🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Các Cuộc Chiến Tranh Tiền Tệ Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn Dành tặng Ann, Scott, Ali, Will và Sally — với tình yêu và lòng biết ơn và để tưởng nhớ cha tôi, Richard H. Rickards với Old Breed ở Peleliu, Okinawa và Trung Quốc -----*----- “Khi bạc tiền trong xứ Ai Cập và xứ Canaan đã hết, thì tất cả dân Ai Cập đều đến cùng Joseph mà kêu rằng: Xin cho chúng tôi lương thực; lẽ nào vì cớ hết tiền mà chúng tôi phải chết trước mặt Chúa sao?” • Sáng Thế Ký 47:15, phiên bản Vua James https://thuviensach.vn LỜI NÓI ĐẦU Một chiều chủ nhật yên ả ngày 15 tháng Tám năm 1971, Tổng thống Richard Nixon đã xuất hiện trên chương trình truyền hình phổ biến nhất Hoa Kỳ, công bố chính sách kinh tế mới của ông. Chính phủ đang áp đặt các biện pháp kiểm soát giá cả trên toàn nước Mỹ, áp thuế nhập khẩu cao và cấm dùng đô-la để mua vàng. Đất nước đang trong cơn khủng hoảng, hậu quả từ một cuộc chiến tranh tiền tệ đang diễn ra khiến cho niềm tin vào đồng đô-la Mỹ bị đổ vỡ, và Tổng thống đã quyết định rằng các biện pháp cực đoan là cần thiết. Hiện nay chúng ta cũng đang có một cuộc chiến tranh tiền tệ mới, và một cuộc khủng hoảng niềm tin vào đồng đô-la cũng đang diễn ra. Lần này các hậu quả sẽ còn tồi tệ hơn nhiều so với thời Nixon. Tiến trình toàn cầu hóa, các công cụ phái sinh và đòn bẩy được sử dụng hơn bốn mươi năm qua đã tạo nên sự hỗn loạn tài chính và nó còn lan tràn khắp nơi, không thể ngăn chặn nổi. Cuộc khủng hoảng mới sẽ có thể khởi nguồn từ các thị trường tiền tệ và lây lan nhanh chóng sang các thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và thị trường hàng hóa. Khi đồng đô-la sụp đổ, các thị trường được định giá bằng đồng tiền này cũng sẽ sụp đổ theo. Sự hỗn loạn sẽ nhanh chóng lan tràn khắp thế giới. Kết quả là, một vị Tổng thống Hoa Kỳ, có thể là ông Obama, sẽ lại xuất hiện trên sóng phát thanh truyền hình và trên không gian mạng để thông báo một kế hoạch can thiệp triệt để nhằm giải cứu đồng đôla không để nó sụp đổ hoàn toàn, kêu gọi sự tham gia của các cơ quan quyền lực nhà nước. Kế hoạch mới này có thể liên quan đến việc quay lại chế độ Bản vị vàng. Nếu vàng được sử dụng, giá vàng sẽ được đẩy cao hơn rất nhiều nhằm hỗ trợ https://thuviensach.vn khối lượng cung tiền khổng lồ với số lượng cố định của lượng vàng khả dụng. Những người Mỹ đã đầu tư vào vàng sẽ phải đối mặt với mức thuế 90% đánh vào “các khoản lợi nhuận mới từ trên trời rơi xuống”, thuế này được áp dưới danh nghĩa là sự công bằng. Vàng của châu Âu và Nhật Bản hiện nay được cất giữ tại New York sẽ có thể được quốc hữu hóa và chuyển đổi để phục vụ cho Chính sách đô-la mới. Không nghi ngờ gì nữa, người châu Âu và Nhật Bản sẽ được nhận các tờ biên nhận số lượng vàng trước đây của họ, có thể chuyển đổi thành tiền đô-la mới theo một mức giá cao hơn. Theo cách chọn lựa khác, Tổng thống có thể tránh không quay lại với vàng mà sử dụng một loạt các hoạt động kiểm soát vốn cùng với sự sáng tạo ra một đồng tiền toàn cầu từ IMF nhằm khôi phục thanh khoản và ổn định tình hình. Vụ giải cứu trên quy mô toàn cầu này của IMF sẽ không dùng đồng đô-la cũ – loại tiền không thể chuyển đổi được – mà phải là một loại tiền toàn cầu mới được phát hành, gọi là đồng SDR. Cuộc sống sẽ tiếp diễn, nhưng hệ thống tiền tệ quốc tế sẽ không bao giờ giống như trước kia. Đây không phải là sự tiên đoán quá lời. Điều này đã từng lặp đi lặp lại trong quá khứ: các loại tiền giấy sụp đổ, tài sản bị đóng băng, vàng bị sung công và hoạt động kiểm soát vốn được áp đặt. Hoa Kỳ không được “miễn dịch” với các động thái này; thực ra nước Mỹ đã từng biện hộ nhiều cho việc giảm giá đồng đô-la từ thập niên 1770 đến thập niên 1970, thông qua giai đoạn Cách mạng, thời Nội chiến, Đại khủng hoảng và siêu lạm phát thời chính quyền Carter. Việc đồng tiền không sụp đổ trong một thế hệ chỉ mang hàm ý rằng sẽ có sụp đổ trong tương lai. Đây không phải là vấn đề dự đoán – hiện đã có đủ các điều kiện tiên quyết. Ngày nay, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed), dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Ben Bernanke, đang chơi một canh bạc lớn nhất trong lịch sử tài chính. Bắt đầu từ năm 2007, Fed đã tranh đấu không để suy sụp nền kinh tế bằng cách cắt giảm các mức lãi suất ngắn hạn và cho vay tự do. Cuối cùng, các mức lãi suất về zero, và Fed dường như đã “hết đạn”. Sau đó, trong năm 2008, Fed đã tìm thấy một “viên đạn mới”: nới lỏng định lượng (quantitative easing). Trong khi Fed mô tả chương trình này là sự https://thuviensach.vn nới lỏng các điều kiện tài chính thông qua việc hạ thấp các mức lãi suất dài hạn, thì về bản chất đây chỉ là chương trình in tiền để thúc đẩy tăng trưởng. Fed đang cố gắng để thổi phồng giá tài sản, giá hàng hóa và giá tiêu dùng nhằm bù đắp sự giảm phát tự nhiên và kéo theo sau là đổ vỡ. Tổ chức này, xét về căn bản, đang chơi kéo co với nạn giảm phát, mà giảm phát thường đi kèm với suy thoái. Giống như trong trò kéo co điển hình, mới đầu sẽ chưa có gì xảy ra. Hai đội cân bằng với nhau và ghìm nhau bất động một lúc, chỉ có sợi dây là rất căng. Cuối cùng, một bên sẽ sụp đổ, và phía bên kia sẽ kéo những kẻ thua cuộc qua vạch ngang để tuyên bố chiến thắng. Đây là bản chất canh bạc của Fed. Phải gây ra lạm phát trước khi giảm phát chiếm ưu thế, phải giành chiến thắng trong trò kéo co này. Trong trò kéo co, sợi dây là kênh dẫn để bên này truyền áp lực cho bên kia. Cuốn sách này muốn trình bày về sợi dây. Trong cuộc thi kéo co giữa lạm phát và giảm phát, sợi dây là đồng đô-la. Đồng đô-la chịu tất cả các sức căng của các lực lượng đối lập nhau và lan tỏa áp lực ra toàn thế giới. Giá trị của đồng đô-la là cách để biết ai là người thắng. Thực chất trò kéo co này là cuộc chiến tranh tiền tệ, là cuộc tấn công vào giá trị của mỗi cổ phiếu, trái phiếu và hàng hóa trên thế giới. Trong viễn cảnh tốt nhất mà Fed có thể có, giá trị tài sản sẽ được củng cố, các ngân hàng khỏe mạnh hơn, nợ công tan biến và dường như không còn bị người ta quan tâm để ý đến nữa. Nhưng khi in thêm tiền với quy mô chưa từng có, Bernanke đã trở thành một Pangloss của thế kỷ 21, hy vọng điều tốt đẹp nhất và không chuẩn bị kỹ cho điều tồi tệ nhất. Có một mối nguy thực sự: việc Fed in tiền có thể bất ngờ dẫn đến siêu lạm phát. Ngay cả khi lạm phát không ảnh hưởng đến giá tiêu dùng, nó vẫn có thể thể hiện rõ thông qua giá tài sản dẫn đến bong bóng cổ phiếu, hàng hóa, đất đai và các loại tài sản hữu hình khác – các dạng bong bóng này dễ bị nổ tung giống như bong bóng cổ phiếu công nghệ vào năm 2000 hoặc bong bóng nhà ở năm 2007. Fed tuyên bố rằng họ đã có các công cụ cần thiết để ngăn chặn hậu quả, nhưng những công cụ đó chưa bao giờ được thử nghiệm trong những bối cảnh và trong quy mô lớn như trên. Các biện pháp khắc phục hậu quả của Fed – nâng cao lãi suất và thắt chặt tiền tệ – có thể https://thuviensach.vn trực tiếp dẫn đến dạng suy thoái mà Fed ngay từ đầu đã muốn né tránh. Nền kinh tế Mỹ đang nằm trong ranh giới mong manh giữa suy thoái và siêu lạm phát. Hàng triệu nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp và người lao động tự hỏi liệu Fed còn có thể cầm cự được bao lâu nữa. Tệ hơn nữa, những sự việc này không xảy ra trong môi trường chân không. Nếu các động thái của Fed chỉ có ảnh hưởng giới hạn trong phạm vi nền kinh tế Mỹ thì không có thêm chuyện, nhưng thực tế không phải vậy. Các hiệu ứng của việc in thêm tiền đô-la là mang tính toàn cầu; khi tiến hành nới lỏng định lượng, Fed đã tuyên bố chiến tranh tiền tệ trên toàn thế giới. Rất nhiều hiệu ứng đáng sợ từ chính sách của Fed tại Hoa Kỳ lại đang xuất hiện ở các nước khác. In thêm đô-la tại Hoa Kỳ có nghĩa là lạm phát ở Trung Quốc cao hơn, giá lương thực ở Ai Cập cao hơn và xuất hiện bong bóng chứng khoán tại Brazil. In tiền có nghĩa là khoản nợ của Mỹ đã giảm giá trị, các chủ nợ nước ngoài sẽ được bồi hoàn bằng đồng đô-la có giá rẻ hơn. Phá giá tiền tệ nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp tăng cao hơn tại các nền kinh tế đang phát triển vì ngành xuất khẩu của họ trở nên đắt đỏ hơn đối với người Mỹ. Tình trạng lạm phát đi theo cũng có nghĩa là giá cả của những đầu vào thiết yếu bị đẩy cao hơn tại các nền kinh tế đang phát triển: đồng, dầu mỏ, bắp và lúa mì chẳng hạn. Các chính phủ nước ngoài đã bắt đầu đấu tranh chống lại nạn lạm phát do nước Mỹ gây ra, thông qua các biện pháp như trợ giá, thuế quan và kiểm soát vốn; cuộc chiến tranh tiền tệ đang mở rộng nhanh chóng. Nếu như việc Fed in tiền trên một quy mô hàng nghìn tỷ đô-la có thể là chuyện mới, thì các cuộc chiến tranh tiền tệ không mới. Chiến tranh tiền tệ đã xảy ra và chỉ trong thế kỷ 20 đã có hai cuộc chiến và luôn luôn mang đến những kết thúc tệ hại. Ở mức độ tốt đẹp nhất, các cuộc chiến tranh tiền tệ để lại cảnh tượng thảm hại của những quốc gia đánh cắp sự tăng trưởng của các đối tác thương mại. Với mức độ tệ hại nhất thì chúng thoái hóa thành các cơn lạm phát, suy thoái kinh tế, những hành động trả đũa và bạo lực thực sự bởi vì tranh giành nguồn tài nguyên sẽ dẫn đến chiến tranh và xâm lược. Các tiền lệ đã được người ta nhận thức đầy đủ, nhưng các mối hiểm nguy hiện https://thuviensach.vn nay thậm chí còn lớn hơn, tăng theo hàm lũy thừa bởi quy mô và sự phức tạp của các mối liên kết tài chính trên toàn thế giới. Nhiều nhà quan sát đã thất vọng khi chứng kiến hàng loạt nhà kinh tế học đã không dự đoán được hoặc ngăn chặn được những thảm họa kinh tế trong những năm gần đây. Họ không chỉ có các lý thuyết thất bại trong việc ngăn ngừa tai họa, mà họ còn đang làm cho các cuộc chiến tranh tiền tệ trở nên xấu hơn. Các giải pháp mới nhất – chẳng hạn như tiền tệ toàn cầu được gọi là đồng SDR – cho thấy các mối nguy tiềm ẩn, trong khi chẳng giải quyết được các tình thế lưỡng nan hiện nay. Trong số các nguy cơ mới, có các mối đe dọa không chỉ đối với sự thịnh vượng của nền kinh tế mà còn thách thức đến an ninh quốc gia của chúng ta. Khi các chuyên gia an ninh nghiên cứu các vấn đề tiền tệ (theo lối truyền thống thì việc này của Bộ Ngân khố), họ liên tục chú tâm đến các mối đe dọa mới, từ việc mua vàng bí mật của Trung Quốc đến chương trình làm việc của những quỹ đầu tư quốc gia. Lớn hơn bất kỳ mối đe dọa đơn lẻ nào khác chính là sự nguy hiểm khi bản thân đồng đô-la sụp đổ. Các quan chức quân sự và tình báo cấp cao hiện đã nhận ra rằng ưu thế quân sự độc nhất của Hoa Kỳ chỉ có thể được duy trì khi đồng đô-la giữ được vị thế thượng phong độc nhất. Nếu đồng đô-la sụp đổ, nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ cũng sụp đổ theo. Trong khi kết quả của cuộc chiến tranh tiền tệ hiện nay là chưa rõ ràng, có một số kịch bản dành cho trường hợp tồi tệ nhất là gần như không thể tránh khỏi nếu các nhà lãnh đạo kinh tế Hoa Kỳ và thế giới không học hỏi được từ những sai lầm của những người tiền nhiệm. Cuốn sách này nghiên cứu về cuộc chiến tranh tiền tệ hiện nay của chúng ta thông qua các góc độ: chính sách kinh tế, an ninh quốc gia và các tiền lệ trong lịch sử. Sách giải thích các mô hình đã thất bại, các lối tư duy hão huyền và sự vận hành chính sách công một cách kiêu căng ngạo mạn như hiện nay, và trình bày cách thức hướng đến một chuỗi hành động sáng suốt và hiệu quả hơn. Sau cùng, độc giả sẽ hiểu tại sao cuộc chiến tranh tiền tệ lần này lại là cuộc đấu tranh có ý nghĩa nhất trên thế giới hiện nay – nó quyết định kết quả của tất cả những cuộc đấu tranh khác. https://thuviensach.vn PHẦN I TRÒ CHƠI CHIẾN TRANH https://thuviensach.vn 1 TRƯỚC CHIẾN TRANH “Hệ thống tiền tệ quốc tế hiện nay là sản phẩm của quá khứ.” — Hồ Cẩm Đào, Tổng Bí thư ĐCS Trung Quốc, 16/01/2011 Phòng thí nghiệm vật lý ứng dụng (APL), tọa lạc trên một khoảnh đất rộng hơn 400 mẫu Anh vốn trước kia là đất trồng trọt ở khoảng giữa Baltimore và thủ đô Washington, D.C., là một trong những hình ảnh tiêu biểu nhất của các cơ sở nghiên cứu vũ khí và vật lý ứng dụng kỹ thuật cao và tối mật của Hoa Kỳ. Phòng thí nghiệm này phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng, chuyên môn chính của họ bao gồm việc nghiên cứu vũ khí hiện đại và thám hiểm không gian. Các chuyên gia tại đây rất tự hào khi nói với quý khách viếng thăm rằng trên bề mặt hoặc bay gần Mặt Trăng và mọi hành tinh trong hệ mặt trời đều có một thiết bị do APL thiết kế. Phòng thí nghiệm vật lý ứng dụng này được lập nên một cách vội vã vào năm 1942, không bao lâu sau cuộc tấn công tại Trân Châu Cảng, với mục đích ứng dụng khoa học vào việc giải quyết vấn đề hiện đại hóa vũ khí. Đa số vũ khí mà quân đội Mỹ sử dụng trong những ngày đầu Thế chiến thứ II đã lỗi thời hoặc kém hiệu quả. Thoạt tiên, phòng thí nghiệm được đặt tại một cửa hàng buôn bán xe hơi cũ, được Bộ Chiến tranh trưng dụng, nằm trên đại lộ Georgia thuộc Silver Spring, Maryland. Từ những ngày đầu thành lập, đơn vị này đã hoạt động trong bí mật, tất nhiên hệ thống bảo mật đã thay đổi nhiều, từ một vài người lính vũ trang gác cổng lúc đầu trở thành những bộ phận cảm biến tinh vi và rất nhiều vòng kiểm soát an ninh hiện nay. Nhiệm https://thuviensach.vn vụ đầu tiên của APL là phát triển một loại ngòi nổ không tiếp xúc[1] mang tên VT, dùng cho các tàu chiến khi chống không kích từ máy bay địch. Sau này, cùng với bom nguyên tử và radar, loại ngòi nổ này được xem là một trong ba công nghệ đóng góp nhiều nhất vào thắng lợi của Mỹ trong Thế chiến thứ II. Kể từ thành công ban đầu đó, các chương trình, ngân sách và cơ sở vật chất dành cho APL càng lúc càng phát triển. Trong những thập kỷ gần đây, có thể kể tên hàng loạt vũ khí cao cấp và hệ thống vũ trụ do APL phát triển cho Bộ Quốc phòng và NASA như tên lửa hành trình Tomahawk, tên lửa phòng thủ Aegis hay các tàu vũ trụ chuyên dụng. Bên cạnh việc nghiên cứu vũ khí và không gian, phòng thí nghiệm này luôn quan tâm đến khía cạnh tri thức và chiến lược trong những gì họ làm cho quân đội. Trong số những chức năng khá trừu tượng này, nổi bật hơn cả là bộ phận thí nghiệm Phân tích Chiến tranh, một trong những cơ sở hàng đầu trong cả nước Mỹ về trò chơi chiến tranh và lập kế hoạch chiến lược. Do phòng thí nghiệm ở khá gần thủ đô Washington D.C., đây trở thành địa điểm được ưa thích để tổ chức những tình huống giả lập về chiến tranh. Phòng thí nghiệm này đã đóng vai trò chủ nhà cho khá nhiều trò chơi chiến tranh như vậy trong nhiều thập kỷ. Cũng chính là để thực hiện một trò chơi giả lập về chiến tranh do Bộ Quốc phòng Mỹ tài trợ mà khoảng 60 chuyên gia từ các cộng đồng quân sự, tình báo và học thuật đã tập trung về APL vào một buổi sáng mưa gió cuối mùa đông năm 2009. Lần này, trò chơi chiến tranh giả lập sẽ hoàn toàn khác biệt so với những lần trước: luật chơi cấm hoàn toàn các phương pháp mang tính vận động, tức là những vũ khí dùng để bắn hay gây nổ. Sẽ không có các cuộc đổ bộ, các đội đặc nhiệm hay những đợt tấn công từ hai cánh của đối phương với lực lượng thiết giáp. Thay vào đó, những vũ khí được phép sẽ chỉ là... vũ khí tài chính, bao gồm tiền tệ, cổ phiếu, trái phiếu, các chứng khoán phái sinh. Một cách hình ảnh, Lầu Năm Góc sẽ chuẩn bị phát động một cuộc chiến tranh tài chính toàn cầu, sử dụng vũ khí là các đồng tiền và thị trường vốn, thay vì tàu chiến và phi cơ! Đầu thế kỷ XXI, sự ưu thắng của quân đội Mỹ về các hệ thống vũ khí quy ước và công nghệ cao, cũng như về cái mà giới quân sự gọi là 4CI https://thuviensach.vn (command – chỉ huy, control – kiểm soát, communica tions – thông tin, computers – máy tính, intelligence – tình báo) đã trở nên rõ ràng đến mức không có quốc gia đối địch nào dám chống lại. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là chiến tranh không thể xảy ra. Một quốc gia thuộc nhóm “khó ở” như Triều Tiên vẫn có thể lợi dụng một sự kiện nào đó để leo thang thành một cuộc tấn công quy mô. Nước Mỹ cũng có thể sa vào cuộc chiến liên quan tới những nước khác như Iran hay Israel nếu lợi ích quốc gia của Mỹ bị ảnh hưởng. Trừ những trường hợp đặc biệt vừa nêu, một cuộc đối đầu quân sự thông thường xem ra khó xảy ra do khả năng của Mỹ hoàn toàn có thể khống chế và tiêu diệt sức mạnh quân sự của đối phương. Chính vì vậy, các quốc gia và các tổ chức xuyên quốc gia thù địch với nước Mỹ ngày càng phát triển năng lực của họ trong những cuộc chiến khác không theo quy ước thông thường, bao gồm chiến tranh mạng, vũ khí sinh học hay hóa học, vũ khí hủy diệt hàng loạt, và giờ đây bất ngờ nhất là các vũ khí tài chính. Trò chơi chiến tranh (giả lập) nói trên chính là nỗ lực đầu tiên của Lầu Năm Góc để tìm hiểu cách thức phát triển của một cuộc chiến tài chính thực sự, cũng như những bài học có thể rút ra từ đó. Trò chơi này mất nhiều tháng để xây dựng, cá nhân tôi cũng tham gia các buổi thảo luận về chiến lược và thiết kế trò chơi giả lập trước khi trò chơi chính thức bắt đầu. Mặc dù một trò chơi chiến tranh được thiết kế tốt sẽ luôn hướng tới những kết quả bất ngờ và cố gắng để mô phỏng “màn sương mờ ảo” của một cuộc chiến thực thụ, vẫn cần phải quy định rõ những điều kiện khởi đầu cũng như một số quy tắc để tránh tình trạng trò chơi rơi vào hỗn loạn. Đội thiết kế trò chơi tại APL là những người rất giỏi trong công việc của họ, tuy nhiên một trò chơi liên quan tới tài chính hẳn sẽ đòi hỏi những cách tiếp cận hoàn toàn mới (kể cả việc tiếp cận những kiến thức chuyên môn của phố Wall), mà đây lại là những kiến thức mà các chuyên gia vật lý và những người lập kế hoạch quân sự không có. Vai trò của tôi chính là để lấp đầy khoảng trống nói trên! Mối liên hệ giữa tôi và phòng thí nghiệm APL bắt đầu từ hồi tháng 12/2006 tại Omaha, Nebraska, khi tôi tham dự một diễn đàn về chiến lược do Bộ Tư lệnh đặc trách Chiến lược (STRATCOM) chủ trì. Tại đây tôi trình https://thuviensach.vn bày một tham luận về môn khoa học mới mang tên tình báo thị trường, mà các chuyên gia tình báo gọi là MARKINT, liên quan tới việc phân tích các thị trường vốn để tìm kiếm những thông tin về ý định của các thành viên tham gia thị trường. Các quỹ đầu tư phòng vệ (hedge funds) và các ngân hàng đầu tư đã nhiều năm sử dụng những phương pháp này để giành những lợi thế thông tin trong những thương vụ mua lại hay những chuyển biến trong chính sách công. Còn lúc này, cùng với các cộng sự gồm Chris Ray, một nhà kinh doanh chứng khoán quyền chọn dày dạn kinh nghiệm và cũng là nhà quản lý rủi ro, và Randy Tauss, người vừa nghỉ hưu sau 35 năm phục vụ cho CIA, chúng tôi xây dựng những cách thức mới để sử dụng các kỹ thuật đó trong lĩnh vực an ninh quốc gia nhằm nhận diện trước những nguy cơ tấn công khủng bố cũng như có được những cảnh báo sớm về những đợt tấn công vào đồng đô-la Mỹ. Nhiều thành viên của bộ phận thí nghiệm Phân tích Chiến tranh thuộc APL cũng có mặt tại diễn đàn Omaha, sau đó đã liên lạc với tôi về khả năng hợp tác nhằm tích hợp những khái niệm tình báo thị trường (MARKINT) vào trong các nghiên cứu của họ. Do đó tôi không mấy ngạc nhiên khi vào mùa hè 2008 nhận được lời mời tham gia một hội thảo tài chính toàn cầu được Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tài trợ, do APL chủ trì. Hội thảo dự kiến tổ chức vào tháng 9 năm đó, với mục tiêu được nêu rõ là “xem xét, nghiên cứu ảnh hưởng của các hoạt động tài chính toàn cầu lên các vấn đề an ninh quốc gia”. Đây là một hội thảo trong chuỗi hội thảo được Bộ Quốc phòng dự định tổ chức vào cuối hè và thu năm 2008 để chuẩn bị cho trò chơi giả lập chiến tranh. Bộ Quốc phòng trước tiên muốn biết rõ tính khả thi của trò chơi này, cụ thể liệu nó có ý nghĩa gì không? Họ cũng cần suy nghĩ về các “đội chơi” phù hợp: đó sẽ là các quốc gia, các quỹ đầu tư quốc gia, các ngân hàng, hay một sự kết hợp nào đó? Họ cũng cần suy nghĩ về những bối cảnh đặc thù nhưng vẫn hợp lý để những người chơi hành động. Người ta cần lập ra một danh sách những người chơi giàu kinh nghiệm, liên lạc và mời tham gia với những người chưa từng tham gia trò chơi giả lập chiến tranh trước đây. Sau hết, các quy tắc chơi cũng cần được thiết lập. https://thuviensach.vn Để bảo mật tối đa cho những công việc tại phòng thí nghiệm, quy trình kiểm soát an ninh đối với khách tại đây cũng chặt chẽ như tại bất cứ cơ sở quân sự hay tình báo nào của nước Mỹ, bắt đầu với những vòng kiểm tra gắt gao về nhân thân, nguồn gốc... Những người khách mau chóng được phân thành hai nhóm “Không có người hộ tống” và “Có người hộ tống”, thể hiện qua những huy hiệu có màu sắc khác nhau. Ảnh hưởng bên ngoài của việc phân nhóm này chỉ thấy rõ khi mọi người đi đến những máy pha cà phê, nhưng chúng ta phải ngầm hiểu rằng những ai đeo huy hiệu “Không có người hộ tống” là