🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bút Ký Người Đi Săn Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn BÚT KÝ NGƯỜI ĐI SĂN I.X TURGHENIEV Người dịch Phạm Mạnh Hùng Làm Ebook Quantam NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC HÀ NỘI 2001 https://thuviensach.vn MỤC LỤC KHÔR VÀ KALINƯTS ERMÔLAI VÀ VỢ NGƯỜI CHỦ CỐI XAY MẠCH NƯỚC DŨM HƯƠNG NGƯỜI THẦY THUỐC Ở HUYỆN ÔNG BẠN LÁNG GIỀNG RAĐILÔP CỦA TÔI ÔTNÔĐVORETS () ÔPXIANIKÔP LIGÔP ĐỒNG CỎ NGỰA ĐUA KAXIAN Ở KRAXIVAIA METS BURMIXTR() PHÒNG QUẢN LÝ BIRIUC HAI ĐỊA CHỦ LÊBÊĐIAN TACHYANA BÔRIXÔPNA CÁI CHẾT NHỮNG NGƯỜI HÁT HAY PIÔTR PÊTƠRÔVITS KARATAEP CUỘC HẸN HÒ HĂMLET HUYỆN SIGRÔPXKI TSERTÔPKHANÔP VÀ NÊĐÔPIUXKIN BƯỚC MẠT VẬN CỦA TSERTÔPKHANÔP BÓ THÁNH CỐT SỐNG LỌC CỌC! LỌC CỌC! RỪNG VÀ THẢO NGUYÊN https://thuviensach.vn KHÔR VÀ KALINƯTS Ai đã có dịp qua hạt Bônkhôpxki và hạt Jiđrinxki thì hẳn là phải ngạc nhiên về sự khác nhau quá rõ rệt giữa người tỉnh Orion và người tỉnh Kaluga. Người nông dân Orion tầm vóc vừa phải, hơi gù, cau có, mắt nhìn gườm gườm, ở những căn nhà tồi tàn bằng gỗ hoàn diệp liễu, phải làm lao dịch ([1]), không buôn bán, ăn kém, đi giày bện bằng vỏ cây. Người nông dân Kaluga ở nhà gỗ thông rộng thênh thang, tầm vóc cao lớn, mắt nhìn bạo dạn và vui vẻ, mặt sạch sẽ và trắng trẻo, thường buôn bơ và nhựa cây, vào những ngày hội hè thì diện ủng. Làng quê Orion (chúng tôi nói về phần phía đông tỉnh Orion) thường nằm lọt giữa những cánh đồng đã cày gần một cái khe đã biến thành ao chuôm bẩn thỉu. Ngoài mấy cây thùy liễu có thể bị đốn bất cứ lúc nào và hai ba cây phong khẳng khiu thì khắp xung quanh, suốt trong tầm mắt, không thấy một bóng cây nhỏ bé nào cả. Nhà thì cái nọ dồn sát vào cái kia, mái lợp rạ mục... Làng Kaluga thì trái hẳn lại, xung quanh phần lớn là rừng. Nhà cách nhau thưa hơn và thẳng hàng hơn, mái lợp ván, cổng đóng chặt, hàng rào ở sân sau không đổ nát xiêu vẹo mở lối cho bất cứ chú lợn nào đi qua cũng có thể xộc vào thăm nhà... Và đối với người đi săn thì tỉnh Kaluga cũng là nơi tốt hơn. Ở tỉnh Orion, trăm năm nữa sẽ không còn một khoảnh rừng hay một vùng cây rậm rạp nào nữa, còn đầm lầy thì hiện giờ chẳng ai còn nhắc nhở đến. Ở Kaluga thì trái lại, rừng chạy dài hàng trăm dặm([2]), đầm lầy trải dài hàng chục dặm, loại gà rừng cao quý vẫn chưa tuyệt diệt, vẫn còn loại dẽ gà phúc hậu và chim đa đa vẫn làm cho người đi săn và chó vừa vui vừa hoảng hốt vì cái lối bay vù lên một cách đột ngột của nó. Vì hay đến săn ở hạt Jiđrinxki, tôi đã gặp một tiểu địa chủ người Kaluga ở ngoài cánh đồng và làm quen được với ông ta. Đấy là Pôlutưkin, một người mê săn bắn, vì vậy là một người tuyệt diệu. https://thuviensach.vn Thực ra ông ta có một nhược điểm: chẳng hạn, ông ta dạm hỏi tất cả những cô gái giàu có đến tuổi cập kê trong tỉnh, và khi bị cự tuyệt và bị cấm lui tới, ông ta phiền muộn thổ lộ nỗi đau xót với tất cả bạn bè và người thân, nhưng vẫn tiếp tục gửi quà biếu cha mẹ các cô gái mà ông đã dạm hỏi: quà đây chỉ là đào chua và tất cả những sản vật còn xanh trong vườn nhà ông ta. Ông ta thích kể đi kể lại vẫn một chuyện tiếu lâm mà chưa bao giờ làm cho ai phải buồn cười, mặc dù người ta tôn trọng phẩm giá của ông Pôlutưkin. Ông ta ca tụng các tác phẩm của Akin Nakhimốp([3]) và truyện Pinna([4]), ông có tật nói lắp và gọi con chó của mình là Axtơrônôm ([5]), đáng lẽ nói "nhưng" thì ông ta nói "cư mà"; ở nhà, ông ta tổ chức nấu ăn theo kiểu Pháp mà bí quyết của nó, theo cách hiểu của người đầu bếp của ông, là ở chỗ biến đổi hoàn toàn mùi vị tự nhiên của mỗi món ăn: thịt do nhà nghệ sĩ tài tình ấy chế biến đâm ra có mùi cá, cá có vị nấm, mì sợi có mùi thuốc súng, và không một miếng cà rốt nào lọt được vào món súp mà không có dạng hình thoi hay hình thang. Nhưng, trừ mấy thiếu sót vặt vãnh ấy, thì như tôi đã nói, ông Pôlutưkin là một người đặc sắc. Ngay trong ngày đầu tiên mới quen biết, ông Pôlutưkin đã mời tôi về nghỉ đêm ở nhà ông. - Nhà tôi cách đây những năm dặm - ông nói thêm - đi bộ thì xa; ta hãy đến nhà Khôr đã. (Bạn đọc cho phép tôi không phải diễn tả lối nói lắp của ông ta). - Khôr là ai kia? - Một gã mujich của tôi... Y ở cách đây không xa. Chúng tôi đến nhà Khôr. Khu nhà của người nông dân này nằm trơ trọi giữa rừng, trên một bãi đất bằng phẳng, đã dọn quang và có trồng trọt hẳn hoi. Mấy gian nhà bằng gỗ thông nối liền với nhau bằng những dãy rào. Trước căn nhà chính, một mái hiên chạy dài, tựa trên những cột đỡ mảnh. Chúng tôi vào. Một gã trai tuổi trạc đôi mươi, cao, đẹp ra đón chúng tôi. https://thuviensach.vn - À, Fêđya! Khôr có nhà không? - Pôlutưkin hỏi. - Thưa không ạ. Khôr ra thành phố. - Gã trai đáp và mỉm cười, phô ra hàng răng trắng như tuyết - ông cho lệnh thắng xe chứ ạ? - Ừ, thắng xe. Nhưng mang nước kvax cho chúng ta đã. Chúng tôi vào nhà. Tường nhà bằng gỗ súc sạch tinh, không dán một bức tranh Xuzđan ([6]) nào. Trong góc thờ, một cây đèn leo lét trước bức tượng thánh nặng nề mạ bạc. Chiếc bàn bằng gỗ bồ đề mới được cạo rửa cách đây không lâu. Giữa các súc gỗ và trên các khung cửa sổ, không có những chú gián hung tinh nghịch bò lung tung, không có những con gián đen tư lự ẩn náu. Gã trai trở lại ngay, mang theo cái cốc lớn màu trắng, đựng đầy nước kvax thơm ngon, với một khoanh bánh mì rất to làm bằng lúa mạch và một tá dưa chuột muối đặt trong cái đĩa gỗ. Gã đặt tất cả những món ấy lên bàn, đứng tựa lưng vào cửa và bắt đầu mỉm cười nhìn chúng tôi. Chúng tôi chưa kịp ăn hết những món ăn nguội thì xe ngựa đã lăn bánh lộc cộc trước thềm. Chúng tôi ra. Một thằng bé trạc mười lăm tuổi, tóc xoăn và má đỏ hồng ngồi điều khiển xe và phải khó khăn lắm mới kìm nổi con ngựa đực đốm trắng béo tốt. Xung quanh có sáu gã trai lực lưỡng phi thường, rất giống nhau và giống Fêđya. "Con của Khôr cả đấy!" - Pôlutưkin nói. "Vâng, các Khôr con cả đấy - Fêđya đỡ lời, anh ta đã theo chúng tôi ra thềm - và cũng chưa đủ mặt đâu: Pôtap vào rừng, Xiđor theo ông già Khôr ra thành phố... Cẩn thận đấy nhé, Vaxya - anh ta nói tiếp với chú bé đánh xe - phóng thật nhanh vào - em đánh xe hầu ông chủ đấy. Nhưng qua những chỗ xóc nhiều thì chú ý một chút, kìm bớt ngựa lại: không thì vừa phá hỏng xe vừa khuấy động ruột gan ông chủ đấy nhé!". Các Khôr con khác đều mỉm cười vì câu đùa châm chọc của Fêđya. "Cho Axtơrônôm lên!" - ông Pôlutưkin thốt lên một cách trịnh trọng. Fêđya có vẻ thích thú, bế bổng con chó đang nhe răng cười một cách gượng gạo lên và đặt nó vào xe. Vaxya giật dây cương. Chúng tôi đi. "Kia là phòng giấy của tôi - ông Pôlutưkin bỗng nói với tôi và chỉ ngôi nhà gỗ nhỏ thấp lè tè - ông muốn tạt vào xem chút không?" - https://thuviensach.vn "Rất hân hạnh" - "Bây giờ chỗ này bỏ không dùng nữa rồi - ông ta vừa nói vừa xuống xe - Nhưng dù sao vẫn nên xem". Văn phòng gồm hai căn phòng bỏ không. Người giữ nhà, một ông lão chột, từ sau nhà chạy tới. "Chào lão Miniaits - Pôlutưkin nói - nước đâu?" Ông già chột biến mất và lát sau trở lại mang theo chai nước và hai cái cốc. "Ông nếm thử đi - Pôlutưkin bảo tôi - nước này của tôi là nước nguồn, tốt lắm". Chúng tôi uống mỗi người một cốc, còn ông già rạp mình chào chúng tôi. "Thôi, bây giờ ta có thể đi được rồi đấy - Người bạn mới của tôi nói - Trong phòng giấy này, tôi đã bán cho thương gia Anliuep bốn đêxiatin ([7]) rừng, và bán rất được giá. Chúng tôi lên xe, nửa giờ sau, xe đã vào sân nhà ông chủ. Trong bữa ăn tối, tôi hỏi Pôlutưkin: - Ông cho biết tại sao Khôr lại sống tách biệt với những nông dân khác của ông? - Là vì thế này nhé: lão là tay mujich khôn ngoan. Hai mươi năm trước, nhà lão bị cháy. Hồi ấy ông cụ thân sinh ra tôi vẫn còn, thế là lão tới gặp ông cụ và nói: "Thưa ông Nhikôlai Kuzmits, xin ông cho con ra ở khu rừng cạnh đầm lầy của ông Con sẽ xin nộp tô thật cao. - "Nhưng tại sao anh lại ra ở bên đầm lầy?" - "Dạ, chẳng có gì lạ đâu ạ; nhưng xin ông đừng bắt con đi làm bất cứ việc gì, còn tô thì ông định cho bao nhiêu con cũng xin vâng". - "Năm chục rúp một năm?" - "Xin vâng" - "Mà không được khất lại đồng nào đâu, nhớ đấy" - "Nhất định là con không dám lần chần...". Thế rồi y dọn ra ở đầm lầy. Từ đó, người ta đặt cho y cái biệt hiệu là Khôr ([8]). - Lão làm ăn phất lắm phải không. - Phất lắm. Bây giờ lão nộp tô cho tôi một trăm rúp mỗi năm, và có lẽ tôi còn tăng thêm nữa. Tôi đã nhiều lần bảo lão: này, Khôr, hãy chuộc mình ra đi, hãy chuộc mình đi?... Thế mà đồ quỷ, lão thề sống thề chết với tôi rằng lão không biết lấy gì để tự chuộc mình: lão bảo lão không có xu nào cả...Nhưng đời nào có chuyện ấy. https://thuviensach.vn Hôm sau, uống chè xong, chúng tôi lập tức đi săn. Khi xe qua làng, ông Pôlutưkin bảo người đánh xe dừng lại bên túp nhà thấp và cất tiếng sang sảng gọi: "Kalinưts!" - "Dạ, thưa ông con ra ngay đấy ạ. - Tiếng nói từ trong sân đưa ra - Con đang bện lại chiếc giày". Chúng tôi cho ngựa đi bước một. Ra đến ngoài làng thì một người đàn ông trạc bốn chục tuổi đuổi kịp chúng tôi; ông ta cao, gầy đầu nhỏ, ngật ra phía sau. Đấy là Kalinưts. Thoạt nhìn tôi đã ưa ngay khuôn mặt ngăm đen, phúc hậu, đôi chỗ điểm những nết rỗ hoa của ông ta. Sau này tôi được biết rằng Kalinưts ngày nào cũng đi săn với ông chủ, mang túi và có khi cả súng cho chủ, tìm ra chỗ chim thường đến đậu, đi kiếm nước, hái dâu rừng, dựng lán, chạy đi gọi xe ngựa. Không có Kalinưts thì Pôlutưkin không thể đi đâu lấy một bước. Kahnưts tính tình rất mực vui vẻ, hiền lành, luôn miệng hát lẩm nhẩm và đưa cặp mắt vô tư lự nhìn khắp xung quanh, nói giọng mũi hơi khàn, vừa mỉm cười vừa nheo cặp mắt xanh nhạt và thường đưa tay nắm lấy chòm râu nhọn lưa thưa của mình. ông ta đi thong thả, nhưng bước dài, tì nhẹ vào chiếc gậy dài và mảnh. Ngày hôm ấy, ông ta đã nhiều lần nói chuyện với tôi, giúp tôi nhiều việc mà không hề có vẻ quỵ luỵ. Nhưng đối với chủ thì ông ta chăm sóc như chăm một đứa trẻ. Khi cái nóng buổi trưa không thể chịu đựng nổi buộc chúng tôi phải tìm chỗ trú thì ông ta dẫn chúng tôi vào chỗ nuôi ong của ông ta ở sâu trong rừng. Kalinưts mở của một căn nhà nhỏ có treo những chùm cỏ khô thơm thơm, đưa chúng tôi vào và trải cỏ còn tươi cho chúng tôi nằm, còn ông ta thì đội lên đầu một cái túi lưới, lấy con dao, một cái bình và một thanh củi cháy dở rồi đi cắt tầng ong cho chúng tôi. Chúng tôi uống mật ong trong suốt âm ấm như uống nước suối và ngủ thiếp đi giữa tiếng ong vo ve đều đều và tiếng lá rì rào không ngớt. Một luồng gió nhẹ lùa qua làm tôi bừng tỉnh giấc... Tôi mở mắt và nhìn thấy Kalinưts: cửa mở hé, ông ta ngồi ở ngưỡng cửa và đang gọt cái thìa. Tôi ngắm nghía hồi lâu khuôn mặt hiền lành và sáng sủa như bầu trời chiều của Kalinưts. Ông Pôlutưkin cũng đã thức giấc. Chúng tôi không nhổm dậy ngay. Sau chuyến đi bộ lâu, lại được ngủ một giấc say sưa, https://thuviensach.vn được nằm ườn ra trên cỏ khô thì thật là thích thú: cơ thể cảm thấy khoan khoái và moi mỏi, mặt hơi nóng lên, mắt ríu lại vì một cảm giác lười nhác êm dịu. Cuối cùng, chúng tôi cũng dậy và lại đi lang thang đến tận tối. Trong bữa ăn tối, tôi lại nói về Khôr và Kalinưts. "Kalinưts là một nông dân hiền lành, cần mẫn, tận tuỵ. Cư mà y không thể thu xếp được việc nhà cho tươm tất: tôi cứ lôi y đi luôn ấy mà. Ngày nào y cũng đi săn với tôi . . . Thế thì còn thu vén việc nhà vào lúc nào nữa, phải không ông?" Tôi đồng ý với ông ta, và chúng tôi đi ngủ. Hôm sau, Pôlutưkin phải ra thành phố về một việc tranh chấp với Pitsukôp là người có ruộng ở cạnh ruộng của ông ta. Pitsukôp cày lấn sang đất của Pôlutưkin và lại còn dùng roi đánh một người đàn bà nông dân của Pôlutưkin ngay trên mảnh đất đã cày đó. Tôi đi săn một mình và trước khi trời tối tôi rẽ vào nhà Khôr. Ở ngưỡng cửa, tôi gặp một ông già hói, người thấp, vai rộng và chắc nịch: đấy chính là Khôr. Mặt ông ta hao hao giống Xôcrat: trán cũng cao và gồ lên như thế, mắt cũng nhỏ như thế, mũi cũng hếch lên. Chúng tôi cùng vào nhà. Fêđya mang sữa và bánh mì đen đến cho tôi. Khôr ngồi xuống chiếc ghế dài và ung dung vuốt bộ lau loăn xoăn của mình, nói chuyện với tôi. Tôi cảm thấy ông ta có ý thức về phẩm giá của mình, ông ta nói năng và cử động khoan thai, thỉnh thoảng lại mỉm cười dưới bộ ria mép gài. Tôi nói chuyện với ông ta về việc gieo hạt, về mùa màng, về đời sống nông dân. . . ông ta dường như đồng ý với tôi về tất cả mọi điều. Nhưng rồi tôi thấy xấu hổ, vì tôi cảm thấy tôi nói không ra đâu vào đâu kể cũng hơi kỳ lạ. Khôr đôi khi nói quanh co rắc rối, hẳn là vì thận trọng... Đây là một kiểu mẫu nhỏ về cuộc trò chuyện của chúng tôi: - Này, ông Khôr - Tôi bảo ông ta - Tại sao ông không nói với ông chủ xin chuộc mình ra? - Nhưng tôi chuộc mình ra để làm gì kia chứ? Bây giờ tôi biết ông chủ của tôi và biết số tô tôi phải nộp... ông chủ của chúng tôi tử tế lắm. - Nhưng sống tự do vẫn hơn chứ. https://thuviensach.vn Khôr liếc ngang nhìn tôi. - Thì đã hẳn - ông ta thốt lên. - Ờ, thế thì tại sao ông không chuộc mình ra? Khôr lắc đầu: - Thưa ông, ông bảo tôi lấy gì để chuộc mình kia chứ? - Thôi xin ông, ông già của tôi ạ. . . - Khôr thành người tự do thì bất cứ ai không để râu cũng là chủ của Khôr ([9])- ông già hạ giọng nói tiếp như tự nói với mình. - Thế thì chính ông cũng cạo râu đi. - Râu là gì? Râu là cỏ: cạo đi được thôi. - Ừ, thế thì có gì khó đâu? - Như vậy có lẽ Khôr sẽ lập tức vào phường lái buôn. Lái buôn sống sung sướng và vẫn để râu. - Thì chính ông cũng vẫn buôn bán đấy thôi? - Tôi hỏi. - Tôi cũng có buôn một ít bơ và nhựa cây... Dạ thưa ông, ông truyền cho đánh xe chứ ạ? "Lão già khéo miệng và tinh ranh gớm" - Tôi nghĩ. - Không - Tôi nói - Tôi không cần xe. Ngày mai tôi sẽ đi săn quanh khu nhà ông; và nếu ông ưng thuận thì tôi sẽ ngủ đêm trong nhà chứa cỏ của ông. - Hân hạnh cho chúng tôi. Nhưng ông ngủ trong nhà chứa cỏ liệu có thoải mái không? Tôi sẽ bảo bọn đàn bà trải chỗ nằm và đem gối đến cho ông. Này, các ả! - ông ta đứng lên, thét gọi - Lại đây các ả! Fêđya, con đi với chúng nó. Bọn đàn bà là đần độn lắm kia. Mười lăm phút sau, Fêđya xách đèn đưa tôi vào nhà chứa cỏ. Tôi gieo mình xuống đống cỏ khô thơm thơm, con chó nằm khoanh tròn dưới chân tôi. Fêđya chúc tôi ngủ ngon. Cửa két một tiếng và đóng lại. Tôi nằm mãi không ngủ được. Con bò tới gần cửa, hai lần phì hơi ầm ĩ; con chó của tôi gầm gừ dữ tợn khiến nó phải bỏ đi. Một con lợn đi qua, khẽ ủn ỉn như đang https://thuviensach.vn có điều gì suy nghĩ. Gần đâu đây một con ngựa bắt đầu nhai cỏ khô và thở phì phì... cuối cùng tôi cũng ngủ thiếp đi. Rạng sáng, Fêđya đánh thức tôi. Tôi rất mến gã trai vui tính, hoạt bát này, và như tôi đã nhận thấy, anh ta cũng được ông già Khôr quý mến. Hai bố con thường bỡn cợt nhau, xem ra rất thân tình. Ông già bước ra đón tôi. Không biết có phải vì tôi đã nghỉ đêm dưới mái nhà ông hay vì lý do gì khác, nhưng Khôr đối xử với tôi niềm nở hơn hôm qua nhiều. - Chúng tôi đã đặt ấm xamôva chờ ông - ông ta mỉm cười nói với tôi - Ta đi uống trà đã. Chúng tôi ngồi quanh bàn. Một người đàn bà khỏe mạnh, một trong các con dâu của Khôr, mang tới một bình sữa. Tất cả các con trai ông đều lần lượt vào nhà. - Các con ông người nào cũng cao to cả! - Tôi bảo ông già. - Vâng - ông lão vừa đáp vừa nhấm một miếng đường nhỏ xíu - Có lẽ chúng không có điều gì phải phàn nàn về tôi và bà lão nhà tôi. - Họ đều ở với ông cả chứ? - Vâng, tất cả. Chính chúng muốn như thế, và chúng tôi ăn ở hòa thuận với nhau. - Có vợ hết rồi chứ? - Riêng thằng mãnh này thì chưa. - ông già trả lời. - Nhưng con lấy vợ làm gì kia chứ? - Fêđya phản đối - con sống thế này cũng thú lắm rồi. Con cần vợ để làm gì? Để cắn sủa nhau à? - Thôi đi anh... Tôi biết tỏng anh rồi! Anh đeo những chiếc nhẫn bạc. Anh là anh cứ muốn luôn luôn được ngửi hơi các ả hầu gái cơ. "Thôi đi, anh không biết xấu hổ à?" - ông già nói tiếp, nhại giọng các ả hầu phòng - tôi biết anh rồi, anh không thích chân lấm tay bùn mà! - Nhưng đàn bà thì có gì hay hớm? - Đàn bà là người làm việc - Khôr nói với vẻ quan trọng - Đàn bà là người hầu của gã mujich. - Nhưng con cần người làm để làm gì? https://thuviensach.vn - Ra thế đấy, anh thích bới đống than hồng bằng tay người khác kia. Chúng tôi biết bọn các anh rồi. - À, nếu thế thì bố cưới vợ cho con đi. Sao? Thế nào? Sao bố lại im lặng? - Thôi, thôi, đủ rồi, cái thằng chúa hay nói giỡn. Thấy không; chúng ta làm ông khách khó chịu rồi đấy. Tao sẽ cưới vợ cho mày, chắc chắn là thế... Còn thưa ông, xin ông đừng giận: nó còn ít tuổi còn gà tồ lắm ạ. Fêđya lắc đầu. - Khôr có nhà không? - Tiếng nói quen thuộc từ ngoài cửa vọng vào, và Kalinưts vào nhà, mang một chùm dâu mọc hoang ở ngoài đồng mà ông đã hái cho bạn. ông già Khôr hớn hở ra đón bạn. Tôi ngạc nhiên nhìn Kalinưts: thú thực, tôi không ngờ một tay mujich như ông lại có cách biểu lộ tình cảm "trìu mến" như thế. Hôm ấy, tôi đi săn muộn hơn thường ngày bốn tiếng, và ba ngày tiếp sau đó, tôi ở nhà Khôr. Những người mới quen làm cho tôi vui thích. Tôi không rõ bằng cách nào tôi đã chiếm được lòng tin cậy của họ, nhưng họ nói chuyện với tôi rất thoải mái. Tôi thích thú nghe họ nói và quan sát họ. Hai người bạn chẳng có chút gì giống nhau. Khôr là một người thiết thực, thực tế, một đầu óc quản trị, một phần tử duy lý. Kalinưts thì trái lại, thuộc loại những người duy tâm, lãng mạn những người cao hứng và hay mơ mộng. Khôr hiểu hiện thực: ông ta làm nhà, dành dụm tiền, khéo lấy lòng chủ và những người quyền thế khác. Kalinưts đi giày bện bằng vỏ cây và sống tạm bợ qua ngày. Khôr sinh con đẻ cái, có một gia đình đông đảo, ngoan ngoãn và hòa thuận. Kalinưts trước kia có một người vợ mà ông vẫn nể sợ, còn con thì chưa bao giờ ông có con. Khôr nhìn thấu ruột gan ông Pôlutưkin. Kalinưts tôn kính chủ. Khôr yêu Kalinưts và che chở cho bạn. Kalinưts yêu mến và kính trọng Khôr. Khôr ít nói, hay giễu cợt và hay nghĩ ngợi một mình. Kalinưts bày tỏ ý kiến một cách hăng say, tuy lời lẽ không bùi tai như một người thợ khéo nói ở nhà máy. . . Nhưng Kalinưts có những ưu thế mà chính Khôr phải thừa nhận, chẳng hạn: Kalinưts có phép phù chú xua đuổi được sự tức giận, sự sợ hãi, cơn điên rồ, trừ được sâu bọ; ông sai khiến được ong, ông ta làm gì cũng mát tay. Ngay trước mặt tôi, Khôr nhờ https://thuviensach.vn Kalinưts đưa con ngựa mới mua vào chuồng, và Kalinưts nghiêm trang, tận tâm thực hiện yêu cầu của ông bạn già vốn hay hoài nghi. Kalinưts gần nhiên thiên hơn. Khôr thì gần mọi người, gần xã hội hơn. Kalinưts không ưa lập luận và tin tất cả mọi cái một cách mù quáng. Khôr thì thậm chí có cái nhìn mỉa mai đối với cuộc đời. Ông ta thấy nhiều, biết nhiều, và tôi học được nhiều ở ông ta. Chẳng hạn, qua những câu chuyện của ông, tôi được biết rằng mỗi mùa hè, trước mùa cắt cỏ thường có một chiếc xe ngựa