🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bức Họa Chết Người - Agatha Christie full prc pdf epub [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo BỨC HỌA CHẾT NGƯỜI (Agatha Christie) Đôi Nét Về Tác Phẩm Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com By the Pricking of My Thumbs là một tiểu thuyết trinh thám của Agatha Christie xuất bản đầu tiên ở Anh năm 1968. Câu chuyện bắt đầu khi Tuppence để ý đến một bức tranh được thừa kế từ người dì của Tommy, một bức tranh sơn dầu vẽ một nhà bên cạnh một con kênh và cây cầu. Chắc chắn rằng mình đã từng thấy hình ảnh này ở đâu đó, cô quyết định tiến hành điều tra và theo dõi. Và cũng chính lúc đó, cô đã vô tình bước vào câu chuyện của một loạt vụ án giết trẻ em bí ẩn xảy ra trong thị trấn từ nhiều năm trước... Năm 2005, cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim bởi đạo diễn người Pháp Pascal Thomas với tiêu đề Mon petit doigt m'a dit...Cuốn tiểu thuyết cũng được chuyển thể trong series phim truyền hình trong năm 2006 mang tên Marple: By the Pricking of My Thumbs bởi đạo điễn Peter Medak. BỨC HỌA CHẾT NGƯỜI (Agatha Christie) Book I Sunny Ridge Chương 1 Dì Ada Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ông và bà Beresford đang ngồi ở bàn ăn sáng. Họ là một đôi bình thường. Trên khắp lãnh thổ nước Anh hàng trăm đôi già như họ đang ăn sáng vào giờ phút đặc biệt đó. Đó cũng là một loại ngày bình thường nữa, loại ngày có được năm trong bảy ngày. Có vẻ như trời sẽ mưa nhưng không hoàn toàn chắc lắm. Một dạo ông Beresford có mái tóc màu đỏ. Vẫn còn dấu vết mái tóc đỏ, nhưng gần hết mái đầu đã có màu xám như có cát cái màu mà những người có mái tóc đỏ đến tuổi trung niên thường gặp phải. Bà Beresford một dạo có mái tóc màu đen, một mớ tóc dày xoăn đầy sức sống. Bây giờ màu đen được những vệt màu xám tô thêm và, một cách khá rõ là bừa bãi. Ánh hưởng nó tạo ra khá bắt mắt. Bà Beresford một lần nghĩ đến chuyện nhuộm tóc, nhưng vào phút cuối bà quyết định những gì tự nhiên đã ban cho mình thì tốt hơn. Thay cho việc đó bà thử một loại son mới màu đậm để cho mình tươi lên. Một đôi vợ chồng có tuổi đang cùng nhau ăn sáng. Một đôi vui vẻ, không có gì đáng chú ý về họ. Một kẻ đi qua sẽ nói thế. Một kẻ qua đường nếu còn trẻ y hay cô sẽ nói thêm" ồ vâng, khá vui, nhưng tẻ ngắt chết đi được, dĩ nhiên, như bao cặp vợ chồng già khác." Tuy nhiên, ông và bà Beresford chưa đến giai đoạn của cuộc sống tự cho là mình già. Và họ không có ý kiến họ và nhiều người khác vì lí do ấy tự động phát biểu sống một mình thì tẻ ngắt đến chết đi được. Dí nhiên chỉ bởi những người trẻ thôi, nhưng rồi thì, họ sẽ dễ dãi nghĩ rằng, bọn trẻ không hiểu chi về cuộc sống cả. Những người bạn khốn khổ, chúng luôn luôn lo âu về những kì thi, đời sống tình dục, mua sắm một số quần áo đặc biệt, hay làm những kiểu tóc quái gở để khiến mình được chú ý hơn. Từ quan điểm riêng của mình vợ chồng Beresford chỉ vừa mới trải qua giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời. Họ yêu bản thân họ và ngày lại ngày yêu nhau trong một kiểu cách trầm lắng mà thú vị. Tất nhiên, cũng có những giây phút; mọi người đều có những giây phút đó. Beresford mở một lá thư, liếc nhìn rồi đặt xuống bàn, thêm vào cái đống nhỏ bên tay trái. Anh nhặt là thư kế lên nhưng kềm chế không mở. Thay vì vậy anh giữ nó trong bàn tay. Anh không nhìn lá thư, anh nhìn vào lò nướng bánh. Vợ anh quan sát anh vài phút trước khi mở miệng. - Chuyện gì thế, Tommy? - Chuyện gì à? Tommy mơ hồ nói. Chuyện gì à? - Đó là những gì em muốn nói. - Không có chuyện gì quan trọng cả. Sẽ là chuyện gì chứ? - Anh nghĩ đến chuyện gì đó. Tuppence nói giọng kết án. - Anh không cho rằng mình đang nghĩ chuyện gì đó. - Ô phải. Vậy có chuyện gì xảy ra? - Không, dĩ nhiên là không rồi. Chuyện gì xảy ra hả? Anh nói thêm, anh có ngân phiếu của thợ sửa ống nước thôi mà. - Ô, Tuppence reo lên với cái vẻ một người được khai sáng. Nhiều hơn em chờ đợi, em nghĩ thế. - Dĩ nhiên rồi, luôn luôn như vậy. - Em không nghĩ tại sao chúng mình không luyện tập như những thợ ống nước nhỉ. Nếu anh chỉ luyện tập như thợ sửa ống nước, có thể em là người phụ tá của thợ sửa ống nước và chúng ta ngày qua ngày kiếm được nhiều tiền. - Tầm nhìn của chúng ta quá ngắn không gặp những cơ hội này đâu. - Vừa mới rồi có phải anh đang nhìn ngân phiếu của thợ sửa ống nước không? - Ô không, đó chỉ là một Lời yêu cầu khẩn thiết. - Những thanh thiếu niên phạm tội - sự hợp nhất chủng tộc chăng? - Không. Chỉ là Viện chúng ta mở cho những người già. - Tốt, cái đó dù sao còn nhạy cảm hơn, nhưng em không hiểu tại sao anh phải có cái vẻ lo âu. - Anh không nghĩ thế. - Thế anh đang nghĩ về cái gì nào? - Anh cho là nó sắp sẵn trong trí anh. - Cái gì? Em biết cuối cùng anh sẽ nói mà. - Thật sự không có gì quan trọng cả. Anh vừa nghĩ rằng có lẽ - đó là dì Ada. - Em hiểu, Tuppence nói, hiểu ngay tức thì. Phải rồi, cô nói thêm, mềm mỏng, suy tuởng. Mắt họ gặp nhau. Ở hầu hết mọi gia đình trong thời đại này cái sự thật đáng tiếc, đó là vấn đề của cái có thể gọi là một " dì Ada." Những cái tên khác nhau - dì Amelia, dì Susan, dì Cathy, dì Joan. Chúng khác nhau do những bà ngoại, những cô em họ và thậm chí những bà dì. Nhưng chúng tồn tại và giới thiệu một vấn đề trong cuộc sống phải được giải quyết. Phải làm những cuộc xếp đặt. Những cơ sở công cọng thích hợp cho việc chăm sóc người già phải được xem xét kĩ và những câu hỏi đầy đủ hỏi về chúng. Những tiến cử được tìm từ các bác sĩ, từ các bạn bè có dì Ada của họ người từng hoàn toàn hạnh phúc cho đến khi mất' tại "Nhà Laurels, Bexhill" hay "Happy Meadow tại Scarborough." Ngày tháng dần trôi khi dì Elizabeth, dì Ada và ngày còn lại của họ sống hạnh phúc trong những ngôi nhà nơi họ đã ở nhiều năm trước, được những người giúp việc già tận tuỵ chăm sóc nếu đôi khi có hơi chuyên chế một chút. Với sự sắp xếp cả hai phía đều hoàn toàn thoả mãn. Có những người bà con nghèo không đếm hết, những cháu gái nghèo khổ, những cô em họ lớn tuổi không chồng, tất cả đều khao khát một mái nhà ấm áp với ba bữa ăn ngon một ngày và một phòng ngủ đẹp. Lượng thực phẩm bổ sung cho mỗi người và tất cả đều tốt. Ngày nay, sự việc khác hẳn. Những cuộc xếp đặt cho các dì Ada ngày nay phải thích hợp, không chỉ đối với một quý bà có tuổi, do bởi bệnh viêm khớp hay những khó khăn bởi bịnh thấp khớp, chắc chắn phải rơi xuống cầu thang nếu bà ta bị bỏ lại một mình trong nhà, hoặc là chịu đựng những đau đớn vì chứng viêm phế quản, hoặc cãi nhau với láng giềng