những người được phép tiếp cận thông tin mật từ ban giám đốc hay các nhà thầu chính phủ. Điện thoại BlackBerry, iPhone và các thiết bị kỹ thuật số khác phải để lại bàn kiểm tra an ninh và chỉ được lấy lại trước khi ra về. Máy quét X quang, các thiết bị dò kim loại, hàng loạt vòng kiểm soát an ninh và lính gác có vũ trang là những biện pháp thường xuyên được áp dụng. Một khi đã vào trong khu vực này, thực sự bạn đã bước vào khu phức hợp quân sự - tình báo hàng đầu của nước Mỹ. Tại buổi hội thảo vào tháng 9, có tổng cộng khoảng 40 người tham dự, bao gồm một số học giả danh tiếng, các chuyên gia thuộc các thinktank, các chuyên gia tình báo và quân sự. Tôi là một trong năm người được mời lên thuyết trình chính thức vào ngày hôm đó, đề tài của tôi là các quỹ đầu tư quốc gia (Sovereign Wealth Funds, hay SWF). Đây là các quỹ khổng lồ do các chính phủ lập ra để đầu tư khoản dự trữ dôi dư của họ, nhiều quỹ có tổng giá trị lên tới hàng trăm tỷ đô-la hay hơn nữa. Những khoản dự trữ này chủ yếu là thặng dư bằng ngoại tệ mạnh, đa phần là đô-la Mỹ mà các chính phủ có được từ nguồn xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên hay hàng hóa chế tạo. Dự trữ lớn nhất thuộc về những nước sản xuất dầu như Na Uy và các nước Ả Rập, hay những cường quốc xuất khẩu hàng chế tạo như Trung Quốc và Đài Loan. Trước đây những khoản dự trữ này do các ngân hàng trung ương quản lý một cách rất cẩn thận, việc sử dụng chúng để đầu tư bị giới hạn trong những hình thức đầu tư ít rủi ro, thanh khoản cao như trái phiếu chính phủ Mỹ. Chiến lược này giúp quỹ dự trữ có tính thanh khoản cao nhưng hiệu quả về thu nhập lại thấp, ngoài ra một phần lớn trong danh mục đầu tư được tập trung vào một hình thức đầu tư nào đó mà thôi. Thực tế thì những https://thuviensach.vn quốc gia có nguồn thặng dư nói trên đã bỏ tất cả số trứng mà họ có vào một rổ, và chẳng thu nhập được gì nhiều. Đầu những năm 1990, phần nào do quá trình toàn cầu hóa, các khoản dự trữ tăng rất mạnh, do đó các quốc gia thặng dư bắt đầu tìm cách tăng cao thu nhập từ các khoản đầu tư của họ. Các ngân hàng trung ương không có khả năng làm tốt nhiệm vụ này bởi họ thiếu những nhân sự cần thiết (chuyên viên đầu tư, chuyên gia quản lý danh mục đầu tư) để chọn lựa đầu tư vào cổ phiếu, hàng hóa, cổ phần tư nhân, địa ốc hay quỹ phòng vệ..., tức là những hình thức đầu tư chính để mang về thu nhập cao hơn. Từ đó người ta lập ra các quỹ SWF để quản lý hiệu quả các hình thức đầu tư này. Những SWF đầu tiên xuất hiện cách đây vài thập kỷ, nhưng đa số hình thành trong khoảng mười năm gần đây, khi các chính phủ giao cho họ những khoản tiền cực lớn từ quỹ dự trữ của ngân hàng trung ương, với nhiệm vụ đầu tư vào các danh mục đa dạng trên khắp thế giới. Ở hình thức căn bản của mình, các quỹ đầu tư quốc gia có ý nghĩa về mặt kinh tế. Hầu hết tài sản đều được đầu tư một cách chuyên nghiệp, không mang ý đồ chính trị nào. Tuy nhiên, thực tế không luôn luôn đúng như vậy. Một số quỹ đầu tư vào những dự án phù phiếm (như trường hợp các quỹ của Trung Đông đầu tư vào các đội đua xe thể thức 1 của McLaren, Aston Martin và Ferrari), một số sự đầu tư lại có những ý đồ chính trị và kinh tế hoàn toàn khác. Trong giai đoạn đầu của cuộc suy thoái năm 2007, các quỹ SWF là nguồn tiền chính dùng cho quá trình giải cứu nền kinh tế. Cuối 2007 và đầu 2008, các quỹ SWF đầu tư hơn 58 tỷ đô-la để vực dậy các tập đoàn lớn như Citigroup, Merrill Lynch, UBS và Morgan Stanley. Trung Quốc thậm chí còn dự tính bơm thêm 1 tỷ đô-la đầu tư vào Bear Stearns hồi đầu năm 2008, dự tính này chỉ bị bãi bỏ khi Bear Stearns gần như sụp đổ vào tháng 3 năm đó. Rồi sau khi những khoản đầu tư này tan thành mây khói trong Cơn hoảng loạn 2008, chính phủ Mỹ đành phải nhảy vào, dùng tiền thuế thu được từ người dân để tiếp tục các đợt giải cứu. Quỹ đầu tư quốc gia mất một khoản tiền cực kỳ to lớn vào những vụ đầu tư vừa nêu, tuy nhiên vị thế chứng khoán và ảnh hưởng của chúng vẫn còn tồn tại. Phần thuyết trình của tôi tập trung vào khía cạnh tiêu cực của những khoản đầu tư của SWF, cụ thể là cách các quỹ đầu tư quốc gia này hoạt động https://thuviensach.vn thông qua cái mà các nhà phân tích tình báo tài chính gọi là công ty bình phong (front company[2]) như quỹ phòng vệ, các ngân hàng tư nhân Thụy Sĩ, quỹ tín thác, quản lý tài khoản... Với những công ty bình phong như vậy, các quỹ SWF có thể được dùng để gây ảnh hưởng xấu lên những công ty mục tiêu, nhằm đánh cắp công nghệ, phá hoại các dự án mới, bóp nghẹt sự cạnh tranh, gian lận trong đấu thầu hay lũng đoạn thị trường. Tôi không khẳng định rằng những hoạt động kiểu này là phổ biến hay là quy tắc, mà chỉ muốn nói rằng chúng có khả năng xảy ra, và do đó nước Mỹ cần phát triển một cơ chế giám sát mạnh mẽ hơn để bảo vệ những lợi ích đối với an ninh quốc gia của họ. Bên cạnh những nguy cơ đó, tôi còn nêu ra một mối đe dọa nghiêm trọng hơn thế, đó là một cuộc tấn công toàn diện vào các thị trường vốn của thế giới phương Tây nhằm triệt hạ động cơ của xã hội tư bản chủ nghĩa. Bài thuyết trình của tôi cũng đề xuất những thước đo và đặc tính cần có của hệ thống để giám sát hành vi của các quỹ SWF, giám sát các hành vi có động cơ xấu ở “phía sau hậu trường”, cũng như nhận diện các nút thắt về tài chính (những “kênh đào Suez” hay “eo biển Hormuz” của thời đại thông tin!), những nút thắt mà khi được giám sát tốt sẽ giúp ngăn ngừa hoặc chống trả hữu hiệu các cuộc tấn công tài chính trong tương lai. Đến cuối cuộc hội thảo kéo dài hai ngày nói trên, các quan chức Bộ Quốc phòng có vẻ rất hài lòng khi thấy phòng thí nghiệm xây dựng được một tập hợp vững chắc các chuyên gia, chủ đề và phân tích nguy cơ, những yếu tố cần thiết để đưa trò chơi giả lập chiến tranh lên một tầm cao mới. Tháng sau đó, nhóm chuyên gia nòng cốt lại họp một lần nữa tại phòng thí nghiệm để tiếp tục phát triển trò chơi chiến tranh. Ngoài các chuyên gia của APL (đơn vị chủ nhà) và những nhà bảo trợ từ Bộ Quốc phòng, còn có các đại diện của các cơ quan cấp Bộ khác là Bộ Thương mại, Bộ Năng lượng, một số đại học hàng đầu (như Đại học Hải quân - Naval War College); các viện nghiên cứu như Viện Peterson và Viện RAND Corporation; các phòng thí nghiệm vật lý khác như Los Alamos; và các quan chức cao cấp trong quân đội từ Bộ Tổng tham mưu. Lúc này, tôi chợt nhận ra rằng không có thành viên nào tại đây có kinh nghiệm thực tế về thị trường vốn cả. Tôi là người duy nhất trong phòng họp https://thuviensach.vn có một quá trình làm việc lâu dài tại phố Wall, với các ngân hàng đầu tư, quỹ phòng vệ và sở giao dịch chứng khoán. Nếu phải tiến hành một cuộc chiến tài chính, chúng ta cần những người biết sử dụng vũ khí tài chính – những thứ như giao dịch chạy trước, thông tin nội gián, tin đồn, báo giá ảo, thúc ép bán khống và nhiều chiêu trò khác đặc trưng cho phố Wall. Chúng ta cần những người mà theo lối nói của nhà kinh doanh chứng khoán huyền thoại John Gutfreund[3]thì phải sẵn sàng “cắn xé nhau” khi kinh doanh tiền tệ, chứng khoán và các sản phẩm phái sinh khác. Những chuyên gia quân sự và tình báo ngồi trong phòng họp không hề thiếu sự mạnh mẽ, nhưng họ hiểu về việc dùng công cụ hoán đổi vi ước tín dụng (credit default swaps, viết tắt là CDS) để phá hoại một quốc gia cũng không nhiều hơn một nhà kinh doanh chứng khoán trung bình hiểu về trình tự bắn tên lửa liên lục địa ICBM! Để dự án này thành công, tôi cần thuyết phục Bộ Quốc phòng cho tôi mời thêm một số đồng nghiệp trong ngành tài chính, giúp trò chơi giả lập trở nên thực tế và có giá trị hơn. Trong phiên họp vào tháng 10, tôi trình bày về các sản phẩm tài chính tương lai và phái sinh, giải thích tại sao các công cụ có sử dụng đòn bẩy tài chính này lại có thể dùng để gây ảnh hưởng lên các thị trường hàng hóa vật chất liên quan, kể cả những thị trường của các hàng hóa chiến lược như dầu mỏ, uranium, đồng và vàng. Tôi cũng giải thích tại sao việc bãi bỏ giám sát các sản phẩm phái sinh trong đạo luật Hiện đại hóa Giao dịch Hàng hóa Tương lai (Commodity Futures Modernization Act) do Thượng nghị sĩ Phil Gramm đề xuất và Tổng thống Clinton phê chuẩn hồi năm 2000 đã mở toang cánh cửa cho quy mô và tính đa dạng của các công cụ đầu tư này, khiến cho việc giám sát chúng là hoàn toàn bất khả thi khi mà chúng đã được đưa ra ngoài bảng cân đối kế toán của các ngân hàng lớn. Để kết luận, tôi mô tả cách thức mà các công ty bình phong, quỹ đầu tư quốc gia và đòn bẩy tài chính của các công cụ phái sinh có thể kết hợp lại và tạo ra một cú Trân Châu Cảng tài chính, điều mà nước Mỹ hoàn toàn chưa chuẩn bị để đối phó. Đến đây các hội thảo bắt đầu đạt được mục tiêu, khi các chuyên gia quân sự, tình báo và ngoại giao quen dần với lối suy nghĩ của dân tài chính. Nguy cơ của chiến tranh tài chính trở nên rõ ràng hơn. https://thuviensach.vn Phiên hội thảo thứ ba của nhóm chúng tôi diễn ra vào khoảng giữa tháng 11, lần này có một số thành phần mới tham gia, bao gồm một số quan chức cao cấp trong ngành tình báo. Lần này chúng tôi không còn xem xét tính khả thi của một cuộc chiến tài chính giả lập, mà chủ yếu tập trung vào việc thiết kế trò chơi giả lập này. Tôi trình bày các bối cảnh chi tiết của một cuộc chiến tài chính cũng như ranh giới của một “sân chơi”, theo đó thiết kế trò chơi này phải tính đến những hậu quả không thể lường trước, sẽ gây ngạc nhiên cho cả bên tấn công lẫn bên phòng thủ, do những động lực vô cùng phức tạp của các thị trường vốn. Kết thúc hội thảo, đội thiết kế trò chơi của APL và Bộ Quốc phòng đã được các chuyên gia cung cấp đầy đủ các dữ liệu đầu vào để hoàn thành bản thiết kế sau cùng. Phần việc còn lại là chọn lựa người chơi, xác định thời gian và bắt đầu trò chơi. Sau một vài sự chậm trễ và bất ổn do quá trình chuyển giao quyền lực sau bầu cử, nội các mới của Tổng thống Obama đã chấp thuận cho kế hoạch được tiến hành như dự định. Lời mời chính thức tham gia trò chơi giả lập này được đưa ra vào cuối tháng 1/2009. Trò chơi sẽ diễn ra trong hai ngày 17 và 18 tháng Ba tại phòng thí nghiệm Phân tích Chiến tranh APL, bên trong căn phòng chiến tranh rộng lớn từng được sử dụng trong nhiều mô hình giả lập trước đây. Mọi trò chơi giả lập chiến tranh đều có chung một số đặc điểm: có ít nhất hai đội chơi, phân biệt bởi tên quốc gia của họ hay màu sắc. Một trò chơi điển hình thường có đội đỏ (phe địch, người xấu) và đội xanh (phe ta, người tốt), tuy nhiên cũng có trò chơi gồm nhiều bên tham gia. Quan trọng là phải có một đội trắng, gồm người chủ trò chơi và các cá nhân được giao nhiệm vụ trọng tài. Đội “Trắng” sẽ quyết định một “nước đi” nào đó trong trò chơi có hợp lệ/được chấp nhận hay không, bên nào thắng trong từng vòng chơi. Nhìn chung những nhà thiết kế trò chơi đặt ra những mục tiêu cụ thể cho từng bên, do đó người ta kỳ vọng những người chơi có những “nước đi” theo hướng mục tiêu đặt ra, hơn là những nước đi lạc hướng. Nhóm thiết kế cũng nhờ những nhà khoa học chính trị, các nhà chiến lược quân sự và các nhà phân tích khác mô tả các điều kiện ban đầu ảnh hưởng lên tất cả mọi người chơi – nói cách khác, họ xác định vạch xuất phát cho mọi người. Sau https://thuviensach.vn hết, người ta cũng lập ra một hệ thống đo lường sức mạnh, từ đó xác định sức mạnh tương đối của các bên khi bắt đầu chơi, tương tự như việc biết được đội quân này đông hơn đội quân kia, hay nền kinh tế này có tiềm năng công nghiệp lớn hơn một nền kinh tế khác vào đầu cuộc chiến vậy. Khi bắt đầu chơi, các đội sẽ thực hiện các nước đi, còn bộ phận trọng tài sẽ cộng hay trừ điểm cho từng bên dựa trên sự đánh giá của họ về sự thành bại của nước đi đó. Một số đặc điểm nữa của trò chơi là thời gian chơi (bao nhiêu ngày) cũng như số nước đi thực hiện trong một ngày. Đây là một hạn chế rất thực tế, bởi nhiều chuyên gia khách mời của trò chơi khó thu xếp thời gian vắng mặt quá 2-3 ngày khỏi công việc hiện tại của họ. Tôi chẳng phải là chuyên gia của trò chơi giả lập này mà chỉ là chuyên gia tài chính được chỉ định, vì thế tôi phối hợp với đội thiết kế trò chơi để đưa cái thế giới tài chính mà tôi biết vào các tham số về nhóm, thời hạn, quy tắc, ngân sách... của họ khi thiết kế. Một nhiệm vụ chính của tôi là đảm bảo rằng trò chơi được thiết kế tính đến những bối cảnh bất thường. Tôi hiểu rằng một cuộc tấn công tài chính thực sự sẽ không bao gồm những gì dễ thấy như phá giá trái phiếu chính phủ Mỹ trên thị trường, bởi Tổng thống Mỹ hầu như có quyền phong tỏa bất kỳ tài khoản nào có dấu hiệu mưu tính lũng đoạn thị trường như vậy. Cuộc tấn công chắc chắn sẽ liên quan tới những đầu mối khó nhận diện, những công cụ phái sinh khó theo dõi và giám sát. Trên tất cả, một cuộc tấn công tài chính hầu như chắc chắn sẽ liên quan tới bản thân đồng đô-la. Phá hoại lòng tin vào đồng đô-la sẽ có tác dụng hơn nhiều so với việc cố gắng phá giá của bất kỳ công cụ định giá bằng đô-la nào. Nếu đồng đô-la sụp đổ thì mọi thị trường định giá bằng đô-la cũng sụp theo, và quyền lực về phong tỏa tài khoản của Tổng thống trở nên không chắc chắn. Tôi muốn chắc chắn rằng thiết kế trò chơi phải tính đến bối cảnh của một cuộc chiến tiền tệ thực sự, chứ không đơn thuần chỉ là cuộc chiến về cổ phiếu, trái phiếu và hàng hóa. Những mảnh ghép cuối cùng cũng đã hoàn thành. Nhóm thiết kế thống nhất rằng trò chơi sẽ gồm có các đội Hoa Kỳ, Nga và Trung Quốc. Ngoài ra, còn thêm một đội Vành đai Thái Bình Dương, tượng trưng cho cả Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam, cùng nhiều nước khác trong khu vực địa lý https://thuviensach.vn này. Điều này chưa được hoàn hảo lắm, bởi những quốc gia riêng biệt như Hàn Quốc và Đài Loan có thể có những quan điểm rất khác nhau tùy vào vấn đề liên quan cụ thể, nhưng điều này có thể tạm chấp nhận do những hạn chế kinh phí và để tiến hành trò chơi giả lập ngay. Ngoài các đội nêu trên, sẽ còn một “đội xám” tượng trưng cho phần còn lại của thế giới (Tôi không rõ những người châu Âu sẽ cảm thấy thế nào khi khu vực của họ không được xếp riêng thành một đội mà phải nằm chung với IMF, các quỹ phòng vệ và đảo Cayman trong trò chơi này). Tất nhiên, đội cuối cùng là đội trắng – các trọng tài đầy quyền lực, có nhiệm vụ hướng dẫn và khởi động trò chơi. Trò chơi diễn ra trong hai ngày với ba “nước đi”: các đội sẽ thực hiện 2 nước đi trong ngày đầu và nước đi còn lại trong ngày hôm sau, thời gian cuối ngày được dành cho phỏng vấn, trao đổi. Các đội chơi đều có những tiện ích và nguồn lực riêng để quyết định mỗi nước đi, và các phiên họp toàn thể tại phòng chiến tranh, nơi họ thực hiện các nước đi và đối thủ phản ứng lại. Đội trắng (trọng tài) chủ trì các phiên họp toàn thể và cộng hay trừ điểm cho từng đội chơi vào bảng “chỉ số sức mạnh quốc gia”. Các đội cũng có thể tổ chức các cuộc họp hay thương lượng song phương với nhau trong những phòng họp dành riêng khác, khi thực hiện các nước đi của họ. Thú vị nhất là việc mỗi đội đều có một số thẻ cho phép thực hiện các hành động và phản ứng không được tính đến trong bối cảnh ban đầu của trò chơi. Tuy trò chơi này lần đầu được thực hiện với một kinh phí hạn hẹp và kết quả lúc đầu chưa hề rõ ràng, song chỉ riêng sự kết hợp của các phiên họp toàn thể và các thẻ nói trên cũng đủ nói lên rằng chúng tôi có thể cho Lầu Năm Góc biết cuộc chiến tài chính không theo quy chuẩn thông thường sẽ diễn ra như thế nào. Khi đánh giá lần cuối, một lần nữa tôi nêu lên rằng trong nhóm thiết kế có quá nhiều chuyên gia quân sự, tình báo, nhưng chỉ có mình tôi là dân tài chính! Tôi biết là nếu mời những người “bình thường” thì các bước đi và phản ứng sau này trong trò chơi sẽ hoàn toàn có thể dự đoán, bởi những người này (tuy rất giỏi về kinh tế vĩ mô hay chiến lược) không thể hiểu được thị trường vốn thực sự vận hành ra sao trong thực tế. Vì thế tôi đề xuất sẽ https://thuviensach.vn chọn thêm một số người từ các ngân hàng đầu tư và quỹ phòng vệ để tham gia trò chơi. Còn chỗ cho hai thành viên nữa, vì thế tôi có quyền lựa chọn. Lựa chọn đầu tiên của tôi là Steve Halliwell, một người làm ngân hàng lâu năm, một nhà đầu tư vào các quỹ cổ phần tư nhân. Steve có dáng người nhỏ bé, nhanh nhẹn, rất linh hoạt và cũng dễ nhận ra với cặp kính dày và cái đầu cạo trọc! Anh là điển hình của “dân Nga” cũ, đến Nga lần đầu từ năm 1963 (giai đoạn Kennedy-Khrushchev) với tư cách du học sinh trong chương trình trao đổi sinh viên giữa hai nước trong khi đang học tại đại học Wesleyan. Sau đó anh học sau đại học tại Columbia và có một sự nghiệp lâu dài với Citibank, tham gia mở chi nhánh Moscow của ngân hàng này trước khi khai trương một trong những quỹ đầu tư Mỹ-Nga đầu tiên vào thập niên 1990. Steve có cả kho giai thoại về nước Nga và anh có thể kể từng chuyện một cách cực kỳ hài hước. Anh nói tiếng Nga thạo như tiếng mẹ đẻ, có một mạng lưới quan hệ rất rộng do các hoạt động của anh trong ngành ngân hàng và đầu tư tại đất nước này. Steve và tôi từng cùng nhau ở Moscow một tuần vào mùa đông năm 2008 để nghiên cứu thị trường cho một số khách hàng là quỹ phòng vệ của tôi. Chuyến đi năm ấy thật đáng nhớ với kỷ niệm ngắm tuyết rơi ban đêm trên Quảng trường Đỏ, những chầu vodka và trứng cá ngon tuyệt với các vị chủ nhà người Nga. Tôi biết Steve sẽ đảm nhiệm hoàn hảo vai trò đội Nga trong trò chơi giả lập tài chính của Lầu Năm Góc, và anh đã sẵn lòng nhận lời! Bây giờ còn một vị trí nữa. Vì Steve là một nhà đầu tư dài hạn thuộc quỹ đầu tư cổ phân tư nhân, tôi muốn chọn một ai đó quen thuộc hơn với hoạt động hàng ngày của thị trường, một người hiểu những vấn đề kỹ thuật của thị trường tài chính, tức là những mất cân đối ngắn hạn giữa cung và cầu trên thị trường khiến giá chứng khoán rời xa giá trị thực của chúng, gây lúng túng và mất cảnh giác cho những nhà đầu tư vốn phải có đầy đủ lý trí. Tôi cần một người biết mọi chiêu thức trong sách vở khi phải xử lý những lệnh mua bán chứng khoán với số lượng khổng lồ có thể xoay chuyển thị trường và nghiền nát những nhà đầu tư nhẹ dạ. Tôi mời một người bạn từng có kinh nghiệm hơn ba mươi năm trong lĩnh vực này, người được phố Wall biết đến với cái tên “O.D.”