nhỏ hình dạng đặc biệt đến các làng. Một người mặc áo kafơtan([10]), ngồi trong xe và bán lưỡi hái. Trả tiền ngay thì từ một rúp hai mươi nhăm cô pếch cho đến một rúp rưỡi tiền giấy, mua chịu thì ba rúp thường và một rúp bạc. Tất nhiên là tất cả nông dân đều mua chịu. Hai ba tuần sau, người đó lại đến và đòi tiền. Nông dân vừa gặt yến mạch xong, thành thử có cái để mà trả. Người nông dân cùng với người lái buôn vào quán rượu và thanh toán nợ nần ở đấy. Một vài địa chủ nảy ra ý định bỏ tiền ra mua lưỡi hái và bán chịu cho nông dân cũng với giá như thế. Nhưng nông dân không hài lòng, và thậm chí chán nản: họ mất cái thú được búng vào lưỡi hái, lắng nghe tiếng thép ngân lên, lật đi lật lại lưỡi hái trong tay và hỏi gã lái buôn quỷ quyệt tới hai chục lần: "ông nghĩ thế nào, ông bạn, lưỡi hái không tốt lắm, phải không?" Cũng vẫn những trò ấy diễn ra khi mua liềm, chỉ khác cái là ở đây đàn bà can dự vào và đôi khi họ khiến cho người bán hàng phải nện họ một trận vì lợi ích của chính họ. Nhưng đàn bà đau khổ nhiều nhất trong trường hợp như thế này. Những người cung cấp vật liệu cho các nhà máy giấy trao việc thu mua giẻ rách cho một loại người mà ở một số vùng, người ta gọi là "phượng hoàng". "Phượng hoàng" ta được lái buôn trao cho hai trăm rúp tiền giấy và đi kiếm mồi. Nhưng trái với con chim cao quý mà y mang tên, y không tấn công trực diện và mạnh bạo: y dùng mưu ma chước quỷ. Y để xe ngựa ở một chỗ trong đám bụi cây gần làng, còn y cất lẻn ra phía sau nhà, như một người qua đường hay một người đi chơi phiếm. Linh tính báo cho bọn đàn bà biết "phượng hoàng" tới và họ lẻn ra gặp y. Cuộc mua bán diễn ra vội vã. Để lấy mấy xu đồng, người nông dân trao cho "phượng https://thuviensach.vn hoàng" chẳng những đủ mọi thứ giẻ rách, mà thường là cả áo sơ mi của chồng và cả váy của mình. Thời gian gần đây, bọn đàn bà coi việc ăn cắp của chính mình và tiêu thụ sợi gai mềm và đặc biệt là sợi gai thô ([11]) theo cách ấy là có lợi - thế là nghề nghiệp của các tay "phượng hoàng" đã được mở rộng và tiến thêm một bước quan trọng! Nhưng rồi các gã mujich tinh khôn hơn, và hễ thoáng thấy có gì đáng nghi ngờ, nghe phong phanh là "phượng hoàng" xuất hiện, thì họ tức tốc thi hành những biện pháp sửa chữa và phòng ngừa. Kể ra, nhưng vậy chẳng đáng bực lắm ư? Bán sợi gai mềm là việc của đàn ông, và đúng là trước nay họ vẫn bán, không phải bán ở thành phố, vì như thế thì phải tự mình đem hàng ra, mà bán cho những người đi buôn đi qua làng. Những người lái buôn này vì không có cân nên tính một pút([12]) là bốn mươi nắm, mà các bạn cũng biết thế nào là nắm tay và lòng bàn tay người Nga, đặc biệt khi người đó "ra sức cố gắng"! Tôi, một người không có kinh nghiệm và chưa "thông thuộc" đời sống nông thôn (như ở Orion người ta thường nói), đã được nghe vô khối câu chuyện như thế. Nhưng Khôr không phải chỉ kể chuyện, chính ông cũng hỏi tôi nhiều điều. Được biết tôi đã từng ra nước ngoài, sự tò mò của ông càng bừng lên mãnh liệt... Kalinưts không chịu thua kém Khôr . Nhưng Kalinưts xúc động hơn khi nghe tả về thiên nhiên, núi non, thác ghềnh, về những ngôi nhà khác thường, những thành phố lớn. Khôr quan tâm đến những vấn đề hành chính và chính trị. Ông ta lần lượt hỏi tất cả mọi chuyện: "Thế nào, việc đó ở nước họ cũng như ở ta hay là khác? Thưa ông, việc đó ra sao?..." "à, hay quá, lạy Chúa, đó là do ý Chúa!" - Kalinưts kêu lên trong lúc tôi kể chuyện. Khôr thường im lặng, cau đôi lông mày rậm, chỉ thỉnh thoảng nhận xét: "Điều đó ở nước ta không hợp, còn cái ấy thì tốt, thế mới ổn". Tôi không thể kể lại với các bạn tất cả các câu hỏi của ông ta, và cũng chẳng cần thuật lại làm gì. Nhưng qua những cuộc chuyện trò của chúng tôi, tôi thu hoạch được một niềm tin vững chắc mà có lẽ bạn đọc không hề ngờ tới: Tôi tin chắc rằng Piôtr đại đế là một người Nga hoàn hảo, là người Nga chính trong https://thuviensach.vn những công cuộc cải tạo của ông. Người Nga tin chắc ở sức mạnh và sự vững vàng của mình đến nỗi sẵn lòng tự phá vỡ cuộc sống của mình: người Nga ít bận tâm đến quá khứ và mạnh dạn nhìn về tương lai. Cái gì tốt thì người đó thích, cái gì hợp lý thì người đó chờ đón, còn nó từ đâu tới thì cũng thế thôi. Lương tri của người Nga thích chế giễu lý sự cằn cỗi của người Đức. Nhưng, theo lời Khôr , người Đức là một dân tộc hay tò mò, và ông vui lòng học tập họ. Nhờ tình trạng đặc biệt của mình, tình trạng độc lập trên thực tế, Khôr nói với tôi nhiều điều mà người khác thì có dùng đòn bẩy cũng không nậy ra được hay như nông dân thường nói, là có đưa vào cối xay mà nghiền cũng không ra. Ông thực sự hiểu tình thế của mình. Nói chuyện với Khôr, lần đầu tiên tôi được nghe những lời lẽ giản dị, thông minh của người mujich Nga. Theo tôi, những hiểu biết của ông khá rộng, nhưng ông không biết đọc. Kalinưts thì biết đọc. "Gã vô công rồi nghề ấy chữ nghĩa khá lắm - Khôr nói - ong của gã chẳng bao giờ chết cả". - "Thế ông có cho các con ông học chữ không?". Khôr im lặng. "Fêđya biết chữ" - "Còn những người khác?" - "Những đứa khác không biết". - "Sao thế?" - ông già không trả lời và lái sang chuyện khác. Nhưng, dù rất mực khôn ngoan, ông ta cũng có nhiều thành kiến và thiên kiến. Chẳng hạn, ông ta khinh miệt phụ nữ tới tận đáy lòng, và lúc vui đùa, ông ta thường giễu cợt và nhạo báng họ. Vợ ông, một bà già hay càu nhàu, suốt ngày không rời khỏi bếp lò, luôn mồm cằn nhằn và chửi mắng. Các con trai không chú ý gì đến bà, nhưng các con dâu thì bà có cách làm cho họ biết sợ Chúa. Chẳng phải vô cớ mà trong bài ca Nga, một bà mẹ chồng hát: "Mày đâu phải là con trai ta, mày đâu xứng làm chủ gia đình? Mày không đánh vợ, mày không đánh con vợ trẻ...". Nhiều lần tôi định bênh vực các cô con dâu, thử khêu gợi cho Khôr thông cảm với họ, nhưng ông bình tĩnh phản đối: "ông cứ thích bận tâm đến những... chuyện vặt vãnh ấy làm chi, mặc cho các ả cãi cọ xâu xé nhau... Can chúng ra thì còn tệ hơn là đằng khác và cũng chẳng bõ bẩn tay". Đôi khi, bà lão ác nghiệt từ trên bếp lò lần xuống, gọi con chó giữ sân đang ở https://thuviensach.vn phòng ngoài: "êu, êu, lại đây, lại đây" và bất ngờ dùng cái cào than quất vào tấm lưng gầy guộc của nó, hay bà ta đứng dưới mái hiên và theo lối nói của Khôr - "sủa" tất cả những người đi qua. Tuy nhiên, bà ta sợ chồng, và khi chồng ra lệnh thì lập tức trở về chỗ của mình trên bếp lò. Nhưng nghe Kalinưts và Khôr tranh cãi nhau về ông Pôlutưkin thì mới đặc biệt thú vị. "Này, Khôr , anh đừng nói động đến ông chủ trước mặt tôi" - Kalinưts nói. "Thế tại sao ông ấy không đóng cho anh đôi ủng?" - Khôr phản đối, "Ủng với iếc! Tôi cần ủng làm gì? Tôi là dân mujich..." - "Thì tôi cũng là mujich, thế mà anh xem...". Khôr vừa nói vừa giơ một chân lên cho Kalinưts xem chiếc ủng có lẽ làm bằng da ma mút - "Ôi chào, anh có phải cánh mujich như tôi đâu?" - Kalinưts trả lời. "Thì ít nhất ông ấy cũng nên cho anh tiền mua giày bện bằng vỏ cây chứ: ngày nào anh cũng đi săn với ông ấy cơ mà. Có lẽ mỗi ngày anh phải bện một đôi giày hẳn thôi". - "Ông ấy vẫn cho tôi tiền mua giày đấy chứ". - "Phải, năm ngoái ông ấy biếu anh mười cô pếch". Kalinưts bực tức quay đi, còn Khôr cười sằng sặc và đôi mắt ti hí của ông ta hoàn toàn biến mất. Kalinưts hát khá hay và đôi khi chơi balalaika. Khôr nghe, nghe mãi, rồi đột nhiên ngả đầu sang một bên và cất giọng ai oán hát theo. Đặc biệt ông ta thích bài: "Số phận của ta, ôi số phận". Fêđya không bỏ lỡ dịp chế nhạo bố, "Kìa, bố, sao lại tỏ ra mềm yếu thế!" Nhưng Khôr vẫn chống tay lên má, nhắm mắt và tiếp tục than vãn về số phận của mình. . . Nhưng lúc khác thì không ai hoạt động hơn ông: lúc nào ông cũng loay hoay làm một việc gì: chữa xe ngựa, chống lại hàng rào, xem lại bộ dây cương. Nhưng ông ta không quan tâm lắm đến sự sạch sẽ, và có lần, khi tôi nêu lên nhận xét, ông ta trả lời rằng: "Nhà phải toát ra hơi hướng người ở". Tôi phản đối: "Ông xem đấy, chỗ nuôi ong của Kalinưts sạch sẽ biết bao". "Không sạch thì ong không ở, ông ạ" - ông ta nói và thở dài. https://thuviensach.vn Lần khác, ông ta hỏi tôi: "Thưa ông, ông có đất thế tập không?" Có cách đây xa không ạ? - Chừng một trăm dặm. - Thế ông vẫn ở nơi đó đấy chứ, thưa ông? - Tôi vẫn ở đấy. - Nhưng có lẽ ông thích xách súng đi săn nhiều hơn đấy nhỉ? - Thú thật là đúng như thế. - Thưa ông, ông làm thế mà hay đấy: cứ bắn gà lôi cho thật nhiều vào và thay người trông coi ấp càng thường xuyên càng hay. Sang ngày thứ tư, buổi chiều, ông Pôlutưkin cho người đến đón tôi. Tôi lấy làm tiếc vì phải chia tay với ông già. Tôi cùng với Kalinưts lên xe ngựa. - Thôi, tạm biệt ông Khôr . Chúc ông mạnh khỏe. Tôi nói: - Tạm biệt Fêđya. Vâng, rước ông đi, đừng quên chúng tôi nhé. Xe chúng tôi chuyển bánh. Hoàng hôn vừa xuống, ráng trời đỏ rực. https://thuviensach.vn - Thời tiết ngày mai đẹp lắm đây - Tôi nhìn bầu trời sáng sủa và nói. - Không, trời sẽ mưa - Kalinưts bác lại - Vịt đang rũ lông cánh trong nước kia kìa, và cỏ bốc mùi rất rõ. Xe chúng tôi đi vào giữa những bụi cây. Kalinưts cất tiếng hát khe khẽ, người nảy chồm chồm trên ghế xà ích, và vẫn đăm đăm nhìn bầu trời hoàng hôn . . . Hôm sau, tôi rời nhà hiếu khách của ông Pôlutưkin. https://thuviensach.vn ERMÔLAI VÀ VỢ NGƯỜI CHỦ CỐI XAY Một buổi chiều, tôi và anh thợ săn Ermôlai đi "chyaga"... Nhưng có lẽ không phải tất cả các độc giả của tôi đều hiểu thế nào là chyaga. Vậy thì tôi xin kể các bạn nghe. Mùa xuân, mười lăm phút trước khi mặt trời lặn, bạn ung dung vào rừng, không đem theo chó. Bạn chọn lấy một chỗ gần bìa rừng, bạn đưa mắt quan sát khắp xung quanh, xem xét kỹ mồi thuốc súng, nháy mắt trao đổi với người cùng đi săn. Mười lăm phút đã qua. Mặt trời lặn hẳn, nhưng trong rừng còn sáng. Không khí tinh khiết và trong trẻo chim chóc ríu rít, cỏ non lấp lánh màu ngọc bích tươi vui... bạn chờ đợi. Trong rừng tối dần. Ánh hoàng hôn đỏ thắm từ từ lướt trên những rễ cây và thân cây, mỗi lúc một lên cao, chuyển từ những cành thấp hầu như trơ trụi với những ngọn cây im lìm đang thiêm thiếp ngủ... Kìa, những ngọn cây cao nhất đã mò tối. Bầu trời ửng hồng chuyển sang màu xanh lam. Mùi cây cỏ trong rừng bốc lên mạnh hơn; làn hơi ẩm ấm áp nhẹ nhàng lan tỏa ra; cơn gió ùa vào rừng lặng dần đi bên cạnh bạn. Chim chóc bắt đầu ngủ, không phải cùng một lúc mà tùy từng giống: chim mai hoa im lặng trước tiên, lát sau đến chim bông lau, rồi đến chim yến mạch. Trong rừng mỗi lúc một tối. Cây cối hòa vào nhau thành những khối lớn thẫm đen dần. Trên bầu trời xanh, những đốm sao đầu tiên rụt rè xuất hiện. Chim chóc đã ngủ cả. Chỉ còn những con chim đỏ đuôi những chú gõ kiến nhỏ bé thỉnh thoảng vẫn huýt lên mấy tiếng mơ ngủ. . . Nhưng rồi chúng cũng im bặt. Phía trên đầu bạn, tiếng hót lanh lảnh của chú chích xanh vang lên lần nữa, đâu đó vàng anh cất tiếng kêu buồn bã, hoạ mi thử khúc nhạc đầu, phát ra một âm thanh vang giòn như tiếng gõ phách... Bạn cảm thấy chán nản vì phải chờ đợi lâu, và bỗng nhiên - nhưng chỉ những người đi săn mới hiểu được tôi - bỗng nhiên, trong bầu không khí https://thuviensach.vn tịch mịch vang lên thứ tiếng kêu đặc biệt xen lẫn tiếng rít, bạn nghe thấy tiếng vỗ nhịp nhàng của đôi cánh khéo léo, và con dẽ gà nghiêng cái mỏ dài một cách duyên dáng, nhẹ nhàng bay lướt ra từ sau cây phong tối thẫm để đón lấy phát súng của bạn. Đấy "đi chyaga" là như vậy. Vậy là, tôi cùng với Ermôlai đi chyaga. Nhưng, xin lỗi bạn đọc, tôi phải giới thiệu Ermôlai với các bạn đã. Các bạn hãy hình dung một người trạc bốn mươi lăm tuổi, cao, gầy, mũi dài thon nhỏ, trán hẹp, mắt ti hí màu xám, tóc rễ tre, môi dày lúc nào cũng như nhếch một nụ cười giễu cợt. Đông cũng như hè, người đó mặc chiếc áo dài bằng vải Nam Kinh màu vàng nhạt, may kiểu Đức, nhưng thắt tấm dây lưng rộng bản, đánh chiếc quần chèn ống màu xanh, đội chiếc mũ da cừu non mà một địa chủ phá sản đã cho anh ta trong lúc cao hứng. Ở dây lưng có buộc hai cái túi, một cái ở đằng trước được xoắn lại một cách khéo léo thành hai nửa, một nửa đựng thuốc súng, một nửa đựng chì, cái túi ở đằng sau đựng thú vật săn được; còn lông nhồi đạn súng thì Ermôlai lấy ở cái mũ dường như không bao giờ trụi của mình. Với số tiền bán những thú vật săn được Ermôlai có thể dễ dàng mua một cái túi đựng đạn và cái đẫy của người đi săn, nhưng chưa bao giờ anh ta nghĩ tới chuyện mua những thứ đó và vẫn tiếp tục nhồi lấy đạn súng, làm cho những người được xem anh làm phải ngạc nhiên vì tài khéo léo của anh: anh không để thuốc súng và chì rơi vãi hay lẫn với nhau. Súng của anh ta là súng một nòng, mồi bằng đá lửa, khẩu súng này có cái dở là giật cực dữ, vì thế má phải của Ermôlai bao giờ cũng bầu bĩnh hơn má trái. Với khẩu súng như thế, làm thế nào anh ta bắn súng được, điều đó người tinh ranh đến đâu cũng không thể hiểu nổi, thế mà anh ta vẫn bắn rất trúng đấy. Trước kia, anh ta còn có cả con chó săn biệt hiệu là Valetka, một con vật kỳ diệu. Ermôlai không bao giờ cho nó ăn. "Tôi mà lại cho chó ăn nữa thì vừa - Ermôlai lý sự - Vả lại chó là con vật tinh khôn, tự nó sẽ tìm được cái ăn". Và thực vậy, tuy Valetka khiến cho ngay cả một người qua đường dửng dưng cũng phải sửng sốt vì cái vẻ gầy guộc quá đáng của nó, nhưng nó vẫn sống, và sống lâu. Hơn thế nữa, dù https://thuviensach.vn sống cực khổ, nó chưa bỏ đi lần nào và không tỏ ra có ý định bỏ chủ. Chỉ có một lần, thời trai trẻ, nó vắng nhà hai ngày vì mải mê về đường tình ái. Nhưng cái thói ngông cuồng ấy mau chóng rời bỏ nó. Valetka có một đặc điểm rất khác thường: đó là thái độ dửng dưng khó hiểu của nó đối với mọi sự đời. . .Nếu không phải là nói về chó thì tôi sẽ dùng tiếng: chán đời. Nó thường hay ngồi, cái đuôi cộc quặp lại, mặt nhăn nhó, thỉnh thoảng lại rung người, nhưng không bao giờ mỉm cười. (Ta biết rằng chó có thể mỉm cười, thậm chí mỉm cười rất dễ thương). Nó xấu xí nhất trần đời, và không một kẻ đầy tớ nhàn rỗi nào lại bỏ lỡ dịp chế nhạo hình dạng nó một cách cay độc. Nhưng Valetka thản nhiên chịu đựng tất cả những trò nhạo báng ấy và thậm chí cả sự đánh đập nữa, tỏ ra có thái độ phớt lờ kỳ lạ. Nó thường làm cho những người nấu bếp đặc biệt thích thú, ấy là khi, do một nhược điểm không phải chỉ giống chó mới có, nó thò cái mõm đói của nó vào cánh cửa hé mở của căn nhà bếp ấm áp đầy sức cám dỗ và thơm điếc mũ những người nấu bếp lập tức ngừng việc, quát tháo và chửi mắng đuổi theo nó. Khi đi săn, nó không hề biết mệt mỏi và đánh hơi rất tinh. Nhưng nếu tình cờ đuổi kịp một con thỏ bị trúng thương thì nó tha con vật vào một chỗ nào rợp mát dưới bụi cây, cách Ermôlai thật xa và chén hết sạch, không chừa lại một mẩu xương nào cả, mặc cho chủ chửi rủa bằng tất cả những thổ ngữ quen biết và lạ tai. Ermôlai là nông nô của một trong những người láng giềng của tôi, một địa chủ kiểu cũ. Những địa chủ kiểu cũ không thích chim rừng và chuyên dùng gia cầm. Chỉ trừ một số dịp đặc biệt, như: ngày sinh nhật, ngày lễ đặt tên thánh, ngày bầu cử thì đầu bếp của các địa chủ cũ mới làm thịt những con chim mỏ dài. Và đôi khi đã hăng tiết lên - đúng với bản tính của người Nga khi người đó không biết rõ mình đang làm gì, - họ sáng chế ra những thứ gia vị kỳ quặc để tra vào các món họ làm, đến nỗi khách khứa phần lớn chỉ tò mò và chăm chú ngắm nhìn những món ăn được bưng lên nhưng tuyệt nhiên không dám nếm thử. Ermôlai được lệnh mỗi tháng một lần đem nộp cho nhà bếp của chủ hai đôi gà lôi và gà gô, nhưng anh ta được phép muốn ở đâu thì ở và sống bằng cách nào tùy ý Người ta không đếm xỉa đến https://thuviensach.vn anh, coi anh ta là người không dùng được vào việc gì cả - "một người thừa", như ở Oriôn người ta thường nói. Tất nhiên người ta không cấp thuốc súng và chì cho anh, theo đúng những nguyên tắc đã khiến anh không cho con chó của mình ăn. Ermôlai thuộc loại người hết sức lạ: vô tư lự như chim, khá lắm lời, lơ đãng và bề ngoài nom vụng về. Anh ta rất ham uống rượu, không ở đâu lâu một chỗ, đi thì chuệnh choạng, nghiêng bên nọ ngả bên kia, thế nhưng cứ chuệnh choạng và nghiêng ngả như vậy mà anh ta cuốc bộ năm mươi dặm một ngày đấy. Anh ta đã nếm đủ mùi phiêu lưu: ngủ đêm trong đầm lầy, trên cây, trên mái nhà, dưới gậm cầu, đã nhiều phen bị nhốt trên gác mái ấp, trong hầm nhà và trong nhà kho, bị tước mất súng, mất chó, mất những thứ che thân cần thiết nhất, nhiều lần bị đánh đau và đánh lâu. Ấy vậy mà ít lâu sau, anh ta trở về nhà có đủ cả quần áo, súng và chó. Không thể nói anh ta là người vui tính tuy hầu như bao giờ anh ta cũng khá tươi tỉnh. Nói chung anh ta có vẻ là một người kỳ quặc. Ermôlai thích nói chuyện với một người tử tế, đặc biệt là lúc khề khà bên chai rượu, nhưng cũng không lâu: đột nhiên anh ta đứng dậy và đi. - "Này, đồ quỷ, anh đi đâu đấy? Đêm hôm rồi". - Tôi đến Tsaplinô. - Nhưng anh lần mò đến Tsaplinô làm gì, cách đây những mười dặm đường. - Tôi đến ngủ ở nhà tay mujich Xôfrôn. - Ngủ ở đây. - Không, không được. Và Ermôlai cùng với Valetka của mình xông vào đêm tối, vượt qua các bụi cây và các vũng nước, nhưng gã mujich Xôfrôn của anh có thể sẽ không cho anh vào nhà, mà chưa biết chừng còn cho anh mấy quả tống vào cổ và quát tháo: "Đừng có quấy rầy những người lương thiện". Nhưng không ai có thể bì kịp Ermôlai về tài bắt cá trong kỳ nước lũ mùa xuân, tài dùng tay không bắt tôm, tài đánh hơi tìm ra thú săn, tài nhử chim cun cút, tài tập rượt diều hâu, tài bắt chim họa mi bằng cách bắt chước in hệt một số âm điệu hay nhất trong điệu nhạc của nó... Duy có một việc anh ta không làm được: https://thuviensach.vn luyện chó. Anh không đủ kiên nhẫn. Anh đã từng có vợ. Mỗi tuần anh ta đến với vợ một lần. Vợ anh ở một túp nhà tồi tàn, đổ nát, sống lần qua ngày, không bao giờ biết trước ngày mai mình có được no bụng không, nói chung số phận của chị thật là cay đắng. Ermôlai, con người vô tư và tốt bụng ấy, đối với vợ lại tàn nhẫn và hung bạo. Ở nhà, anh ta luôn có vẻ dậm dọa và nghiêm khắc, và người vợ khốn khổ của anh ta không biết làm thế nào cho vừa ý chồng, chị run sợ trước luồng mắt của anh ta, vét từng đồng xu cuối cùng mua rượu nho cho chồng và khi anh ta nằm ngả lên bếp lò với vẻ oai vệ, đánh một giấc ngủ say lì thì chị lấy áo khoác của mình len lén đắp cho chồng. Chính tôi đã nhiều lần có dịp nhận thấy những biểu hiện vô tình của một tính nết hung dữ: tôi không ưa vẻ mặt của anh ta khi anh ta nhấm nháp con chim bắn được. Nhưng Ermôlai không bao giờ ở nhà quá một ngày. Và ở nơi khác, anh lại biến thành "Ermôlka" - khắp trăm dặm xung quanh người ta gọi anh bằng cái tên ấy và đôi khi chính anh tự gọi mình như vậy. Một gia nhân hèn kém nhất cũng cảm thấy mình hơn hẳn gã lang thang này, và có lẽ chính vì thế họ đối xử thân thiện với anh. Còn cánh mujich thì lúc đầu lùng bắt anh một cách thích thú