện tình bạn, tình yêu, quan hệ trong gia đình hay để trả ơn. Với các bậc phụ huynh, niềm vui của con mình khi nhận quà từ ông già Noel có giá trị lớn hơn số tiền họ phải bỏ ra mua quà. Đầu năm mới, các sếp khẳng định vị trí của mình bằng cách lì xì cho nhân viên và đến lượt các nhân viên cảm thấy vui hơn khi được làm việc cho sếp. Những tình huống này đều mang lại lợi ích cho cả người cho lẫn người nhận, mà nói theo ngôn ngữ kinh tế, là độ thỏa dụng của cả hai bên đều tăng. Tuy nhiên, phần lớn các món quà trở thành bất đắc dĩ đối với người nhận vì không hợp hay thừa. Vài người cố đoán xem người nhận thích quà gì để mua. Những người khác vô tư mua một món phổ biến như cái bánh Noel hay hộp lạp xưởng làm quà. Đoán thường là sai, còn quà tặng phổ biến thì người thường được biếu không thiếu. Vì lẽ đó, quà biếu được chuyền qua nhiều tay hơn trong các dịp lễ tết. Đừng ngạc nhiên nếu tình cờ có người https://thuviensach.vn biếu bạn chính chai rượu ngoại mà bạn đã tặng người khác trước đó! Chưa kể giá trị của món quà đối với người nhận thường thấp hơn giá mà người cho phải trả. Vì thế, xã hội sẽ chịu mất mát vô ích. Một ước tính cho thấy 10% số tiền chi cho quà cáp là lãng phí. Tính luôn cả các khoản chi quà biếu sinh nhật, cưới hỏi và thậm chí mừng lên chức thì tổng số mỗi năm là rất lớn. Một nhà kinh tế sẽ làm gì? Đơn giản, để hiệu quả cô ta sẽ cho quà người quen hay bạn thân vì đã biết ý thích của họ, và để kinh tế cô ta sẽ tặng bằng tiền hoặc phiếu mua quà cho những người khác. Suy cho cùng, tình cảm mới là quan trọng. (Saigon Times Daily ngày 29-12-2003) 30. Guanxi: A Ties That Bind People visit each other during Tet not only to celebrate the new year but also to tighten relationships. The tradition can be well expressed by Guanxi, a Chinese term meaning connection. It is often used to describe the role of interpersonal relationships in business, particularly in Asia. Opinion is divided on whether guanxi exerts a positive or negative effect on economic development. Some argue that guanxi functions like social capital, contributing to the development of an economy. In business, the right connections can directly affect the success of a transaction. For instance, a businessman may be able to circumvent bureaucratic procedures in order to close a deal by relying on her friend who works for the government agency tasked with executing the administrative procedure in question. Guanxi can serve as a screening tool against imperfect information. An employer may find it safer to hire close family I members or those he knows based on regional or school ties. In general, these relationships may facilitate economic activities and promote growth. https://thuviensach.vn Others argue that oftentimes guanxi is synonymous with corruption. In a business climate where laws are vague and often not enforced, people will turn to guanxi when a dispute arises. Those with the authority to enforce or interpret the laws will find themselves the target of guanxi seekers. Individuals looking to establish a relationship with these officials may use many methods to cultivate their guanxi, including the two infamous practices of gift-giving and entertainment. When inferior bids win contracts and qualified candidates are rejected, economic activity will rely on guanxi as protection racket. An economy which relies excessively on guanxi may breed cronyism, with the rule of relationships supplanting the rule of law. Thus, a challenge facing many developing countries trying to be more open and prosperous is to make a transition from guanxi towards building a strong and enforceable legal framework. 