. https://thuviensach.vn Tôi quen biết Bill O’Donnell đã hàng chục năm từ khi còn làm chung tại Greenwich Capital, một tổ chức kinh doanh trái phiếu chính phủ hàng đầu. Bill là một trong những nhà kinh doanh thông minh nhất và luôn nở nụ cười, trừ khi anh ta đang phải nỗ lực hoàn thành một lệnh mua bán của khách hàng. Anh không bao giờ buồn bã hay cáu kỉnh, đây là nét tính cách rất lạ trên sàn chứng khoán. Với mái tóc muối tiêu lượn sóng, quần áo đúng chuẩn và vẻ ngoài dễ coi, Bill có cách ứng xử dễ chịu khiến anh trở thành một trong những người được yêu mến nhất trong giới kinh doanh trái phiếu, vốn chủ yếu được biết tới như là tập hợp của những người có tính cách thuộc loại A – hay cáu gắt, thiếu kiên nhẫn, muốn làm nhiều việc cùng một lúc. Anh yêu thích công việc của mình và đã trải qua tất cả, từ khi thị trường bắt đầu nóng lên hồi năm 1982 qua những năm bong bóng nhà đất bắt đầu từ 2002. Khi tôi mời anh năm 2009, Bill đang làm việc cho ngân hàng UBS tại văn phòng Bắc Mỹ của họ ở Stam ford, Connecticut, chịu trách nhiệm về chiến lược lãi suất. Cũng giống như các chuyên gia phố Wall khác mà tôi từng mời cộng tác trong những dự án an ninh quốc gia, Bill nắm tình hình rất nhanh và tình nguyện tham gia. Sau khi xin ý kiến các sếp của anh ta ở UBS, vài ngày sau Bill gọi tôi và nói, “Tôi tham gia. Chỉ cần nói cho tôi địa điểm, tôi sẽ đến. Thật tuyệt khi được làm việc với các tướng lĩnh quân sự và tình báo. Tôi rất nóng lòng tham dự.” Đơn giản chỉ có vậy! Tất nhiên Steve được phân về đội Nga. O.D. về đội xám, đại diện cho các quỹ phòng vệ và các ngân hàng Thụy Sĩ – một sự phân công hoàn toàn hợp lý. Tôi thì được chia về đội Trung Quốc, cùng với một học giả có tiếng từ đại học Harvard, một chuyên gia phân tích từ RAND Corporation và hai chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác. Trò chơi giả lập về chiến tranh tài chính sẽ khởi động vài tuần sau đó và đây là lúc để lập nên một vài cái bẫy – theo ngôn ngữ quân sự thì đó là việc “tạo điều kiện cho chiến trường”. Tôi biết là đội Nga sẽ bắt đầu trò chơi với sức mạnh quốc gia ít hơn nhiều so với Mỹ hay thậm chí Trung Quốc. Thực sự thì việc đánh giá sức mạnh quốc gia cho thấy Nga chỉ có sức mạnh bằng khoảng hai phần ba so với Mỹ, còn Trung Quốc ở vào khoảng giữa hai nước https://thuviensach.vn này. Trong chừng mực mà tôi quan tâm, điều này nghĩa là Nga sẽ phải chơi một cách khôn ngoan hơn, hiệu quả hơn và có những động thái bất ngờ thì mới có thể gây khó dễ cho Hoa Kỳ được. Là một người Mỹ quan tâm tới lộ trình kinh tế đất nước cũng như khả năng tổn thương của đất nước trước một cuộc tấn công tài chính, tôi muốn nước Mỹ phải trải qua một số cú sốc hay hoàn cảnh khó khăn trong môi trưởng giả lập của trò chơi này. Dường như đó sẽ là cách tốt nhất để chúng tôi hoàn thành công việc của mình, đánh động cho những người ở Bộ Quốc phòng và giới tình báo trước khi những cuộc tấn công và hoàn cảnh tồi tệ diễn ra trong thế giới thực. Việc Steve, O.D. và tôi chơi trong những đội khác chứ không phải đội Mỹ tạo điều kiện cho chúng tôi gây ra những cú sốc cần thiết. Việc các đội của chúng tôi yếu hơn so với đội Mỹ có nghĩa là chúng tôi phải sáng tạo hơn, bí mật hơn trong các nước đi của mình khi chơi. Quán Mười – Hai mươi (Ten Twenty) là một nhà hàng nhiều người biết ở Darien, Connecticut, gần nơi tôi ở và cũng không xa nhà của Steve ở Westchester County, New York. Đây cũng là nơi tụ tập của dân ngân hàng đầu tư thuộc hai ngân hàng RBS và UBS ở Stamford gần đó. Với quầy bar bằng gỗ gụ, đèn chùm thủy tinh, những đồ dùng bằng đồng và khăn trải bàn màu trắng, quán này có vẻ bề ngoài và gợi lên chất Pháp điển hình. Tôi đề nghị ăn tối với Steve một tuần trước khi trò chơi diễn ra, nhằm phác thảo một kế hoạch có thể đưa đội Hoa Kỳ vào thế thủ. Rồi đó, bên món sò ngon tuyệt, những chầu vang trắng và vodka Nga, chúng tôi cùng hoài niệm một lát về những ngày ở Moscow, sau đó đi vào công việc. Tôi trao cho Steve một thông cáo báo chí của Ngân hàng Trung ương Nga mà tôi sáng tác ra trước đó, đồng thời cũng đã từng sử dụng để minh họa trong một số bài báo và bài giảng. Trong bản thông cáo này, nước Nga tuyên bố di chuyển số vàng dự trữ của họ sang Thụy Sĩ và khai trương một ngân hàng mới tại London, ngân hàng này sẽ phát hành một loại tiền tệ mới được đảm bảo bằng vàng, cụ thể là lượng vàng đang được Nga gửi tại Thụy Sĩ. Lúc đầu Nga sẽ sở hữu toàn bộ số tiền vừa phát hành, nhưng sau đó ai cũng có thể đem vàng đến ký thác và nhận về loại tiền mới này. Để kế hoạch này khả thi, cần có một số điều kiện về mặt kỹ thuật, chẳng hạn như https://thuviensach.vn các tiện ích về cho vay và thanh toán bù trừ. Mưu đồ ở đây là từ đây về sau mọi khoản xuất khẩu của Nga (dầu, khí đốt...) đều phải được thanh toán bằng loại tiền tệ mới vừa nêu, đô-la Mỹ không được chấp nhận. “Jim, tôi lo lắng về anh rồi đó – anh bắt đầu suy nghĩ giống như một người Nga thực thụ,” Steve nói. “Lời nói này của anh cho nên đối với tôi là một lời khen!” tôi trả lời. “Vậy tại sao anh sử dụng Thụy Sĩ và London ở đây?” “Chẳng ai tin là người Nga sẽ không chiếm dụng vàng,” tôi đáp. “Nhưng người ta tin người Thụy Sĩ và người Anh, cho nên nếu anh sử dụng hệ thống luật pháp của hai nước này, mọi người sẽ không sợ và có thể ký thác vàng.” “Chính xác! Nga đã nỗ lực thoát ra khỏi hệ thống đô-la từ nhiều năm nay. Họ cố chơi theo luật của chúng ta và luôn thất bại,” Steve nói. “Phương án này là rất tốt cho họ.” “Còn đây là thỏa thuận,” tôi nghiêng về Steve khi nói. “Nếu anh đi nước đi nói trên cho đội Nga của anh, tôi sẽ thuyết phục đội Trung Quốc hưởng ứng. Nếu anh không thuyết phục được đội Nga thực hiện nước đi trên, chính tôi sẽ đề xuất ý tưởng này cho đội Trung Quốc của tôi. Nói chung một trong hai chúng ta sẽ nỗ lực đưa ý tưởng này vào trò chơi và cố gắng đánh chìm đồng đô-la Mỹ. Đó sẽ là một cú sốc với đội Mỹ. Nhớ rằng Lầu Năm Góc đã bỏ tiền ra tổ chức trò chơi này để học được điều gì đó từ nó, và chúng ta hãy xứng đáng với đồng tiền của họ!” Steve cầm lấy bản thông cáo báo chí, gấp lại và bỏ vào trong áo jacket để nghiền ngẫm thêm khi về nhà. Chúng tôi uống cạn ly vodka và chia tay, sẵn sàng cho cuộc tấn công vào đồng đô-la trong trò chơi giả lập sắp tới. Giờ đây Steve, O.D. và tất cả những người còn lại trong chúng tôi đã sẵn sàng bắt đầu trò chơi giả lập. Trong vòng hai ngày, trò chơi này sẽ mau chóng có một cuộc sống của nó, mở mắt cho nhiều người thấy được thị trường vận hành như thế nào, các quốc gia dễ bị tổn thương về tài chính ra sao. https://thuviensach.vn 2 CHIẾN TRANH TIỀN TỆ “Mối quan tâm chính trong ngắn hạn về an ninh của nước Mỹ là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những ảnh hưởng địa chính trị của nó... Thực sự thì các chính sách... chẳng hạn như phá giá tiền tệ... có nguy cơ dẫn đến một làn sóng của chủ nghĩa bảo hộ đầy tai hại.” — Dennis C. Blair, Giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ, tháng 2/2009 • Ngày đầu tiên Vào một buổi sáng tháng Ba trời mưa, khi chúng tôi đến phòng thí nghiệm để tham gia vào trò chơi chiến tranh, điều đầu tiên làm tôi chú ý trong bãi giữ xe chính là những hàng xe mô tô phân khối lớn hiệu Kawasaki, Suzuki và những hiệu xe tương tự. Tôi đoán rằng các nhà vật lý đảm trách công việc thiết kế vũ khí cũng có những sở thích riêng khá “ngầu” của họ! Chúng tôi tiến về Tòa nhà số 26 - một địa điểm mới với chúng tôi, đậu xe gần đó và đi bộ qua lối vào chính. Khi đã vào bên trong, chúng tôi được kiểm tra an ninh, nhận huy hiệu của mình, bỏ điện thoại di động lại và tiến lên trên lầu. Sau nhiều tháng trời hội họp trong các phòng hội nghị chuyên đề và các văn phòng, chúng tôi được phép vào phòng chiến tranh của Phòng thí nghiệm phân tích chiến tranh (WAL). Cảnh tượng đã không làm người ta thất vọng. Lớn lên trong Chiến tranh Lạnh, tôi thường rất thích thú với những hình ảnh của các phòng chiến tranh hạt nhân trong các cảnh phim chiến tranh kinh điển như Dr. Strangelove và Fail - Safe . Giờ đây, chúng tôi https://thuviensach.vn đang tiến vào một nơi tương tự như vậy nhưng không phải để chiến đấu bằng những máy bay B52 mà là bằng những đồng tiền. Phòng chiến tranh của APL khá lớn, với các trạm chiến đấu điện tử và những trạm quan sát dành cho khoảng 100 người chơi và quan sát viên. Căn phòng hình chữ nhật này có 4 màn hình lớn trên tường ở đầu phòng, cùng hàng dãy màn hình video plasma cỡ 50 inch treo dọc hai bên tường dành cho những người tham gia từ xa, hoặc để trình bày những đồ họa phụ thêm. Giữa phòng được bố trí một chiếc bàn hình tứ giác cho 12 người ngồi gần màn hình nhất, xung quanh bốn cạnh bàn là hai hàng bàn ghế dài được xếp cao hơn một chút so với khu vực chính giữa. Phía cuối phòng, nơi sàn nhà cao hơn một bậc là những hàng ghế quan sát xếp vuông góc với những dãy bàn nói trên. Xa nhất về cuối phòng, đối diện với những màn hình lớn là những cánh cửa sổ thủy tinh ngăn thêm một ô riêng biệt, với thêm 5 trạm chiến đấu và một số phòng chờ nữa. Sau này tôi biết được rằng ô riêng biệt này dành cho các quan sát viên cao cấp thuộc giới quân sự, những người muốn bí mật quan sát diễn tiến của trò chơi. Phía trước màn hình, về phía bên phải, người ta đặt một cái bục và micro để đại diện của từng nhóm có thể tuyên bố “nước đi” của đội mình và đáp trả những nước đi của các đội khác. Mỗi trạm chiến đấu được trang bị một máy tính xách tay được kết nối với phần mềm nhóm, cho phép mỗi người chơi có thể liên tục đưa ra những nhận xét ngầm trong suốt trò chơi ngay trong lúc những người khác đang mô tả các nước đi và động cơ của họ. Ngay bên cạnh phòng chiến tranh là phòng hỗ trợ kỹ thuật, phụ trách việc chiếu lên màn hình và theo dõi phần mềm nhóm hỗ trợ nhận xét trực tiếp. Từ phòng chiến tranh đi dọc xuống phía cuối hành lang, nhiều phòng hội nghị rộng rãi được bố trí làm “thủ đô” của các nước đang tham chiến. Mỗi phòng được trang bị một màn hình đơn gắn trên tường và phần mềm nhóm riêng lẻ, được chia sẻ bởi các thành viên của nhóm mình và được truy cập thông qua các máy tính xách tay phụ cung cấp cho các thành viên trong nhóm. Những phòng khác được sử dụng cho các hội nghị thượng đỉnh và các cuộc đối thoại song phương nếu như các bên muốn tiến hành những cuộc thảo luận riêng tư bên ngoài phòng chiến tranh. Tất cả các phòng này – https://thuviensach.vn bao gồm phòng chiến tranh, các thủ đô và nơi diễn ra các hội nghị thượng đỉnh – đều được trang bị các trạm làm việc cho các cán bộ phòng thí nghiệm đang đóng vai trò là các cố vấn, các chuyên gia phân tích và các quan sát viên trung lập trong cuộc chiến. Tuy là những người chơi độc lập trong trò chơi này, chúng tôi vẫn không thể tránh khỏi cảm giác rằng mình đang là “bầy chuột bạch” trong những sứ mạng lớn hơn của APL! Chúng tôi có cơ hội làm quen với những người chơi khác tại bữa ăn sáng theo kiểu tiệc đứng, được phục vụ bởi phòng thí nghiệm. Sau đó, chúng tôi đi vào phòng chiến tranh và đảm trách các vị trí được chỉ định. Các thành viên của đội trắng, tức là các trọng tài, ngồi trong ô hình tứ giác lớn ở giữa. Năm đội tham chiến, bao gồm: đội Nga, đội Mỹ, đội vành đai Thái Bình Dương, đội Trung Quốc và đội Xám (tượng trưng cho tất cả các nước, khu vực còn lại), các đại diện của Lầu Năm Góc và nhóm quan sát viên của giới tình báo được bố trí ngồi ở các khu vực hình zig zac xung quanh đội trắng. Nhờ vào website được bảo vệ khá an toàn của WAL, được đặt mã WALRUS, tất cả chúng tôi được cung cấp trước những tập sách tóm tắt dày cộp. Một trong số đó là tổng quan về trò chơi, cung cấp lợi thế quốc gia so sánh của từng đội với phân tích chi tiết đằng sau đó. Phần tổng quan bao gồm cả hướng dẫn theo đó các đội chơi có thể “chọn hành động từ danh mục hành động của trò chơi và/hoặc tự sáng tạo ra hành động của chính mình”. Phần tôi thì luôn ủng hộ tính sáng tạo khi chơi! Chúng tôi cũng đã nhận sách tóm tắt nhan đề “Baseline Scenario” (Kịch bản khởi động) với những thông tin mô tả kinh tế thế giới năm 2012 trong tương lai gần – bối cảnh diễn ra trò chơi và quyển sách tập hợp các quy tắc chơi mang tên “Mechanics”. Tôi chợt nhớ lại cách mà tôi và anh em mình đã từng tranh luận về các quy tắc trong trò chơi Risk khi còn nhỏ và thường phải tìm cho được quyển sách quy tắc Parker Brothers trong hộp trò chơi để giải quyết những tranh chấp này. Giờ đây chúng tôi cũng có một quyển sách quy tắc cho trò chơi chiến tranh, nhưng mọi việc lại hoàn toàn khác: tôi muốn phá vỡ càng nhiều quy tắc càng tốt để giúp cho Lầu Năm Góc hiểu được trên thực tế các thị trường vốn hoạt động như thế nào trong thời đại đầy rẫy sự tham lam, những quy tắc bị bãi bỏ và nhiều ý định xấu. Phố Wall https://thuviensach.vn có vẻ giống như Miền Tây hoang dã của nước Mỹ trong thời đại hoàng kim, nhưng với xu thế toàn cầu hóa và sự chống lưng vững chắc của chính phủ, nó dường như đã vượt quá tầm kiểm soát. Sau một vài giờ hướng dẫn, định hướng và tập huấn nhanh về phần mềm nhóm, chúng tôi tản về các phòng Thủ đô để tiến hành những nước đi đầu tiên. Sự kiện này đại khái bao gồm một thỏa thuận thương mại dài hạn giữa Nga và Nhật Bản, dẫn đến việc cắt giảm lượng dầu mỏ và khí đốt mà Nga cung ứng cho phần còn lại của thế giới. Ý tưởng lớn trong sự kiện này chính là Nga sẽ sử dụng lực đòn bẩy từ nguồn tài nguyên thiên nhiên của họ để cải thiện trạng thái dự trữ ngoại hối của mình. Tất nhiên, không có bất cứ sự thông đồng nào giữa kịch bản mà phòng thí nghiệm đã đưa ra và nước cờ liều lĩnh mà tôi và Steve chuẩn bị thực hiện, nhưng thật sự quả là trùng hợp. Nga có thể miễn thuế các giao dịch vàng/ngoại tệ đối với Nhật Bản và xoa dịu Trung Quốc bằng cách mời Trung Quốc tham gia vào kế hoạch loại bỏ đồng đô-la. Tôi ngồi trong phòng thủ đô Trung Quốc, nghe các đồng đội của mình đến từ Đại học Harvard và RAND Corporation thảo luận về biện pháp trừng phạt Nhật Bản vì đã đi chệch hướng mô hình tự do thương mại theo Đồng thuận Washington. Nhưng thật ra, đầu óc tôi đang ở tận đâu đâu, bởi tôi đang chờ tiếng điện thoại vang lên. Vài phút sau đó, quan sát viên phòng thí nghiệm thông báo với chúng tôi rằng đội Nga vừa gửi thông cáo yêu cầu một hội nghị thượng đỉnh với chúng tôi. Đây thật sự là tin tốt, bởi điều này đồng nghĩa rằng Steve đã thuyết phục thành công các đồng đội của anh ấy đi nước cờ mạo hiểm. Trước khi các đồng đội của mình có thể tiêu hóa được tin này, tôi đề nghị: “Này các anh à, bạn của tôi là Steve Halliwell đang chơi cho đội Nga và tôi đoán là anh ta đứng sau vụ này. Vậy tôi đại diện đội chúng ta tham gia cuộc họp này nhé?” Họ nhanh chóng đồng ý và tôi bước xuống hội trường để tiến về một trong những phòng hội nghị thượng đỉnh đã được chỉ định. Steve đang đợi tôi ở đó. Một nhân viên hỗ trợ của phòng thí nghiệm đang ở đó nên tôi buộc phải vờ như không biết gì mặc dù tôi thừa biết Steve sắp đưa ra đề nghị gì. https://thuviensach.vn “Jim, tôi nghĩ là Mỹ phản đối thỏa thuận của chúng tôi với Nhật, và xin nói thẳng là chúng tôi chán đến tận cổ cái cách mà người Mỹ sử dụng vị thế ưu thắng của họ trong hệ thống thương mại dựa trên đồng đô-la rồi. Chúng tôi có phương án tốt hơn. Chúng ta thừa biết rằng không có đồng tiền nào của chúng ta hiện nay sẵn sàng soán ngôi đồng đô-la Mỹ. Nhưng mà vàng vẫn luôn là loại tiền tốt nhất. Việc thế giới sẽ chuyển sang một hình thức nào đó của Bản vị vàng chỉ là vấn đề thời gian. Người đầu tiên tiến hành thay đổi sẽ có lợi thế lớn sau này. Nước đầu tiên chuyển sang dùng vàng sẽ sở hữu loại tiền tệ duy nhất mà các nước đều mong muốn. Và đây là đề nghị của chúng tôi.” Steve trao cho tôi một văn bản, làm lại từ thông cáo báo chí mà tôi đưa cho anh ấy tại nhà hàng ở Darien tuần trước. Toàn bộ kế hoạch đều ở trong đó: một loại tiền tệ mới được đảm bảo bằng vàng, một ngân hàng phát hành ở London, khả năng mở rộng cung ứng loại tiền tệ mới bằng cách ký gửi vàng, việc áp dụng luật của Thụy Sĩ và Anh, các công cụ thanh toán và bù trừ và một thị giá thực. Nga sẽ yêu cầu việc thanh toán bằng loại tiền tệ mới đối với các khoản xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên sắp tới. Đồng đô-la sẽ bị dẹp sang một bên. Steve nói tiếp, “Chúng tôi có thể thực hiện một mình, nhưng tình hình có vẻ khả quan hơn nếu có sự tham gia của Trung Quốc và những nước khác. Càng nhiều nước tham gia vào kế hoạch này thì Mỹ càng khó chống đỡ. Trung Quốc cũng có thể làm điều tương tự đối với hàng hóa sản xuất trong nước, giống như những gì mà chúng tôi sắp thực hiện với nguồn dầu mỏ và khí đốt của chúng tôi. Các anh sẽ hợp tác với chúng tôi chứ?” “OK, hãy để tôi quay về đội Trung Quốc và báo anh biết sau,” tôi nói. “Tôi không được ủy quyền đồng ý bất cứ đề nghị nào. Tôi chỉ đến và nhận thông điệp. Chúng tôi sẽ thảo luận và sẽ gọi thông báo kết quả với anh.” Quay trở lại phòng thủ đô Trung Quốc, các đồng đội của tôi vẫn đang cần cù thảo luận về giải pháp đối với kịch bản đặt ra. Xu hướng chung là không phản ứng gì cả. Thỏa thuận về tài nguyên thiên nhiên giữa Nga và Nhật không chỉ ảnh hưởng đến hai bên mà còn tác động đến cả châu Âu, trong chừng mực mà việc này dẫn đến việc sụt giảm lượng cung ứng khí đốt của https://thuviensach.vn Nga. Mỹ sẽ phải tìm kiếm sự hợp tác để đáp trả bởi họ đang ở vị thế tốt nhất để gây áp lực đối với Nhật Bản. Thái độ của Trung Quốc nên là cúi đầu và để cho các nước khác ra mặt. Sau đó, tôi trình bày nước cờ mạo hiểm của đội Nga bằng cách tóm tắt đề nghị của Steve cho các đồng đội của mình. Thật khó để diễn tả phản ứng của họ. “Bối rối” có lẽ là từ thích hợp nhất. Họ gặp khó khăn khi xử lý bất kỳ kịch bản kinh tế nào có từ “vàng” trong đó. Anh chàng đến từ Đại học Harvard thốt lên, “Thật lố bịch. Nó không liên quan gì đến bối cảnh của trò chơi và nó chẳng có ý nghĩa gì. Vàng không liên quan đến chính sách thương mại và tiền tệ quốc tế. Đây là một ý tưởng ngớ ngẩn và mất thời gian.” Anh bạn đến từ RAND Corporation có vẻ tò mò hơn và đặt ra một vài câu hỏi, nhưng rõ ràng anh ta không có vẻ gì là chuẩn bị chuyển sang hướng đề xuất của người Nga. Tôi cố thuyết phục các đồng đội mạo hiểm với đội Nga và hạ bệ người Mỹ về đúng vị trí của họ, nhưng không ai bị thuyết phục. Họ nhanh chóng quay lại việc phác thảo thông cáo không cam kết về vấn đề ban đầu. “Được thôi,” tôi nói. “Tôi phải phản hồi với đội Nga về vấn đề này. Tôi đề nghị triệu tập hội nghị thượng đỉnh để trả lời với họ nhé?” “Chắc chắn rồi, anh cứ đi đi. Chúng tôi sẽ tiếp tục thảo luận về tình huống này,” anh chàng Harvard nói. Ngay sau đó, tôi và Steve đã quay trở lại phòng hội nghị. “Này Steve, tôi không thể thuyết phục các đồng đội tiến hành kế hoạch. Tôi sẽ tiếp tục thuyết phục họ thực hiện chúng ở những vòng tiếp theo, nhưng giờ đây anh phải tự lực triển khai. Tôi sẽ không phiền nếu như anh ngừng thực hiện. Tôi thật sự nghĩ rằng Trung Quốc sẽ thấy được lợi ích trong kế hoạch này và chúng ta sẽ lại cùng nhau thực hiện.” “Tốt thôi,” Steve nói. “Đội Nga thật sự rất thích kế hoạch này. Họ nghĩ đã đến lúc có người nào đó đứng lên và chỉ ra rằng hệ thống đồng đô-la lừa đảo như thế nào. Thật tệ nếu như anh không thể tham gia cùng chúng tôi nhưng chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục. Hãy chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra.” https://thuviensach.vn Khi tôi trở về phòng Trung Quốc, đội của tôi đã hoàn thành phác thảo tuyên bố về động thái của chúng tôi trong vòng này của trò chơi. Tóm lại là không nói gì và không làm gì. Đây là giải pháp mang tính học thuật hoàn hảo nhưng lại không dạy được bài học nào cho Lầu Năm Góc. Bây giờ, đã đến lúc quay lại phòng chiến tranh để tuyên bố “nước đi” của đội mình với các đội khác. Cuộc họp ở phòng chiến tranh là phiên họp toàn thể với sự tham gia tập trung của tất cả các đội và các quan sát viên, mà theo ngôn ngữ của Lầu Năm Góc là “brief backs”. Một đại diện của mỗi đội sẽ đứng trên bục, mô tả chính sách đáp trả của đội mình cùng những lý do đằng sau chính sách đó, trả lời chất vấn của những đội khác và nhường chỗ cho đội tiếp theo. Nhân viên phòng thí nghiệm sẽ hỗ trợ từng đội ngay lập tức chuẩn bị các slide trình bày với các bản đồ, các chấm nhỏ dùng làm điểm đánh dấu hoặc các công cụ minh họa khác để trình chiếu lên màn hình trên tường. Chức năng chat của phần mềm nhóm thật nhàm chán với hơn 20 thảo luận đồng thời và trùng lặp. Chỉ có một ít trong số đó là được trả lời, còn lại cứ từ từ trôi qua trên màn hình phía trước người chơi. Nó cũng giống như Twitter mà không có avatar và wallpaper vậy! Nếu như bạn cảm thấy ai đó vừa thực hiện một hành động thông minh hay ngu ngốc, hoặc bạn muốn đặt câu hỏi, bạn chỉ cần nói như vậy. Mỗi người chơi có thể tham gia vào ít hay nhiều tùy vào ý thích của bản thân trong khi toàn bộ dòng suy nghĩ hiển thị bằng thanh cuộn kỹ thuật số này sẽ được lưu giữ lại cho các đánh giá trong tương lai của những chuyên gia hoạch định kế hoạch của Lầu Năm Góc. Đúng như dự đoán, bài phát biểu của đội Trung Quốc khá nhàm chán bởi khuynh hướng của cả đội và sự thất bại của tôi trong việc thu hút sự chú ý của mọi người vào loại tiền tệ được đảm bảo bằng vàng. Chúng tôi ngoan ngoãn chấp nhận thỏa thuận năng lượng Nga – Nhật như kịch bản nhưng cũng phát biểu một số ý kiến về việc sẽ gia tăng nỗ lực của Trung Quốc trong việc đa dạng hóa năng lượng. Tiếp đến là đội Nga. Bài phát biểu bắt đầu với những lời thể hiện sự vui mừng của Nga nếu được tiếp tục hợp tác với Trung Quốc trong một dự án đường ống dẫn khí đốt, và sau đó chuyển sang tuyên bố về yêu cầu thanh https://thuviensach.vn toán bằng loại tiền tệ được bảo đảm bằng vàng cho các khoản xuất khẩu năng lượng trong tương lai. Bản tổng kết chính thức về trò chơi chiến tranh được lập ít lâu sau đó gọi động thái này là “hung hăng” và “đầy tính đe dọa”, nhưng động thái đáp trả ngay lúc đó có vẻ hợp với phong cách ngớ ngẩn của Dr. Strangelove . Đội trắng yêu cầu tổ chức họp kín ngay sau khi phần trình bày của đội Nga kết thúc. Từ chỗ ngồi của mình tại vị trí trung tâm phòng hội nghị, họ ra quyết định rằng động thái về tiền tệ của đội Nga là “bất hợp pháp” và phải bị loại bỏ ra khỏi trò chơi. Tôi và Steve ngớ người, và những đồng đội của Steve ở đội Nga - những người đã tán thành kế hoạch này - cũng không thể nào tin được. “Bất hợp pháp? Ý các anh là sao?”, Steve gặng hỏi. “Đây là chiến tranh! Làm sao có thứ gì đó bất hợp pháp được!” Đây chính là những gì mà tôi lo ngại. Không chỉ vì sự lựa chọn những người chơi không khuyến khích các ý tưởng lạ, mà thậm chí khi chúng tôi có thể xen vào bằng một động thái không giống như thông lệ thì chúng tôi vẫn bị ngăn cấm. Tôi cảm thấy buộc phải lên tiếng bênh vực Steve mặc dù tôi đang chơi cho một đội khác. Tôi lên tiếng từ chỗ ngồi của mình ở đội Trung Quốc, “Các vị biết đấy, ở đây không có Hiệp định Geneva nào cả. Động thái của đội Nga hoàn toàn tự nhiên. Nước Mỹ đã áp dụng chế độ Bản vị vàng cho đến năm 1971 và hẳn là nhiều người ở đây vẫn còn nhớ. Nước Nga đang khiêu khích nhưng thực tế trước nay họ vẫn luôn luôn như vậy. Cho nên hãy tiếp tục và chờ xem chuyện này sẽ tiến triển như thế nào.” Các trọng tài có vẻ hơi bực dọc. Steve rơi vào tình trạng một vận động viên đánh bóng trong môn bóng chày bị phạt ngay trong cú đánh đầu tiên, còn tôi như người huấn luyện viên đang cố gắng bảo vệ học trò của mình khỏi bị đuổi ra khỏi sân. Trên màn hình chat của mọi người, tình hình rất sôi nổi với những phản đối tương tự như tiếng la hét của khán giả trên sân “Trọng tài biến đi!”