🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bức Họa Maja Khỏa Thân - Samuel Edwards full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Bức họa Maja khỏa thân
Bản dịch của
MẠC MẠC
Nguyên tác tiếng Anh:THE NAKED MAJA Dịch từ bản tiếng Pháp:LA MAJA NUE do FRANCE MARIE WATKINS dịch từ tiếng Anh Nhà xuất bản GALLIMARD, Paris - 1959 SAMUEL EDWARDS
NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH
NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ TP. HỔ CHÍ MINH
Chịu trách nhiệm xuất bản: ĐINH QUANG NHÃ
Biên tập: DƯƠNG NGỌC HÂN
Sửa bản in: CÚC DƯƠNG
Trình bày bìa: NGUYỄN VIỆT HẢI
In 1000 cuốn khổ 13x19cm tại Xưởng in Bình Hòa. GPXB số: 307/1397CXB-QLXB ký ngày 20/11/2000. In xong và nộp lưu chiểu tháng 7/2001.
Thông tin ebook:
Nguồn sách in: Cát Cát
Scan: Rafa
Đánh máy: nguyenhaidiep, ane Nguyen, huyenthanh.585, 4DHN Viết review: teacher.anh
Soát lỗi lần cuối và làm ebook: 4DHN
Ngày hoàn thành: 24-7-2016
Cho và nhận
Bức họa Maja khỏa thân (La Maja Nue) tác phẩm của Samuel Edwards, viết về Francisco José de Goya y Lucientes – họa sĩ người Tây Ban Nha, người theo trường phái lãng mạn từ thế kỷ 19 cho đến tiền bán thế kỷ 20. Đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử không chỉ viết về một phần đời của người họa sĩ tài hoa mà còn cung cấp cho người đọc một một cái nhìn khái quát nhưng rất chân thực và sống động về lịch sử đất nước Tây Ban Nha thời ấy, những quan điểm về đấu tranh cho tự do, những giằng xé tâm lý giữa trách nhiệm, nghĩa vụ, tình yêu, lý tưởng, niềm kiêu hãnh và danh dự…
Cuốn sách không làm công việc tóm tắt cuộc đời và tác phẩm của người nghệ sĩ, mà thay vào đó, bằng ngôn từ đã xoáy sâu vào phần tâm thức của Goya, ảnh hưởng của phần tâm thức này trên những bức họa mà ông vẽ “…Nó cay độc và tàn nhẫn – song chân lý nhiều khi tàn ác có phải không? Tranh của ông làm tôi có cảm giác như tận mắt nhìn thẳng vào sự thật. Rõ quá. Đáng sợ quá. Tại sao như vậy?...”
Tác giả Samuel Edwards cũng nêu ra trong truyện những vấn đề tác động đến tình cảm giữa hai con người không cùng giai cấp Goya và nữ Công tước Maria, họ tuy khác biệt nhau nhưng lại cũng rất giống nhau. Họ cuốn hút nhau không chỉ bởi vẻ đẹp bề ngoài mà còn bởi lòng tự tôn và lý tưởng mà họ mang trong mình. Hai con người này, vừa kiêu hãnh lạnh lùng, lại vừa nồng nàn say đắm, trong xã hội nước Tây Ban Nha phong kiến, thoáng qua tưởng chừng như chẳng thể nào đến được với nhau bởi ngăn cách giữa họ là những vấn đề có thể hoặc không thể dễ dàng trả lời, nhưng khi chịu khó đọc kỹ và ngẫm nghĩ vẫn có thể nhận thấy lời yêu chưa ngỏ, khao khát biện minh cho chính mình của Goya, tỉ như đoạn ông đáp trả những lời buộc tội của nữ Công tước về bức biếm họa của mình “…Tôi thấy dường như trong cuộc sống, sự thật cái mà ta gọi là chân lý ấy, mang bộ mặt của ác quỉ. Nhưng quỉ dữ không làm ta sợ hãi, nếu ta dám nhìn thẳng vào mặt nó. Chỉ khi nào ta tìm cách tự đánh lừa mình, chỉ khi nào ta cố tình và hèn nhát lẩn trốn trong sự dối trá thì đó mới là
điều nguy hiểm…”.
Cuốn truyện cuốn hút không chỉ bởi câu chuyện tình yêu của họa sĩ và nữ Công tước mà còn trải ra trước mắt bạn là cả một đất nước Tây Ban Nha với đủ mọi tầng lớp, từ vua chúa, quý tộc tới thị dân, đấu sĩ, những cô “maja” phục vụ trong quán rượu, với đủ mọi bộ mặt của lớp người đại diện cho nó và còn nhiều nhiều nữa những ẩn ý nằm sâu trong từng câu chữ và câu truyện quanh bức họa Maja khỏa thân.
Người đọc nào chưa có điều kiện đọc và tìm hiểu lịch sử cũng như nền hội họa châu Âu trong nửa đầu thế kỷ mười chín, qua cuốn tiểu thuyết này có thể có được một cái nhìn tổng quan và hiểu biết thêm.
Sau tất cả, khi khép lại cuốn truyện này, đọng lại trong tôi là là những xúc cảm rất thực, đau đáu nỗi niềm của nữ Công tước Maria và Goya, người nghệ sĩ – họa sĩ tài hoa, cả hai đều chất chứa trong tim mình tình yêu dành cho tổ quốc, và tình yêu họ dành cho nhau đan xen trong đó, họ “mắc nợ” nhau:
Anh mắc nợ em một lời xin lỗi
Em mắc nợ anh một đời nông nổi
Và cũng bởi “duyên” và “nợ” mà họ luôn đau đáu hướng về nhau. Họ đã minh chứng trong chuyện tình của mình một chân lý mà dù ở thời đại nào tôi vẫn thấy đúng “ Trong tình yêu, không có chỗ cho hận thù và lòng kiêu ngạo”– Phải. Cho đi để đón nhận hạnh phúc, vì sao phải mãi so đo thiệt hơn?
Trân trọng giới thiệu tác phẩm này với các bạn.
Lời giới thiệu
Bức họa Maja khỏa thâncủa Samuel Edwards là một cuốn tiểu thuyết lịch sử sôi động và hấp dẫn từ đầu đến cuối, một cuốn sách nồng nàn hơi ấm tình yêu Tổ Quốc, tình yêu tự do, công lý, tình yêu nghệ thuật, một cuốn sách phản ánh lịch sử và nghệ thuật trên quan điểm tiến bộ của thời đại chúng ta.
Ít có cuốn sách nào viết về một nghệ sĩ của quá khứ mà lại sinh động, phong phú và chứa đựng được nhiều tư tưởng tốt đẹp đến như vậy. Phải yêu và phải hiểu Gôya đến thế nào, và hơn nữa phải có một tình yêu sâu sắc đối với đất nước và nhân dân lao động Tây Ban Nha như thế nào, phải hiểu và đồng cảm với nghệ thuật và nghệ sĩ đến thế nào... mới có thể tái hiện lại cả một đất nước và một con người vĩ đại qua mấy trăm trang sách làm say mê mọi người...
Samuel Edwards, một nhà văn tiến bộ Mỹ chưa phải là một tên tuổi lớn của văn học thế giới, nhưng rõ ràng chỉ với tác phẩm này thôi, đóng góp của ông thật đáng quí và đáng ghi nhận cho thể loại tiểu thuyết lịch sử và thể loại truyện danh nhân.
Nhưng tại sao lại có tiêu đề Bức họa Maja khỏa thân?- Đó là một bức danh họa của thiên tài Gôya, kết quả của tình yêu nghệ thuật và của những giây phút đắm say trong tình yêu của nghệ sĩ với Maria Cayettana, một phụ nữ quí tộc lừng danh tiêu biểu cho khát vọng tự do, dân chủ, cho ý chí chống lại triều đình phong kiến mục nát.
Tòa án Giáo hội Tây Ban Nha, một công cụ của chế độ chuyên chế tàn ác, đã đưa bức họa này ra như một bằng chứng để kết tội họa sĩ. Chúng cho rằng vẽ người trần truồng là chống lại Thượng đế, chống lại con người, là trọng tội. Nhưng Gôya, với lòng yêu và kính trọng vẻ đẹp của con người, vì những thôi thúc chống lại chế độ chuyên chế tàn bạo đè bẹp con người dưới những tín điều kinh viện học trung cổ của nó, đã dõng dạc trả lời:
– Thân thể trần truồng của đàn bà là tác phẩm tuyệt mỹ của tạo hóa, còn ý thức về sự tà dâm, về sự trần truồng ấy là sản phẩm của bản chất gian manh!
Cần phải đặt bức tranh vào phối cảnh lịch sử đã sản sinh ra nó để hiểu nó và hiểu Gôya, và hiểu vì sao tiểu thuyết này lại mang tên bức tranh ấy, một cái tên có ý nghĩa ẩn dụ, tuyệt nhiên chẳng phải vì muốn khơi gợi một ý nghĩ không lành mạnh nào...
Cuốn tiểu thuyết này có những ưu điểm lớn: qua cuộc đời của một nghệ sĩ, nó làm ta hiểu và yêu cả một đất nước, một dân tộc. Dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ chuyên chế, những người lao động Tây Ban Nha luôn luôn nung nấu một chí đấu tranh cho tự do, công lý. Những con người bình thường ấy là bạn của Gôya, cũng như chính Gôya vĩ đại là con của một người thợ mộc bình thường ở một miền quê. Và khi quân xâm lược Pháp tới, những con người ấy đã đứng lên, cầm vũ khí, vào rừng sâu, chống giặc. Đất nước của những trận đấu bò tót, của những đấu sĩ bò tót (Matado) của những người áo vải, những người cùng khổ, những cô “maja”, đất nước của Xecvantec, của Gôya và của Picatxô sau này... đấy là một đất nước trong đau thương vẫn nồng thắm tình yêu đời, tình yêu công lý.
Những người Việt Nam chúng ta, qua kinh nghiệm của bản thân mình, qua cuộc chiến đấu mấy chục năm cho độc lập, tự do của Tổ quốc, thông cảm sâu xa điều này. Và cuộc đời của một nghệ sĩ vĩ đại như Gôya bao giờ cũng gắn liền với vận mệnh của Tổ quốc và nhân dân mình.
Bản thân cuộc đời Gôya là sôi động và phong phú. Nhưng nếu chỉ qua tóm lược tiểu sử hay qua sự thể hiện vụng về, sơ lược, sự phong phú ấy sẽ bị rơi rụng gần hết. Phải tái hiện lại. Nhưng bằng cách nào? Không thể bịa đặt, thêm thắt, mà phải căn cứ vào những sự kiện có thực trong cuộc đời nghệ sĩ, rồi bằng sự hiểu biết và rung cảm của mình đối với cuộc sống Tây Ban Nha thời đại Gôya, mà chắp cánh cho trí tưởng tượng và dựng lại cuộc đời ấy như chính mình từng chứng kiến.
Như thế cuốn sách làm phong phú thêm chứ không làm nghèo đi cuộc đời Gôya, mà vẫn chân thật, một sự thật đầy tính nghệ thuật, nghĩa là một sự chân thật có cân nhắc, chọn lọc và đạt đến sự hoàn mỹ. Có thể xem cuốn sách là một trong những mẫu mực về viết danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa.
Chúng tôi đã từng đọc Pie đại đếcủa A.Tôlxtôi, một mẫu mực (tuy A.Tôlxtôi chưa viết xong) về tiểu thuyết lịch sử. Cuốn sách này là một
mẫu mực khác, của một tác giả khác viết về đất nước khác. Như thế, mặc dù rất hấp dẫn - cái hấp dẫn trước hết là thuộc về chất liệu, về nội dung hùng hực sôi động của cuộc đời Gôya, thuộc về nghệ thuật biểu hiện của tác giả, cuốn sách này mang trong nó những chủ đề lớn, rất gần gũi với tâm hồn dân tộc ta. Đây không phải thuộc loại sách hấp dẫn bằng cái màu mè bên ngoài, cái nhảm nhí nhất thời, mà hấp dẫn bằng qui luật vĩnh cửu của cuộc đời và nghệ thuật: tư tưởng sâu sắc, nghệ thuật trác việt.
Vậy xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
1. Bước vào đời – cuộc tìm kiếm chính bản thân mình – họa sĩ, kiếm sĩ và đấu sĩ bò tót (Matado) – Người sáng tạo chỉ có một thứ để bán: Thời gian
Luồng gió tự do mạnh mẽ tràn khắp Châu Âu vào thế kỷ 18. Nước Anh phải thu bớt đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp quý tộc, về hình thức, đã giao công việc nhà nước cho những đại biểu được dân chúng bầu lên. Pháp đã chặt đầu vua và trở thành một nước Cộng hòa. Nước Ba Lan hướng nguyện vọng theo những trào lưu tư tưởng tự do, bất chấp những đội quân Nga và Phổ đang chiếm đóng. Trong khi ấy thì ở Viên, Đế chế Hapxbua cũng buộc phải thừa nhận một kiểu độc lập nào đó cho các dân tộc Bôhêm và Hunggari.
Chỉ riêng nước Tây Ban Nha là trì đọng lại, bị kìm hãm bởi tầng lớp quý tộc mà uy quyền phong kiến không hề bị suy yếu. Bóng đen của Giáo hội còn bay lượn trên đất nước, và thần dân của đức vua Sáclơ đệ tứ sống dưới một triều đại khủng khiếp, hầu như chẳng có gì thay đổi kể từ thời Trung cổ.
Song, dù cho các cửa lớn và cửa sổ bị đóng kín, mặt trời cũng đã chiếu rọi vào đó. Đúng, Tây Ban Nha đã bắt đầu chuyển động và cũng giống thời kỳ Phục hưng, những nhà văn và những nghệ sĩ đang dẫn đầu phong trào.
Mặc dầu tầng lớp quý tộc và Giáo hội đã có nhiều cố gắng hạn chế bóp nghẹt phong trào, kìm hãm dân chúng trong vòng nô lệ, nhưng vẫn chẳng thể nào đàn áp được tất cả những người có ý tưởng tự do và họ bình đẳng với những quý tộc lớn hoặc những thẩm phán của Tòa án Giáo hội.
Ở thủ đô Mađrit và ở thành phố Bacxơlôna, nhiều họa sĩ, nhà văn đã bắt đầu công khai phát biểu những luận điểm về tư tưởng tự do, nhưng chính tại thành phố Saragôt, thủ phủ xứ Aragôn này, lòng tin mới vào quyền con người, quyền cơ bản công dân đã phát triển nhanh hơn cả.
Năng nổ nhất trong những người truyền bá tư tưởng tiến bộ ấy là Franxitxcô Gôya.
Sinh viên, trí thức coi thường tổ chức an ninh của Thủ tướng Đông Mannuen đê Gôđoa, chẳng kể gì đến mật vụ của Giáo hội, ngày nào họ cũng tụ tập trên cầu Puentê đê Piedra, mà bảy nhịp vòm cầu đứng sừng sững trên sông Ebrơ, để phát biểu lập trường quan điểm, bàn bạc về kế sách hoạt động, quyết tâm tranh đấu cho ngày sắp tới; họ không hề sợ hãi khi phát biểu công khai chính kiến của mình.
Vào thời gian đang nói đây, nhà cầm quyền Saragôt đối xử với lớp thanh niên bồng bột này rộng lượng, có phần nương nhẹ. Thành phố nhớ đến truyền thống lịch sử về nền độc lập trước đây, hổ thẹn vì sự suy sụp của nó bắt đầu từ ngày Hoàng đế Fecđinăng kết hôn với nàng Idabenlơ đơ Catxtiơ và đặt thủ đô ở Mađrit. Vì vậy, nên chính quyền đã để mặc những người ngoại đạo và một số giáo sĩ hoạt động, đồng tình che chở cho những cái đầu bốc lửa nhất, đến mức còn có thái độ như là khuyến khích họ nữa.
Dĩ nhiên, đôi khi nhà chức trách cũng than phiền về một vài sự quá khích, điều này chẳng bí mật đối với ai cả, những người đương đầu với lực lượng cảnh sát Catxtiơ một cách quyết liệt hơn cả là đồ đệ của Giôdê Mactinê, một giáo sư có tài, một họa sĩ bậc thầy rất được kính trọng. Ông có thái độ khiêm tốn và đức kính tín đến nỗi những thẩm phán nghiệt ngã nhất của Giáo hội cũng chẳng bao giờ tìm được điều gì trách cứ ông.
Franxitxcô Gôya là học trò ông. Anh tỏ ra rất ít đức sùng tín, rất ít khôn ngoan đến nỗi bạn bè đã báo trước là rồi anh sẽ bị treo cổ. Gôya sống và làm việc trong một gian buồng xép chật hẹp ở tầng dưới ngôi nhà của giáo sư Mactine gần tòa nhà thờ tuyệt diệu Santa Maria đen Pila.
Vào buổi tối, rất khó tìm thấy anh ở nhà, giờ ấy người ta thường gặp anh ở quán ăn, tiệm rượu, bận rộn với chuyện chè chén, nhảy nhót và tán gái.
Vậy mà buổi tối hôm ấy, anh chàng lại ngồi trên cái giường gỗ khổ, mắt nhìn chăm chăm vào cây thánh giá treo trên mảng tường quét vôi trắng, để tai lơ đãng nghe những lời trách móc của Mactin Dapatơ, bạn anh. Hơn Gôya một vài tuổi, Mactin Dapatơ là một trí thức có tiếng tăm, vừa là nhà triết học vừa là cây viết phê bình văn học và nhà báo. Trang phục giản dị, làm người ta khó tin anh là một người khá giàu, có một tòa nhà riêng ở Saragôt và một cơ ngơi khác nữa ở
Mađrit. Thường ngày tính tình anh vốn bình thản, điềm tĩnh thế mà tối nay anh cũng phải phát khùng lên:
– Pacô! - Anh dằn từng tiếng - Cậu không chịu nghe mình. Gôya là một chàng trẻ tuổi kiêu căng và nhạy cảm. Kẻ thù của anh cũng phải thừa nhận điều ấy. Mồ côi từ nhỏ, đơn độc giữa cuộc đời, anh tự kiếm sống bằng đôi tay và tài năng của mình. Anh có năng khiếu đặc biệt, có con mắt nhìn chân chính của một họa sĩ. Nhưng khốn thay, anh cũng có nhiều buông thả trong nếp sống. Những thành công bước đầu làm cho đầu óc anh quá say sưa. Anh học đòi phong cách sinh hoạt của bọn quí tộc. Không vừa lòng với danh tiếng một họa sĩ, anh còn tìm cách nổi tiếng trong những hoạt động khác chỉ dành riêng cho tầng lớp trên. Từ lâu, anh đã bỏ rất nhiều tiền để trả học phí cho những bài học đánh kiếm, mỗi ngày để hàng giờ vào những cuộc đấu võ, hình như anh không nhận thức được rằng tiếng tăm lừng lẫy anh mới đạt được bằng những cuộc đấu kiếm không nâng cao thêm vinh quang về hội họa chút nào.
Nếu anh bớt kiêu căng phóng túng đi một chút thì các giáo sư và bè bạn đã có thể làm cho anh hiểu biết lẽ phải, nhưng con người anh lại có nhiều nét gợi cảm khiến chẳng ai có thể cáu giận được. Ngay cả Dapatơ nữa, mặc dù rất lo buồn, nhưng lúc này cũng cảm thấy cơn thịnh nộ giảm dần, và trong thâm tâm chỉ còn cầu mong cho người mà anh che chở biết sống mực thước và khiêm tốn hơn nữa.
Gôya là một thiên tài. Dapatơ vẫn tin tưởng sâu sắc như vậy; nếu như anh ta không tự hủy hoại đời mình trong cuộc sống phóng túng của tuổi trẻ điên cuồng, thì cây bút vẽ của anh, sẽ mang lại nhiều quang vinh cho Saragôt hơn tất thảy mọi nghệ sĩ khác.
Dapatơ dịu giọng nhắc lại:
– Đấy, Pacô, cậu nghĩ xem...
Gôya cười với anh, đưa bàn tay xốc mớ tóc đen dài trên đầu, và trả lời một cách mệt mỏi.
– Tôi nghe anh, Mactin ạ. Suốt buổi sáng nay, bố già Mactinê đã cho một bài thuyết giáo rồi, bây giờ anh lại bắt đầu nữa, đến nữ thánh Têredơ cũng không đủ kiên nhẫn để nghe tất cả những lời giáo huấn ấy đâu.
– Pacô ạ, điều đáng buồn là cậu đã khước từ những lời khuyên răn
tốt. Cậu tự nghĩ, là nghệ sĩ thì có quyền làm tất cả những cái gì thích, vào bất cứ lúc nào muốn. Nhưng mình bảo, chính cậu là điều hổ thẹn cho nghề nghiệp của cậu. Hãy tự ngắm lại mình xem.
Gôya cúi nhìn chiếc quần chẽn lụa vàng, đôi giày da mềm khâu tay, cái áo ngoài bằng nhung màu ngà có hàng cúc bạc và cổ viền đăng-ten mỏng. Anh sầm mặt, cau mày đứng dậy:
– Anh phê phán gì về cách ăn mặc của tôi?
– Cậu diện như một ngài quý tộc Tây Ban Nha chứ không phải là một họa sĩ.
– Tôi mua áo ngoài bằng tiền thưởng trong cuộc đấu bò tót cách đây ba hôm. Còn quần và đôi giày là tiền được bạc ở tiệm rượu “Con quỷ” đấy.
– Đấu bồ tót, đánh bạc! Có phải cứ thế mà cậu hy vọng phát triển được tài năng không?
– Tôi cũng còn hơn chán bọn sĩ quan công tử bột vẫn ngông nghênh như những con gà trống vênh váo trên bộ cựa. Gôya vừa dang rộng đôi tay vừa lớn tiếng cãi lại.
– Mình không nghi ngờ điều đó. Nhưng không phải cậu đi học mót những kiểu cách rởm đời, những thói tục xấu xa của chúng để chứng tỏ điều ấy. Một thằng quý tộc trẻ ranh cả đời không làm ra một “maravêđi”[1] nhỏ, có thể vênh vang lê la ở các quán rượu, ve vuốt những cô gái chơi xu nịnh. Mình thấy cậu học đòi bọn ấy, không hay đâu.
– Nếu là người khác, tôi sẽ không tha thứ những lời nhục mạ ấy. - Gôya nói với giọng thách thức.
– Thì cậu làm gì nào? Cậu định thách đấu kiếm với mình, như bọn sĩ quan người Catxti[2] đầy kiêu ngạo chăng? Hay cậu thách mình một cuộc đấu roi trên sân?
– Mactin, tôi đã nói trước rồi đấy.
Gôya bước tới, vẻ đe dọa, bàn tay nắm chặt. Nhưng bạn anh không nhúc nhích. Họ gườm mắt nhìn nhau. Cuối cùng Gôya quay mặt đi, bỏ ra nằm xuống giường, hai tay ôm lấy đầu.
– Tại sao anh khinh tôi, Mactin?
– Tôi không khinh cậu. Chính cậu tự khinh mình. Thói kiêu căng
đẩy cậu đến chỗ quên là cậu đã xuất xứ từ một làng nhỏ và quên ông thân sinh ra cậu là một người thợ mộc.
– Tôi không quên bố tôi, cũng không quên cái làng nhỏ của mình. Mỗi khi nghĩ đến ông cụ - một người thợ thủ công chân thực nhất - và nhìn thấy ông trong xưởng mộc, cúi gập mình xuống trước mặt tên lãnh chúa Fuente đê Tôđôt (Fuente de Todos) tôi tự nguyện với mình quyết chẳng bao giờ quỵ lụy trước mặt ai. Người Pháp đã chẳng từng tuyên bố rằng tất cả mọi người trong xã hội đều bình đẳng đó sao? Tôi không phải cấp dưới của một quý tộc ngốc nghếch nào hết.
– Chuyện ấy thì còn phải xem đã. - Dapatơ lẩm bẩm nói và ngồi xuống cái ghế duy nhất trong buồng. - Người Pháp cho rằng người ta sinh ra đời đều bình đẳng. Không phải chỉ đơn giản như vậy đâu, Pacô. Người ta chỉ có thể đạt được ý nguyện tự do, bình đẳng bằng sự nỗ lực của chính bản thân. Cậu vẽ bức chân dung giáo sĩ Đôn Mactin Ankuê tốt đấy. Nhất là cái đầu, cậu đã thành công. Nhiều người nhận xét rằng cậu lột tả được cả tâm hồn ông ta trên mặt vải. Nhưng phần thân người, cậu vẽ tệ quá. Cậu đã chứng minh một sự dốt nát hoàn toàn về giải phẫu học, hoặc một sự lười biếng không thể tha thứ được.
Franxitxcô biết chắc chắn là không thể bào chữa những khuyết điểm hiển nhiên đó. Anh cúi mặt, mân mê cái dây xích nhỏ đeo kiếm bằng bạc, thú nhận:
– Đề tài vẽ, cuối cùng đã làm mình chán ngắt.
– Vậy mà cậu tự coi mình là họa sĩ! Thế bọn gái chơi ở quán rượu “Con quỷ” có làm cậu chán ngắt không và chắc cậu cũng chẳng chán chuyện đánh bạc với mấy thằng thiếu úy Catxti, hay đấu bò tót trong các trường đấu.
Gôya không thể giải nghĩa được những điều anh cảm thấy trong tâm hồn, cả với người bạn thân chỉ lo lắng giúp đỡ anh. Anh không thể thú nhận mỗi lần đối mặt với một con bò tót hung dữ hay đọ kiếm với một tay kiếm lão luyện là một lần anh tìm cách vượt qua nỗi lo sợ thất bại thường xuyên ám ảnh. Anh muốn tự rèn luyện để trở thành một nhân vật nổi tiếng mà tất cả thành phố Saragôt thừa nhận, và cả đất nước Tây Ban Nha sau này sẽ biết anh như một con người phiêu lưu táo bạo, lịch sự, tinh tế. Chỉ như vậy, anh mới có
thể chiến thắng được nỗi ưu tư của mình.