30. QUAN HỆ: SỢI DÂY RÀNG BUỘC Mọi người thăm nhau trong dịp Tết không chỉ để mừng năm mới mà còn để thắt chặt tình thân hữu. Truyền thống này được lột tả bằng khái niệm quan hệ, mà theo tiếng Hoa là để nói lên vai trò kết nối giữa con người trong kinh doanh, đặc biệt ở châu Á. Có những ý kiến khác nhau về việc liệu quan hệ có tác động tích cực hay tiêu cực đối với phát triển kinh tế. Một số người lập luận quan hệ có chức năng như vốn xã hội góp phần vào sự phát triển của một nền kinh tế. Trong kinh doanh, quen biết đúng chỗ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công của một giao dịch. Ví dụ, một doanh nhân có thể tránh được thủ tục phiền hà để hoàn tất một vụ làm ăn nhờ có bạn làm việc trong cơ quan nhà nước thụ lý thủ tục hành chính đó. quan hệ cũng là một công cụ sàng lọc khi thông tin không hoàn hảo. Một chủ lao động sẽ an tâm hơn khi thuê bà con hoặc những người mà anh ta biết qua mối quan hệ đồng hương hay cùng trường. Nói chung, những mối quan hệ như vậy có thể hỗ trợ các hoạt động kinh tế và thúc đẩy tăng trường. https://thuviensach.vn Những người khác thì cho rằng quan hệ đôi khi đồng nghĩa với tham nhũng. Trong một môi trường kinh doanh nơi luật lệ không rõ ràng và không được thực thi, người ta sẽ dựa vào quan hệ để giải quyết bất đồng. Những ai có quyền lực thì hay diễn dịch luật sẽ trở thành mục tiêu của những kẻ tìm kiếm quan hệ. Những cá nhân tranh thủ tạo dựng quan hệ với các viên chức này sử dụng nhiều phương pháp để vun đắp, phổ biến là quà cáp và vui chơi. Khi gói bỏ thầu đắt vẫn thắng thầu và ứng viên có năng lực bị từ chối việc làm, hoạt động kinh tế sẽ phụ thuộc vào quan hệ như một dạng bảo kê. Một nền kinh tế quá phụ thuộc vào quan hệ sẽ nuôi mầm mống của chủ nghĩa thân quen, ở đó các hoạt động bị chi phối bởi quan hệ thay vì luật pháp. Do đó, đối với nhiều nước đang phát triển, thách thức trên con đường cởi mở và thịnh vượng là phải chuyển dịch từ quan hệ sang hướng thiết lập một khuôn khổ pháp luật vững chắc và có thể thực thi. (Saigon Times Daily ngày 2-2-2004) 31. Home Bound Ticket Every Tet there are complaints about passenger transportation. Thousands of people queue all days in Saigon Station to buy train ticket. All flights are fully booked. Long distant buses are chock-full. Is there anyway to ease the problem? The quick answer is: the Government should buy more wagons, locomotives, cars, and airplanes. However, should the railroad company buy more trains only for use during Tet, then have them lying idle for the rest of the year? Economists have had the answer by addressing the demand side. That is the theory of the peak time pricing. At the peak time, the price is increased in order to reduce the demand, or to shift a portion of demand to the off https://thuviensach.vn peak time. If one person found the ticket during Tet is more expensive, she may have incentive to aưange her holiday at a time different from Tet, even though her brother working in the railroad company can get her a ticket. The rise in price also helps to increase supply. Airlines might lease more planes for Tet, and high fare offsets high lease of short contracts. Some companies would find incentive to put their cars into long distant service, those otherwise would be parked in the garage. This policy is already applied in services such as hotel, electricity, and telephone. It is often hidden by a marketing trick: instead of increasing the price at peak time, service providers set "regular price" at high level, then offer off peak discount. High ticket price during Tet can be sensitive and make passengers angry. However, the moral issue can be seen as making ticket available to those who need a family reunion after a hard working year, and allowing whoever not have such a demand to enjoy low price at off peak season. 