. Đội trắng yêu cầu thêm một cuộc họp kín để cân nhắc quyết định của mình. Cuối cùng, người đứng đầu của đội trắng cầm lấy micro: “Trên cơ sở xem xét thêm...” Lúc này đây, tôi gần như nghe được ông ta xác nhận bằng giọng điệu hơi quan liêu rằng hành động của đội Nga https://thuviensach.vn được cho phép. Đội trắng giải nghĩa rằng hành động này không phải là “bất hợp pháp” mà là “không được khuyến khích”. Tôi biết đây là một cách lịch sự của việc nói đội Nga đã hành động một cách ngu ngốc, nhưng mọi thứ giờ đây đã tốt hơn đối với tôi. Loại tiền tệ được đảm bảo bằng vàng đã được đưa vào cuộc chiến; chúng ta sẽ xem mọi việc tiến triển thế nào trong hai ngày sắp tới. Các nước đi còn lại được tuyên bố theo một cách thức khá hữu hảo, đa phương. Mỹ đưa ra tuyên bố cam kết ủng hộ tự do thương mại và nhu cầu tìm hiểu về các loại năng lượng xanh thay thế. Đội Vành đai Thái Bình Dương tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ viện trợ cho bất cứ nước châu Á nào phải đối mặt với những khó khăn trước mắt về chi phí năng lượng, cũng như cam kết sẽ tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế. Đội Xám, với chiếc mũ mang biểu tượng Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF trên đầu, tuyên bố viện trợ tài chính cho các quốc gia Xô Viết cũ phải gánh chịu hệ quả từ thỏa thuận Nga – Nhật. Không có đội nào trong phòng đưa ra ý kiến gì về loại tiền tệ mới được đảm bảo bằng vàng. Nó chỉ đơn giản như một con đười ươi mới sinh nặng 800 pound đang ngồi giữa phòng chiến tranh chờ đợi người nào đó chú ý đến mà thôi. Sau nước đi đầu tiên, các trọng tài (đội Trắng) bắt đầu cho điểm từng đội. Đội Hoa Kỳ mất một chút quyền lực vì Nhật dường như đã phần nào rời khỏi quỹ đạo của Hoa Kỳ mà Hoa Kỳ lại không đáp trả việc này một cách hiệu quả. Trung Quốc được thêm một ít điểm chủ yếu do... không làm gì cả. Đội Nga bị phạt nặng vì các trọng tài cho nước đi của họ là một động thái thù địch, thiếu hợp tác với phần còn lại của thế giới và không có lợi ích trực tiếp gì hết. Tóm lại cả Steve và tôi cùng nhau làm thiệt hại một số điểm (tức là quyền lực) của những đội mà chúng tôi đang chơi sau vòng 1 này. Tuy nhiên, quả thật chúng tôi đang đánh một ván cờ căng thẳng, một “deep game” theo cách gọi của các đại kiện tướng Nga. Sẽ còn nhiều nước đi kế tiếp. Bây giờ bắt đầu nước đi thứ hai của các đội (vòng 2). Bối cảnh của vòng này không mấy khớp với ý tưởng của tôi về chiến tranh tiền tệ như kịch bản đã sử dụng cho vòng 1. Ở vòng này chúng tôi phải đối mặt với sự sụp đổ https://thuviensach.vn kinh tế của Triều Tiên và phản ứng toàn cầu, được dự kiến kết hợp cả động cơ về địa – chính trị lẫn nhân đạo. Đây là một kịch bản khả thi nhưng lại là một sự lựa chọn lạ lùng cho một trò chơi chiến tranh tài chính. Triều Tiên gần như không có sự kết nối nào với hệ thống tài chính toàn cầu như các nước khác. Thoạt đầu, thật khó nhận ra làm thế nào để đưa những vấn đề như vàng và tiền tệ vào kịch bản này. Ngồi trong phòng thủ đô Trung Quốc, tôi nghiêm túc lắng nghe các đồng đội của mình thảo luận về việc liệu Mỹ có thể từ chối viện trợ cho Triều Tiên để làm cho tình hình trở nên tệ hơn như một sự mở đầu cho việc thống nhất hai miền nam bắc Triều Tiên hay không. Bởi vì đây là một đội có xu hướng sợ rủi ro, họ thống nhất ý kiến về một gói viện trợ nhân đạo cùng với một vài biểu hiện cho thấy rằng Trung Quốc ủng hộ quá trình thống nhất hai miền trong tương lai một cách hòa bình. Vào một thời điểm im ắng thích hợp trong cuộc thảo luận, tôi quay sang anh bạn Harvard và nói, “Xem nào, vẫn chưa quá muộn để chúng ta quay lại với thứ gọi là tiền tệ được đảm bảo bằng vàng này. Chúng ta có thể tuyên bố một vài động thái ủng hộ sáng kiến của người Nga cùng với một vài dự định nghiên cứu tìm hiểu chúng và có thể tham gia cùng họ trong tương lai.” Lúc này, anh chàng Harvard bắt đầu mất kiên nhẫn. Anh ta rõ ràng nghĩ rằng vấn đề này đã bị lãng quên và có thể chắc chắn được lờ đi. Nếu Trung Quốc gia nhập vào hệ thống của Nga, họ sẽ phải hoán đổi dự trữ đô-la Mỹ để lấy vàng nhằm đảm bảo cho loại tiền tệ mới. Trong số các lý do phản đối khác, anh chàng này cho rằng người Nga đã đặt ra một mức giá quá cao. “Coi kìa,” anh ta đốp chát lại, “tất cả những thứ này chẳng có ý nghĩa nào cả. Vàng không phải là một phần của hệ thống thống tiền tệ và nó sẽ không quay trở lại dù cho người Nga có làm gì chăng nữa. Họ chỉ nghĩ cho bản thân họ mà thôi. Anh muốn dùng đồng tiền mạnh (tức là đô-la Mỹ - ND) để mua vàng với mức giá bị thổi phồng lên; còn tôi thà giữ lại đồng đô-la – chúng đáng giá hơn nhiều. Nào, bây giờ hãy quay lại với vấn đề Triều Tiên.” Là một chuyên gia lừng danh về châu Á, anh chàng đến từ Harvard này rõ ràng rất thích thú với cơ hội nghiên cứu về các vấn đề song phương phức tạp của Đông Á hơn là đeo đuổi cái mà anh ta cho là cuộc đối thoại không có https://thuviensach.vn điểm dừng về tiền tệ và vàng. Tuy nhiên, từ khi còn ở trường luật, tôi đã được huấn luyện cách tranh luận liên tục không ngưng nghỉ ở cả hai khía cạnh của một vấn đề, nên tôi nhanh chóng xoáy vào các luận điểm của anh ta chỉ nhằm để giữ cho cuộc tranh luận được tiếp tục. “Anh cho rằng chúng ta phải trả giá quá cao để mua vàng sao?”, tôi hỏi. “Đúng vậy. Quá cao,” anh ta nói. “Vậy tại sao chúng ta không bán vàng cho Nga?” Đây không chỉ là bản năng của một luật sư mà còn là bản năng của một nhà buôn. Thị trường nào cũng có bên mua (những người sẵn sàng mua) và bên bán (những người sẵn sàng bán). Tạo lập thị trường chính là nghệ thuật phát hiện ra mức giá giữa bên mua và bên bán. Một người lúc đầu có thể là người mua, nhưng nếu hàng hóa được định giá quá cao thì người đó sẽ nhanh chóng trở thành người bán. Chính loại tính cách “máu lạnh” này là điển hình cho các nhà kinh doanh giỏi nhất mà tôi từng gặp gỡ. Tôi bắt đầu “câu” anh chàng Harvard: nếu giá quá cao để mua, vậy chúng ta có thể bán. Tôi chờ xem anh ta có cắn câu hay không. “Tốt thôi,” anh ta nói. “Hãy gom vàng lại và bán cho Nga để lấy USD và Euro, và đa dạng hóa trạng thái dự trữ ngoại hối của chúng ta.” Có thể anh ta chỉ nói thế để tôi dừng tranh luận, nhưng điều này lại có lợi cho tôi. Chúng tôi vừa siết thòng lọng vào cổ của đồng đô-la Mỹ. Cả đội nhanh chóng tán đồng và tôi ngay lập tức triệu tập hội nghị thượng đỉnh với Nga để đưa ra đề nghị của chúng tôi. Steve và tôi gặp nhau lần thứ ba và như tôi kỳ vọng, Nga đồng ý mua toàn bộ vàng, khoảng một ngàn tấn, của Trung Quốc, bằng dự trữ ngoại hối của họ. Từ góc độ của Nga, thương vụ này thật lý tưởng bởi đây là một cuộc mua bán lớn với tác động rất ít lên thị trường. Trong kinh doanh vàng thông thường, một thương vụ mua bán chỉ cỡ 10 tấn vàng cũng phải được thương thảo và diễn ra một cách tuyệt đối bí mật nhằm không đẩy thị giá vàng tăng vọt, vậy mà nay Nga lại đạt được thương vụ mua bán vàng lớn nhất trong lịch sử mà không gây ra tác động bất lợi ngay lập tức nào lên thị trường. Tôi lấy làm tiếc khi thấy Trung Quốc đã bị loại khỏi trò chơi về vàng nhưng lại rất hài lòng khi thấy Nga đã đưa được bóng vào sân. https://thuviensach.vn Giờ là lúc quay lại phòng chiến tranh và phiên họp toàn thể thứ ba của chúng tôi. Chúng tôi đi xung quanh phòng, rồi người phát ngôn của từng đội trình bày về phản ứng, hay nước đi của họ trước kịch bản Triều Tiên đã nêu. Như có thể đoán trước, Mỹ và Vành đai Thái Bình Dương cam kết hỗ trợ nhân đạo, Trung Quốc cũng vậy, chỉ nêu thêm ý kiến về khả năng thống nhất hai miền vì rõ ràng chế độ Triều Tiên đang ở trong những ngày cuối của họ. Nga cũng hứa viện trợ nhưng với lập trường cứng rắn hơn khi quyết định đóng cửa biên giới với Triều Tiên. Và như tiện thể nói ra, đội Nga tuyên bố rằng họ đã mua được toàn bộ dự trữ vàng của Trung Quốc và thêm vào lượng dự trữ vàng hiện hữu của họ để bảo đảm cho loại tiền tệ mới mà họ từng đề xuất! Đội Trắng – các trọng tài – rõ ràng lúng túng. Đội Nga đang chơi trò chơi của họ theo quy tắc của riêng họ. Trong chừng mực mà Steve và tôi biết, người Nga luôn chọn cách hành xử theo ý riêng của họ cả ngàn năm nay, và đây chính là một hành động kiểu Nga điển hình. Tới lúc này, con đười ươi 800 bảng Anh mà tôi đã nói tới ở đoạn trên không thể bị phớt lờ thêm nữa và sự phân xử nhanh chóng diễn ra. Hầu như không có thay đổi nào về sức mạnh quốc gia của Trung Quốc, Mỹ hoặc đội Vành đai Thái Bình Dương sau vòng hai. Điều này dễ hiểu bởi tuy Triều Tiên hay thay đổi và nguy hiểm nhưng chỉ là một quốc gia riêng lẻ và tách biệt khỏi cộng đồng, do đó không ai có thêm hay mất đi sức mạnh khi người Triều Tiên “lắc con thuyền” – suy cho cùng đây là vấn đề chung của tất cả mọi người! Tiếp theo các trọng tài nhẹ nhàng tuyên bố “Rõ ràng đội Nga đã có những động thái vững chắc cho thấy hướng đi về một giải pháp thay thế đồng đô-la Mỹ trong thương mại quốc tế. Viễn cảnh của điều này còn rất không chắc chắn, nhưng chúng tôi quyết định cộng điểm cho đội Nga về những động thái liên quan đến tiền tệ của đội.” Từ góc này đến góc kia của căn phòng, Steve và tôi nhìn nhau: rõ ràng đây chưa phải là lời khen tặng hay sự xác quyết, nhưng chúng tôi khó có thể không nở một nụ cười mỉm đầy hài lòng vào giây phút đó! Đến đây là kết thúc ngày đầu tiên. Quả là một ngày dài, nhưng dù sao đi nữa thì chúng tôi đã có một cuộc chiến thật tuyệt. Chúng tôi quyết định tìm một nhà hàng gần đó, ăn tối và uống một vài ly, và sau đó quay về khách sạn https://thuviensach.vn để nắm bắt thông tin và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày thứ hai. Một trong những nghịch lý khi bạn làm việc ở một nơi được hoàn toàn bảo mật là việc bạn không có bất cứ thông tin gì về thế giới bên ngoài. Một người nào đó có thể làm việc trong trung tâm đầu não phân tích tình báo hoặc phát triển vũ khí, nhưng với sự giới hạn của việc tiếp cận với điện thoại di động, các ứng dụng thông tin và các thiết bị liên lạc tối tân của thế kỷ XXI, anh ta có thể là người cuối cùng biết được thông tin sàn chứng khoán bị sụp đổ. Là một người của thị trường và là một con nghiện tin tức, chúng tôi đang đói thông tin như thể đói ăn! Chúng tôi đến một nhà hàng không quá đắt đỏ gần đó mà các nhân viên phòng thí nghiệm giới thiệu, và trong khi tôi lái xe theo hướng dẫn tiến về phía Fort Meade – Maryland thì Steve và OD tán gẫu và lướt internet trên những chiếc điện thoại BlackBerry của họ. Chúng tôi tìm ra chỗ đó không mấy khó khăn nhưng chúng tôi thật sự bất ngờ khi thấy lúc đó là 5h30 chiều thứ ba mà bãi đỗ xe chật kín, ngoài ra có đông nghịt người ở ban công tầng hai bên ngoài nhà hàng. “À,” O.D. lên tiếng, dựa trên nguồn gốc dòng họ O’Donnell của mình và với chất giọng đặc trưng của người Ireland. “Hôm nay là lễ Thánh Patrick – chắc nơi này đã chật người từ buổi trưa rồi.” Đang trong chiến dịch tìm cách làm lung lay hệ thống tài chính thế giới từ trong lõi, chúng tôi hoàn toàn quên ngày lễ Thánh Patrick. Trong tôi có một phần là người Ireland, họ ngoại của tôi thuộc dòng họ Thornton. Với dòng máu Ireland như vậy, chúng tôi, tức tôi và O.D., lập tức phong luôn cho Steve là “công dân Ireland danh dự” và chúng tôi mở đường tiến lên trên lầu, xuyên qua đám đông đang tụ tập ngoài ban công và len vào trong phòng ăn cũng đông đúc chẳng kém, tìm được một bàn gần cửa sổ với tầm nhìn khá đẹp, phóng tầm mắt ra các vùng thôn quê Maryland. Chúng tôi ngồi xuống, gọi ba ly bia Guinness, một vài món khai vị và bắt đầu tóm tắt lại mọi việc theo cách của chúng tôi, mà theo ngôn ngữ của Lầu Năm Góc gọi là “brief back”. “Anh có biết vấn đề của trò chơi này là gì không?” O.D. hỏi. “Gì vậy?”, tôi lên tiếng. https://thuviensach.vn “Không có thị trường. Ý tôi là đội trắng – trọng tài có thể cho chúng ta biết được liệu chúng ta thắng hay thua ở mỗi vòng nhưng lại không có hệ thống giá cả để đo lường ảnh hưởng từ những hành động của chúng ta”. O.D. đã đúng. Một nhà kinh doanh tiền tệ có thể có ý tưởng kinh doanh tuyệt vời nhất, nhưng nếu bạn thua lỗ trong một thương vụ cụ thể thì đó chính là cách tự nhiên nhất để bạn hiểu rằng bạn đã có sai lầm. Những nhà kinh doanh giỏi luôn biết cách vượt qua thất bại, cắt lỗ và ngồi lại để tìm kiếm cơ hội tốt kế tiếp. Rốt cuộc thì cơ hội cũng chỉ xung quanh đâu đó thôi. Những nhà kinh doanh kém sẽ tìm cách hợp lý hóa thua lỗ, cho rằng thị trường không thể hiểu được họ giỏi đến mức nào, tiến hành các thương vụ quy mô lớn hơn, thực tế là đặt cược cao hơn trong lần sau để bù lại lần thua trước, và thường tiếp tục thua lỗ nhiều hơn cho đến khi bộ phận quản lý rủi ro cấp cao hơn buộc họ phải đóng trạng thái kinh doanh. Dù cho là chiến lược nào thì tín hiệu về giá cả cũng là cái để giữ cho nhà kinh doanh luôn trung thực và cho họ những thông tin phản hồi cần thiết của thị trường để họ hợp lý hóa các giả thuyết của mình. Dù vậy, cũng không nên quá thất vọng vì khiếm khuyết nói trên của trò chơi. Đây là lần đầu tiên Bộ Quốc phòng tổ chức một trò chơi chiến tranh và thực tế là họ đã tổ chức bất chấp một số ý kiến phản đối trong nội bộ. Tôi vui mừng vì họ đã làm cũng như vì họ đã gặp những phản đối. Ít ra thì cơ quan này cũng cầu thị, không giống như nhiều cơ quan công quyền khác. Khi tôi cảnh báo các cơ quan chính phủ khác về sự nguy hiểm của cuôc chiến tranh tài chính khởi đầu bởi các thế lực thù địch, câu trả lời điển hình thường là: “Ôi, họ sẽ không bao giờ làm như vậy đâu. Sẽ rất tốn kém và những nước khác sẽ tự bắn vào chân mình mà thôi!”. Họ nói cứ như thể là các vũ khí quân dụng hạng nặng thì không tốn tiền, như thể các tàu sân bay thì miễn phí vậy. Họ không thấu hiểu được sự thật rằng chi phí cho một cuộc chiến tranh tài chính thì thấp hơn nhiều so với chi phí chạy đua vũ trang và có vẻ như nó hiệu quả hơn sự đối đầu quân sự trong việc làm xói mòn sức mạnh của Hoa Kỳ. Lầu Năm Góc xứng đáng được biểu dương vì đã đi xa như vậy khi tổ chức trò chơi giả lập chiến tranh tài chính này. Trong những lần tổ chức sau, trò chơi hẳn sẽ hoàn thiện hơn. https://thuviensach.vn Chúng tôi gọi thêm một lượt bia Guinness nữa, hoàn tất bữa ăn và quay lại Columbia, Maryland, nơi chúng tôi đang ở. Đây quả là một ngày dài và chúng tôi sẽ bắt đầu ngày thứ hai của trò chơi vào 7h30 sáng. Chúng tôi thỏa thuận sẽ gặp nhau ở sảnh vào sáng mai và trở về phòng. • Ngày thứ hai Tôi thức dậy lúc 6g30 sáng và cảm thấy hơi chuếnh choáng bởi tác dụng của mấy ly bia Guinness, nhưng chẳng có triệu chứng gì mà hai tách cà phê không thể chữa được cả. Tôi thu dọn nhanh chóng và quyết định kiểm tra các tin tức trực tuyến trước khi xếp gọn cái máy tính xách tay vào một chỗ. Vì không có thời gian để lướt sơ qua đống email chờ tôi mỗi buổi sáng nên tôi quyết định kiểm tra các tin trên Drudge Retort để nắm nhanh các tựa đề chính. Vì tôi đã bị thiếu thông tin vào ngày hôm qua và hôm nay cũng vậy nên đây là cách nhanh nhất để bắt kịp thế giới. Tôi nhấp vào trang đánh dấu Drudge, đợi một vài giây để tải trang và nhìn chằm chằm mà hoàn toàn không thể tin vào những gì tôi thấy. Với kiểu trình bày điển hình của Drudge, thường chúng ta sẽ thấy hình một nhân vật nổi bật nhất trong ngày, đặt ở ngay giữa trang. Sáng nay đó là hình ảnh Vladimir Putin. Cái tiêu đề bên dưới nêu rõ rằng Nga đang đòi hỏi kết liễu đồng đô-la Mỹ và đang tìm kiếm một vài loại tiền tệ dự trữ thay thế, những loại tiền được bảo đảm bằng hàng hóa vật chất trong đó có cả vàng. Những tiêu đề loại này đã trở nên tầm thường trong những năm qua, nhưng vào tháng 3/2009 nó vẫn là một ý tưởng mới mẻ mà nhiều người mới nghe đến lần đầu tiên. Thật dễ dàng khi chế nhạo Putin là người theo chủ nghĩa sô-vanh hay là một kẻ ưa thấy tên mình xuất hiện nổi bật trên báo chí, nhưng tôi biết rằng việc tiếp tục kế hoạch soán ngôi đồng đô-la đã được thảo luận ở châu Âu, Trung Quốc và ở cả Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF. Đây đơn thuần chỉ là việc Putin đứng lên giữa đám đông và cho mọi người thấy được sự không hài lòng của Nga đối với sự bá chủ dựa trên nền tảng đồng đô-la mà Mỹ đã áp đặt lên toàn thế giới. Đây chính xác là những gì mà tôi và Steve đã thảo luận với nhau bên đĩa sò và những ly vang trắng một tuần trước đó. Không thể có được sự xác nhận nào tốt hơn đối với các nước đi https://thuviensach.vn của chúng tôi trong trò chơi nếu như chính chúng tôi tự viết mẩu tin này trên Drudge. Tôi quẳng laptop vào vali và chạy xuống sảnh, vừa đi vừa cố tìm tiêu đề Drudge tương tự trên màn hình chiếc BlackBerry. Steve và O.D đang đợi tôi. “Này các anh, đã đọc tin trên Drudge sáng nay chưa?”, tôi thét lên từ xa. “Các anh sẽ không thể tin được đâu.” Tôi trao chiếc BlackBerry cho Steve, anh chăm chú nhìn vào màn hình và chuyền sang cho O.D. “Thật đáng ngạc nhiên,” Steve nói. “Mọi người ở phòng thí nghiệm sẽ nghĩ chúng ta đứng sau vụ này, kiểu giống như chúng ta có được thông tin nội bộ. Hãy đến đó và cho họ xem chuyện gì đang xảy ra trên thế giới.” Chúng tôi đến phòng thí nghiệm, lao qua hàng rào an ninh một cách nhanh nhất có thể và chạy lên lầu của Tòa nhà số 26 để đến phòng chiến tranh. Mọi người đang uống cà phê và tán gẫu về các sự kiện ngày hôm qua. Tôi chắc rằng các chuyên gia về an ninh, quân sự và các học giả xung quanh chúng tôi có nhiều việc quan trọng hơn để làm vào buổi sáng hơn là đọc tin tức trên Drudge, vì vậy tin sốt dẻo của chúng tôi cho đến lúc này vẫn đang là một bí mật. Chúng tôi đi vào phòng hỗ trợ kỹ thuật nằm kề bên cửa chính của phòng chiến tranh. Phòng kỹ thuật có những màn hình riêng với kích thước bằng những bức tường để xem trước hoặc khắc phục những sự cố xảy ra ở phòng chiến tranh. Tôi hỏi người phụ trách hình ảnh rằng liệu anh ta có thể kết nối mạng internet với màn hình lớn hay không và đưa cho anh ta địa chỉ web của Drudge. Trong vòng một vài giây, anh bạn Putin của chúng ta đã xuất hiện trên màn hình, to lớn hơn so với đời thực, đang thách đấu với vị thế bá chủ của đồng đô-la Mỹ. Chỉ với một vài cú nhấp chuột trên bảng điều khiển, cái tiêu đề của Drudge giờ đây đã xuất hiện tại phòng chiến tranh, trong khi các nhân viên phòng thí nghiệm giúp in nội dung bài viết đằng sau tiêu đề này và đảm bảo một bản sẽ được đặt vào giữa cuốn sách quy tắc và tập kịch bản đặt tại mỗi trạm chiến đấu. Anh chàng Harvard chẳng thể hiện sự thích thú nào cả. Anh ta đã từng nghĩ tôi và Steve thật nực cười và giờ đây anh ta cũng nghĩ vậy về Putin. https://thuviensach.vn Nhưng hầu hết mọi người chơi đều đủ thấu hiểu để tán thưởng chúng tôi vì đã đưa trò chơi đến một mốc quan trọng trước khi nó xảy ra. Khi tin đồn về Putin dịu đi, chúng tôi quay trở lại với trò chơi chiến tranh và sự kiện thứ ba, sự kiện cuối cùng trong trò chơi. Kịch bản này liên quan đến việc ứng cử của một ứng cử viên theo đường lối giữ quyền độc lập cho Đài Loan, nỗ lực chống lại sự hòa nhập kinh tế ngày càng tăng của Đài Loan và Trung Quốc đại lục. Giờ đây chẳng còn gì nhiều để làm với bình phong tiền tệ được đảm bảo bằng vàng. Đội Nga đã có động thái của mình, Trung Quốc từ chối hợp tác và Hoa Kỳ phản ứng một cách lãnh đạm, mặc dù điều này có vẻ thật lạ lùng vì trong thế giới thực, bất cứ hành động nào của Nga có liên quan đến vàng đều gặp phải những phản ứng mạnh mẽ của Hoa Kỳ. Đội Hoa Kỳ gồm toàn các học giả, những chuyên gia thuộc các think-tank và các chuyên gia quân sự, và không có bất cứ kinh nghiệm nào về thị trường. Vì vậy, tôi buộc phải thừa nhận rằng họ không thể nhận biết được các nguy cơ khi đồng đô-la bị tấn công! Như hầu hết các chuyên gia mà tôi đã từng nói chuyện, họ hầu như chắc rằng đồng đô-la Mỹ sẽ luôn luôn giữ vững được ưu thế vượt trội và chưa hề nghĩ nhiều đến các kịch bản thay thế. Chúng tôi bắt đầu chuẩn bị cho động thái đáp trả đối với vấn đề đặt ra trong vòng này. Trung Quốc lặp lại chính sách “Một Trung Quốc” của mình và cảnh báo các nước khác không ủng hộ hành động của Đài Loan. Nhật Bản cố gắng xúc tiến một Khu vực Tự do thương mại châu Á, chào đón cả Trung Quốc lẫn Đài Loan, như là một biện pháp xóa bỏ sự bất đồng giữa họ. Hoa Kỳ nhấn mạnh sự hợp tác về quân sự với Đài Loan nhưng đề xuất rằng sự hợp tác này trong tương lai tùy thuộc vào việc giảm thiểu lập trường đối đầu của Đài Loan. Chỉ có đội Nga tiếp tục nước cờ mạo hiểm về loại tiền tệ thay thế bằng cách thuyết phục các thành viên OPEC trong đội Xám tham gia vào “kế hoạch