như lùng bắt con thỏ giữa cánh đồng, nhưng sau họ lại thả anh ra cho Chúa định đoạt và khi đã biết rõ con người kì quặc thì họ không động đến anh nữa, thậm chí còn cho anh bánh mì và chuyện trò với anh... Tôi đã chọn chính người ấy làm bạn đi săn, và cùng với anh ta, tôi đã đi "chyaga" trong một khu rừng phong lớn, trên bờ sông Ixta. Nhiều con sông Nga, cũng giống như sông Vonga, có một bờ cao sát chân núi và một bờ thấp là đồng cỏ. Sông Ixta cũng thế. Con sông nhỏ này chảy uốn éo lạ thường, lượn khúc như rắn, không có quãng nào dòng sông thẳng được đến nửa dặm, và có chỗ, đứng trên bờ dốc cao, có thể nhìn thấy đoạn sông trong tầm mười dặm, với những đê đập, ao chuôm, cối xay, những vườn rau xung quanh có bụi cây bao bọc, và những khu vườn cây um tùm. Cá sông Ixta nhiều vô tận, đặc biệt là cá rói (vào những ngày nóng nực, nông dân tay không bắt cá rói dưới bụi cây ven sông). Những con chim hô https://thuviensach.vn triều huýt lên như tiếng còi, bay lượn dọc mé bờ cao lởm chởm đá có những mạch nước nguồn mát lạnh trong suốt chảy ngang dọc khắp nơi. Vịt trời bơi ra giữa ao và thận trọng nhìn quanh. Những con diệc đứng ngất nghểu trong bóng rợp, ở chỗ nước lấn sâu vào đất dưới bờ dốc dựng ngược... Chúng tôi đứng rình ngót một giờ, hạ được hai cặp dẽ gà, và muốn thử lại lần nữa, cái lạc thú của mình trước khi mặt trời mọc (cũng có thể đi chyaga vào buổi sáng), chúng tôi quyết định nghỉ đêm ở chỗ cối xay gần nhất. Chúng tôi ra khỏi rừng, đi xuống chân đồi. Trên mặt sông, những con sóng xanh thẫm xô đuổi nhau. Không khí dày đặc lại, trĩu nặng hơi ẩm ban đêm. Chúng tôi gõ cổng. Mấy con chó sủa inh lên. - Ai đấy? - Một giọng khàn khàn, ngái ngủ vang lên. - Chúng tôi đi săn, muốn xin ngủ nhờ. Không thấy trả lời. - Chúng tôi sẽ trả tiền trọ. - Để tôi vào thưa ông chủ. . . khẽ chứ, đồ trời đánh thánh vật... Trời chu đất diệt các người đi! Chúng tôi nghe thấy tiếng chân người làm đi vào trong nhà. Lát sau, gã trở ra. - Không - Gã nói - ông chủ bảo không cho vào. - Tại sao? - Ông ấy sợ. Các người là dân đi săn, không khéo các người lại đốt cối xay của người ta thì khốn. Đấy kìa, đạn, thuốc súng... - Nói nhăng nhít gì thế? - Thì năm kia cối xay nhà chúng tôi bị cháy rồi đấy: những người đi bán thịt và cá đã trọ đêm ở đây, và chẳng biết họ làm thế nào mà cháy ráo cả. - Thôi thế thì cho chúng tôi ngủ nhờ ở sân vậy, người anh em ạ! - Mặc các anh... Gã bỏ đi, giậm ủng thình thịch. Ermôlai dậm dọa đủ điều, hứa sẽ cho gã biết tay. https://thuviensach.vn - Ta vào làng vậy - Cuối cùng, anh ta thở dài, thốt lên. Nhưng làng cách đây hai dặm đường... - Ta nghỉ ở đây, ngay ngoài sân này - Tôi nói - Đêm nay trời ấm. Bỏ ra ít tiền thì lão chủ cối xay sẽ để cho chúng ta ít rơm. Ermôlai ưng thuận ngay. Chúng tôi lại gõ cổng. - Các người cần gì. - Tiếng nói của gã người làm - Đã bảo là không được đâu mà. Chúng tôi nói rõ cho gã biết chúng tôi muốn gì. Gã vào hỏi chủ và cùng trở ra với chủ. Cánh cửa bờ rào két lên. Gã chủ cối xay xuất hiện, người cao lớn, mặt béo phị, cổ như cổ bò, bụng to tròn. Ông ta đồng ý với đề nghị của tôi. Cách cối xay khoảng trăm bước có một cái mái che nhỏ, bốn bề lồng lộng. Họ đem rơm, cỏ khô vào đấy cho chúng tôi. Gã người làm đặt ấm xamôva trên bãi cỏ gần sông và ngồi xổm xuống, ra sức thổi ống lửa... Than cháy bừng lên, soi tỏ khuôn mặt trẻ của anh ta. Ông chủ cối xay chạy đi đánh thức vợ dậy, và rốt cuộc mời tôi vào ngủ trong nhà. Nhưng tôi thích ở ngoài trời hơn. Bà chủ mang ra cho chúng tôi sữa trứng, khoai, bánh mì. Lát sau, ấm nước sôi, và chúng tôi uống trà. Mặt sông bốc hơi, không có gió. Gà nước kêu rộn rã xung quanh. Gần bánh xe cối xay, có những âm thanh yếu ớt vang ra. Nước rỏ giọt từ những cánh quạt, nước vọt qua những then cửa ngăn. Chúng tôi nhóm một đống lửa nhỏ. Trong lúc Emôlai nướng khoai, tôi đã thiu thiu ngủ... Tiếng rì rầm khe khẽ làm tôi tỉnh dậy. Tôi nhỏm đầu lên: vợ người chủ cối xay ngồi trên cái thùng gỗ lật úp, trước đống lửa và nói chuyện với người bạn săn của tôi. Ngay từ đầu, nhìn y phục, cử chỉ và lối nói của chị ta, tôi đã biết trước chị trước kia là người hầu gái chứ không phải là nông dân hay tiểu thị dân. Nhưng đến lúc này tôi mới ngắm kỹ những đường nét trên mặt chị. Chị nom trạc ba mươi tuổi, khuôn mặt gầy và tái nhợt vẫn còn giữ được dấu vết của một vẻ đẹp yêu kiều. Đặc biệt, tôi thích đôi mắt to đượm buồn của chị. https://thuviensach.vn Chị chống khuỷu tay lên đầu gối, áp mặt vào hai bàn tay. Ermôlai ngồi quay lưng về phía tôi và tiếp thêm những mảnh củi vụn vào lửa. - Ở Jentukhina lại có dịch gia súc - Chị ta nói - Hai con bò cái của cha Ivan đều chết cả... Cầu Chúa ban ơn cho chúng ta! - Thế còn con nhà cô thì thế nào? - Ermôlai im lặng một lát, rồi hỏi. - Vẫn chưa làm sao. - Giá cô cho tôi lấy một chú lợn con nhỉ. Chị ta im lặng, rồi thở dài. - Anh đi với ai thế - Chị hỏi. - Với một ông quý tộc, một ông Kôxtômarôpxki. Ermôlai ném mấy cành thông vào lửa, cành cây lập tức lách tách nổ ran lên, một làn khói trắng dày đặc táp thẳng vào mặt anh ta. - Sao chồng cô không cho chúng tôi vào nhà. - Anh ấy sợ. - Chà, cái gã béo bụng phệ ấy... Này, Arina Timôfêepna thân mến, cô cho tôi một cốc rượu nho nhé! Người vợ chủ cối xay đứng lên và biến vào bóng tối Ermôlai cất tiếng hát khe khẽ: Công anh lặn lội đón tìm Bao nhiêu ủng, chỉ vì em, tan tành. Arina trở lại, mang theo cái bình nhỏ và cái cốc. Ermôlai nhổm dậy, làm dấu chữ thập và uống thẳng một hơi. "Tôi yêu!" - Anh ta thêm. Chị chủ nhà lại ngồi xuống chiếc thùng gỗ. - Này, Arina Timôfêepna, hình như cô vẫn ốm thì phải. - Tôi vẫn ốm đấy. - Ốm thế nào? - Đêm đến là ho khổ ho sở - Hình như ông khách ngủ rồi - Ermôlai thốt lên sau một lúc im lặng - Cô đừng tìm thầy thuốc, Arina ạ, bọn lang băm sẽ làm cho bệnh tình của cô trầm trọng hơn. - Thì tôi có đi chữa thuốc bao giờ đâu. https://thuviensach.vn - Nhưng cô nên đến thăm tôi thì hơn. Arina cúi đầu. - Hôm ấy tôi sẽ đuổi mụ vợ tôi đi nơi khác - Ermôlai nói tiếp... - Nói thật đấy. - Anh nên đánh thức ông khách dậy thì hơn, Ermôlai Pêtơrơvits ạ: anh thấy không, khoai nướng chín rồi đấy. -Cứ để ông ấy ngủ - Người giúp việc trung thành của tôi nói với vẻ thản nhiên, ông ấy đi bộ nhiều, vì thế nên ngủ mệt. Tôi trở mình trên cỏ khô. Ermôlai đứng lên và tới gần tôi. - Khoai được rồi đấy ạ, mời ông dậy xơi. Tôi ra khỏi chỗ mái che. Chị chủ cối xay rời chiếc thùng đứng lên và định đi. Tôi hỏi chị ta: - Nhà ta cho chạy cái cối xay này lâu chưa? - Mới được hơn một năm, từ ngày lễ Tam vị đấy ạ - Thế chồng cô người ở đâu? Arina không nghe rõ câu hỏi của tôi. - Chồng cô người đâu ta? - Ermôlai cao giọng nhắc lại. - Người Bêlep. Anh ấy là tiểu thị dân Bêlep. - Thế cô cũng ở Bêlep ạ. - Thưa không, tôi là người hầu nhà địa chủ...trước kia là người hầu.. - Nhà ai vậy? - Nhà ông Zverkôp ạ . Bây giờ tôi là người tự do. - Zverkôp nào? - Alêcxanđrơ Xilưts. - Cô là hầu phòng của vợ ông ta phải không? - Tại sao ông biết ạ? Vâng, đúng thế. Tôi càng nhìn Arina với vẻ tò mò và thương cảm nhiều hơn. - Tôi biết ông chủ của cô. - Tôi tiếp lời. https://thuviensach.vn - Ông biết ạ? - Chị ta đáp khẽ giọng và cúi gằm xuống. Cần phải nói cho bạn đọc rõ vì sao tôi lại nhìn Arina với con mắt thương xót như vậy. Trong thời gian tôi ở Pêtecxbua tình cờ tôi quen ông Zverkôp. Ông ta giữ một địa vị khá quan trọng, nổi tiếng là người hiểu biết và thạo việc. Ông ta có một bà vợ mũm mĩm, đa cảm, mau nước mắt và độc ác: một người đàn bà tầm thường và khó tính khó nết. Họ có một gã con trai, một chú quý tộc con thực sự, được nuông chiều và đần độn. Vẻ ngoài của ông Zverkôp ít gây được thiện cảm: trên khuôn mặt rộng, gần như vuông vức, đôi mắt chuột nhắt nom đến quỷ quyệt, mũi to và nhọn, hai lỗ mũi tênh hếch; mái tóc bạc cắt ngắn chởm lên như rễ tre trên vừng trán nhăn nheo, cặp môi mỏng dính luôn luôn mấp máy và mỉm một nụ cười đường mật. Ông Zverkôp thường đứng chàng rộng đôi chân ngắn và thọc hai tay to trần trận vào túi. Tôi đã có lần cùng ngồi xe ngựa đi với ông ra ngoài thành phố. Chúng tôi nói chuyện với nhau. Tự cho mình là người có kinh nghiệm, thạo đời ông Zverkôp bắt đầu răn bảo tôi theo "con đường chính đạo". Ông ta nói như rít lên: - Cho phép tôi nêu lên với ông một nhận xét là bọn thanh niên các ông nhận định và giải thích mọi cái đều bộp chộp. Các ông ít biết tổ quốc mình. Các ông không biết nước Nga, thế đấy!...Các ông chỉ luôn luôn đọc sách Đức. Chẳng hạn, ông vừa nói với tôi về... về cái... à, vâng, về bọn gia nhân. Được, tôi không cãi, tất cả những ý kiến ấy đều hay thôi. Nhưng ông không biết chúng, ông không biết chúng là hạng người thế nào (ông Zverkôp chốc chốc lại hỉ mũi và ngửi thuốc lá). Chẳng hạn, xin cho phép tôi kể với ông một chuyện tiếu lâm nhỏ. Chuyện đó có thể làm cho ông hứng thú đấy (ông Zverkôp hắng giọng). Ông cũng biết vợ tôi là người thế nào rồi: có lẽ khó tìm được người đàn bà nào nhân đức hơn vợ tôi, hẳn ông cũng đồng ý. Những đứa hầu gái của vợ tôi không phải chỉ là sung sướng, mà quả thực là sống trong thiên đường dưới cõi trần. . . Nhưng vợ tôi tự đặt ra cho mình một nguyên tắc: không nuôi những ả hầu gái có chồng. Mà đúng là không thể như thế được: có chồng rồi sẽ có con, lắm chuyện lắm, lúc ấy thì còn bụng dạ đâu mà chăm sóc bà chủ cho chu đáo, bụng dạ đâu mà chiều https://thuviensach.vn chuộng những thói quen của bà chủ được: bấy giờ thì nó thiết gì nữa, đầu óc nó còn để đâu đâu ấy chứ. Cần phải nhìn nhận sự việc theo quan điểm nhân đạo. Thế này nhé, một lần chúng tôi đi qua làng quê nhà, bấy giờ là . . . nói với ông thế nào đây. . . tôi không nói dối đâu, cách đây mười lăm năm rồi. Chúng tôi gặp ở nhà trưởng thôn một con bé tuyệt kháu, con gái ông ta. Ông biết không, trong cử chỉ của nó có mội vẻ gì nịnh nọt. Vợ tôi bảo tôi: "Kôkô - ông hiểu không, vợ tôi thường hay gọi tôi bằng cái tên thân mật như thế -, chúng ta lấy con bé này về Pêtecxbua đi; em ưa nó lắm, Kôkô ạ Tôi bảo: Thì đem nó về, rất sẵn lòng!. Trưởng thôn tất nhiên là sụp xuống lạy tạ chúng tôi. Ông hiểu không, y không thể ngờ có được hạnh phúc như thế. Còn con bé thì đương nhiên là nó khóc, cái trò con trẻ ngu dại ấy mà. Nhưng kể ra thì lúc đầu cũng hơi đáng sợ thật: rời bỏ nhà cha mẹ... nói chung thì... cũng chẳng có gì là lạ. Nhưng nó quen rất mau với chúng tôi. Thoạt tiên chúng tôi đưa nó vào khu dành cho bọn hầu gái, và cố nhiên là nó được dạy dỗ bảo ban. Ông có biết thế nào không?... Con bé tấn tới kỳ lạ. Vợ tôi thực sự là mê nó, thương nó, và cuối cùng, đã ban cho nó một đặc ân vượt qua cả các ả hầu gái khác: lấy nó vào hầu hạ chính bản thân mình... xin ông chú ý cho!... Và cũng phải công bằng mà nói rằng nhà tôi chưa từng có một cô hầu nào như thế, đúng là chưa từng có: tận tụy, nhũn nhặn, ngoan ngoãn, tóm lại là có đủ mọi đức tính cần thiết. Nhưng thú thực là vợ tôi cũng nuông nó quá: mặc thì cho mặc những thứ đẹp, ăn cùng với chủ, cùng ngồi uống trà... không còn nuông chiều cách nào hơn được nữa! Nó hầu hạ nhà tôi được mươi năm không có điều tiếng gì. Thế rồi, một buổi sáng kia, ông thử tưởng tượng xem, Arina - tên nó là Arina - xộc vào phòng làm việc của tôi, không hề xin phép trước gì cả, và sụp xuống dưới chân tôi... Nói thực với ông, tôi không thể chịu nổi cái cung cách đó. Con người không bao giờ được quên phẩm giá của mình, phải thế không? - Cô cần gì? https://thuviensach.vn - Thưa ông Alêcxanđr Xilưts, ông là bậc cha, xin ông ban cho con một ân huệ. - Gì thế? - Xin ông cho con đi lấy chồng. Thú thực là tôi kinh ngạc. - Này, đồ ngốc ạ, cô cũng biết là bà nhà ta không còn người hầu gái nào khác chứ? - Con sẽ hầu hạ bà như trước. - Nói nhảm! Nói nhảm? Bà không bao giờ dùng người hầu có chồng. - Malanhya có thể thay chân con. - Thôi đừng biện bạch nữa. - Con đâu dám trái ý ông. . . Thực tình là tôi sửng sốt quá. Nói để ông biết, tính tôi như thế này: tôi dám nói rằng không cái gì xúc phạm đến tôi ghê gớm hơn lòng vô ơn... Chẳng nói ông cũng thừa rõ vợ tôi là người thế nào: một thiên thần bằng xương bằng thịt, một tấm lòng vàng không thể nào cắt nghĩa được... Có lẽ một kẻ tàn ác nhất cũng phải mềm lòng trước con người nhân đức ấy. Tôi đuổi Arina ra. Tôi cho rằng nó sẽ tỉnh ngộ. Ông biết không, tôi không muốn tin rằng con người ta lại có thể độc ác, vong ân bội nghĩa. Ông nghĩ sao? Thế rồi nửa năm sau, nó lại đến cầu xin tôi vẫn về chuyện ấy. Lần này thì tôi nổi giận đuổi nó ra và dọa sẽ nói cho vợ tôi biết. Tôi phẫn nộ. . . Nhưng ông thử tưởng tượng xem tôi ngạc nhiên đến thế nào: ít lâu sau, vợ tôi đến gặp tôi, nước mắt chan hoà, xúc động đến nỗi tôi sợ hãi. "Có chuyện gì xảy ra thế?" - Arina... Mình hiểu không... Nói ra phát ngượng lên được... - Lẽ nào! ... Đứa nào thế? - Thằng hầu Pêtruska! Tôi tức điên lên. Tính tôi vốn... tôi không ưa những biện pháp nửa vời!... Pêtruska... hắn không có lỗi. Trừng phạt hắn thì được thôi, nhưng theo tôi thì hắn không có lỗi. Arina, thì... ồ, còn phải nói gì nữa? Tất nhiên tôi lập https://thuviensach.vn tức ra lệnh gọt đầu ả, cho mặc xống áo bằng vải gai thô và tống khứ về làng. Vợ tôi mất một đứa hầu gái tuyệt diệu, nhưng làm thế nào được, không thể dung túng tình trạng hỗn độn trong nhà. Cánh tay đã bị thối thì cứ cắt phăng đi là hơn... Nào, bây giờ thì ông tự xét xem, ông cũng biết vợ tôi đấy, đó là... đó là... xét cho cùng thì là một thiên thần!... Vợ tôi quyến luyến Arina, Arina biết điều đó và không hề lấy làm hổ thẹn...Thế nào? Ồ không, ông nói đi. . . thế nào? Còn phải bàn gì nữa! Đành phải như vậy thôi, không có cách gì hơn. Thái độ vong ân bội nghĩa của đứa con gái đó khiến tôi buồn bực mãi không thôi. Muốn nói gì thì nói... cảm xúc, tình cảm là những thứ ta không thể tìm thấy ở bọn người đó. Cho chó sói ăn như thế nào đi nữa thì nó vẫn ngong ngóng nhìn vào rừng. .. Đấy là một bài học kinh nghiệm! Nhưng tôi chỉ muốn chứng minh với ông rằng... Và ông Zverkôp không nói hết lời, quay mặt đi, kéo lại chiếc áo khoác cho sát vào người hơn nữa, dũng cảm đè nén nỗi bất bình cuồn cuộn dâng lên trong vòng ông. Bây giờ thì hẳn là bạn đọc hiểu vì sao tôi lại nhìn Arina với niềm thương cảm như vậy. - Cô lấy người này đã lâu chưa? - Cuối cùng tôi hỏi. - Hai năm rồi ạ. - Vậy ra ông chủ cũng cho phép cô lấy chồng à? - Em được chuộc ra. - Ai chuộc? - Xavêli Alêcxêiêvits. - Anh ta là ai? - Chồng em. (Ermôlai cười thầm). Ông chủ nói chuyện với ông về em hay sao? - Arina nói thêm, sau một lúc im lặng. Tôi không biết trả lời câu hỏi của chị ta ra sao. "Arina"! - Người chủ cối xay lớn tiếng gọi từ đằng xa. Chị ta đứng lên, đi. https://thuviensach.vn - Chồng cô ta có tốt không? - Không đến nỗi tồi. - Họ có con không? - Có một đứa con trai, nhưng bỏ rồi. - Cô ta chắc cũng được chồng thương yêu đấy nhỉ?... Tay này chuộc cô ta có tốn nhiều tiền lắm không? - Con không biết. Cô ta biết chữ. Trong công việc của họ thì... điều đó đôi khi cũng có ích. Hẳn là gã vừa lòng về cô ta. - Anh quen cô ta lâu chưa? - Lâu rồi ạ. Trước kia con thường lui tới nhà chủ cô ta. Trang trại của họ cách đây không xa. - Anh biết Pêtruska chứ? - Pêtr Vaxiliêvits ấy à? Có chứ. - Bây giờ hắn ở đâu? - Hắn đăng lính rồi. Chúng tôi im lặng. - Hình như cô ta không được khỏe thì phải? - Cuối cùng tôi hỏi Ermôlai. - Khỏe cái nỗi gì!... Ngày mai đi chyaga có lẽ tốt lắm đấy. Bây giờ ông ngủ một giấc hẳn là ngon. Bầy vịt trời bay qua trên đầu chúng tôi, cánh vỗ gió vi vút, và chúng tôi nghe thấy chúng hạ xuống sông cách chúng tôi không xa. Đã tối hẳn và bắt đầu lạnh. Trong rừng hoạ mi hót lên điệu nhạc thánh thót, du dương. Chúng tôi rúc vào đống cỏ khô và ngủ thiếp đi. https://thuviensach.vn MẠCH NƯỚC DŨM HƯƠNG Khoảng đầu tháng tám, thời tiết nóng nực kinh người: Vào kỳ này, từ mười hai giờ trưa đến ba giờ chiều, người kiên quyết nhất và chuyên tâm nhất cũng không thể đi săn được, và con chó trung thành nhất cũng bắt đầu "liếm gót giày chủ", nghĩa là đi bước một theo sau chủ, mắt nheo lại như bị đau, lưỡi thè lè; và để đáp lại những lời trách móc của chủ, nó khúm núm vẫy đuôi và lộ vẻ bối rối, nhưng không chạy lên phía trước. Tôi đã có dịp đi săn chính trong một ngày như thế. Tôi cưỡng lại hồi lâu cái ý muốn cám dỗ xui tôi tìm một chỗ rợp mát nằm nghỉ, dù chỉ trong chốc lát. Con chó không biết mệt của tôi vẫn tiếp tục sục sạo hồi lâu trong các bụi cây, mặc dù chính nó có lẽ cũng không hề mong đợi hoạt động ráo riết ấy sẽ đem lại cái gì có ích. Cái nóng ngột ngạt cuối cùng đã buộc tôi phải nghĩ đến việc gìn giữ chút sức lực và khả năng cuối cùng của chúng tôi. Tôi gắng lần đến sông Ixta, con sông mà các bạn đọc độ lượng của tôi đã biết. Tôi xuống bờ dốc, và đi trên cát vàng ẩm, tới chỗ mạch nước nguồn nổi tiếng khắp các vùng lân cận, mang tên là Mạch nước dũm hương. Nguồn nước này vọt ra từ một kẽ nứt trên bờ mà dần dần đã biến thành một cái khe nhỏ và sâu; cách đây chừng hai chục bước, mạch nước reo vui ồn ào, đổ vào sông. Sồi non mọc thành cụm chi chít trên sườn khe. Gần nguồn nước, cỏ mọc xanh tốt, thấp và mượt như nhung. Ánh nắng mặt trời hầu như không bao giờ chạm tới làn nước lạnh trắng bạc của con suối nguồn này. Tôi đến được chỗ nguồn nước. Trên cỏ có một cái gầu bằng vỏ cây phong mà một người mujich qua đường đã để lại cho mọi người dùng chung. Tôi uống nước nguồn, nằm trong bóng rợp và nhìn xung quanh. Gần cái vụng nhỏ do nguồn nước đổ vào sông tạo nên và vì vậy lúc nào cũng gợn sóng lăn tăn, có hai ông già ngồi quay lưng về phía tôi. Một người khá mập và cao, mặc áo kafơtan màu lá mạ thẫm khá tươm tất, đội mũ mềm có lưỡi trai, đang câu cá Người kia gầy gò, nhỏ nhắn, mặc áo dài xẻ vạt https://thuviensach.vn bằng vải mukhôiar ([13]) đã vá nhiều chỗ, không đội mũ, kẹp giữa hai đầu gối một bình đựng giun làm mồi câu và thỉnh thoảng đưa tay xoa mái đầu bạc, như muốn che nắng. Tôi nhìn người đó chăm chú hơn và nhận ra đấy là Xtêpuska ở Sumikhinô. Xin cho tôi giới thiệu người đó với bạn đọc. Cách làng tôi mấy dặm, có một làng lớn tên là Sumikhinô với một ngôi nhà thờ bằng đá dựng lên để thờ thánh Kôzima và Đamian. Xưa kia, đối diện với nhà thờ là một toà nhà to, đẹp của lãnh chúa, xung quanh là những căn nhà phụ, xưởng thợ, chuồng ngựa, nhà trồng cây ([14]) và nhà để xe, nhà tắm, nhà bếp tạm thời, những gian đầu hồi dành cho khách và cho những người quản lý, những nhà lồng kính trồng hoa, những cột đu và những căn nhà khác ít nhiều có ích. Ở trong tòa nhà ấy là những địa chủ giàu có, và họ sống mới yên vui sung sướng làm sao, cho tới một buổi sáng kia, cái thiên đường ấy bỗng cháy sạch sành sanh. Các ông chủ dọn đi ở nơi khác; khu nhà bỏ hoang. Bãi tro tàn mênh mông biến thành một vườn rau đây đó rải rác những đống gạch chồng chất, di tích của những nền nhà trước