hay lăng mạ những người buôn bán. Bất hạnh thay, dì Ada còn phiền phức hơn cả mức độ đối nghịch của tận cùng tuổi tác. Trẻ con có thể được phân phối vào những nhà nhận nuôi trẻ, áp đặt cho những người bà con, hay gởi tới những trường thích hợp nơi chúng ở lại vào những ngày nghỉ, hoặc có thể xếp đặt dạo chơi bằng ngựa ponny hay cắm trại, xét toàn thể trẻ con rất ít chống đối những xếp đặt dành cho chúng. Còn những dì Ada thì rất khác. Dì Ada của Tuppence Beresford - bà cố dì Primrose - là một kẻ gây phiền đáng kể. Không có gì thoả mãn bà ta được. Vừa mới bước vào một tổ chức công cọng được bảo đảm dành cho một căn nhà tốt và tất cả tiện nghi cho những quý bà có tuổi sau khi viết vài lá thư hết lòng khen ngợi cháu gái bà đang tán dương cơ sở này, tin kế tiếp cho biết bà đã giận dữ đi ra mà không ai chú ý cả. - Không thể được. Ta không thể ở lại đó một phút nào nữa! Trong khoảng thời gian một năm dì Primrose đã liên tục vào và ra chừng mười một tổ chức công cọng, cuối cùng viết thư nói rằng bây giờ dì đã gặp một chàng trai trẻ quyến rũ, 'thật sự là một gã trai tận tuỵ. Hắn mất mẹ từ thời trẻ và anh ta cực kì cần sự chăm sóc. Dì đã thuê một căn hộ và anh ta sẽ đến ở với dì. Sự sắp xếp này hoàn toàn thích hợp với hai chúng tôi. Chúng tôi cuốn hút nhau tự nhiên. Cháu không cần phải lo lắng nhiều nữa, Pruden quý mến. Tương lai của dì được ổn định. Ngày mai dì sẽ đến gặp luật sư vì dì cần thiết phải làm một số điều khoản cho Mêrvyn nếu dì chết trước anh ta mà, tất nhiên rồi, quá trình diễn biến của những biến cố tự nhiên thôi, mặc dù vào giờ phút này dì bảo đảm với con dì đang độ sung sức.' Tuppence đã vội đi về hướng Nam( tai nạn xảy ra tại Aberdeen). Nhưng khi tai nạn xảy ra, đầu tiên cảnh sát đã đến đó và đem đi anh chàng Mervyn quyến rũ, vì anh ta là người mà họ đã tìm kiếm một thời gian, bị buộc tội kiếm tiền bằng cách lừa đảo. Dì Primrose vô cùng tức giận, và đã gọi đó là sự ngược đãi - nhưng sau khi lo đối phó với những thủ tục tố tụng của toà án - ( nơi hai mươi lăm vụ khác được lưu tâm đến) đã buộc lòng thay đổi những quan niệm của bà về người được bảo trợ. - Tôi nghĩ tôi phải đi thăm dì Ada, Tuppence. Đã một thời gian trôi qua rồi. - Em cũng nghĩ thế. Tuppence đáp không chút tình cảm. Bao lâu rồi nhỉ? - Còn hơn thế nữa. Em nghĩ phải trên một năm. - Vâng, thời gian đi nhanh quá, phải không nào? Tôi không thể tin nó lâu như vậy. Tôi tin em có lí, Tuppence. Anh nhẩm tính. Đó là cách khủng khiếp nhất để người ta quên lãng, phải vậy không? Thật sự anh cảm thấy rất tệ về điều đó. - Em không nghĩ anh cần phải ân hận, sau rốt, mình đã gởi cho dì các đồ đạc và chúng ta có viết thư cho dì. - Vâng, anh hiểu. Em là người cực kì hoàn hảo về các loại việc ấy, Tuppence. Nhưng cũng thế thôi, người ta đọc những chuyện mà đôi khi chúng rất lộn xộn. - Anh đang nghĩ đến cuốn sách đáng sợ chúng ta lấy từ thư viện chứ gì, và thật khủng khiếp làm sao cho những người già khốn khổ. Họ chịu đựng biết bao. - Anh cho rằng đó là sự thật - lấy từ cuộc sống. - Vâng, chắc phải có những nơi như vậy. Có những người bất hạnh kinh khủng, người ta không thể tránh được sự bất hạnh. Nhưmg họ phải làm cái gì khác chứ, Tommy? - Người ta có thể làm cái gì khác ngoài sự cẩn trọng. Em rất cẩn trọng những gì em chọn lựa, hiểu biết mọi điều về nó và bảo đảm bà kiếm được một bác sĩ giỏi chăm sóc bà. - Không ai có thể tốt hơn Dr. Murray, anh phải chấp nhận điều đó. - Phải, Tommy đáp, cái nhìn mệt mỏi toát ra từ khuôn mặt anh. Murray là một người số một. Kiên nhẫn, dễ thương. Nếu có chuyện gì đó sai lầm ông sẽ cho chúng ta biết. - Thế em không nghĩ anh cần phải lo âu về chuyện ấy. Bây giờ dì bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? - Tám mươi hai. Không - không. Anh nghĩ là tám mươi ba, anh thêm vào. Thật khá xấu xa khi em sống lâu hơn mọi người. - Đó chỉ là những gì anh cảm thấy thôi. Người ta không cảm thấy thế đâu. - Em không thể nói thật được. - Còn dì Ada của anh thì không. Anh không nhớ sự đắc ý của bà khi bà nói với chúng ta con số những người bạn già mà bà sống lâu hơn họ? Bà nói để kết thúc như sau: " về phần Amy Morgan, tôi nghe mụ ta không sống lâu hơn sáu tháng nữa. Bà ấy luôn thường nói tôi quá mong manh và bây giờ thực tế đã bảo đảm tôi sống lâu hơn mụ. Còn sống lâu hơn bà ta khá nhiều năm nữa." Chiến thắng, đó là những gì bà dì ấy kì vọng. - Có chi quan trọng đâu. Tommy nói. - Em biết, em biết. Không có chi quan trọng anh cảm thấy đó là bổn phận của mình và anh bắt đầu ra di. - Em không cho là tôi có lí à? - Bất hạnh thay, Tuppence đáp, em nghĩ anh có lí. Và em cũng đi nữa. Cô nói thêm, với một ghi chú nhẹ nhàng tính dũng cảm trong giọng nói của mình. - Không, Tommy phản đối, tại sao em phải đi? Bà ấy không phải là dì em. Không, anh đi một mình thôi. - Không gì hết. Tôi cũng thích chịu đựng. Chúng ta cùng chịu đựng. Anh không thích điều đó em không thích thú gì và em không nghĩ một phút nào bà Ada sẽ lấy làm thú vị về chuyện này. Nhưng em hiểu rõ đây là một việc phải làm cho xong. - Không, tôi không muốn em đi. Sau hết, lần cuối cùng, hãy nhớ lại bà ấy đã thô lỗ đáng sợ đối với em như thế nào? - Em không quan tâm. Có lẽ đó chỉ là chút viếng thăm mà bà già khốn khổ đó thích thú. Đối với dì, em không cần miễn cưỡng, không một phút nào cả. - Em luôn luôn tốt với dì, cho dù em không thích dì lắm. - Không ai có thể yêu được dì Ada. Nếu anh hỏi em em cũng không nghĩ bất cứ ai lại từng đã yêu dì. - Người ta không thể tránh được cảm tưởng hối tiếc khi người ta già. - Em có thể, Tuppence đáp. Em không có được một tính chất tốt như anh. - Là một phụ nữ em cũng khá tàn nhẫn. Tommy nói. - Em cho là điều ấy có lẽ thôi. Sau rốt, phụ nữ không có đủ thời gian cho bất cứ cái gì nhưng lại thực tế trên tất cả mọi chuyện. Em muốn nói đối với những người tốt, em rất buồn cho họ nếu họ gìa đi hay ốm đau. Nhưng nếu họ không phải là những người tốt, thì lại khác, điều này anh phải chấp nhận chứ. Nếu anh cực kì khó chịu khi anh hai mươi và cũng khó chịu khi anh bốn mươi và càng khó chịu hơn khi anh sáu mươi tuổi, vào tuổi tám mươi anh hoàn toàn là một con quỷ - thật vậy đó, em không hiểu tại sao người ta phải đặc biệt buồn cho con người, chỉ bởi vì người ta già đi. Bản thân anh thật ra không thay đổi. Em biết một số người tuyệt đối thân thiết họ đã bảy mươi và tám mươi tuổi. Bà già Beauchamp, Mary Carr và bà ngoại của người bán bánh mì, bà già Poplett, thường vào chùi dọn cho chúng ta. Tất cả đều dễ thương dịu dàng và em làm bất cứ cái