vàng” của họ và bằng cách đề nghị với Trung Quốc rằng họ sẵn sàng đứng về phía Trung Quốc trong vụ tranh chấp với Đài Loan nếu Trung Quốc ủng hộ đồng tiền mới. Tôi phải khen ngợi Steve và các đồng đội của anh: họ đã đi nước cờ này với tất cả những gì họ có mặc dù chẳng ai khác chú ý đến nó. https://thuviensach.vn Ngay khi trò chơi có vẻ dịu đi như vậy, O.D đã tung ra nước cờ liều mạng của mình. Phát biểu trên danh nghĩa của đội Xám, anh ta tuyên bố rằng cảnh sát biển Nhật Bản vừa ngăn chặn được một lô lớn những tờ 100 đô-la Mỹ giả gần như hoàn hảo mà các quan chức của Bộ Ngân khố Mỹ gọi là những tờ supernote (tiền siêu giả). Những tờ tiền giả siêu hạng này được in bởi Văn phòng 39 khét tiếng của Triều Tiên, cơ quan in tiền giả do chính phủ bảo trợ được chính Kim Nhật Thành lập ra năm 1974 để điều khiển việc rửa tiền, in tiền giả, buôn lậu ma túy và các hoạt động vốn chỉ do các băng đảng tội phạm thực hiện, nhằm thu về ngoại tệ mạnh cho chế độ của họ. Nước đi của O.D. gợi nhớ đến những câu chuyện trong lịch sử, với các quốc gia tham gia vào chiến tranh tiền tệ bằng cách in giả tiền tệ của kẻ thù và tung lượng tiền giả này vào lãnh thổ của kẻ thù để tạo ra sự bất tín nhiệm đối với các tờ tiền thật và góp phần dẫn đến sụp đổ kinh tế. Trong thời kỳ nội chiến tại Mỹ, một người ủng hộ Liên bang Miền Bắc và là chủ cửa hàng văn phòng phẩm ở Philadelphia tên Samuel Upham đã in giả 15 triệu đô-la tiền của Liên minh Miền Nam, con số này bằng khoảng 3% của tổng số tiền trong lưu thông! Phần lớn số tiền này được những người lính của Liên bang Miền Bắc mang xuống miền Nam và đã làm xói mòn niềm tin vào tờ tiền thật của Liên minh Miền Nam. Nước đi mà O.D. vừa nêu ra là sự gợi nhớ xa xôi tới một giai đoạn xa xưa của các cuộc chiến tiền tệ. O.D. cũng báo cáo rằng các ngân hàng ở Thụy Sĩ đã bị lừa bởi những khoản tiền gửi bằng những tờ tiền giả siêu hạng này. Chúng dường như tràn về từ khắp nơi trên thế giới. Những khoản thất thoát của các ngân hàng Thụy Sĩ và việc bắt giữ chuyến tiền siêu giả nói trên của cảnh sát Nhật đủ để gây nên sự nghi ngờ đối với giá trị của đồng đô-la Mỹ đang lưu thông ở trên thị trường quốc tế, chủ yếu là đối với các tờ giấy bạc 100 đô-la. Hiện nay người ta loan tin rằng đồng đô-la được mua bán ở chợ đen với mức giá thấp hơn mệnh giá trên các thị trường tiền tệ thế giới. Trong tổng số đô-la Mỹ đang lưu thông, lượng đô-la tiền mặt là khá nhỏ so với lượng chuyển khoản mà các ngân hàng nắm giữ, do đó việc tiền giả tràn lan như trên thực ra chưa đến mức thảm họa. Tuy nhiên, đó vẫn là một cú đánh nữa vào đồng tiền này, một nước đi đẹp từ O.D. https://thuviensach.vn Cuối cùng, đội Trắng dường như đã rất ấn tượng với sự kiên trì đối với loại tiền tệ thay thế của đội Nga, đặc biệt là đề nghị của họ với OPEC, và quyết định tăng thêm điểm về sức mạnh quốc gia cho đội Nga. Đây quả thực là một diễn biến hoàn toàn trái ngược với ngày đầu tiên, khi mà nước đi của đội Nga bị nhạo báng. Trung Quốc được cộng thêm điểm hầu hết là do... không làm gì cả. Đây là một bài học về cách chiến thắng trong trò chơi có tổng bằng không[4] bằng cách cúi đầu im lặng trong khi những người khác liên tục mắc sai lầm. Đội Mỹ bị hạ chỉ số sức mạnh quốc gia, một phần bởi vì sự tấn công vào đồng đô-la từ đội Nga, và phần khác là có vẻ như khu vực Đông Á đang dần kết thành một khối với trung tâm là Trung Quốc – Nhật Bản với triển vọng mở rộng quy mô ra hầu hết các nước trong khu vực và loại trừ vai trò của Mỹ ra khỏi các quyết định về thương mại và dòng vốn tại khu vực này. Cuối cùng, Trung Quốc được lợi nhiều nhất dù hành động ít nhất trong khi Nga và Đông Á được một ít điểm, và đội Mỹ là đội thua nhiều nhất. Phần còn lại của phiên họp được tiếp tục với các câu hỏi thẩm vấn. Thật sự thì không chỉ toàn bộ quá trình chuẩn bị trước đó mà cả hai ngày vừa qua cũng rất thú vị. Nó thật sự hữu ích đối với an ninh quốc gia của Mỹ khi mà rất nhiều chuyên gia với những quan điểm khác nhau và từ nhiều nơi xa xôi tụ tập về dưới một mái nhà để trao đổi ý kiến và trình bày cho giới quân sự những cách thức mới để thấu hiểu những nguy cơ tiềm ẩn. Khi mà Bộ Ngân khố và Hệ thống Dự trữ Liên bang dàn dựng các kịch bản để chuẩn bị đối phó, họ thường chỉ tính đến các bong bóng vỡ và thị trường sụp đổ, chứ chưa hề nghĩ tới các cuộc chiến tranh tài chính do chính phủ bảo trợ. Nguyên chủ tịch của Fed, ông Alan Greenspan thích nói rằng Fed không thành thạo trong việc ngăn chặn tình trạng bong bóng, rằng các nguồn lực của Fed được vận dụng tốt hơn khi thu dọn bãi chiến trường sau khi một bong bóng bùng nổ. Quan điểm đó của Greenspan chỉ có hiệu quả đối với những hỗn độn có quy mô vừa phải. Đối với những xáo trộn với quy mô thực sự lớn, bao gồm tình trạng bất ổn dân sự, bạo loạn thực phẩm, cướp bóc, người tị nạn và sụp đổ toàn diện, thì Fed không có giải pháp nào và toàn xã hội chắc chắn phải quay sang giới quân sự để tìm giải pháp. Do đó, https://thuviensach.vn giới quân sự thực sự có lợi rất nhiều trong việc thấu hiểu các thảm họa kinh tế. Ít nhất chúng tôi đã cho Lầu Năm Góc một vài kịch bản để suy nghĩ về một cuộc tấn công kinh tế bất ngờ. Tất nhiên tôi hy vọng trong thực tế họ sẽ không phải áp dụng những hiểu biết này, nhưng tôi vẫn lo rằng có thể họ sẽ cần đến chúng một ngày nào đó! Trong vài tuần sau đó, với những hồi ức về trò chơi tài chính mới mẻ trong tâm trí tôi, tôi không thể không tự nhắc nhở mình rằng cuộc chiến tranh tiền tệ thật sự đã bùng nổ và đang diễn ra ác liệt trên toàn thế giới. Vào tháng 3/2009, chưa có ai sử dụng thuật ngữ “chiến tranh tiền tệ” (thuật ngữ này chỉ được dùng sau đó một thời gian) nhưng đã có những dấu hiệu. Chương trình nới lỏng định lượng (cái được gọi là QE) đầu tiên của Hệ thống Dự trữ Liên bang đã bắt đầu vào tháng 11/2008 với mục đích không che giấu là làm suy yếu đồng đô-la Mỹ trên thị trường ngoại hối. Chính sách “đô-la rẻ” của Fed đang có được những hiệu quả như mong đợi. Hai năm sau thí nghiệm giả lập về trò chơi chiến tranh nói trên, chứng khoán và vàng đều tăng giá hơn 85%. Một số nhà phân tích ban đầu bị bối rối bởi các mối tương quan tích cực của cổ phiếu và vàng (cả hai cùng tăng giá – ND) cho đến khi họ nhận ra rằng điều tương tự đã xảy ra trong tháng 4/1933 khi Tổng thống Roosevelt phá giá đồng đô-la so với đồng Bảng Anh trong thời kỳ chiến tranh tiền tệ “làm nghèo nhà hàng xóm” của cuộc Đại Suy thoái. Việc tăng giá chứng khoán và vàng ồ ạt trong năm 1933 và 2010 chỉ là mặt trái của việc phá giá đồng đô-la mà thôi. Về bản chất, các tài sản không có giá trị cao hơn, chỉ là người ta tốn nhiều đô-la hơn để mua chúng bởi vì đồng tiền này đã bị mất giá. Trong thế giới bên ngoài phòng chiến tranh, việc làm mất giá đồng đô-la là phần việc dễ dàng. Việc khó khăn là tính toán hệ quả xảy ra sau đó, khi các nước xuất khẩu như Trung Quốc, Nga và Arab Saudi cố gắng bảo vệ lợi ích của mình bằng cách tăng giá hoặc từ chối nhận thanh toán bằng đô-la Mỹ. Đó là khi chiến tranh tiền tệ thật sự nóng lên, mặc dù đó vẫn chỉ là câu chuyện của tương lai, nhìn từ quan điểm của trò chơi chiến tranh vào năm 2009. https://thuviensach.vn Bài học mà Lầu Năm Góc rút ra từ trò chơi chiến tranh này là thậm chí đồng đô-la có hoàn toàn bị phá giá thì Mỹ vẫn còn níu kéo được nhờ vào lượng vàng dự trữ khổng lồ. Một sự thật hấp dẫn rằng hầu như tất cả các kho vàng dự trữ của Mỹ không chỉ được cất giữ trong kho của các ngân hàng mà trong các căn cứ quân sự như căn cứ Fort Knox ở Kentucky và căn cứ West Point, nằm dọc theo sông Hudson ở New York. Điều này cho thấy sự liên hệ giữa sự thịnh vượng quốc gia và an ninh quốc gia. Sự phá giá tiền tệ trong những năm 1930 đã nhanh chóng dẫn đến cuộc xâm lược của Nhật Bản vào các nước châu Á và sự tấn công của Đức vào châu Âu. Sự phá giá tiền tệ những năm 1970 nhanh chóng dẫn đến thời kỳ lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại. Mỹ hiện đang tiến vào thời kỳ của những nguy cơ về tài chính, tương tự như những năm 1930 và 1970. Trò chơi chiến tranh tài chính của Lầu Năm Góc đã đi trước thời đại, nhưng chỉ một chút thôi, và có vẻ đây chính là một phần của việc chuẩn bị cho những ngày khó khăn phía trước – một sự bắt đầu chứ không phải là sự kết thúc cho một thế giới đầy những nguy cơ mới về tài chính. https://thuviensach.vn PHẦN II CÁC CUỘC CHIẾN TRANH TIỀN TỆ https://thuviensach.vn 3 HỒI ỨC VỀ MỘT THỜI KỲ VÀNG SON “Chúng ta đang ở trong đám mây mù của một cuộc chiến tranh tiền tệ quốc tế.” — Guido Mantega, Bộ trưởng Tài chính Brazil, ngày 27/09/2010 “Tôi không thích cách diễn tả đây là cuộc chiến tranh tiền tệ.” — Dominique Strauss- Kahn, Tổng Giám đốc IMF, ngày 18/11/2010 Chiến tranh tiền tệ xảy ra khi một quốc gia liên tục phá giá đồng tiền của họ so với tiền tệ của các nước khác, là một trong những hậu quả có sức tàn phá lớn và đáng sợ nhất trong kinh tế học quốc tế. Điều này gợi nhớ lại những ám ảnh của thời kỳ Đại Suy thoái, khi các quốc gia thi nhau phá giá đồng tiền của mình theo kiểu “làm nghèo nhà hàng xóm”, đồng thời áp dụng những hàng rào thuế quan khiến thương mại thế giới đổ nhào! Nó cũng gợi nhớ những năm 1970, thời gian mà giá dầu tính bằng đô-la tăng gấp 4 lần khi nước Mỹ nỗ lực làm suy yếu đồng tiền của họ qua hành động xóa bỏ Bản vị vàng. Cuối cùng, điều này cũng khiến người ta nhớ lại các cuộc khủng hoảng đồng Bảng Anh năm 1992, đồng Peso Mexico năm 1994 và đồng Ruble Nga năm 1998, bên cạnh những sự cố khác. Dù kéo dài hay có cường độ nghiêm trọng, các cuộc khủng hoảng tiền tệ nói trên cũng như những đợt khủng hoảng khác thường gắn với đình trệ, lạm phát, thắt chặt chi tiêu, hỗn loạn tài chính và những hậu quả kinh tế tồi tệ khác. Nói ngắn gọn, chẳng hề có điều gì tích cực đi cùng với một cuộc chiến tranh tiền tệ cả. https://thuviensach.vn Vì thế, giới tinh hoa của cộng đồng tài chính thế giới vừa ngạc nhiên vừa bực bội khi Bộ trưởng Tài chính Brazil Guido Mantega tuyên bố thẳng băng vào cuối tháng 9/2010 rằng một cuộc chiến tranh tiền tệ mới đã bắt đầu. Tất nhiên, với giới tinh hoa này thì những sự kiện và áp lực dẫn đến tuyên bố của Mantega chẳng có gì là mới mẻ hay xa lạ. Những căng thẳng ở tầm quốc tế về chính sách tỷ giá và theo đó là chính sách lãi suất/tài chính đã hiện diện thậm chí từ trước khi suy thoái nổ ra vào cuối năm 2007. Trung Quốc liên tục bị các đối tác thương mại cáo buộc đã cố tình định giá đồng Nhân dân tệ ở mức quá thấp, đồng thời tích tụ một lượng nợ vượt trội của Mỹ dưới hình thức trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên cơn hoảng loạn tài chính hồi năm 2008 lại mang đến một góc nhìn khác cho các tranh luận về tỷ giá. Hoàn toàn bất ngờ khi miếng bánh kinh tế bị thu hẹp lại thay vì phình to ra, dẫn đến việc các quốc gia vốn trước kia rất hài lòng với phần bánh ngày một tăng lên của họ thì nay phải lao vào tranh giành lẫn nhau những mảnh vụn bánh còn lại. Bất chấp những sức ép rõ ràng lên nền tài chính quốc tế cho đến năm 2010, giới tinh hoa tài chính vẫn né tránh, coi việc nhắc tới chiến tranh tiền tệ là một điều cấm kỵ. Thay vào đó, các chuyên gia tiền tệ quốc tế dùng những cụm từ như “tái lập cân bằng” hay “điều chỉnh” để nói về những nỗ lực dàn xếp các loại tỷ giá để đạt được cái mà một số người cho là những kết quả đáng mong đợi. Tất nhiên, sử dụng uyển ngữ chẳng thể nào làm dịu đi tình trạng căng thẳng trong hệ thống! Có một nghịch lý nằm ngay trung tâm của mọi cuộc chiến tranh tiền tệ. Tuy chiến tranh tiền tệ diễn ra trên bình diện quốc tế, nó lại do những vấn đề nội bộ từng quốc gia gây ra. Chiến tranh tiền tệ bắt nguồn từ cảm nhận rằng tăng trưởng nội tại là chưa đủ. Một nước bắt đầu câu chuyện này thông thường sẽ có tỷ lệ thất nghiệp cao, tăng trưởng thấp hay tốc độ tăng trưởng suy giảm, hệ thống ngân hàng yếu kém và hệ thống tài chính công suy kiệt. Trong hoàn cảnh này, rất khó thúc đẩy tăng trưởng thuần túy dựa trên các công cụ nội tại; và việc xúc tiến xuất khẩu thông qua phá giá tiền tệ trở thành động lực tăng trưởng duy nhất còn lại. Để hiểu rõ vấn đề này, xin xem lại 4 thành tố cơ bản của GDP (tổng sản phẩm quốc nội), bao gồm tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu của chính phủ (G) và xuất khẩu ròng (xuất khẩu X https://thuviensach.vn trừ đi nhập khẩu M). Định nghĩa tổng quát về tăng trưởng đó được thể hiện qua phương trình sau đây: GDP = C + I + G + (X – M) Một nền kinh tế sẽ gặp vấn đề khi tiêu dùng (C) đình đốn hay suy giảm do nạn thất nghiệp, do gánh nặng về nợ, hay do cả hai. Đầu tư (I) vào nhà máy sản xuất, thiết bị hay nhà cửa được đo lường độc lập với tiêu dùng, song rõ ràng là có sự liên hệ gắn bó chặt chẽ giữa đầu tư và tiêu dùng. Một doanh nghiệp sẽ không đầu tư mở rộng sản xuất nếu họ không kỳ vọng người tiêu dùng sẽ mua sản phẩm của họ, ngay lập tức hoặc trong một tương lai gần. Do đó khi tiêu dùng chậm lại, đầu tư kinh doanh cũng thụt lùi. Chi tiêu công (G) có thể được mở rộng một cách độc lập khi tiêu dùng và đầu tư đều suy giảm. Đây chính là điều mà các kinh tế gia theo trường phái Keynes đề xuất để duy trì mức tăng trưởng của một nền kinh tế ngay cả khi cá nhân và doanh nghiệp đã đứng sang một bên. Vấn đề là chính phủ phải phụ thuộc vào tiền thuế hay tiền đi vay thì mới có thể đẩy mạnh chi tiêu công trong thời buổi suy thoái, mà cử tri thì không hề sẵn lòng ủng hộ cả hai cách vừa nêu khi mà gánh nặng thuế khóa đã rất lớn và bản thân họ – những người dân – cũng đang phải thắt lưng buộc bụng. Trong các chế độ dân chủ, luôn có những hạn chế chính trị rất gắt gao về khả năng chính phủ có thể gia tăng chi tiêu công trong thời buổi kinh tế khó khăn, ngay cả khi các nhà kinh tế đã đề xuất hướng giải pháp này. Trong một nền kinh tế mà các cá nhân và doanh nghiệp không mở rộng chi tiêu/sản xuất, đồng thời chi tiêu công cũng bị hạn chế, lựa chọn duy nhất còn lại để tăng trưởng là tăng xuất khẩu ròng (X – M); và cách nhanh nhất để làm điều này là hạ giá đồng nội tệ. Ví dụ sau đây sẽ minh chứng điều này: giả sử một chiếc xe hơi Đức được định giá 30.000EUR, tỷ giá 1EUR=1,4USD, như vậy giá chiếc xe này tính theo đô-la Mỹ sẽ có giá là 42.000USD. Bây giờ chúng ta giả sử tiếp rằng EUR xuống giá chỉ còn 1EUR=1,1USD mà thôi, khi đó giá của chiếc xe hơi tính bằng đô-la Mỹ sẽ chỉ còn 33.000USD. Việc giá xe hơi bằng đô-la giảm từ 42.000USD xuống còn 33.000USD sẽ khiến mặt hàng này hấp dẫn hơn với người mua xe tại Mỹ, từ đó xe hơi Đức bán được nhiều hơn. Trong cả hai trường hợp, doanh https://thuviensach.vn thu của nhà sản xuất xe hơi tại Đức là 30.000EUR cho một chiếc xe, con số này không thay đổi. Do đồng EUR bị hạ giá, nhà sản xuất có thể bán thêm nhiều xe hơi tại Mỹ mà không phải hạ giá xe hơi tính theo EUR. Điều này làm tăng GDP của nước Đức, tạo thêm nhiều công ăn việc làm tại Đức để đáp ứng nhu cầu mua xe hơi của Hoa Kỳ. Hãy hình dung động lực trên đây không chỉ áp dụng cho Đức mà còn cho cả Pháp, Ý, Bỉ và những quốc gia khác sử dụng đồng Euro. Và cũng hãy hình dung ảnh hưởng (của việc phá giá tiền tệ – ND) không chỉ lên mặt hàng xe hơi mà còn lên các hàng hóa khác như rượu vang Pháp, hàng thời trang Ý và chocolate của Bỉ, không chỉ lên các hàng hóa hữu hình mà còn cả các hàng hóa vô hình như phần mềm máy tính và dịch vụ tư vấn... Sau hết, hãy xét tới việc ảnh hưởng này không dừng lại ở những hàng hóa xuất khẩu mà còn cả du lịch và đi lại. Khi giá trị của đồng Euro giảm từ 1,4USD xuống còn 1,1USD, giá một bữa ăn tối 100EUR tại Paris sẽ chỉ tương đương với 110USD thay vì 140USD như trước đó, tức là giá cả trở nên phải chăng hơn so với du khách Mỹ. Bạn hãy nghĩ tới ảnh hưởng của việc đồng Euro giảm giá so với đô-la Mỹ trên phạm vi rộng lớn như vừa nêu, áp dụng cho mọi hàng hóa dịch vụ được trao đổi, cả hữu hình và vô hình, và bạn sẽ bắt đầu thấy mức độ mà phá giá tiền tệ có thể trở thành một động lực mạnh mẽ như thế nào đối với tăng trưởng, tạo việc làm và lợi nhuận. Cám dỗ của hành vi phá giá đồng nội tệ trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn dường như là không thể cưỡng lại. Tuy nhiên, các vấn đề và hậu quả không mong đợi của những hành động nói trên sẽ xuất hiện hầu như ngay lập tức. Trước hết, hầu như chẳng có hàng hóa nào được sản xuất từ đầu đến cuối trong phạm vi một quốc gia. Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, một sản phẩm có thể có công nghệ Hoa Kỳ, thiết kế Ý, làm bằng nguyên liệu từ Úc, lắp ráp tại Trung Quốc, có những phụ tùng của Đài Loan và được phân phối qua hệ thống đặt tại Thụy Sĩ, sau đó đến tay khách hàng tại... Brazil! Từng bộ phận của chuỗi cung ứng và cách tân vừa nêu đều có phần trong lợi nhuận gộp vì những đóng góp của chúng cho cả chuỗi. Vấn đề suy ra ở đây là khía cạnh tỷ giá của kinh doanh toàn cầu không chỉ ảnh hưởng tới đồng tiền của thương vụ cuối cùng https://thuviensach.vn (bán cho người mua sau cùng – ND) mà còn tới mọi loại tiền tệ của các giao dịch đầu vào và giao dịch trong chuỗi cung ứng. Một quốc gia phá giá đồng nội tệ có thể thấy hàng hóa của họ được bán ra nước ngoài với giá rẻ hơn, nhưng chính họ lại bị ảnh hưởng xấu khi cần phải có nhiều nội tệ hơn để mua nhiều loại nguyên liệu đầu vào khác nhau (vì nội tệ giảm giá nên sẽ bị thiệt hại khi nhập khẩu – ND). Khi một quốc gia sản xuất vừa có doanh số xuất khẩu cao vừa có doanh số nhập khẩu nguyên liệu và phụ tùng cao để sản xuất ra những hàng hóa xuất khẩu của họ, giá trị đồng nội tệ có thể không ảnh hưởng nhiều tới xuất khẩu ròng (X – M) so với các yếu tố khác như chi phí lao động, thuế suất thấp và cơ sở hạ tầng tốt của nền kinh tế. Chi phí đầu vào gia tăng không phải là bất lợi duy nhất của việc phá giá tiền tệ. Mối quan ngại lớn hơn, nhãn tiền hơn là sự phá giá trả đũa. Chúng ta cùng xem lại ví dụ về giá xe hơi Đức ở mức 30.000EUR khi tính giá bằng USD sẽ giảm từ 42.000USD xuống 33.000USD khi đồng Euro bị giảm giá từ 1EUR ăn 1,4USD xuống chỉ còn 1,1USD. Làm sao mà nhà sản xuất xe hơi Đức có thể yên tâm rằng tỷ giá sẽ luôn ở mức thấp như vậy? Nước Mỹ có thể bảo vệ ngành xe hơi nội địa của họ bằng việc làm giảm giá đồng đô-la so với đồng Euro, đẩy Euro từ mức 1,1USD lên mức 1,4USD. Điều này có thể thực hiện được qua việc Mỹ giảm lãi suất đô-la Mỹ, khiến đồng tiền này kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư quốc tế, hoặc đơn giản là in thêm tiền để làm giảm giá đô-la Mỹ. Cuối cùng, Mỹ cũng có thể can thiệp trực tiếp vào thị trường tiền tệ bằng cách bán USD và mua vào EUR để điều chỉnh tỷ giá EUR/ USD trở lại mức mà họ mong muốn. Nói gọn lại, tuy việc phá giá đồng Euro có thể có lợi ích ngay tức khắc và trong ngắn hạn, chính sách này sẽ mau chóng phản tác dụng nếu một đối thủ mạnh mẽ như Mỹ quyết định phá giá trả đũa. Đôi khi những hành động phá giá cạnh tranh không có hồi kết, khi mỗi bên đều có lợi thế tạm thời, không bên nào chịu nhượng bộ lợi thế lâu dài cho đối phương. Khi ấy, để tiếp tục bảo vệ các nhà sản xuất trong nước, cần có một công cụ “nặng ký” hơn, đó là chủ nghĩa bảo hộ (protectionism) dưới hình thức thuế quan, cấm vận hay những hàng rào khác đối với thương mại tự do. Lấy cùng một ví dụ về ngành xe hơi, nước Mỹ có thể trả đũa một cách https://thuviensach.vn đơn giản bằng cách đánh thuế nhập khẩu 9.000USD trên một chiếc xe nhập từ Đức, điều này sẽ nâng giá xe hơi tại Mỹ từ 33.000USD lên 42.000USD ngay cả khi tỷ giá EUR/USD chỉ là 1,1. Thực tế thì Mỹ đã loại bỏ hoàn toàn lợi thế của người Đức khi họ phá giá đồng Euro bằng một mức thuế ngang với lợi thế đó, từ đó loại bỏ luôn lợi thế của đồng Euro trên thị trường Mỹ. Từ quan điểm của một người lao động làm trong ngành xe hơi Hoa Kỳ thì đây là điều tốt nhất vì nó vừa bảo hộ được ngành xe hơi Mỹ, vừa cho phép người lao động này hưởng những ngày nghỉ với mức giá phải chăng ở châu Âu (do đồng Euro giảm giá nên du khách Mỹ sẽ có lợi hơn khi chi tiêu trong các kỳ nghỉ ở châu Âu – ND). Chủ nghĩa bảo hộ không chỉ giới hạn ở việc áp thuế mà còn bao gồm cả những chế tài thương mại khác nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như cấm vận. Một trường hợp khá nổi tiếng gần đây là vụ đụng độ nhỏ về tiền tệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Trung Quốc là quốc gia hầu như kiểm soát toàn bộ nguồn cung của đất hiếm, tức một số nguyên tố kim loại trong lòng đất, rất hiếm và khó khai thác nhưng lại vô cùng quan trọng trong quá trình chế tạo hàng điện tử, xe hơi lai (hybrid) và các ứng dụng công nghệ cao, công nghệ xanh khác. Đa số trữ lượng đất hiếm thuộc Trung Quốc, còn Nhật là nước sử dụng chính loại nguyên liệu này để sản xuất hàng điện tử và xe hơi. Tháng 7/2010, Trung Quốc tuyên