kia. Người ta lấy những súc gỗ còn nguyên vẹn, dựng vội một túp nhà gỗ, lợp bằng ván thuyền mua từ mười năm trước, định để làm một cái quán theo phong cách gôtich. Bác thợ làm vườn Mitơrôfan cùng với vợ là Acxinhya và bảy đứa con được đưa đến ở đấy! Mitơrôfan được lệnh phải cung cấp hoa quả và rau cho bếp ăn của ông chủ ở cách đây một trăm năm mươi dặm. Acxinhya thì có nhiệm vụ coi sóc con bò cái thuộc loại bò giống Tirôn mua ở Matxcơva với món tiền rất lớn, nhưng tiếc rằng đã mất mọi khả năng sinh sản, vì thế từ lúc mua về đến giờ chưa hề cho sữa. Người ta cũng còn trao tận tay cho chị một con vịt đực màu tro xám có chòm lông trên đầu, con vật duy nhất thuộc loại gia cầm "của ông chủ". Trẻ con vì còn nhỏ tuổi, nên không được trao nhiệm vụ nào cả, điều đó khiến chúng đâm ra hoàn toàn lười nhác. Tôi đã có dịp ngủ đêm hai lần ở nhà người làm vườn này. Nhiều lần đi qua nhà ông, tôi đã mua của ông những quả dưa chuột mà chỉ có trời biết là tại sao ngay cả về mùa hè, chúng cũng to khác thường, có https://thuviensach.vn vị ung ủng và vỏ dày, vàng choé. Chính ở nhà ông ta, lần đầu tiên tôi đã gặp Xtêpuska. Ngoài Mitơrôfan cùng gia đình và một viên bõ nhà thờ già và điếc tên là Ghêraxim, sống vì Chúa trong căn buồng nhỏ của một người vợ lính chột mắt, khắp vùng Sumikhinô không còn một gia nhân nào của nhà địa chủ, vì Xtêpuska, người mà tôi định giới thiệu với bạn đọc, không thể coi là người nói chung, cũng không thể coi là gia nhân nhà địa chủ nói riêng. Mỗi người đều có ít ra một địa vị nào đó trong xã hội, và dầu sao cũng có những mối quan hệ này nọ. Mỗi gia nhân, nếu không có tiền công thì ít nhất cũng có cái gọi là "thực phẩm được cấp phát". Xtêpuska thì chẳng được cấp đỡ gì cả, chẳng có họ hàng với ai, chẳng ai biết ông ta sinh sống ra sao. Con người này thậm chí không có cả quá khứ, người ta không nói đến ông ta; những lần kiểm tra dân đinh, ông ta không được kể đến. Có tin đồn vu vơ rằng xưa kia ông ta là bồi phòng của một người nào không rõ. Nhưng ông ta là người thế nào, từ đâu đến, con ai, làm sao lại lọt vào trong số dân đinh Sumikhinô, ông ta làm cách nào kiếm được chiếc áo dài xẻ vạt bằng vải mukhôiar mà ông ta vẫn mặc từ đời thuở nào đến giờ, ông ta ở đâu, sống bằng gì - điều đó chẳng ai hay biết tí gì, mà cũng chẳng ai bận tâm đến những câu hỏi ấy. Cụ Tơrôifimts, một người biết gia hệ tất cả các tôi tớ nhà địa chủ ngược lên cho đến đời thứ tư mà cũng chỉ nói rằng đâu như Xtêpan là do một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ sinh ra. Đức ông lữ trưởng ([15]) Alêxây Rômanưts đã quá cố, sau một cuộc viễn chinh trở về đã đem theo người đàn bà này trong đoàn xe tải. Ngay cả trong những ngày hội, mà theo phong tục cổ của nước Nga, tất cả gia nhân đều được ban thưởng và được no say, được ăn bánh ngọt bằng bột lúa mạch và được uống rượu màu lục cất bằng các loại cỏ thì Xtêpuska cũng không bén mảng đến gần những chiếc bàn đã bày biện món ăn và những thùng rượu, không cúi chào chủ và đến hôn tay chủ, không uống thẳng một hơi hết cạn cốc rượu trước mắt ông chủ để chúc mừng sức khỏe của chủ, cốc rượu do bàn tay béo mỡ của người quản lý rót đầy. Xtêpuska không được hưởng tí gì, trừ phi có một người tốt https://thuviensach.vn bụng nào đi qua bớt cho kẻ khốn khổ một mẩu bánh ngọt ăn dở. Vào ngày lễ Phục sinh, người ta ôm hôn nhau, và cũng ôm hôn cả Xtêpuska nữa, nhưng ông ta không xắn cao ống tay áo đầy vệt mỡ, không moi trong túi sau ra quả trứng đỏ của mình, không vừa thở hổn hển vừa hấp háy mắt, đem quả trứng đến cho các cậu con chủ hay thậm chí cho cả bà chủ. Mùa hè, ông ta ở trong gian chứa đồ phía sau chuồng gà, còn mùa đông, ông ở trong gian để quần áo trước khi vào nhà tắm. Đêm nào rét lắm thì ông ngủ ở nhà chứa cỏ. Người ta nhìn ông đã quen mắt, đôi khi thậm chí còn đá cho ông một cái nhưng chẳng ai nói chuyện với ông, còn ông dường như cả đời chưa hề mở miệng ra bao giờ. Sau vụ cháy đã nói, con người bị ruồng bỏ này đến ở nhờ, hay như người buôn thường nói, đến "trú ngụ" ở nhà ông làm vườn Mitơrôfan. Người làm vườn không động đến ông ta, không bảo ông ta cứ ở cũng không đuổi ông ta. Mà thực ra Xtêpuska cũng không ở nhà Mitơrôfan: ông ta quanh quẩn ở vườn rau như cái bóng không hình. Ông ta đi lại và cử động êm ru, hắt hơi và ho thì đưa tay bịt miệng với vẻ sợ sệt. Lúc nào ông ta cũng bận rộn và lẳng lặng làm cái gì như con kiến. Và tất cả là để ăn, chỉ để ăn. Mà đúng là nếu Xtêpuska của tôi không chăm lo từ sáng đến tối về việc ăn uống của mình thì ông sẽ chết đói mất. Thật là cực nếu như buổi sáng ra không biết buổi chiều ta sẽ lấy gì để lấp cho đầy dạ dày? Khi thì Xtêpuska ngồi dưới dẫy rào và gặm một củ cải hay mút củ cà rốt, hay giậm một cây bắp cái bẩn thỉu cho nát vụn ra; khi thì ông ta xách gầu nước đi đâu không rõ và thở hì hụi; khi thì ông ta nhóm lửa để đun cái nồi đất con và lấy những miếng gì đen đen ở khoang ngực áo và ném vào nồi, khi thì ông ta dùng một khúc gỗ gõ cành cạch trong chỗ ở của mình, đóng một chiếc đinh, làm một cái giá treo nhỏ để miếng bánh mì của mình. Ông ta làm tất cả những việc đó một cách lặng lẽ, dường như lén lút: vừa thoáng nhìn đã không thấy ông ta đâu. Có khi ông ta bỗng vắng mặt vài ngày; tất nhiên chẳng ai nhận thấy sự vắng mặt của ông ta... Rồi lại thấy ông ta ở đây, lại thấy ông ta len lén vất những mảnh vỏ bào vào dưới cái giá treo nồi ở một chỗ cạnh hàng rào. Mặt ông ta choắt, mắt hơi vàng, tóc dài chấm tới lông mày, mũi nhọn, tai quá to, trông https://thuviensach.vn như tai dơi, râu đường như hai tuần chưa cạo, và không bao giờ thưa hơn, cũng không bao giờ rậm hơn. Tôi đã gặp chính Xtêpuska ấy đang ngồi trên bờ sông Ixta cùng với một ông già khác. Tôi đến gần họ, chào hỏi và ngồi xuống cạnh họ. Tôi nhận ra ông bạn của Xtêpuska cũng là một người quen. Đó là một nông nô được giải phóng, trước là người của bá tước Piôtr Ilits. Tên ông ta là Mikhailô Xaveliep, biệt hiệu là Tuman ([16]). Ông ta ở nhà một tiểu chủ mắc bệnh lao, người này là người vùng Bônkhôpxki, chủ một nhà trọ mà tôi thường hay đừng lại nghỉ. Cho đến nay khi đi xe trên đường cái lớn của tỉnh Orion, những viên chức trẻ tuổi và những người bình dân khác (không kể những thương gia nằm lút người trong những túi đệm lông bọc vải kẻ sọc của mình và không thiết gì đến mọi sự đời) vẫn có thể nhận thấy ở cách làng Tơrôit không xa, có một tòa nhà gỗ hai tầng rất lớn, hoàn toàn bỏ hoang, mái sụt đổ, các cửa sổ đóng kín mít. Tòa nhà này ăn lan ra tận đường cái. Buổi trưa, vào những ngày quang tạnh nắng ráo, không thể tưởng tượng ra một cái gì buồn hơn cảnh hoang phế này. Hồi xưa, bá tước Piôtr Ilits ở đây. ông ta là một vị đại thần giàu có thuộc thế kỷ trước, một người nổi tiếng mến khách. Có khi cả giới quý tộc tỉnh kéo đến nhà ông ta, nhảy múa và vui chơi thoả thích giữa tiếng nhạc thô thiển inh tai nhức óc và tiếng nổ giòn của các loại pháo hoa. Có lẽ bây giờ, khi đi qua tòa dinh cơ bỏ hoang của viên quan lớn, nhiều bà lão sẽ thở dài nhớ lại thời dĩ vãng và tuổi trẻ đã qua. Nhiều năm ròng, bá tước sống cuộc đời ăn chơi sung sướng, ông thường mỉm cười niềm nở, đi lại giữa đám khách khứa kính nể ông. Nhưng bất hạnh thay, tài sản của ông không đủ dùng suốt đời. Khi đã khánh kiệt, ông đi Pêtecxbua tìm một chức việc và chết trong căn phòng khách sạn mà vẫn chưa có được một quyết định bổ nhiệm nào cả. Tuman là quản gia của ông và được làm giấy giải phóng ngay khi ông còn sống. Đấy là một người khoảng chừng bảy mươi tuổi, khuôn mặt đều đặn, dễ mến. Ông ta hầu như luôn luôn mỉm cười, bây giờ chỉ những người thời Ekatêrina mới mỉm cười như vậy: cười một cách nhân hậu, trang trọng. https://thuviensach.vn Khi nói chuyện, ông ta thong thả chìa môi ra và mím lại, nheo mắt thật âu yếm và nói hơi pha giọng mũi. - Thế nào, ông Mikhailô Xaliêvits - Tôi mở đầu câu chuyện - ông câu cá đấy ư? - Xin ông nhìn vào giỏ mà xem: hai con pecca, và năm con cá rói... Đưa cho ông xem, Xtepka. Xtêpuska chìa cái giỏ cho tôi xem. - Ông sống thế nào, ông Xtêpan? - Tôi hỏi ông ta. - Cũng... c - u - ũng... tạm được, thưa ông, tùng tiệm thôi - Xtêpan trả lời ngắc ngứ, như dùng lưỡi đẩy bật ra từng lời nặng hàng pút. - Thế Mitơrôfan có khỏe không? - Kh- khỏe ạ, c-c-ố nhiên rồi... thưa ông. Ông lão nghèo quay đi. " Không hiểu sao cá ít cắn tệ, - Tuman lên tiếng - Trời nóng quá. Cá rúc cả vào bụi cây để ngủ . Móc giun đi, Xtêpan (Xtêpuska lấy một mồi giun, đặt lên lòng bàn tay, nhổ vào bàn tay hai cái, -móc mồi vào lưỡi câu, nhổ bọt vào lưỡi câu và đưa cho Tuman). Cảm ơn, Xtêpa. Thưa ông - ông ta nói vôi tôi - ông đi săn đấy ạ? - Thì ông thấy đấy. - Dạ vâng. . . Thế chó của ông là loại chó gì đấy? Giống chó Anh hay chó Đan Mạch ạ? Khi có dịp, ông già thích tỏ ra thình là người thông thạo: xưa kia chúng tôi đã từng sống trong giới thượng lưu đấy chứ! - Tôi không biết nó thuộc giống chó nào, nhưng nó là con chó rất hay. - Dạ vâng... Thế ông vẫn đem chó đi săn đấy ạ. - Tôi có hai đôi. Tuman mỉm cười và lắc đầu. - Ấy thế đấy! Có người rất thích chó, có người thì cho không họ cũng chẳng cần. Cứ theo cái đầu óc thô thiển của tôi thì tôi cho rằng nuôi chó chỉ là để cho oai hơn mà thôi, nếu có thể nói như vậy...Kể cũng nên làm sao cho https://thuviensach.vn đủ lệ bộ: cả ngựa, cả những người quản chó đều phải có đủ, phải tươm tất, mọi cái khác đều cũng phải thế. Nói thực là ngài bá tước đã quá cố cả đời chưa từng bao giờ đi săn cả - cầu cho ngài được lên thiên đàng! - ấy thế mà ngài nuôi chó và mỗi năm hai lần, ngài vẫn làm ra bộ sửa soạn đi săn. Những người quản chó mặc áo đỏ có đính lon tụ tập ở sân và thổi kèn. Ngài bá tước bước ra, người ta dắt ngựa đến hầu ngài. Ngài lên ngựa, còn người điều khiển cuộc đi săn giúp ngài cho chân vào bàn đạp, nhấc chiếc mũ mềm trên đầu mình ra, đặt dây cương lên mũ và dâng lên ngài. Ngài quất chiếc roi da đánh đét một cái, còn những người quản chó hò hét và chạy biến ra khỏi sân. Người hầu ngựa ([17]) cưỡi ngựa đi sau bá tước, tay cầm sợi dây lụa buộc vào cổ dề hai con chó quý của chủ, và anh ta đưa mắt quan sát mới oai vệ chứ, hẳn ông cũng biết đấy... Anh ta ngồi ngất nghểu trên cái yên ngựa Côdăc, má đỏ hồng, cặp mắt đưa đẩy. Và tất nhiên, dịp này thường có khách khứa. Vừa là cuộc vui lý thú, lại vừa long trọng... ôi chao, xổng mất rồi, thật là ngớ ngẩn! Ông ta giật cần câu, và bỗng nói thêm. - Này, nghe đồn bá tước ăn chơi ghê lắm phải không? - Tôi hỏi. Ông già nhổ bọt vào mồi giun và quăng dây câu. - Ngài là một bậc đại quý, rõ là như thế. Những bậc có thể nói là vai vế nhất ở Pêtecxbua thường đến thăm ngài. Các vị ấy đeo những cuống huân chương màu xanh, ngồi bên bàn tiệc. Còn ngài bá tước thì chúa là hay thết tiệc. Có lần, ngài gọi tôi tới: "Tuman - Ngài nói - ngày mai cần có cá xteclê sống: anh hãy ra lệnh kiếm bằng được cho tôi, nghe chưa? " - "Dạ, xin vâng, thưa ngài". Ngài đặt mua từ Paris những chiếc áo thêu, những bím tóc giả, những chiếc can, nước hoa lađêcôlôn ([18]) hạng nhất, những hộp đựng thuốc lá ngửi, những bức tranh to ơi là to. Khi ngài mở tiệc lớn thì lạy trời; đấng chúa tể của đời tôi! - pháo hoa như sao sa, trò chơi trượt băng. Thậm chí còn bắn cả đại bác. Chỉ riêng đội nhạc đã có đến bốn chục người rồi. Ngài nuôi một nhạc tràng([19]) người Đức, gã người Đức này lên nước quá lắm: y muốn ăn cùng với các ông lớn; thế là ngài ra lệnh tống khứ y đi: chẳng cần y thì nhạc công của ta cũng hiểu rõ công việc của họ rồi, ngài https://thuviensach.vn bảo thế. Uy quyền của lãnh chúa thì ai mà chả biết. Người ta khiêu vũ, khiêu vũ thâu đêm suốt sáng, và được ưa chuộng nhất vẫn là điệu...lakôxezơ – matơrađura ([20])... Hè, hè... chú mày bị rồi!(ông già giật lên được một con cá mang mổ nhỏ). Này, Xtêpa... Một vị quý tộc, một vị quý tộc xứng đáng. - Ông già nói tiếp và lại quăng dây câu - và cũng nhân đức nữa. Có khi ngài đánh chúng tôi, đánh rồi là quên ngay. Duy có điều là ngài bao các ả nhân tình. Ôi, những ả nhân tình ấy, cầu Chúa xá lỗi cho ngài! Chính họ đã làm ngài khuynh gia bại sản. Mà ngài chọn toàn những ả thuộc tầng lớp hèn kém. Bọn họ được như thế tưởng còn mong gì hơn nữa? Ấy vậy mà không đâu, phải cho họ những thứ đắt tiền nhất châu Âu kia! Kể thì cũng phải thôi: tội gì mà không ... hưởng hết lạc thú trên đời, thế mới xứng là người quyền quý...nhưng không nên vung tay quá trán đến nỗi khuynh gia bại sản. Có một cô nàng thật đặc biệt: tên cô ta là Akulina; bây giờ thì là người thiên cổ rồi, cầu cho bà ta được lên thiên đàng! Đấy là một cô gái con nhà dân thường, con một viên trương tuần ở Xitôp, vậy mà đáo để lắm nhé! Có khi cô ta tát bá tước. Cô ta đã làm cho bá tước si mê. Thằng cháu trai tôi bị cô ta khiến cho phải gọt trán ([21]). Đúng thế... Nhưng dù sao thời ấy vẫn là một thời tốt đẹp! - ông già nói thêm, thở dài, cúi mặt xuống và im bặt. - Theo tôi biết, ông chủ của ông nghiêm khắc lắm phải không? - Tôi nói, sau một lúc im lặng. - Đấy là kiểu cách được ưa thích thời bấy giờ, thưa ông. - Ông già lắc đầu, bác lại tôi. -Bây giờ thì không như thế nữa - Tôi nói, mắt vẫn nhìn ông ta. - Bây giờ thì đã đành là khá hơn - ông ta nói lúng búng và quăng dây câu ra xa. Chúng tôi ngồi trong bóng rợp, nhưng ngay trong bóng rợp cũng vẫn cảm thấy ngột ngạt. https://thuviensach.vn Không khí nặng nề, oi ả như không hề chuyển động. Mặt nóng bừng bừng, buồn rầu chờ đón gió, nhưng không có lấy một phẩy gió. Từ trên bầu trời xanh đã trở nên sẫm màu, vừng dương rọi xuống những tia nắng gay gắt. Ở bờ bên kia, ngay trước mặt chúng tôi là cánh đồng lúa mạch vàng rực, rải rác đây đó chồi lên những đám ngải, và không có lấy một bông lúa lay động. Xuống dưới chút nữa, một con ngựa của nông dân đứng dưới sông, nước ngập đến gối, uể oải vẫy cái đuôi ướt. Thỉnh thoảng, dưới bụi cây là là thấp trên mặt nước, một con cá lớn ngoi lên, nhả tăm và nhẹ nhàng lặn xuống đáy, để lại những làn gợn lăn tăn. Dế nhảy tanh tách trong đám cỏ màu đỏ hung. Chim cun cút cất tiếng kêu như miễn cưỡng. Những con diều hâu bay lượn nhịp nhàng trên cánh đồng và thường dừng lại ở một chỗ, cánh đập nhanh và đuôi xòe ra như cái quạt. Chúng tôi ngồi không nhúc nhích, mệt lử vì nóng nực. Bỗng có tiếng động ở cái khe phía sau chúng tôi: có người đang đi xuống chỗ mạch nước. Tôi ngoảnh lại nhìn và thấy một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, bụi bám đầy người, mặc sơ mi, đi giày bằng vỏ cây, khoác cái bị và vai vắt chiếc áo khoác. Người đó tới gần nguồn nước, uống một cách thèm thuồng rồi đứng lên. - Này, Vlax! - Tuman gọi to, sau khi đã nhìn kỹ người đó - Chào ông bạn. Chúa đưa ông từ đâu đến đấy. - Chào ông Mikhailô Xaliêvits. - Người mujich vừa nói vừa đến gần chúng tôi - Tôi từ xa về. - Ông đi đâu biệt tăm thế? - Tuman hỏi ông ta. - Tôi lên Matxcơva, tìm gặp ông chủ. - Để làm gì? - Tôi lên kêu cầu một việc. - Việc gì vậy? - Xin ông chủ giảm tô hay đưa tôi sang làm tạp dịch, hay truyền cho tôi đi đâu thì đi... Con trai tôi chết rồi, bây giờ một mình tôi không kham nổi. - Con trai ông mất rồi à? https://thuviensach.vn - Mất rồi. Trước đây con tôi làm nghề đánh xe ở Matxcơva - Người mujich nói thêm, sau một lúc im lặng - Phải nói thực là nó trả tô thay cho tôi. - Thế ra bây giờ ông làm theo chế độ tô rồi à? - ông chủ bảo sao? - Bảo sao ấy à? ông chủ đuổi tôi ra và bảo: sao mày dám xộc thẳng vào gặp ta, việc này đã có viên quản lý, mày phải trình với quản lý trước đã... mà ta chuyển mày đi làm việc gì được bây giờ? Mày hãy nộp đủ phần còn thiếu đi đã. Ông ấy nổi trận lôi đình. - Thế là ông đành quay trở lại chứ gì? - Thế là tôi đành quay về. Tôi toan dò hỏi xem thằng con tôi chết đi có để lại của cải gì không, nhưng chẳng có kết quả gì. Tôi nói với ông chủ của nó: "Tôi là bố của Filip đây". Còn ông ấy bảo tôi: "Ta làm sao mà biết được? Vả lại con trai ngươi chẳng để lại cái gì; nó còn nợ ta là đằng khác". Thế là tôi đành ra về. Người mujich kể với chúng tôi tất cả những chuyện đó với nụ cười mai mỉa như nói về người khác, nhưng đôi mắt nhỏ nheo lại của ông long lanh giọt lệ, đôi môi giật giật. - Bâygiờ ông làm thế nào, về nhà chứ? - Chứ còn đi đâu nữa? Tất nhiên là về nhà thôi. Vợ tôi bây giờ hẳn là đói bò lê ra rồi đấy. - Ông nên. . . ờ. . . - Xtêpuska đột nhiên lên tiếng, rồi bối rối, im bặt và bắt đầu lục bới trong cái niêu con đựng mồi câu. - Thế ông sẽ đến gặp viên quản lý chứ? - Tuman nói tiếp, nhìn Xtêpa, vẻ hơi ngạc nhiên. - Tôi đến gặp ông ta làm gì kia chứ? ... Tôi vẫn còn đang thiếu tô cơ mà. Trước khi chết, con trai tôi ốm chừng một năm, vì thế nó không nộp được phần tô của nó... Tôi tuy rủi mà vẫn còn may: tôi chẳng có cái gì để người ta lấy đi được... Chà, ông quản lý ạ, ông muốn mưu mẹo thế nào mặc lòng, ông không moi nổi tí gì đâu: tôi vốn quen nhẫn nhục mà? (Gã mujich cười https://thuviensach.vn phá lên). Ông muốn khôn khéo thế nào thì khôn khéo, Kintilyan Xêmênưts ạ, chỉ toi công thôi... Vlax lại bật cười. - Sao lại thế, như vậy là không tốt đâu, chú Vlax ạ - Tuman nói rành từng tiếng. - Không tốt cái gì kia? Không. . . (tiếng nói của Vlax bặt đi một lúc). Nóng nực kinh người - ông ta nói tiếp và đưa tay áo lên lau mặt. - Chủ của ông là ai? Tôi hỏi. - Bá tước Valêrian Pêtơrôvits. - Con trai Piôtr Ilits à? - Con trai Piôtr Ilits - Tuman đáp - Ngài bá tước đã quá cố đem làng ông Vlax trao cho con trai ngay từ khi ngài còn sống. - Ông ấy khỏe chứ? - Nhờ ơn Chúa, ông ấy vẫn khỏe - Vlax đáp Hồng hào lắm, mặt cứ múp lên. - Thế đấy, ông ạ - Tuman tiếp lời, nói với tôi - Thu tô của nông dân quanh Matxcơva thì cũng phải thôi chứ lấy tô ở đây thì có gì mà lấy. - Thế mỗi hộ ([22]) phải nộp bao nhiêu? - Chín mươi nhăm rúp - Vlax nói lí nhí. - Đấy ông thấy không. Thế mà ruộng đất thì có gì đâu, chỉ toàn là rừng của ông chủ thôi. - Mà ngay cả rừng nghe đâu cũng bán rồi - Người mujich nói. - Đấy, ông thấy không. . . Xtêpa, cho mồi đây. . .Thế nào, Xtêpa? Sao, anh ngủ đấy à? Xtêpuska giật mình. Người mujich đến ngồi cạnh chúng tôi. Chúng tôi lại im lặng. Ở bờ bên kia, có người nào cất tiếng hát ngân nga, bài hát rất não nề. . . Vlax khốn khổ của tôi trở nên rầu rĩ. . . Nửa giờ sau, chúng tôi chia tay nhau. https://thuviensach.vn NGƯỜI THẦY THUỐC Ở HUYỆN Có lần vào mùa thu, trên đường về sau một chuyến đi săn ở nơi xa, tôi bị cảm lạnh và đâm ốm. May thay, tôi lên cơn sốt ở huyện lỵ, trong một khách sạn. Tôi cho người đi tìm bác sĩ. Nửa giờ sau, viên thầy thuốc ở huyện đến. Anh ta tầm vóc nhỏ, gầy tóc đen. Anh ta kê cho tôi một thứ thuốc ra mồ hôi thường dùng, bảo đặt thuốc cao hột cải, và luồn đồng năm rúp vào ve tay áo một cách rất khéo léo, nhưng đồng thời ho khan một tiếng và nhìn ra chỗ khác. Anh ta đã toan ra về thì tự nhiên lại thích nói chuyện và ở