– Cách tôi đang sống đây chẳng phương hại gì đến nghề nghiệp cả. - Anh chống chế.
– Cậu tưởng thế? Giáo sư Mactinê nói rằng sau khi vẽ bức chân dung của giáo sĩ, cậu không cầm đến bút vẽ nữa.
– Cũng phải để cho tôi chút ít thời gian chứ.
– Pacô, người sáng tạo chỉ có mỗi một thứ để bán: Thời gian của anh ta! Những tháng ngày cậu để mất đi sẽ chẳng bao giờ tìm lại được. Giáo sư Mactinê nói chắc chắn rằng cậu có thể trở thành nổi tiếng như Vêlâtxkêđơ[3], một vinh quang lớn của Tây Ban Nha, nhưng với điều kiện cậu phải làm việc. Kỹ thuật của cậu còn non, nhiều điểm chưa tốt, cậu đưa những nhát bút bạt mạng. Cậu cứ vẽ ào đi.
Bị chạm tự ái, Franxitxcô cãi lại:
– Tôi biết còn phải học nhiều, nhưng cho dù có trở thành một Vêlâtxkêđơ thứ hai đi nữa, thì tôi vẫn cứ vẽ nhanh như thế. Vừa thoáng thấy một hình ảnh, tôi phải lập tức ghi lại trước khi nó tan biến mất.
– Cái cần cho cậu là kỷ luật. Một kỷ luật bản thân!
Chàng trẻ tuổi bướng bỉnh cãi:
– Anh muốn gò bó tôi vào vòng tù hãm. Thế mà anh lại coi mình đứng về phía đấu tranh cho tự do.
– Chỉ những ai có khả năng tự khép mình vào kỷ luật thì mới thực sự tự do.
– A, thật chứ? Vì anh chưa biết cuộc đời của Benvonutô Xenlini[4] người Florăngxơ đấy. Ông ta, cờ bạc như quỷ, đấu kiếm và tán gái lu bù.
– Và ông ta cũng làm việc nữa. Tôi đã được xem tác phẩm của ông ở Mađrit và ở Bacxơlôna. Tôi chẳng tin lắm lời tự thuật của một người Italia như Xenlini. Cái quan trọng là những phù điêu và tượng đài mà ông để lại. Những kiệt tác ấy chỉ có thể tạo nên sau những năm dài thao thức, lao động và nghiên cứu.
Nhiều lúc Franxitxcô tự hỏi phải chăng Xenlini lao vào một cuộc sống phóng đãng như vậy chính là do ông cũng đã từng đau khổ và ngờ vực trong cuộc sống. Nghệ sĩ Florăngxơ bậc thầy này tất đã phải
nếm trải những dằn vặt của người sáng tạo, những ưu tư của nghệ sĩ, nhưng ông lại muốn để lại những kỷ niệm sống như một con người vô tư, một hạng người thấp hèn chẳng chút lo nghĩ, một tay chơi phù phiếm. Phải chăng Franxitxcô cũng có ý để lại cho đời những kỷ niệm như vậy? Bằng không, anh phải buộc lòng thú nhận cái yếu đuối trong tâm hồn mình.
– Có gì phải lo cho bản thân tôi, Mactin! - Anh càu nhàu - Tôi không hiểu sao anh thắc mắc như vậy?
– Tôi không hiểu cậu sẽ trở thành con người như thế nào - Mactin vừa cầm chiếc mũ “tricoóc”[5] vừa trả lời - Nếu cậu không thay đổi cách sống, trước hết cậu sẽ chết sớm. Mặt khác, cậu chỉ có thể trở thành một họa sĩ tồi sống vất vưởng với vài chân dung những anh hạ sĩ quan, hoặc gặm mấy đồng “đuca” bằng cách tô màu lại mấy bức bích họa trong một nhà thờ thôn quê nào đó.
– Không đúng!
– Cậu đáng khá hơn thế, Pacô! Cậu có thể trở thành một họa sĩ lớn của thời đại. Nhưng để đạt tới điều đó cậu còn thiếu hai cái: cậu không hiểu nghĩa của chữ trắc ẩn và chưa bao giờ đau khổ. Ngày nào cậu hiểu rõ được hai điều đó, lúc ấy, thật thế, cậu sẽ trở thành một nghệ sĩ chân chính.
Dapatơ đi khỏi, gian phòng trở nên lạnh ngắt. Gôya ngồi yên trầm ngâm, suy nghĩ.
Đêm bắt đầu xuống, khi anh đứng lên, ra khỏi trạng thái trầm tư. Anh đặt túi tiền vào thắt lưng, đeo kiếm, đội mũ có ngù lông và đi về phía quán rượu “Con quỷ”. Lời phê phán của Dapatơ khích động anh, chỉ đủ làm anh càng tin vào nỗi băn khoăn dằn vặt của mình. Anh thừa biết, nếu là người hiểu lẽ phải, thì phải bắt tay vào công việc ngay, nhưng anh không thích vẽ dưới ánh đèn, tự cảm thấy tâm hồn xao động bứt rứt, nếu đóng cửa ngồi trong nhà. Anh cần có bạn bên cạnh mình, chắc chắn đến quán “Con quỷ” anh sẽ tìm được bạn ngay.
Quán rượu “Con quỷ” nguyên trước là một tiệm nhỏ, nơi gặp gỡ của thợ thuyền, nhưng mấy năm nay, quán này như tiếp thu một trào lưu mới, những nhân vật thượng lưu Tây Ban Nha không ngần ngại lui tới quán rượu. Nguyên nhân đưa họ tới đây, một phần vì ở đấy họ có thể chơi bời thả cửa, trút bỏ vẻ cao đạo hằng ngày, phần khác, vì
ở đây, tìm bọn gái điếm dễ dàng hơn.
Những bàn gỗ mộc đặt giữa các bức tường quét vôi sơ sài, trong ấy xông lên nồng nặc mùi men rượu, mùi tỏi. Nhưng chẳng ai để ý đến điều đó; rượu, bạn chơi và sự vui nhộn của bọn gái “maja” đủ làm người ta quên đi vẻ bề ngoài nghèo nàn của gian quán.
Quán đã đầy khách, Franxitxcô may mắn tìm được một cái bàn nhỏ không người ngồi, kê ở một góc phòng.
Anh ngồi vào bàn, gọi một cốc “mutsca” rồi đưa mắt tìm bạn quen. Một nhà thơ quen anh, ngồi ở cuối phòng, đang mê mải tán tỉnh một cô gái. Anh ta giơ tay làm hiệu không muốn bị quấy rầy.
Cũng còn một vài lái buôn ngồi uống rượu ngâm nga sau giấc ngủ trưa, chờ đến giờ mở cửa bán hàng. Còn lại là những sĩ quan, phần nhiều là người Catxti, bọn này rõ ràng bị toàn thể dân chúng khinh ghét. Hai miền Catxtiơ và Aragôn đã hợp nhất từ nhiều thế kỷ, nhưng thành phố Saragôt vẫn giữ ấn tượng bị dày xéo dưới gót giày ngoại bang, nên chỉ lũ gái chơi tạp nham nhất mới chấp nhận những cuộc hành lạc với bọn người chiếm đóng.
Cạnh bàn Franxitxcô ngồi, có một cặp trai gái làm anh chú ý và anh nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu. Đông Luidơ Munôda thuộc dòng dõi một dòng họ lớn của thành phố đã nhận quân hàm thiếu úy trong Trung đoàn bộ binh thứ ba thành Catxti và do việc ấy bị coi như là một kẻ phản bội. Hắn ta còn là cháu của Đức Đại Giáo chủ, điều ấy cũng chẳng làm hắn được lòng dân. Cô maja ngồi cặp kè với hắn là một gái bình dân tuyệt đẹp, khiến Franxitxcô không thể không chăm chú nhìn cô.
Chiếc áo khoác trắng để hở đôi vai, cô gái có làn da mịn màng, và mái tóc dài màu hung buông xõa trên lưng. Cái nhìn long lanh của cô, biểu lộ một sự thông minh không ngờ ở loại gái ấy.
Chợt bắt gặp cái nhìn chăm chú của Pranxitxcô, vừa thừa lúc viên sĩ quan không để ý, cô gái thoáng gửi cho anh một nụ cười vụng trộm.
Nỗi buồn phiền bực bội của Franxitxcô phút chốc tan biến như gặp phép lạ, anh quyết định chơi một trò vừa giải khuây, vừa nguy hiểm bằng cách công nhiên tán ghẹo nàng “sica”[6] này để làm nhục Đông Luidơ bởi cái nhìn ngạo nghễ, và thái độ ban ơn của hắn làm anh sôi
máu. Anh ngồi chễm chệ, nhìn cô gái, nâng cốc rượu và uống thong thả.
Cô gái đáp ứng ngay bằng một cái nháy mắt, hơi cúi người để hở thêm bộ ngực, và nhìn anh một cách táo bạo.
Loại gái này, thông thường, đã quen sống bằng người đàn ông. Họ không nghĩ đến chuyện gạt bỏ những lời cầu thân của một khách quý tộc, để nhận của một người thường dân mạt hạng. Hơn nữa, cô gái này là một “sica” quen thuộc ở quán “Con quỷ” tất phải biết rõ Gôya. Cô thừa biết, mặc dù có bộ cánh lộng lẫy, nhưng túi tiền anh lép kẹp. Nhưng, có lẽ cô ta cũng đã quá chén đến quên cả lý trí hoặc Đông Luidơ đã làm cô chán ngấy, nên cô ta quên cả giữ gìn, công nhiên cười với họa sĩ, kèm theo những cái gật đầu rất đỏm dáng. Cuối cùng gã sĩ quan cũng nhận thấy trò láu ấy. Hắn quay ngoắt lại, vừa đúng lúc bắt gặp Franxitxcô đang mỉm cười với tình nhân mới của hắn.
– Bêatridơ, - hắn thốt lên, giọng khô khốc, - hãy quay lại với anh đây này.
Lòng khinh ghét của Franxitxcô không còn bờ bến khi nghe thằng cha gốc Aragôn này tập tọng nói tiếng Catxti. Anh lạnh lùng đập lại: – Bêatridơ có quyền tự do của cô ấy, tôi nghĩ thế.
Viên sĩ quan giật nảy mình:
– Này, giống chó hoang mà sủa thì người ta quất cho đấy. Gôya cười khẩy, uống cạn cốc rượu và nói thẳng:
– Bêatridơ hình như lại thích ta hơn. Còn anh, càng nói năng lẩm cẩm, ta càng cảm phục lương tri của cô ấy.
Hai người đàn ông cùng đứng bật dậy một lượt. Thấy đối phương có đeo kiếm, Đông Luidơ liền lấy đôi bao tay dắt ở lưng ném vào mặt Gôya[7]. Khách trong quán nhìn họ chốc lát trong bầu không khí im lặng sửng sốt, rồi tiếp sau là sự lộn xộn ầm ĩ. Một vài viên sĩ quan đến vây quanh Đông Luidơ. Hắn nói cho họ rõ chuyện xung đột vừa xảy ra bằng mấy câu ngắn. Trong khi ấy, những người dân thường, ló đầu vào nhìn không dám ra mặt bênh vực chàng họa sĩ. Họ không quên kẻ thù của anh là cháu Đức Đại Giáo chủ.
Bêatridơ thích thú vì được mọi người chú ý, cô kiêu hãnh đứng lên, bộ ngực như thách thức, hai tay chống nạnh, đôi chân nhún nhảy
dưới những lớp váy sột soạt.
Anh chàng nhà thơ lo lắng, vội chạy đến bên Franxitxcô, trong khi lão chủ quán đang cố tìm cách khuyên can anh.
– Cậu điên rồi, Pacô, - nhà thơ nói nhỏ. - Cậu biết nó là ai chứ? Tim Gôya đập mạnh, lòng anh như thắt lại, nhưng anh cười thoải mái kiêu hãnh, đưa bàn tay vuốt ống tay áo viền đăng ten. – Dĩ nhiên biết rõ. - Anh cao giọng trả lời. - Nó là một thằng ngu xuẩn ngạo mạn cần phải cho một bài học.
Đám sĩ quan giận sôi lên, nhưng cố kìm giữ Đông Luidơ lại. Nhà thơ phát hoảng kêu lên:
– Giờ thì mình biết cậu hoàn toàn điên rồi. Hắn là một người mang kiếm đấy.[8]
– Anh bạn ạ, cái đó, còn phải để nó chứng minh đã. - Gôya bình tĩnh nói, và cúi mình thi lễ với vẻ nhạo báng trước mặt viên thiếu úy đang giận như điên. - Nào ta giải quyết vấn đề chứ?
– Ngay bây giờ. - Đông Luidơ rít lên.
Không để tai đến những lời phản kháng yếu ớt của chủ quán, khách khứa ào ra ngoài sân, Bêatridơ đi đầu. Vẻ cười cợt, nhún nhảy đôi mông, cô chẳng chú ý đến người ta đã quên chính cô là nguyên nhân xảy ra xung đột. Đám sĩ quan chen nhau ở trước cửa, bọn con gái la ó, và đến cả đám lái buôn cũng bị cuốn hút vào cuộc náo động.
Đông Luidơ vững tin ở mình, vẻ lạnh lùng, thấp giọng trao đổi với bạn bè hắn. Franxitxcô đi ra sau cùng.
Khi anh bước vào sân lát gạch, đám đông rẽ ra, và một viên đại úy râu rậm người thấp bé, đến gần anh.
– Tôi được vinh dự là người bảo chứng cho thiếu úy Đông Luidơ Munôda. Ai là bảo chứng cho anh?
Franxitxcô nhún vai với vẻ lạnh lùng giả tạo.
– Tôi không có. Những lệ tục cầu kỳ ấy không ích gì cho chuyện thanh toán đơn giản như thế này.
Viên đại úy không chấp nhận ý thích bất thường này. – Phải tôn trọng tục lệ. Thiếu úy Ramirê đâu?
– Trình ngài đại úy, có việc gì ạ?
– Anh làm bảo chứng cho người này.
Viên sĩ quan gượng gạo tuân lệnh và tiến đến bên Franxitxcô. – Cho phép tôi xem xét thanh kiếm của ông, - hắn nói. Gôya khinh khỉnh rút kiếm đưa cho hắn.
– Lưỡi kiếm của Đông Luidơ dài hơn kiếm của ông một gang tay, - hắn nhận xét. - Tôi khuyên ông dùng cây kiếm của tôi. – Tôi thích dùng kiếm của tôi. - Gôya cố bình tĩnh trả lời. – Ông thừa biết là ông sẽ không lợi thế.
– Tôi chấp nhận sự rủi ro ấy.
Gôya cởi áo ngoài, xắn tay áo sơ mi lụa, chiếc áo đẹp duy nhất của anh; anh tự nhủ, bất kể thế nào cũng không để hỏng nó. Anh đã bỏ ra một số tiền lớn để mua, và còn lâu mới có tiền mua chiếc khác. Ramirê trả lại thanh kiếm và hỏi, giọng khô lạnh:
– Sẵn sàng chưa?
– Sẵn sàng.
Franxitxcô vung thanh kiếm, đưa mắt nháy Bêatridơ và mỉm cười để làm yên lòng nhà thơ đang xanh tái, mặt mày.
Anh biết cuộc đấu kiếm này là chuyện điên rồ, anh đã chọc tức Đông Luidơ không lý do xác đáng; anh thật xứng đáng với lời khiển trách của Mactinê và Dapatơ mà họ không quên trút lên đầu anh. Nhưng, như có ma quỷ xúi anh khiêu khích cái thằng “hiđangô”[9] này, mà võ nghệ khéo léo và khoa kiếm thuật vượt anh rất xa.
Tự anh cũng không hiểu rõ tại sao lại cần phải tỏ ra tài giỏi hơn Đông Luidơ trong lĩnh vực đặc biệt này của bọn sĩ quan. Anh thấy trước lời trách móc của Dapatơ. Có hàng trăm tên quý tộc đần độn, những tên tàn bạo có kinh nghiệm, chúng sống một cuộc sống vô dụng, chẳng làm việc gì tốt. Nhưng một nghệ sĩ có tài năng, hy sinh cuộc đời cho nghệ thuật thì có thể trở thành bất tử.
Nhìn Đông Luidơ vung kiếm nhẹ nhàng, Gôya cảm thấy sự sợ hãi như làm tê liệt cánh tay. Anh cố trấn tĩnh và bước vào sân. Nếu muốn sống, anh phải tỏ ra bình tĩnh và táo bạo hơn đối thủ của mình.
Một viên sĩ quan cao cấp, coi như được giao trách nhiệm giám sát cuộc đấu kiếm, đứng giữa hai người tuyên bố:
– Danh dự một thiếu úy Trung đoàn ba vừa bị bôi nhọ. Ông ấy yêu cầu được khôi phục danh dự bằng vũ khí. Nhưng người bị xúc phạm sẵn sàng nhận lời xin lỗi. Không à? Thế thì đấu đi, các ngài. Ông ta lùi lại một bước và đứng tì tay lên chuôi kiếm.
Những tay đấu kiếm ít kinh nghiệm, thì xông vào nhau ngay, nhưng trái lại Đông Luidơ và Gôya vừa bước lên một cách thận trọng vừa quan sát đối phương.
Franxitxcô nhận thấy tầm vóc hai bên bằng nhau, không người nào có cánh tay dài quá, họ phải dùng khí giới kích thước bằng nhau để chiến đấu. Nhưng kiếm của viên sĩ quan dài hơn kiếm anh. Franxitxcô lấy làm tiếc đã không nhận đổi kiếm của người bảo chứng. Nay thì đã muộn. Để bù vào chỗ bất lợi ấy, anh phải luôn luôn sáng suốt.
Viên sĩ quan, bằng một động tác chắc, đâm một nhát trước. Franxitxcô chỉ kịp đưa kiếm lên đỡ, cảm thấy lưỡi kiếm sướt bên cánh tay, anh hiểu là chưa từng gặp một đối thủ nào nguy hiểm hơn. Đông Luidơ lại bồi thêm nhát nữa, lần này nhằm vào mặt đối thủ. Gôya buộc lòng phải lùi tránh. Có tiếng cười trong đám người xem. Gôya cảm thấy hổ thẹn. Anh sợ những tình huống lố bịch và trong một thoáng, sợ kẻ thù sẽ làm cho anh trở thành hài hước. Anh trấn tĩnh ngay và nghĩ thầm nếu mất tinh thần thì rất nguy hiểm. Với đường kiếm tấn công thứ ba của đối phương, Gôya đón đỡ một cách khôn khéo.
Thái độ Đông Luidơ đã thay đổi, hắn kinh ngạc và không coi thường nữa. Franxitxcô hiểu rằng viên sĩ quan đã đánh giá lại. Xét bề ngoài, thoạt đầu, rõ ràng hắn coi anh như một tay kiếm tập sự, nhưng thực tế hắn đã thấy Gôya sử dụng kiếm pháp khá thành thạo. Franxitxcô có thể tự hào về bao nhiêu thời gian tập luyện trong các trường đấu và số tiền khá lớn chi vào những bài học kiếm thuật trước đây. Anh biết chắc, thằng cha quý tộc này sẽ tấn công anh hết sức dữ dội để giành ưu thế. Cuộc đấu kiếm trở nên ác liệt.
Đông Luidơ nhanh chóng bộc lộ ý đồ của hắn, đâm trực diện trước mặt, bồi tiếp những đường kiếm trên vai trước, rồi sau đâm chéo mạng sườn. Hắn nhanh nhẹn và khôn khéo. Nhưng rồi Franxitxcô nhận thấy hắn hoàn toàn thiếu đầu óc. Từng lúc hắn thay đổi đường kiếm nhưng không bao giờ thay đổi nước đi, và mánh lới trong các mẹo lừa của hắn thiếu hẳn sự linh hoạt.
Franxitxcô cứ gạt đỡ và lùi từng bước. Đám đông đứng xem cho rằng anh sẽ sớm vắt chân lên cổ mà chạy. Chỉ riêng một số sĩ quan thấy rõ là anh chặn đỡ những đường kiếm đối phương bằng một thủ pháp tài tình, và mặc dầu anh ở thế phòng ngự, nhưng thực tế chính Gôya điều khiển cuộc đấu theo ý của mình.
Lấy lại lòng tự tin, anh minh mẫn phân tích kỹ từng thế đánh. Đông Luidơ, tiến lui theo đúng kiếm pháp, như kiểu đọc thuộc lòng một bài học thuộc kỹ, và không hề suy nghĩ. Trái lại Franxitxcô biết rõ nhược điểm của hắn. Anh tin rằng chẳng chóng thì chầy, hắn sẽ bộc lộ sơ hở. Anh quyết định chuyển sang thế tấn công hy vọng làm đối phương bị bất ngờ, chống đỡ lúng túng và có thể sát thương hắn bằng những đường kiếm không theo một kiếm pháp nào. Anh không có ý định giết hắn, tuy anh biết Munôda không ngần ngại cho anh sang thế giới bên kia. Franxitxcô vẫn tiếp tục tránh đỡ làm như không nghe thấy tiếng la ó của đám người đứng xem. Đột nhiên anh lấy hơi, nắm chặt chuôi kiếm, đợi một đường kiếm tấn công của địch thủ. Anh chặn đường kiếm đối phương trong tư thế tuyệt diệu mà những thầy dạy của anh cũng phải khen ngợi, Franxitxcô đâm thẳng mũi kiếm tới trước. Khi mũi kiếm đối thủ rít qua tai, anh biết Đông Luidơ đã quá đà. Trước khi viên sĩ quan đứng thẳng lại được, Gôya vẫy luôn một mũi. Lưỡi kiếm sướt qua cổ, làm rách cổ áo hắn. Những người đứng xem đồng thanh kêu lên, một vài người đã tưởng Gôya tình cờ đánh được một đường kiếm lợi thế. Riêng Đông Luidơ không nhầm và không khờ dại.
Với cái nhìn lạnh lùng, Franxitxcô tấn công, đâm kiếm tới, tới nữa, liên tiếp với sự chính xác kỳ lạ, một nghị lực không nao núng, một vẻ dẻo dai của diễn viên múa. Bây giờ đến lượt viên sĩ quan phải tránh đỡ những đường kiếm chớp nhoáng không mệt mỏi của chàng họa sĩ. Mũi kiếm đe dọa mặt hắn, họng hắn, ngực hắn... Gôya có sức khỏe của người nông dân từng ngả cây, xẻ gỗ cho cha đóng đồ, từng cày xới đồng ruộng, và cuốc đất đắp đường. Nhưng đôi mắt tinh nhanh của anh lại là cặp mắt nghệ sĩ mà không gì lọt qua nổi. Còn bàn tay nhẹ nhàng chính xác của anh là tay một người có khả năng ký họa rất nhanh.
Đông Luidơ chiến đấu một cách gan góc kiêu hãnh. Tài nghệ đã giúp hắn có thể chống trả hiệu quả. Một đường kiếm tinh nhuệ của
Gôya làm hắn lúng túng. Hắn thu kiếm lại giữ mặt, nhưng Gôya với một sự nhanh nhẹn tuyệt vời đã đâm thẳng mũi kiếm tới trước. Lưỡi kiếm xuyên ngập vào mạng sườn viên sĩ quan. Mũi kiếm đâm mạnh làm hắn kinh hoàng, sững một giây rồi máu từ trong vết thương phun ra. Hắn ngã khuỵu xuống nền gạch với ấn tượng kinh ngạc sâu sắc. Franxitxcô cúi xuống, lau lưỡi kiếm vào áo lót kẻ bại trận.
Đám đông dồn tới, một vài người thốt lên trầm trồ thán phục, những người khác la hét như điên, Franxitxcô đứng yên, nghe những lời ca tụng của đám dân thường và cả những lời khen ngợi, thán phục của bọn sĩ quan.
Chỉ đến khi cảm thấy bàn tay mát lạnh của Bêatridơ nắm tay mình, anh mới chợt tỉnh. Anh hiểu đồng bọn Đông Luidơ không phải chỉ tán dương cảm phục anh, mà cuộc sống của anh còn bị đe dọa nghiêm trọng hơn là trong cuộc đấu kiếm.
Bêatridơ gắng hết sức lôi anh đi, đôi mắt mở to vì sợ hãi. – Chạy theo em, - cô thì thầm. - Đây, đường này.
Cô dẫn anh chạy vào một ngõ hẻm, luồn qua một phố nhỏ tối đen, hôi hám nồng nặc. Anh nghĩ thầm, chạy trốn là hèn nhát, nhưng trong lúc chạy theo cô gái điếm anh chợt nghĩ có thể Đông Luidơ đã bị đâm chết. Nếu đúng thế, thì bọn sĩ quan đang tức giận kia, sẽ treo cổ anh tức khắc mà không cần xét xử gì hết. Chúng không bắt được anh ngay lúc này, thì Đức Đại Giáo chủ sẽ phái quân lính đi lùng bắt anh. Chuyện đấu kiếm không dễ dàng gì được tha thứ, họ sẽ kết tội anh cố tình giết chết cháu Đại Giáo chủ. Những nhân chứng biết rõ cuộc đấu kiếm thẳng thắn công minh chắc sẽ phải im tiếng. Nhận thức được tình hình nghiêm trọng đến mức ấy, Gôya mới thấy câu chuyện rắc rối này vô ích biết chừng nào, vẫn là do cái bệnh kiêu căng hiếu thắng. Để tỏ ra bình đẳng với một thằng “hiđangô”, anh đã chuốc cho mình hiểm họa sẽ bị trừng trị trong ngục tối của Giáo hội.