gì có thể làm cho họ. - Ôn rồi, được rồi. Tommy nói, thực tế lắm. Nhưng nếu em thật sự muốn cao thượng và đi với tôi - - Em muốn đi với anh, Tuppence nói. Sau rốt, em lấy anh có ra sao cũng mặc và dì Ada quyết định đó là điều xấu. Vậy em sẽ đi với anh tay trong tay. Chúng ta sẽ mang cho bà một bó hoa và một hộp sô cô la với nhân mềm và có lẽ một hai tờ tạp chí nữa. Anh có thể viết thư cho cô Chưa biết tên rồi chúng mình sẽ đến. - Một ngày tuần tới? Anh có thể thu xếp ngày thứ ba. Nếu ngày ấy ổn cho em. - Thứ ba, còn tên của người đàn bà đó? Em không thể nhớ được - là y tá trưởng hay giám thị hay bà là bất cứ ai. Bắt đầu với chữ P. - Cô Packard. - Được rồi. - Có lẽ lần này khác. Tommy nói. - Khác à? Khác trong một ý nghĩa nào? - Anh không biết. Một cái gì đáng chú ý có thể xảy ra. - Trên đường đến đó có thể chúng ta gặp một tai nạn xe lửa. Tuppence nói, rạng rỡ hẳn lên một chút. - Làm sao mà em lại muốn có mặt trong một tai nạn xe lửa? - Em không thật sự muốn, tất nhiên rồi. Đó chỉ là một - - Chỉ là gì chứ? - Sẽ là một cuộc phiêu lưu, phải không? Có lẽ chúng ta có thể bảo vệ nhân mạng hay làm cái gì đó hữu ích. Hữu ích và kích thích cùng một lúc. - Thật là một hi vọng hay ho! Beresford thốt lên. - Em hiểu, Tuppence đồng ý. Đó chỉ là loại ý tưởng đôi khi chợt đến. BỨC HỌA CHẾT NGƯỜI (Agatha Christie) Chương 2 Có Phải Đó Là Đứa Trẻ Tội Nghiệp Của Cô Không? Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Cái tên Sunny Ridge đã đến như thế nào thật khó mà giải thích. Không có chi nổi bật về giải đất hẹp này cả. Mặt đất thì bằng phẳng, nổi tiếng thích hợp cho những cư dân lớn tuổi. Nơi đó là một khu vườn rộng mênh mông, dù không có chi nổi bật. Đó là một toà nhà lớn cân đối thời Victorian được bảo quản giữ gìn tốt. Có một số cây xanh đầy bóng mát dễ chịu, một dạng cây leo xứ Virginia bò dọc bên toà nhà, hai con khỉ hình rối tạo cho khung cảnh vẻ lạ mắt. Nhiều ghế băng đặt ở những nơi thuận tiện để sưới nắng, cũng có một hai ghế ngồi trong vườn với một hàng hiên râm mát để những bà già có thể ngồi tránh ngọn gió hướng đông. Tommy bấm chuông cửa trước rồi anh và Tuppence được một phụ nữ còn trẻ mặc chiếc áo choàng bằng nylon trông khá căng thẳng đón vào. Cô ta dẫn họ vào phòng khách nhỏ nói giọng gần đứt hơi, " tôi sẽ gọi cô Packard. Cô ấy đang đợi ông bà và một lát nữa cô xuống. Có đợi một chút ông bà không phiền chứ, chỉ tại bà Carraway. Bà ấy ở đó và lại nuốt cái đê, ông bà hiểu chứ." - Làm sao mà bà ấy lại làm một chuyện như thế được? Tuppence hỏi, kinh ngạc. - Vì niềm vui, người quản gia giải thích ngắn gọn. Luôn luôn làm thế. Cô ta đi ra còn Tuppence ngồi xuống nói giọng trầm tư, 'em không nghĩ mình lại thích nuốt một cái đê. Khi xuống cổ nó sẽ tràn đầy những bong bóng khủng khiếp. Anh có nghĩ vậy không?' Tuy nhiên họ không phải đợi lâu, trước khi cánh cửa lớn mở ra và cô Packard bước vào, xin lỗi họ. Cô là một phụ nữ to béo, tóc hung hung đỏ hơi vàng chừng năm mươi tuổi với cái vẻ trầm tĩnh có năng lực mà Tommy luôn luôn thích. - Tôi rất tiếc đã để ông bà chờ, ông Beresford, cô nói. Bà có khoẻ không, bà Beresford, tôi rất vui bà lại đến. - Tôi nghe nói ai đó nuốt một cái gì đó, Tommy đáp. - Ô, Marlene nói với ông chứ gì? Vâng, đó là bà Carraway. Bà ấy luôn nuốt đồ vật. Rất khó khăn, bởi vì không phải lúc nào người ta cũng trông chừng họ được. Dĩ nhiên người ta biết trẻ con cũng làm thế, nhưng đối với một bà già thì thật là khôi hài khi coi đó là một sở thích, phải không? Tuổi già thống ngự bà ấy, ông biết không. Mỗi năm bà ấy càng tệ. Hình như không có chi làm hại bà ấy được, việc nuốt đồ vật là việc vui nhất. - Có lẽ cha bà ấy là một người nuốt gươm à. Tuppence phỏng đoán. - Bà Beresford, ấy là một ý kiến rất thú vị. Có lẽ điều đó giải thích mọi việc. Cô ta nói tiếp, tôi sẽ bảo cô Fanshave là ông đến, ông Beresford. Tôi không biết bà ấy có thật hiểu không. Ông biết đấy, bà ấy luôn không để ý. - Dạo sau này dì ấy thế nào? - Bây giờ thì bà ấy đang nhanh chóng yếu đi. Tôi e là, cô Packard vẫn giọng dễ chịu. Người ta thật ra không biết bà ấy hiểu được bao nhiêu và không hiểu được bao nhiêu. Tôi đã bảo bà ấy tối qua và bà ấy nói chắc là tôi nhầm bởi vì đang học kì. Dường như bà ấy nghĩ ông vẫn còn đi học. Những sinh linh già khốn khổ, đôi khi họ lẫn lộn mọi việc, đặc biệt ở ngoài giờ. Tuy nhiên, sáng ni khi tôi nhắc bà về chuyến viếng thăm của ông, bà chỉ nói hoàn toàn không thể được bởi vì ông đã chết. Ô. Cô Packard vui vẻ nói tiếp, tôi mong bà sẽ nhận ra ông khi bà thấy ông. - Sức khỏe của bà ấy thế nào? Như mọi khi chứ? - Có lẽ cũng hi vọng thế. Thành thật mà nói, tôi không nghĩ bà ấy sẽ ở với chúng tôi bao lâu nữa. Trong một chừng mức nào đó bà ấy không đau đớn lắm nhưng tình trạng trái tim bà không tốt hơn mấy cả. Thật ra, nó còn xấu hơn. Vì vậy tôi nghĩ tôi muốn ông biết đã thế thì thà chuẩn bị trước còn hơn, để cho nếu bà ấy có thình lình ra đi cũng không phải gây sốc cho ông. - Tôi mang cho dì ấy ít hoa. Tuppence nói. - Và một hộp sô cô la, Tommy tiếp lời. - Tôi bảo đảm là ông bà tử tế lắm mà. Bà ấy sẽ vui lắm đấy. Ông vui lòng lên bây giờ chứ? Tommy và Tuppence đứng dậy theo cô Packard rời khỏi phòng. Cô dẫn họ lên cầu thang rộng. Khi đi ngang một trong những căn phòng trong hành lang trên lầu, thình lình cửa mở và một phụ nữ nhỏ bé cao chừng 1m50 rảo bước ra ngoài, gọi lớn giọng the thé, " Tôi muốn coca của tôi. Tôi muốn coca của tôi. Vú Jane đâu rồi? Tôi muốn coca của tôi. " Một người đàn bà trong bộ đồng phục y tá từ phòng bên cạnh đi nhanh tới trước nói, " đây, đây, được rồi. Me sẽ có coca của me. Me đợi hai mươi phút nữa nhé." - Không, tôi không đợi được, vú. Đó không phải là sự thật. Tôi chưa uống coca. Tôi khát. - Nếu me thích me sẽ có một tách nữa. - Tôi chưa có tách nào làm sao tôi có thêm tách khác chứ. Họ bước đi và cô Packard, sau một cái vỗ nhẹ lên cánh cửa cuối hành lang, mở cửa ra và họ bước vào. - Cô đây rồi, cô Fanshawe, cô nói nhanh. Có cháu trai đến thăm cô đây. Dễ thương chưa nào? Trong một chiếc giường gần cửa sổ một bà già ngồi dậy thật lẹ làng trên đống gối cao. Bà ta có mái tóc màu xám sắt, một khuôn mặt gầy nhăn nheo với một chiếc mũi lớn, sóng mũi cao và một vẻ phản đối thường lệ. Tommy bước tới gần. - Xin chào, dì Ada. Dì mạnh giỏi chứ? Dì Ada không chú ý tới anh, mà giận giữ nói với cô Packard. - Tôi không hiểu cô muốn gì bằng cách dẫn người quý tộc kia vào phòng ngủ một quý bà, bà nói. Sẽ không phải là tư tưởng đúng trong suốt thời son trẻ của tôi! Bảo tôi thật