lại. Cơn sốt làm tôi mệt lử; tôi thấy trước một đêm mất ngủ và rất vui sướng được tán gẫu với một người tốt bụng. Người ta đưa trà lên. Người bác sĩ của tôi bắt đầu nói chuyện. Anh ta là một gã trai không đần chút nào, nói năng hoạt bát và rất lý thú. Trên đời này thường xảy ra những việc lạ lùng: có người thì ta chung sống lâu dài với họ, có quan hệ thân thiết với họ, nhưng chưa lần nào nói chuyện tâm tình với họ; có người khác thì vừa mới quen nhau, ta hoặc người đó đã thổ lộ hết tâm can như lúc thú tội. Tôi không biết tôi có cái gì đáng cho người bạn mới của tôi tin cậy, có điều là tự dưng vô cớ, như người ta thường nói, anh ta bỗng kể với tôi một câu chuyện khá đặc sắc. Bây giờ tôi xin thuật lại với bạn đọc hào hiệp câu chuyện anh ta kể. Tôi sẽ cố dùng cách nói của người thầy thuốc. Anh ta bắt đầu nói, giọng bỗng yếu đi và run run (đấy là do tác dụng của thuốc lá Bêrêzôp không pha trộn). - Thưa ông, ông có biết ông thẩm phán Paven Lukits Milôp ở đây không ạ? Ông không biết ư...Thôi, cũng chẳng sao. (Anh ta ho và giụi mắt). Câu chuyện là thế này, không biết ông sẽ có ý kiến ra sao, nhưng tôi không bịa đặt đâu. Hôm ấy là vào tuần chay, giữa kỳ tuyết tan. Tôi đến chơi nhà ông thẩm phán của chúng tôi và đang chơi bài. Ông thẩm phán của chúng tôi là người rất tốt và thích chơi bài. Bỗng nhiên (người thầy thuốc của tôi thường dùng tiếng: bỗng nhiên) người ta bảo tôi: có người hỏi ông. Tôi hỏi: người https://thuviensach.vn ấy cần gì? Người ta nói là người đó đưa đến một lá thư, chắc là của người ốm. Tôi bảo đưa thư cho tôi: đúng thế thư của người ốm. Tốt thôi, ông hiểu chứ, miếng bánh ăn hàng ngày của chúng tôi mà... Sự tình là thế này: một bà địa chủ góa viết giấy cho tôi; đại khái là: con gái tôi sắp chết, vì đức Chúa của chúng ta, xin mời ông đến thăm bệnh giúp, và tôi cho xe ngựa đến đón ông. Điều đó cũng chưa có gì đáng chú ý. . . Nhưng bà ta ở cách huyện lỵ hai chục dặm, (lại giữa đêm hôm như thế, mà đường sá thì khiếp lên được? Thêm nữa, bà ta cũng đang lâm vào cảnh nghèo túng, không thể trông đợi bà ta bỏ ra quá hai rúp được, mà ngay hai rúp cũng chưa chắc, có khi chỉ được ít vải và ít hạt gì đó. Nhưng, ông hiểu đấy, nhiệm vụ trên hết: người bệnh sắp chết. Tôi bỗng trao bài cho Kanlôpin, một chân dự bị lúc nào ông có mặt ở đây, và tôi trở về nhà. Tôi thấy một chiếc xe ngựa nhỏ đỗ trước bực tam cấp. Ngựa thì đúng là ngựa của nông dân: bụng to phệ, lông y hệt như dạ ép, còn người đánh xe thì ngồi không đội mũ để tỏ ý kính trọng tôi. Tôi nghĩ: người anh em ạ, rõ ràng chủ anh không phải là đang giẫm trên vàng bạc... Ông cười ư, nhưng tôi xin nói với ông rằng: bọn nhà nghèo chúng tôi là hay để ý lắm kia... Nếu người đánh xe ngồi như ông hoàng, không vò mũ trong tay, thỉnh thoảng lại cười dưới vòm râu và ve vẩy roi thì cứ mạnh bạo giã hai tờ mười đồng! Còn đây thì không có hơi hướng tiền bạc gì cả. Nhưng làm thế nào được, bổn phận trên hết, tôi nghĩ vậy. Tôi lấy những thứ thuốc cần thiết nhất và ra đi. Ông nên biết rằng tôi phải trầy trật lắm mới lần được đến nơi. Đường sá quái ác: suối, tuyết, bùn, hồ nước, rồi đột nhiên lại vỡ đê nữa chứ, thật là tai ách. Nhưng tôi đến nơi rồi. Một căn nhà nhỏ lợp rơm. Các cửa sổ có ánh sáng: chắc người ta đang chờ. Tôi vào. Một bà lão hết sức đáng kính, đội mũ chùm đầu ra đón tôi. Bà ta nói. "Xin ông cứu lấy con gái tôi, nó sắp chết rồi". Tôi nói: - Bà đừng lo. . . cô gái ốm đâu - "Xin mời ông vào đây." Tôi quan sát: căn buồng nhỏ sạch sẽ, trong góc nhà có cây đèn, một cô gái trạc hai mươi tuổi nằm mê man trên giường. Người cô ta bốc hơi nóng hừng hực, cô thở hổn hển: đang lên cơn sốt. Ở đấy có hai cô em, coi bộ sợ hãi, nước mắt chan hoà. Họ nói: "Hôm qua chị ấy còn khỏe mạnh và ăn ngon miệng. Sáng https://thuviensach.vn hôm nay chị ấy kêu đau đầu, đến chiều thì đột nhiên bị như thế..." Tôi lại nói: "Xin đừng lo" - Ông biết đấy, người thầy thuốc thì phải làm như thế thôi, và tôi bắt đầu thăm bệnh. Tôi trích máu cho cô ta, bảo người ta đặt cao hạt cải, kê đơn sắc thuốc. Lúc đó tôi nhìn cô ta, tôi nhìn và ông biết không, xin thề là tôi chưa từng thấy khuôn mặt nào như thế. . . tóm lại là đẹp tuyệt trần! Tình thương bỗng dậy lên trong lòng tôi. Nét mặt duyên dáng làm sao, đôi mắt... Kìa, nhờ ơn Chúa, nàng đã đỡ mệt, mồ hôi toát ra, hình như nàng đã hồi tỉnh, đưa mắt nhìn quanh, mỉm cười, đưa tay quờ lên mặt... Hai cô em cúi xuống hỏi: "Chị thấy trong người thế nào?" - "Chẳng sao cả" - nàng nói và quay đi. Tôi thấy nàng thiêm thiếp ngủ. Thôi được bây giờ nên để người bệnh được yên tĩnh. Tất cả chúg tôi rón rén đi ra ngoài, chỉ còn một cô hầu phòng ở lại để trông nom người ốm. Còn trong phòng khách thì trên bàn đã đặt ấm xamôva, có cả chai rượu Rum nữa: trong công việc của chúng tôi, thiếu cái đó thì không được. Người ta pha trà mời tôi, nài tôi nghỉ lại đây. . . tôi ưng thuận: đi đâu được bây được? Bà già luôn mồm rên rỉ. "Sao lại thế, thưa bà- tôi nói - cô ấy sẽ sống, xin bà đừng lo, tốt hơn hết là bà cũng đi nghỉ đi: đã một giờ hơn rồi!". -Nhưng nếu có chuyện gì xảy ra, ông sẽ bảo người nhà đánh thức tôi chứ?" - "Dạ vâng, thế nào tôi cũng bảo người nhà mời bà đến ạ!". Bà già lui gót, còn các cô gái cũng về phòng mình. Người ta trải giường cho tôi trong phòng khách. Tôi đi nằm nhưng không thể ngủ được, kỳ lạ làm sao? Lòng tôi đau khổ khôn cùng! Hình ảnh cô gái ốm cứ lởn vởn trong tâm trí tôi. Cuối cùng, không nén lòng được, tôi bỗng trở dậy. Tôi nghĩ: ta đi xem xem con bệnh như thế nào. Buồng của nàng ở ngay cạnh phòng khách. Thế là tôi trở dậy, khẽ mở cửa, tim tôi đập thình thịch. Tôi thấy: ả hầu phòng ngủ, miệng há hốc và còn ngáy ầm lên nữa chứ, đồ súc vật. Còn người ốm nằm quay mặt về phía tôi, hai tay khua lung tung, khổ thân nàng? Tôi đến gần... Nàng bỗng mở choàng mắt và nhìn chằm chằm vào tôi..."Ai đấy? Ai đấy?" Tôi ngượng. "Đừng sợ, thưa tiểu thư - tôi nói - tôi là bác sĩ, tôi đến thăm xem sức khỏe của tiểu thư như thế nào. - "Ông là bác sĩ à"? - "Vâng, bác sĩ ... thân mẫu tiểu thư đã cho người lên huyện đón tôi về; chúng tôi đã trích https://thuviensach.vn máu cho tiểu thư; bây giờ xin tiểu thư ngủ đi một chút, nhờ ơn Chúa, vài ngày nữa chúng tôi sẽ làm cho tiểu thư trở dậy được" - "À, vâng, vâng, thưa bác sĩ, xin đừng để tôi chết... làm ơn cứu chữa cho tôi" - "Sao tiểu thư lại nói thế, Chúa phù hộ cho tiểu thư!" Nàng lại sốt rồi, tôi nghĩ thầm. Tôi bắt mạch: đúng là lên cơn sốt. Nàng nhìn tôi, và tự dưng bỗng nắm lấy tay tôi."Tôi xin nói với ông tại sao tôi không muốn chết . . .bây giờ chỉ có tôi với ông mà thôi. Miễn là ông đừng nói lại với ai... ông nghe nhé...". Tôi cúi xuống. Nàng ghé môi sát tận tai tôi, chạm tóc vào má tôi. Thú thật là tôi choáng váng cả đầu óc. Nàng thì thầm. Tôi chẳng hiểu gì...à, đây là nàng nói sảng. . .Nàng thì thầm, thì thầm, nói câu cuối rất nhanh và hình như không phải bằng tiếng Nga, rồi giật nảy người lên, buông rơi đầu xuống gối và giơ ngón tay đe tôi. "Nhớ nhé, ông bác sĩ, chớ nói với ai...". Tôi lựa lời nói cho nàng yên tâm, cho nàng uống nước, đánh thức ả hầu phòng và đi ra. Đến đây, người thầy thuốc lại hăm hở hít thuốc lá và ngẩn người ra một lát. Anh ta kể tiếp: - Nhưng, trái với niềm mong đợi của tôi, hôm sau người ốm vẫn không đỡ. Tôi nghĩ ngợi mãi, và cuối cùng quyết định ở lại, tuy có những khách hàng khác đang đợi tôi. Mà ông biết đấy, chuyện đó không thể xem thường được đâu, như vậy có thể mất khách hàng...Nhưng, một là người ốm thực sự sang nguy kịch, hai nữa, phải nói thực là chính tôi cảm thấy mến thương nàng vô cùng. Thêm vào đó, tôi mến cả gia đình nhà nàng. Họ tuy không giàu, nhưng có học thức, có thể nói là hiếm thấy một gia đình có học như thế...ông bố là người thông thái, trước vẫn viết sách... ông ta mất rồi, cố nhiên là mất trong cảnh nghèo túng, nhưng ông đã kịp truyền lại cho các con một nền giáo dục tuyệt diệu; và cũng để lại nhiều sách. Không biết có phải vì tôi sốt sắng chăm sóc người ốm hay vì nguyên nhân gì khác, nhưng tôi dám nói rằng tôi được yêu quý như người ruột thịt...Trong lúc đó, tình trạng đường sá thật là kinh khủng: mọi đường đi lối lại bị cắt đứt hoàn toàn... ngay thuốc men cũng phải khó khăn lắm mới kiếm được ở huyện về. https://thuviensach.vn . .người ốm không khỏi bệnh...Ngày này sang ngày khác. Nhưng rồi ...lúc đó...(Người thầy thuốc im lặng một lát). Thực tình tôi không biết bày tỏ với ông thế nào nữa.. . (Anh ta lại hít thuốc lá, khà một tiếng, và hớp một ngụm trà). Chẳng cần rào đón quanh co làm gì, tôi xin nói với ông rằng người bệnh của tôi...nói thế nào được nhỉ...ờ, có lẽ nàng yêu tôi mà không, không phải là yêu... vả chăng...thực tình thì... (Người thầy thuốc gằm mắt xuống và đỏ mặt lên). - Không - anh ta nói tiếp với vẻ sôi nổi - yêu cái nỗi gì kia chứ! Cuối cùng thì cần biết rõ giá trị của mình. Nàng là một cô gái có học thức, thông minh, đọc nhiều biết rộng, còn tôi thì thậm chí quên cả thứ tiếng Latinh của mình, quên sạch. Còn về dung mạo của tôi (người thầy thuốc mỉm cười nhìn mình) thì hình như cũng không có gì đáng khoe. Được cái là trời cũng không bắt tôi làm thằng ngốc: tôi sẽ không gọi trắng là đen, tôi cũng sáng ý ít nhiều. Chẳng hạn, tôi hiểu rất rõ rằng Alêcxanđra Anđrêepna - tên nàng là Alêcxanđra Anđrêepna - không yêu tôi đâu, tình cảm của nàng đối với tôi là tình thân mến, có thể nói như vậy, hay là sự kính mến. Tuy có lẽ về điểm này, chính nàng đã nhầm, nhưng lúc ấy bệnh tình của nàng như thế kia mà, ông thử nghĩ xem ...Vả chăng - người thầy thuốc nói thêm, suốt từ nãy, anh ta nói tất cả những câu rời rạc ấy mà không nghỉ lấy hơi và vẻ bối tối lộ rõ ra mặt - hình như tôi kể lể hơi dông dài... kể như vậy thì ông không thể hiểu gì được... còn bây giở thì ông cho phép tôi kể với ông tất cả câu chuyện cho có đầu đuôi. Anh ta uống nốt cốc trà và nói bằng giọng điềm tĩnh hơn. - Vâng, như thế đấy. Người ốm của tôi ngày càng lâm vào tình trạng nguy kịch hơn. Thưa ông, ông không phải là thầy thuốc, ông không thể hiểu được cái gì diễn ra trong tâm hồn những người thầy thuốc chúng tôi, đặc biệt là khi thầy thuốc bắt đầu đoán ra rằng cơn bệnh đang áp đảo mình. Lòng tự trọng biến đi đâu mất! Ta bỗng trở nên rụt rè hết chỗ nói! Ta có cảm giác rằng ta quên hết mọi thứ ta biết, rằng người ốm không tin cậy ta nữa và những người khác cũng bắt đầu nhận thấy ta bối rối, họ miễn cưỡng báo cho ta biết các triệu chứng bệnh, họ nhìn ta gườm gườm, thì thào về ta... chao ôi, thật là khó chịu! Ta nghĩ: vẫn có thuốc chữa cái bệnh này chứ, chỉ https://thuviensach.vn cần tìm cho ra thôi! Có phải thứ thuốc này không? Ta dùng thử và thấy là không, không phải! Ta không để cho thuốc có thời gian gây tác dụng đầy đủ...khi thì ta vớ lấy thuốc này, khi thì vồ lấy thứ thuốc kia... Có khi ta cầm lấy cuốn sách thuốc... à đây rồi, ta nghĩ, chính nó đây rồi! Thú thực là đôi khi ta mở hú họa: cầu may một cái xem sao, ta nghĩ, có số cả đấy... Trong lúc đó thì người bệnh đi dần đến chỗ chết; nhưng người thầy thuốc khác chưa biết chừng sẽ cứu được người bệnh cũng nên. "Cần có cuộc hội chẩn, ta nghĩ; ta không gánh lấy trách nhiệm làm gì". Trong những trường hợp như thế, nom bộ dạng ta mới ngớ ngẩn làm sao? Nhưng dần dà ta sẽ quen đi, không có gì đáng bận nữa. Người bệnh chết không phải lỗi tại ta: ta đã làm đúng mọi chỉ định. Nhưng còn điều này vẫn giày vò ta: ta thấy mọi người gửi gắm ở ta một niềm tin mù quáng, vậy mà ta cảm thấy ta không có khả năng cứu chữa người bệnh. Cả gia đình Alêcxanđra Anđrêepna gửi gắm ở tôi một niềm tin chính như thế. Họ quên hẳn là con gái họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm. Về phía tôi, tôi cũng cam kết với họ rằng không có gì đáng lo, nhưng trong thâm tâm, tôi lo vô chừng. Đã rủi lại rủi thêm: đường sá bị hỏng nhiều đến nỗi có khi người đánh xe phải đi suốt mấy ngày mới lấy được thuốc về. Còn tôi thì không rời khỏi phòng người ốm, tôi không dứt ra được, tôi kể cho nàng nghe những chuyện cười, chơi bài với nàng. Đêm thì tôi ngồi ở ghế. Bà lão ứa nước mắt cảm ơn tôi, tôi thầm nghĩ: "Tôi không xứng đáng với lời cảm ơn của cụ! Thú thực với ông, bây giờ chẳng cần giấu giếm làm gì - tôi mê con bệnh của tôi - Alêcxanđra Anđrêepna cũng quyến luyến tôi: nàng không cho ai vào buồng, trừ tôi ra. Nàng chuyện trò với tôi, hỏi tôi trước đây học ở đâu, hiện sống thế nào, cha mẹ tôi là ai, tôi thường hay lui tới nhà ai. Tôi cảm thấy rằng nàng không nên nói chuyện nhiều, nhưng cấm nàng nói, cấm một cách dứt khoát thì... tôi không đủ gan làm việc đó. Đôi khi tôi vò đầu bứt tai: "Mi đang làm gì đấy, thằng tướng cướp kia?". Có khi nàng cầm tay tôi và giữ rất lâu, nàng nhìn tôi, nhìn mãi không dứt, rồi quay đi, thở dài và nói: "Ông tốt quá!" Tay nàng nóng rực, đôi mắt to mệt mỏi. Nàng nói: "Ông là người tốt bụng, tử tế, https://thuviensach.vn ông không như những người láng giềng của chúng tôi... không, không phải là người như thế... Sao mãi đến giờ tôi mới biết ông!" - "Alêcxanđra Anđrêepna, xin cứ yên tâm tôi cảm thấy tấm thịnh tình của tiểu thư, hãy tin tôi, tôi không rõ là tôi đã làm gì để xứng đáng với tình cảm ấy...nhưng tiểu thư yên tâm, vì Đức Chúa nhân từ, xin tiểu thư hãy yên tâm... mọi việc rồi sẽ tốt đẹp, tiểu thư sẽ khỏe lại". Tuy nhiên - người thầy thuốc nói thêm, khom người về phía trước và dướn cao đôi lông mày - phải nói rõ với ông rằng họ ít giao du với những người xung quanh, là vì những người thấp kém thì không xứng với họ, còn những người giàu thì...sự kiêu hãnh của gia đình không cho phép họ giao du với những người giàu. Tôi vẫn nói với ông rằng đây là một gia đình có học thức cao, và ông biết đấy, điều đó phỉnh nịnh lòng tự ái của tôi. Nàng chỉ dùng thuốc do chính tay tôi đưa đến...Nàng nhổm dậy, có tôi giúp sức thêm, cô nàng đáng thương, nàng uống thuốc và ngước mắt nhìn tôi... tim tôi rơi đâu mất. Nhưng nàng càng ngày càng mệt nặng hơn: nàng chết mất, tôi nghĩ, nhất định nàng sẽ chết mất thôi. Không biết ông có tin tôi không, tôi sẵn sàng chết thay cho nàng. Nhưng lúc này thì bà mẹ và các cô em đang quan sát thái độ của tôi, nhìn vào mắt tôi... và lòng tin cậy đối với tôi đang mất đi. "Sao? Thế nào?" - "Không sao, không có gì đáng ngại" Nhưng cái gì đáng ngại thì chẳng thể hiểu được. Có một đêm, tôi ngồi canh người ốm, lại vẫn chỉ có mình tôi trong phòng. Người hầu gái cũng ngồi đấy và ngáy như kéo gỗ... Cũng không thể trách mắng cô hầu gái đáng thương được: cô ta cũng mệt mỏi quá rồi. Alêcxanđra Anđrêepna mệt nặng suốt buổi chiều, cơn sốt hành hạ nàng. Nàng cứ vật vã mãi đến nửa đêm. Cuối cùng nàng dường như ngủ thiếp đi, ít ra nàng cũng không cựa quậy nữa, nàng nằm yên. Ngọn đèn trong góc nhà, trước ảnh thánh vẫn cháy sáng. Tôi ngồi cúi mặt xuống và cũng thiêm thiếp ngủ. Bỗng nhiên dường như có ai thúc vào sườn tôi, tôi quay lại... Trời ơi! Alêcxanđra Anđrêepna mở to mắt nhìn tôi... môi hé mở, má đỏ bừng. "Tiểu thư làm sao vậy?" - "Bác sĩ ơi, tôi sẽ chết chứ?" - "Ồ không, Chúa che chở cho tiểu thư!" - "Không, bác sĩ ơi không, xin đừng nói với tôi rằng tôi sẽ sống...xin đừng nói... nếu ông biết được... hãy nghe https://thuviensach.vn tôi, vì Chúa Trời, xin đừng giấu tôi về bệnh tình của tôi! Nàng thở gấp - Nếu tôi biết chắc rằng tôi phải chết thì tôi sẽ nói hết với ông, nói hết!" - "Alêcxanđra Anđrêepna, đừng nghĩ thế!" – "Hãy nghe tôi nói, nào tôi có ngủ đâu, tôi ngắm nhìn ông đã lâu...nhân danh Chúa, tôi tin ông, ông là người tốt, ngay thẳng, tôi xin viện tất cả những gì thiêng liêng trên đời ra mà thề với ông rằng tôi tin ông, ông hãy nói thật với tôi đi! Nếu ông biết điều đó đối với tôi quan trọng như thế nào...Bác sĩ ơi, ông hãy vì Chúa mà nói đi, tôi đang ở trong tình trạng nguy hiểm phải không?" - "Tôi biết nói gì với tiểu thư được, Alêcxanđra Anđrêepna, tiểu thư nghĩ xem!" - "Vì Chúa, tôi van ông!" - "Alêcxanđra Anđrêepna, tôi không thể giấu tiểu thư được, đúng là tiểu thư đang ở trong tình trạng nguy hiểm, nhưng đức Chúa lòng lành..." - "Tôi sẽ chết, tôi sẽ chết...". Và nàng dường như mừng rỡ, mặt nàng trở nên vui vẻ. Tôi sợ hãi. "Ông đừng sợ, đừng sợ, cái chết không làm tôi khiếp đảm chút nào". Nàng bỗng nhổm dậy và chống một khuỷu tay lên. "Bây giờ... bây giờ tôi có thể nói với ông rằng tôi hết lòng biết ơn ông, ông là người tốt bụng, tử tế, tôi yêu ông..." Tôi nhìn nàng, ngây ra như kẻ mất trí. Tôi khiếp sợ, ông biết đấy..." – "Ông nghe thấy không, tôi yêu ông..." "Alêcxanđra Anđrêepna, tôi không xứng đáng được như vậy!" - "Không, không, ông không hiểu tôi, anh không hiểu em..." Bỗng nhiên, nàng giơ hai tay ra, ôm lấy đầu tôi và hôn... Xin cam đoan với ông là tôi suýt hét lên... tôi quỳ thụp xuống và úp mặt vào gối. Tôi nghe thấy tiếng nàng khóc. Tôi bắt đầu an ủi nàng, cam kết rằng... thực quả tôi cũng không biết tôi đã nói với nàng những gì nữa. "Alêcxanđra Anđrêepna - tôi nói - nên gọi người hầu gái dậy...cám ơn tiểu thư...hãy tin tôi, cứ yên tâm" - "Thôi đủ rồi, đủ rồi - nàng nhắc lại – "Cần gì những người khác; ừ thì họ sẽ thức giấc, sẽ kéo đến, và cũng chẳng làm gì; đằng nào em cũng chết... Còn anh can gì mà rụt rè, anh sợ cái gì nào?" Anh ngẩng đầu lên đi... Hay có lẽ ông không yêu tôi có lẽ tôi lầm... nếu vậy thì thứ lỗi cho tôi" - "Alecxanđra Anđrêepna, tiểu thư nói gì thế?... tôi yêu tiểu thư". Nàng nhìn thẳng vào mắt tôi, dang rộng hai tay. "Thế thì ôm hôn em đi...". Nói thực với ông: tôi không hiểu vì sao đêm ấy tôi không phát điên. Tôi cảm thấy người bệnh của tôi đang tự giết mình. Tôi thấy nàng không hoàn toàn tỉnh trí. Tôi cũng hiểu rằng nếu nàng https://thuviensach.vn không tự coi là mình sắp chết thì nàng sẽ không nghĩ đến tôi. Bởi vì muốn thế nào thì thế, chết giữa tuổi hai mươi mà chưa được yêu thì thật đáng sợ: chính cái đó giày vò nàng, chính vì lý do ấy, vì tuyệt vọng mà nàng vơ lấy tôi, bây giờ thì ông hiểu rồi chứ? Nàng cứ ôm riết lấy tôi, không chịu buông ra. "Hãy thương lấy tôi, Alêcxanđra Anđrêepna, và thương lấy thân mình" - "Có ích gì, và thương tiếc gì mới được chứ? Đằng nào em cũng chết kia mà...! Nàng luôn miệng nhắc lại điều đó. "Nếu như em biết em sẽ sống và lại được coi là một trong những cô gái đứng đắn thì có lẽ em sẽ xấu hổ đấy, đúng là sẽ xấu hổ... chứ bây giờ thì cần gì?" - "Nhưng ai bảo với tiểu thư rằng tiểu thư sẽ chết?" - "Ồ, không, đủ rồi, anh không đánh lừa được em đâu, anh không biết nói dối, anh hãy tự nhìn anh xem" - "Tiểu thư sẽ sống, Alêxandra Anđrêepna ạ, tôi sẽ chữa cho tiểu thư khỏi bệnh. Rồi chúng ta sẽ xin mẹ cho chúng ta làm lễ cưới . Chúng ta sẽ gắn bó với nhau bằng những sợi dây thiêng liêng, chúng ta sẽ sung sướng" - "Không, không, em đã buộc anh phải nói ra, em nhất định sẽ chết...anh đã báo trước...anh đã nói với em...". Tôi