Anh vẫn tưởng mình thông minh, thông thuộc đường sá Saragôt, vậy mà cô “maja” kéo anh chạy qua những hẻm ngoắt ngoéo mà anh chưa từng biết bao giờ. Anh hoàn toàn lạc hướng khi Bêatridơ dừng lại để lấy hơi và thở, anh bảo cô chỉ đường cho anh chạy đến nhà Dapatơ. Anh yêu cầu cô để anh chạy một mình, vì nếu họ bắt được cô cùng chạy với anh sẽ nguy hiểm cho cô. Cô nhất định dẫn anh đi, nhưng anh cương quyết từ chối. Cô định chỉ đường cặn kẽ cho anh.
Anh rất xúc động cảm ơn cô, dốc hết tiền trong túi vào tay cô. Anh lại cắm đầu chạy, còn cô “maja” sững sờ đưa mắt nhìn theo. Gôya không còn bụng dạ nào nghĩ đến cô nữa. Anh chạy đến nhà Dapatơ theo những ngả đường quanh co.
Lúc này, chắc bọn lính cảnh vệ đã sục đến nhà anh và đang chờ bắt anh ở đấy, anh đang bị truy lùng. Điều này chứng thực khi anh thấy từng tốp lính vũ trang đi rầm rập trên các nẻo phố xét hỏi người qua lại. Sinh mệnh của anh phụ thuộc vào mánh khóe khôn ngoan và sự nhanh nhẹn. Anh đi lẩn vào bóng tối, nấp kín một chỗ, chạy vụt ra, lại nấp kín vào chỗ khác, vừa chạy vừa trốn lủi. Sau một giờ đồng hồ anh đến cửa sau ngôi nhà nhỏ của Dapatơ.
Không một tia sáng lọt ra ngoài cửa sổ. Gôya khẽ gõ cửa và nghĩ bụng bạn anh có thể đi vắng hoặc đã ngủ rồi. Nhưng lát sau, Dapatơ ra mở cửa. Anh vẫn mặc quần áo chỉnh tề.
– Tôi đợi anh đây, Pacô, cả thành phố đang ồn lên về câu chuyện điên dại vừa rồi.
Anh kéo Pacô vào phòng khách, cẩn thận không thắp đèn. – Đông Luidơ không chết. Tôi không nói là nhờ anh mà nó không chết, anh đâm nó bị thương nặng, và sẽ phải nằm điều trị hàng tháng mà chưa chắc đã bình phục.
Franxitxcô buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm.
– Vậy là người ta không buộc tôi tội giết người nữa.
– Đại Giáo chủ sẽ dùng mọi quyền lực truy nã và kết tội anh, nếu anh bị bắt chắc chắn sẽ bị hạ ngục.
– Nhưng ông ta làm gì có quyền...
– Pacô, nhiều lúc mình tự hỏi không hiểu cậu có thức thời không? Có bao giờ ai đi bàn cãi về một quyết định của Giáo hội? Cậu đã nghe ai nói đến công lý ở đây bao giờ chưa? Pacô, cậu phải rời Saragôt ngay đêm nay, ngay bây giờ. Và dừng trở về đây trước khi Đại Giáo chủ qua đời.
Gôya nhìn anh bằng đôi mắt lo lắng. Dapatơ nói tiếp, vẻ vội vàng: – Cậu phải đi Mađrit, đến ở lại nhà mình. Mình chờ một vài ngày nữa rồi cũng lên đường. Nhưng mình đi tự do, chắc chắn sẽ đến trước cậu. Đây, anh vừa nói vừa đưa ra một bọc quần áo rách, cậu
thay đi. Mình sẽ hủy quần áo cậu đang mặc đấy.
Franxitxcô làm theo, không hỏi lại câu nào. Mấy phút sau anh đã thành một nông dân áo vải thô, quần cộc, đi đôi bít tất kẻ sọc và đôi giày to sù. Theo lời khuyên của bạn, anh lấy nhọ than bôi lem nhem vào mặt, và không cằn nhằn gì khi Dapatơ cắt trụi bộ tóc đẹp.
Anh dùng dằng không muốn rời thanh kiếm, nhưng Dapatơ buộc anh phải bỏ lại. Gôya đành phải nhận một con “navaja”, loại dao nhọn to, có chuôi bằng sừng. Anh dắt dao vào thắt lưng.
Khi đã chuẩn bị xong, Dapatơ dẫn anh đến bên cửa nhỏ, bắt tay anh với một nụ cười không vui.
– May mắn lắm chúng mình mới được gặp nhau ở Mađrit. Mình tự hỏi không biết vì sao mình lại quan tâm lo lắng cho cậu. Cậu có tài năng, điều ấy đúng. Nhưng cậu chẳng thể trở thành nghệ sĩ chân chính chừng nào cậu chưa khám phá được bản thân. Và nếu cậu cứ khăng khăng đi theo con đường lầm lạc như cậu lựa chọn thì chẳng bao giờ có thể tìm được cái mà cậu cần tìm đâu.
2. Rời quê hương – Trường học từ dưới đáy cuộc sống – Kỷ niệm về một cô gái quê có tấm lòng trong trắng – Mađrit: Kinh thành của những tương phản – Sự nhầm lẫn của trái tim: “Nàng mỉm cười và nắm lấy tay anh”.
Franxitxcô rời khỏi Saragôt không gặp trở ngại gì, nhưng lòng không vui. Vì chưa ra tới cánh đồng, anh đã nhớ ra rằng anh không có tiền. Anh đã cho cô bé Bêatridơ tất cả số tiền đã có, và giờ đây, đi Mađrit anh không còn một đồng xu nhỏ.
Thế là anh phải vừa đi, vừa kiếm việc làm ở các làng mạc dọc đường để sinh nhai. Ngày ngày trôi qua, rồi hàng tuần, hàng tháng. Thời kỳ này, đối với Gôya thật khổ cực. Anh phụ với người ta dỡ một cái kho lúa cũ nát ở La Anmunia để kiếm mấy rêô[10], anh hái đào, hái táo thuê ở gần vùng Calatayut lấy mấy đồng tiền công chết đói. Rồi đi làm mướn ở Anlama, ở Ancôlêa đen Pina và ở Brihuêga trong mùa thu hoạch quả ôliu.
Hồi ở Saragôt, anh hầu như không biết đến nỗi cơ cực của những người nông dân, nhưng giờ đây, anh nhận thức một cách thấm thía cái vực thẳm ngăn cách giữa người nghèo và kẻ giàu. Dần dần, anh không còn thích thú như trước đây, học đòi cách sống và cách ăn mặc của bọn quý tộc. Trong khi lao động cực nhọc ngoài đồng, dưới ánh mặt trời thiêu đốt của mùa hè, anh đã gặp lại sự thấp hèn của mình. Anh cũng bắt đầu kính trọng đồng bào anh, cảm phục niềm vui bình dị của họ, mà cảnh sống nghèo đói cùng cực vẫn không đánh gục được. Ở khắp mọi nơi, những người đàn ông và những người đàn bà củng cố lòng tin của anh vào bản chất nhân đạo của con người bằng cách cho anh ăn ở một cách giản dị, không cần căn vặn về cuộc đời riêng của anh. Và mặc dầu Franxitxcô không tán thành cách sống an phận của họ, anh vẫn cảm thấy sự bức thiết mỗi ngày thêm thôi thúc, là phải đến giúp đỡ họ.
Anh hiểu rằng sự dốt nát của quần chúng là một vũ khí trong tay bọn thống trị quý tộc, giúp chúng duy trì đất nước trong vòng nô lệ. Anh tự hứa khi tới Mađrit sẽ bắt đầu học hành nghiêm túc. Một ngày
kia, anh sẽ vẽ những bức tranh xuyên thủng màn sương mù dày đặc của sự mê tín, nhờ đó người dân Tây Ban Nha sẽ thức tỉnh. Anh không có hy vọng đánh đổ chế độ phong kiến, nhưng anh tự hứa sẽ không hoài phí tài năng. Anh đã hiểu sứ mệnh mà mình phải hoàn thành.
Khi Gôya đến Guađalagiara, một thành phố công sự cổ, thì trời đã sang thu. Đến đây, anh may mắn tìm được việc làm khá tiền. Quán rượu “Lông cừu vàng”, một trong những quán ăn sang trọng nhất vùng đã nhận anh làm bồi dọn chuồng ngựa. Anh nhẩm tính làm trong một tháng, anh sẽ kiếm đủ tiền tiếp tục cuộc hành trình bằng xe ngựa, có thể còn thừa tiền để sắm một bộ quần áo tươm tất.
Một trong những khách sang thường đến quán rượu “Lông cừu vàng” là Công tước Anbơ, mà phẩm trật và uy quyền ông ta chỉ kém Hoàng tộc và hàng giáo sĩ cao cấp. Công tước là một người già, đôi mắt đỏ ngầu, khuôn mặt dài và buồn càng như dài thêm bởi chòm râu bạc nhọn hoắt. Franxitxcô chưa từng gặp một nhân vật thế lực như vậy bao giờ. Anh thấy ông ta có dáng giống một con dê cái.
Nếu bề ngoài Công tước trông có vẻ khả ố, thì phong cách sống của ông ta cũng chẳng làm ngạc nhiên chàng trẻ tuổi vốn thường nhìn cuộc đời một cách ngạo mạn. Những người hầu và đánh xe của Công tước công nhiên bàn tán về chủ họ. Gôya cho rằng họ không hề phóng đại, khi nói chắc chắn là ngài Công tước tôn quý không quan tâm chút nào đến công việc nước nhà, không để mắt đến việc quản lý điền trang hoa lợi, mà hoàn toàn chỉ để thì giờ vào công việc duy nhất là săn đuổi những cô gái trẻ chỉ bằng tuổi cháu gái ông ta mà thôi.
Song, không phải những thú vui xác thịt của Công tước Anbơ là không ai cưỡng lại được. Franxitxcô đã được chứng kiến điều ấy vào một buổi sáng.
Hôm ấy, tiết trời đẹp, mặc dầu đã sắp sang đông và có gió bắc. Franxitxcô, sau khi chăm sóc đàn ngựa trong tàu, cũng ướt đẫm mồ hôi... Anh cởi trần, xách một thùng nước giếng đi từ sân về phía rừng sau quán để tự do tắm rửa. Giữa lúc ấy, anh thấy một cô gái chạy tới.
Cô ta có vẻ sợ hãi, khóc nức nở, cái áo lót quê mùa bị xé rách để lộ cặp vú trần. Franxitxcô sững lại, anh nhận ra một trong những cô hầu phòng của “fônđa”[11]. Công tước Anbơ đang đuổi theo cô. Ông tỏ ra đặc biệt nhanh nhẹn đối với một người có tuổi, và có vẻ thật sự
thích thú trong trò chơi này.
Không chần chừ, tay vẫn xách thùng nước, chàng họa sĩ lao tới. Mặc dù thùng nước nặng, anh vẫn chạy nhanh hơn cô gái và ông già đang đuổi theo cô. Vừa đúng lúc cô hầu phòng chạy đến ven rừng thì anh băng qua, cắt ngang đường Công tước. Hai người đâm sầm vào nhau, nước trong thùng đổ tung tóe vào cái quần chẽn bằng lụa của Công tước, làm ướt sũng đôi bít tất trắng và đôi giày có ngù. Nước lạnh làm dịu bớt sự hăng máu của ông già. Ông ta dừng lại, quát mắng ầm ĩ. Franxitxcô làm ra vẻ rất bối rối sợ sệt, nói lúng túng mấy câu xin lỗi. Nhưng Công tước quay ngoắt trở lại, rảo bước về phía quán rượu, không thèm nghe.
Bấm bụng cười thầm, Franxitxcô nhìn về phía rừng có ý chờ cô hầu phòng trở ra. Nhưng không thấy cô, anh xách thùng trở lại giếng, múc đầy nước, và lẳng lặng đi tắm rửa. Anh biết là chuyện này không phải đã chấm dứt, nhưng trước khi bị chủ quán cự nự, anh cũng khoái chí vì thấy lão Công tước tức giận bừng bừng, bỏ ra về cùng tất cả tùy tùng và hành trang.
Một khắc đồng hồ sau, chủ quán cho Franxitxcô thôi việc. Quyết định ấy không làm anh ngạc nhiên. Anh leo lên cái buồng xép ở sát mái, buồng ngủ của anh, bắt đầu thu xếp số hành lý ít ỏi và nhẩm tính, sau khi thanh toán, anh sẽ bị trừ mất hai ngày công. Một tiếng gõ cửa nhẹ làm anh giật mình. Đó là cô hầu phòng. Mái tóc đen dài xổ ra buông xõa trên vai, cô kéo những mảnh áo lót bị xé rách che lấy bộ ngực. Nhưng trong đôi mắt cô sự kinh hãi đã biến mất, cô nhìn Franxitxcô với lòng biết ơn vô hạn.
– Tôi đến để cám ơn anh, - cô nói, - và để nói với anh là tôi ân hận vô cùng về chuyện anh đã mất công ăn việc làm vì tôi. – Trước sau tôi cũng sẽ đi. Nhưng còn cô?
– Tôi cũng bị đuổi rồi. Tôi biết là việc ấy sẽ đến, nhưng tôi không cần. Không người nào ép uổng tôi được, dù là Công tước hay một Đức ông Tây Ban Nha nào khác.
– Rồi cô sẽ ra sao?
– Ôi, thế nào tôi cũng tìm được việc làm ở một trang trại, và đến mùa đông, tôi sẽ làm công ở một lâu đài nào đó. Những bà quí phái ở Guađalagiara bao giờ cũng cần người hầu phòng làm việc trong mùa
đông. Anh đừng lo cho tôi, tôi tự khắc xoay xở được.
Franxitxcô nhận thấy ở thái độ người con gái một tấm gương đầy đủ về sự ngoan cường và lòng dũng cảm trầm lặng của dân tộc Tây Ban Nha.
Cô gái buông tay, bỏ rơi những mảnh áo bị xé rách, xuống, để lộ bộ ngực trần. Không chút e thẹn, cô nhìn chàng trẻ tuổi đăm đăm. – Em đến cám ơn anh. Em sẵn lòng tặng anh cái mà ngay cả ngài Công tước cũng không thể mua ở em được.
Thời gian qua, Gôya ít tiếp xúc với đàn bà. Nhưng lúc này anh không cảm thấy một chút ham muốn nào. Trái lại, anh thấy lòng bồi hồi xúc động khó tả. Cô gái tự nguyện hiến thân cho anh. Cô đem đến cho anh, tất cả những gì mà cô có thể cống hiến được với một tấm lòng cao quý làm anh kinh ngạc. Anh mở túi, lấy ra một thỏi chì than và một tờ giấy và khẽ thì thầm:
– Em, tôi xin em, đừng động đậy.
Mặc dầu rất ngạc nhiên, nhưng cô gái cũng làm theo. Gôya bắt đầu vẽ rất nhanh. Công việc thu hút đến nơi anh mất cả khái niệm thời gian. Anh nhận thấy dù đã lâu không vẽ, nhưng sự thuần thục của bàn tay vẫn không bị ảnh hưởng. Trong khoảng một khắc đồng hồ, anh đã hoàn thành bức vẽ. Anh ký tên rồi đưa cho cô gái đang rất ngỡ ngàng.
– Em cầm lấy. Giữ làm kỷ niệm tấm lòng tin yêu của em đối với Franxitxcô Gôya.
Đôi mắt mở to, cô nhìn bức chân dung, rồi ngước nhìn chàng họa sĩ lạ lẫm.
– Anh vẽ hình em à? - Cô kêu lên sợ sệt.
– Em nhận ra em chứ?
– Thôi, đúng là anh có phép phù thủy rồi.
– Không phải đâu. Tôi chỉ là một nghệ sĩ tầm thường, đang mong mỏi trở thành một người tốt hơn.
Sợ cô gái tự hiến thân lần nữa, anh vội vàng quay ra thu xếp đồ đạc và tức khắc rời khỏi quán rượu, chẳng kịp nhận những lời cám ơn của cô. Anh hấp tấp lên đường ngay, trước khi để dục vọng nổi dậy và ngã lòng trước cô gái. Ra đến con đường lầm bụi cát, trong lúc
chờ xe ngựa đi Mađrit, anh tự nhủ đã làm được một việc mà Mactin Dapatơ và thầy Giôdê Mactinê phải đồng tình ca ngợi. Từ chối sự hiến thân của cô gái, anh đã để lại cho cô niềm kiêu hãnh của anh và đã làm một việc khôn ngoan đúng mực.
Sau này, chẳng bao giờ anh quên được cô hầu phòng xinh đẹp ấy, trong khi biết bao cô gái khác, trong những cuộc gặp gỡ yêu đương, hầu hết đều phai mờ trong ký ức.
Anh bắt đầu hiểu điều mà Dapatơ và Mactinê muốn nói khi họ nhắc anh về tính kỷ luật bản thân. Người nghệ sĩ phải quên đi cá nhân mình. Anh hy vọng sẽ đủ nghị lực đẩy lùi những cám dỗ đang đón chờ anh ở kinh thành Mađrit và biết chắc chắn cuộc đấu tranh trong anh sẽ vô cùng gian khổ.
*
* *
Vừa lộng lẫy vừa tồi tàn, vừa rầu rĩ vừa vui vẻ, vừa tươi trẻ lại vừa xấu xa, kinh thành Mađrit chỉ là những cảnh tương phản. Không quan trọng bằng thành phố Tôleđơ, nhỏ hơn so với thành phố buôn bán Bacxơlôna, tuy vậy nó lại là trái tim của nước Tây Ban Nha và thành phố cổ kính im lìm dọc bên sông Mandanaret lại đại diện cho Tổ quốc của tất cả những người Tây Ban Nha, không kể nguồn gốc.
Đông đảo du khách dồn dập kéo đến Puectadenson, Plada Mayo, Plada đê Mađrit, và từng đám hiếu kỳ suốt đêm ngày chiêm ngưỡng cung điện nhà Vua và những tòa lâu đài tráng lệ của các Công tước, các giáo sĩ cao cấp. Họ thường bỏ qua, không để ý đến những đường phố tối tăm, những khu dân cư cũ kỹ, nơi sinh sống của đông đảo dân chúng trong cảnh nghèo khốn cùng thầm lặng và bẩn thỉu.
Song, ngay đến cả những người hành khất cũng có niềm tự hào về Mađrit. Họ tự hào về những trường đại học tổng hợp, với nhà thờ San Inxiđrô en Rêan, hiến tặng vị Thánh bảo trợ kinh thành, và với cung điện Palaxio Rêan, nơi ở của Vua Sáclơ đệ tứ và Hoàng hậu Mari Luidơ nhưng rất ít công dân kính trọng họ. Và Gôya đến thành phố cũng cùng một cảm nghĩ khinh bỉ như họ. Thoạt đầu, anh thấy chướng tai, khi nghe những lời lẽ của đám trí thức, nói về Hoàng đế và Hoàng hậu của họ với vẻ miệt thị. Vì mặc dầu nhìn bọn quý tộc với con mắt khinh miệt nhưng anh vẫn nghĩ rằng Nhà Vua là một cương
vị không thể xúc phạm. Nhưng chẳng cần phải sống ở Mađrit lâu mới hiểu được rằng Đức Vua Saclơ đệ tứ chỉ là một con rối điều khiển bởi một ông vua thực sự của Tây Ban Nha - Thủ tướng Đông Manuen đê Gôđoa, mà mọi người cho rằng là cha đẻ đích thực của ít ra là một trong số các thái tử. Franxitxcô lắng nghe những chuyện bàn tán của bạn bè, tối tối tụ họp ở những quán rượu kinh thành, riêng anh chẳng nói năng gì. Cuộc trốn chạy từ Saragôt và hành trình mệt nhọc vừa qua đã làm dịu tâm tư anh. Anh chăm chú vào công việc hơn bao giờ hết. Suốt ngày anh cắm cúi trong xưởng vẽ của Mactinêdơ đen Barancô[12]trau dồi bút pháp cùng với những họa sĩ bậc thầy thuộc trường phái cách tân Italia, những Rafaen Mang[13] và Pompêô Battôni[14]. Chiều tối, anh làm việc ở phòng riêng trong nhà Dapatơ. Người bạn tốt này chẳng thấy điều gì phải chê trách về tư cách của anh nữa.
Thỉnh thoảng anh cũng đi xem đấu bò tót, và một đôi lần, anh đến quán rượu vào buổi tối để trao đổi ý kiến với bạn bè về hội họa. Nhưng trên hết, anh làm việc. Chẳng bao lâu, anh nhận được rất nhiều “com-măng”. Trong khoảng sáu tháng, anh đã kiếm đủ tiền để thuê riêng một căn nhà nhỏ hai gian với một xưởng vẽ. Anh đã trở thành một nhân vật được trọng vọng.
Những sự cám dỗ ở đây còn hơn Saragôt rất nhiều, nhưng anh bắt buộc mình phải sống vững vàng nghiêm chỉnh. Anh ít uống rượu mạnh “Acgacđiêntê”, không đánh bạc, đấu kiếm, và kiên quyết từ chối mọi cầu thân của những cô “maja” rất mê anh vì thể lực và thái độ kiêu kỳ. Cuộc sống đạo đức đè nặng tâm hồn anh. Lần đầu tiên trong đời, anh thấy khổ sở trong đơn độc. Anh cảm thấy một cách sâu sắc rằng cuộc đời cần phải ổn định, phải bắt rễ chặt chẽ, và cuối cùng, anh nghĩ đến việc lấy vợ.
Theo thói quen, anh học theo cách ăn mặc nghiêm chỉnh và lề lối cư xử kín đáo của những nghệ sĩ có danh tiếng. Anh thấy phấn khởi vì được những người tiếng tăm nhất trong bọn họ mời đến những cuộc giao du thân mật tại nhà riêng. Một số sống trong những tòa lâu đài thực sự. Dù Gôya cố tin rằng sự xa hoa ấy sẽ bóp nghẹt tài năng họ, anh vẫn thấy choáng ngợp trước kiểu sống ấy, nên không đả động một lời nào đến họ, và chỉ phát biểu quan điểm của mình với những người có hoàn cảnh giống anh, mới đến kinh thành để tìm
kiếm chút danh vọng.
Trong những người Gôya đến chơi nhà, có Franxitxcô Bayơ, một họa sĩ thời thượng, ông ta được người đương thời rất ưa chuộng, đến nỗi không thể thỏa mãn hết những người đặt “com-măng” tranh vẽ của ông. Bayơ là một họa sĩ chuyên vẽ chân dung trong giới thượng lưu. Tất cả khách hàng của ông, người nào cũng uy nghi đường bệ, tất cả các bà các cô mà ông ta vẽ, chân dung người nào cũng xinh đẹp và đám khách thanh lịch coi việc được ông ta nhận vẽ là một ân huệ, tới tấp dồn đến xưởng vẽ của ông, không hề kỳ kèo về chuyện giá cả.
Dù coi khinh cách làm nghệ thuật kiểu con buôn, Gôya vẫn không thể không tán thưởng thành quả của lối lao động ích kỷ như vậy. Bayơ có một tòa nhà lớn ba tầng, trong đó tiện nghi và đồ đạc trang hoàng, rèm thảm, những chùm đèn pha lê và bàn ghế đắt tiền có thể sánh ngang những lâu đài giàu sang bậc nhất.
Sau khoảng hơn chục lần đến chơi nhà Bayơ, Franxitxcô Gôya hiểu rằng anh bị thu hút đến đấy, trước hết chỉ vì cô em gái của ông ta, nàng Giôdépfa, làm công việc tề gia nội trợ cho ông anh.
Vóc người dong dỏng cao, mảnh dẻ, tóc chải cẩn thận, thân hình có những đường nét rất thanh tú, nàng có thái độ kín đáo dè dặt mà không ngờ nghệch, quán xuyến công việc gia đình một cách chu đáo và thoải mái.
Những bộ áo lụa của nàng cắt may rất khéo nhưng không hề khoa trương. Nàng tiếp đón ân cần bạn bè anh, rất ít tham gia vào những cuộc đàm luận của họ, nhưng khi đã có ý kiến thì ý kiến đó bao giờ cũng xác đáng.
Từ trước tới giờ Franxitxcô chỉ tiếp xúc với bọn gái tầm thường, bỗng nhận thấy ở nàng hàng ngàn đức tính tốt đẹp. Anh kể lại với Dapatơ lòng ngưỡng mộ của mình và nói thêm rằng chẳng bao giờ anh có thể nghĩ là một cô gái xuất thân từ tầng lớp thấp hèn có thể có tư thế đường bệ chững chạc như một bà mệnh phụ tôn quý như thế.
Bạn anh không tán thành những lời tán dương sốt sắng ấy, nhưng không nói gì. Dapatơ, không đến nỗi ngây thơ như Gôya, biết rằng Giôdépfa Bayơ chỉ là một cô gái tư sản cố bắt chước kiểu cách thanh lịch, được sự thành đạt của anh trai tô điểm cho như một cô gái được
nuông chiều, thực chất cô ta chỉ là một ả có tâm hồn thấp kém đầy những tính toán thực dụng.
Dapatơ nhận thấy nàng cũng bị Gôya hấp dẫn. Phần đông những nghệ sĩ lui tới xưởng vẽ của Bayơ đều đã già, nên tuổi trẻ và tâm hồn sôi nổi của Gôya đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với nàng, là chuyện rất thường tình. Tuy vậy, Dapatơ vẫn hy vọng Giôdépfa và Franxitxcô sẽ kịp tự nhận ra rằng họ sinh ra không phải để kết hợp với nhau. Anh quên một cách giản đơn không tính đến bản chất nôn nóng dễ kích thích rung động của bạn và sự trong trắng ngây thơ của người thiếu nữ.