sự hắn là cháu trai của tôi! Anh ta là ai? Một thợ sửa ống nước hay thợ điện? - Nào, nào, thế là không dễ thương chút nào cả, cô Packard nói dịu dàng. - Con là cháu dì đây, Thomas Beresford. Tommy đưa hộp sô cô la ra trước. Con mua cho dì một hộp sô cô la đây nè. - Anh không cần thuyết phục ta. Ta biết loại người như anh mà. Anh sẽ nói cái gì đó. Còn bà này là ai? Bà chiếu tướng Tuppence với vẻ nhờm tởm. - Cháu là Prudence, cháu gái của dì. Prudence. Bà Beresford đáp. - Thật là một cái tên kì cục. Nghe như tên của một con hầu chuyên phục vụ ở phòng khách. Ông chú Mathew có một đầy tớ chuyên phục vụ phòng khách tên Comfort và một hầu gái tên Rejoice - the - Lord. Methodist là tên cô. Nhưng ngay sau đó bà dì Fanny chấm dứt cái trò đó. Bảo cô ta sẽ được gọi là Rebecca miễn là cô ở trong Nhà của bà. - Cháu mua cho dì ít bông hồng. Tuppence nói. - Tôi không cần bông hồng trong phòng một người bịnh. Dậy lên tất cả mùi oxyen. - Tôi sẽ đặt nó trong một cái lọ hoa cho me. Cô Packard nói. - Cô đừng làm chi hết. Cô phải biết lúc này tôi hiểu mình muốn gì chứ. - Hình như tình trạng sức khoẻ dì tốt, dì Ada à. Có cơ may điều chỉnh được đó, cháu dám nói thế. Beresford nói. - Có thể anh đánh giá đúng. Anh muốn gì bằng cách xưng là cháu trai của tôi? Anh nói tên anh là gì kia? Thomas hả? - Dạ. Thomas hay Tommy. - Chưa bao giờ nghe tên anh cả. Ta chỉ có một cháu trai hắn tên là William. Bị giết trong chiến tranh vừa qua. Việc ấy cũng tốt. Nếu còn sống hắn còn tệ hơn. Ta mệt. Dì Ada nói rồi tựa lưng vào gối và quay về phía cô Packard.' 'Đem họ đi. Lẽ ra cô không nên để người lạ vào phòng tôi. - Tôi nghĩ một cuộc viếng thăm ngắn ngủi dễ thương có thể làm me vui lên. Cô Packard thản nhiên. Dì Ada buông một tiếng cười khẩy thô tục. - Đươc rồi, Tuppence vui vẻ nói. Tụi cháu sẽ đi. Cháu để bông hồng lại. Có thể dì sẽ thay đổi ý kiến về chúng. Đi nào, Tommy. Cô quay về hướng cánh cửa. - Tạm biệt, dì Ada. Cháu rất tiếc dì không nhận ra cháu. Dì Ada im lặng cho đến khi Tuppence đi khuất ngoài cánh cửa với cô Packard và Tommy theo sau cô. - Trở lại, cháu. Dì Ada cao giọng. Dì hoàn toàn biết cháu. Cháu là Thomas. Cháu thường có mái tóc đỏ. Màu cà rốt, đó là màu tóc cháu. Trở lại, dì sẽ nói chuyện với cháu. Dì không cần con đàn bà đó. Không tốt việc nó giả vờ là vợ cháu, dì hiểu rõ mà. Đừng mang loại dàn bà đó đến đây. Hãy đến ngồi xuống trong cái ghế này và kể cho dì nghe về mẹ cháu. Cô đi đi, dì Ada thêm vào như kiểu tái bút, vẫy tay về phía Tuppence đang lưỡng lự nơi ngưỡng cửa. Tuppence rút lui ngay lập tức. - Hôm nay bà ấy toàn nổi cơn bực tức, cô Packard điềm tĩnh nói khi họ đi xuống lầu.' Đôi khi, cô biết không, bà ấy cũng có thể thật sự vui vẻ. Cô khó mà tin được lắm. Tommy ngồi xuống một cái ghế được chỉ cho mình bên cạnh dì Ada và đưa ý kiến nhẹ nhàng rằng mình không thể kể nhiều về mẹ vì bây giờ bà đã chết gần bốn mươi năm rồi. Dì Ada thản nhiên trước lời phát biểu này. - Hãy tưởng tượng đi, bà nói, có phải đã lâu như thế không? Ư, thời gian đi nhanh quá. Bà nhìn anh săm soi từ trên xuống. Tại sao cháu chưa lấy vợ? Kiếm một người đàn bà dễ thương có năng lực để săn sóc cháu. Cháu đang gì đi, cháu biết mà. Cháu đang đi lại với tất cả bọn đàn bà dễ dãi đem chúng đến nhà ai rồi trò chuyện giống như chúng là vợ cháu. - Cháu có thể hiểu rằng, lần tới đến thăm dì tốt hơn hết cháu bảo Tuppence mang theo những bức thư ngắn hồi đám cưới cô ấy. - Biến cô ta thành một người đàn bà chân thật ư? - Chúng cháu cưới nhau trên ba mươi năm rồi. Chúng cháu có một trai và một gái, cả hai đều có vợ có chồng hết rồi. - Cái phiền là, dì Ada khéo léo thay đổi đề tài, không ai kể cho ta bất cứ chuyện gì. Nếu anh chu cấp tiền bạc cho ta cho đến ngày - Tommy không cãi lại. Có một lần Tuppence đã dành cho anh một phán quyết quan trọng của toà án.' Nếu bất cứ kẻ nào trên sáu mươi lăm tuổi có lỗi với anh, đừng bao giờ cãi lại. Đừng bao giờ nói mình có lí. Xin lỗi ngay lập tức và nhận tất cả lỗi về mình và bảo đó là lỗi của tôi tôi không bao giờ tái phạm nữa.' Giờ phút này việc đó xảy đến với Tommy với một quyền lực chắc chắn thuộc lãnh vực có dính líu đến dì Ada, mà thật ra thì luôn như thế. - Cháu rất tiếc, dì Ada, anh nói. Cháu sợ là, người ta có khuynh hướng quên lãng khi thời gian trôi qua. Không phải ai cũng có một kí ức tuyệt vời về quá khứ. Anh tiếp tục nói không đỏ mặt. Dì Ada cười tự mãn. Không còn từ nào khác cho việc này sao. Cháu có cái gì khác cơ. Ta tiếc ta tiếp cháu khá thô lỗ, nhưng ta không lo chuyện bị áp đặt. Cháu không bao giờ hiểu rõ nơi này. Họ cho bất cứ ai vào thăm cháu. Bất kì lúc nào. Nếu ta nhận tiếp mọi người vì những gì họ nói họ là, có thể họ sẽ có ý định cướp và giết ta trong giường. - Ồ, cháu không nghĩ điều đó có thể xảy ra. - Cháu không bao giờ biết cả, dì Ada đáp. Những chuyện cháu đọc trong các báo. Và những chuyện người ta đến kể với cháu. Dì cũng không tin mọi việc dì được nghe kể. Nhưng dì giữ kín sự cảnh giác cao độ. Cháu có tin không, ngày nọ họ mang tới một người đàn ông xa lạ - trước đây chưa bao giờ gặp ông ta. Gọi ông ta là Dr. William. Bảo ta Dr. Murray đi nghỉ hè xa và ông này là người cọng sự mới của ông ấy. Bạn cộng sự mới! Làm sao ta biết hắn là bạn cộng sự mới của ông ấy? Hắn chỉ nói hắn là thế, và chỉ có vậy. - Có phải ông ta là người cộng sự mới không? - Thật ra là thế. Dì Ada đáp, hơi phiền lòng vì bị đánh lạc hướng, thật sự ông ta là người cọng sự. Nhưng không ai có thể biết chắc được. Ông ta đó, lái xe hơi lên về, mang theo loại hộp màu đen, mà những bác sĩ thường mang theo để đo huyết áp - nếu không có gì khác. Nó giống như cái hộp ma thuật mà người ta thường nói đến nhiều. Nó là của ai, Joanna Southcott ấy? - Không, cháu nghĩ chuyện này hơi khác. Một dạng lời tiên tri. - Ta hiểu. Quan điểm của dì là bất cứ ai đều có thể vào một chỗ như thế này và xưng ông ta là một bác sĩ, ngay lập tức tất cả bọn y tá sẽ cười khúc khích tự mãn //và nói vâng, thưa bác sĩ, dĩ nhiên rồi, thưa Bác sĩ, và hầu như đứng nghiêm để chú ý, những đứa con gái điên! Và nếu như bịnh nhân thề tôi không hề biết người đàn ông đó, họ chỉ nói rằng bà ta quên lãng và quên mọi người. Ta không bao giờ quên một khuôn mặt nào hết. Dì Ada quả quyết. Ta chưa bao giờ quên. Dì Caroline của cháu thế nào rồi? Trong một thời gian dì không nghe tin tức của cô. Con đã từng gặp dì ấy rồi phải không? Tommy nói, gần như xin lỗi, rằng dì Caroline đã chết mười lăm năm rồi. Dì Ada nhận sự cáo chung này không chút buồn rầu. Sau rốt dì Caroline