bố cắt giảm 72% sản lượng xuất khẩu đất hiếm, có tác dụng làm suy giảm ngành chế tạo của Nhật và những nước khác đang phụ thuộc vào nguồn cung loại nguyên liệu này từ Trung Quốc. Ngày 07/09/2010, một tàu đánh cá Trung Quốc va chạm với một tàu tuần duyên của Nhật ở một vùng đảo xa trong phạm vi vùng biển Hoa Đông, vốn đang bị tranh chấp giữa hai nước. Khi tàu tuần duyên Nhật bắt giữ viên thuyền trưởng tàu đánh cá, phía Trung Quốc đã phản đối dữ dội, yêu cầu phía Nhật thả ngay người bị bắt và đưa ra lời xin lỗi chính thức. Khi những yêu cầu này không được thực hiện ngay lập tức, Trung Quốc đi xa hơn tuyên bố cắt giảm sản lượng đất hiếm hồi tháng Bảy và đình chỉ mọi lô hàng xuất đất hiếm qua Nhật, khiến các nhà sản xuất Nhật khó khăn. Qua ngày 14/09/2010, Nhật Bản phản ứng bằng việc bất thình lình phá giá đồng Yen trên thị trường tiền tệ quốc tế: đồng Yen Nhật giảm 3% so với đồng Nhân https://thuviensach.vn dân tệ Trung Quốc chỉ trong vòng vỏn vẹn ba ngày! Sự kiên quyết của nước Nhật theo hướng phá giá này có thể ảnh hưởng tiêu cực tới xuất khẩu của Trung Quốc vào Nhật, so với xuất khẩu từ những nước có chi phí thấp hơn như Indonesia và Việt Nam. Trung Quốc đã tấn công Nhật Bản bằng một đợt cấm vận, ngược lại Nhật trả đũa bằng việc phá giá nội tệ, nhưng bên ngoài cả hai nước đều giả vờ như đang tranh cãi về những hòn đảo xa xôi không có người ở và số phận của một viên thuyền trưởng tàu đánh cá bị giam giữ. Vài tuần sau tình hình ổn định lại, viên thuyền trưởng được thả, Nhật đưa ra lời xin lỗi tạm thời, đồng Yen lên giá lại và dòng vận chuyển đất hiếm qua Nhật cũng được phục hồi. Người ta đã tránh được một hậu quả tồi tệ hơn thế, nhưng cả hai bên đều rút ra được những bài học và đều sẵn sàng “mài kiếm” cho lần đụng độ tiếp theo. Khi tham gia vào một cuộc chiến tiền tệ, bạn phải luôn đối mặt với những hậu quả ngoài ý muốn. Giả sử rằng một đợt phá giá nội tệ, chẳng hạn xảy ra ở châu Âu, thành công với mục đích kỳ vọng và giúp hàng xuất khẩu từ châu Âu rẻ hơn, từ đó xuất khẩu trở thành một động lực của tăng trưởng. Điều này tốt cho châu Âu, song sau đó việc chế tạo hàng hóa ở những nước khác phải chịu thiệt hại do mất thị trường (vào tay các nhà xuất khẩu châu Âu – ND), từ đó dẫn tới việc đóng cửa các nhà máy, giãn thợ, phá sản và suy thoái v.v... Suy thoái mở rộng sẽ khiến doanh số bán hàng của châu Âu giảm theo, không phải do tỷ giá mà do người lao động ở những nước khác không đủ tiền để mua hàng xuất từ châu Âu ngay cả với những mức giá rẻ hơn trước. Ảnh hưởng suy thoái toàn cầu này của những cuộc chiến tiền tệ có thể phải mất nhiều thời gian hơn mới xuất hiện, nhưng có lẽ đó chính là ảnh hưởng tiêu cực nhất. Vì thế, phá giá tiền tệ để đẩy mạnh xuất khẩu không hề là một vấn đề đơn giản. Nó có thể dẫn đến chi phí đầu vào gia tăng, những đợt phá giá trả đũa, những hàng rào thuế quan và cấm vận, suy thoái toàn cầu v.v... xảy ra rất sớm sau đó. Với những hậu quả tiêu cực và những tác dụng ngoài ý muốn như thế, nhiều người có thể thắc mắc tại sao chiến tranh tiền tệ vẫn xảy ra. https://thuviensach.vn Chiến tranh tiền tệ có hại cho cả đôi bên khi kéo dài, và rốt cuộc thì không ai là người chiến thắng trong cuộc chơi này. Với bất kỳ chính sách kinh tế nào, những yếu tố lịch sử có thể có ích. Thế kỷ XX được đánh dấu bằng hai cuộc chiến tranh tiền tệ lớn. Chiến tranh tiền tệ lần thứ nhất diễn ra từ năm 1921 đến năm 1936, tức là gần như toàn bộ thời gian giữa hai cuộc Thế chiến, bao gồm cả cuộc Đại suy thoái, và người ta rất hay gắn cuộc chiến tranh tiền tệ này với Đại suy thoái. Chiến tranh tiền tệ lần thứ 2 diễn ra từ năm 1967 đến năm 1987, cuối cùng được kết thúc bằng hai thỏa thuận quốc tế là Hiệp ước Plaza năm 1985 và Hiệp ước Louvre năm 1987 mà không biến chuyển thành những cuộc xung đột quân sự. Chiến tranh tiền tệ giống đa số các cuộc chiến tranh khác ở chỗ nó không có những tiền đề hay nguyên nhân dễ thấy. Ba tiền đề quan trọng nhất của chiến tranh tiền tệ lần thứ nhất là chế độ Bản vị vàng từ 1870 đến 1914, việc hình thành Hệ thống Dự trữ Liên bang (Federal Reserve) vào 1907 đến 1913, Thế chiến thứ I và Hiệp ước Versailles năm 1914 – 1919. Tóm tắt ngắn gọn ba giai đoạn này sẽ giúp bạn đọc hiểu được những xung đột kinh tế xảy ra sau đó. • Bản vị vàng – từ 1870 đến 1914 Vàng đã là tiền tệ quốc tế ít ra là từ thế kỷ thứ VI trước Công nguyên dưới triều đại vua Croesus của Lydia, vùng đất ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Gần đây hơn, nước Anh từng thiết lập một loại tiền giấy đảm bảo bằng vàng theo một tỷ giá cố định vào năm 1717, hệ thống này kéo dài dưới nhiều hình thức khác nhau (trừ một số thời kỳ gián đoạn do chiến tranh) cho đến tận năm 1931. Những cơ chế tiền tệ tương tự đều có thể được gọi là “Bản vị vàng”, tuy khái niệm này không có một định nghĩa thống nhất. Hệ thống Bản vị vàng có thể bao gồm nhiều hình thức, từ việc sử dụng tiền xu bằng vàng thật cho đến tiền giấy đảm bảo bằng vàng với những số lượng khác nhau. Về mặt lịch sử mà nói, khối lượng vàng dùng để đảm bảo cho tiền giấy dao động từ 20% đến 100%, và trong một vài trường hợp hiếm hoi khi lượng vàng chính thức nhiều hơn số lượng tiền phát hành thì tỷ lệ này còn cao hơn 100%. https://thuviensach.vn Hệ thống Bản vị vàng cổ điển trong giai đoạn 1870-1914 có một vị trí duy nhất trong lịch sử của vàng đóng vai trò tiền tệ. Đây là giai đoạn hầu như không có lạm phát; hoặc chỉ có giảm phát tích cực ở các nước có nền kinh tế phát triển; kết quả của những cách tân về kỹ thuật làm gia tăng năng suất và mức sống mà không làm gia tăng thất nghiệp. Đây là giai đoạn đầu tiên của toàn cầu hóa, có nhiều nét tương đồng với giai đoạn toàn cầu hóa thứ nhì bắt đầu vào năm 1989 với sự kết thúc của Chiến tranh lạnh. Toàn cầu hóa giai đoạn 1 được nhớ tới bởi những tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực truyền thông và giao thông: những người làm ngân hàng ở New York có thể trao đổi công việc qua điện thoại với đối tác ở Lon don, thời gian di chuyển giữa hai trung tâm tài chính này cũng giảm xuống chỉ còn khoảng 7 ngày mà thôi. Những phát triển này lúc đó có thể chưa rộng khắp, song chúng đã tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và ngân hàng toàn cầu. Những trái phiếu phát hành ở Argentina, bảo lãnh ở London và mua bán ở New York tạo ra một mạng lưới dày đặc các tài sản và nợ gắn kết với nhau, theo một cách thức tương tự như ngày nay. Đứng đằng sau sự tăng trưởng và thương mại quốc tế đó chính là vàng. Hệ thống Bản vị vàng đầu tiên không được hình thành ở các hội nghị quốc tế như trong thế kỷ XX, cũng không được các tổ chức đa phương áp đặt từ trên xuống. Bản vị vàng ngày xưa có vẻ giống như một câu lạc bộ do các quốc gia tình nguyện tham gia. Một khi đã tham gia, các quốc gia thành viên hành xử theo những quy tắc chung được mọi người hiểu rõ, mặc dù không được văn bản hóa. Không phải tất cả, nhưng nhiều quốc gia tham gia hệ thống này, và họ đều tự do hóa tài khoản vốn, các lực lượng thị trường thắng thế, can thiệp của chính phủ là rất nhỏ, tỷ giá ổn định. Một số quốc gia đã áp dụng Bản vị vàng từ rất lâu trước năm 1870, như Anh Quốc từ năm 1717 và Hà Lan từ năm 1818, nhưng phải từ sau năm 1870 mới là giai đoạn nhiều nước cùng áp dụng hệ thống này, từ đó “câu lạc bộ Bản vị vàng” hình thành những đặc điểm riêng biệt. Các thành viên mới gồm có Đức và Nhật năm 1871, Pháp và Tây Ban Nha năm 1876, Áo năm 1879, Argentina năm 1881, Nga năm 1893 và Ấn Độ năm 1898. Về thực tế thì Hoa Kỳ cũng đã theo Bản vị vàng từ năm 1832, khi họ bắt đầu đúc https://thuviensach.vn những đồng tiền vàng 1 ounce với giá trị quy đổi bằng 20 đô-la vào thời đó; tuy nhiên Mỹ không chính thức áp dụng Bản vị vàng trong việc quy đổi từ tiền giấy ra vàng mãi cho đến khi Đạo luật Bản vị vàng ra đời vào năm 1900. Vì thế có thể xem Mỹ là nước lớn cuối cùng tham gia hệ thống Bản vị vàng cổ điển. Các nhà kinh tế khá nhất trí với nhau khi nói về những kết quả kinh tế thuận lợi của thời kỳ này. Giulio M. Gallarotti, sử gia kinh tế và lý thuyết gia hàng đầu của thời kỳ Bản vị vàng này đã tóm tắt ngắn gọn như sau trong tác phẩm The Anatomy of an International Monetary Regime (tạm dịch Mổ xẻ một cơ chế tiền tệ quốc tế): Trong phạm vi các quốc gia áp dụng Bản vị vàng trong giai đoạn ba thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX, hiếm khi xảy ra những luồng di chuyển vốn một cách bất thường, hiếm khi có những can thiệp về tỷ giá, thương mại quốc tế tăng trưởng kỷ lục, hầu như không có các vấn đề về cán cân thanh toán, vốn, tư liệu sản xuất và người lao động dịch chuyển dễ dàng, hầu như không có nước nào hủy bỏ khả năng chuyển đổi từ tiền giấy ra vàng (convertibility) và nếu có thì cũng sớm quay lại, tỷ giá luôn được giữ trong giới hạn tương ứng của vàng (tức là cực kỳ ổn định), có rất ít xung đột về chính sách giữa các nước, việc đầu cơ mang tính chất bình ổn (tức là hành vi đầu tư có xu hướng đem tỷ giá quay trở lại trạng thái cân bằng nếu như các đồng tiền bị định giá sai), các điều chỉnh rất nhanh gọn, thanh khoản dồi dào, lòng tin của cả khu vực công và khu vực tư vào hệ thống tiền tệ quốc tế là rất lớn, giá cả ổn định và có thể dự đoán trong dài hạn, lạm phát thấp, viễn cảnh dài hạn trong sản xuất công nghiệp và tăng trưởng thu nhập là khả quan, thất nghiệp giữ ở mức khá thấp. Nhận xét rất tích cực trên đây của Gallarotti được tán đồng bởi một nghiên cứu khác của Ngân hàng Dự trữ St. Louis, với kết luận “Thành tích kinh tế tại Hoa Kỳ và Anh trong giai đoạn Bản vị vàng là tốt hơn nhiều so với giai đoạn phát hành tiền theo luật định (từ bỏ Bản vị vàng – ND) sau đó”. Giai đoạn 1870-1914 là thời kỳ vàng son, xét theo khía cạnh tăng trưởng mà không có lạm phát, của cải và năng suất gia tăng tại các nước công nghiệp hóa và chế tạo hàng hóa. https://thuviensach.vn Một phần quan trọng giải thích cho tính hấp dẫn của Bản vị vàng là tính đơn giản của nó. Trong hệ thống này không nhất thiết phải có một ngân hàng trung ương (mặc dù ngân hàng trung ương có thể thực hiện một số chức năng nhất định), và thực tế thì ngay nước Mỹ cũng không có ngân hàng trung ương trong thời kỳ Bản vị vàng. Khi tham gia vào “câu lạc bộ Bản vị vàng”, một quốc gia chỉ đơn giản tuyên bố rằng đồng tiền giấy của họ có giá trị bằng một khối lượng vàng nhất định nào đó, và rằng họ sẵn sàng mua hay bán vàng với mức giá đó để đổi lấy tiền giấy đã phát hành, với bất kỳ số lượng nào từ các nước thành viên khác. Quá trình mua bán vàng ở mức giá gần với mức giá mục tiêu nhằm duy trì giá mục tiêu cũng tương tự như nghiệp vụ thị trường mở ngày nay: nó có thể được ngân hàng trung ương thực hiện, mà cũng có thể do chính phủ thực hiện trực tiếp hay gián tiếp thông qua các đại diện tài khóa như ngân hàng và nhà kinh doanh tiền tệ. Mỗi nhà kinh doanh tiền tệ được ủy quyền đều phải có quyền tiếp cận một lượng vàng nhất định, với sự hiểu biết rõ rằng khi thị trường hỗn loạn, sẽ cần nhiều vàng hơn để đổi cho người dân. Mặc dù chính phủ có can thiệp, song sự can thiệp này được thực hiện một cách minh bạch và mang tính bình ổn hơn là thao túng thị trường. Đối với tài chính quốc tế, lợi ích của hệ thống này nằm ở chỗ khi giá trị của hai đồng tiền được neo với một khối lượng vàng nhất định thì tỷ giá giữa hai đồng tiền đó cũng được “neo” lại với nhau. Quá trình ràng buộc lẫn nhau này không đòi hỏi sự có mặt của các thể chế như IMF hay G20 như hiện nay. Trong thời kỳ Bản vị vàng cổ điển, thế giới được hưởng lợi từ sự ổn định của các loại tiền tệ và giá cả, mà không cần có cơ chế giám sát lẫn nhau hay việc lập kế hoạch của các ngân hàng trung ương. Một lợi ích nữa của Bản vị vàng là bản chất tự quay về trạng thái cân bằng, không chỉ xét trên các nghiệp vụ thị trường mở hàng ngày, mà ngay cả khi xét tới những sự kiện lớn hơn như việc thay đổi sản lượng khai thác và sản xuất vàng. Nếu nguồn cung vàng tăng nhanh hơn so với năng suất của xã hội (điều đã từng xảy ra khi người ta khám phá được những mỏ vàng tại Nam Phi, Úc và khu vực Yukon trong giai đoạn 1886-1896), mức giá hàng hóa sẽ tạm thời tăng lên. Tuy nhiên, điều này sẽ dẫn tới việc gia tăng chi phí https://thuviensach.vn cho các nhà sản xuất vàng, từ đó làm giảm sản lượng vàng và sau cùng là tái thiết lập xu thế ổn định giá cả trong dài hạn. Ngược lại, nếu năng suất kinh tế tăng nhanh do công nghệ mới, giá cả hàng hóa sẽ giảm tạm thời, có nghĩa là sức mua của đồng tiền tăng lên. Điều này khiến những người giữ vàng bán vàng ra, các nhà sản xuất vàng nỗ lực khai thác hơn, sau cùng thì nguồn cung vàng gia tăng và quay trở lại tình trạng ổn định giá cả. Trong cả hai trường hợp, những cú sốc tạm thời về cung và cầu vàng dẫn tới những thay đổi trong hành vi của các thành viên thị trường, những thay đổi này sẽ tái lập tình trạng ổn định về giá cả trong dài hạn. Trong thương mại quốc tế, các yếu tố cung cầu cũng cân bằng theo cách thức tương tự. Một quốc gia có tình hình thương mại cải thiện, khi giá xuất khẩu vượt giá nhập khẩu, sẽ bắt đầu có thặng dư thương mại. Thặng dư của quốc gia này sẽ được phản ánh bằng thâm hụt của quốc gia khác, những nước có điều kiện thương mại kém thuận lợi hơn. Quốc gia thâm hụt sẽ thanh toán cho quốc gia thặng dư bằng vàng. Điều này dẫn tới việc cung tiền sẽ giảm ở quốc gia thâm hụt thương mại và tăng ở quốc gia thặng dư (do cung tiền bị ràng buộc bởi lượng vàng mà từng quốc gia nắm giữ – ND). Quốc gia thặng dư với cung tiền gia tăng sẽ bị lạm phát, ngược lại quốc gia thâm hụt bị giảm phát. Tình trạnh lạm phát và giảm phát (thiểu phát) tại các đối tác thương mại này sẽ mau chóng làm đảo ngược các điều kiện thương mại ban đầu. Cụ thể, hàng xuất đi từ quốc gia thặng dư ban đầu sẽ trở nên đắt đỏ hơn, trong khi hàng xuất đi từ quốc gia thâm hụt sẽ rẻ đi. Sau cùng thì quốc gia thặng dư sẽ bị thâm hụt thương mại còn quốc gia lúc đầu thâm hụt nay sẽ trở nên thặng dư. Lúc này vàng sẽ quay đầu trở lại quốc gia đã mất vàng lúc trước. Các nhà kinh tế gọi đây là cơ chế chảy vàng. Quá trình tự cân bằng này vận hành mà không cần có sự can thiệp của ngân hàng trung ương. Tạo điều kiện cho quá trình đó là những người kinh doanh chênh lệch giá, mua vàng “rẻ” ở nước này và bán vàng “đắt” ở nước khác (sau khi đã tính tới các yếu tố như tỷ giá, giá trị theo thời gian của tiền tệ, chi phí vận chuyển và chi phí tinh chế vàng). Việc kinh doanh này cũng theo đúng luật chơi, bao gồm những quy tắc và cách làm được các bên thấu https://thuviensach.vn hiểu, tất cả dựa trên lợi ích song phương, lý trí thông thường cũng như lợi nhuận từ quá trình kinh doanh chênh lệch giá. Không phải yêu cầu nào cũng được thanh toán ngay lập tức bằng vàng vật chất. Hầu hết giao dịch thương mại quốc tế được tài trợ bằng thương phiếu và tín dụng thư, những công cụ này sẽ tự thanh toán khi người mua nhận hàng hóa và bán hàng để lấy tiền mặt mà không cần bất kỳ sự chuyển vàng vật chất nào. Dự trữ vàng có tác dụng như một “mỏ neo” hay nền tảng cho toàn bộ hệ thống, hơn là một phương tiện trao đổi. Tuy nhiên đây chính là một mỏ neo rất hữu hiệu trong việc ngăn chặn hành vi đầu cơ tiền tệ, cũng như cung cấp cho các thành viên thị trường một mức độ chắc chắn nhiều hơn về giá trị sau cùng của các giao dịch của họ. Hệ thống Bản vị vàng cổ điển là hiện thân cho kỷ nguyên thịnh vượng trước Thế chiến thứ I (1914-1918). Hệ thống Bản vị hối đoái vàng sau đó vào những năm 1920, theo suy nghĩ của nhiều người, chỉ là nỗ lực nhằm quay lại thời tiền chiến vàng son mà thôi. Tuy nhiên, những nỗ lực sử dụng lại mức giá vàng trước chiến tranh đã bị phá hỏng bởi hàng núi nợ nần và những sai lầm về chính sách đã biến hệ thống Bản vị hối đoái vàng trong những năm 1920 trở thành cỗ máy giảm phát và suy thoái. Kể từ 1914, thế giới đã không còn thấy sự vận hành của Bản vị vàng thuần túy trong nền tài chính quốc tế nữa. • Sự hình thành Hệ thống Dự trữ Liên bang: 1907-1913 Tiền đề thứ hai của cuộc chiến tranh tiền tệ là việc hình thành Hệ thống Dự trữ Liên bang tại Hoa Kỳ vào năm 1913. Bản thân sự kiện này cũng có những tiền đề của nó, và chúng ta cần nhìn trở lại xa hơn, đến tận thời gian Cơn hoảng loạn năm 1907. Cơn hoảng loạn này bắt đầu trong bối cảnh một số ngân hàng tại New York (kể cả một trong những ngân hàng lớn nhất là Knickerbocker Trust) nỗ lực bất thành trong việc lũng đoạn thị trường đồng. Khi tin tức về việc Knickerbocker liên quan đến mưu đồ nói trên vỡ lở, một đợt đổ xô đến ngân hàng rút tiền đã xảy ra. Nếu vụ Knickerbocker xảy ra ở những thị trường bình tĩnh hơn thì có lẽ phản ứng thị trường đã không hỗn loạn như vậy, nhưng thị trường Mỹ lúc đó đã rất hoang mang và dao động https://thuviensach.vn sau những mất mát thua lỗ lớn do trận động đất San Francisco năm 1906 gây ra. Thất bại của Knickerbocker Trust chỉ là sự khởi đầu cho một vết dầu loang của sự mất lòng tin trên diện rộng, dẫn tới một vụ sụp đổ nữa của thị trường chứng khoán, nhiều cuộc đổ xô rút tiền tại các ngân hàng, và cuối cùng là khủng hoảng thanh khoản toàn diện, đe dọa tính ổn định của toàn bộ hệ thống tài chính. Nguy cơ này chỉ được ngăn chặn bằng một hành động tập thể của các đại gia ngành ngân hàng lúc bấy giờ, dưới hình thức một gói giải cứu tài chính tư nhân do J. P. Morgan tổ chức. Trong một diễn biến kịch tính nhất trong toàn bộ lịch sử tài chính Mỹ, ông trùm Morgan triệu tập các chủ ngân hàng lớn tới nhà riêng của ông ta tại khu Murray Hill gần Manhattan và tuyên bố... không cho ai ra về chừng nào mọi người chưa thống nhất xong một kế hoạch giải cứu bao gồm những cam kết tài chính cụ thể của từng ngân hàng, nhằm mục đích giành lại niềm tin của thị trường. Kế hoạch giải cứu này đã có hiệu quả, nhưng thị trường cũng phải gánh chịu những thua lỗ và xáo trộn vô cùng to lớn. Hậu quả của đợt hỗn loạn nổi tiếng năm 1907 là: các ngân hàng tư nhân tham gia vào cuộc giải cứu nói trên đều thống nhất rằng nước Mỹ khi đó cần có một ngân hàng trung ương do chính phủ thành lập, ngân hàng này có khả năng phát hành tiền hoặc các công cụ tài chính tương đương để giải cứu hệ thống ngân hàng tư nhân khi được yêu cầu. Các ngân hàng cần một thiết chế do chính phủ tài trợ, có khả năng cho họ vay một số lượng tiền mặt không giới hạn với nhiều loại tài sản thế chấp khác nhau. Họ cũng nhận ra rằng không phải lúc nào cũng sẵn có một ông trùm ngân hàng cỡ như ngài J. P. Morgan, hơn nữa những đợt khủng hoảng trong tương lai có thể cần những giải pháp vượt ra ngoài nguồn lực và tài năng của chính Morgan. Nước Mỹ cần có một ngân hàng trung ương với vai trò “người cho vay cuối cùng” với số lượng không hạn chế cho các ngân hàng tư nhân để có thể đối phó với những đợt khủng hoảng trong tương lai. Thực ra thì nước Mỹ vốn có “thiện cảm” với các ngân hàng trung ương từ rất lâu trước đó. Trước năm 1913 đã từng có hai nỗ lực xây dựng cái gọi là ngân hàng trung ương trong chiều dài lịch sử Hoa Kỳ. Lần đầu tiên là việc https://thuviensach.vn Ngân hàng Hoa Kỳ (Bank of the United States) được cấp phép bởi Quốc hội theo đề xuất của Alexander Hamilton[5] vào năm 1791, tuy nhiên giấy phép hoạt động này hết hạn năm 1811 dưới nhiệm kỳ Tổng thống James Mad ison, và dự luật tái cấp phép cho ngân hàng này bị bác bỏ với cách biệt vỏn vẹn một lá phiếu tại Quốc hội. Năm năm sau đó, chính Tổng thống Madison chủ trì việc cấp phép cho Đệ nhị Ngân hàng Hoa Kỳ (Second Bank of the United States) thông qua Quốc hội, tuy nhiên giấy phép lần thứ hai này cũng chỉ có giá trị trong vòng 20 năm và cần được gia hạn vào năm 1836. Khi đến thời gian gia hạn giấy phép của Đệ nhị Ngân hàng Hoa Kỳ, việc này bị phản đối không chỉ ở Quốc hội mà còn ngay ở Nhà Trắng. Một phần trong chiến dịch tranh cử năm 1832 của Tổng thống Andrew Jackson là dựa trên đề xuất hủy bỏ ngân hàng này. Sau một cuộc tranh luận gay gắt ở tầm quốc gia, bao gồm cả việc Tổng thống Jackson ra lệnh rút toàn bộ các khoản tiền gửi của Bộ Ngân khố Mỹ ra khỏi Đệ nhị Ngân hàng để đem gửi tại các ngân hàng do các tiểu bang cấp phép, Quốc hội thông qua việc tái cấp phép cho Đệ nhị Ngân hàng Hoa Kỳ. Jackson phủ quyết điều này, và thế là việc tái cấp phép bị hủy bỏ! Những phản đối về mặt chính trị đối với hai ngân hàng quốc gia nói trên đều do việc mất lòng tin vào quyền lực tài chính tập trung, cũng như niềm tin rằng việc phát hành tiền giấy sẽ tạo ra bong bóng tài sản, dẫn đến lạm phát do tín dụng ngân hàng trở nên dễ dàng. Từ 1836 đến 1913, gần 8 thập kỷ thịnh vượng chưa từng có trôi qua với những cách tân và tăng trưởng kinh tế, nước Mỹ hoàn toàn không có ngân hàng trung ương. Còn bây giờ, trong đống đổ nát thực tế