Một buổi tối, Franxitxcô cùng với Bayơ và Giôdépfa đi xem vũ kịch, và trở về dùng bữa tối với họ. Trong bữa cơm thân mật ấy có cả một nhà văn, chủ bút tờ báo do Đông Manuen đê Gôđoa bảo trợ. Câu chuyện trao đổi chẳng mấy chốc đã xúc phạm đến tình cảm của Gôya và làm anh tức giận. Anh phải cố dùng nghị lực kìm mình lại không nói, khi nghe những kẻ mang danh trí thức khẳng định rằng tất thảy tầng lớp nông dân đều ngu độn, và vô tổ chức như bầy gia súc của họ và vinh hạnh lớn cho nghệ sĩ là được sự bảo trợ của một vị quan lớn. Anh tự nhủ mình cần tìm cách bỏ đi ngay trước khi phải ném ra những lời thóa mạ. Anh cựa quậy trong ghế bành và nhận thấy Giôdépfa đang tò mò nhìn anh, khi hai cái nhìn gặp nhau, nàng nói nhỏ:
– Xêno Gôya, thời tiết hôm nay, anh có thấy ngột ngạt quá không? – Ngột ngạt quá chừng! - Anh thốt lên với lòng biết ơn. - Tiểu thư có vui lòng đi dạo với tôi ngoài vườn cho dễ thở một chút không? Nàng vui vẻ nhận lời, hai người cùng ra ngoài, không làm các khách ăn có tuổi lưu ý. Mùa xuân đã hết, đêm, vòm trời lấp lánh muôn ngàn ngôi sao. Franxitxcô đăm chiêu với suy nghĩ riêng, không chú ý gì đến cảnh vật. Cau đôi lông mày, anh dằn tiếng:
– Sao mà ngốc thế!
– Xin lỗi, anh muốn nói về vấn đề gì ạ?
– Tiểu thư có nghe ngài Pêrêdơ nói không? Ông ấy chỉ viết những gì mà Gôđoa ra lệnh viết. Ông ta tự bào chữa là Ngài Thủ tướng thông hiểu công việc nhà nước hơn ông nhiều. Ông ta không có khả năng tự suy nghĩ hay sao? Té ra ngài chủ bút chỉ là một thứ tiếng
vang thôi ư?
Giôdépfa có vẻ sửng sốt:
– Xêno Pêrêdơ là một trong những người bạn tốt nhất của anh tôi đấy.
Franxitxcô tức tối vì không thể phát biểu những cảm nghĩ thực trước mọi người, anh có vẻ rất rầu rĩ.
– Tôi khẳng định ông ta không thành thật. Một người không có dũng khí viết những điều mình thấy, mình cảm nhận và tư duy thì không xứng đáng là một người cầm bút, chẳng khác gì họa sĩ vẽ theo ý kiến người khác, theo rung cảm của người khác cũng không xứng đáng cầm bút vẽ.
– Vâng... Tôi cho rằng người ta, ai cũng phải hiểu đúng những tình cảm thực của mình.
Giá như không ở trong trạng thái tâm hồn bị khích động manh, Gôya đã có thể biết rằng, nàng không hiểu ý anh. Nhưng anh kêu lên: – Ôi! Tiểu thư cũng đồng ý với tôi sao?
– Tôi... Tôi tin như vậy. Trong nhà tu, các nữ tu sĩ đã dạy tôi là không bao giờ nên dối trá. Tôi luôn cố gắng sống theo chân lý. Cơn giận của Gôya dịu đi. Thật không dễ dàng để một người đàn ông có thể vô tình trước vẻ duyên dáng quyến rũ của một cô gái đẹp dưới ánh trăng.
– Một họa sĩ không biểu hiện tình cảm thực của mình trên mặt vải là một kẻ dối trá. Tôi không tin tưởng vào các trường phái. Thượng đế đã sáng tạo ra tất cả và không một người nào lập lại giống hệt đồng loại của anh ta. Vậy thì tại sao ta lại vẽ cùng theo một lối như nhau? Điều ấy thật phi lý. Nếu tôi sao chép theo kiểu cách một người khác, nếu tôi theo cách xử thế do người khác bảo - như kiểu ngài Pêrêdơ - thì tôi sẽ phản bội tài năng mà trời đã phú cho.
Giôdépfa ngắm anh, vẻ trang nghiêm:
– Anh tôi nói là tài năng của anh có rất nhiều hứa hẹn. – Tôi làm việc. Tôi tìm cách thể hiện những điều tôi trông thấy nhưng không làm hại thanh danh của mình. Tôi tin tưởng vào sự tự do suy nghĩ, cảm xúc; không phải chỉ riêng cho tôi, mà cho những người khác nữa. Chúng ta phải tự giải phóng lấy mình. Không ai làm
thay việc ấy cho ta, tiểu thư biết đấy.
Giôdépfa ít giao thiệp với những chàng trai trẻ. Trước nay, nàng chỉ tiếp xúc với những người quyền quý đến để ngồi mẫu vẽ chân dung họ, hoặc một số con cái bọn nhà buôn giàu có, mà câu chuyện của họ đều chỉ là những nghi thức phù phiếm. Nàng thấy lòng rộn rã khi nghe một chàng trai cùng lứa tuổi mình, có vẻ tự tin và chủ động, hiểu rõ điều mơ ước của chàng và nói năng với nhiệt tình sôi nổi. Vui thích vì sự chú ý của cô gái, Franxitxcô nói tiếp:
– Một ngày kia, nhờ tôi, tất cả những nghệ sĩ Châu Âu sẽ vẽ trái tim họ.
– Anh sẽ làm gì? - Giôdépfa thì thầm hỏi với một vẻ tin cậy ngây thơ.
– Tôi sẽ làm gương, chắc chắn là như vậy, tôi sẽ chà đạp lên những quy tắc cũ kỹ, những truyền thống cố hữu, những phong cách cổ hủ. Tôi muốn vẽ như tôi hít thở không khí hoàn toàn tự do.
Giôdépfa ngẫm nghĩ một lát. Nàng thấy hình như Franxitxcô nói ngược hẳn những điều mà anh nàng thường nói, nàng nhận xét: – Tôi không thấy rõ lắm, anh sẽ làm mẫu như thế nào? Gôya, nhìn ra xa, tầm mắt vượt ra ngoài cây bách mọc như đứng gác bên hàng rào của khu vườn.
– Một ngày kia, người ta sẽ nói: “Gôya đã vẽ tùy theo ý anh ta”. Những ai đi tiếp sau tôi, đến lượt họ cũng sẽ dám làm như thế. – Anh hy vọng sẽ trở thành người nổi tiếng?
– Hy vọng và tin tưởng.
Anh có vẻ nghiêm trang đến nỗi nàng phải chòng ghẹo: – Chắc anh sẽ trở thành Viện sĩ Viện Hàn lâm?
– Vâng, tôi sẽ buộc Viện Hàn lâm rồi sẽ phải tỏ ra tự do hơn. – Anh sẽ trở thành họa sĩ được Đức Vua và Hoàng hậu chú ý chứ? Gôya chưa bao giờ thể lộ tham vọng với bất cứ ai, anh đau khổ về
sự cô quạnh. Giôdépfa đối với anh, như người vừa có nhan sắc vừa thông cảm được những ước vọng của mình.
– Trước hết, tôi muốn là một họa sĩ thực sự.
Nàng nhận xét:
– Vậy rồi anh sẽ trở nên giàu có.
– Gia đình tôi nghèo, tôi sẽ không thành thật nếu nói rằng tôi không thích cảnh giàu sang, nhưng dù sao, tiền tài tự nó không phải là mục đích.
Anh nói không rõ thêm là trước nay, chẳng kể món tiền kiếm được là bao nhiêu, anh cũng không dành dụm bao giờ. Tiền bạc như đốt cháy bàn tay anh. Mỗi khi anh nhận tiền công trả cho những bức chân dung anh liền tiêu hết ngay trong một hoặc hai ngày.
Nhưng Giôdépfa thì tin rằng đã nắm được vấn đề chính, nàng mỉm cười với anh. Nàng đã từng nghe thấy anh nàng tuyên bố trịnh trọng là ông rất coi khinh tiền tài, thế nhưng điều ấy không ngăn cản ông tính tiền nhuận bút vẽ đắt hơn bất cứ một họa sĩ vẽ chân dung nào. Nàng cho rằng cách làm như vậy, là điều thường thấy ở tất cả những nghệ sĩ và bọn họ đều giống như anh nàng cả.
Nàng hiểu chàng trai này là một tay tiêu tiền như phá. Quen việc giữ tiền chi tiêu, nàng biết rõ giá trị chiếc áo lót bằng lụa và đôi giày có vòng bạc của Gôya. Nàng nhủ thầm, thật đã đến lúc cần phải có một người đàn bà cầm cân nẩy mực cho việc chi tiêu của anh.
Franxitxcô linh cảm thấy thái độ người thiếu nữ đối với anh có sự thay đổi. Vốn vẫn nhạy cảm trước những xúc động của những người khác, anh nhận thấy một nét dịu dàng mới trong ánh mắt, một vẻ ưu ái tiềm ẩn trong nụ cười của nàng. Anh nhẹ nhàng hỏi:
– Về phần tiểu thư Xênorita Bayơ, tiểu thư có những ước vọng gì trong cuộc sống?
Nàng cúi mặt xuống.
– Tôi giống như tất thảy mọi người đàn bà. Tôi không thích dính líu tới chuyện chính trị. Tôi cũng chẳng hiểu biết gì lắm về những cuộc tranh luận giữa các anh trong vấn đề hội họa. Anh tôi thì bất bình khi có người đả kích những lề lối cũ trong truyền thống, còn anh thì lại đấu tranh cho phong cách tự do. Nói thật ra, tôi chẳng hiểu những suy nghĩ của cả hai bên. Anh tôi đã giàu sang nhưng ông vẫn luôn tìm kiếm những thành đạt mới. Anh thì hoài bão trở thành người khai phá những con đường cách tân và cũng thú nhận rằng sẽ vươn tới những cảnh sống giàu sang. Một trong những nữ tu sĩ dạy tôi trong Tu Viện đã nói chắc chắn rằng những người đàn ông, họ thích tranh luận.
Nhưng nhiệm vụ của phụ nữ là chỉ lắng nghe và phải im tiếng. Tôi thấy dường như đã hiểu được điều bà ấy muốn nói.
Ngạc nhiên về sự mạnh dạn khác ngày thường của chính mình, với một nụ cười bẽn lẽn, Giôdépfa đột nhiên ngừng bặt. Gôya ngắm nhìn cái lúm đồng tiền trên má nàng, trả lời một cách lơ đãng: – Tiểu thư nói đúng.
Dưới cái nhìn dò xét, thôi thúc của chàng trai, Giôdépfa cảm thấy e thẹn.
Anh vốn vẫn tôn trong thái độ đoan trang kín đáo của nàng; nhưng buổi tối hôm ấy, khi thấy nàng hổ thẹn ửng hồng đôi má, cảm thấy nàng gần sát bên anh, anh không thể cầm lòng, đã ôm lấy nàng trong vòng tay.
Quá sửng sốt để cưỡng lại, cũng không hiểu chuyện gì sẽ xảy đến, nàng để anh hôn.
Franxitxcô chỉ biết có một kiểu đối xử với đàn bà: cái hôn của anh thật là đắm đuối. Giôdépfa lặng chịu một hồi lâu, sau, như người chợt tỉnh, nàng đẩy anh ra, gỡ khỏi vòng tay bằng một động tác mạnh mẽ. Gôya sửng sốt nhìn nàng, đôi tay buông sõng.
– Anh nhầm rồi! - Nàng lẩm bẩm nói và lấy lại vẻ trang nghiêm. Gôya cố trấn tĩnh. Anh sẵn sàng xin lỗi vì hành động bộc phát không đúng chỗ này.
Anh tự xác định rằng, người con gái dịu dàng và thông cảm này, xinh đẹp và đức hạnh này rất xứng đáng cùng anh xây dựng gia đình. Không chút chần chừ suy nghĩ về những ý kiến nhận xét của Dapatơ, khao khát được chứng tỏ với bè bạn là anh không phải một kẻ thích sống lang thang đơn độc, bỗng chốc anh mơ tưởng đến một ngôi nhà, một cuộc sống trưởng giả, êm đềm, anh cúi mình rất mực cung kính trước mắt Giôdépfa:
– Tôi hân hạnh được ngỏ lời hỏi tiểu thư làm vợ.
Thoạt đầu, rất bối rối, và sau thì hổ thẹn vì cái hôn trộm, Giôdépfa ngơ ngác trước lời thỉnh cầu ấy. Nàng không hiểu biết về Franxitxcô lắm và chẳng bao giờ tưởng tượng đến chuyện anh xin cưới nàng. Những ý nghĩ lộn xộn quay cuồng trong đầu óc nàng. Lát sau, lấy lại được vẻ đức độ lạnh lùng, nàng mím môi, thẳng người và trả lời với
một vẻ kiêu kỳ:
– Đó là chuyện mà anh phải nói với anh tôi.
Bỗng nhiên Franxitxcô cảm thấy không tin ở mình nữa. – Ông ấy sẽ hỏi ý kiến tiểu thư. Tiểu thư sẽ trả lời thế nào? Những lời ấy và giọng nói chân thành của Franxitxcô làm cho thiếu
nữ vững tâm. Nàng sẽ biết cách điều khiển con người này. Cuộc sống chung với anh chàng rồi sẽ rất khác với khuôn phép dưới ngọn roi dạy dỗ của anh nàng...
Nàng mỉm cười và nắm lấy tay anh.
3. Cuộc hôn nhân bị lên án – Bức họa “Cái dù”, tặng phẩm của một lần đoạn tuyệt – Những cuộc xung đột đổ máu đánh dấu cho mỗi lần gặp mặt – Gương mặt ấy, Nàng là ai?
Ngay từ những ngày đầu, cuộc hôn nhân giữa Giôdépfa và Franxitxcô đã bị lên án.
Họ thuê một ngôi nhà lớn hơn và Gôya buộc lòng phải nhận đơn đặt hàng vẽ những chân dung bôi bác và nịnh bợ để trả cho cách sống đài các của vợ. Trước đây anh sẵn sàng gạt bỏ những “com măng” như thế, nhưng nay, anh không thể chọn lựa. Cô vợ trẻ đã quen xa hoa, không thể chịu đựng nổi cuộc sống tầm thường. Để thỏa mãn những ý thích rất tốn kém của nàng, anh đã phải từ bỏ ý định sáng tác theo cảm hứng. Mỗi tuần, họ đến chơi nhà anh nàng một hoặc hai buổi tối. Ở đấy Giôdépfa sống lại con người thực của nàng, tươi vui, tỉnh táo. Nhưng những lúc khác, nàng rất khổ sở, lạc lõng và không giấu giếm lòng khinh bỉ đối với bạn hữu của chồng.
Những cuộc tranh luận giữa các họa sĩ trẻ, nhà thơ, nhà văn đang tìm tòi thay đổi phong cách trong sáng tạo nghệ thuật làm nàng kinh ngạc. Nàng rất sợ hãi khi buộc phải tiếp những đấu sĩ bò tót, những chiến sĩ đấu tranh cho tự do, và nàng phật ý vô cùng khi họ lại dẫn theo những cô “maja”. Franxitxcô thích giao du với tất cả các hạng người. Anh bực tức trước thái độ miệt thị của vợ và không thể chịu đựng nổi việc vợ thúc bách đi theo vết chân Bayơ - kiếm ăn ở bọn mua tranh giàu có. Anh buộc phải nhận những “com-măng” chán ngắt để khỏi bị chết đói. Nhưng anh không thể từ bỏ mục đích đã vạch ra. Giôdépfa càng kêu ca anh không nghĩ gì đến việc đảm bảo cho nàng cuộc sống hằng mong ước, thì anh lại càng cương quyết muốn đạt tới danh vọng theo cách thức của anh.
Cũng có thể còn chút hy vọng cho cuộc sống chung nếu như hai người còn gắn bó với nhau về thể xác. Nhưng Franxitxcô thấy vợ thường cưỡng lại trước biểu hiện yêu đương của anh. Nàng giữ thái độ lạnh lùng, dè dặt ngay cả trong những giây phút anh muốn gần gũi tâm tình, đến nỗi anh phải tự nhủ là lòng nàng đã băng giá một cách tuyệt vọng và không thể xúc động trước những tình cảm chân thành.
Về phía Giôdépfa, nàng thấy như bị nhục mạ trước sự nồng nàn sôi nổi của chồng mà nàng cho là tầm thường và tìm cách tránh mọi tiếp xúc với chồng. Franxitxcô nhận rõ sự xa lánh cố ý ấy, và tôn trọng nó. Cứ vậy, hai người gần như sống cách ly. Cả hai cùng đau khổ và đôi khi cũng thử tìm cách xích lại gần nhau. Nhưng Giôdépfa một mực muốn đẩy Gôya đi vào con đường Bayơ đã vạch sẵn, không biết gì về những tìm tòi sáng tạo của anh, phê phán tranh vẽ của anh. Còn Franxitxcô thì nhanh chóng trốn chạy khỏi cuộc sống chung với vợ, la cà trong quán rượu, nhập bọn với những đấu sĩ bó tót, thợ nề, thợ mộc. Trước ngày lấy Giôdépfa, anh rất chăm lui tới tiếp xúc với tầng lớp quyền quý. Giờ đây, do phản ứng với thái độ của vợ, anh đã làm ngược lại, chỉ giao du với tầng lớp hạ lưu.
Đắng cay, thất bại trong cuộc sống tình cảm và cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết, Gôya lại lao vào cách sống buông thả, trở lại nếp sinh hoạt bừa bãi xấu xa ở Saragôt, trừ một điều: anh vẫn gắng giữ lòng chung thủy với vợ.
Mactin Dapatơ, người bạn duy nhất còn được trọng thị dưới con mắt của Giôdépfa, cố gắng hòa giải đôi vợ chồng. Anh tìm mọi cách kéo họ nhích lại gần nhau nhưng vô ích. Gôya chống lại ý đồ ấy, từ chối không nghe anh. Còn người vợ trẻ, nàng cũng quá nông cạn để có thể hiểu được chồng.
Đã gần đến ngày kỷ niệm năm đầu tiên cuộc hôn nhân của hai người. Gôya cảm thấy hối hận, tìm cách chuộc lỗi một cách vụng về. Anh dùng hình ảnh Giôdépfa như một người mẫu cho nhân vật trung tâm của bức tranh nhan đề: “Cái dù”. Anh vẽ phác một cách bí mật, và Giôdépfa cũng không biết nàng đã được dùng làm người mẫu, cho tới lúc bức tranh hoàn thành. Anh tự hào về tác phẩm, đem treo nó ở phòng khách. Anh rất đỗi ngạc nhiên khi thấy Giôdépfa khóc nức nở khi nhìn thấy bức tranh. Nàng thét lên là không bao giờ nàng mặc lố lăng và hở hang như thế. Mặc cho Gôya hết lời thuyết phục và khẳng định là anh rất hài lòng về bức tranh, nàng cũng không thèm nghe.
– Anh để hết ngày giờ vào việc vui thú với bọn đĩ điếm nên anh coi tôi cũng như một con “maja” vậy.
– Anh bảo đảm với em, không bao giờ anh coi em như một cô “maja”.
– Còn không phải sao? Anh hãy nhìn cái áo kia... Thật là kinh tởm
quá.
– Anh thì thấy thế là đẹp.
– Anh đem thân hình tôi phơi bày trước mắt tất cả thiên hạ. Mắt đỏ ngầu, cánh mũi phập phồng thổn thức, nàng mất cả vẻ đẹp thường ngày. Franxitxcô cố gắng lần cuối cùng:
– Chẳng có gì đẹp hơn thân hình một người phụ nữ. Em may mắn có nhan sắc và thân hình cân đối tuyệt mỹ.
– Đừng thô lỗ!
Nàng vứt chiếc khăn mùi-xoa đăng-ten xuống tấm thảm phương Đông, đứng trước mặt anh, tay nắm chặt.
Gôya cảm thấy không thể nhịn được nữa:
– Hay em thích anh tìm một cô người mẫu khác?
Nàng bĩu môi, khỉnh bỉ, có vẻ ghê tởm:
– Tôi chắc những cô “maja” không mong gì hơn được làm người mẫu cho anh.
– Cô nói đúng. - Anh bình tĩnh đáp lại với vẻ thách thức. - Tôi chưa hề có ý nghĩ ấy, nhưng cảm ơn cô đã khuyên tôi làm thế. – Thôi đủ. Tôi biết đêm nào anh cũng mê mải ở đâu. Bạn bè của anh tôi bảo chẳng đêm nào anh không lu bù ờ quán rượu lão Rôdát, giữa bọn gái điếm. Anh đừng về đây thuyết lý với tôi về tư cách đạo đức nữa.
Franxitxcô chuẩn bị chịu đựng mọi điều trách móc song, lời vu khống của vợ làm anh nổi xung.
– Tùy cô muốn nghĩ thế nào cũng được.
Bỗng chốc, anh hiểu rằng, anh đã trở nên hoàn toàn lãnh đạm trước sự đay nghiến của vợ. Cuộc hôn nhân này là sai lầm. Niềm mến thương nàng mà anh đã cảm thấy trong một phút giây nào đó, giờ đây cũng nguội lạnh. Anh không yêu nàng. Cũng như nàng chẳng thể hiểu anh. Giôdépfa cũng cảm thấy như thế. Nàng nhìn chồng đăm đăm, lớp mặt ngoài mỏng manh che đậy những tan vỡ của cuộc hôn nhân cũng đã sụp đổ nốt. Nàng bước ra khỏi phòng. Anh tưởng cả ngày hôm ấy sẽ không nhìn thấy nàng nữa, nên rất ngạc nhiên, thấy một lát sau, nàng quay lại, tay cầm một con dao. Anh nghĩ là nàng định dọa giết anh nên bật cười. Nhưng tiếng cười đọng lại ngay, khi nàng xăm
xăm bước về phía bức tranh. Anh vội chồm tới, giằng lấy con dao trong tay nàng và hét lên:
– Có Thánh Frăngxoa chứng giám, cô định làm gì vậy? – Đừng viện đến Thánh Frăngxoa, mà hãy gọi quỷ Sa tăng ấy, nàng kêu lên. Anh bôi nhọ tôi, làm tôi trở thành lố bịch. Tôi nhất định băm nát cái trò khốn nạn này.
Nàng vùng vẫy đẩy anh ra, còn anh thì cố chặn nàng lại. Chưa bao giờ anh đánh một người đàn bà, nhưng lúc ấy anh phải cố ghìm mình để khỏi tát nàng mấy cái. Không những bức tranh ấy là món quà tặng thân thương để nối lại cuộc sống giữa hai người, mà anh còn coi nó là một sáng tác đắc ý, chưa lần nào anh vẽ đạt như thế. Ý nghĩ nàng định phá hủy bức tranh làm anh giận điên người.
– Cô ngu lắm. - Anh hét, - cô là một người đàn bà ngu ngốc. Tôi chưa từng thấy ai ngốc đến thế.
Nàng vẫn tìm cách vùng ra, sấn đến bức tranh, nhưng anh đẩy nàng lại rất mạnh. Nàng ngã khuỵu xuống cái ghế “capanè” và khóc nức nở. Anh nhìn nàng không chút thương hại.
– Nếu món quà tặng không làm cô vừa lòng thì tôi cất đi vậy. Anh tháo bức tranh cuộn lại, cắp dưới tay. Giôdépfa nhìn anh, đôi mắt mở to, hoảng sợ.
– Anh định làm gì bức tranh này?
– Bán đi, dĩ nhiên. Có hàng chục nhà bán tranh ở kinh thành này. Vớ được nó thì họ vui sướng quá đấy. Rồi cả trăm người tranh cướp nhau cho mà xem.
– Tôi cấm anh đem bán bức tranh ấy. Anh muốn bao nhiêu con mắt xa lạ sẽ ngắm nhìn tôi như thế hay sao? Tôi mà anh vẽ như một con “maja'' à?
– Lúc nào cô cũng muốn làm cho to chuyện. Bức tranh này chẳng có gì xấu xa cả. Đã bao giờ cô đi thăm một viện bảo tàng chưa? Cô có biết những sưu tầm của Hoàng cung không? Tôi ngờ chẳng bao giờ cô để ý đến những cái ấy. Từ một năm nay, lẽ ra cô có đủ thì giờ để phân biệt được sự khác nhau giữa những cái bôi bác của anh cô với nghệ thuật chân chính, nhưng xem ra, cô chẳng học hỏi được gì.
Giôdépfa không để vào tai những lời chì chiết ấy. Nắm chặt tay,
nàng từ từ đứng dậy và nhắc lại:
– Anh không được bán bức tranh đó.
Gôya phá ra cười:
– Tôi không được bán? Nó có thể đem lại cho tôi một số tiền lớn, bằng những đồng “đuca”, số tiền có thể nuôi cô trong sáu tháng, số tiền mà nhờ nó, có thể sắm năm hoặc sáu bộ áo đẹp cỡ bà hoàng, số tiền có thể nuôi cho cô có một người hầu để lao động khỏi làm bẩn đôi bàn tay ngọc ngà của cô đấy.
– Tôi cấm anh.
Đột nhiên, Gôya thấy nàng rất giống anh nàng, ngu xuẩn và kênh kiệu. Anh đeo dây lưng, dắt kiếm và cầm mũ.
– Tha hồ cho cô cấm đoán. Còn tôi, tôi sẽ làm theo ý tôi. – Tôi báo trước, nếu anh bán bức tranh ấy tôi sẽ bỏ anh, về ở với anh tôi. Không bao giờ tôi thèm trở lại cùng anh nữa. Anh cúi mình chào với một vẻ cung kính giễu cợt và mở cửa đi ra. Nhưng đến bậc cửa, anh hơi ngập ngừng, tìm một câu nói cuối cùng để trả thù cho lòng tự trọng bị xúc phạm.