không phải là em ruột của bà mà chỉ là em họ. - Mọi người dường như đang hấp hối, bà nói, với vẻ thích thú nào đó. Không có nghị lực. Đó là vấn đề của họ. Tim yếu, nghẽn động mạch vành, viêm phế quản mãn tính, viêm khớp - tất cả các chứng còn lại. Tất cả bọn họ đều là những giống người yếu đuối. Vì thế các bác sĩ đem lại cuộc sống cho họ. Cho họ những hộp và hộp, những chai và chai thuốc. Những viên thuốc màu vàng, màu tím, màu xanh, thậm chí cả những viên màu đen, tôi cũng không ngạc nhiên. U! Họ thường dùng mật đường và lưu huỳnh trong thời bà ngoại tôi. Tôi cá là nó cũng tốt như bất cứ thứ gì khác. Giữa sự chọn lựa mật đường và lưu huỳnh để uống hay để trở nên khoẻ mạnh, lần nào bạn cũng chọn sự khoẻ mạnh. Bà gật đầu thỏa mãn.'không thể tin mấy ông bác sĩ được, phải không nào? Không ngay cả khi đó là một vấn đề mang tính chuyên nghiệp - một số là mốt thời thượng - người ta kể lại với tôi hiện có nhiều chuyện đầu độc đang tiến hành ở đây. Kiếm tim để mổ, người ta nói với tôi thế. Tôi không nghĩ đó là sự thật. Cô Packard không phải là hạng người bênh vực cho chuyện ấy. Cô Packard xuống lầu, chỉ một phòng khởi đầu tiền sảnh, nhẹ nhàng xin lỗi. - Tôi rất tiếc về chuyện này, bà Beresford, nhưng tôi mong bà hiểu với người già là thế nào. Họ cưu mang những tưởng tượng, sự thù ghét rồi khăng khăng bám lấy. Hẳn rất khó khăn khi điều khiển một chỗ như thế này. - Thật ra không khó lắm, tôi cảm thấy thích thú việc mình làm và tôi cũng yêu tất cả bọn họ. Cô biết đấy, người ta đâm ra yêu những người mà người ta phải chăm sóc. Tôi muốn nói, họ có những thói quen và những sự hiếu động của riêng họ, nhưng quản lí họ hoàn toàn dễ thôi, nếu cô biết cách. Tuppence nghĩ cô Packard chính là một trong những người hiểu biết cách làm thế nào. - Thật ra họ giống trẻ con. Cô Packard cười dễ dãi. Chỉ trẻ con mới vượt quá lô gic đôi khi làm cho sự việc trở nên khó khăn đối với chúng. Nhưng những bà già này đều phi lô gic cả, bằng những gì cô nói với họ họ cần được bảo đảm những gì họ muốn tin. Sau đó, họ khá hạnh phúc. Nơi đây tôi có một nhóm bạn rất dễ thương. Những người kiên nhẫn, tánh tình hoà nhã, không thông minh lắm bởi vì nếu cô có những người thông minh chắc chắn họ rất nóng nảy. Vâng, cô Dônvan, cái gì thế? Cô quay lại một phụ nữ trẻ với chiếc gọng kính đang chạy xuống thang lầu. - Lại bà Lockett nữa. Cô Packard. Bà ấy bảo bà ấy đang hấp hối và cần gọi bác sĩ ngay. - Lần này thì bà ấy hấp hối vì cái gì? Cô Packard nói không chút xúc động. - Bà ấy nói có nấm trong món ninh ngày hôm qua và chắc chắn phải có nấm mốc trong đó vì thế bà ấy bị nhiễm độc. - Đó là một chuyện mới. Tốt hơn tôi nên lên lầu gặp bà ấy. Rất tiếc phải rời bà, bà Beresford. Bà hãy tìm nhật báo và tạp chí trong phòng kia mà đọc nhé. - Tôi hoàn toàn ổn thôi. Tuppence đáp. Cô đi vào căn phòng được chỉ cho mình. Đó là một căn phòng vui mắt nhìn ra vườn hoa, với những cửa sổ Pháp mở. Phòng có ghế bành, trên bàn có bình hoa. Một bức tường có những kệ sách gồm có sách phiêu lưu và tiểu thuyết hiện đại, cũng là những gì có thể coi như vật được ưa thích của tuổi già mà nhiều người cùng nằm viện có thể vui mừng khi gặp lại lần nữa. Có tạp chí trên một cái bàn. Vào lúc đó chỉ có một người trong phòng. Một bà già với mái tóc trắng chải ngược về phía sau đang ngồi trong một ghế tựa, và đang nhìn vào li sữa trong tay. Bà ta có một khuôn mặt trắng trẻo xinh đẹp, mỉm cười ngó Tuppence vẻ thân thiện. - Xin chào, bà ta nói. Cô đến để ở đây hay cô đang viếng thăm? - Tôi đang viếng thăm. Tuppence đáp. Tôi có một bà dì ở đây. Bây giờ chồng tôi đang ngồi với bà. Tôi nghĩ có lẽ hai người đã có ngay những đòi hỏi quá sức chịu đựng. - Cô nói rất sâu sắc. Bà ta nhấp một ngụm sữa với vẻ thích thú. Tôi tự hỏi - không tôi nghĩ chuyện đó sẽ ổn thôi. Cô muốn uống chút gì không? Trà hay cà phê? Tôi rung chuông nhé. Ơ đây họ ép buộc lắm. - Không cám ơn. Tuppence lắc đầu. Thôi ạ. - Hay có lẽ một li sữa vậy. Hôm nay không có thuốc độc. - Không, không. Sữa cũng thế. Chúng tôi sẽ không dừng đây lâu lắm đâu. - Nếu cô hoàn toàn tin chắc - nhưng có chi phiền phức đâu, cô biết mà. Không ai nghĩ có bất cứ chuyện gì phiền phức ở đây cả. Trừ phi cô đòi hỏi cái gì đó không thể thực hiện được. - Tôi lại dám nói bà dì mà chúng tôi đang thăm lại đòi hỏi những điều không thể thực hiện được. Bà ấy là cô Fanshawe. Cô nói thêm. - Ô, cô Fanshawe ấy à. Bà già đáp. Ô vâng. Một cái gì đó dường như đang kềm chế bà ta lại nhưng Tuppence vẫn vui vẻ nói. - Đúng ra tôi nên tưởng tượng dì ấy là một người khá thô bạo chứ. Dì ấy luôn như vậy mà. - Phải thật ra thì có thế thật. Tôi quen với việc có một bà dì, bà ấy giống hệt như thế, đặc biệt khi bà ấy già. Nhưng tất cả bọn tôi đều yêu mến dì Ada. Cô ấy có thể rất, rất vui nếu cô ấy muốn. Về mọi người ấy mà, cô biết đấy. - Vâng, tôi dám nói dì ấy có thể thế lắm, Tuppence đáp. Cô suy nghĩ một hai phút, khảo sát dì Ada dưới ánh sáng mới mẻ này. - Rất chua, bà già nói. Tên tôi là Lancaster, nhân tiện nói luôn, bà Lancaster. - Tên tôi là Beresford. - Tôi e là, đôi khi người ta cũng cần thưởng thức cái thú có một chút nham hiểm. Những mô tả của bà ta về một số ngừơi khách đến đây, và những điều bà ta nói về họ. Tất nhiên cô biết đấy, người ta không được làm thế., để tìm niềm vui nhưng họ vấn cứ làm. - Bà sống ở đây bao lâu rồi? - Khá lâu. Để tôi xem nào, bảy năm - tám năm. Phải, phải, chắc là hơn tám năm rồi. Bà ta thở dài. Người ta mất liên lạc với mọi chuyện. Và người khác cũng thế. Bất cứ bà con nào tôi còn lại đều ở ngoại quốc. - Điều đó chắc khá buồn. - Không, thật sự thì không. Tôi không lưu tâm đến họ lắm. Thật sự, tôi thậm chí cũng không hiểu họ rõ. Tôi có một chứng bịnh tệ hại - một căn bịnh cực kì tệ hại - và tôi cô đơn trong thế giới này, vì thế họ nghĩ sống tại một nơi như thế này sẽ tốt hơn cho tôi. Tôi nghĩ mình rất may mắn đã đến đây. Họ quá tử tế và sâu sắc. Và những khu vườn thì tuyệt đẹp. Tự tôi cũng hiểu rằng mình không nên sống một mình vì đôi khi tôi làm mọi việc rối tung lên, cô biết không. Rất lộn xộn. Bà ta vỗ vào trán. Tôi rối trí ở đây. Tôi lẫn lộn những thứ. Tôi không luôn luôn nhớ chính xác những gì đã xảy ra. - Tôi rất buồn, Tuppence nói. Tôi tưởng người ta luôn luôn phải có một cái gì đó, phải không? - Một số chứng bịnh gây đau đớn vô cùng. Ơ đây chúng tôi có hai người phụ nữ khốn khổ đang sống với chứng viêm khớp trầm trọng. Họ đau đớn kinh khủng. Vì thế tôi nghĩ không có chi quan trọng nếu người ta có một chút lẫn lộn về những gì xảy ra và ở đâu, và họ là ai, và tất cả nếu không có chi khác. Dù sao đi nữa nó cũng không phải là nỗi đau đớn tự nhiên. - Không, tôi nghĩ bà hoàn toàn có lí. Cánh cửa mở ra một cô gái mặc áo choàng trắng bước vào với cái khay nhỏ trên có bình cà phê với cái dĩa có hai bánh bích quy, cô ta đặt xuống cạnh Tuppence. - Cô Packard nghĩ rằng có thể bà cần một tách cà phê, cô nói. - Ô. Cám ơn. Cô gái lại bước ta và bà Lancaster nói. - Của cô đó, cô thấy đấy. Họ rất sâu sắc, phải không nào? - Vâng, thật thế. Tuppence rót cà phê và bắt đầu uống. Trong một lúc hai người phụ nữ ngồi im lặng, Tuppence lấy dĩa bích quy mời nhưng bà già lắc đầu. - Không cám ơn. Tôi chỉ thích sữa trơn của mình thôi. Bà ta đặt cái li không xuống và ngồi dựa lưng vào ghế, đôi mắt khép hờ. Tuppence nghĩ có lẽ đây là giấc ngủ ngắn vào buổi sáng vì vậy cô giữ im lặng. Tuy nhiên thình lình, bà Lancaster dường như giật mình thức giấc lần nữa. Mắt bà mở to, bà nhìn Tuppence nói. 