đau xót trong lòng, đau xót vì nhiều lẽ ông thử nghĩ xem, đôi khi vẫn xảy ra những điều kỳ lạ như thế đấy. Câu chuyện dường như không có gì đáng kể, vậy mà lại khiến ta đau đớn. Nàng lại nảy ra ý nghĩ hỏi tên tôi, không hỏi họ, mà hỏi tên. Thật đáng buồn, tên tôi lại là Tơrifôn. Vâng, đúng thế. Tơrifôn Ivanưts. Trong nhà, mọi người đều gọi tôi là bác sĩ. Không biết làm thế nào, tôi đành nói: "Tên tôi là Tơrifôn, tiểu thư ạ". Nàng nheo mắt, lắc đầu và thì thầm điều gì bằng tiếng Pháp - ôi, đấy là triệu chứng chẳng lành - rồi nàng bật cười, như thế cũng chẳng phải là điều hay. Tôi đã ngồi với nàng gần suốt đêm, một đêm đau khổ. Đến sáng, khi ra khỏi buồng nàng, tôi như điên như dại. Mãi đến trưa, sau bữa trà, tôi mới trở lại buồng nàng. Trời ơi, lạy Chúa tôi! Không thể nhận ra nàng được nữa: mặt nàng nhợt như mặt người chết. Xin lấy danh dự thề với ông rằng bây giờ tôi còn phải nghiến răng quằn quại ba ngày đêm nữa...và ba đêm như thế nào kia chứ? Nàng đã nói với tôi những gì?... Còn trong đêm cuối cùng, ông hãy tưởng tượng xem, tôi ngồi cạnh nàng và chỉ cầu Chúa ban cho một điều: cầu Chúa mau mau đem nàng đi, và đem cả tôi https://thuviensach.vn đi nữa... Bỗng nhiên bà mẹ xộc vào buồng... Hôm trước, tôi đã nói với bà lão rằng không có mấy hy vọng qua khỏi được, tình hình nguy kịch, và cũng nên mời giáo sĩ đi. Vừa thấy mẹ, cô gái ốm liền nói: "Hay quá, mẹ đã đến...mẹ xem chúng con đây này, chúng con yêu nhau, chúng con đã thề thốt với nhau - "Nó nói gì thế, bác sĩ, nó nói gì thế ?" Tôi chết sững cả người. "Tiểu thư nói sảng, lên cơn sốt đấy ạ..." Còn nàng nói: "Thôi đi, thôi đi, bây giờ anh lại nói với em khác hẳn, anh đã nhận nhẫn em trao... Giả tảng làm gì? Mẹ em hiền từ lắm, mẹ sẽ tha thứ, mẹ sẽ hiểu, em sắp từ giã cõi đời, em cần gì phải nói dối, anh hãy trao tay cho em..." Tôi bật dậy và chạy ra ngoài. Cố nhiên bà lão đã đoán ra. - Nhưng thôi, tôi sẽ không làm ông mệt mỏi lâu hơn nữa, và thực tình là chính tôi cũng đau lòng khi nhớ lại tất cả câu chuyện đó. Hôm sau, người bệnh của tôi tắt thở. Cầu cho nàng được lên thiên đàng! (Người thầy thuốc nói nhanh và thở dài). Trước khi chết, nàng bảo người nhà ra ngoài để tôi ở lại một mình với nàng. Nàng nói: "Tha thứ cho em, có lẽ em có lỗi với ông... bệnh tật... nhưng xin hãy tin em... em chưa hề yêu ai hơn ông... đừng quên em... giữ lấy chiếc nhẫn của em...". Người thầy thuốc quay đi, tôi cầm lấy tay anh. - Chà! - Anh ta nói - ta nói chuyện gì khác đi hay ông có muốn chơi ván bài nhỏ không? Ông biết đấy những người như chúng tôi không nên thả mình theo những tình cảm cao quý như thế. Bọn chúng tôi chỉ nên nghĩ đến một điều: làm thế nào để con cái đừng kêu khóc oai oái và vợ đừng la rầy. Vì cho đến nay, tôi đã lập gia đình, một cuộc hôn nhân hợp pháp, như người ta thường nói... Đúng thế...tôi lấy con gái một thương nhân: bảy ngàn đồng hồi môn. Tên người đó là Akulina; Tơrifôn xứng đôi vừa lứa với một cô ả như thế. Tôi phải nói với ông rằng ả là một đàn bà độc ác, được cái là ả ngủ suốt ngày...Thế nào, ta chơi bài chứ ạ? Chúng tôi chơi bài, ăn mỗi điểm một cô pếch. Tơrifôn Ivanưts được tôi hai rúp rưỡi và anh ta về muộn, rất hài lòng về thắng lợi của mình. https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn ÔNG BẠN LÁNG GIỀNG RAĐILÔP CỦA TÔI Mùa thu, dẽ gà thường trú trong những khu vườn bồ đề lâu đời. Ở tỉnh Orion chúng tôi có khá nhiều khu vườn như thế. Cha ông chúng tôi, khi chọn chỗ ở, bao giờ cũng dành ra hai đêxiatin đất tốt để làm vườn quả có lối đi hai bên trồng bồ đề Chừng năm chục năm sau, nhiều lắm là bảy chục năm, những khu trang viên, "những tổ quý tộc" ấy, dần dần biến khỏi mặt đất, nhà cửa mục nát hay bị bán để dỡ đi nơi khác, những căn nhà phụ bằng đá biến thành những đống đổ nát; những cây táo chết dần và bị đẵn làm củi, hàng rào các loại bị phá hủy hết. Chỉ riêng những cây bồ đề vẫn ung dung sinh sôi nảy nở và bây giờ, nằm lọt giữa những cánh đồng đã cày vây bọc bốn bề, chúng tỉ tê với lớp con em nhẹ dạ của chúng ta về "những bậc cha anh đã khuất". Cây bồ đề cổ thụ là thứ cây tuyệt đẹp. Ngay cả lưỡi rìu tàn nhẫn của người nông dân Nga cũng tiếc thương nó. Lá bồ đề nhỏ nhắn, cành cây to khỏe xòe rộng về mọi phía, tỏa bóng rợp quanh năm ngày tháng dưới gốc cây. Có lần, cùng với Ermôlai lang thang qua các cánh đồng săn gà gô, thấy một khu vườn bỏ hoang ở mé bên, tôi liền đến đấy. Tôi vừa đi vào rìa vườn thì một con dẽ gà từ bụi cây bay vụt lên. Tôi nổ súng, và ngay lúc đó, cách tôi mấy bước, có tiếng thét vang lên: khuôn mặt sợ hãi của một cô gái trẻ ló ra sau đám cây và lập tức biến mất. Ermôlai chạy đến gần tôi. "Sao ông lại bắn ở đây, đây là khu nhà ở của một địa chủ". Tôi chưa kịp trả lời Ermôlai, và con chó của tôi, với dáng điệu trang trọng quý phái, chưa kịp đem con chim bị bắn đến cho tôi thì tôi đã nghe thấy tiếng bước chân mau lẹ, và một người tầm vóc cao, có ria mép từ một bụi rậm đi ra và dừng lại trước mặt tôi vẻ bất bình. Tôi hết lời xin lỗi, tự xưng danh và biếu ông con chim tôi đã bắn được trong khu đất của ông. - Thôi được, - ông ta mỉm cười nói với tôi - tôi sẽ nhận con vật ông săn được, nhưng chỉ với một điều kiện: ông sẽ ở lại dùng bữa trưa với chúng https://thuviensach.vn tôi. Thực tình là tôi không thích thú lắm về lời mời của ông ta, nhưng từ chối thì không xong. - Tôi là một địa chủ ở đây và là láng giềng của ông. Rađilôp, có lẽ ông đã từng nghe nói đến. - Người quen mới của tôi nói tiếp - Hôm nay chủ nhật, bữa ăn của tôi hẳn là sẽ khá, nếu không tôi đã chẳng dám mời ông. Tôi đáp lại bằng những lời người ta thường nói trong những dịp tương tự và đi theo ông ta. Con đường nhỏ mới dọn sạch chẳng mấy chốc đã đưa chúng tôi ra khỏi khu rừng bồ đề. Chúng tôi vào vườn rau. Giữa những gốc táo già và những bụi lý gai sum sê, những cây bắp cải tròn xoe phơi màu xanh tươi mơn mởn; hốt bố quấn vòng quanh những cây cọc cao; trên các luống đất tua tủa những que màu nâu, xung quanh chằng chịt dây đậu đã khô héo quấn rối vào nhau; những quả bí lớn dường như bị vứt lăn lóc trên mặt đất; dưa chuột vàng tươi lấp ló dưới những chiếc lá góc cạnh và bụi bậm. Một cây tầm ma cao đu đưa trên dãy rào; đôi ba chỗ, nhẫn đông, hương mộc, tầm xuân mọc từng cụm: di tích của những "bồn hoa" trước kia. Cạnh cái ao con thả cá, chứa đầy thứ nước đỏ nhạt và lầy nhầy, tôi thấy một cái giếng xung quanh là những vũng nước nhỏ. Mấy con vịt vùng vẫy và sục mỏ trong những vũng nước ấy một cách bận rộn. Một con chó run như cày sấy và lim dim mắt gặm một khúc xương trên bãi cỏ. Một ả bò cái đốm lang uể oải vặt cỏ ngay tại đấy, thỉnh thoảng lại quật đuôi lên tấm lưng gầy guộc. Con đường nhỏ quặt sang phía bên; từ sau những cây liễu và những cây phong, một ngôi nhà nhỏ cũ kỹ, quét vôi xám, mái lợp vải... bậc tam cấp đã hư hại, ló ra nhìn chúng tôi. Rađilôp dừng lại. - Nhưng thôi - ông ta nhìn thẳng vào mặt tôi với vẻ hiền hậu, nói - bây giờ tôi đã đổi ý. Có thể ông không muốn đến nhà tôi chút nào, nếu vậy thì... - Tôi không để ông ta nói hết lời và cam kết với ông ta rằng trái lại, tôi rất vui lòng được dùng bữa tại nhà ông. - Vâng, xin tùy ông. Chúng tôi' vào nhà. Một gã trẻ tuổi, mặc Kafơlan dài bằng dạ xanh dày cộp đón chúng tôi ở bậc tam cấp. Rađilốp lập tức bảo gã mang vôtka đến https://thuviensach.vn cho Ermôlai. Người thợ săn của tôi kính cẩn cúi chào sau lưng ông chủ hào hiệp. Qua căn phòng ngoài có dán những bức tranh sặc sỡ và treo những lồng chim, chúng tôi vào một căn phòng nhỏ phòng làm việc của Rađilôp. Tôi tháo bỏ những đồ lề đi săn, dựng đứng vào góc nhà; một gã trai mặc áo dài vạt phủi bụi áo quần cho tôi rất chu đáo. - Nào, bây giờ ta vào phòng khách đã - Rađilôp nói một cách dịu dàng - Tôi sẽ giới thiệu ông với mẹ tôi. Tôi đi theo ông ta. Trong phòng khách, một bà già ngồi trên chiếc đi văng giữa. Bà ta nhỏ người, mặc áo dài nâu, đội mũ trùm trắng, khuôn mặt gầy và hiền từ, ánh mắt rụt rè và buồn rầu. - Đây thưa mẹ, con xin giới thiệu: ông khách này là người láng giềng của chúng ta. Bà lão hơi nhóm lên và cúi chào tôi, đôi tay gầy guộc vẫn không rời cái túi xách tay bằng len thô đan dày. - Ông đến thăm vùng chúng tôi lâu chưa ạ? - Bà lão hỏi, giọng khẽ và yếu ớt, mắt chớp chớp liên hồi. - Dạ, cũng mới thôi. - Ông có định lưu lại đây lâu không? - Tôi định ở đến mùa đông. Bà lão im lặng. - Còn đây - Rađilôp tiếp lời, vừa nói vừa chỉ một người cao gầy mà khi vào phòng khách, tôi không nhận thấy - đây là Fêđo Mikhêits...Nào, Fêđya, trổ tài cho khách xem đi. Sao lại chúi vào góc nhà làm gì? Fêđo Mikhêits lập tức rời ghế đứng lên, lấy cây đàn viôlông cũ kỹ trên cửa sổ, cầm lấy cây vĩ - không cầm ở đầu như người ta thường làm, mà cầm quãng giữa - tì cây đàn vào ngực, nhắm mắt, và bắt đầu vừa múa vừa hát một khúc ca và kéo đàn cò cưa. Ông ta nom chừng bảy mươi tuổi; cái áo xẻ vạt dài bằng vải Nam kinh lủng lẳng đến đáng buồn cười trên đôi vai xương xẩu gầy đét của ông ta. Ông ta nhảy múa; khi thì lắc mình một cách hiên ngang, khi thì dường như lịm đi, lắc lư cái đầu nhỏ nhắn hói tóc, vươn dài https://thuviensach.vn cái cổ nổi gân chằng chịt, giậm chân tại chỗ, đôi khi uốn khuỷu đầu gối với vẻ khó nhọc trông thấy. Cái miệng không răng của ông ta phát ra một giọng già yếu. Có lẽ, nhìn vẻ mặt tôi, Rađilôp đoán được rằng "tài nghệ" của Fêđya không làm cho tôi thích thú lắm. - Thôi được, tốt rồi, ông già ạ, đủ rồi - ông ta nói - ông có thể đi lấy phần thưởng cho mình. Fêđo Mikhêits lập tức đặt cây đàn lên cửa sổ, cúi chào tôi trước vì tôi là khách, rồi chào bà lão, chào Rađilôp và trở ra. - Trước ông ta cũng là một địa chủ đấy - Người bạn mới của tôi nói tiếp - và cũng giàu có, nhưng đã phá sản, bây giờ ông ta ở đây với tôi... Vậy mà hồi xưa ông ta được coi là tay ăn chơi nhất tỉnh đấy; ông ta đã hai lần cuỗm mất vợ của người khác, ông ta nuôi ban đồng ca, bản thân ông ta hát múa rất cừ... Nhưng ông uống vôtka chứ ạ? Bữa ăn đã dọn ra bàn rồi đấy. Một cô gái trẻ - chính là cô gái mà tôi đã thoáng nhìn thấy trong vườn - bước vào phòng. - Đây là Olya! - Rađiôp hơi quay đầu lại và nói - Xin giới thiệu với ông... Nào, ta đi ăn thôi. Chúng tôi vào phòng ăn, ngồi vào bàn. Trong lúc chúng tôi rời khỏi phòng khách và ngồi vào bàn ăn thì Fêđo Mikhêits mắt long lanh và mũi hơi đỏ lên vì đã thưởng thức "phần thưởng", đang cao giọng hát: "Hãy vang dội lên tiếng sấm chiến thắng!" Người ta bày cho ông ta một bộ đồ ăn riêng trên chiếc bàn con không trải khăn bàn đặt ở góc nhà. Ông già đáng thương không thể hãnh diện về sự sạch sẽ, trang nhã của mình, nên bao giờ người ta cũng để ông ta ngồi riêng xa mọi người một chút. Ông ta làm dấu thánh, buông một tiếng thở dài và bắt đầu ăn như cá mập. Bữa ăn quả là khá ngon, và bởi vì là bữa ăn ngày chủ nhật, nên không thể không có thịt đông lùng nhùng và thứ bánh ngọt tên là "Gió Tây Ban Nha." Rađilôp đã từng phục vụ mười năm trong một trung đoàn bộ binh và đã từng tham gia cuộc viễn chinh sang Thổ Nhĩ Kỳ, ông ta liền kể chuyện trong bữa ăn. Tôi chăm chú nghe ông ta và kín đáo quan sát Olya. Cô không xinh lắm, nhưng vẻ mặt kiên quyết và điềm tĩnh của cô, vầng trán trắng trẻo và rộng, mái tóc dày, https://thuviensach.vn đặc biệt là đôi mắt nâu nhạt, nhỏ nhưng thông minh, sáng sủa và lanh lợi của cô khiến cho bất cứ người nào ở địa vị tôi cũng phải ngạc nhiên. Dường như cô theo dõi từng lời của Rađilôp. Vẻ mặt cô không phải là vẻ thông cảm, mà là sự chú ý say mê. Về tuổi tác, Rađilôp có thể là bố cô, nhưng tôi đoán ngay ra rằng cô không phải là con gái ông ta. Trong lúc nói chuyện, ông ta nhắc tới người vợ đã qua đời của mình - "chị cô ấy" - ông ta chỉ Olya và nói thêm. Cô đỏ mặt lên ngay và cụp mắt xuống. Rađilôp im lặng một lát rồi nói sang chuyện khác. Suốt bữa ăn, bà lão chẳng nói chẳng rằng, bản thân bà hầu như không ăn gì và cũng không mời mọc tôi. Nét mặt bà toát ra vẻ chờ đợi sợ sệt và vô hy vọng, cái vẻ buồn rầu của người già nó khiến cho người quan sát cảm thấy lòng mình thắt lại. Gần cuối bữa ăn, Fêđo Mikhêits toan bắt đầu "ca ngợi" chủ mình và khách, nhưng Rađilôp đưa mắt nhìn tôi và bảo ông ta thôi đi; ông già đưa tay quệt môi, hấp háy đôi mắt, cúi chào và lại ngồi xuống, nhưng lần này ngồi ghé vào rìa ghế. Sau bữa ăn, tôi với Rađilôp vào phòng làm việc của ông ta. Ở những con người thường bị một ý nghĩ hay một niềm say mê lôi cuốn mãnh liệt, mặc dù phẩm cách, khả năng, địa vị xã hội và trình độ giáo dục của họ khác nhau đến mức nào đi nữa, ta vẫn nhận thấy giữa họ có cái gì chung, cách cư xử của họ vẫn có cái gì giống nhau về vẻ biểu hiện bên ngoài. Càng để ý quan sát Rađilôp, tôi càng có cảm giác rằng ông ta thuộc loại người nói trên. Ông ta nói về việc làm ăn, về mùa màng, về vụ cắt cỏ, về chiến tranh, về những chuyện ngồi lê đôi mách trong huyện, về những cuộc bầu cử sắp tới. Ông ta nói không có gì là gượng gạo, thậm chí khá hào hứng, nhưng bỗng nhiên ông ta thở dài, gieo mình xuống chiếc ghế bành như một người mệt mỏi vì một công việc nặng nề, và đưa tay vuốt mặt. Toàn bộ tâm hồn ông ta - một tâm hồn nhân hậu và nồng nhiệt, - dường như đều thấm sâu một tình cảm duy nhất ứ đọng trong lòng. Tôi cũng ngạc nhiên vì không thể khám phá thấy ở ông một nguồn đam mê nào cả: dù là tính thích ăn ngon, hoặc nghiện rượu, hoặc ham đi săn, ham thích chim họa mi vùng Kurxk, hoặc là thích loại bồ câu mắc chứng động kinh, hoặc là https://thuviensach.vn ham mê văn học Nga, hoặc là thích ngựa có nước đi lạ, hoặc là ưa chuộng kiểu áo Hunggari, hoặc là mê chơi bài và bia, hoặc là thích các tối khiêu vũ, hoặc là thích đến các mái sơn màu sặc sỡ hoặc là nghiện chè, hoặc là thích những con ngựa kéo phụ ([23]) đã đâm ra đổ đốn, hoặc thậm chí là ưa thích những gã đánh xe to béo đeo thắt lưng ngay sát nách, những gã đánh xe tuyệt diệu mà có trời biết tại sao cứ mỗi lần động đậy cổ là mắt lại lác đi và chồi ra. . . "Xét cho cùng thì đây là một địa chủ như thế nào mới được chứ!" - tôi nghĩ. Nhưng ông ta hoàn toàn không làm ra vẻ chán đời và bất mãn về số phận của mình. Trái lại, ở ông ta toát ra vẻ tốt bụng dễ tính, hồ hởi và, điều này gần như làm ta phật ý: ông ta sẵn sàng làm thân với bất cứ kẻ nào mới gặp. Thực ra, ta đồng thời vẫn cảm thấy ông ta không thể kết bạn, chơi thân với bất cứ ai, ông ta không thể như thế chẳng phải vì nói chung ông ta không cần những người khác, mà vì tất cả cuộc sống của ông tạm thời rút vào bên trong. Để ý quan sát Rađilôp, tôi không thể tưởng tượng được là bây giờ hay trước kia ông đã từng được sống hạnh phúc. Ông ta không đẹp trai. Nhưng trong ánh mắt, nụ cười, trong toàn bộ con người ông có ẩn náu một cái gì hết sức hấp dẫn, đúng là ẩn náu; vì thế, tự dưng ta muốn hiểu ông rõ hơn để yêu mến ông. Cố nhiên, đôi khi ông ta vẫn tự bộc lộ ra mình là một địa chủ người vùng thảo nguyên; nhưng dù sao ông ta vẫn là một con người rất đáng mến. Chúng tôi đã toan nói chuyện về người mới được bầu làm thủ lĩnh giới quý tộc huyện thì ở cửa bỗng có tiếng Onga. "Có trà rồi đấy". Chúng tôi sang phòng khách. Fêđo Mikhêits vẫn ngồi trong cái góc của mình như trước, giữa cửa sổ và cửa ra vào chân thu dưới ghế một cách khiêm tốn, mẹ Rađilôp đan bít tất. Không khí mùa thu tươi mát và mùi táo thơm thơm ngoài vườn lọt vào qua những khung cửa sổ ngỏ. Onga bận rộn rót trà. Khác với trong bữa ăn, bây giờ tôi nhìn cô chăm chú hơn. Cô nói rất ít, như tất cả các cô gái ở huyện, nhưng tôi cũng không nhận thấy cô có cái vẻ muốn nói một điều gì hay ho, nhưng lại khổ tâm vì sự trống rỗng và vụng về của mình. Cô không thở dài nhưng trong lòng chất chứa quá nhiều cảm https://thuviensach.vn giác không thể hiểu được, không trợn ngược mắt lên, không mỉm cười mơ màng và vô duyên cớ. Cô nhìn một cách điềm tĩnh và thản nhiên, như người nghỉ ngơi sau khi hưởng một hạnh phúc lớn lao hay vừa qua cơn lo lắng ghê gớm. Dáng điệu, cử chỉ của cô kiên quyết và thoải mái. Tôi rất thích cô. Tôi với Rađilôp lại nói chuyện. Tôi không nhớ bằng cách nào chúng tôi đã đi đến một nhận xét chẳng có gì mới lạ: nhiều khi những việc hết sức nhỏ nhặt lại gây cho ta ấn tượng mạnh mẽ hơn là những việc quan trọng nhất. - Đúng - Rađilôp thốt lên - điều đó tôi đã từng được biết. Ông biết đấy, tôi đã có vợ. Không lâu...vẻn vẹn có ba năm. Vợ tôi mất khi sinh đẻ. Tôi vẫn tưởng rằng tôi sẽ không thể sống lâu hơn vợ tôi. Tôi rất buồn phiền, chán nản, nhưng không thể khóc được, tôi ngơ ngẩn như một kẻ mất trí. Nàng được thay sống áo tươm tất, được đặt lên bàn, chính trong phòng này. Giáo sĩ đến; những người trợ tế cũng đến, bắt đầu hát, cầu nguyện, đốt hương! Tôi rạp mình sát đất chào nàng và không nhỏ được lấy một giọt nước mắt, tim tôi như hóa đá và đầu cũng thế, toàn thân tôi nặng trịch. Ngày thứ nhất trôi qua như thế. Ông có tin được không? Ban đêm, thậm chí tôi ngủ được. Sáng hôm sau, tôi vào thăm thi hài vợ tôi. Bấy giờ là mùa hè, mặt trời chiếu sáng toàn thân nàng, từ đầu đến chân, và chiếu sáng rực rỡ. Bỗng tôi thấy... (đến đây Rađilôp bất giác giật mình)... ông nghĩ thế nào? Một mắt nàng không nhắm hẳn, một con ruồi bò trên con mắt ấy...Tôi đổ vật xuống như bó lúa, và vừa tỉnh lại là tôi oà khóc, khóc như mưa không thể nào nén được... Rađilôp yên lặng. Tôi nhìn ông ta, rồi nhìn Onga... Suốt đời tôi không quên được vẻ mặt cô. Bà lão đặt chiếc bít tất lên đầu gối, lấy trong sắc ra một chiếc khăn tay và kín đáo lau nước mắt. Fêđo Mikhêits bỗng đứng lên, cầm lấy cây đàn, và cất giọng khàn khàn, mọi rợ hát một điệu ca ê a. Có lẽ ông ta muốn làm chúng tôi vui, nhưng tất cả chúng tôi đều giật mình khi nghe thấy âm thanh đầu tiên của ông ta, và Rađilôp bảo ông ta yên lặng. - Tuy nhiên ông ta nói tiếp - việc đã xảy ra thì không thể vãn hồi lại được, không thể bắt dĩ vãng quay trở lại, và rút cục thì...trong thế giới này, https://thuviensach.vn mọi cái đều trở nên tốt đẹp hơn, hình như Vonte đã nói như vậy, - ông ta vội vã nói thêm. - Đúng - tôi đáp - cố nhiên là như thế. Mọi sự bất hạnh đều có thể chịu đựng được, và không có tình trạng khốn khổ nào mà không thể tìm ra một lối thoát. - Ông tưởng thế ư? - Rađilôp nói - ừ, mà có lẽ ông nói đúng. Tôi nhớ, hồi sang Thổ Nhĩ Kỳ, tôi nằm ở một quân y viện, dở sống dở chết: tôi bị sốt vì thối vết thương. Chúng tôi không thể khoe là nhà ở tốt, thời chiến mà lị, được như vậy là nhờ ơn Chúa rồi đấy! Bỗng nhiên, lại có thêm người ốm được đưa đến đây, nhét họ vào đâu bây giờ? Thầy thuốc chạy ngược chạy xuôi: không có chỗ. Ông ta đến chỗ tôi nằm, hỏi y tá: còn sống không? Người kia trả lời: "Lúc sáng thì còn sống". Thày thuốc cúi xuống nghe: tôi vẫn thở. Ông ta không nén nổi bực tức và nói: "Thiên nhiên thật là phi lý quá, đây nhé, gã này sắp chết, nhất định gã sẽ chết, vậy mà gã vẫn thoi