– Nói cho cùng, cô là cái gì nhỉ? Để làm ra vẻ kiêu kỳ ầm ĩ à? Nếu như tên tuổi cô được lưu truyền lại đời sau, thì chính là nhờ cô đã được sử dụng làm người mẫu trong bức vẽ của tôi đấy.
Không đợi trả lời, anh đi ra, đóng sập cửa lại, phóng xuống thang gác và chạy ra đường.
Buổi tối, tiết trời nóng nực, nhưng làn gió đêm làm dịu mát những ý nghĩ trong đầu anh. Anh hít thở rất sâu và nghĩ thầm không hiểu Giôdépfa có thực hiện lời đe dọa không? Anh ít lo ngại điều đó mà trái lại còn mong cô ta sẽ giữ lời hứa, để khi trở về anh sẽ chỉ thấy căn nhà trống không.
Lòng đã nguôi đi một chút, anh rảo bước về khu quảng trường Plada Mayo, vào nhà thương gia đầu tiên, người anh quen và đã từng giao dịch. Anh nghĩ bụng, bán bao nhiêu cũng được, lấy một số tiền gọn tay, khỏi phải mất công chờ đợi.
Chủ hiệu trả sáu “đu blông”[15]. Gôya bán ngay. Xong xuôi anh đi ra, vừa đi vừa xóc những đồng tiền vàng trong túi.
Anh lang thang hồi lâu, không mục đích, chẳng buồn nhìn xe ngựa,
đám quan lớn quý tộc nghênh ngang, những thiếu nữ e lệ mắt nhìn xuống với những bà thái nữ đi kèm, bỗng chốc anh đã đến cửa quán rượu lão Rôdát mà không biết. Và anh bước vào, định bụng uống một cốc “Agacđientê”[16], lần đầu tiên uống rượu kể từ ngày rời Saragôt. Quán rượu đã vãn khách. Gôya nhìn thấy một “sulô”[17] Mađrit, người to lớn vạm vỡ nhưng tính tình hiền lành trầm lặng tên là Giuanitô. Hết mùa đấu bò, Giuanitô thất nghiệp, sống thiếu thốn nhưng vẫn thản nhiên như không, chỉ vì đơn giản là anh ngại làm bất cứ một công việc nào khác.
Nhìn thấy Gôya, anh mừng rỡ:
– Pacô!
Franxitxcô bắt tay anh và hối hận ngay, những ngón tay họa sĩ không chịu nổi cái bắt tay quá chặt của một đấu sĩ bò tót. – Anh đến đúng lúc. Pacô, chúng mình uống rượu mừng đi. – Mừng gì? - Gôya vừa hỏi, vừa nắn bóp bàn tay bị đau. – Mình sẽ rời Mađrit để đi đấu ở một vài vùng khác tận Bacxơlôna. Mình sẽ cho họ biết Giuanitô có khả năng thế nào?
– Thế thì hoan hô.
– Hoan hô là tốt, nhưng thế không đủ. Phải uống rượu mừng thắng lợi.
Phút chốc, Franxitxcô đã quên hẳn chuyện cãi cọ với vợ và nhận lời vào quán rượu. Chàng hộ pháp ngắm nghía anh một lát, rồi thú thật:
– Đáng buồn là mình có việc làm, nhưng chỉ sau khi làm việc hết tuần mới được trả tiền công.
– Nếu thế thì mình mời cậu vậy.
– Sự hào phóng của anh làm tôi xúc động. Agacđientê nhé. – Thì Agacđientê.
Chàng hộ pháp ngước mắt lên trần nhà, thở dài:
– Nói thực tình, uống chơi bời tý chút thì chúng mình dùng rượu thường thôi, tốt hơn. Chất Agacđientê này thật xứng đáng với danh hiệu của nó, uống vào, trong người như bốc lửa.
– Tùy ý thích của cậu.
– Nếu theo ý thích tôi, tôi chỉ uống Agacđientê chỉ làm tôi thêm khát. Một cốc cũng không đủ làm dịu con khát ấy.
– Thế thì gọi hẳn một vò lớn.
– Ấy đó. Đó mới là thứ ngôn ngữ xứng đáng của một quan lớn Tây Ban Nha thượng đẳng. Tôi rất cảm động. Anh quả là một “hiđangô”[18] chân chính, và tôi không muốn từ chối để làm phiền lòng anh. Vậy thì xin nhận một vò lớn.
Hai người chia nhau uống hết vò rượu, và quyết định cùng đi xem đấu bò tót ở “Plada đê Tôrô”.
Khi họ đến trường đấu. Các hàng ghế đều đã chật ních cả, nhưng Giuanitô là người quen mặt ở đây, là tay trong, nên tìm được chỗ ngồi tốt gần ngay khu ghế “lô” của giới quí tộc.
Cuộc đấu đã bắt đầu. Một đấu sĩ đang vờn con bò tót lì lợm. Franxitxcô, không xem, quay mặt nhìn đám khán giả. Mặc dầu anh uống nhiều rượu, và trước đó, ở nhà cãi nhau với vợ, thần kinh anh bị kích thích mạnh, vậy mà lúc này tâm hồn anh vẫn bình thản, sáng suốt. Anh đưa mắt quan sát kỹ vẻ mặt khán giả, từng người một, phát hiện những đường nét mà anh muốn ghi thành phác họa ngay. Anh ngắm nghía bộ mặt trắng xanh của những thiếu nữ kinh thành, vẻ mặt mang nhiều nét đặc sắc của những ông già “afixiônadô”[19], những cặp mắt nảy lửa của đám người trẻ tuổi đang háo hức như muốn xông xuống đấu trường. Sau cùng cái nhìn của anh hướng vào một hàng ghế “lô” được trang hoàng đầy hoa cẩm chướng. Và thế là anh dán mắt vào đấy, quên tất cả.
Ngồi trong ghế bành ở hàng đầu là ngài Công tước già Anbơ, đôi mắt ông ta bắt gặp đôi mắt Gôya. Nhưng hẳn ông ta không thể liên tưởng anh chàng trẻ tuổi ăn mặc lịch sự này, với thằng hầu dọn chuồng ngựa ở quán rượu “Lông cừu vàng” ngày nọ. Ông không nhận ra anh và nhìn đi chỗ khác.
Franxitxcô cũng không quan tâm đến lão già ấy. Người cùng ngồi với lão mới làm anh chú ý.
Cả nước Tây Ban Nha đều biết chuyện Công tước Anbơ vừa mới tục huyền, bọn bợm rượu ở các quán không ngót tán dóc những chuyện tiếu lâm giễu cợt về cô vợ trẻ còn kém tuổi con gái út của vị Công tước già ấy.
Người ta đồn rằng Công tước phu nhân trẻ này bị ép duyên. Nàng lấy chồng trái với ý muốn, cha mẹ nàng cũng không hài lòng về cuộc hôn nhân, nhưng họ không thể từ chối một người giàu có và quyền lực như Công tước Anbơ.
Trước đây, Franxitxcô cũng đã nghe nhiều những lời đàm tiếu ấy, nhưng anh chỉ nghe bằng đôi tai lơ đãng. Anh cho rằng nàng Công tước trẻ này, chẳng qua cũng chỉ là một cô gái khờ dại, lóa mắt vì tiền, như những cô gái mất trí khác, anh không để tâm đến.
Anh không hề chuẩn bị đón sự đụng độ làm anh choáng ngợp do sắc đẹp lộng lẫy kỳ diệu của nàng gây ra. Giữa lúc ấy, một đấu sĩ tiến vào trường đấu. Giuanitô kéo tay áo Gôya, nhưng anh giằng tay ra.
Công tước phu nhân quả là một người phụ nữ đẹp nhất mà anh chưa từng thấy từ trước tới nay.
Bàn tay như đờ đẫn đi, trái tim hồi hộp, Franxitxcô có xúc cảm đến choáng váng, anh không ngờ trên đời lại có một người đẹp đến thế. Vóc người dỏng cao, nàng ngồi rất thẳng trong ghế bành, vẻ kiêu kỳ không hề làm giảm những nét yêu kiều trong cử động của nàng. Người ta biết nàng thuộc hạng người phụ nữ không bao giờ có cử chỉ vụng về chướng mắt. Nàng tháo bỏ cái khăn trùm đầu bằng đăng-ten, để bộ tóc vàng sẫm xổ ra, trùm xuống đôi vai, trông còn đẹp hơn cả những kiểu tóc thời thượng theo kiểu mái xõa hoặc mái cuốn rất cầu kỳ ở Pháp. Nàng đẹp đến nỗi, người ta có cảm tưởng là không ai có thể nghĩ đến việc làm điều gì hại nàng. Gôya ngẫm nghĩ, anh không tài nào ngủ được trước khi vẽ xong ký họa chân dung nàng. Anh nghiên cứu những đường nét trong con người nàng, nó vượt xa chuẩn mực của một sắc đẹp qui ước. Nàng có đôi gò má cao, cặp môi mọng, đôi mắt to lấp lánh một màu xanh kỳ ảo đầy hấp dẫn. Franxitxcô nhìn nàng đăm đăm không chút giữ gìn. Anh đoán chừng người phụ nữ này có thể có những say mê đến vò xé tâm hồn, và tia sáng lấp lánh trong đôi mắt nàng bộc lộ sự thông minh sắc sảo, tầm suy nghĩ khôn ngoan rất mực ở một phụ nữ còn trẻ như thế. Gôya không thể rời mắt đi chỗ khác. Bây giờ anh để ý nhìn trang phục của nữ Công tước. Nàng mặc một áo dài kiểu đơn giản, loại áo, đối với cương vị một người quyền quý như nàng thì thật tầm thường, tấm khăn choàng bằng lụa thắt hơi lỏng để hở một phần cổ và vai.
Làn da mịn màng, trắng hồng, không gợi một chút cảm giác mềm yếu; trái lại, người phụ nữ trẻ lại có vẻ khỏe khoắn, lành mạnh y như những cô gái lao động ở nông thôn vậy. Phần trên chiếc áo lụa thêu bó sát lấy một thân hình thon thả với những đường nét óng chuốt. Thông thường những mệnh phụ quý tộc, để giải nỗi sầu muộn, chỉ biết ăn uống thật nhiều của ngon vật lạ, nên bà nào cũng phì nộn, nhưng Công tước phu nhân Anbơ thì thân hình vẫn thanh tú và khi nàng quay mình để nói nhỏ với một thể nữ trong đám tùy tùng thì Gôya nhận thấy nàng cũng mềm mại nhanh nhẹn chẳng kém gì đấu sĩ “banđoriô” đang biểu diễn.
Hình như nữ Công tước linh cảm thấy cái nhìn say đắm, thôi thúc của chàng trai trẻ, nàng cũng nhìn lại anh thẳng thắn, không chút e dè. Chắc hẳn nàng đã nhận thấy ở anh có những nét đặc sắc, nên nhìn anh khá lâu. Còn Gôya lúc ấy, chẳng suy nghĩ gì được nữa, anh như bị lóa mắt bởi sắc đẹp của nàng, quên cả giữ gìn phép lịch sự. Anh chỉ còn nghĩ được rằng từ nay có lẽ sẽ chẳng còn thấy ai đẹp bằng Công tước phu nhân Anbơ nữa.
Khi nàng thôi không nhìn anh và quay lại xem diễn biến trong trường đấu thì Gôya vẫn còn bám chặt lấy lưng ghế ngồi, dán mắt nhìn vào nàng gần như nín thở. Anh hớp uống chút không khí lạnh để tự trấn tĩnh và lục lại trong ký ức tất cả những chuyện anh đã được nghe thiên hạ đồn đại về nàng.
Maria Cayettana, Công tước phu nhân Anbơ thứ mười ba đã sinh ra và lớn lên tại nước Pháp và bị cầm chân giữa kinh thành Pari khi cách mạng bùng nổ. Người ta kể lại rằng sự sụp đổ của triều đại Buôcbông đã gây cho nàng một ấn tượng sâu sắc, in vào tình cảm và tư tưởng nàng những nét không thể phai mờ, ảnh hưởng mạnh đến thế giới quan và nhân sinh quan của nàng. Suốt thời sống ở Anh sau này, người ta đã gọi nàng là “cô gái bình dân Tây Ban Nha”.
Nàng không giấu giếm và công khai bày tỏ chính kiến. Người ta truyền tụng câu chuyện, trong một bữa tiệc tại cung đình, nàng đã tuyên bố với Hoàng đế Saclơ đệ tứ và Hoàng hậu Maria Luidơ những lời tiên đoán về số phận đen tối của Đế chế Pháp. Người ta còn nói thêm, nhưng không ai biết chuyện này có đúng không - rằng nàng đã từng tranh luận, trực tiếp với Đông Manuen đê Gôđoa, thuyết phục vị Thủ tướng này nới rộng quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
Chẳng cần kiểm tra những đồn đại ấy đúng hay sai, dân chúng Mađrit ngưỡng mộ nàng như một thần tượng. Vì thế, giữa lúc nàng đứng lên tán thưởng một thế đấu nguy hiểm của đấu sĩ thì đông đảo dân chúng hoan hô nàng vang dậy. Gôya tự lấy làm lạ khi thấy mình hét to hơn tất cả mọi người.
Với cương vị của nàng trong Hoàng tộc và Triều đình bây giờ, trước nhiệt tình sôi nổi của quần chúng, lẽ ra nàng phải làm ngơ, coi như không biết những lời hoan hô ấy hướng vào nàng, dành cho nàng, nhưng nàng đã làm ngược lại, nàng quay mặt hẳn về phía công chúng, tiếp nhận sự chào mừng của họ, cười vui và gửi cho đông đảo công chúng những cái hôn thân mật. Lão Công tước cau mày giận dữ, nhưng nàng nhún vai ngồi xuống ghế, tiếp tục mỉm cười với khán giả trên các hàng ghế.
Franxitxcô không để ý đến những diễn biến của trường đấu đến nỗi trận đấu đã kết thúc mà anh không hay. Đám đông tuôn ra ngoài, cuốn theo Giuanitô và Gôya trong dòng người. Có một lúc anh mất hút, không trông thấy nữ Công tước. Khi một tiểu đội lính cận vệ, dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan béo lùn đến dẹp đám đông để lấy lối đi cho Công tước và đoàn tùy tùng, anh lại nhìn thấy nàng đi giữa những người hộ tống.
Franxitxcô đứng ngay gần lối ra, anh ngây người ngắm nữ Công tước, nên khi bọn lính đến gần, anh vẫn đứng yên.
Đột nhiên, anh thấy nàng nhìn anh, ánh mắt hai người giao nhau. Trong ánh mắt nàng như bộc lộ chân thành mối đồng cảm tốt đẹp đối với anh. Bối rối, xúc động, chưa biết nên xử sự thế nào, Franxitxcô quên hết ngoại cảnh. Anh thường bất chợt gặp những cái nhìn táo bạo và khêu gợi của nhiều “Sica”. Nhưng chưa bao giờ một người phụ nữ cao quý nhìn sắc sảo như soi thấu lòng say mê của anh như thế. Vậy mà đây, một nữ Công tước, một đệ nhất phu nhân của Triều đình Tây Ban Nha đã đạp lên tập tục truyền thống của giai tầng, tỏ ra có thái độ đồng cảm với một anh chàng bình dân.
Điều làm cho Franxitxcô ngạc nhiên hơn cả là vẻ tự tin và cái dáng nhanh nhẹn khéo léo của người phụ nữ trẻ ấy. Ngay những cô “maja” cũng không thể biểu lộ tình cảm duyên dáng đến thế. Đôi mắt nàng nhìn như thách thức, nhưng miệng không cười, nàng vịn tay lão Công tước, thong thả đi bên cạnh chồng. Khi chỉ còn cách chỗ Gôya đứng
mấy bước, thì đôi mắt nàng như chìm đắm trong xa vắng, đôi môi lại hé nở một nụ cười mơ hồ. Rõ ràng sự chuyển biến sắc thái ấy là có dụng ý. Dường như nàng thách thức và chờ đợi cuộc tiếp xúc, chờ đợi bước chân thứ nhất của anh. Anh chưa kịp suy nghĩ và đáp ứng thái độ mời mọc ấy thì đã nghe viên sĩ quan quát:
– Thằng này, dẹp ra!
Vừa nói, hắn vừa lấy mặt bẹt của lưỡi kiếm đặt vào vai anh. Đức ông Công tước dừng lại, và Công tước phu nhân nở một nụ cười tinh quái. Rồi nàng lại nhìn Gôya xoi mói, dường như chờ đợi phản ứng của anh.
Dưới cái nhìn ấy, Gôya cảm thấy sôi lên căm giận và hổ thẹn. Đây đúng là dịp để anh trả thù thói lăng loàn và sự sỉ nhục của vợ anh, là dịp để anh trút cơn tức giận vẫn phải nén giữ, và nhất là để tỏ ra cho Công tước phu nhân thấy anh không phải là hạng quân hầu hèn đớn. Anh rút kiếm ra khỏi vỏ. Không nghĩ đến hậu quả do thái độ và hành động của mình, anh nhổ một bãi nước bọt vào chân viên sĩ quan, rồi dằn giọng:
– Còn mày nữa. Hãy cẩn thận cất thứ vũ khí trẻ con ấy đi. Bọn vệ sĩ ngơ ngác, đám đông khán giả xung quanh há hốc mồm, kinh ngạc và sợ hãi, đến cả ngài Công tước cũng giật mình sửng sốt. Nhưng Công tước phu nhân thì vẫn đứng lặng, chỉ hơi khẽ gật đầu, như tỏ vẻ đồng tình.
Viên sĩ quan đỏ mặt, tức giận bừng bừng. Còn Giuanitô thì cầm tay áo anh kéo lại, nhưng Gôya gạt tay anh ta. Như được khích lệ bởi sự đồng tình của nữ Công tước, anh tiếp:
– Mày có nghe thấy không? Cất đi.
Mũi kiếm nhọn của anh lấp lánh một cách nguy hiểm trên mặt viên sĩ quan. Đám đông khán giả thích thú tiết mục ngoài chương trình này. Họ phá lên cười trước cảnh một quan chức nhà nước bị hạ uy thế. Tuy vậy, viên sĩ quan tỏ ra không mất tinh thần, vẫn đứng yên không nao núng.
– Tao báo trước cho mày biết, - hắn ta nói thẽ thọt, - mày chống lại Đức Vua đấy.
– Mày không phải Đức Vua, - Gôya quát to để mọi người nghe rõ lời anh. - Đã đến lúc Mađrit phải trở thành thành phố cho mọi người
dân đều có thể dạo chơi mà không sợ hãi. Còn mày, mày ấy, mày chỉ là một thằng tay sai đốn mạt cần phải được dạy dỗ nhiều để biết rằng không phải lúc nào cũng lấy vũ khí dọa người bất công như thế.
Anh chưa dứt lời thì viên sĩ quan đã xông vào anh, vung lưỡi kiếm lên, chém xả xuống như một cây trủy thủ. Nếu nhát kiếm chém trúng thì Gôya không thể thoát chết, nhưng anh đã đưa kiếm lên đỡ, thanh kiếm của viên sĩ quan lạng đi và hắn ta ở vào một thế bất lợi. Franxitxcô đâm bồi luôn một mũi, đáng lẽ ra anh chỉ định xỉa mũi kiếm làm đứt ngù vai bạc, nhưng anh không lường đến sự di chuyển nhanh nhẹn của hắn, thành thử mũi kiếm đã chệch mục tiêu, đâm vào phần mềm trên bả vai đối thủ. Viên sĩ quan loạng choạng ngã, máu ở vết thương tuôn ra như suối.
Thế là chung quanh trở nên ồn ào, tình hình nhộn nhạo. Cùng một lúc, tất cả ào ào sôi động, đến nỗi Franxitxcô chỉ còn nhận thấy sự biến xảy ra qua những nét hỗn độn, mơ hồ. Anh thấy hình như nữ Công tước mỉm cười. Anh hiểu là nàng tán thành hành động của anh. Anh quên mình đang ở vào một hoàn cảnh hiểm nghèo có thể bị bắt giữ. Nhưng Giuanitô không hề bị lóa mắt trước sắc đẹp của Maria Cayettana, đã tỉnh táo đối phó ngay. Không chần chừ, Giuanitô ôm thốc ngay lấy Gôya, nhấc bổng anh lên, xoay người lại, đặt anh xuống đất, rồi nắm tay kéo anh chạy.
Giuanitô, cả cuộc đời đã từng nhiều phen trốn lủi pháp luật. Kinh nghiệm nhiều cuộc thoát hiểm đã giúp anh đủ tỉnh táo, nhận rõ tình hình để cứu Gôya khỏi cơn nguy khốn. Anh vừa quay lại, nói qua vai Gôya những câu gì đó, vừa lôi anh chạy theo. Đám đông nhạy cảm, lập tức hiểu ngay, sau khi mở lối cho hai kẻ đào tẩu, cả rừng người khép lại, đặc kín. Lúc toán cận vệ định thần lại, định đuổi bắt, thì trước mắt chúng đã là một bức tường người dày đặc. Đám đông chỉ hơi giãn ra một cách bất bình trước mũi súng đe dọa.
Ngài Công tước cũng vô tình tạo điều kiện cho Gôya chạy thoát. Sự việc vừa xảy ra làm ông ta rất bực tức. Không đợi bọn lính hộ tống, ông ta hấp tấp tự rời khỏi trường đấu, rảo đi thẳng về phía chiếc xe ngựa túc trực. Trách nhiệm đầu tiên của đội cận vệ là bảo đảm an ninh cho Công tước. Vì thế khi thấy ông ta đi ra xe, họ đành bỏ cuộc đuổi bắt để hộ giá. Đến lúc Công tước và phu nhân ngồi yên ổn trong xe thì hai kẻ chạy trốn đã mất tăm tích.
Giuanitô thuộc làu đường xá vùng ngoại ô Mađrit luồn lỏi hết ngả này sang hẻm khác làm Gôya nhớ tới cuộc trốn chạy lần trước ở Saragôt.
Do bản chất nóng nảy, anh lại lâm vào một tình huống nguy hiểm, lần này cũng lại do đàn bà. Trong thâm tâm, anh tự rủa mình trong suốt hai năm trời nay đã chẳng khôn ngoan hơn chút nào. Giôdépfa đã phần nào có lý khi tỏ ra khinh ghét anh. Thực tế, thời gian qua, nàng đã kiên trì chịu đựng trước cách sống phóng túng của anh Anh cũng mong muốn nàng thực sự trở nên thờ ơ lãnh đạm với anh như lời nàng vẫn nói, nếu không, sau này nàng sẽ còn phải chịu đau khổ về anh nhiều hơn nữa.
Franxitxcô hiểu rằng dù bây giờ anh có chạy thoát và tìm được chỗ trốn thì cũng chỉ là tạm thời. Anh đã có tiếng tăm lớn trong thành phố, trong số những người đã nhìn thấy anh đâm trọng thương viên sĩ quan, tất có kẻ đã nhận được mặt anh và họ không ngần ngại tố giác để lấy một món tiền thưởng. Thế nào rồi anh cũng bị bắt. Mỗi phút nấn ná ở Mađrit này càng làm cho việc ấy trở thành chắc chắn hơn. Anh phải tìm đường chạy trốn ngay trước khi nhà chức trách tìm ra dấu vết. Đó là những điều Franxitxcô vắn tắt nói với Giuanitô lúc hai người đứng lại thở lấy sức.
Anh chàng hộ pháp Giuanitô chăm chú nghe và sau đó cười: – Thần hộ mệnh che chở cho anh đấy. Pacô ạ, anh đi với tôi. Ngày mai cứ đi theo bọn tôi. Ngay cả ngài Thủ tướng Đông Manuen đê Gôđoa cũng chẳng bao giờ nghĩ là phải truy tầm một họa sĩ trong đoàn “tôrêrô”[20]lưu động cả.
Franxitxcô thấy hé ra một tia hy vọng.
– Nhập đoàn “tôrêrô” có phải dễ dàng đâu.
– Trái lại, rất dễ. Lão trưởng đoàn Pêđrô Moneada cứ luôn phải đi lùng dân “Matado” khắp nơi. Vì lão ta bủn xỉn quá, chẳng ai muốn đi với đoàn của lão. Anh đã từng đấu bò tót ở Saragôt. Biết anh có nghề, chắc chắn lão sẽ nhận. Lão cần người, sẽ chẳng hỏi han gì lôi thôi đâu.
Franxitxcô cúi đầu lưỡng lự:
– Bạn biết đấy, trước kia mình xuống trường đấu là để chơi bời tài tử. Mình không phải là một “tôrêrô” chuyên nghiệp.
– Tùy ông thôi. Đó cũng là một ý kiến. Thế là hết. Nếu ông thích nằm khoèo một tháng trong hầm ngục rồi sau kết thúc cuộc đời ở sợi dây treo cổ, thì đó là việc riêng của ông.
Dĩ nhiên, Gôya chẳng còn cách lựa chọn nào khác.
– Thôi được, Giuanitô! Cậu có lý. Mình sẽ đi với cậu.
– Tốt, ta đến ngay lão Môncađa bây giờ.
– Mình còn có chút việc. - Franxitxcô nói nhỏ. - Mình phải về qua nhà một chút.
Anh chàng hộ pháp nhìn anh đăm đăm.
– Phải, tôi quên là anh đã có vợ.
– Mình sẽ tìm lại cậu ở đâu?
– Không, tôi đi với anh. Để anh đi một mình nguy hiểm lắm. Bọn tuần cảnh mà tóm được anh, chúng không nhẹ tay đâu. Tôi phải ở bên anh mới được.
– Mình không thể để cậu bị nguy hiểm.
– Thôi, không có thì giờ tranh luận. - Giuanitô vừa cười vừa nói, - nhà anh ở đầu kia chứ gì!