'tôi thấy cô đang nhìn vô lò sưởi'. - Ô, tôi ư? Tuppence hỏi lại, hơi giật mình. - Vâng. Tôi tự hỏi - bà ta đưa người về phía trước rồi hạ thấp giọng - tha lỗi cho tôi, có phải đó là đứa con tội nghiệp của cô không? Tuppence, hơi lùi lại, ngập ngừng. - Tôi - tôi không nghĩ vậy. - Tôi tự hỏi. Tôi nghĩ có lẽ cô đến vì lí do nào đó. Một kẻ nào đó phải đến một lúc nào đó. Có lẽ họ sẽ đến. Và nhìn vô lò sưởi. Đó là nơi nó ở, cô biết mà. Phía sau lò sưởi. - Ô, Tuppence nói. Ô, có phải không? - Luôn luôn cùng một lần, bà Lancaster thấp giọng. Luôn luôn cùng giờ đó. Bà ta nhìn lên chiếc đồng hồ trên giá treo trên lò sưởi. Tuppence cũng nhìn lên. Mười một giờ mười phút. Mười một giờ mười. Phải, luôn luôn cùng một giờ mỗi sáng. Bà ta thở dài. Người ta không hiểu - tôi nói với họ cái tôi biết - nhưng họ không tin tôi! Tuppence nhẹ người ngay lúc cánh cửa mở ra và Tommy đi vào. Cô đứng lên. - Em đây. Em sẵn sàng rồi. Cô đi về hướng cánh cửa quay đầu lại nói, tạm biệt, bà Lancaster. - Làm sao anh lên đây được? Cô hỏi Tommy khi họ xuất hiện trong phòng tiền sảnh. - Sau khi em rời khỏi, như một ngôi nhà bốc lửa. - Dường như em có một ảnh hưởng xấu với dì, phải không? Trong chừng mức nào đó, khá vui. - Tại sao lại vui? - Ơ tuổi em, Tuppence nói, với vẻ ngoài mảnh mai đáng chán với khuôn mặt xinh xắn đáng kính, thật dễ chịu khi nghĩ đem gán anh cho một người phụ nữ duyên dáng nhưng gợi tình gây tai hoạ chết người. - Đồ ngốc, Tommy bóp chặt cánh tay cô tha thiết. Em đang vinh hạnh ở với ai thế? Bà ấy có vẻ là một quý bà yếu đuối xinh đẹp. - Bà ấy rất đẹp, Tuppence đáp. Một sinh linh khốn khổ, em nghĩ thế. Nhưng là những con dơi bất hạnh. - Những con dơi? - Phải. Chừng như nghĩ có một đứa trẻ chết phía sau lò sưởi hay một cái gì đó tương tự. Bà ấy hỏi có phải là đứa trẻ tội nghiệp của cô không. - Khá căng thẳng đấy. Tôi cho rằng hẳn nơi đây phải có một số người hơi điên, cũng như những người thân ruột già cả bình thường không có chi làm phìền họ cả ngoài tuổi tác. Còn nữa, bà ấy cũng khá đẹp. - Bà ấy đẹp chớ sao, Tuppence đáp. Đẹp và ngọt ngào, em nghĩ thế. Em tự hỏi chính xác những tưởng tượng của bà ấy là cái gì và tại sao. Cô Packard bất ngờ xuất hiện lần nữa. - Tạm biệt, bà Beresford. Tôi hi vọng họ đã mang cà phê cho bà rồi chứ? - Vâng, cám ơn cô, họ mang rồi. - Rất tử tế việc bà đã đến, tôi tin vậy. Cô Packard nói. Quay về hướng Tommy, cô nói,' và tôi biết cô Fanshawe lấy làm vui chuyện ông đến thăm lắm chứ. Tôi rất tiếc cô thô lỗ với vợ ông. - Tôi nghĩ chuyện ấy cũng cho dì nhiều niềm vui. Tuppence đáp. - Phải, bà hoàn toàn có lí. Bà ấy thích thô lỗ với mọi người. Không may bà làm việc ấy khá tốt. - Và bà thực hành nghệ thuật thường xuyên khi có thể. Tommy tiếp lời. - Ông rất hiểu biết, cả hai người đấy. - Bà già tôi đang nói chuyện, bà Lancaster, tôi nghĩ đó là tên bà? - Vâng, bà Lancaster. Chúng tôi rất mến bà. - Bà ấy - có phải là một người hơi kì dị? - Bà ấy có nhiều tưởng tượng. Cô Packard cười dễ dãi. Ơ đây chúng tôi có nhiều người giàu óc tưởng tượng. Họ là những người hoàn toàn vô hại. Nhưng - họ ở đó. Những sự việc họ tin đã xảy tới cho họ. Hay cho những người khác. Chúng tôi cố không chú ý, không khuyến khích họ. Chỉ cố làm cho điều ấy ít quan trọng hơn thôi. Tôi nghĩ thật ra đó chỉ là sự sử dung óc tưởng tượng, một thứ ảo giác họ thích đắm mình vào. Một cái gì đó kích thích hay buồn rầu và bi kịch. Cái đó không quan trọng. Nhưng không phải là sự ngược đãi chứng điên cuồng, tạ ơn Chúa. Không bao giờ là điều ấy. - Chuyện ấy qua rồi, Tommy nói với tiếng thở dài, khi anh chui vào xe. Chúng mình không cần đến nữa ít nhất trong sáu tháng. Nhưng họ không cần đi thăm bà trong sáu tháng, vì ba tuần sau dì Ada chết trong giấc ngủ. BỨC HỌA CHẾT NGƯỜI (Agatha Christie) Chương 3 Một Lễ Tang Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Có phải lễ tang thì khá buồn không? Tuppence nói. Họ vừa mới trở về sau tang lễ dì Ada, đám tang tổ chức tại một làng quê ở Lincolshire nơi hầu hết gia đình và tổ tiên dì Ada được chôn cất kéo theo sau một cuộc hành trình bằng xe hoả dài dặc và khó chịu. - Vậy em mong chờ gì ở một đám tang? Tommy sáng suốt hỏi lại. Một khung cảnh vui vẻ điên khùng chăng? - Tại một số nơi thì có thể. Em muốn nói người Ai nhĩ lan thụ hưởng cái thú thức ngủ với người chết trước khi đem chôn. Thoạt họ gào thét khóc than thảm thiết rồi uống rượu thật nhiều vào và biểu lộ niềm vui điên cuồng không giải thích được. Uống? Cô nói thêm, nhìn về hướng tủ đựng chén bát. Đúng nguyên tắc Tommy bước tới và mang lại cho cô một thức uống anh cho là thích hợp. Một li White Lady. - Chính xác. Cô dở chiếc mũ màu đen ném nó qua căn phòng đồng thời trợt bỏ chiếc áo dài cùng màu. - Em ghét thương tiếc cho cái chết của người khác. Nó luôn luôn sặc mùi long não người ta để dành một nơi nào đó. - Em không cần thương tiếc làm gì cho mệt. Người ta chỉ dự lễ tang trong lòng thôi. - Ô không, em hiểu chứ. Vài phút nữa em sẽ lên lầu thay một chiếc áo đỏ cho mọi việc vui lên. Anh có thể lấy cho em một li White lady khác. - Thật ư, Tuppence, anh không có ý kiến cho rằng tang lễ sẽ biến thành bữa tiệc tình cảm đâu đấy. - Thì em nói lễ tang buồn mà, Tuppence nói khi cô tái xuất hiện một hai phút sau, mặc một bộ đồ màu đỏ hạt dâu chói ngời với một con thằn lằn gắn hồng ngọc và kim cương trên vai áo. 