của trận động đất năm 1906 tại San Francisco và đống đổ nát tài chính của cuộc hỗn loạn 1907, người ta lại nỗ lực xây dựng một ngân hàng trung ương. Hiểu rằng công chúng vẫn chưa tin tưởng vào thể chế này, những người ủng hộ ý tưởng này, dẫn đầu là J. P. Morgan, John D. Rockefeller, Jr., và Jacob H. Schiff (từ Kuhn, Loeb & Company) hiểu rằng cần tổ chức một chiến dịch vận động và giáo dục quần chúng để có được sự ủng hộ cần thiết. Bảo trợ về chính trị cho nhóm này là Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Nelson W. Aldrich đến từ Rhode Island, chủ tịch Ủy ban Tài chính Thượng viện, cũng là người ủng hộ dự luật năm 1908 https://thuviensach.vn thành lập Ủy ban Tiền tệ Quốc gia (National Monetary Com mission). Sau vài năm, ủy ban này là nơi tổ chức nhiều nghiên cứu, tài trợ cho các sự kiện, bài phát biểu, liên kết với các hiệp hội nghề nghiệp danh tiếng của các nhà kinh tế và khoa học chính trị, tất cả đều nhắm tới mục tiêu quảng bá cho ý tưởng thành lập một ngân hàng trung ương hùng mạnh. Tháng 9 năm 1909, Tổng thống William H. Taft công khai đề xuất việc xem xét hỗ trợ thành lập một ngân hàng trung ương. Cùng tháng này, tạp chí Phố Wall Journal tung ra một loạt bài xã luận nhan đề “A Central Bank of Issue”, ủng hộ việc thành lập ngân hàng trung ương. Đến mùa hè năm sau, những nền tảng cần thiết về chính trị cũng như công luận đã được hình thành, chuyển sang giai đoạn lập kế hoạch cụ thể cho một ngân hàng trung ương mới. Tuy nhiên, những gì xảy ra sau đó lại là một trong những chương kỳ lạ nhất trong lịch sử ngành tài chính. Thượng nghị sĩ Aldrich là nhà bảo trợ chính cho các dự thảo luật lập nên ngân hàng trung ương, song dự thảo đó phải làm sao để thỏa mãn giới ngân hàng New York, vốn vẫn còn chao đảo sau đợt hỗn loạn năm 1907 và luôn tìm kiếm một “người cho vay cuối cùng” để giải cứu họ trong trường hợp khủng hoảng nổ ra lần nữa. Cần có một ủy ban gồm các nhà ngân hàng để dự thảo kế hoạch thành lập cho ngân hàng trung ương. Đến tháng 11/1910, Aldrich chủ trì một cuộc họp với sự tham gia của một số đại diện các ngân hàng của phố Wall, và Abram Piatt Andrew, người vừa được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Ngân khố. Các nhà ngân hàng tham gia buổi họp này gồm có Paul Warburg từ Kuhn, Loeb; Frank A. Vanderlip từ National City Bank of New York (ngân hàng do Rockefeller kiểm soát); Charles D. Norton từ First National Bank of New York (ngân hàng do Morgan kiểm soát); và Henry P. Davison – thành viên cao cấp nhất, quyền lực nhất tại J. P. Morgan & Company, chỉ đứng sau chính Morgan mà thôi. Thứ trưởng Andrew là một nhà kinh tế học từ đại học Harvard, người sẽ đóng vai trò tư vấn kỹ thuật cho nhóm cân bằng lợi ích giữa hai đại gia Morgan và Rockefeller. Aldrich đề nghị các đại biểu hẹn gặp nhau vào lúc trời tối tại một khu vực khá tách biệt gần đường ray xe lửa ở Hoboken, New Jersey, nơi đó một https://thuviensach.vn chiếc xe riêng đang đợi họ. Mọi người được yêu cầu đến nơi hẹn một cách riêng rẽ và bằng mọi cách phải tránh sự chú ý của đám phóng viên (vì đây toàn là những người nổi tiếng trong giới tài chính ngân hàng nên khi họ có mặt cùng nhau tại một địa điểm sẽ dễ gây chú ý của báo chí săn tin – ND). Khi đã lên tàu, họ chỉ gọi nhau bằng tên riêng để những người khuân vác không nhận ra rồi đi “tám” với bạn bè hay cánh phóng viên; thậm chí một số vị còn sử dụng tên giả để tăng cường mức độ “phòng gian bảo mật”! Sau hai ngày trên xe lửa, họ tới Brunswick, Georgia, một địa điểm trên bờ Đại Tây Dương ở vào khoảng giữa Savannah và Jacksonville, Florida. Từ đây họ tiếp tục di chuyển tới đảo Jekyll và vào nghỉ tại câu lạc bộ đảo Jekyll, do chính J. P. Morgan sở hữu một phần. Nhóm người này làm việc suốt một tuần để thảo ra dự luật Aldrich, đó sẽ là phác thảo đầu tiên của Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve System). Phải mất thêm ba năm nữa để thông qua đạo luật Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Act), đây là cái tên chính thức của dự luật Aldrich nói trên, kết quả của kế hoạch đảo Jekyll. Đạo luật này được thông qua với đa số áp đảo tại Quốc hội vào ngày 23/12/1913, chính thức có hiệu lực từ tháng 11/1914. Đạo luật Dự trữ Liên bang năm 1913 bao hàm rất nhiều ý tưởng do Aldrich và Warburg khởi xướng để chống lại sự phản đối với mô hình ngân hàng trung ương tại Mỹ. Thể chế mới này sẽ không mang tên ngân hàng trung ương, mà được gọi là Hệ thống Dự trữ Liên bang. Đây cũng không phải là một thể chế riêng lẻ, mà là một tập hợp các ngân hàng dự trữ của từng khu vực, được điều hành bởi một Ban Thống đốc (Federal Reserve Board), các thành viên của ban/hội đồng này do Tổng thống đề cử và Quốc hội phê chuẩn, chứ không phải do các ngân hàng bầu lên. Tổng quan mà nói thì cơ chế này có vẻ tản quyền và chịu sự kiểm soát của các viên chức được bầu lên một cách dân chủ. Tuy nhiên bên trong kế hoạch này lại là một cơ chế khác, mà về mặt thực tế thì khá tương đồng với ý định ban đầu của nhóm Al drich trên đảo Jekyll. Chính sách tiền tệ (thực hiện thông qua nghiệp vụ thị trường mở) sẽ chịu sự tác động lớn nhất của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, bởi Fed chủ yếu giao dịch với các https://thuviensach.vn ngân hàng và định chế tài chính lớn tại New York. Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York được điều hành bởi một hội đồng quản trị và thống đốc do các cổ đông chứ không phải các chính trị gia bầu ra, mà những cổ đông này lại do các ngân hàng lớn ở New York kiểm soát. Kết quả là dường như có một “Fed bên trong Fed” do các ngân hàng ở New York khống chế và tuân theo các mục tiêu của họ, bao gồm cả việc cấp tín dụng dễ dàng cho các gói giải cứu khi cần thiết. Một số đặc tính nói trên được thay đổi trong những tu chỉnh luật vào thập niên 1930, tập trung quyền lực vào tay Ban Thống đốc của Hệ thống Dự trữ Liên bang tại thủ đô Washington, D.C. Trong những năm gần đây, thành phần của hội đồng này đa số không phải là những nhà ngân hàng, mà là các nhà kinh tế, luật sư; tuy nhiên điều khôi hài là bản thân họ còn thiên về chính sách giải cứu và nới lỏng tín dụng hơn chính những nhà ngân hàng trước kia! Tuy nhiên, ít ra thì trong những năm 1920, Hệ thống Dự trữ Liên bang chịu ảnh hưởng lớn của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York với bàn tay sắt của Benjamin Strong, người giữ vị trí chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York từ năm 1914 đến khi ông ta qua đời năm 1928. Strong là “truyền nhân” của Henry Davison cũng như của chính J. P. Morgan, do đó ảnh hưởng của Morgan lên ngân hàng trung ương non trẻ của nước Mỹ là rất to lớn. Lịch sử thường lặp lại. Nhiều thập kỷ sau cuộc họp trên đảo Jekyll, National City Bank của Frank Vanderlip và First National Bank của Charles Norton sáp nhập trở thành First National City Bank of New York, ngân hàng này sau đó tiếp tục rút ngắn tên gọi trở thành Citibank. Năm 2008, Citibank nhận được khoản tiền giải cứu lớn nhất mà Fed từng dành cho một ngân hàng trong lịch sử. Như vậy, những nền tảng mà Vanderlip, Norton và những cộng sự của họ đã dựng lên trên đảo Jekyll từ năm 1910 đã tỏ ra đủ bền vững để giải cứu chính ngân hàng của họ gần một thế kỷ sau đó, đúng như dự liệu. • Thế chiến thứ I và Hiệp ước Versailles – từ 1914 đến 1919 Tiền đề cuối cùng của Chiến tranh Tiền tệ lần thứ nhất là sự nối tiếp của thế chiến thứ I, hội nghị hòa bình Paris và hiệp ước Versailles. https://thuviensach.vn Thế chiến thứ I kết thúc không phải với một sự đầu hàng của bên nào, mà kết thúc với một sự đình chiến, hay thỏa thuận ngừng bắn. Khi đình chiến, người ta kỳ vọng các bên có thể tạm dừng thù địch và ngồi vào bàn thương lượng hòa bình, nhưng trong một số trường hợp thì hòa hội vẫn thất bại và tiếng súng lại tiếp tục trở lại. Thương lượng về một nền hòa bình lâu dài chính là mục tiêu của Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919. Anh và Pháp hiểu rõ rằng đã đến lúc tính toán phí tổn cho cuộc chiến, và họ xem hòa hội Paris chính là cơ hội tốt để áp những khoản chiến phí đó lên các nước bại trận như Đức và Áo. Tuy nhiên, thành công của thương lượng tại Paris không hề là một việc đương nhiên xảy ra. Tuy bộ binh và hải quân Đức bị đánh bại nặng nề vào tháng 11/1918, tới mùa xuân năm 1919 vẫn chưa có hiệp ước hòa bình nào được ký kết, đồng thời càng lúc càng ít thấy khả năng phe Đồng minh muốn hay có thể tiếp tục cuộc chiến. Do đó các cuộc thương lượng về bồi thường chiến phí vẫn dậm chân tại chỗ. Khả năng của phe Đồng minh trong việc áp đặt các điều khoản của hiệp ước đã suy giảm dần trong thời gian từ tháng 11/1918 đến tháng 3/1919. Bây giờ, để buộc nước Đức chấp nhận các điều khoản hòa bình do phe Đồng minh đưa ra, có lẽ quân Đồng minh cần phải tràn ngập lãnh thổ Đức. Quy mô và nội dung của các khoản bồi thường chiến phí mà nước Đức phải gánh chịu là một trong những vấn đề đau đầu nhất tại Hội nghị Hòa bình Paris năm đó. Đầu tiên, Đức buộc phải nhường một số vùng lãnh thổ và tiềm năng công nghiệp của họ. Mặt khác, nếu như phần nhượng bộ nói trên càng nhiều thì nước Đức càng ít có khả năng thanh toán các khoản bồi thường chiến phí về tài chính mà họ cũng bị buộc phải trả. Pháp dòm ngó kho vàng của người Đức, vốn đã lên tới 876 tấn vào thời điểm 1915, trữ lượng này đứng hàng thứ tư thế giới sau Mỹ, Nga và Pháp. Tuy người ta chỉ đơn thuần quan tâm tới việc người Đức có khả năng trả được bao nhiêu bồi thường chiến phí cho Đồng minh, thực tế thì bức tranh toàn cảnh phức tạp hơn rất nhiều, khi mà cả các nước thắng cuộc và thua cuộc trong thế chiến thứ I đều đang lâm vào nợ nần. Như tác giả Margaret MacMillan đã viết trong tác phẩm Paris 1919 , cả Anh và Pháp đều cho Nga https://thuviensach.vn vay một số tiền lớn, số tiền này Nga đã không trả được sau khi Cách mạng Tháng Mười nổ ra. Những con nợ khác như Ý cũng mất khả năng trả nợ. Nhưng chính nước Anh cũng nợ Hoa Kỳ 4,7 tỷ đô-la, Pháp thì nợ Mỹ 4 tỷ đô-la và nợ Anh 3 tỷ đô-la. Nói chung thì chẳng có con nợ nào có khả năng trả nợ, toàn bộ hệ thống tín dụng và thuơng mại bị đóng băng. Như vậy, vấn đề không chỉ là việc Đức bồi hoàn chiến phí cho phe Đồng minh mà còn là một mạng lưới hỗn độn các khoản vay nợ lẫn nhau chính trong phe Đồng minh. Việc cần làm lúc này là làm sao cho dòng tín dụng và thương mại chảy trở lại. Giải pháp tối ưu là đề nghị nước có tiềm lực tài chính mạnh nhất – nước Mỹ – khởi động quy trình với các khoản cho vay và bảo lãnh mới, bên ngoài các khoản cho vay trước đây. Dòng thanh khoản mới này, cùng với những khu vực tự do thương mại, sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng cần thiết để chống lại gánh nặng nợ nần. Một phương pháp khác cũng được nhiều bên đề xuất là xóa toàn bộ các khoản nợ để “làm lại từ đầu”. Pháp có thể thấy khó xóa nợ cho Đức nhưng nếu chính Pháp được Mỹ xóa nợ thì lại quá tốt bởi vì tính đi tính lại thì nếu cả hai điều trên cùng xảy ra, Pháp sẽ có lợi: Mỹ là chủ nợ đòi ráo riết hơn, trong khi khả năng thu nợ từ Đức là không cao. Tuy nhiên, thực tế thì không có giải pháp nào vừa nêu xảy ra. Các nước mạnh, dẫn đầu là Anh và Pháp, đòi hỏi các nước yếu (chủ yếu là Đức) phải trả các khoản chiến phí bằng cả tiền mặt, vàng và hiện vật. Tính toán các khoản bồi thường cũng như cơ chế thanh toán các khoản đó hầu như là nhiệm vụ bất khả thi. Pháp, Bỉ và Anh muốn tính toán dựa trên những thiệt hại chiến tranh thực tế, nhưng Mỹ lại thiên về cách tính dựa trên khả năng chi trả của kẻ bại trận - nước Đức. Tuy nhiên các số liệu thống kê về kinh tế Đức là rất tồi tệ, mù mờ, do đó rất khó có được những tính toán đáng tin cậy về khả năng trả nợ của họ. Ngược lại, việc đánh giá các khoản thiệt hại (như Pháp, Bỉ và Anh đề nghị - ND) cũng khó hoàn thành trong ngắn hạn. Rất nhiều khu vực địa lý lúc này hoàn toàn không thể tiếp cận được, chứ chưa nói tới việc xác định chi phí của quá trình tái thiết. Ngay nội bộ phe Đồng minh cũng có những tranh luận gay gắt, không kém những tranh luận với nước Đức, về việc khoản bồi thường chiến phí được giới hạn ở những thiệt hại thực tế (điều này được Pháp và Bỉ ủng hộ) https://thuviensach.vn hay bao gồm cả những chi phí tài chính như lương hưu và lương lính (nước Anh ủng hộ phương án này). Cuối cùng, Hiệp ước Versailles chẳng nêu ra được con số chính xác nào về khoản bồi thường chiến phí cả. Đây là kết quả của việc không thể tính toán ra một con số (yếu tố kỹ thuật) cũng như không thể thống nhất về con số đó (yếu tố chính trị). Bất kỳ con số nào đủ cao để Pháp và Anh vừa lòng thì lại quá cao với người Đức và ngược lại. Những đề nghị của người Mỹ về việc các bên cần giữ thái độ vừa phải và thực tế hầu như không được ai đếm xỉa đến. Chính trị cục bộ thắng thế so với những nhu cầu kinh tế quốc tế. Thay vì thống nhất một con số bồi thường chiến phí cụ thể, người ta lập ra các ban chuyên gia để tiếp tục nghiên cứu vấn đề này và công bố kết luận trong những năm tiếp theo để làm cơ sơ cho số tiền bồi thường thực sự. Cách làm này kéo dài được thời gian, nhưng vấn đề rắc rối nói trên thực chất chỉ được trì hoãn, rồi lại tiếp tục rối tung lên trong những năm 1920 với hệ thống Bản vị vàng và những nỗ lực tái khởi động hệ thống tiền tệ quốc tế. Vấn đề bồi thường chiến phí đã trở thành cái thòng lọng bao quanh cổ hệ thống tài chính quốc tế trong suốt mười lăm năm sau đó. • Kết luận Đến năm 1921, mọi điều kiện đã sẵn sàng cho cuộc chiến tiền tệ hiện đại đầu tiên. Hệ thống Bản vị vàng cổ điển giống như một thanh nam châm hay ngôi sao Bắc cực soi đường cho cuộc tranh luận về việc cần có một hệ thống như thế nào trong thập niên 1920 để tái khởi động dòng chảy vốn và thương mại quốc tế. Thế chiến thứ I và Hiệp ước Versailles đặt ra một yếu tố mới chưa từng là vấn đề quan trọng trong hệ thống Bản vị vàng, đó là các món nợ quốc gia khổng lồ, chồng chéo lẫn nhau và không có khả năng thanh toán, gây ra những trở ngại to lớn cho việc bình thường hóa dòng chảy của vốn. Sự hình thành Hệ thống Dự trữ Liên bang và vai trò của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York báo hiệu sự xuất hiện của Hoa Kỳ trên vũ đài tiền tệ quốc tế như là một đối tác hùng mạnh, chứ không chỉ góp mặt cho có mà thôi. Tiềm năng mà Fed có thể tái tạo thanh khoản cho toàn hệ thống bằng việc in thêm đồng nội tệ (đô-la Mỹ) đã bắt đầu ló dạng. Đầu thập niên 1920, những hoài vọng về Bản vị vàng, sự căng thẳng với những khoản bồi thường chiến phí không trả được, cùng những lo ngại về khả năng của Fed đã dẫn https://thuviensach.vn đến việc hình thành một hệ thống tiền tệ quốc tế mới và diễn tiến của Chiến tranh tiền tệ lần thứ nhất. https://thuviensach.vn 4 CHIẾN TRANH TIỀN TỆ LẦN THỨ NHẤT (1921-1936) “Chẳng có nơi nào trên đất Mỹ mà ở đó người ta không nhận ra rằng những mục tiêu và lợi ích riêng tư bí mật đang điều hành toàn bộ chính phủ.” — Tổng thống Woodrow Wilson Chiến tranh tiền tệ lần thứ nhất nổ ra một cách rất đặc biệt vào năm 1921 ngay sau tiếng súng của Thế chiến thứ I, và kéo dài mà không có kết thúc trọn vẹn cho đến tận năm 1936. Cuộc chiến này được chia thành nhiều giai đoạn, trải dài suốt cả 5 châu lục và thậm chí còn gây ảnh hưởng lớn đến thế kỷ XXI ngày nay. Nước Đức hành động đầu tiên năm 1921 với một đợt siêu lạm phát lúc đầu nhằm làm tăng năng lực cạnh tranh, sau đó kéo dài và phá hủy hoàn toàn một nền kinh tế bị các khoản bồi thường chiến phí đè nặng. Năm 1925, Pháp tiếp tục với việc phá giá đồng Franc trước khi quay lại với chế độ Bản vị vàng, theo đó giành được lợi thế trong xuất khẩu so với những nước như Anh và Mỹ, vốn quay lại Bản vị vàng với tỷ giá như trước chiến tranh. Anh từ bỏ Bản vị vàng năm 1931, giành lại những lợi thế mất về tay Pháp năm 1925. Nước Đức được đẩy mạnh vào năm 1931 khi Tổng thống Mỹ Herbert Hoover tuyên bố hoãn trả nợ bồi thường chiến phí cho họ. Lệnh hoãn trả nợ này sau đó trở thành việc xóa nợ theo kết quả của Hội nghị Lausanne năm 1932. Từ năm 1933 và với sự lên ngôi của Hitler, nước Đức càng ngày càng đi theo con đường riêng của mình, rút ra khỏi hệ thống https://thuviensach.vn thương mại thế giới và trở thành một nền kinh tế độc lập, tuy vẫn còn một vài liên hệ với Áo và Đông Âu. Sau đó là động thái phá giá tiền tệ so với vàng của Mỹ vào năm 1933, giành lại phần nào lợi thế cạnh tranh về chi phí xuất khẩu đã mất vào tay Anh hồi năm 1931. Cuối cùng đến lượt Pháp và Anh phá giá một lần nữa. Năm 1936, Pháp từ bỏ Bản vị vàng và trở thành nước lớn cuối cùng thoát khỏi những ảnh hưởng nặng nề của Đại suy thoái, trong khi Anh phá giá nội tệ một lần nữa để giành lại phần nào lợi thế đã mất về tay Mỹ sau tuyên bố phá giá đô-la của Tổng thống F.D. Roosevelt năm 1933. Với những vòng xoáy phá giá tiền tệ và mất khả năng trả nợ nối tiếp nhau, các nền kinh tế thế giới như lao vào một cuộc đua tới đáy vực, trên đường đua đó thương mại bị đình trệ, sự thịnh vượng bị tàn phá. Tính chất bất ổn và tự hủy hoại của hệ thống tiền tệ quốc tế trong thời kỳ này khiến Chiến tranh tiền tệ lần thứ nhất trở thành lời cảnh báo nghiêm khắc với thế giới ngày nay, khi chúng ta cũng đang phải đương đầu với hàng núi nợ mất khả năng thanh toán. Chiến tranh tiền tệ bắt đầu năm 1921 khi Ngân hàng trung ương Đức (Reichsbank) bắt đầu hủy hoại giá trị đồng Mark Đức bằng việc ồ ạt in tiền, dẫn đến lạm phát phi mã. Quá trình này được dẫn dắt bởi người đứng đầu Reichsbank khi đó là Tiến sĩ Rudolf von Haven stein (người nguyên là một luật sư chuyển qua làm ngân hàng), và lạm phát xảy ra chủ yếu khi Reichsbank mua trái phiếu chính phủ Đức để cung cấp tiền cho chính phủ bù đắp thâm hụt ngân sách và tiếp tục chi tiêu. Đây là đợt phá giá tiền tệ với quy mô lớn nhất và ảnh hưởng nặng nề nhất ở một nền kinh tế phát triển. Người ta vẫn đồn đoán rằng nước Đức chủ tâm phá giá đồng tiền của họ để thoát khỏi gánh nặng chiến phí phải trả cho Anh và Pháp theo Hiệp ước Ver sailles. Thực sự thì khoản bồi thường chiến phí được tính theo “Mark vàng”, tức là bằng một lượng vàng hay một lượng ngoại tệ tương đương cố định, đồng thời các nghị định thư sau hiệp ước nói trên cũng quy định dựa trên một tỷ lệ phần trăm xuất khẩu của Đức, bất kể giá trị của đồng Mark Đức là bao nhiêu đi nữa. Những điều khoản thanh toán gắn với vàng và giá trị xuất khẩu này thực ra không thể bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Tuy nhiên, ngân https://thuviensach.vn hàng trung ương Đức (Reichsbank) nhận ra cơ hội gia tăng xuất khẩu bằng việc phá giá nội tệ để vừa khiến cho giá hàng xuất từ Đức rẻ hơn ở nước ngoài (lý do chính) vừa khuyến khích được du lịch và đầu tư vào Đức. Theo đó, Đức có thể thu được ngoại tệ cần thiết để trả các khoản bồi thường chiến phí mà không cần phải giảm trực tiếp những khoản bồi thường này. Khi lạm phát bắt đầu tăng vào cuối năm 1921, điều này không bị xem là một nguy cơ nào cả. Dân Đức hiểu rằng giá cả đang tăng lên, nhưng không ngay lập tức suy đoán được rằng đồng tiền của họ đang sụp đổ. Các ngân hàng Đức có những khoản nợ nhiều gần bằng tài sản của họ, do đó hầu như đã được “bảo hiểm”. Nhiều doanh nghiệp sở hữu những tài sản với tính thanh khoản kém như đất đai, nhà máy, thiết bị và hàng tồn kho, với giá trị danh nghĩa gia tăng khi đồng tiền mất giá, do đó họ cũng được bảo vệ. Một số công ty nói trên có những khoản nợ đang “bốc hơi” do số tiền nợ giờ đây chẳng còn giá trị gì, từ đó họ dường như được xóa nợ và giàu lên. Rất nhiều tập đoàn lớn của Đức (tiền thân của những tập đoàn toàn cầu hiện nay) có những tác nghiệp ngoài nước Đức, những hoạt động này giúp họ kiếm được ngoại tệ và “che mắt” công ty mẹ khỏi những tác động tồi tệ của việc đồng Mark sụp đổ. Khi đồng nội tệ mất giá, phản ứng thông thường của thị trường là dòng vốn tháo chạy. Những ai có thể chuyển tiền Mark Đức ra Franc Thụy Sĩ, vàng hay loại hình cất giữ giá trị nào khác đều vội vã làm như vậy và chuyển các khoản tiết kiệm ra nước ngoài. Ngay cả giới tư sản Đức cũng không nhận ra ngay sự tồi tệ của tình hình, vì thiệt hại do đồng tiền mất giá được bù lại bằng những khoản lời trên thị trường chứng khoán. Không nhiều người nhận ra rằng những khoản lời đó được định giá bằng Mark, một đồng tiền sẽ trở thành vô giá trị không lâu sau đó. Sau chót, những công chức nhà nước hay công đoàn lúc đầu cũng được bảo vệ vì chính phủ tăng lương cho họ tương ứng với mức lạm phát. Tất nhiên không phải ai cũng làm việc trong khu vực công, có chứng khoán, tài sản hay hoạt động kinh doanh ở nước ngoài để miễn nhiễm với lạm phát. Những người chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là những người lĩnh lương hưu thuộc tầng lớp trung