Hai người đi về phía nhà Gôya không gặp trở ngại gì. Có lúc họ đi đĩnh đạc, có lúc họ lại cắm cổ chạy, để tránh những cặp mắt chú ý. Về đến nhà, anh thấy đèn thắp sáng trưng trong tất cả các phòng. Giuanitô, rất nóng ruột, vằn vò mũ trong tay, đứng chờ dưới vòm mái hiên. Franxitxcô bước vào trong nhà, thấy Giôdépfa đang trong cơn giận dữ. Vợ anh đang thu xếp hòm xiểng đồ đạc. Thấy chồng về nàng cũng chẳng buồn nhìn lên.
Anh nhìn nàng giây lâu, thở dài và hỏi:
– Vậy là em dọn đi?
– Phải, ngay tối nay, ngay bây giờ.
– Thế là hơn. Tôi rất khổ tâm. Bây giờ tôi hiểu, tôi có nhiều lỗi lầm trong cuộc sống.
Giôdépfa không trả lời, cắm cúi gấp chiếc áo dài bằng lụa. Franxitxcô rút dưới gầm giường ra một cái hộp nhỏ bằng sắt, mở ra và đếm số tiền để trong ấy. Có sáu trăm mười “đuca” và mấy “rêô”, anh lấy số tiền mới bán tranh gộp bỏ cả vào bọc tiền. Anh cầm túi tiền
đưa cho Giôdépfa. Nàng làm như không nhìn thấy. Anh thở dài, vứt bọc tiền xuống giường. Anh không ngạc nhiên khi thấy nàng nhặt lấy, rút tiền ra đếm cẩn thận trước khi nhét vào thắt lưng. Giờ thì anh có thể yên tâm ra đi, không còn lo cho tương lai của vợ. Anh đã để lại cho Giôdépfa đến đồng “maravedi” cuối cùng.
Hai vợ chồng cùng giật mình khi nghe tiếng ho báo hiệu kín đáo phía ngoài. Giuanitô đứng bên ngưỡng của gọi:
– Pacô, nhanh lên. Bọn cảnh binh mà biết anh là ai thì chúng sẽ đến ngay đấy.
Franxitxcô không dám nhìn đôi mắt đầy vẻ khinh bạc của vợ. Anh nói nhỏ:
– Cô thấy đấy. Tôi cũng đi.
– Lại một chuyện điên rồ của anh chứ gì? Điều ấy không làm tôi ngạc nhiên.
Sớm hay muộn thì nàng cũng sẽ biết. Vì vậy anh muốn tự mình kể lại sự việc xảy ra. Anh nói:
– Chỉ là một rủi ro thôi. Sau khi tan buổi đấu bò tót ở trường đấu ra, tôi đã làm bị thương một viên sĩ quan...
– Tôi biết trước sẽ có những chuyện như vậy. Anh tự cho mình là nghệ sĩ, nhưng thực ra anh chỉ là một người vô tích sự, một thằng ngốc, một cái mồi của giá treo cổ. Mong rằng từ nay, chẳng bao giờ tôi nhìn thấy anh nữa.
Nàng quay lưng lại phía anh, tiếp tục sắp xếp đồ đạc. Franxitxcô lặng lẽ nhìn nàng. Anh chẳng biết nói gì, cảm thấy xứng đáng với sự khinh bỉ của vợ. Cuối cùng, anh thở dài, quay bước ra ngoài, cùng Giuanitô biến vào đêm tối.
4. Cuộc sống giang hồ - “Ôllê, Anđa, Anđa! Sự thôi thúc của niềm khát vọng không thỏa ” – Đi tìm tự do, đi tìm nghệ thuật – Mọi con đường đều dẫn tới Rôma!
Cuộc sống của những đoàn “cuađriya” lưu động rất vất vả, nguy hiểm và chẳng có gì tươi đẹp. Thường thường đấu sĩ vượt lên trên mình, chịu đựng được mọi rủi ro bất hạnh là do họ được nuôi dưỡng bởi làn sóng hoan hô cổ vũ của khán giả; họ thấy hứng thú khi đem lòng dũng cảm của mình, mạo hiểm đọ sức với sự man rợ tinh khôn của mãnh thú để giành chiến thắng. Nhưng Gôya nhập đoàn “cuađriya” dưới bí danh Franxitxcô Galinô, thì lại cảm thấy khổ tâm, uất hận không bằng lòng với kiểu sống như vậy. Nghệ sĩ vốn ước mơ được nổi danh cùng nghệ thuật, cảm thấy hổ thẹn trước đông đảo khán giả ném đầy hoa vào trường đấu hoan hô mỗi khi anh thắng được một con bò tót. Anh không tìm lại được niềm hân hoan ngày trước, thời mà anh đấu bò tót kiểu tài tử theo thú riêng. Anh bắt đầu hiểu được nỗi cơ cực về những bài học đầu tiên của cuộc sống giang hồ. Anh hiểu mình đang chịu đau khổ vô ích, và những nhục nhằn này, nếu có rèn luyện anh trở thành người thì lại chẳng nâng cao tài năng nghệ sĩ trong anh thêm chút nào, vì anh không hề sờ đến bút, không hề dám ký họa vì sợ lộ tung tích.
Anh tự nhủ Franxitxcô họa sĩ đã chết, và anh, từ nay cho đến hết đời sẽ phải sống dưới dạng một tội phạm trốn lủi. Giôdépfa bỏ anh là đúng. Anh yên lòng vì từ nay sẽ không làm nàng đau khổ nữa. Giờ đây, anh chỉ lo mình sẽ bị thương. Nếu như một đêm nào đó, anh có chết trong trường đấu thì sẽ chẳng có ai thương khóc. Giuanitô, tôn trọng hành tung bí mật của anh sẽ chẳng bao giờ dám nói thực anh là ai; anh ta ân hận đã mất đi một người bạn, nhưng nỗi đau buồn ấy rồi cũng chóng nguôi. Con người kiếm sống trong trường đấu thường chấp nhận cái chết bằng một triết lý giản đơn như vậy.
Thông thường, đấu sĩ trong đoàn “cuađriya” khổng biểu lộ xúc động mỗi khi một “Matado”[21] bị bò húc xổ ruột, hoặc một “picađơ”[22] bị giày đạp dưới móng con bò tót hung hãn, nhưng Franxitxcô không thề cầm lòng trước cảnh ấy.
Anh nhận thấy mọi người đều có thể làm điều ác, song con người trở nên nhân ái vì thông cảm và bị ràng buộc trong hoàn cảnh đau khổ thiếu thốn. Nhưng, anh không tài nào hiểu được, tại sao người lương thiện cũng dày vò và làm khổ lẫn nhau. Họ sống với say mê nào, với ngọn lửa bí ẩn nào để có thể trở nên thờ ơ trước cuộc sống và cái chết. Trong những ngày đầu đi theo đoàn diễn anh luôn bị dằn vặt bởi câu hỏi ấy mà không thể trả lời. Thế rồi, vào lúc anh không băn khoăn tìm hiểu nữa, một biến cố mới đã xảy ra làm anh khám phá thêm được một sắc diện mới trong cuộc sống.
Lần ấy đoàn “cuađriya” đang lưu diễn tại một thành phố miền núi thuộc tỉnh Sôria. Ở vùng này hiếm đoàn đến diễn đấu nên khán giả rất đông. Trường đấu chật ních quý tộc, với nông dân. Có những người ở xa, đi bộ hoặc cưỡi la hàng dặm đường để đến xem đấu bò tót.
Ngày hôm ấy, Franxitxcô không phải làm việc. Anh chán chường với sân đấu, bò tót và cả tiếng la hét của đám khán giả khát máu, rút lui vào trong “lô” dành riêng cho đấu sĩ “tôrêrô”[23]. Cảm thấy thân thể rã rời kiệt nhược, anh buông mình xuống ghế dài, khuỷu tay chống lên đầu gối, hai bàn tay ôm lấy dầu, lòng thắt lại, anh tự nhủ thà rằng đầu thú, nộp mình cho nhà chức trách một cách đơn giản còn hơn phải sống trốn tránh cho đến hết đời trong cuộc sống cực nhục không chịu nổi này. Tuy nhiên, anh biết không thể làm thế được. Cuộc sống lẩn lút, vô dụng và tuyệt vọng dù có đè nặng lên cuộc đời, nhưng anh vẫn chịu được với hy vọng một ngày kia lại có thể tiếp tục vẽ, tiếp tục đi theo con đường Nghệ thuật. Cuộc sống ấy dù sao cũng dạy cho anh giữ được bản sắc riêng khi diễn đạt cảm xúc trên mặt giấy. Bằng cách tính toán nghiêm chỉnh, hàng tháng anh dành dụm số tiền kiếm được, ngoài một vài “rêô” thỉnh thoảng gửi cho Giôdépfa, dưới danh nghĩa một người vô danh, còn thì anh chỉ chi những món thật cần thiết. Kiên trì tiết kiệm, có thể anh sẽ dành được tiền để bắt đầu lại cuộc đời nghệ sĩ.
Bỗng tiếng kêu thét vang dậy ở các hàng ghế khán giả phía trên “lô” kéo anh ra khỏi suy tư mơ mộng. Anh vùng đứng lên, bất giác nắm chặt hai tay. Nghe tiếng kêu thét ồn ào của nhiều người bộc lộ sự kinh hoàng anh hiểu tai họa đã xảy ra. Anh chưa kịp chạy ra thì thấy ba người “pêônê” khiêng vào một người máu me đầm đìa. Đó là Cáclôt Paluêdơ, một “Matado” xuất sắc của đoàn “cuadriya”. Trang
phục của anh ta lấm bẩn và rách nát. Hai mắt nhắm nghiền, Caclôt khẽ rên rỉ. Thấy “pêônê” nhẹ nhàng đặt người bị thương trên ghế dài, và anh ta nằm thẳng đơ không động đậy, Gôya biết xương sống vùng thượng thận đã bị gãy. Vết thương hẳn rất trầm trọng. Anh vội vã chạy đến bên đấu sĩ, dùng dao cắt áo chẽn ngoài bằng sa tanh, và bảo một người đi lấy rượu. Sắc mặt Cáclôt xám ngắt, thở khó khăn. Không thầy thuốc nào có thể cứu nổi anh ta nữa.
Khi Franxitxcô đưa ly rượu vào miệng người bị thương thì anh ta mở mắt nhìn và cố gượng cười. Anh ta uống một ngụm rượu, ngửa đầu ra sau, vẻ đau đớn kiệt sức, thì thào một câu gì đó mà những “pêônê” không nghe rõ. Franxitxcô cúi sát xuống và nghe tiếng “Matado” thều thào:
– Chậm rồi, uống làm gì...
– Đi tìm ngay Đức cha rửa tội. - Franxitxcô gọi to.
Một kỵ sĩ “picađơ” tức khắc đi ngay.
Người “Matado” hấp hối, thu hết tàn lực, nhìn Gôya và nói bằng giọng rõ ràng:
– Tôi thường quan sát anh. Chắc anh vẫn tự hỏi tại sao bọn “matađo” chúng tôi lại say mê đấu bò tót như thế?
– Đúng, - họa sĩ thú nhận.
– Anh không phải “matađo” chuyên nghiệp, chúng tôi vẫn thường nói chuyện về anh. Anh đấu bò tót chỉ để kiếm sống bất đắc dĩ. Còn chúng tôi, đơn độc lao vào trường đấu là tự nguyện, do niềm say mê thúc bách.
– Sao vậy? Để làm gì?
– Để tìm sự yên ổn cho tâm hồn... Chúng tôi đùa giỡn với thần chết, chỉ cảm thấy yên tĩnh trong mỗi lần chiến thắng cái chết. Nhưng sự yên tĩnh đó chỉ được một thời gian. Sau đó lại tiếp tục những băn khoăn dằn vặt mới, quỷ dữ ám ảnh trong người lại đẩy chúng tôi vào trận đấu mới... lại đấu nữa... Thế đấy. Tôi, tôi còn may mắn hơn nhiều người khác.
Người hấp hối mở một nụ cười đột ngột, rồi nhắm mắt lại đúng lúc cha đạo vừa tới. Franxitxcô tránh sang một bên, đứng tựa lưng vào tường, đầu cúi gục. Thật thế, Cáclôt còn gặp may. Anh ta biết rõ niềm say mê của mình. Và đã sống với niềm say mê ấy đến hơi thở cuối
cùng.
Anh ta đã đạt được ước muốn mà ít người có được.
Franxitxcô hiểu rõ người “matađo”. Đối với Cáclôt, anh không cảm thấy xót thương, cũng không ước muốn cuộc đời như anh ta, nhưng anh thán phục ý nghĩa sống dung dị của Cáclôt. Trong giây phút nhìn rõ chân lý cuộc sống, khi một người đang hấp hối ngay bên cạnh, Gôya thử nhìn lại bản thân một cách thành thật và nghiêm chỉnh. Anh phải tự thú đã không biết rõ mình ham muốn cái gì. Đã hẳn là anh say mê hội họa. Anh muốn đạt đến đỉnh cao nghệ thuật, giống như “Matado” đạt đến những thủ pháp điêu luyện. Tuy nhiên, chỉ riêng nghệ thuật không thôi, không đủ mang lại yên ổn cho tâm hồn. Anh còn cần thêm nữa, một cái gì đó, phụ thuộc nhỏ nhoi, khó phân tích và phù phiếm, trước khi tìm được yên tĩnh cho tâm hồn như Cáclôt.
Chắc chắn, và hiển nhiên như thế, suốt đời Franxitxcô đã tìm kiếm điều anh không biết ấy...
*
* *
Ở thị trấn Kuêvat, có một quán trọ duy nhất thì đã đầy khách trọ, đoàn “cuađriya” lưu diễn ở đây đành phải dựng lều bạt trong một vườn cây ô-liu, và nấu ăn trên bếp củi ngoài trời. Đoàn định diễn ở Kuêvat hai ngày, nhưng khán giả đông đến nỗi lão chủ phải yêu cầu đấu sĩ kéo dài thời gian lưu diễn một tuần. Những “pêônê” và các tay “picado” đồng ý ở lại trong điều kiện sống tạm bợ và thiếu thốn, không chút phản ứng. Trái lại, đám “matađo” thì phản đối gay gắt. Franxitxcô thường ngày rất ít quan tâm đến chuyện ăn ở, bị bất bình chung của đồng nghiệp lôi cuốn nên hai ngày sau, anh cũng tỏ vẻ cáu kỉnh, bất mãn.
Thông thường những chàng “matađo” có thói quen ăn qua loa bữa ăn sáng, chờ khi buổi diễn đấu kết thúc mới chén một bữa thịnh soạn. Franxitxcô không quen với cách sống ấy, nên cứ chiều tối đã thấy đói cồn cào. Vào tối ngày thứ ba tại đây, khi rời khỏi trường đấu, cùng với Giuanitô, anh chỉ còn nghĩ đến bữa tối. Giuanitô, anh chàng phàm ăn, lúc nào cũng ăn được, đã chuẩn bị bữa chén.
– Tối nay mình định làm món thịt cừu băm nhỏ trộn với dầu và tỏi, chiên thơm lên với hành củ, sau sẽ hầm với gạo. Anh thấy thế nào?
– Tốt thôi, nhưng hôm qua, hôm kia ta cũng ăn thế rồi. Bỗng Franxitxcô đứng lại trước một tấm biển son viết nguệch ngoạc, đang lật bật run lên trước gió. Nét mặt anh sáng lên: – Tại sao chúng mình lại không chén một bữa ngon ở quán rượu nhỉ. Được ngồi vào bàn ăn trước món “paella” ngon lành với một chai “clarêtê” hoặc “vinô nêgrô” thì khoái biết mấy.
Giuanitô, quấn chặt tấm áo choàng vào người và thở dài. – Rét này mà làm một chai “vinô nêgrô” thì tuyệt!
Nhưng anh ta vẫn đứng yên không tiến thêm bước nào đến gần cái “pôđađa” ấy.
– Ta vào đi. Cậu nói đúng, rét thật. Trong quán đang đốt lò sưởi. – Lửa thì mình về đốt cũng được. - Giuanitô lẩm bẩm. – Cậu sao thế. - Franxitxcô kinh ngạc hỏi, vẻ sốt ruột. – Họ không tiếp chúng mình trong ấy.
– Có mà bạn! Mình chưa từng gặp lão chủ quán nào lại chê cái mũi dài và cặp mắt ti hí của Đức Vua Sác-lơ đệ tam, nếu hình thù ấy được đúc trên một đồng “duca” tròn trịa. Hôm nay lão chủ Môncađa thưởng mình thêm một “đuca” vì trong trận đấu mình đã biểu diễn mấy miếng thoát hiểm đặc sắc. Vào đây. Mình mời cậu chén bữa tối.
Chẳng đợi bạn trả lời, Gôya đi về phía quán rượu. Giuanitô lưỡng lự, hơi lắc đầu, rồi cũng bước theo với tiếng thở dài.
Khi họ đẩy cánh cửa đang hé mở, mùi thơm các món xào nấu tỏa ra ngào ngạt, xộc vào mũi. Một đùi bò đang quay trong lò, những cô hầu bàn, béo núc ních, đi lại tấp nập với những vò rượu hâm nóng thơm phức, Franxitxcô đứng lại ở bậc của và nhìn quanh. Gian quán này giống hệt những quán rượu mà anh đã biết, cũng vì kèo đen xì bồ hóng, bàn gỗ mộc dài, cũng những vết nứt nẻ trên nền gạch. Lập tức anh cảm thấy không khí thoải mái quen thuộc.
Quán đầy khách! Anh lơ đãng nhận thấy họ toàn là những người ăn mặc sang trọng, nhưng anh nghĩ trang phục của anh cũng không có gì đáng xấu hổ. Cái mũ cài lông chim cũng lịch sự như mũ những người khác và bộ áo choàng với cái quần chẽn bằng lụa màu xanh nhạt thì chẳng có gì không hợp thời trang và phong cách những người thanh lịch. Thấy một chiếc bàn nhỏ ở góc phòng còn trống, anh
chỉ cho Giuanitô, lúc ấy vẫn ngập ngừng đứng ở bậc cửa, và bảo: – Chúng mình vào kia...
Nhưng trước khi bước vào, anh đã thấy lão chủ quán to béo, đầu hói, vừa đến chặn trước mặt anh, vừa lau bàn tay vào tạp dề. Franxitxcô chào hắn bằng một giọng niềm nở.
– A, chào ông chủ quán. Chúng ta muốn thưởng thức món xào ngon nhất, và thứ rượu cũ nhất của quý quán đây.
Lão chủ quán nhìn anh, không cười:
– Tôi thật phiền lòng, quán không còn chỗ.
– Còn cái bàn nhỏ ở góc kia. - Franxitxcô không hề bối rối, nói với vẻ khẩn khoản.
– Bàn ấy không phải dành cho các anh.
– Sao?
Lão chủ quán, bằng một cái khoát tay, chỉ vào đám khách khứa ngồi chật cả bàn.
– Cả gian quán này, đã được dành riêng cho tôn ông Đông Giôdê Môrênô và quan khách của ngài.
Franxitxcô chợt nhớ ra Đông Giôdê, người mà buổi đấu nào cũng tới xem, ngồi ở “lô” danh dự của trường đấu. Ông ta đã từng hoan hô anh nhiệt liệt trong những lần anh diễn đấu. Anh nghĩ thầm, hẳn ông ta là lãnh chúa ở thành phố, và, với phong thái rất lịch thiệp, anh cúi đầu:
– Ta xin cung kính được phục vụ tôn ông Đông Giôdê. Ta rất hân hạnh được uống một chén rượu để tỏ lòng cám ơn sự hoan hô cổ vũ của ngài ở trường đấu.
Giuanitô nói nhỏ với anh:
– Chúng ta về thôi, Pacô.
– Tốt nhất, anh nên nghe theo lời bạn. - Lão chủ quán vẫn đứng chặn trước cửa - Nếu anh muốn chúc rượu một Đức ông Tây Ban Nha thì nên làm ở nơi khác. Ta không muốn xúc phạm ngài tôn quý Đông Giôdê ở đây. Quán rượu của ta vốn rất được trọng vọng.
Franxitxcô thấy nóng mặt:
– Hay lão có gan cho rằng ta không đủ tiền trả?
– Ta không hiểu từ bao giờ quân khố rách của trường đấu lại có quyền ngồi ăn chung phòng với một Đức ông Tây Ban Nha, sở hữu hàng vạn mẫu đất và dòng dõi tôn quý đã tiếp nối trên lãnh địa hàng mấy thế kỷ. Tiếng hoan hô của công chúng đã làm anh bốc đồng đấy, anh bạn trẻ. Anh chỉ là một thứ rơm rác. Cút khỏi đây ngay, cả hai, không tao nện cho bây giờ.
Franxitxcô đưa tay nắm lấy chuôi kiếm. Nhưng Giuanitô giữ anh lại.
– Đừng, Pacô. Tôi van anh. Không được gây lộn. Anh không được làm thế.
Mặc dù tức giận, nhưng Franxitxcô đủ tỉnh táo để hiểu lời khuyên can của anh bạn hộ pháp là có lý. Nếu xảy ra đánh lộn, lính bảo an sẽ đến. Anh sẽ bị giữ thẩm vấn và sẽ lộ ngay tung tích thực. Anh bỏ ngay ý định đánh tên chủ quán, lập tức quay gót trở ra.
Anh sải đi trong đêm. Giuanitô phải chạy gằn mới theo kịp. – Tôi đã bảo anh trước, Pacô. Sao anh lại nghĩ là tất cả đoàn “cuađriya” nhà mình không ai thích vào quán rượu. Chúng mình không phải hạng người được mời đón vào đấy. Không một ai trong đoàn được quyền đặt chân tới quán.
– Thằng chủ quán tự cho nó là vương tướng gì? Nó không có quyền cấm cửa chúng ta.
– Nó đang ở tại nhà. Đây là cửa hàng của nó. - Giuanitô trả lời - Nó có quyền phục vụ người nó thích và cấm cửa kẻ nó không thích. – Nó là cái thá gì mà có quyền xét đoán khách hàng? – Này anh. Rất nhiều lần anh đã có ý kiến quái lạ, Paco. Cái gì làm cho anh tưởng rằng hai thằng dân thường như chúng ta lại có thể xếp ngang hàng với ngài Đông Môrênô?
– Mọi người đều bình đẳng. Người Pháp đã chứng minh điều ấy. Và kể cả người Anh nữa, mặc dù họ còn một ông vua và đẳng cấp quý tộc, mọi công dân Anh đều có quyền bình đẳng. Cậu thử nhìn sang thế giới mới[24] ấy, dân chúng đã bầu bộ máy nhà nước của họ ở Hợp chủng quốc[25].
– Nhưng anh đang ở Tây Ban Nha chứ không phải ở Pháp, ở Anh, cũng không phải ở Mỹ, - anh chàng hộ pháp trả lời có thiện ý. - Theo
tôi, thì anh đã gặp vô khối chuyện phiền hà rồi đấy. Nếu cứ tiếp tục nói năng lung tung thì anh sẽ thấy chuyện gì xảy đến. – Trong tình hình hiện thời, mình thấy cậu có lý. - Franxitxcô làu bàu, công nhận.
– May quá. Nếu thấy thích thì anh cứ nghĩ trong óc là người bình đẳng với giới thượng lưu quí tộc đi. Nhưng đừng có nói ra miệng như thế.
– Mình không nghĩ thế cho riêng mình, cả cậu nữa, Giuanitô, cậu cũng bình đẳng với các ngài quí tộc.
Giuanitô cảm thấy nghẹn thở đến mức không thể đáp lại được. – Một ngày kia, tất cả đàn ông, đàn bà Tây Ban Nha sẽ hiểu điều đó. - Gôya nói tiếp.
Giuanitô thất vọng vì không làm thay đổi được định kiến của Gôya, anh tìm cách chuyển sang chuyện khác, để làm cho bạn khuây khỏa. – Pacô, anh trông kìa, có hai con bé “sica” trên quảng trường ấy. Gọi họ đến chén bữa tối với chúng mình, anh bảo có được không? Franxitxcô cười chua chát:
– Cậu cho rằng mình sẽ quên những ý nghĩ mà cậu cho là nguy hiểm, khi làm tình với mấy cô gái khốn khổ bán thân bằng mấy “rêô” kia sao? Giuanitô, cậu cho mình là hạng người gì? Mình tôn thờ đất nước và nhân dân Tây Ban Nha. Mình sẽ không được sống yên ổn, chừng nào chưa vạch rõ thế nào là tự do và nhân phẩm.
– Miễn là cậu đừng chết trước khi thực hiện được điều đó. - Giuanitô cằn nhằn.
*
* *
Taragôn, một cảng có hai mươi ngàn dân, bên bờ Địa Trung Hải, phía nam Bacxơlôna. Nhỏ về diện tích và dân số, nhưng đối với tư cách là một hải cảng, nó lại là một thành phố quan trọng. Tàu buôn từ Vơnidơ, và từ Hy Lạp cập bến, thuyền Anh đến lấy nhiên liệu và ăn hàng, thuyền buôn Trung Đông đưa tới hương liệu, tơ lụa và thảm dệt. Người tứ xứ, nói đủ các thứ tiếng, nườm nượp ra vào các quán rượu. Và tới chập tối, các nhà buôn đã không dám đi vào những phố nhỏ của bến cảng. Ở trung tâm thành phố có một nhà hát và một rạp
Nhạc kịch lớn được xây dựng vào đúng vị trí cũ của trường đấu thời Hoàng đế Juyn Xeda[26].