'bởi vì những lễ tang như lễ tang dì Ada thì buồn. Em muốn nói những người già không có nhiều hoa. Không có người nức nở khịt mũi đứng quanh. Một người nào đó già và cô đơn sẽ rất tinh ý. - Anh đáng phải nghĩ em sẽ dễ dàng chịu đựng hơn nếu đó là đám tang của anh. Ví dụ thế. - Đó là chỗ anh hoàn toàn sai lầm. Em đặc biệt không muốn nghĩ đến đám tang của anh vì em thích chết trước anh hơn. Nhưng em muốn nói, dù sao chăng nữa đám táng sẽ là một cuộc liên hoan cuồng loạn của nỗi buồn. - Với những đường viền đen à? - Em chưa nghĩ đến những đường viền đen nhưng đó là một ý kiến tốt. Vả lại, dịch vụ tang lễ khá tuyệt vời. Nó làm cho bạn cảm thấy được nâng cao tinh thần. Nỗi buồn thật là có thật. Nó làm bạn cảm thấy khó chịu nhưng nỗi buồn lại Tạo Nên một điều gì đó đối với bạn. Em muốn nói, nó phát triển giống như mồ hôi. - Thật thế sao, Tuppence, anh hiểu những lưu ý của em về cái chết của anh và ảnh hưởng của nó sẽ phủ lên em một sở thích cực kì tệ hại. Anh không thích thế. Thôi hãy quên chuyện lễ tang đi. - Em đồng ý. Hãy quên đi. - Hạt đậu già tội nghiệp đã đi rồi, Tommy nói, và bà đi hoàn toàn bình yên không đau đớn. Vậy hãy để nó lại đó. Tốt hơn mình nên làm sáng tỏ tất cả cái này, anh nghĩ thế. Anh bước tới bàn viết và xáo động một số giấy tờ. - Nào tôi để thư của ông Rockbury đâu nhỉ? - Ông Rockbury là ai? Ô, anh muốn nói vị luật sư đã viết thư cho anh ấy à. - Phải. Về chuyện kết toán những công việc của dì. Giờ đây anh là người duy nhất còn lại của gia đình. - Đáng tiếc bà không có một gia tài để lại cho anh. - Nếu dì có một gia tài dì đã để lại cho Nhà nuôi Mèo, tài sản bà để lại cho chúng trong di chúc gần như sẽ ngốn sạch tất cả tín phiếu để dành. Không có chi còn lại nhiều đến tay anh cả. Dù sao anh cũng không cần hay khao khát tiền của dì. - Tại sao bà lại yêu mèo? - Tôi không biết. Anh nghĩ vậy thôi. Chưa bao giờ anh nghe bà nhắc đến chúng. Anh tin thế. Tommy nói giọng trầm tư, bà thường lấy làm vui thích khi nói với những người bạn đến thăm bà "tôi để cho chị một ít đồ trong di chúc của tôi, bạn thân mến" hay: " con bọ trang sức chị thích tôi sẽ để lại cho chị trong di chúc của tôi." Thật sự bà không để lại cái chi cho ai ngoại trừ cho Nhà Nuôi mèo. - Em cá bà lẩn tránh việc bị đuổi ra khỏi nơi ấy thôi. Em chỉ có thể hiểu qua lời bà nói tất cả những chuyện về những người bạn già của bà mà anh kể lại - hay cứ tạm gọi là những người bạn già vì em không nghĩ họ là những người bà thực sự yêu mến. Bà chỉ thích cái thú dẫn họ đi lên lối mòn trong vườn. Dám nói bà ấy là con quỷ già, phải không nào? Điều mơ hồ không giải thích được trong một chừng mực nào đó người ta thích bà vì bà là một con quỷ già. Đó là một cái gì gọi là có khả năng kiếm được chút ít niềm vui từ cuộc sống khi người ta già và dính chặt vào Viện dưỡng lão. Chúng ta có nên trở lại Sunny Ridgre không? Bức thư khác đâu rồi? Lá thư từ cô Packard ấy? Vâng, nó đây rồi. Tôi để nó chung với thư ông Rockbury. Vâng, tôi hiểu, cô ấy nói ở đó có một số đồ đạc bây giờ thuộc về tài sản của tôi. Khi đến ở đó bà có mang theo một ít đồ dùng. Dĩ nhiên có những tư trang cá nhân. Quần áo và đồ đạc như vậy. Anh nghĩ một ai đó sẽ phải được chính thức chấp nhận. Thư từ và đồ đạc. Anh là người được uỷ thác thực hiện di chúc, vì thế anh cho đó là bổn phận của anh. Anh nghĩ chúng ta không thật sự cần món gì ở đó cả, phải không? Ngoại trừ một bàn giấy nhỏ mà anh luôn luôn thích. Anh tin nó thuộc về chú William già. - Anh có thể lấy như một kỉ vật. Mặt khác, em giả thiết, ta chỉ gởi những đồ được bán đấu giá thôi. - Vậy anh không cần đến đó nữa. - Còn em nghĩ em lại thích đến đó. - Em thích thế à? Tại sao? Đối với em không phải là một điều khá buồn chán ư? - Sao, xem hết những đồ đạc của dì? Không, em không nghĩ thế. Em nghĩ em tò mò. Những lá thư và đồ nữ trang cổ luôn gây sự chú ý và người ta phải tự mình xem xét chúng, chứ không chỉ gởi chúng bán đấu giá hay để cho người lạ xem xét tỉ mỉ. Nào, bây giờ chúng ta đi xem hết đồ vật coi thử có cái chi ta muốn giữ lại và mặt khác trả tiền. - Tại sao em muốn đi? Em hẳn có một lí do khác. Phải không? - Anh thân yêu, thật khó chịu khi cưới một người họ biết quá nhiều về mình. - Vậy em Có một lí do khác phải không? - Không phải là lí do thật. - Tiếp đi, Tuppence. Em đâu có thích chi chuyện chuyển giao đồ đạc của kẻ khác. - Cái đó, em cho là bổn phận của mình. Tuppence quả quyết nói. Không, chỉ có lí do duy nhất là... - Tiếp đi, khạc ra nào. - Em thích gặp lại - con chó nhỏ già một lần nữa. - Sao, cái bà nghĩ có một đứa trẻ chết sau lò sưởi đó hả? - Phải, Tuppence đáp. Em thích trò chuyện với bà ấy lần nữa. Em muốn biết có cái gì trong kí ức bà khi bà nói tất cả những chuyện này. Có phải đó là cái bà nhớ lại hay đó là cái bà tưởng tượng? Em càng nghĩ lại thấy chuyện ấy kì lạ quá. Phải chăng đó là một loại chuyện kể bà viết trong trí hay là có - thật sự có một cái gì xảy ra về một cái lò sưởi hay một đứa trẻ chết. Cái gì làm bà ấy nghĩ rằng đứa trẻ chết có thể là con của em? Có phải em có cái vẻ như là có một đứa con chết không? - Anh không hiểu em trông đợi kẻ nào đó có cái vẻ như có đứa con chết như thế nào cơ chứ. Tommy đáp. Anh không nghĩ vậy. Dù sao, Tuppence, phận sự của mình là đi và em có thể tự mình bí mật lấy làm vui về cái tánh tàn nhẫn của mình chứ. BỨC HỌA CHẾT NGƯỜI (Agatha Christie) Chương 4 Bức Tranh Về Một Ngôi Nhà Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Tuppence hít một hơi thở sâu. - Cũng vậy thôi. Cô và Tommy đang đứng trước bậc cửa nhà Sunny Ridge. - Tại sao lại không? - Em không biết. Đó chỉ là một cảm giác em có - một cái gì đó liên quan đến thời gian. Thời gian trôi một tốc độ khác nhau trong những chỗ khác nhau. Anh trở về một số nơi nào đó và anh cảm thấy thời gian đã nổ tung nhanh kinh khủng và tất cả cũng gần giống như những chuyện sẽ xảy ra - và thay đổi. Nhưng đây - Tommy, anh còn nhớ Ostend không? - Ostend? Chúng ta đã đến đó trong tuần trăng mật. Dĩ nhiên anh nhớ. - Và anh có nhớ bảng hiệu đã viết? TRAMSTILLSTAND - nó làm chúng ta cười. Bảng hiệu kì dị thật. - Anh nghĩ đó là Knocle - không phải Ostend. - Đừng lo - anh đã nhớ lại rồi. Chỗ này giống như cái từ đó - Tramstillstand - một từ được tạo ra bằng cách ghép âm và nghĩa của hai từ khác. Thời gian đứng yên - không có gì xảy ra ở đây cả. Thời gian chỉ đứng bất động. Ơ đây mọi việc đang xảy ra cũng như vậy. Chỉ có những chuyện khác xoay tròn. - Anh không hiểu em đang nói về chuyện gì. Em có định đứng đây suốt ngày nói về thời gian thậm chí không rung chuông không? - Dì Ada không còn ở đây nữa, đó là một việc. Chuyện ấy là khác. Anh bấm chuông. - Chỉ có một chuyện duy nhất là khác. Bà già của tôi sẽ uống sữa và nói