31. VÉ VỀ QUÊ Tết nào cũng có những than phiền về vận chuyển hành khách. Hành khách rồng rắn chờ mua vé cả ngày trời ở ga Sài Gòn. Các chuyến bay hết chỗ. Xe khách đường dài nêm cứng. Liệu có biện pháp giảm nhẹ vấn đề này? Câu trả lời nhanh nhảu là: nhà nước nên đầu tư thêm toa xe, đầu máy, Ô tô và máy bay. Tuy nhiên, liệu ngành đường sắt có nên mua thêm những đoàn tàu chỉ để chạy trong Tết, sau đó để nằm không suốt năm? Các nhà kinh tế đã tìm được lời giải bằng cách tiếp cận phía cầu. Đó là lý thuyết định giá cao điểm. Vào lúc cao điểm, giá tăng lên nhằm mục đích giảm nhu cầu hay chuyển một phần cầu sang giai đoạn thấp điểm. Nếu một https://thuviensach.vn người thấy giá vé Tết cao hơn, cô sẽ có động cơ thu xếp ngày nghỉ của mình sang thời gian ngoài Tết, mặc dù em trai cô làm trong ngành đường sắt có thể mua vé giúp cô. Giá tăng lên cũng góp phần làm tăng cung. Các công ty hàng không có thể thuê thêm máy bay trong dịp Tết, giá vé cao sẽ bù lại giá thuê cao của hợp đồng ngắn hạn. Một số công ty sẽ có động lực đưa xe của mình vào chạy đường dài, thay vì để chúng nằm không trong ga-ra. Chính sách này đã được áp dụng ở những dịch vụ như khách sạn, cấp điện, điện thoại. Thường thì chính sách được giấu dưới một thủ thuật marketing: thay vì tăng giá vào cao điểm, người cung cấp dịch vụ sẽ định "giá thông thường" ở mức cao, sau đó giảm giá giai đoạn thấp điểm. Giá vé cao trong Tết có thể nhạy cảm và làm hành khách tức giận. Tuy nhiên, vấn đề đạo đức có thể được nhìn nhận là làm sao có vé cho những người có nhu cầu về đoàn tụ gia đình sau một năm lao động vất vả, đồng thời cho những người không có nhu cầu đó được hưởng giá thấp vào lúc khác. (Saigon Times Daily ngày 5-1-2004) 32. Revisiting SARS Markets react to sudden, unexpected changes, such as geopolitical instability, price shocks and disease. The outbreak of Severe Acute Respiratory Syndrome (SARS) last year was certainly unexpected. Although the 6,500 confirmed cases and nearly 500 deaths worldwide were not significant in comparison with other epidemics, SARS had a great impact on domestic economies and global trade. The Chinese economy was expected to grow at 8% at the beginning of last year but was revised to 6% after the SARS outbreak. In Beijing and https://thuviensach.vn Hong Kong consumer spending plummeted since consumers preferred to stay home. Neighboring countries were hurt as well. Japan, Korea, Taiwan and Singapore, all major trading partners of China, faced a drop in demand for their automobiles, electronics and other manufactured products for some time. SARS had a major impact on tourism and business travel. Tourism ground to a halt in the affected countries for a period of time before slowly reviving once the outbreak was contained. Business travel fell around the world, and hotel occupancy rates plunged. In Vietnam it was calculated that the SARS epidemic cost the travel sector 61,600 jobs and $120 million. However, since tourism and business travel affect all sectors of the economy, the true impact of SARS was even greater. It is estimated that overall the SARS outbreak cost the Vietnamese economy 120,000 jobs and $220 million in GDP. The consequences of SARS for the domestic and global economy were larger than any non-economic event since OPEC oil embargo of 1973. Recent reports of the first confirmed SARS case of 2004 have begun to fuel fears of further economic turbulence in the coming months. 32. THĂM LẠI BỆNH SARS Thị trường phản ứng trước những thay đổi bất ngờ như sự biến động về địa lý chính trị, các cú sốc về giá và cả bệnh tật. Sự bùng phát căn bệnh Hội chứng Viêm đường hô hấp cấp (SARS) năm ngoái rõ ràng là một yếu tố bất ngờ. Mặc dù 6.500 ca nhiễm bệnh được công bố và gần 500 ca tử vong trên toàn thế giới không phải là nhiều so với những cơn đại dịch khác, nhưng SARS đã có tác động mạnh mẽ lên các nền kinh tế trong nước và thương mại toàn cầu. https://thuviensach.vn