Ở đây, Giáo hội tăng cường hoạt động để ngăn ngừa sự xâm nhập những tư tưởng xa lạ, ảnh hưởng đến đầu óc cư dân ngoan đạo. Binh lính vũ trang là lực lượng quan trọng bậc nhất để duy trì an ninh trật tự địa phương, vì những cuộc xung đột đổ máu thường xuyên xảy ra giữa những đoàn thủy thủ của các thuyền buôn nhiều xứ sở khác nhau.
Viên lãnh binh chỉ huy đạo quân hợp cùng với viên Thẩm phán Giáo hội, ra sức duy trì trật tự an ninh, nhưng họ đều biết Taragôn là một thành phố lộn xộn bậc nhất Tây Ban Nha. Cả hai nhân vật ấy đều sống trong tâm trạng chờ đợi một ngày kia, hết niên hạn làm việc tại đây, được thuyên chuyển tới nơi khác yên ổn hơn.
Người Taragôn rất ham thích đấu bò tót. Khi lão chủ Môncađa đưa đoàn “cuađriya” đến lưu diễn tại đây, ông ta đã nói cặn kẽ tình hình thành phố cho mọi người biết, dặn dò những điều cần thiết trong việc giao dịch và động viên các “Matado” và “picado” đặc biệt chú ý phô trương tuyệt kỹ của họ. Đoàn “cuađriya” cũng lấy làm tự hào vì được biểu diễn trước một công chúng có tinh thần thượng võ, khó tính chẳng kém gì khán giả của các thành phố lớn như Mađrit, Bacxơlôna, hay Tôleđơ.
Hôm ấy, buổi diễn đấu “côriđa” bắt đầu tốt. Hai đấu sĩ Matado đầu tiên đã khuất phục được những con bò tót với sự hoan hô nồng nhiệt của đông đảo người xem.
Đến lượt Franxitxcô, anh cảm thấy tim đập hồi hộp. Mặc dù chỉ là một “Matado” tài tử, anh thấy mình cũng phải biểu thị được lòng dũng cảm, sự tài khéo trước công chúng và phải tỏ ra có tài ngang hàng bằng những tay “tôrêô” cừ khôi.
Con bò tót của anh còn hung dữ hơn hai con trước. Song, Franxitxcô rất tự tin, đã thành công trong việc điều khiên con mãnh thú, bắt nó tiến thoái theo ý mình và đã làm cồn lên trong trường đấu những đợt sóng hoan hô tán thưởng. Chọn đúng lúc thích hợp anh đã đâm trúng con vật dữ tợn một nhát kiếm chính xác. Song, mặc dù khán giả reo hò cổ vũ vang dậy, anh vẫn cảm thấy mình chưa có gì xuất sắc vượt hẳn những đấu sĩ trước đó.
Dịp may đến với anh vào cuối chương trình, lúc con bò tót cuối cùng, một con vật to lớn và hung dữ nhất được đưa vào vòng đấu. Mắt nó đỏ dọc, nẩy lửa, lỗ mũi phì hơi nóng, đầu cúi gằm, lúc lắc cặp sừng nhọn, nó phóng như gió vòng quanh vũ đài. Các kỵ sĩ “picađơ” vào vòng đấu trước, nó húc ngã hai người, mặc dầu hai bên sườn bị rách vì những mũi dáo đâm trúng, con mãnh thú không có vẻ yếu đi chút nào. Trái lại, những vết thương như kích thích làm nó hóa điên. Nó xông thẳng vào một kỵ sĩ “banđơriơrô”[27] may nhờ có sự nhanh ý của một “torêrô” nhảy ngang trước nó, tung cái khăn ra vờn vẫy, mới cứu thoát anh chàng kỵ sĩ kia khỏi bị giày chết.
Khi Franxitxcô nghe thấy điệu kèn “báo tử” phải hạ sát con vật, thì nó vẫn còn dũng mãnh tỉnh táo và hung tợn như khi mới khởi đầu cuộc đấu. Nhưng Gôya hiên ngang tiến lên, cúi chào khán giả trong các hàng ghế “lô” ném cái “môntêra”[28] cho người phường trưởng cuộc đua, rồi ngẩng cao đầu, anh bước dõng dạc vào giữa trường đấu. Hai bên thái dương anh ù vang, họng khô bỏng, nhưng anh gắng sức vượt lên trên sự khiếp sợ, với ý nghĩ, đây là dịp để anh chứng tỏ cho chính mình biết rõ giá trị thật của bản thân có đủ dũng khí, nghị lực trong một cuộc đấu sinh tử không?
Chỉ đứng một mình, tay cầm cái “mulêta”[29] anh chờ con dã thú xông đến. Con bò tót nhìn thấy vật kích thích, dùng móng chân cào cào mặt đất một cách tức tối, rồi lao vào rất quyết liệt. Gôya đứng im không nhúc nhích chỉ khi con vật xông thẳng vào người, anh mới dùng một chân làm trụ, xoay người hẳn một vòng, né tránh nhẹ nhàng. Con bò tót lao qua phía trái, nhưng nó choãi ngay bốn cẳng đứng sững lại, và nhanh như cắt, nó quay lại tấn công ngay lập tức. Cũng rất nhanh và mềm mại, Gôya lặp lại động tác trước, trụ trên một chân, xoay mình hẳn một vòng né tránh sự tấn công của con vật một cách tài tình đến kỳ lạ. Anh biết rằng cần phải làm cho con bò thấm mệt, yếu dần đi, mới hạ sát được nó. Nhưng hình như con vật không biết mệt mỏi, mỗi lúc càng như khỏe thêm, nó lao vào anh, sát gần đến nỗi anh cảm thấy nó cọ ràn rạt vào những đường kim sa thêu trên áo. Trường đấu vang lên từng đợt kêu thét rồi lại nhanh chóng chìm đắm trong im lặng nặng nề.
Đột nhiên, con bò tót hung dữ đứng sững lại. Hình như nó chán cái trò đơn diệu ấy, Franxitxcô hiểu rằng con vật đã nhận biết kẻ thù. Nó
không mắc lừa nữa. Nó không nhìn cái “mulêta” bằng con mắt hóa dại mà nhìn người.
Hết sức trấn tĩnh, Franxitxcô, dậm chân thúc giục nó và thét lên: – Anda! Anda!
Con bò tót dùng móng chân trước cào đất rất dữ dội, nhưng vẫn đứng im. Nó nhìn người chằm chằm bằng đôi mắt rực lửa. Hình như nó đang đánh giá, và lựa chọn thời điểm, để tập trung sức lực vào lần tấn công quyết định.
Cuối cùng nó phì luồng khí nóng ra hai lỗ mũi, mõm sùi bọt trắng, lao tới, né tránh cái “mulêta”, nhằm xông thẳng vào người Franxitxcô. Phút giây nguy hiểm vô cùng, nhưng Franxitxcô đã nhanh nhẹn xoay người tránh kịp. Tuy vậy đầu nó cũng sướt qua bắp đùi anh làm rách toạc cái quần chẽn, bứt hẳn một miếng vải sa tanh dính vào cái sừng nhọn của con vật. Đà của con thú dữ lao tới mạnh đến nỗi, tuy nó chỉ lướt qua cũng đủ làm Gôya hụt chân loạng choạng suýt ngã. Anh phải quì một đầu gối xuống đất giữ thăng bằng.
Cả trường đấu vụt đứng dậy, la hét vang dội. Con bò tót, thắng thế, quay ngoắt ngay lại, chĩa bộ sừng về phía trước, tiếp tục lao vào tấn công. Nhưng Franxitxcô có đủ thì giờ để trấn tĩnh lại. Anh hiểu rằng ý chí muốn sống còn mạnh hơn sự khiếp sợ. Với cố gắng vượt sức người, anh vùng đứng lên. Đúng vào lúc con bò tót phóng tới, anh đưa mũi kiếm đâm vào giữa ức nó. Lao theo đà chạy, con thú dữ còn xốc tới bước nữa, rồi sau mới khuỵu xuống, đổ gục như một trái núi.
Trong tiếng hoan hô cổ vũ của toàn thể khán giả như mê, như say trong khắp trường đấu, Franxitxcô đứng lên, toàn thân vươn thẳng trong tư thế chiến thắng. Anh tinh ý dùng tấm “mulêta” vắt lên cánh tay một cách rất phong nhã, quay lại, bước thong thả đến nhặt cái “môntêra” mà anh đã vứt xuống trước khi vào trận, không để ý đến hoa và mũ vứt như mưa xuống trường đấu. Anh vừa đối mặt với cái chết. Và thật là kỳ diệu, anh vẫn sống. Anh lẩm nhẩm đọc một lời cầu nguyện gì đó và đi về phía “lô” của mình, đôi chân vẫn còn run rẩy.
Anh suy nghĩ dù sao cuộc sống đối với anh vẫn quý giá vô ngần, anh sẽ tận hưởng lạc thú mà sau này cuộc sống ấy đưa lại. Đấu sĩ đoàn “cuađriya” kéo vào “lô” của anh để biểu dương và chúc mừng anh. Anh tiếp nhận lời chúc tụng mà không có cảm nghĩ
gì. Anh cởi bỏ bộ võ phục biểu diễn bằng những cử chỉ vô giác gần như một cái máy.
Lúc đó, lão chủ Môncađa đi tới, ông ta thanh toán tiền công ngay cho anh, và đưa anh một bọc tiền:
– Đây là tiền thưởng của Ngài Bá tước lãnh địa Taragôn. - Ông ta vừa đưa bọc tiền vào tay anh vừa giải thích.
Franxitxcô nhận bọc tiền và mỉm cười.
Chỉ một giờ trước đây có thể anh sẽ rất hãnh diện được nhận món tiền trọng thưởng của một đức ông quí tộc, nhưng lúc này sau cuộc chiến đấu, tiếp cận với cái chết, anh cảm thấy như đã vượt qua ranh giới thời gian, trở nên khôn ngoan từng trải hơn, anh như đã già đi trong kinh nghiệm sống ở đời. Anh lẳng lặng bỏ số tiền vàng vào túi, không nói năng gì. Môncađa nói tiếp:
– Ngài Bá tước muốn vời anh để gặp mặt. Anh sửa soạn nhanh lên. Đây là vinh hạnh lớn mà Bá tước ban cho anh. Cả ngài Đại tá Tổng lãnh binh cũng muốn gặp anh.
Franxitxcô nhún vai và tiếp tục thay quần áo. Anh chẳng có chút hứng thú nào đi nhận những lời khen kẻ cả của một nhà quí tộc và của viên Tổng lãnh binh, nhưng anh không thể từ chối.
Khi anh bước từ trong “lô” ra, một bóng người, lẩn trong bóng tối của các bậc ghế trường đấu bước theo.
– Pacô! Đi về phía này. - Franxitxcô ngạc nhiên đứng lại. Anh nhận ra anh bạn hộ pháp. Giuanitô với vẻ nghiêm trọng bảo anh, như ra lệnh:
– Đi theo tôi ngay! Pacô.
Gôya nhìn bạn không hiểu. Giuanitô tiếp:
– Anh đang đi tới một hiểm họa. Cuộc sống của anh đang bị đe dọa, còn nguy hiểm hơn cả lúc nãy, khi đối đầu với mãnh thú trên vòng đấu. Một viên sĩ quan cận vệ của Bá tước nói với tôi là ông Đại tá tổng lãnh binh có ý nghi ngờ tung tích của anh. Ông ta định thẩm vấn anh sau khi anh đến trình diện Bá tước.
– Nhưng...
– Lý lịch, nhận dạng của anh đã được gửi đi tất cả các tỉnh. Viên Đại tá này là một võ quan nổi tiếng tàn bạo. Lão ta rất chú ý đến
trường hợp của anh, ngạc nhiên vì chưa bao giờ thấy tên Franxitxcô Galinô trong danh sách các võ sĩ trong những mùa “tempôrađa” trước đây. Lão có ý nghĩ hoặc và liên tưởng đến những thông báo truy nã anh được Mađrit gửi tới.
Franxitxcô nói cứng:
– Mình sẽ có cách trả lời chứ.
– Thôi, anh phải đi ngay với tôi. Giuanitô nắm chặt cánh tay anh, kéo anh đi qua các phố về phía bến cảng.
– Nhưng đi đâu?
– Rồi anh sẽ biết. Anh có mang tiền đấy không?
– Có.
– Tốt, chúng mình cần đến.
– Chúng mình?
– Thì anh và tôi. Dĩ nhiên là thế. Anh tưởng tôi bỏ anh trong bước hiểm nghèo này?
Giuanitô ngừng lại khi hai người đã đến khu vực cảng, anh đẩy bạn đứng nấp vào bóng tối một kho chứa hàng và dặn: – Đưa tiền cho tôi và chờ ở đây. Đừng đi ra để người ta nhìn thấy, và cũng đừng nói chuyện với ai.
Lúc ấy Franxitxcô cảm thấy mệt mỏi vì cuộc đấu buổi chiều, nên chẳng muốn hỏi thêm, anh đưa túi tiền cho bạn rồi nấp vào bóng tối. Khi còn lại một mình anh mới bình tĩnh nhìn rõ tình hình, mới nhận thức được hiểm họa đang đe dọa cuộc sống. Nguy cơ có thể bị bắt đang chập chờn chụp xuống đầu anh, nhưng anh không còn tâm trí nào để suy nghĩ sáng suốt nữa. Anh chỉ còn biết rõ một điều là cuộc đời lại đang biến đổi.
Lát sau, Giuanitô trở về và nói:
– Chúng mình gặp may. Tôi thuê một chiếc tàu đánh cá. Họ chở những người hành hương đi Rôma. Chúng mình sẽ nằm trên boong tàu cùng với khoảng năm chục dân nghèo nữa. Ăn uống sẽ chẳng có gì. Viên thuyền trưởng đòi mỗi đứa phải trả hai “đublông”. Thằng đểu thật. Tàu nhổ neo vào nửa đêm và khi đã rời khỏi Tây Ban Nha không còn phải sợ hãi gì nữa.
Franxitxcô thấy tan biến hết mọi sự mệt nhọc, anh rảo bước về phía chiếc thuyền nhỏ sẽ đưa anh đi xa. Đến Italia, anh sẽ lại sống con người thực của anh, sẽ lại vẽ, và lại tiếp tục học. Anh sẽ sống trong cảnh lưu đày, đúng thế. Nhưng không cần. Anh có tự do. Anh sẽ để hết tâm trí, ngày giờ vào Nghệ thuật, vào lẽ sống. Và lần đầu tiên, từ bao năm nay, anh nhìn tương lai với đầy niềm tin tưởng.
5. Tự do trong bước lưu đày – Tiếp tục cuộc hành trình để tự khám phá – Cái sào ném xuống nước cho một người chết đuối - “Nước Tây Ban Nha cần có những người con như Franxitxcô”.
Thời ấy, Pari và Luân Đôn vươn lên như những trung tâm Trí tuệ của thế giới phương Tây. Song, mọi con đường tìm tòi sáng tạo đều vẫn còn dẫn tới Rôma.
Những nghệ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ và nhà thơ toàn Châu Âu kéo đến tìm nguồn học thuật, và cảm hứng bên bờ sông Tibrơ. Franxitxcô Gôya nhanh chóng nhập vào đội ngũ nghệ sĩ nước ngoài ấy. Anh thuê một căn nhà nhỏ chung sống với Giuanitô. Anh hiểu rằng, muốn đạt tới nghệ thuật thì phải làm việc hết sức chuyên cần. Anh tổ chức cuộc sống điều độ và để hết tâm lực vào việc nghiên cứu học tập. Anh không cho phép mình sống buông thả, phù phiếm, hoài phí thời gian vào ăn chơi chè chén, đấu kiếm, gái chơi và những canh bạc như trước. Anh chỉ rời giá vẽ để đi nghe bài giảng của các họa sĩ danh tiếng Pômpêô Battôni và Rafaen Meng; cả hai ông này (anh rất tự hào khi biết chuyện) đều có nhắc đến tên tuổi anh.
Thỉnh thoảng anh lại đi du lịch, thăm những vương quốc Italia khác để trau dồi kiến thức và kỹ thuật trong cái mà người ta gọi là trào lưu học thuật của nền Phục hưng thứ hai. Anh đoạt được một giải thưởng hội họa trong cuộc thi tại thành phố Pacmơ và đã lưu lại ở vương quốc Naplơ, đến mức có ý định sẽ rời bỏ Rôma để về ở hẳn dưới chân núi Vêduvơ. Ở đấy có những họa sĩ thuộc trường phái tả thực như Gatxparơ Travecsi và Giuseppơ Bônitô[30], tác giả những bức tranh chân dung rất đặc sắc. Mặc dầu, không có một họa sĩ nào sống trên đất Italia mà không chịu ảnh hưởng của các họa sĩ bậc thầy thời cũ, riêng Franxitxcô vẫn không tán thành một vài người trong số bạn bè anh, như họa sĩ Tây Ban Nha, Rôvirô đê Brôcanden[31] hoặc như nhà điêu khắc Guttiêrêz. Họ hạn chế mình ở mức sao chép một cách nô lệ phong cách và bút pháp của Vinxi, Rafaen và Xenlini[32].
Tuy nhiên, con người có bản chất nổi loạn ấy không khỏi rung động trước sự truyền cảm mãnh liệt từ các tác phẩm của
Misenlănggiơ[33].
Franxitxcô đã đứng hàng giờ trong giáo đường Vatican để nghiên cứu những bích họa của Vọng Cung Sixtin mà nghệ sĩ thiên tài đã để năm năm trời liên tục mới hoàn thành tác phẩm bất tử ấy. Anh cảm thấy mắc nợ nghệ sĩ lớn của tất cả các thời đại ấy. Anh xúc động rất sâu sắc trước tác phẩm của Côregiơ[34] bởi cảm thụ mang sắc thái dục tình và cách thể hiện với bút pháp sáng tối, và có ý định học tập phong cách, bút pháp bậc thầy này.
Anh bắt đầu tự kìm chế, từng bước chậm chạp, chắc chắn kiếm đủ tiền để sống thoải mái. Sau nhiều tháng cần cù lao động, anh tự nhận thấy đã chín chắn hơn trong cuộc sống nghệ thuật cũng như trong đời sống xã hội. Anh cho rằng đó là ảnh hưởng không khí sinh hoạt ở nước Italia. Sau hơn một năm, cùng với Giuanitô đến cư trú tại đây, anh không khỏi sửng sốt trước những biến chuyển xã hội của đất nước này. Những nghệ sĩ và nhà văn ở đây hoạt động một cách độc lập, tự chủ. Trong khi sống hòa nhập với các tầng lớp dân chúng ở Rôma, ở Naplơ hay ở Pacmơ, anh phát hiện thấy ở họ có nhiều đức tính mà, khốn khổ thay, người Tây Ban Nha không có. Người dân Italia đã từng biết nhiều chủ nhân ông chiếm cứ trên đất nước họ, đặc biệt là người Pháp và người Áo. Họ đã kiên trì đấu tranh cho nền độc lập. Những người đàn ông và đàn bà, trong mọi hoàn cảnh, ở mọi điều kiện xã hội đều thấy họ tự do, họ công khai bàn luận, không sợ hãi một thế lực nào, và dám công khai phê phán cả nhà chức trách, các cấp chính quyền khi thấy một đạo luật hay một nghị định nào đó không công minh.
Điều làm cho Franxitxcô ngạc nhiên nhất là thái độ của Nhà thờ. Anh đã vẽ chân dung cho một giáo chủ áo đỏ, hai vị Tổng giám mục và hai Giám mục. Anh hiểu họ khá tường tận để có thể cùng họ nói chuyện về nhiều vấn đề xã hội khác nhau. Anh thấy tất cả bọn họ, không trừ một ai, đều có học vấn, có kiến văn rộng rãi, sáng suốt và có ý thức về chức năng của Nhà thờ, theo khuynh hướng phải đi trước thời đại, tiến lên trước trào lưu dang lướt qua thế kỷ XVIII, chuyển sang thế kỷ XIX.
Khi nghiên cứu những bức bích họa trong Thánh đường Vatican, anh trò chuyện với các Giáo sĩ tùy tùng của Giáo hoàng và được biết là chính Đức Giáo hoàng cũng quan tâm sâu sắc đến vấn đề tự do và
những quyền con người, đã dùng ảnh hưởng của mình để giúp dân chúng ý thức được giá trị của bản thân họ.
Franxitxcô nhận thấy Tòa án Giáo hội đã bị hủy bỏ ở khắp nơi, trừ Tây Ban Nha và một số nước ở Lục địa mới[35], ở đó tín đồ vẫn còn nằm dưới ách thống trị hà khắc của nó. Giáo hoàng và các vị Giáo chủ áo đỏ thừa biết đàn áp, khủng bố sẽ dẫn đến bất bình và chống đối. Họ cho rằng vai trò của Nhà thờ, trái lại, là phải ủng hộ kẻ yếu chống lại chuyên chế. Theo Franxitxcô đám dân thường nước Anh từ lâu đã được hưởng ân huệ của Tự do, và tướng Bônapactơ, vị Tổng tài đứng đầu cơ quan chấp chính nước Pháp là một lãnh tụ sáng suốt nhất Châu Âu, xóa bỏ mọi đặc quyền đẳng cấp, công bố một pháp chế mới trong tất cả những lãnh thổ do quân đội của ông ta chiếm đóng.
Triết lý sống của Franxitxcô, cho đến bây giờ vẫn bị che phủ bởi bao nhiêu tình cảm rối rắm đã dần dần được sáng tỏ. Anh không chỉ là một nghệ sĩ thời đại, mà còn là một họa sĩ Tây Ban Nha mong muốn được thể hiện những đồng bào Tây Ban Nha của mình. Tuy sống trong cảnh lưu vong nhưng anh vẫn gắn bó chặt chẽ với Tổ quốc, với đồng bào. Như người lùi lại mấy bước để ngắm bức tranh mình vừa thể hiện, Gôya cũng lùi lại ngắm Tổ quốc đang thối ruỗng trong dốt nát và nghèo đói. Với niềm tự hào và lòng yêu mến đất nước, anh chịu đau đớn chờ đến lúc được đem khả năng ra phục vụ nó. Nhiều lúc bị dằn vặt đau khổ, đến mức anh tuyệt vọng xác định là những năng khiếu, công phu rèn luyện của anh sẽ trở thành vô nghĩa nếu nó không được đem ra phục vụ đất nước. Những ưu tư dằn vặt ấy càng làm anh thêm căm thù sâu sắc Đông Manuen đê Gôđoa và những bọn quí tộc Tây Ban Nha đang nắm giữ vận mệnh Tổ quốc anh, kìm hãm nó trong tối tăm của ngu dốt và nghèo khổ.
Nhưng anh cũng đã hiểu rằng, thật là ngờ nghệch khi muốn bẻ gãy xiềng xích ấy bằng cách chống đối trực tiếp bọn người có quyền lực, hành động như một kẻ điên rồ. Những bài học trước đây thật là chua chát, và bây giờ anh biết rằng vũ khí đấu tranh của anh là bút vẽ chứ không phải là thanh kiếm. Song, chừng nào anh còn phải sống lưu vong ở Italia, anh không thể làm gì được. Anh không biết làm thế nào để được ân xá, có thể trở về xứ sở để phục vụ Tổ quốc. Anh viết thư cho Mactin Dapatơ hỏi ý kiến anh và nhờ anh giúp đỡ. Giuanitô kiếm
được việc làm bốc xếp hàng ở Lunggôtêvêrê. Anh ta cũng thấy nhớ quê hương. Dĩ nhiên Giuanitô có thể trở về Tây Ban Nha, không có điều gì sợ hãi, nhưng anh không nỡ rời bỏ một người bạn - anh nói rõ ràng như vậy - rất cần được chăm nom săn sóc.
Franxitxcô buồn rầu chờ ngày chấm dứt cuộc sống lưu vong. Anh biết mơ ước này rất mỏng manh. Anh phải hành động. Trước hết anh viết thư cho Giôdépfa, xin nàng tha lỗi, thề với nàng là anh đã thay đổi cách sống cũ và yêu cầu nàng đến với anh. Anh không nói với chính mình cũng như với mọi người khác là còn yêu nàng. Anh cũng biết nàng không còn yêu anh nữa. Nhưng về danh nghĩa, nàng vẫn là vợ anh, anh thấy phải thực hiện nghĩa vụ người chồng đối với nàng. Anh vẫn gửi tiền về cho nàng rất đều đặn. Hình như nàng vẫn nhận tiền mà không chê trách gì, nhưng nàng tuyệt nhiên không trả lời thư anh. Anh viết một thư nữa. Rồi một lần thứ ba nữa. Anh vẫn không được trả lời. Cuối cùng, anh viết cho Dapatơ yêu cầu bạn anh đến gặp nàng để biết rõ thái độ.
Ở Mađrit mọi người đều biết phu nhân Giôdépfa Gôya giữ một địa vị quan trọng trong gia đình anh trai. Bayơ đã lấy vợ, vợ ông rất trẻ, chơi bời phù phiếm, thích bỏ mặc nhà cửa lộn xộn cho cô em chồng khó khăn lặng lẽ thu xếp.
Giôdépfa không hay đi chơi. Rất ít khi người ta gặp nàng ở rạp Ca nhạc hay Vũ kịch. Nàng thích náu hình trong bóng tối và khi anh trai tiếp khách, nàng chỉ lặng lẽ như một chiếc bóng, nàng ít nói và chẳng cười bao giờ. Nàng thận trọng tránh gặp tất cả những ai có thể quen biết người chồng mà nàng cho rằng đã làm nàng nhục nhã.
Dapatơ nuôi rất ít hy vọng khi làm sứ giả bào chữa cho Franxitxcô. Tuy vậy anh rất tận tâm làm, một phần tin tưởng ở ngay sự chuyển biến trong cách sống của Gôya. Anh mang theo cả những bức thư nhận được của Franxitxcô từ Italia để chứng minh với Giôdépfa là quả thực Franxitxcô đã trở thành một con người đứng đắn.