lưu không đủ điều kiện được tăng lương, và https://thuviensach.vn những người dân gửi tiết kiệm tại ngân hàng thay vì đầu tư vào chứng khoán. Những người này hoàn toàn bị đánh gục về mặt tài chính, nhiều người phải bán đồ đạc trong nhà để có tiền mua thức ăn mà sống. Những chiếc đàn dương cầm lúc đó được nhiều người tìm mua, và chúng đã trở thành một dạng tiền tệ của những người khó khăn này. Một số cặp vợ chồng già, tuyệt vọng vì số tiền tiết kiệm đã tiêu ma, tìm đến cái chết qua việc tự tử bằng gas trong nhà bếp. Tội phạm liên quan tới tài sản gia tăng, sau đó thì những vụ nổi loạn và cướp phá xảy ra thường xuyên. Năm 1922, lạm phát trở thành siêu lạm phát khi Ngân hàng trung ương Đức đầu hàng tình thế và điên cuồng in thêm tiền để đáp ứng nhu cầu trả lương cho công chức và những người lao động thuộc công đoàn. Một đô-la Mỹ trở nên đắt giá đến mức du khách Mỹ... không thể tiêu xài nó vì người bán hàng tại Đức không sao thu xếp đủ hàng triệu Mark Đức để thối tiền cho khách! Khách ăn tối tại quán ăn đòi được trả tiền trước khi ăn, vì ngay sau khi họ dùng bữa xong, giá cả có thể đã tăng lên rất nhiều rồi. Nhu cầu về tiền giấy lớn đến mức ngân hàng trung ương phải thuê thật nhiều nhà in tư nhân và sử dụng nhiều đơn vị hậu cần đặc biệt để tìm đủ giấy và mực cho việc in tiền liên tục. Đến năm 1923, tiền giấy Đức chỉ được in trên một mặt giấy để... tiết kiệm mực in. Khi tình hình hỗn loạn về kinh tế lên đến đỉnh điểm, Pháp và Bỉ kéo quân tràn vào khu vực công nghiệp tại vùng thung lũng Ruhr năm 1923 để đảm bảo duy trì những lợi ích trong các khoản đòi bồi thường chiến phí của họ. Cuộc xâm lăng này tạo điều kiện cho hai quốc gia nói trên thu được một khoản chiến phí bằng hiện vật, cụ thể là than đá và các hàng hóa chế tạo của Đức. Công nhân Đức ở khu vực này phản ứng bằng cách lãn công, đình công, phá hoại sản xuất. Ngân hàng trung ương Đức nhất trí với cách này và khuyến khích sự phản ứng nói trên bằng việc in thêm nhiều tiền hơn để tăng lương và phụ cấp thất nghiệp. Nước Đức cuối cùng cũng phải nỗ lực chống lại nạn lạm phát phi mã vào tháng 11/1923 bằng việc ban hành một đồng tiền mới mang tên Rentenmark, lúc đầu đồng tiền này được lưu hành song song với đồng Mark cũ. Đồng Rentenmark được bảo đảm bằng các khoản thế chấp bất động sản cũng như https://thuviensach.vn khả năng thu thuế trên các bất động sản đó. Việc phát hành và lưu hành đồng tiền mới này được giám sát chặt chẽ bởi một quan chức vừa được bổ nhiệm là Hjalmar Schacht, một chuyên gia kỳ cựu trong lĩnh vực ngân hàng tư nhân, người không lâu sau đó sẽ thay thế Rudolf von Havenstein trong cương vị Thống đốc Ngân hàng trung ương Đức. Rất nhanh sau khi đồng Rentenmark được tung ra, đồng Mark cũ hoàn toàn sụp đổ, khi đó 1 Rentenmark đổi được 1 ngàn tỷ Mark. Bản thân đồng Rentenmark cũng chỉ là một giải pháp tạm thời, sau đó cũng được thay thế bằng đồng Mark Đức mới, được đảm bảo trực tiếp bằng vàng. Đến năm 1924, đồng Mark cũ từng bị siêu lạm phát đã được quét sạch theo đúng nghĩa đen của từ này, vào các thùng rác, ống cống, rãnh thoát nước... Các sử gia kinh tế thường tách rời đợt siêu lạm phát nói trên của nền cộng hòa Weimar (giai đọạn 1921-1924) với toàn bộ những đợt phá giá tiền tệ theo kiểu làm nghèo nhà hàng xóm thời kỳ 1931–1936, tuy nhiên như vậy tức là đã bỏ qua tính liên tục của các đợt phá giá trả đũa lẫn nhau trong thời gian giữa hai cuộc thế chiến. Thực ra thì đợt siêu lạm phát tại Đức cũng đạt được một loạt mục tiêu chính trị quan trọng, điều này gây ra những ảnh hưởng cho các thập niên 1920 và 1930 sau đó. Siêu lạm phát đoàn kết người dân Đức trong việc chống lại những “kẻ đầu cơ ngoại quốc”, đồng thời buộc người Pháp phải đưa quân vào vùng thung lũng Ruhr, tạo ra cái cớ cho việc tái vũ trang của người Đức. Siêu lạm phát cũng khiến hai nước Anh và Mỹ thông cảm hơn với Đức trong việc giảm bớt phần nào những đòi hỏi khắt khe nhất liên quan tới việc bồi thường chiến phí theo Hiệp ước Versailles. Tuy việc sụp đổ của đồng Mark không có mối liên hệ trực tiếp tới giá trị của các khoản bồi thường, Đức cũng có cơ hội giải thích rằng nền kinh tế của họ đang bị tàn phá nặng nề, từ đó có được đôi chút giảm trừ trong việc bồi thường. Việc đồng tiền bị phá giá cũng củng cố sức mạnh của giới công nghiệp Đức, những người nắm trong tay các tài sản thực tế thay vì các tài sản tài chính. Những nhà công nghiệp này cất cánh từ đợt lạm phát vì họ có thể thu thập các ngoại tệ mạnh từ nước ngoài và mua rẻ các công ty trong nước đang thất bại. https://thuviensach.vn Sau chót, siêu lạm phát cho thấy một quốc gia hoàn toàn có khả năng đùa với lửa khi chấp nhận phá giá tiền giấy, rồi sau đó tìm đến giải pháp cuối cùng là Bản vị vàng hay các tài sản hữu hình khác (đất đai chẳng hạn) để vãn hồi trật tự khi có cơ hội – đây chính là những gì mà người Đức đã làm! Chúng tôi không có ý nói rằng đợt siêu lạm phát năm 1922 ở Đức là kết quả của một kế hoạch được trù tính cẩn thận, mà chỉ muốn nói là siêu lạm phát hoàn toàn có thể được sử dụng như một đòn bẩy chính sách. Với siêu lạm phát, người ta có thể dự đoán được những nhóm người thua cuộc và những nhóm người thắng cuộc từ nó, cũng như hình dung được một số hành vi phản ứng nhất định, từ đó nó có thể được sử dụng về mặt chính trị để dàn xếp các quan hệ kinh tế/xã hội giữa quốc gia đi vay và quốc gia cho vay, giữa lao động và tư bản; trong khi vàng luôn được giữ như một quân bài dự trữ để khi cần thì đem ra dùng nhằm dọn dẹp đống đổ nát do lạm phát gây ra. Tất nhiên, chi phí của lạm phát là không nhỏ. Lòng tin vào các thể chế chính phủ tại Đức đã hoàn toàn tiêu tan, cuộc sống bị thiệt hại nặng nề. Tuy nhiên, những gì đã diễn ra ở đây cho thấy một nước lớn với tài nguyên thiên nhiên, lao động, tài sản và vàng sẵn có để bảo đảm sự thịnh vượng hoàn toàn có thể trỗi dậy hầu như nguyên vẹn từ đống tro tàn của siêu lạm phát. Giai đoạn ngay sau cuộc lạm phát, từ 1924 đến 1929, sản xuất công nghiệp Đức tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ nền kinh tế lớn nào, kể cả Hoa Kỳ. Trước kia, các quốc gia thường chỉ từ bỏ Bản vị vàng trong thời chiến, một ví dụ điển hình là trường hợp của nước Anh tạm dừng việc đổi tiền giấy ra vàng trong và ngay sau cuộc chiến tranh với Napoleon (thời gian 1803-1815). Còn giờ đây, nước Đức đã xóa bỏ Bản vị vàng ngay trong thời bình, mặc dù đây chỉ là một giai đoạn hòa bình khó khăn sau Hiệp ước Versailles. Ngân hàng trung ương Đức đã chứng minh được rằng trong một nền kinh tế hiện đại, đồng tiền không gắn với vàng có thể bị phá giá vì những mục tiêu thuần túy chính trị, và những mục tiêu đó có thể đạt được với hành động phá giá nói trên. Bài học này hẳn đã được nhiều quốc gia công nghiệp lớn ghi nhớ. Cùng thời gian lạm phát ở Đức đang leo thang ngoài tầm kiểm soát, đại diện của các quốc gia công nghiệp lớn gặp nhau tại Hội nghị Genoa (Ý) mùa https://thuviensach.vn xuân năm 1922 để xem xét khả năng quay lại chế độ Bản vị vàng lần đầu tiên kể từ trước Thế chiến thứ I. Trước năm 1914, hầu hết các nền kinh tế lớn đều áp dụng chế độ Bản vị vàng thực sự, với tiền giấy được lưu hành trong mối liên hệ chặt chẽ với vàng, do đó cả tiền giấy và tiền vàng (tiền xu) đều cùng lưu hành và tự do chuyển đổi qua lại. Tuy nhiên, chế độ Bản vị vàng đó đã bị lãng quên khi thế chiến bùng nổ, cùng với nhu cầu in tiền để tài trợ cho các chi phí chiến tranh ngày một tăng cao. Giờ đây vào năm 1922, với Hiệp ước Versailles và những khoản bồi thường chiến phí được xác định (dù chưa rõ ràng), thế giới lại quay lại tìm kiếm một mỏ neo của Bản vị vàng. Tuy nhiên, so với những ngày hoàng kim của Bản vị vàng trước đây thì hiện tại đã có quá nhiều thay đổi quan trọng. Hoa Kỳ đã lập một ngân hàng trung ương mới (Fed) vào năm 1913, tổ chức này có quyền lực vô song trong việc điều tiết lãi suất và mức cung tiền. Tương quan giữa dự trữ vàng và tiền giấy do Fed phát hành vẫn còn là đề tài thử nghiệm trong những năm 1920. Các quốc gia cũng đã quen với sự tiện lợi của việc phát hành tiền giấy khi cần thiết trong thời kỳ thế chiến 1914–1918, còn người dân thì quen với việc sử dụng tiền giấy sau khi tiền vàng bị rút khỏi lưu thông. Các đại diện của các cường quốc đến hội nghị Genoa với mục tiêu giới thiệu lại Bản vị vàng trên cơ sở linh hoạt hơn, được kiểm soát chặt chẽ hơn bởi chính các ngân hàng trung ương. Chính từ Hội nghị Genoa mà người ta hình thành một tiêu chuẩn Bản vị vàng mới (Bản vị hối đoái vàng – gold exchange standard), với những khác biệt quan trọng so với Bản vị vàng cổ điển. Các nước tham gia hệ thống này thỏa thuận rằng dự trữ của các ngân hàng trung ương có thể bằng ngoại tệ chứ không chỉ bằng vàng, chữ “hối đoái” ở đây đơn giản nghĩa là một số lượng ngoại tệ nhất định có thể được xem như vàng, xét về mục tiêu dự trữ. Phương pháp này cho phép việc chuyển một phần gánh nặng về Bản vị vàng sang những nước có dự trữ vàng lớn như Hoa Kỳ. Nước Mỹ có trách nhiệm duy trì giá trị theo vàng của đồng đô-la ở mức 20,67USD/ounce, trong khi các nước khác có thể dự trữ đô-la Mỹ thay cho vàng. Theo hệ thống tiêu chuẩn mới này, các tài khoản quốc tế vẫn được thanh toán bằng vàng, nhưng https://thuviensach.vn một quốc gia phải tích lũy đủ một lượng ngoại tệ tương đối lớn trước khi đem đổi ra vàng thỏi. Thêm nữa, tiền vàng và vàng thỏi sẽ không còn được lưu hành rộng rãi như trước khi thế chiến nổ ra. Các quốc gia vẫn chấp nhận đổi tiền giấy ra vàng, nhưng chỉ với một số lượng tối thiểu quy định, chẳng hạn như một thỏi vàng 400 ounce, với trị giá thời đó tương đương 8.268USD, hoặc 110.000USD nếu theo giá hiện nay. Điều này có nghĩa chỉ các ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại và những người cực kỳ giàu có mới sử dụng vàng thỏi, còn những người khác sẽ sử dụng tiền giấy được đảm bảo bằng cam kết của chính phủ về việc duy trì giá trị tương đương theo vàng của tiền giấy đó. Tiền giấy như vậy vẫn “tốt như vàng”, nhưng vàng thật sẽ chỉ còn nằm trong kho của ngân hàng trung ương mà thôi. Nước Anh đã luật hóa những thỏa thuận này vào bộ luật Bản vị Vàng năm 1925, một bộ luật nhắm tới việc phục vụ hệ thống Bản vị hối đoái vàng mới. Bất chấp việc quay về với chế độ Bản vị vàng có điều chỉnh, các cuộc chiến tiền tệ tiếp diễn và càng lúc càng có hướng tăng lên. Năm 1923, đồng Franc Pháp sụp đổ, tuy không nặng nề như đồng Mark Đức mấy năm trước đó. Sự sụp đổ này tạo điều kiện cho những ngày vàng son của kiều dân Mỹ tại Paris trong giai đoạn giữa thập niên 1920, trong đó có Scott và Zelda Fitzgerald, hay Ernest Hemingway, những người viết báo hàng ngày miêu tả những tác động của đồng Franc trượt giá cho tờ báo Toronto Star. Người Mỹ có thể sống hết sức thoải mái tại Paris khi đó bằng việc đem đô-la Mỹ đổi lấy đồng Franc đang mất giá hàng ngày. Những khiếm khuyết nghiêm trọng trong hệ thống Bản vị hối đoái vàng bắt đầu xuất hiện ngay từ khi hệ thống này được áp dụng. Rõ ràng nhất là sự bất ổn do việc các nước thặng dư dự trữ quá nhiều ngoại tệ, tiếp theo là những nhu cầu về vàng không được dự đoán trước từ những nước thâm hụt. Ngoài ra, nước Đức – có tiềm năng là nền kinh tế lớn nhất châu Âu – thiếu vàng để hỗ trợ việc cung tiền đủ cho hoạt động thương mại quốc tế mà nước này cần cho quá trình tái tăng trưởng kinh tế. Người ta đã nỗ lực sửa chữa khuyết điểm này vào năm 1924 với Kế hoạch Dawes, đặt theo tên của kiến trúc sư trưởng của kế hoạch này – Charles Dawes, chuyên gia ngân hàng https://thuviensach.vn Mỹ, sau này trở thành Phó Tổng thống Mỹ. Kế hoạch Dawes được đưa ra bởi một ủy ban tiền tệ quốc tế có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề tồn đọng liên quan tới các khoản bồi thường chiến phí theo Hiệp ước Versailles. Theo kế hoạch này, các khoản bồi thường của Đức được giảm một phần, đồng thời nước này cũng được nhận một số khoản vay mới để họ có thể có được lượng dự trữ vàng và ngoại tệ mạnh cần thiết cho việc hỗ trợ nền kinh tế Đức. Sự kết hợp của Hội nghị Genoa 1922, đồng tiền mới và ổn định (đồng Rentenmark năm 1923) và Kế hoạch Dawes năm 1924 cuối cùng đã làm ổn định nền tài chính Đức, tạo điều kiện cho quốc gia này phát triển cả về công nghiệp và nông nghiệp mà không phải chịu lạm phát. Hệ thống tỷ giá cố định trong giai đoạn 1925-1931 hàm ý rằng vào thời kỳ đó các cuộc chiến tiền tệ sẽ sử dụng những vũ khí như tài khoản vàng hay lãi suất, thay vì tỷ giá. Việc vận hành trơn tru hệ thống Bản vị hối đoái vàng trong giai đoạn này phụ thuộc vào cái gọi là “luật chơi”. Theo đó, những quốc gia có dòng vàng đi vào (gold inflows) sẽ nới lỏng tiền tệ một phần bằng việc hạ lãi suất để cho phép nền kinh tế tăng trưởng; trong khi những quốc gia có dòng vàng đi ra (gold outflows) sẽ phải thắt chặt tiền tệ và nâng lãi suất, dẫn đến việc thu hẹp kinh tế. Cuối cùng, những nền kinh tế thu hẹp sẽ có được mức giá cả và lương bổng đủ thấp để khiến hàng hóa của họ rẻ hơn, cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế, còn những nền kinh tế đang tăng trưởng sẽ trải qua những điều ngược lại. Tại thời điểm này dòng di chuyển của vàng sẽ đảo chiều: quốc gia có dòng vàng từng đi ra trước kia nay sẽ có dòng vàng đi vào do quốc gia này có thặng dư thương mại từ việc hàng hóa của họ rẻ đi, trong khi quốc gia tăng trưởng trước kia nay sẽ bắt đầu thâm hụt thương mại và dòng vàng sẽ chảy ra từ nước họ. Hệ thống Bản vị hối đoái vàng mang tính chất tự cân bằng, với một điểm yếu chết người. Trong hệ thống Bản vị vàng thuần túy, nguồn cung vàng là cơ sở cho việc phát hành tiền, thực hiện công việc tăng trưởng hay thu hẹp kinh tế, còn trong hệ thống Bản vị hối đoái vàng, dự trữ ngoại tệ cũng có vai trò tương tự. Điều này nghĩa là các ngân hàng trung ương có thể ra các quyết định về lãi suất và chính sách tiền tệ liên quan tới dự trữ ngoại tệ như là một phần của quá trình điều chỉnh. Chính ở trong những điều chỉnh do chính https://thuviensach.vn sách này, chứ không phải do vận hành của vàng, mà hệ thống này cuối cùng đã sụp đổ. Một đặc điểm của tiền giấy là việc nó đồng thời vừa là tài sản của bên nắm giữ, vừa là một nghĩa vụ nợ của ngân hàng phát hành. Trong khi đó vàng nói chung chỉ là một loại tài sản, trừ những trường hợp vàng được các ngân hàng dùng để cho vay lẫn nhau (điều này chưa phổ biến trong những năm 1920). Các giao dịch điều chỉnh bằng vàng do đó thường mang tính chất bù trừ: nếu vàng di chuyển từ Anh qua Pháp, cung tiền ở Anh giảm và cung tiền ở Pháp tăng tương ứng với số vàng đó. Hệ thống sẽ vận hành tốt đến chừng nào mà Pháp còn chấp nhận Bảng Anh khi buôn bán và tái ký gửi Bảng Anh vào các ngân hàng Anh để có thể duy trì lượng cung đồng Bảng Anh. Tuy nhiên nếu ngân hàng trung ương Pháp bất thần rút các khoản ký gửi này và đòi ngân hàng trung ương Anh chi trả bằng vàng thật, thì cung tiền của Anh sẽ bị co lại đáng kể. Thay vì những đợt điều chỉnh nhẹ nhàng và từ tốn như thường xảy ra trong hệ thống Bản vị vàng cổ điển, hệ thống Bản vị hối đoái vàng dường như dễ phải chịu đựng những đợt thay đổi mau chóng và bất ổn, dễ làm nảy sinh hỗn loạn. Một quốc gia thâm hụt dưới hệ thống Bản vị hối đoái vàng sẽ có cảm giác giống như một tá điền mà địa chủ không thu tiền thuê đất suốt cả một năm, sau đó bất thình lình đòi toàn bộ số tiền này ngay lập tức! Một số tá điền trước đó có thể đã dành dụm, nhưng đa phần họ không cưỡng lại được sự cám dỗ của việc được thiếu nợ một cách dễ dàng, và do đó lúc này không thể có tiền trả địa chủ, phải đối diện với nguy cơ bị đuổi đi. Một cách tương tự, các quốc gia sẽ rất lúng túng khi thiếu vàng và bị một quốc gia khác đến đòi quy đổi lượng ngoại tệ ra vàng. Hệ thống Bản vị hối đoái vàng dự định kết hợp những cái tốt đẹp nhất của hệ thống tiền giấy và hệ thống Bản vị vàng, nhưng thực tế đây lại là sự kết hợp của những điểm yếu, nhất là khả năng bất ổn nội tại gây ra do những nhu cầu đòi chuyển đổi ra vàng một cách bất ngờ. Đến năm 1927, khi Pháp dần dần gia tăng khối lượng dự trữ vàng và ngoại tệ, còn Anh bị “chảy máu” vàng nghiêm trọng, theo đúng luật chơi thì nước Anh phải tăng lãi suất và thu hẹp kinh tế, với mục đích nâng cao tính https://thuviensach.vn cạnh tranh của nền kinh tế theo thời gian. Nhưng Thống đốc Ngân hàng trung ương Anh lúc đó, Montagu Norman, không chịu tăng lãi suất, một phần vì ông ta lo ngại những phản đối về mặt chính trị, một phần nữa cũng vì ông ta cho rằng luồng vàng chảy vào Pháp là do đồng Franc bị phá giá. Về phần mình, người Pháp cũng từ chối việc định giá lại đồng Franc, chỉ đề xuất rằng họ sẽ làm điều đó trong tương lai, tất cả những điều này làm gia tăng bất ổn và khuyến khích sự đầu cơ vào cả đồng Bảng Anh và đồng Franc Pháp. Trong một diễn biến khác, nước Mỹ sau lần cắt giảm lãi suất năm 1927 lại bắt đầu một loạt đợt gia tăng lãi suất vào năm 1928, đều có tác dụng thu hẹp kinh tế. Những đợt gia tăng lãi suất này đi ngược với những gì Hoa Kỳ cần làm theo luật chơi của hệ thống Bản vị hối đoái vàng, nếu xét tới vị thế cường quốc của họ cũng như việc vàng vẫn liên tục chảy vào nước Mỹ. Nhưng cũng tương tự như những quan ngại mang tính chính trị dẫn tới việc Anh không tăng lãi suất vào năm 1927, quyết định của Fed tăng lãi suất trong năm tiếp theo (thay vì giảm) cũng bắt nguồn từ những tính toán nội bộ, nhất là nỗi lo sợ bong bóng tài sản trong giá chứng khoán tại Mỹ. Nói ngắn gọn, các thành viên trong cơ chế Bản vị hối đoái vàng luôn đặt lợi ích và những quan tâm của từng nước lên trên luật chơi chung, do đó mau chóng phá hỏng sự vận hành trơn tru của hệ thống này. Ngoài ra, còn có một khiếm khuyết nữa của hệ thống Bản vị hối đoái vàng, sâu sắc hơn so với sự thiếu phối hợp chung giữa các ngân hàng trung ương của Anh, Mỹ, Pháp hay Đức, đó chính là giá vàng tính theo đô-la nhằm mục đích “neo chặt” tiêu chuẩn mới này. Trong thời gian Thế chiến thứ I, các nước đều phát hành những lượng tiền giấy khổng lồ để tài trợ cho các khoản nợ chiến tranh, trong khi lượng cung vàng tăng không đáng kể. Hơn nữa, lượng vàng này cũng không nằm yên mà càng ngày càng chảy sang Mỹ, trong khi châu Âu chỉ còn dự trữ vàng rất ít. Giờ đây, việc xử lý tỷ lệ tiền giấy/vàng thời hậu chiến với mức giá vàng như trước chiến tranh đặt ra những tình huống tiến thoái lưỡng nan sau năm 1919. Giải pháp đầu tiên là thu hẹp cung tiền giấy để đạt được mức giá vàng thấp như trước chiến tranh. Phương án này nặng tính giảm phát, và cần có một sự giảm giá mạnh https://thuviensach.vn nói chung để trở lại với giá vàng hồi trước chiến tranh. Lựa chọn khác là định giá lại với vàng theo hướng đi lên để phù hợp với mức giá mới, tương ứng với cung tiền đã tăng trước đó. Tăng giá vàng đồng nghĩa với việc phá giá tiền tệ liên tục. Như vậy, sự lựa chọn ở đây là giữa giảm phát và phá giá tiền tệ. Giá cả có thể đi xuống theo thời gian khi có những phát minh, cách tân, tăng hiệu quả sản xuất hay có những lợi thế do quy mô. Đây là trường hợp giảm phát “có lợi” mà bất kỳ người tiêu dùng hiện đại nào cũng quen thuộc khi thấy giá các mặt hàng như máy tính hay TV màn hình phẳng giảm đi sau mỗi năm. Tuy nhiên, khi giá bị ép xuống do giảm cung tiền không cần thiết, giảm tín dụng, giảm đòn bẩy tài chính, những đổ vỡ trong kinh doanh, phá sản và thất nghiệp, thì vấn đề lại hoàn toàn khác: đây có thể xem là giảm phát “có hại”. Chính loại giảm phát có hại này là cái giá phải trả để duy trì giá vàng so với các đồng tiền quan trọng trở lại mức như trước khi chiến tranh xảy ra. Lựa chọn này không quá nghiêm trọng với Mỹ, vì mặc dù Mỹ cũng gia tăng cung tiền trong Thế chiến thứ I, họ cũng đồng thời có thặng dư thương mại và do đó tăng dự trữ vàng. Tỷ lệ giữa tiền giấy và vàng tại đây không bị lệch quá nhiều so với thời kỳ trước chiến tranh như trường hợp của Anh và Pháp. Đến năm 1923, cả Pháp và Đức đều đã đối mặt với vấn đề lạm phát thời kỳ chiến tranh và phá giá đồng tiền của họ. Trong ba cường quốc châu Âu, chỉ có nước Anh thực hiện các bước cần thiết để thu hẹp cung tiền nhằm khôi phục lại Bản vị vàng ở mức trước chiến tranh. Điều này đã được thực hiện do sự kiên quyết của Winston Churchill, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính. Churchill coi việc quay lại với mức giá vàng trước chiến tranh là một vấn đề danh dự và cũng là cách để kiểm tra sức khỏe nền tài chính Anh. Tuy nhiên, ảnh hưởng của điều này lên nền kinh tế Anh là cực kỳ tàn khốc: mức giá cả chung giảm khoảng 50%, tỷ lệ thất bại kinh doanh rất cao, hàng triệu người thất nghiệp. Churchill sau đó đã viết rằng chính sách quay trở lại với Bản vị vàng trước chiến tranh là một trong những sai lầm lớn nhất của cuộc đời https://thuviensach.vn