thóp, kéo dài chút hơi tàn, chỉ choán mất chỗ và làm phiền người khác" - "Ôi thôi - tôi nghĩ - mi nguy rồi đó , Mikhailô Mikhailưts ạ... ". Vậy mà tôi đã bình phục và sống đến ngày nay, như ông thấy đấy. Thành thử ông nói có lý. - Dù thế nào thì tôi vẫn có lý - tôi đáp - Thậm chí nếu ông chết ngay hồi ấy thì ông đã thoát khỏi cảnh ngộ thương tâm mà ông gặp phải. - Đã đành, hẳn là thế - ông ta thốt nhiên đập mạnh tay xuống bàn và nói thêm... - Chỉ cần có ý định dứt khoát...Sống khốn khổ thì sống làm gì?...Trì hoãn, kéo dài thêm ra phỏng có ích gì? Onga đứng phắt dậy và đi ra vườn. - Nào, Fêđya, làm một bài nhạc vũ đi! - Rađilôp kêu lên. Fêđya bật dậy, bắt đầu đi trong phòng bằng dáng đi duyên dáng đặc biệt của "con dê" trứ danh quay xung quanh con gấu đã được tập rèn([24]), và cất tiếng hát: "Khi bên cổng nhà ta...". Ngoài cổng có tiếng xe ngựa, và lát sau, một ông già tầm vóc cao, vai rộng và thân hình chắc nịch bước vào, đó là Ôtnôđvorets Ôpxianikôp https://thuviensach.vn ...Nhưng Ôpxianikôp là một nhân vật đặc sắc, độc đáo đến nỗi bạn đọc cho phép, chúng ta sẽ nói về ông ta trong một mẩu chuyện khác. Bây giờ, tôi chỉ nói thêm rằng hôm sau tôi với Ermôlai đi săn từ sáng tinh mơ, sau đó chúng tôi về nhà. Một tuần sau, tôi lại ghé thăm Rađilôp, nhưng không gặp cả ông ta lẫn Onga ở nhà. Hai tuần sau tôi được biết rằng ông ta tự dưng biến mất, để mẹ ở lại, bỏ đi đâu với cô em vợ. Cả tỉnh xôn xao bàn tán về chuyện ấy. Mãi khi ấy, tôi mới thực hiểu được vẻ mặt của Onga lúc Rađilôp kể chuyện. Lúc ấy, gương mặt cô không chỉ biểu lộ nỗi xót thương: nó bừng lên sự ghen tuông. Trước khi rời khỏi làng, tôi đến thăm bà mẹ Rađilôp. Tôi tìm thấy bà lão ở phòng khách. Bà đang chơi bài với Fêđo Mikhêits. - Bà có được tin gì về con trai bà không? - Cuối cùng tôi hỏi bà ta. Bà lão oà khóc. Tôi không gặng hỏi bà về Rađilôp nữa. https://thuviensach.vn ÔTNÔĐVORETS ([25]) ÔPXIANIKÔP Bạn đọc thân mến, các bạn hãy tưởng tượng một người thân hình đẫy đà, cao lớn, tuổi chừng bảy mươi, mặt hao hao giống Krưlôp, có cái nhìn sáng sủa và thông minh dưới hàng lông mày thấp, phong thái trang nghiêm, nói năng ôn tồn, dáng đi thong thả: đấy chính là Ôpxianikôp . Ông ta mặc chiếc áo xẻ vạt màu xanh rộng thùng thình, có ống tay dài, cài cúc đến tận trên cùng, cổ quàng chiếc khăn lụa màu hoa cà, đi đôi ủng đánh bóng loáng có tua viền, và nói chung nom ông ta giống một phú thương. Tay ông ta rất đẹp, mềm mại và trắng, trong lúc nói, ông ta mân mê những chiếc cúc áo ngoài của mình. Ôpxianikôp oai vệ và ít cử động, nhanh trí và lười nhác, trực tính và ương bướng, ông ta khiến tôi nhớ tới những người quý tộc trước thời Pie... Cái áo Fêriz ([26]) có lẽ thích hợp với ông ta. Đây là một trong những người cuối cùng của thế kỷ trước. Mọi người quanh vùng đều kính trọng ông và coi việc được làm quen với ông là một vinh dự. Các ôtnôđvorets khác chỉ còn thiếu điều cầu nguyện cho ông nữa thôi, thấy ông từ xa họ đã bỏ mũ, họ tự hào về ông. Nói chung, cho đến nay, ở nước ta thật khó mà phân biệt được người ôtnôđvorets với người mujich: tài sản của người ôtnôđvorets có khi còn kém hơn tài sản của người mujich, bê của người đó không bao giờ được ăn cái gì khác ngoài cháo bột mì đen, ngựa thì dở sống dở chết, dây thắng ngựa thì làm bằng thừng. Ôpxianikôp là một ngoại lệ vượt ra ngoài quy tắc chung, tuy không nổi tiếng là người giàu có. Ông ta và vợ ở trong ngôi nhà nhỏ ngăn nắp, ấm cúng, nuôi mấy người đầy tớ, cho họ mặc kiểu Nga và gọi họ là người làm. Người làm của ông ta còn làm ruộng nữa. Ông ta không làm ra bộ ta là quý tộc, không đóng vai điền chủ, như người ta thường nói, không bao giờ "tự quên mình", không bao giờ ngồi xuống ngay khi mới được mời lần đầu, và khi có khách mới vào thì thế nào ông ta cũng đứng lên, nhưng đứng lên với https://thuviensach.vn vẻ đường hoàng, vừa niềm nở vừa trang trọng đến nỗi khách bất giác cúi rạp xuống chào ông ta. Ôpxianikôp theo phong tục cổ, không phải vì mê tín (tính tình ông ta khá tự do), mà là do thói quen. Chẳng hạn, ông ta không thích xe có lò xo, vì ông thấy xe lò xo không giống xe thời xưa, và ông ta thường đi xe đrôjki([27]) hay xe tải nhỏ, đẹp có đệm da; và ông tự tay điều khiển con ngựa hồng rất hay của mình (ông ta chỉ nuôi toàn ngựa hồng). Người đánh xe, một gã trẻ tuổi, má đỏ au, tóc húi bằng trước trán, mặc áo bành tô và đội mũ lông cừu thấp, lưng thắt dây da, kính cẩn ngồi cạnh ông ta. Ôpxianikôp bao giờ cũng ngủ sau bữa ăn trưa, thứ bẩy thì đi nhà tắm, chỉ đọc toàn sách kinh (lúc đó ông ta trang nghiêm đeo đôi kính gọng bạc lên mũi), ngủ sớm và dậy sớm. Nhưng ông ta không để râu và tóc thì húi theo kiểu Đức. Ông ta tiếp khách rất dịu dàng và thân mật, nhưng không cúi chào họ, không rối rít, không thết họ đủ mọi thứ quả khô và thức ăn muối. "Mình ơi! - ông ta nói chậm rãi, không đứng lên và hơi quay đầu về phía vợ - Có cái gì đem lên mời các ông xơi". Ông ta coi việc bán lúa mì là một tội lớn, vì đấy là món quà Chúa ban cho. Năm 40, mọi nơi đều đói và vật giá đắt kinh khủng, ông ta phân phát tất cả thóc dự trữ của mình cho các điền chủ và nông dân quanh vùng. Năm sau, họ mang sản vật đến trả nợ ông với lòng biết ơn. Những người láng giềng của Ôpxianikôp thường chạy đến nhờ ông phân xử, dàn hòa họ với nhau, và hầu như bao giờ cũng nghe theo sự phân xử của ông, nghe lời khuyên của ông. Nhờ ông, nhiều người đã giải quyết dứt khoát được những cuộc tranh chấp về địa giới. . . Nhưng sau hai ba lần va chạm với các điền chủ, ông tuyên bố từ bỏ việc làm trung gian cho các bà các cô. Ông ta không thể chịu nổi sự hấp tấp, sự cuống quít lo sợ, sự ba hoa của đàn bà và "sự náo động". Có lần, nhà ông bị bén lửa. Một người làm cuống cuồng chạy đến tìm ông, la to: "Cháy! Cháy" - "Này, có gì mà anh gào tướng lên như thế?" - Ôpxianikôp bình tĩnh nói. - Đưa cho tôi cái mũ và cây can". Ông ta thích tự mình tập dượt ngựa. Có lần, một con bitiúc ([28]) bất kham đưa ông lao vùn vụt xuống một cái khe. "Này, thôi, thôi, chú ngựa giống non, chú sẽ toi https://thuviensach.vn mạng mất thôi" - Ôpxianikôp khiển trách nó một cách hiền hậu và lát sau ông đã lao xuống khe cùng với chiếc xe đrôjki, cả thằng bé ngồi phía sau và con ngựa cũng chịu chung số phận. May thay, dưới đáy khe có cát ùn thành đống. Không ai bị dập thương, chỉ có con ngựa bị trẹo chân. "Đấy, mày thấy không, ta đã bảo mà" - Ôpxianikôp nói tiếp bằng giọng điềm tĩnh và đứng lên khỏi mặt đất. Ông đã tìm được người vợ xứng đáng với mình: Tatiana Ilinitsna Ôpxianikôva là một người đàn bà tầm vóc cao, trang nghiêm và trầm lặng, lúc nào cũng trùm chiếc khăn lụa màu nâu trên đầu. Bà nom có vẻ lạnh lùng, tuy không ai phàn nàn về sự nghiêm khắc của bà, mà trái lại, nhiều người nghèo gọi bà là mẹ và ân nhân. Những đường nét đều đặn trên mặt, cặp mắt to thẫm màu, đôi môi mỏng vẫn còn cho thấy hồi xưa bà có sắc đẹp lừng lẫy một thời. Vợ chồng Ôpxianikôp không có con. Tôi quen biết ông ở nhà Rađilôp, và hai ngày sau tôi đến thăm ông. Ông có nhà. Ông ngồi trong chiếc ghế bành lớn bằng da và đọc sự tích các thánh. Con mèo xám nằm trên vai ông, khẽ gừ gừ Như thường lệ, ông tiếp tôi một cách dịu dàng và đường bệ. Chúng tôi nói chuyện. - Luka Pêtơrôtvits này, ông nói thực đi nhé - Tôi hỏi, nhân câu chuyện - Có phải hồi xưa, hồi ông còn trai trẻ, mọi cái đều khá hơn không? - Có cái thì khá hơn thật đấy. - Ôpxianikôp đáp - Chúng tôi sống yên tĩnh hơn, phong lưu hơn, đúng thế... Nhưng dù sao bây giờ vẫn hơn thời trước, và con cái ông sẽ còn sống khá hơn bây giờ, nhờ ơn Chúa. - Thế mà tôi tưởng ông sẽ ca ngợi thời trước, Luka Pêtôrôvits ạ. - Không, tôi chẳng có lý do gì đặc biệt để ca ngợi thời trước. Cứ lấy ví dụ như thế này chẳng hạn: bây giờ ông là một điền chủ, cũng như ông của ông trước đây, nhưng uy quyền của ông sẽ không được như trước! Và chính bản thân ông cũng không phải là con người như thời ấy. Ngay bây giờ, chúng tôi vẫn bị những kẻ quyền thế khác chèn ép, và có lẽ không thể khác được. Cứ xay lại cám may ra sẽ được bột. Không, bây giờ tôi không thấy những cái mà hồi trai trẻ tôi đã thấy rất nhiều. - Cái gì chẳng hạn? https://thuviensach.vn - À, thế thì tôi lại xin nói về ông của ông chẳng hạn. Một người có nhiều quyền thế! Ông cụ bắt nạt anh em chúng tôi, có lẽ ông cũng biết đấy, ông không thể không biết đất của ông được... dải đất hình chiếc nêm chạy từ Tseplưghin đến Malina ấy mà... Bây giờ ông trồng lúa mạch... Nhưng chính ra nó là đất của chúng tôi, tất cả khu đất ấy vốn là của chúng tôi. Ông của ông đã chiếm chỗ đất ấy. Ông ấy đi ngựa đến, chỉ tay và nói: "Chỗ đất này là của ta!" - thế là ông ấy chiếm phăng luôn. Bố tôi - cầu cho cụ yên vui trên thiên đàng - bố tôi là người ưa chuộng lẽ công bằng, và nóng tính nữa, bố tôi không chịu nổi, mà ai là người vui lòng chịu mất tài sản của mình kia chứ, thế là ông cụ đâm đơn ra tòa. Có một mình bố tôi kiện thôi, những người khác không dám theo, họ sợ. Thế rồi có người báo cho ông của ông rằng Piôtr Ôpxianikôp kiện ngài về việc chiếm đoạt ruộng đất... ông của ông lập tức sai tên quản chó Bans dẫn một bọn đến bắt bố tôi và giải về đằng nhà bên ấy. Hồi ấy tôi còn bé, tôi đi chân đất chạy theo bố. Rồi sao?... Bố tôi bị giải đến dưới cửa sổ nhà ông và bị đánh đòn. Còn ông của ông đứng trên bao lơn nhìn; bà của ông ngồi dưới cửa sổ và cũng xem bọn chúng đánh bố tôi. Bố tôi kêu la: "Bà Marya Vaxiliepna, bà xin hộ tôi với chứ, ít ra bà cũng nên thương người một chút mới phải!" Nhưng bà ta chỉ thản nhiên nhổm lên xem. Thế rồi họ đã ép bố tôi phải cam kết từ bỏ khu đất của mình và còn bắt bố tôi phải cảm ơn vì đã được tha chết. Từ bấy đến nay, chỗ đất ấy vẫn là của gia đình bên ông. Ông hãy đi hỏi nông dân của ông xem khu đất ấy tên là gì? Nó được gọi là cánh đồng gậy gộc, vì đã chiếm được bằng gậy gộc. Bởi thế, những con người nhỏ bé chúng tôi không lấy gì làm luyến tiếc trật tự cũ cho lắm. Tôi không biết trả lời Ôpxianikôp ra sao, và không dám nhìn vào mặt ông ta. - Hồi ấy chúng tôi lại còn có một người láng giềng khác tên là Kômôp Xtêpan Nictôpôliônưts. Ông ta làm tình làm tội bố tôi không còn thiếu nước gì nữa. Ông ta nghiện rượu và thích thết khách. Hễ ông ta đã làm một ngụm và nói câu tiếng Pháp "xe bồng"([29]), rồi cơn thèm rượu bốc lên là khốn với ông ta đấy. Ông ta sẽ cho người đi mời tất cả những người láng giềng https://thuviensach.vn đến nhà. Chiếc xe ba ngựa của ông ta đã sửa soạn sẵn, không đến là ông ta lập tức lên xe xộc tới nhà, con người đến là kì lạ! Lúc tỉnh táo, ông ta không hề nói dóc, ấy thế mà hễ rượu vào là ông ta bắt đầu kể rằng ở Pite ông ta có ba ngôi nhà tại phố Fôntanka: một ngôi nhà quét vôi đỏ có một ống khói, một ngôi nhà quét màu vàng có hai ống khói, còn ngôi nhà thứ ba quét vôi xanh thì không có ống khói nào cả; và kể rằng ông ta có ba con trai (nhưng ông ta chưa bao giờ lấy vợ): một con ở bộ binh, một con ở kỵ binh, còn con thứ ba thì sống tự do... ông ta còn nói rằng mỗi con ông ở một nhà. Con cả ông thường được các đô đốc đến thăm, con thứ hai thường có các vị tướng đến nhà, còn khách của con thứ ba toàn là người Anh. Thế rồi ông ta đứng lên và nói: "Chúc sức khỏe con trai cả tôi, nó là đứa con đáng trọng nhất của tôi - nói xong là khóc, kẻ nào dám bài bác thì thật là lôi thôi to. "Ta sẽ bắn chết và sẽ không cho chôn. . .", ông ta nói. Có khi ông ta chồm lên và hét: "Nhảy đi, hỡi các con chiên của Chúa, nhảy đi cho vui và để an ủi ta!". Thế là anh cứ việc mà nhảy, nhảy đến chết thì thôi, nhưng vẫn phải nhảy. Ông ta hành hạ bọn thiếu nữ con các nông nô của mình mới tội làm sao. Nhiều khi họ phải hát đồng ca thâu đêm suốt sáng, và cô nào lên được giọng cao nhất thì sẽ được thưởng. Rồi đến khi họ mệt quá không hát được nữa thì ông ta gục mặt vào hai bàn tay và kêu lên một cách đau xót: "Trời ơi, tôi là kẻ tứ cố vô thân! Người ta ruồng bỏ tôi, tội nghiệp thân tôi!" Những người coi ngựa lập tức thúc giục các cô gái hát to nữa lên. Bố tôi vốn được ông ta ưa thích: ông ta sẽ ra lệnh cho bố tôi làm gì đây? Thật suýt nữa thì ông ta đã đẩy bố tôi xuống mồ. Và có lẽ ông ta sẽ đẩy bố tôi xuống mồ thật, nhưng may thay, chính ông ta lại ngoẻo trước: ông ta trèo lên chuồng chim bồ câu lúc đang say rượu, và ngã lộn xuống... Đó, chúng tôi có những người láng giềng như thế đấy! - Thời đại đã đổi khác biết bao! - Tôi nhận xét. - Đúng, đúng - Ôpxianikôp xác nhận - Quả thực là thời xưa quý tộc sống xa hoa hơn. Còn các quan lớn thì khỏi phải nói. Ở Matxcơva, tôi đã biết họ rồi. Nghe nói là bây giờ họ đều về đấy cả. - Ông đã từng đến Matxcơva rồi à? https://thuviensach.vn - Vâng, lâu rồi, lâu lắm rồi. Năm nay tôi đã bẩy mươi hai, mà tôi ra Matxcơva năm mười sáu tuổi. Ôpxianikôp thở dài. - Ông đã gặp những quan chức lớn nào ở đấy. - Tôi đã thấy nhiều ông quan to, và bất cứ người nào cũng có thể nhìn thấy họ. Cuộc sống của họ phơi bày ra trước mắt mọi người, phú quý tột bậc. Duy có bá tước Alecxây Grigôriêvits Orlôp Tsemenxki đã quá cố là không ai bì kịp. Tôi thường gặp bá tước luôn; chú tôi là quản gia của bá tước. Bá tước sống ở cổng Kaluga, khu Sabôlôpka. Đấy mới thật là một vị đại quan! Tướng mạo uy nghi, phong độ niềm nở trang nhã, thật khó mà tưởng tượng được người nào hơn thế và không thể tả lại được. Chỉ riêng tầm vóc ngài cũng đã trang trọng rồi, cả sức lực, cả cái nhìn của ngài nữa. Khi chưa biết ngài thì ta không dám đến nhà ngài, ta sợ, ta cảm thấy rụt rè. Nhưng đã đến nhà ngài thì ta cảm thấy như được mặt trời sưởi ấm, và ta vui hẳn lên. Ngài cho phép bất cứ người nào cũng có thể đến gặp ngài, ngài vui lòng tiếp tất cả mọi người. Khi đua ngựa, ngài tự điều khiển ngựa và ai muốn đua với ngài cũng được. Ngài không bao giờ vượt đối thủ ngay, không làm người ta tức giận, không chèn người ta, mà sát đến đích ngài mới vượt lên. Và rất mực dịu dàng, ngài an ủi đối thủ, khen ngựa của người đó. Ngài nuôi những con bồ câu nhào lộn loại nhất. Đôi khi ngài ra sân, ngồi vào chiếc ghế bành và ra lệnh thả bồ câu bay lên. Còn xung quanh, trên các mái nhà, có những người cầm súng phòng khi diều hâu đến thì bắn. Dưới chân bá tước có để các chậu bạc đựng nước, ngài nhìn xuống nước xem chim. Hàng trăm người nghèo khổ, cùng khốn được ngài cho bánh ăn... và ngài ban phát cho họ bao nhiêu tiền! Thế nhưng khi ngài nổi giận thì thật như sấm sét, sợ lắm, nhưng không có gì đáng khóc cả; ngài mỉm cười ngay thôi mà. Ngài thết tiệc thì cả Matxcơva say sưa! Ngài tài trí tuyệt vời! Ngài đã từng đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ cơ mà. Ngài cũng thích môn vật. Các đô vật từ Tula, từ Kharkôp, từ Tambôp, từ khắp nới được đưa đến thi tài với ngài. Người nào thắng được ngài thì ngài ban thưởng rất hậu và hôn môi người đó... Hồi tôi ở Matxcơva, có lần ngài mở một cuộc hội săn chưa từng https://thuviensach.vn thấy ở nước Nga: tất cả những người đi săn trong vương quốc được mời tới vào một ngày đã định, cách ba tháng sau. Thế rồi người ta đổ đến, đem theo chó, thợ săn. Đúng là một đạo quân, một đạo quân thật sự! Thoạt tiên họ được chén thoả thích, rồi bắt đầu khởi hành. Người đến đông nghịt!... Và ông có biết thế nào không?... Con chó của ông nội ông vượt tất cả các con khác. - Con Milôvitka phải không? - Tôi hỏi. - Milôvitka, Milôvitka... Thế rồi bá tước hỏi ông cụ: "Bán cho tôi con chó của ông nhé, ông muốn lấy bao nhiêu thì lấy". Ông cụ nói: "Thưa bá tước không ạ, tôi không phải là lái buôn: vật tồi vô ích thì tôi không bán, còn nếu là vì danh dự thì tôi có thể nhường vợ tôi được, nhưng không bao giờ tôi nhường Milôvitka... Thà tôi tự nộp mình làm tù binh cho bá tước còn hơn". Alecxây Grigôriêvits khen: "Tôi mến yêu ông" - bá tước nói. Ông của ông cho con chó trở về bằng xe ngựa. Khi Milôvitka chết, ông cụ cho chôn trong vườn, có kèn trống hẳn hoi: con chó cái ấy được chôn cất tử tế, trên mộ dựng tấm bia đá. - Thì Alêcxây Grigôriêvits có xúc phạm đến ai bao giờ đâu - Tôi nói. - Ấy, sự đời bao giờ cũng thế, kẻ thiếu bản lĩnh thì lại hay lên mặt. - Thế còn gã Bausơ mà ông vừa nói đến là người thế nào - Tôi hỏi sau một lúc im lặng. - Ông có nghe nói về Milôvitka thì sao lại không biết về Bausơ nhỉ? Đấy là người chịu trách nhiệm chính về việc trông nom và luyện chó của ông nội ông. Ông nội ông yêu y không kém gì Milôvitka. Y là người táo tợn và bất kể ông cụ ra lệnh gì, y cũng thi hành tức thì, dù có phải nằm lên lưỡi dao nhọn y cũng không từ. Có khi y bỗng dở chứng, y xuống ngựa, nằm xuống đất... Hễ chó không nghe thấy tiếng y nữa thì thôi xong! Chúng không bám theo vết con mồi vừa chạy qua nữa, muốn nhử gì thì nhử, chúng cũng không xông lên nữa. Chà, thế là ông nội ông nổi trận lôi đình! "Ta mà không treo cổ cái thằng vô tích sự ấy lên thì ta cứ chết quách đi cho rồi! Ta sẽ lột xác thằng phản Chúa ấy, lộn đằng trong ra ngoài! Ta sẽ kéo chân nó qua cổ họng nó, quân sát nhân ấy!" Rút cục là ông cụ đến hỏi xem y cần gì, https://thuviensach.vn tại sao y không hò chó nữa? Những lúc ấy, Bausơ thường đòi rượu vang, uống xong y nhổm dậy và lại cất tiếng hò, điều khiển chó hết sức tài tình. - Hình như ông cũng thích đi săn phải không, Luka Pêtơrôvits? - Kể thì cũng thích... đúng thế, nhưng không phải bây giờ, bây giờ thời của tôi đã qua rồi, thời trai trẻ kia... ông biết đấy, do địa vị của tôi, cái trò giải trí đó có điều không tiện. Anh em chúng tôi không nên theo đòi những người quý tộc. Đúng vậy, trong bọn chúng tôi, đôi khi cũng có kẻ nghiện rượu và bất tài giao du với các ông quý tộc. . . Nhưng nào có sung sướng gì cho cam?... Chỉ tự làm nhục mình. Được người ta cho một con ngựa cà khổ, hay vấp ngã, cứ là bị người ta tát tai, hất mũ xuống đất luôn! Có khi người ta vờ quật roi vào ngựa, nhưng lại quật vào kẻ đó. Vậy mà kẻ đó vẫn phải cười và làm cho những người khác cũng cười. Không, tôi xin nói với ông như thế này: địa vị càng nhỏ thì càng phải giữ mình cho nghiêm không thì chỉ tự mình bôi nhọ mình. - Đúng thế - Ôpxianikôp thở dài, nói tiếp - Từ thuở tôi ra đời đến nay đã bao nhiêu lần vật đổi sao dời, thời đại ngày nay đã khác rồi. Đặc biệt là trong giới quý tộc, tôi thấy có sự thay đổi lớn. Quý tộc nhỏ ở địa phương thì hoặc là đi làm viên chức, hoặc là không còn ngồi yên vị tại chỗ nữa. Những người quý tộc cỡ lớn hơn thì không còn nhận ra họ được nữa. Tôi đã quan sát kỹ nhiều người quý tộc lớn trong dịp phân chia địa giới. Và tôi phải nói với ông: nhìn họ tôi sung sướng trong lòng: họ hồ hởi, lễ độ. Duy có điều này làm tôi ngạc nhiên: họ đã học được đủ mọi thứ, nói năng bùi tai đến nỗi nghe mà cảm kích, vậy mà họ chẳng nghĩ ra được một việc làm gì nên hồn, thậm chí họ không cảm thấy lợi ích của chính họ. Gã nông nô làm quản lý cho họ muốn uốn họ theo chiều nào cũng được, như