Giôdépfa để Mactin Dapatơ chờ rất lâu trong phòng khách của anh trai, đến nỗi anh tưởng nàng không muốn tiếp. Khi nàng bước ra, anh đứng dậy chào, lòng se lại, khi nhận hình dáng bên ngoài của nàng. Nàng còn trẻ. Nàng có thể đẹp. Nhưng nàng mặc toàn đồ đen như một quả phụ. Những vết nhăn đã hằn sâu trên trán và bên đôi môi mím chặt. Nàng không đưa tay cho anh hôn, không cười, chỉ khẽ nói:
– Chào anh Mactin, mời anh ngồi.
Anh ngồi xuống theo lời mời, định nói một câu chúc tụng gì đó, tìm một lời đưa đẩy để bắt vào câu chuyện mở đầu. Nhưng nàng không để anh kịp nói. Ngồi thẳng cứng trên ghế tựa, vẻ nghiêm khắc, hai tay bắt chéo trên đầu gối, bằng một giọng lạnh lùng và chắc chắn, nàng đi thẳng ngay vào đề.
– Tôi biết vì sao anh đến đây. Tôi nhận được mấy lá thư của người ấy, lời lẽ khẩn thiết, thúc bách. Hai cái gửi từ Rôma. Một cái từ Naplơ. Dapatơ không chờ đợi cách đi thẳng vào chuyện chính đột ngột như thế. Anh hơi lúng túng trả lời:
– Tôi tin chắc Franxitxcô tự bào chữa cho mình còn nhiệt tình hơn tôi. Thực ra tôi cũng chẳng biết nói thế nào. Tôi chỉ là một người bạn thân, hiểu rõ con người anh ấy hơn ai khác.
– Tôi thấy anh chẳng cần phải bào chữa, anh Mactin, anh là một người có tiếng tăm và được trọng vọng.
– Tôi nghĩ Franxitxcô cũng là một người đáng được trọng vọng. Tôi không đến đây để xin chị một lời tha thứ cho anh ấy đâu và cũng không tìm cách bào chữa. Trong quá khứ anh ấy mắc nhiều lầm lỗi. Tôi nghĩ là, anh ấy chưa đủ chín chắn khi xây dựng gia đình, đã cư xử như một đứa trẻ nhỏ. Nhưng giờ đây, tôi biết, anh ấy đã lớn khôn rồi.
Nàng trả lời lạnh nhạt:
– Chuyện ấy chẳng liên quan gì đến tôi.
Dapatơ thấy tốt hơn là chuyển hướng câu chuyện:
– Chắc chị cũng biết, qua lệnh huynh nói lại, hiện giờ Gôya đã bắt đầu có tiếng tăm. Anh ấy đã gửi một số tác phẩm về đây và được nhiều người khen ngợi. Tôi được biết là Công tước phu nhân Anbơ đánh giá cao tài năng của anh và đã mua hai hoặc ba bức tranh của anh ấy.
– Từ ngày góa chồng, bà Công tước ấy chẳng biết dùng gia sản to lớn mà chồng để lại làm gì. Nếu bà ta thích tiêu phí ngu ngốc tiền tài, thì đó là việc riêng của bà ấy.
– Chị Giôdépfa, chị không công bằng chút nào. Một số tác phẩm của Franxitxcô rất có giá trị. Tôi không hề có ý làm giảm uy thế của lệnh huynh nhưng như nhiều người đánh giá, cả nước Tây Ban Nha
này không mấy ai sánh với Gôya được đâu.
Giôdépfa vẫn lạnh lùng, không lay chuyển, đôi mắt xa xăm, nàng buông sõng:
– Tôi không thích hội họa. Nếu anh ấy bán được tranh, yêu cầu anh ấy gửi thêm tiền trợ cấp cho tôi. Tôi vẫn yêu cầu anh ấy phải chia sẻ một phần lợi tức, dù anh ấy kiếm bằng gì cũng mặc. Anh ta có thể trở thành họa sĩ số một của Hoàng cung, hoặc giả người ta có coi anh ta ngang tài với Vêlâtxkêđơ đi nữa, thì tôi đối với anh ta cũng chỉ còn có lòng khinh bỉ mà thôi.
Hai người ngồi lặng lẽ hồi lâu. Dapatơ đưa mắt ngắm một cách vô vị những họa tiết trên tấm thảm phương Đông rồi anh nhỏ nhẹ: – Tôi không chối cãi là Franxitxcô đã làm chị đau khổ. Tôi cũng không yêu cầu chị phải quên quá khứ. Nhưng là một người công giáo, tin vào Chúa, tôi thấy chị phải tha thứ cho lỗi lầm người khác. – Nhưng lại phải biết con người ấy có xứng đáng được tha thứ không đã chứ. Người mà anh nói là một kẻ ích kỷ, rồ dại, đầy lòng thù hận, đến nỗi chắc chắn thế nào anh ta cũng gặp những bất hạnh trong suốt cuộc đời. Tôi bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Tôi không có điều gì phải phàn nàn và không muốn thay đổi cách sống. Đấy là lời cuối cùng của tôi, anh Mactin!
Dapatơ thấy có nài xin thêm cũng vô ích. Nhưng anh không đành tâm bỏ cuộc khi chưa dùng đến những cố gắng cuối cùng. – Chị Giôdépfa, giờ đây tài năng của Franxitxcô đã được bộc lộ. Anh ấy sẽ trở thành một người có danh tiếng, có thể không lớn lao bằng Vêlâtxkêđơ, nhưng chắc chắn là một họa sĩ có tác phẩm lưu lại đời sau. Tôi đồng ý với chị, trước đây, trong phong cách sống, anh ấy có nhiều điểm khó thông cảm nhưng nay anh ấy đã đổi khác rồi. Tôi cũng nghĩ rằng, đối với chị, giờ đây không dễ gì trở lại cuộc sống chung. Nhưng dù sao, đối với một tài năng, có quyền được hưởng sự rộng lượng bao dung.
Dapatơ ngừng lại, đưa mắt nhìn Giôdépfa, dò xét.
Nàng vẫn ngồi rất ngay ngắn, đôi mắt nhìn đăm đăm vào bức tường trước mặt. Nếu như nàng biểu lộ đôi chút xúc cảm, cho dù là tức giận, thì Dapatơ cũng còn thấy có hy vọng. Trái lại, rõ ràng là đối với Gôya, nàng chỉ có thái độ thản nhiên đến lạnh lùng. Dapatơ cũng
không biết nàng có nghe anh nói không. Anh bắt đầu hiểu, tại sao trước đây Franxitxcô đã buồn khổ và hết sức dao động trong những tháng đầu của cuộc hôn nhân. Tuy nhiên, anh vẫn nói tiếp, giọng nghiêm chỉnh, rõ ràng:
– Một thiên tài không thể sống cô độc. Anh ấy cần một người bạn đường xoa dịu những dằn vặt trong cuộc đời sáng tạo của anh, một bàn tay đỡ đần khích lệ anh...
Giôdépfa, không nói không rằng, đứng lên cắt ngang lời anh, tỏ ý cuộc gặp mặt đến đây chấm dứt.
Dapatơ cũng miễn cưỡng đứng dậy. Nàng nói rành rọt: – Tôi tự coi mình là một người góa bụa.
– Xin thứ lỗi cho tôi đã khuấy động cuộc sống bình lặng của chị. - Dapatơ vừa nói vừa cúi chào rất thấp.
Anh bước nhanh ra khỏi tòa nhà. Khi đã ra khỏi phòng khách, anh ngước mắt nhìn lên bầu trời xanh, hít sâu luồng không khí mát, làn gió se lạnh báo hiệu trời đã xế chiều.
Ở nơi lưu vong, Franxitxcô cũng đã biết trước kết quả cuộc vận động hàn gắn của Mactin là như vậy. Anh không nghi ngờ sự cự tuyệt tàn nhẫn đến lạnh lùng của vợ. Nhưng đối với anh, sự khước từ đó thực tế lại là một ân huệ trời ban. Nếu Giôdépfa trở lại chung sống với anh, có thể nàng sẽ bóp nghẹt tài năng của anh, chặt lìa đôi cánh của anh; nàng có thể làm anh đau đớn nhục nhằn đến mức sẽ trở thành con người khốn khổ, ưu sầu như trong cuộc sống chung với nàng trước đây.
Người hầu ngựa của Bayơ dắt con ngựa của Dapatơ ra cho anh. Mactin nhảy lên yên, rút đồng hồ ra xem giờ.
Anh thúc ngựa phóng nhanh. Anh không lường trước được những gì sẽ dành cho anh trong cuộc hội kiến thứ hai này. Đã sát giờ hẹn. Không ai dám để một đệ nhất phu nhân Triều đình Tây Ban Nha phải sốt ruột vì chờ đợi.
Ở Mađrit bấy giờ, nhân vật có đủ thế lực để xin ân xá cho Gôya rất ít. Dapatơ được biết Công tước phu nhân Anbơ là một người yêu hội họa, rất tán thưởng những tác phẩm của bạn anh, anh đã viết cho nàng một bức thư ngắn, xin được tiếp kiến.
Anh rất đỗi kinh ngạc khi thấy nàng đích thân viết thư trả lời ngay
và hẹn tới gặp vào chiều nay. Hy vọng nàng can thiệp giúp cho Franxitxcô được xá tội là điều rất mỏng manh. Nhưng nếu nàng phật ý vì việc anh đến chậm giờ hẹn thì chắc chắn nàng sẽ từ chối không tiếp nữa.
Các cửa hiệu, sau giờ nghỉ buổi trưa, lúc này đã mở cửa bán hàng. Đường phố đông nghẹt xe cộ, ngựa và người đi bộ. Vậy mà Dapatơ phóng ngựa lách đi như một con hươu non, nên chỉ chưa đầy một khắc đồng hồ sau, anh đã dong cương đến trước dãy tường cao ngất bao bọc khu vườn của lâu đài Công tước Anbơ. Chưa bao giờ anh đến gần khu vực này, vừa chìa giấy hẹn của Công tước phu nhân cho người gác cổng, anh vừa đưa mắt nhìn quanh. Khu vườn cảnh trồng tỉa và bố trí theo kiểu Pháp, được chăm sóc rất cẩn thận. Bên cạnh dãy nhà hóng mát có hành lang dài, anh thấy một cái lầu nhỏ xây theo kiểu tiểu hoa lâu, gần đó là một vườn hoa kiểu Anh, bồn hoa cây cảnh được chăm sóc rất tinh tế. Ở giữa là tòa lâu đài đồ sộ và rất tráng lệ, có vẻ còn cao rộng hơn cả Hoàng cung của thái tử Atxturi.
Một viên quản gia đón Mactin trên bậc thềm, dẫn anh qua nhiều phòng liên tiếp, phòng nào cũng trang hoàng nguy nga rực rỡ, sau đó lên những bậc thềm cẩm thạch, tới một hành lang dài xây dựng theo kiến trúc “Môrétx”[36], chân tường và thềm đều bọc gạch men sứ nhiều mầu. Cuối cùng, người quản gia dừng lại trước hai tấm cánh cửa lớn bằng gỗ sến chạm trổ, khẽ gõ cửa, dẫn vị khách vào rồi lặng lẽ lui ra.
Dapatơ ngạc nhiên trước cảnh bài trí đơn giản của phòng khách nhỏ. Những tấm rèm bằng sa tanh màu ngà, treo trên các cửa sổ. Tường quét vôi trắng, bàn ghế trong phòng giản dị và chắc chắn.
Công tước phu nhân ngồi ngả người trên một ghế dài tận cuối phòng.
Dapatơ, từ trước tới giờ chỉ được trông thấy nàng từ xa, nay nhìn gần, anh thấy sững sờ trước sắc đẹp lạ lùng của nàng. Nàng mặc một cái áo lụa xanh mỏng, cổ và ngực để hở hơi lộ liễu, bàn chân trần, đi đôi dép kiểu Hy Lạp. Làn tóc dài màu hung sẫm phủ dày trên đôi vai, buông xuống ngang lưng. Nàng mỉm cười, đưa ra một bàn tay nõn nà, Dapatơ cúi hôn, và thấy lấp lánh trên ngón tay một viên hồng ngọc lớn.
Dapatơ vốn quen sống trong cảnh gia đình nền nếp, lúc ấy bỗng cảm thấy không thoải mái, khi nghĩ đến những tiếng tăm đồn đại về nữ Công tước góa chồng. Từ sau khi lão Công tước già chồng nàng chết, tư cách của nàng Maria Cayettana làm cả Mađrit bàn tán. Nàng từ chối nhiều cuộc sinh hoạt của Hoàng tộc ở cung đình, vào triều kiến Vua và Hoàng hậu theo ý thích, trái lại, lại hay đi vào các sinh hoạt của dân chúng và tham gia rất nhiệt tình vào các cuộc vui dân dã.
Nàng chọc tức tầng lớp quí tộc, bọn này lên án nàng không tôn trọng giai tầng cao quý của mình, bôi nhọ dòng dõi hoàng phái mà nàng được kế thừa của dòng họ Anbơ.
Nàng coi kẻ hầu người hạ trong nhà như những người tự do, đối xử với họ một cách bình đẳng. Theo một số người được biết thì nàng tính toán tiền công và trả hoa lợi sòng phẳng cho những nông dân điền trang, xóa bỏ những thể lệ ngặt nghèo trước kia thu tô tức nặng nề, chỉ để lại cho tá điền một phần hoa lợi nhỏ không đủ sống, đối xử với họ như những nô lệ.
Dapatơ để ý nhiều đến dư luận về đời sống riêng của nữ Công tước hơn là những quan điểm chính trị của nàng. Người ta xì xào với nhau rằng, khi một người đàn ông có diễm phúc được nàng yêu thích, nàng trao thân ngay cho người ấy, nhưng đến lúc nào đó, nàng cảm thấy anh ta làm phiền mình, thì lại sẵn sàng tìm cách loại bỏ, để đón nhận người khác.
Ở gia đình, Dapatơ thường vẫn phải giải thích cho vợ rằng đó là những chuyện đồn đại do thiên hạ ghét tầng lớp quí tộc nói quá lên như vậy, chứ không người đàn bà nào trong xã hội Tây Ban Nha lại mất đạo đức đến thế. Nhưng lúc này, đứng trước Maria Cayettana, anh cũng thấy những lý lẽ bào chữa cho nữ Công tước nhan sắc này không chắc chắn lắm. Vẻ đẹp kiều diễm của nàng có sức hấp dẫn đến nỗi người ta tin tưởng rằng không một người đàn ông nào có thể cầm lòng khỏi rung động.
Trái lại, đôi mắt xanh biếc của nàng, với cái nhìn thắng thắn chân thành lại có vẻ tương phản với vẻ đẹp mặn mà sắc sảo. Phong độ bề ngoài của Dapatơ có vẻ làm nàng đẹp lòng. Nàng không giấu giếm tình cảm ấy. Nàng nói:
– Rất hân hạnh được đón tiếp quý ông đến thăm trang viên dòng
họ Anbơ. Tôi thật sơ suất không mời ông đến chơi sớm hơn. Tập luận văn của ông bàn về phẩm cách con người, tôi đã đọc rất hứng thú. – Thế ra lệnh Công nương đã đọc quyển sách nhỏ của tôi? – Vâng. Tôi đã đọc tập Đoản thi của ông xuất bản trước đó và cả hai tập bình luận văn học nữa. Tôi thường theo dõi sát tình hình sáng tác văn học nghệ thuật ở Tây Ban Nha, đất nước như bị bỏ quên của chúng ta đấy. Không dám tự khoe, nhưng chắc chắn tôi biết rõ những nhân tài đất nước còn hơn cả Đức Hoàng thượng nữa kìa. – Sự chú ý của Lệnh Công nương đến những sáng tác của tôi làm tôi sung sướng vô cùng. Nhưng tôi đến đây không phải cầu xin sự che chở cho bản thân tôi. Trái lại, tôi có một người bạn thân, chính người ấy cũng không biết việc tôi đến gặp lệnh Công nương, anh bạn ấy đang cần cứu giúp.
Nữ Công tước nhìn anh, trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu như phân tích đánh giá điều gì đó trong những lời lẽ anh vừa trình bày, rồi ra hiệu cho anh tiếp tục.
– Tôi chắc lệnh Công nương biết những tác phẩm của họa sĩ bạn tôi. Hình như Công nương đã mua mấy bức tranh. Anh ta tên là Franxitxcô Gôya.
– Có. Tôi biết. Tôi vừa mua một bức tranh nữa của họa sĩ này. Đẹp lắm. Đó là bức họa những điệu múa dân gian giá mười hai “đublông”. Tôi cho rằng giá trị của nó phải gấp nhiều lần số tiền ấy.
Câu chuyện diễn ra có vẻ thuận lợi, càng khuyến khích thêm Dapatơ.
– Tôi rất sung sướng vì thấy lệnh Công nương cũng đã để ý một tài năng mà tôi trân trọng đánh giá cao từ nhiều năm nay. Anh ta là một họa sĩ có tài.
– Vậy ra tôn ông quen biết họa sĩ ấy đã từ lâu rồi sao? Ông thật là may mắn. Tôi rất mong được tiếp kiến ông ấy.
Đó là cái sào ném xuống nước cho người chết đuối mà Dapatơ đang mong mỏi. Anh liền nắm ngay cơ hội.
– Hiện giờ tôi không thể thu xếp một cuộc hội kiến giữa lệnh Công nương với họa sĩ ấy được. Nếu muốn gặp mặt anh ta, ít ra lệnh Công nương phải làm một cuộc viễn du. Vì trái với nguyện vọng của anh ta, Gôya hiện đang phải cư trú tại Italia.
– Tôi biết rõ nguyên nhân ông ấy phải sống lưu vong, thưa Xêno Dapatơ.
Trong cách diễn đạt những lời nói trên, có một cái gì khó hiểu khiến Dapatơ kinh ngạc. Anh chăm chú nhìn nàng và càng ngạc nhiên hơn vì thấy sắc mặt của nàng biểu lộ một xúc cảm lạ lùng, bí hiểm. Nàng không cười nữa, lấy lại vẻ trang nghiêm.
Anh nói một cách dè dặt:
– Tôi không ngờ là hành tung của anh ấy lại được nhiều người biết đến như vậy.
– Đó là một chuyện đã cũ. Tôi đến dự một buổi dấu bò tót đúng cái hôm đã xảy ra chuyện ông họa sĩ này lăng nhục và sát thương một sĩ quan Nhà Vua. Nói thật ra cuộc xô xát giữa hai người hôm ấy, còn làm tôi thích thú hơn cuộc đấu bò trong “xuectê”[37].
Dapatơ không khỏi nhận xét thầm về chuyện này, nữ Công tước đã không chân thật. Đúng ra nàng phải nói tới chi tiết của vụ xung đột ấy, nó là nguyên nhân kích động sự gây gổ dại dột của Franxitxcô. Anh nói một câu đưa đẩy:
– Vẫn còn nhớ và ái ngại cho anh ta như vậy, lệnh Công nương quả là hiện thân của lòng thương người.
– Một con người như Gôya không cần đến lòng thương và không nhận sự thương hại. - Maria Cayettana nói với sự tin tưởng. Trong thâm tâm, Dapatơ bỗng thấy ngờ vực, có thể bằng cách này hay cách khác nàng có dính líu vào vụ đấu kiếm ấy. Phải chăng vụ đổ máu này là cách của Franxitxcô làm cho nữ Công tước phải chú ý đến anh?
– Hình như lệnh Công nương có quen biết anh ấy?
– Không đâu. Họa sĩ Gôya chưa bao giờ được giới thiệu với tôi. Dapatơ sợ mình đã nhầm khi đến kêu xin nữ Công tước giúp đỡ. Không phải nàng không biết chuyện lưu vong của Gôya. Tình cảm giữa hai người như thế nào? Họ đã biết nhau hay chưa từng biết? Theo nhận xét của anh, nàng là một kiểu người có đủ tư cách để gây tai họa cho Franxitxcô. Và rõ ràng nữ Công tước quan tâm đến con người Gôya hơn là đến nghệ sĩ. Đối với Franxitxcô, anh cần có một bạn đường, hơn lúc nào hết, anh cần có một bạn đồng hành, một thần
hộ mệnh, một bạn tâm tình, hy sinh, kín đáo, dịu dàng và thông cảm với anh. Nữ Công tước Anbơ không có một chút phẩm hạnh nào như thế. Trái lại, dường như trong người phụ nữ lạ lùng này cũng bốc cháy một ngọn lửa sống hừng hực đầy kỳ vọng và quyết đoán, ngọn lửa thiêu đốt từng làm cho Franxitxcô luôn luôn khát khao, tự xác định rồi lại tự xóa bỏ trong những dằn vặt không bao giờ chấm dứt.
– Lệnh Công nương chắc đã biết rằng anh ấy không thể trở về Tây Ban Nha được. Nếu không, sẽ bị hạ ngục ngay. Có thể nào tôi lại thu xếp một cuộc gặp mặt trong nhà tù.
Thái độ nữ Công tước hình như thay đổi. Nàng vươn vai khoan khoái, ngả người trên đống gối, cười nhẹ nhàng:
– Tôi quên bổn phận của chủ nhân đối với quý khách, thưa Xêno. Tôi có thể mời ông một cốc rượu và vài cái bánh ngọt không? – Cám ơn lệnh Công nương, tôi xin vô phép không dùng thứ gì. – Thôi được. Nào, xin nói vào việc đã dẫn tôn ông tới đây. Dapatơ tưởng đã quen với cách vào chuyện đột ngột của nàng, nhưng lúc ấy cũng thấy lúng túng.
– Tôi sợ làm phiền lòng Công tước phu nhân, có lẽ tôi đã quá lạm dụng lòng nhân từ...
– Xin đừng nói thế. Ông hãy trình bày đơn giản hơn.
Nàng sợ thái độ phiền lụy và hình thức kiểu cách. Đôi mắt xanh biếc của nàng sáng long lanh. Dapatơ ngồi xuống cái ghế mà nàng chỉ cho và nói tiếp:
– Vâng, thưa lệnh Công nương, Gôya đã viết thư cho tôi nhiều lần yêu cầu tôi tìm hết cách trong khả năng của mình để xin với Đức Vua ân xá cho anh ấy. Gôya nhớ Tổ quốc. Anh ấy yêu dấu, tôn thờ nước Tây Ban Nha hơn cả bản thân. Anh chỉ sống trong hy vọng được trở về quê hương. Dĩ nhiên, riêng mình tôi, tôi chẳng giúp gì được anh ấy. Vì tôi chẳng có chút quan hệ có ảnh hưởng nào trong những giới có quyền lực.
– Vậy tôn ông tưởng rằng tôi là người có ảnh hưởng trong các giới có quyền lực chăng? - Nữ Công tước hỏi lại với một nụ cười giễu cợt. – Nhưng tôi trộm nghĩ...
– Có lẽ chưa bao giờ tôn ông nghe nói về những nhận xét không
được tốt đẹp của Hoàng hậu Mari Luidơ đối với tôi? Cũng chẳng cần giấu giếm ông nội tình của Hoàng tộc, giấu thì thiên hạ cũng biết rõ cả. Hoàng hậu, khốn khổ cho Ngài Ngự, tự hãm mình trong vòng vây của bọn tùy tùng xấu xa, chỉ sợ rơi tuột mất Ngài Gôđoa quý báu, nên không nhìn thấy được chuyện gì chân thật ngoài xã hội.
Bối rối trước những phát hiện trắng trợn về quan hệ phức tạp và bất chính trong hoàng cung, Dapatơ không biết nên có thái độ thế nào, đành im lặng không trả lời.
– Nói thực ra, Hoàng đế Saclơ không quyết định một điều gì cả. Chữ ký của Nhà Vua, rất cần thiết cho một chỉ dụ ân xá đấy, song Đức Vua không làm việc gì mà không có sự thỏa thuận của Hoàng hậu hoặc Thủ tướng Gôđoa. Vả lại Hoàng thượng cũng chưa bao giờ gặp riêng tôi việc gì, nên tôi chỉ có thể giúp ông Gôya bạn ông bằng cách đề nghị trực tiếp với Đông Manuen.
– Tôi sợ rằng Ngài Thủ tướng nhiều công việc bận rộn... – Cũng không bận đến nỗi sẽ từ chối tiếp tôi đâu. Tôi cam đoan với ông như vậy. Nếu ông biết là ông ta đã tốn phí bao nhiêu thời gian cho việc vận động tôi liên minh với ông ta về chủ trương chính trị đối nội và đối ngoại. Ông Thủ tướng cũng rất biết tôi không hành động đúng với cương vị một bà Công tước. Nhưng ông rất dè dặt trong thái độ xử lý đối với những việc quan hệ đến Hoàng tộc. Mặt khác ông đang tranh thủ tôi, tìm cách kéo tôi đứng vào lập trường của ông ta. Tất cả những việc này thật là vô cùng phức tạp. Nhưng tôi tin là tất cả Mađrit đều rõ.
Dapatơ thấy lo lắng. Anh nghĩ rằng nữ Công tước nói thẳng ra bao nhiêu chuyện kín đáo đó, chỉ là để rào đón trước cho một lời từ chối. Để anh thấy rõ hoàn cảnh của nàng là không thuận lợi cho sự giúp đỡ Gôya.
Nhưng, với vẻ bình tĩnh, chắc chắn, nữ Công tước nói tiếp: – Tôn ông hãy tin, nhất định tôi sẽ đến trình bày sự việc của họa sĩ Gôya với Thủ tướng Đông Manuen. Ông ta cũng chỉ là đàn ông như mọi người đàn ông khác. Nhưng cũng như người khác, ông ta có những trường hợp bất thường. Vì vậy thưa Xêno, tôi chưa thể hứa trước điều gì tốt đẹp với tôn ông được.
– Xin được đội ơn Công nương vô cùng về...