uốn một cái ách cổ ngựa. Chắc ông cũng biết Kôrôlép Alêcxanđr Vlađimirôvits chứ? Ông ta lại không là quý tộc sao? Đẹp trai, giàu có, đã qua các trường "cao học", hình như cũng đã từng ra nước ngoài, nói năng lưu loát, nhã nhặn, bắt tay tất cả chúng tôi. Ông có biết ông ta không. . . Thế thì nghe tôi kể đây này. Tuần trước, chúng tôi đến Bêrêzôpka theo lời mời của người trọng tài ([30]) là Nikifo Ilits. Nikifo Ilits https://thuviensach.vn nói với chúng tôi: "Thưa các vị, cần phải phân rõ địa giới. Thực là nhục, vùng ta đi sau tất cả các vùng khác, chúng ta hãy bắt tay vào việc đi". Thế là chúng tôi bắt tay vào việc. Những cuộc bàn bạc, tranh cãi bắt đầu, đó là chuyện thường. Người được uỷ nhiệm của chúng tôi bắt đầu đề ra yêu sách. Nhưng Ôpsiunikôp Porfiri làm dữ trước tiên... Mà hắn làm dữ vì lẽ gì kia chứ? Bản thân gã không có một tấc đất: gã được anh gã uỷ quyền đến đây. Gã quát tháo: "Không! Các người không bịp nổi tôi đâu. Không, các người gặp phải tôi là không ổn rồi! Đem địa đồ lại đây? Hãy trao đứa đo đất cho tôi, đưa thằng bán Chúa đến đây!" - "Nhưng rút cục thì anh đòi hỏi gì mới được chứ!?" - "Ôi chà? Ngốc ơi là ngốc! Thế anh tưởng tôi sẽ nói ngay cho anh biết đòi hỏi của tôi ư? ... Không, anh hãy mang địa đồ lại đây, thế đấy?" Rồi gã đấm tay xuống các tấm địa đồ. Marfa Đmitơriepna tức lắm. Bà ta thét lên: "Sao anh dám làm nhục thanh danh tôi!' Gã nói: "Tôi cũng không mong con ngựa cái nâu của tôi có được cái thanh danh như của bà". Người ta cưỡng bức đổ rượu mạnh cho gã say mèm. Dẹp yên được gã lại đến những đứa khác làm loạn. Còn Kôrôlep Alêcxanđr Vlađimirôvits thân mến của tôi ngồi trong một góc, thỉnh thoảng lại gặm cái cán can và lắc đầu. Tôi ngượng tái người, chỉ muốn chuồn đi cho rồi. Ông ta sẽ nghĩ gì về chúng tôi? Kìa, Alêcxanđr Vlađimirôvits của tôi đã đứng lên, tỏ ý muốn nói. Người trọng tài lính quýnh, tuyên bố: "Thưa các vị, Alêcxanđr Vlađimirôvits muốn ngỏ lời với chúng ta". Và không thể không khen ngợi những người quý tộc: tất cả đều lập tức im tiếng. Thế là Alêcxanđr Vlađimirôvits bắt đầu nói, đại ý là: hình như chúng ta đã quên rằng chúng ta họp nhau ở đây để làm gì: tuy việc phân định địa giới cố nhiên có lợi cho các chủ đất, nhưng thực chất, người ta làm việc đó cốt là để cho người nông dân dễ sống hơn, để cho người nông dân làm tròn được nghĩa vụ của mình. Chứ như bây giờ thì chính người nông dân cũng không biết nổi mình phải làm chỗ đất nào và có khi cày ở nơi cách xa ruộng mình tới năm dặm đường, mà không thể bắt vạ người đó được. Rồi Alêcxanđr Vlađimrôvits nói rằng người địa chủ không quan tâm đến phúc lợi của nông dân là có tội, và xét cho cùng lợi ích của nông dân và lợi ích của chúng ta là thống nhất: https://thuviensach.vn cái gì tốt cho họ thì cũng tốt cho chúng ta, cái gì hại cho họ thì cũng hại cho chúng ta... Vì vậy, không thỏa thuận với nhau về những chuyện lặt vặt thì thật là tội lỗi và phi lý. Ông ấy cứ thế nói thao thao bất tuyệt... Và nói mới hay làm sao? Thật là rung động lòng người...Những người quý tộc thì ai nấy đều tiu nghỉu. Còn tôi thú thực là suýt ứa nước mắt. Của đáng tội, trong các sách cổ cũng chưa từng có những lời lẽ hay như thế. . . Thế rồi rút cục ra sao? Chính ông ấy không chịu nhường bốn đêxiatin đầm lầy có rêu và cũng không muốn bán. Ông ấy bảo: "Tôi sẽ cho người của tôi làm khô đầm lầy ấy và sẽ xây dựng ở đó một xưởng làm dạ, sản xuất theo kỹ thuật mới. Tôi đã chọn chỗ ấy: tôi có những ý định riêng...". Nếu đúng như thế thì còn tạm được, nhưng thực ra chỉ tại Karaxikôp An tôn, gã láng giềng của Alêcxanđr Valađimirôvits, đã tiếc tiền không nộp cho viên quản lý của ông ta một trăm rúp tiền giấy mà thôi. Thế là chúng tôi ra về, chẳng làm được việc gì. Còn Alêcxanđr Vlađimirôvits thì đến giờ vẫn cho mình là đúng và vẫn nói về xưởng làm dạ, có điều là ông ta không bắt tay vào việc làm khô đầm lầy. - Thế trong khu điền trang của ông ta thì ông ta làm ăn thế nào? - Ông ấy đưa ra toàn cái mới. Nông dân không ưa, nhưng chẳng cần gì phải nghe họ. Alêcxanđr Vlađimiarôvits làm rất hay. - Thế là thế nào, bác Luka Pêtôrơvits? Tôi cứ tưởng bác vẫn ưa thích thời xưa kia đấy. - Tôi thì lại khác. Tôi không phải là quý tộc, cũng không phải là địa chủ. Sản nghiệp của tôi như thế nào?... Và tôi cũng không biết làm cách nào khác. Tôi cố gắng hành động theo lẽ công bằng và theo luật pháp, và cũng cảm tạ Chúa đã cho tôi được như thế. Các ông chủ trẻ không ưa trật tự trước kia: tôi cho rằng đó là điều đáng khen... Đã đến lúc phải biết nghĩ. Duy có một điều đáng buồn là các ông chủ trẻ khôn ngoan quá. Họ sử dụng người nông dân như con rối: xoay chiều này, lật chiều kia, làm gẫy rồi quẳng đi. Cả tên quản gia là một gã nông nô, hay tên quản lý (thường là một người Đức) cũng lại vồ lấy người nông dân như con thú vồ mồi. Mà không có lấy một ông chủ trẻ nào nêu gương cho thấy cần phải quản lý https://thuviensach.vn công việc như thế nào. Rút cục rồi ra sao? Chẳng lẽ cho đến ngày nhắm mắt tôi cũng không được thấy trật tự mới ư? Thế là thế nào nhỉ? Cái cũ đã chết, còn cái mới chưa ra đời! Tôi không biết trả lời Ôpxianikôp ra sao. Ông ta nhìn quanh; nhích lại gần tôi và hạ giọng nói tiếp: - Ông có nghe nói về Vaxili Nikôlaits Liubôzvônôp không? - Không, tôi chưa hề nghe nói đến người ấy. - Ông hãy làm ơn giải thích cho tôi rõ những chuyện kỳ lạ như thế là thế nào? Tôi không còn hiểu ra sao nữa. Tôi đã được nghe nông dân của ông ấy kể chuyện, nhưng tôi vẫn không thể hiểu rõ gì hơn qua những câu chuyện của họ. Ông biết chứ, ông ta còn trẻ, mới được hưởng gia tài sau khi mẹ chết cách đây ít lâu. Thế rồi ông ta về đất thế tập của mình. Nông dân đổ đến xem ông chủ. Vaxili Nikôlaits ra gặp họ. Nông dân thấy lạ quá: ông chủ mặc quần vải bông như gã xà ích, đi ủng có viền; chiếc sơmi đỏ và áo kafơtan cũng là áo xà ích; râu để mọc lờm xờm, đầu đội chiếc mũ nhỏ xíu đến kỳ quặc và khuôn mặt cũng kỳ quặc không kém: say không rõ say, tỉnh không ra tỉnh. Ông ta nói: "Chào anh em! Chúa phù hộ anh em". Nông dân rạp xuống chào ông, nhưng không ai nói gì: họ e sợ, ông biết đấy. Chính ông ta dường như cũng rụt rè. Ông ta nói với họ: "Tôi là người Nga, các anh cũng là người Nga. Tôi yêu mến tất cả những gì là Nga...tâm hồn tôi là một tâm hồn Nga, dòng máu cũng là máu Nga..." Thế rồi đột nhiên ông ta ra lệnh: "Nào, anh em, hát lên một bài dân ca Nga!" Cánh nông dân bủn rủn cả người sửng sốt bàng hoàng. Một gã mạnh bạo đã toan cất tiếng hát, nhưng lại ngồi thụp xuống, nấp sau lưng những người khác. Điều đáng ngạc nhiên chính là ở chỗ này, đôi khi ở nước ta có những địa chủ như thế, ngang tàng, ăn chơi bạt tử, đúng thế. Họ mặc theo lối xà ích, họ khiêu vũ chơi ghi ta, hát và uống rượu với gia nhân, chè chén với nông dân. Thế nhưng ông Vaxili Nikôlaits này thì không khác gì một thiếu nữ: lúc nào cũng đọc đọc viết viết, không thì lại hát những bài tụng ca, nhưng chẳng chuyện trò với ai, lẩn tránh mọi người, thơ thẩn dạo chơi một mình trong vườn, như có điều gì chán ngán hay buồn rầu. Người quản gia cũ lúc đầu hoảng quá: trước khi https://thuviensach.vn Vaxili Nikôlaits đến, y chạy khắp các nhà nông dân, thăm hỏi tất cả mọi người. Rõ ràng là con mèo biết nó đã chén miếng thịt của ai? Nông dân thì hy vọng, thầm nghĩ: "Đừng giở trò vô ích, chú em ạ! Phen này rồi chú mày sẽ bị lôi cổ ra, chú bồ câu nhỏ ạ? Rồi chú mày sẽ tha hồ nhảy cỡn lên, ai bảo ăn không của người khác cho lắm vào..." Nhưng sự thể đâm ra lại khác, biết trình bày với ông làm sao đây? Đến trời cũng chẳng hiểu được! Vaxili Nikôlaits gọi y đến và vừa nói với y vừa đỏ mặt lên và thở hổn hển: "Anh hãy đối xử công bằng với mọi người trong địa hạt của tôi, đừng chèn ép ai cả, nghe chưa?". Rồi từ đó đến nay, ông ta không đòi hắn tới lần nào. Ông ta sống trên đất của mình như người khác lạ. Thế rồi tên quản gia đã hoàn hồn, còn nông dân thì không dám bén mảng đến gặp ông ta: họ sợ. Lại còn điều đáng ngạc nhiên này nữa: ông chủ chào hỏi họ, niềm nở với họ, vậy mà họ vẫn sợ, đói mà không dám kêu. Sao lại quái gở thế, thưa ông?... Hay tôi về già đâm ra đần độn thì không hiểu. Tôi trả lời Ôpxianikôp rằng có lẽ ông Liubôzvonop ốm. - Ốm đau gì? Béo tròn béo trục, và mặt thì tròn xoay, tuy còn là trẻ . . . Nhưng cũng chả biết đâu được! (Và Ôpxianikôp thở dài đánh thượt một tiếng). - Thôi, mặc các ông quý tộc - Tôi khơi mào - Bác có thể cho tôi biết những gì về giới ôtnôđvorets, bác Luka Pêtơrôvits. - Không, về chuyện đó thì xin ông miễn cho tôi khỏi phải nói đến - ông ta vội vã thốt lên - thực ra thì... tôi cũng muốn kể ông nghe... nhưng thôi! (Ôpxianikôp khoát tay). Ta uống trà với nhau thì hơn... Dân mujich bao giờ cũng là dân mujich. Nhưng thực tình mà nói thì chúng tôi phải làm gì kia chứ? Ông ta im lặng. Người nhà đưa trà lên. Tatiana Ilinitsna đứng lên và ngồi gần chúng tôi hơn. Suốt buổi tối, bà ta đã mấy lần đi ra rồi lại trở vào, đi lạii êm như ru, không một tiếng động. Bầu không khí im lặng bao trùm trong phòng. Ôpxianikôp nghiêm trang và thong thả uống hết chén trà này đến chén khác. - Hôm nay Mitia đến thăm chúng ta - Tatiana Ilinitsna nói thấp giọng. https://thuviensach.vn Ôpxianikôp chau mày. - Nó cần gì? - Nó đến xin tha thứ. Ôpxianikôp lắc đầu. - Đấy ông xem - Ôpxianikôp lại tiếp tục nói với tôi - ông bảo nên đối xử thế nào với những người họ hàng? Không thể khước từ họ được...Tôi cũng được Chúa ban cho một thằng cháu trai. Nó là thằng có đầu óc, linh lợi, cái đó thì không ai chối cãi được: nó học giỏi, nhưng tôi không trông mong nó sẽ làm được điều gì hay ho cả. Nó đã từng ra làm việc nhà nước, nhưng rồi lại bỏ việc: nó không có đường tiến thân...Nó có phải là quý tộc đâu? Mà ngay cả những người quý tộc cũng không phải một lúc đã được thăng quan ngay. Thế là bây giờ nó ăn không ngồi rồi ...Nhưng nếu chỉ có thế thôi thì chưa đến nỗi nào, đằng này nó lại đi làm thầy dùi kia chứ? Nó làm đơn kiện cho nông dân, viết đơn trình báo, dạy khôn các ông xôtxki ([31]), tố giác những người đạc điền, lê la ở các quán rượu, giao du với những người về phép vô thời hạn ([32]), với các tiểu thương thành thị và những người quét sân ở các nhà trọ. Như vậy thì tai họa nào có xa xôi gì? Các ông cảnh sát trưởng của trấn và quận đã nhiều lần đe nạt nó. Phúc cho nó là nó có tài bông phèng: nó làm cho họ phải buồn cười, nhưng rồi sau đó lại chơi xỏ họ...Này, nó đang ở trong buồng của mìng phải không? - ông ta nói thêm, hỏi vợ - tôi biết mà mình là chúa hay thương người, bao giờ cũng bênh che cho nó. Tatiana Ilinitsna cúi đầu xuống, mỉm cười và đỏ mặt lên. - Tôi nói có sai đâu - Ôpxianikôp nói tiếp. Chà, mình thật là hỏng quá? Nào, bảo nó vào đây, thì cũng đành vậy thôi. Vì ông khách quý, tôi sẽ tha thứ cho thằng ngu dại... Nào, bảo nó vào đây bảo nó đi. . . Tatiana Ilinitsna tới gần cửa và gọi to: "Mitia!" Mitia, một gã trai trạc hai mươi tám tuổi người cao, cân đối, tóc xoăn vào phòng, và thấy tôi gã dừng lại ở ngưỡng cửa. Y phục gã mặc là y phục kiểu https://thuviensach.vn Đức, nhưng chỉ riêng những nếp bồng quá to ở vai cũng đủ chứng tỏ rõ ràng rằng người thợ may bộ quần áo ấy thậm chí không phải là người thợ Nga thời nay, mà là người thợ Nga cổ xưa. - Nào, lại gần đây, lại gần đây - ông già lên tiếng - Ngượng ngùng gì nào? Cám ơn thím đi: mày được tha thứ rồi đấy...Đây, thưa ông, tôi xin giới thiệu - ông ta vừa nói tiếp vừa chỉ Mitia - cháu ruột tôi đấy, vậy mà tôi không thể nào dạy được nó. Tệ hại hết chỗ nói! (Tôi và gã trai cúi chào nhau). - Nào, nói đi, mày lại làm cái trò bậy bạ gì thế? Mà làm gì để cho người ta phải kêu ca về mày, kể đi. Có lẽ Mitia không muốn trình bày và biện bạch trước mặt tôi. - Để rồi cháu sẽ nói, chú ạ - Gã nói lí nhí. - Không để sau gì hết, nói ngay đi - ông già nói tiếp - Tao biết, mày ngượng với ông đây chứ gì, như vậy càng hay, mày hối lỗi đi. Nào, nói đi tôi nhờ...Chúng tôi nghe đây. - Cháu chẳng có gì mà phải xấu hổ. - Mitia bắt đầu nói với vẻ sôi nổi và lắc đầu một cái - Chú hãy thử xét xem. Các ôtnôđvorets ở Rêsêtilôp đến tìm cháu và bảo: "Cậu can thiệp hộ chúng tôi với, người anh em" - "Có chuyện gì thế - "Thế này này: các cửa hàng bánh mì của chúng tôi đều gọn gàng sạch sẽ nghĩa là không thể tốt hơn được. Thế rồi một viên chức đột nhiên đến và bảo: ông ta được lệnh đi xem xét các cửa hàng. Xem xong ông ta nói: "Cửa hàng của các ông lộn xộn lắm, có nhiều thiếu sót quan trọng, cần phải trình lên cấp trên" - "Nhưng có điều gì sơ suất kia ạ?" - "Cái đó thì tôi biết thôi ông ta nói"... Chúng tôi họp bàn và quyết định: cho gã viên chức nọ một món thật hậu vào, nhưng ông già Prôkhôrưts can ngăn chúng tôi, ông bảo như thế thì chỉ làm cho họ ăn quen bén mùi. Thực ra thì có gì đâu? Có thể là chúng ta chẳng bị phạt gì hết... Thế là chúng tôi nghe theo ông già, còn gã viên chức kia cáu và khiếu nại, viết tờ trình lên trên. Bây giờ người ta tra xét trách nhiệm của chúng tôi" – "Có thật là cửa hàng các ông hoàn toàn tốt không?" - cháu hỏi. "Chúa thấy đấy, hoàn toàn tốt và có một lượng bánh hợp pháp..." - "Thế thì các ông chẳng việc gì phải sợ" - cháu nói. Và cháu làm đơn cho họ...Hiện giờ vẫn chưa biết là ai sẽ được...Còn https://thuviensach.vn nếu do chuyện này mà họ kêu ca với chú về cháu thì dễ hiểu thôi: chiếc áo sơmi mình đang mặc là gần thân mình hơn cả, đối với ai cũng thế. - Đối với ai cũng thế, nhưng có lẽ không phải là đối với cháu - ông già nói thấp giọng... - Thế còn mày mưu mô những gì cùng với nông dân Sutôlômôpxki vậy? - Làm sao chú biết được? - Vậy mà ta biết đấy. - Lần này cháu cũng lại đúng, một lần nữa xin chú xét cho. Một người ở cạnh làng Sutôlômôpxki tên là Bexpanđin bắt đầu cày bốn đêxiatin đất. Bảo đấy là đất của y. Nông dân Sutôlômôpxki làm theo chế độ tô, địa chủ của họ ra nước ngoài, vậy thì ai là người bênh vực họ, chú thử xét xem? Mà ruộng ấy là của họ, không thể nào chối cãi được, ruộng của nông nô, từ bao đời nay rồi. Họ đến tìm cháu, bảo: "Cậu viết hộ lá đơn". Thế là cháu viết cho họ. Bexnanđin biết chuyện và hăm dọa. "Ta sẽ vặn bật hết xương bả vai của nó ra, mà có khi còn lấy cả đầu nó nữa ấy chứ..." . Để rồi xem y sẽ lấy đầu cháu như thế nào, hiện giờ thì nó vẫn còn nguyên vẹn. - Thôi đi, đừng có huênh hoang: rồi cái đầu mày sẽ không tránh khỏi tai vạ đâu - ông già thốt lên - Mày là thằng điên rồ! - Nhưng thưa chú, chẳng phải là chú đã từng nói với cháu rằng... - Ta biết, ta biết cháu sẽ nói với ta - Ôpxianikôp ngắt lời anh ta, đúng thế, con người ta phải sống theo lẽ công bằng và có bổn phận giúp đỡ những người ở gần ta. Có khi cũng không nên tiếc thân mình... Nhưng có phải cháu vẫn luôn luôn hành động như thế không? Cháu có để cho người ta kéo cháu vào quán rượu không? Cháu có làm cho người ta phải thết đãi cháu, cúi chào cháu, năn nỉ cháu không? "Đmitơri Alêcxêiêvits, anh giúp chúng tôi với, chúng tôi sẽ xin hậu tạ? - Rồi họ giúi và tay anh tờ một rúp hay tờ giấy xanh, có không nào? Không à? Nói đi, có không nào?" - Chuyện đó thì đúng là cháu có lỗi - Mitia cúi mặt, đáp - Nhưng cháu không lấy của người nghèo và không làm trái với lương tâm. - Bây giờ thì anh không lấy, nhưng túng bí thì anh sẽ lấy. Không làm trái lương tâm... ôi https://thuviensach.vn chao? Mà chắc anh bênh vực toàn những vị thánh cả đấy! Thế anh quên Borka Pêrêkhôđôp rồi chắc?...Ai lo liệu cho anh ta? Ai bênh vực anh ta? - Pêrêkhôđôp mắc nạn là lỗi tự anh ta... - Tiêu tiền của nhà nước... Chuyện đùa đấy hẳn? - Nhưng thưa chú, chú thử nghĩ xem: nghèo túng, gia đình... - Nghèo túng, nghèo túng... Rượu chè, cờ bạc thì có. - Vì đau xót nên anh ta mới đâm ra uống rượu Mitia hạ giọng nói. - Vì đau xót! Nếu anh hằng tâm như thế thì nên giúp đỡ anh ta, chứ không nên cùng ngồi với người say trong các quán rượu. Về cái tài khéo nói thì chưa ai bằng anh! - Anh ấy là người rất tốt. . . - Người nào quen anh cũng là người tốt cả... Mà này, - Ôpxianikôp nói với vợ - Họ đã gửi cho anh ta ...ờ, cái đó thì mình biết rồi đấy... Tatiana Ilinitsna gật đầu. - Những ngày gần đây anh biến đi đâu? - ông già lại lên tiếng. - Cháu ở thành phố. - Chắc là anh lại chơi bi da và uống trà, đánh ghi ta, lui tới các nhà chứa, thảo đơn từ trong các buồng kín, trưng diện với bọn con trai nhà buôn chứ gì? Đúng không nào? Nói đi?... - Có lẽ đúng đấy ạ - Mitia mỉm cười, nói - à phải rồi! Suýt nữa thì cháu quên: Funtikôp Antôn Pariênưts mời chú chủ nhật này đến ăn với ông ta. - Ta không đến ăn với gã bụng phệ ấy. Ông ta sẽ làm một con cá đáng giá một trăm rúp mà lại dùng bơ hỏng để rán. Mặc ông ta! - À, cháu vừa gặp Fêđôxya Mikhailôpna. - Fêđôxya nào? - Fêđôxya của ông địa chủ Garpentsenkô, cái ông đã mua Mikulinô trong cuộc bán đấu giá ấy mà. Fêđôxya là người ở Mikulinô. Chị ta sống ở Matxcơva, làm nghề thêu thùa và nộp tiền niên phú rất chu tất, một trăm tám mươi hai rúp rưỡi mỗi năm. Chị ta thông thạo công việc của mình: Ở https://thuviensach.vn Matxcơva chị ta nhận được những món hàng tốt. Còn bây giờ, Garpentsenkô gọi chị ta về, và giữ chị ta ở làng mà chẳng trao cho chị nhiệm vụ nào cả. Chị ta muốn tự chuộc mình ra, và đã nói với chủ nhưng ông ta vẫn không quyết định gì cả. Chú quen Garpentsenkô, chú có thể nói với ông ấy một chút được không?...Fêđôxya sẽ trả tiền chuộc hậu hĩ đấy. - Dùng tiền của anh để trả chứ? Phải thế không? Thôi, thôi được, ta sẽ nói với ông ấy, ta sẽ nói. Nhưng không biết có ăn thua gì không - ông già nói tiếp, vẻ mặt bực bội - Cầu Chúa tha lỗi. Garpentsenkô là kẻ biển lận: hắn mua hối phiếu, cho vay nặng lãi, điền trang của hắn là do hắn mua đấu giá đấy... Mà chẳng biết ai lôi kéo hắn tới vùng ta? Ôi chao, tôi chán cái dân thập phương đến lập nghiệp ở đây lắm rồi? Làm cho hắn hiểu ra lẽ phải cũng không dễ đâu, nhưng cứ thử xem. - Chú lo liệu hộ, chú nhé. - Được, ta sẽ lo liệu. Nhưng cháu phải cẩn thận, coi chừng đấy? Thôi, thôi, đừng có biện bạch...Cầu Chúa che chở cho anh, Chúa phù hộ anh! Nhưng từ nay trở đi phải cẩn thận, không thì tai họa đấy chứ không bỡn đâu, Mitia ạ, ta nói thực đấy, khéo không mà mất mạng. Không phải lúc nào ta cũng gánh đỡ được cho cháu... bản thân ta cũng chẳng có quyền thế gì. Thôi, bây giờ thì đi đi. Mitia ra. Tatiana Ilinitsna ra theo. - Pha trà ngon cho nó uống thoả thích đi, mình ạ - Ôpxianikôp nói với theo... - Nó không phải đứa ngốc nghếch đâu - ông ta nói tiếp - lại có lòng tốt nữa, nhưng tôi sợ cho nó... Chết thật, ông thứ lỗi tôi làm ông mất nhiều thời giờ quá về những chuyện vớ vẩn. Cửa phòng ngoài chợt mở ra. Một người thấp bé, tóc bạc, mặc chiếc áo dài xẻ vạt bằng nhung bước vào. - A, Frantx Ivanưts! - Ôpxianikôp kêu lên. Chào ông! Chúa vẫn gia ơn cho ông chứ? Bạn đọc thân mến, cho phép tôi giới thiệu với bạn ông này nữa. https://thuviensach.vn