về những lò sửơi, và bà Một - kẻ - nào đó - hay - kẻ khác sẽ nuốt một cái đê hay một cái muỗng hay một phụ nữ nhỏ nhắn không thể tin được sẽ lao ra khỏi phòng và kêu lên the thé đòi hỏi coca của bà, cô Packard sẽ xuống lầu và - Cánh cửa bật mở. Một phụ nữ trẻ trong tấm áo choàng nylon nói: " ông và bà Beresford? Cô Packard đang đợi ông bà." Người phụ nữ trẻ vừa mới chỉ cho họ vào cùng căn phòng khách như trước thì cô Packard xuống lầu và chào họ. Phong thái của cô rất thích hợp không quá nhanh nhẹn như thường lệ. Nó trang nghiêm, và có phần buồn cho cái chết của dì Ada nữa - không nhiều quá - có lẽ đang bối rối. Cô là chuyên gia về tổng số chính xác lời chia buồn có thể chấp nhận được. Ba năm ghi dấu và mười năm là khoảng thời gian của đời người mà Thánh kinh có thể chấp nhận được, và những cái chết trong tòa nhà công cọng của cô ít khi xảy ra dưới con số đó. Chúng được mong đợi và chúng đã xảy ra. - Quý hoá quá ông bà đã đến. Tôi đã sắp đặt gọn gàng để ông xem xét hết. Tôi vui mừng việc ông bà có thể đến ngay bởi thực ra tôi đã có ba hay bốn người đang chờ một chỗ trống đã đến đây rồi. Ông sẽ hiểu thôi, tôi chắc là vậy, xin đừng nghĩ rằng ở một khía cạnh nào đó tôi cố dục ông. - Không đâu, tất nhiên chúng tôi hoàn toàn hiểu. - Tất cả vẫn còn trong phòng cô Fanshawe ở, cô Packard giải thích. Cô Packard mở cánh cửa phòng nơi họ đã gặp dì Ada. Nó mang dáng vẻ một căn phòng trơ trụi khi chiếc giường phủ một chiếc khăn trải giường bụi bặm bày ra bên dưới hình thù những tấm chăn gấp lại cùng những chiếc gối được xếp ngay ngắn. Những cánh cửa tủ đứng đựng quần áo còn mở và những áo quần còn giữ lại được xếp ngay ngắn đầu giường. Cô thường làm gì - tôi muốn nói, nói chung người ta thường làm gì với quần áo, đố đạc như thế này? Tuppence hỏi. Cô Packard, lõi đời và được việc không thay đổi. - Tôi có thể cho bà tên của một hay ba tổ chức họ rất vui có những thứ đồ như vậy. Bà ấy cũng có một khăn quàng vai bằng lông thú với một áo choàng chất lượng tốt nhưng tôi nghĩ cô sẽ không cần dùng? Có lẽ bà có những hội từ thiện riêng nơi bà cần tống khứ một số đồ đạc. Tuppence lắc đầu. - Bà ấy có một số nữ trang. Tôi chuyển vào chỗ an toàn rồi. Bà sẽ tìm thấy bên ngăn kéo bàn phấn bên tay phải. Tôi cất nó vào đó trước khi bà đến. - Cám ơn cô rất nhiều. Tommy nói, về những phiền phức cô gánh lấy. Tuppence đang nhìn chăm chăm bức tranh treo trên giá trên lò sưởi. Đó là một bức sơn dầu trình bày một ngôi nhà màu hồng lạt đứng kề bên một con kênh với chiếc cầu nhỏ có một nhịp hình vòm cung bắc ngang. Bên dưới chiếc cầu nhỏ có vẽ một chiếc thuyền dựa vào bờ kênh. Đằng xa là hai cây dương liễu. Đó là một khung cảnh nhỏ rất dễ chịu nhưng dù sao Tommy tự hỏi vì lẽ gì Tuppence lại đứng nhìn với vẻ nghiêm trọng đến vậy. - Thật mơ hồ. Tuppence thì thầm. Tommy nhìn cô thắc mắc. Những sự việc mà Tuppence gọi là mơ hồ, theo kinh nghiệm lâu năm của Tommy, không thực sự được diễn tả bằng một tính từ như thế. - Em muốn nói gì, Tuppence? - Không thể tin được. Trước kia khi ở đây không bao giờ em chú ý tới bức tranh. Nhưng chuyện kì dị là em đã nhìn thấy ngôi nhà ở đâu đó. Hoặc có lẽ đó là một ngôi nhà giống hệt ngôi nhà mà em đã thấy. Em nhớ khá rõ. Điều mơ hồ là em không thể nhớ khi nào và ở đâu. - Anh nghĩ em chú ý mà không thật sự chú ý rằng mình đang chú ý. Tommy nói, cảm thấy sự chọn lựa những từ vụng về gần như tẻ nhạt và cùng một mức độ đau đớn như cái từ" mơ hồ" của Tuppence được lập lại nhiều lần để nhấn mạnh. - Anh có để ý đến bức tranh không, Tommy, khi chúng ta đến đây lần trước? - Không, nhưng nhất là anh không để ý lắm. - Bức tranh kia, cô Packard nói. Không, ông sẽ không nhìn thấy nó lần trước khi ông đến đây bởi vì tôi chắc hầu như nó không treo trên cái giá đó. Thật ra đó là một bức tranh thuộc tài sản của một trong những người khách của chúng tôi, bà ấy tặng lại cho dì của ông. Cô Fanshawe một hai lần bày tỏ lòng hâm mộ của mình đối với bức tranh ấy và bà già kia đã biến nó thành một món quà rồi yêu cầu dì ông nhận. Thế thôi. - Tôi hiểu. Dĩ nhiên trước kia tôi không nhìn thấy nó tại đây. Nhưng tôi vẫn có cảm tưởng mình hiểu rất rõ ngôi nhà. Anh có biết không, Tommy? - Không. Tommy đáp. - Bây giờ tôi xin kiếu. Cô Packard nhanh miệng. Lúc nào ông bà cần tôi sẽ có mặt. Với một nụ cười cô Packard gật đầu rời khỏi phòng, khép cửa lại sau lưng. - Em nghĩ em không thích miệng lưỡi của người đàn bà đó. - Có chi sai lầm chăng? - Quá nhiều. Hoặc quá lớn - " tốt hơn hết là ăn thịt cháu." Như bà ngoại của Cô bé quàng khăn đỏ. - Hôm nay hình như em mang một tâm trạng khác thường, Tuppence. - Có thế. Em luôn nghĩ cô Packard rất dễ thương. Nhưng bữa nay đối với em, hình như cô ấy hơi xúi quẩy. Anh có khi nào nghĩ thế không? Không, anh không nghĩ. Tiếp tục đi, nên tiếp tục công việc chúng ta đến đây để làm - nhìn qua " số tư trang cá nhân" của dì Ada nào, như những luật sư đã gọi. Kia là bàn giấy của chú William mà anh đã nói với em. Em thích nó chứ? - Tuyệt vời. Chức vụ quan Nhiếp chính đây, em sẽ nghĩ vậy đó. Thật tốt đối với những người già đến đây có thể mang theo mình một số đồ vật riêng tư. Em không muốn những cái ghế dựa bằng lông ngựa, nhưng em thích cái bàn nhỏ dành cho công việc phụ nữ. Nó đúng là cái ta cần trong cái góc bên cửa sổ nơi chúng ta để những thứ linh tinh ghê tởm. - Được rồi, anh sẽ viết cái giấy nhỏ ghi rõ hai thứ. - Và chúng mình sẽ có bức tranh treo trên giá trên lò sưởi. Nó là một bức tranh cực kì quyến rũ và em hoàn toàn chắc em đã thấy một nơi nào đó rồi. Bây giờ, hãy nhìn các món nữ trang nào. Họ mở ngăn kéo bàn phấn. Có một bộ những món nữ trang nhỏ một vòng Florentine và những bông tai một chiếc nhẫn nạm đá nhiều màu. - Trước đây em đã thấy những món này. Thường chúng mang một tên gọi. Đôi khi rất thân thiết. Kim cương, ngọc lục bảo, thạch anh tím, không, nó không thân thiết. Em nghĩ thật sự không phải vậy. Em không thể tưởng tượng có ai đó tặng dì Ada một chiếc nhẫn quyến rũ đắt tiền. Hồng ngọc, ngọc lục bảo - cái khó là không biết bắt đầu từ đâu. Em sẽ thử lại lần nữa. Hồng ngọc, ngọc lục bảo, viên hồng ngọc khác, không, em nghĩ đó là một viên hồng lựu ngọc với một viên thạch anh tím và đá khác có màu hồng, lần này phải là một viên hồng ngọc và một viên kim cương nhỏ nằm ở giữa. Ô, dĩ nhiên, Đáng chú ý lắm. Thật sự khá tốt. Vậy là tính đa cảm và kiểu cổ. Cô trợt nó trên ngón tay. - Em nghĩ Deborah có thể thích món này. Bộ Florentine. Nó say mê đồ thời Vicorian dễ sợ. Ngày nay nhiều người như nó lắm. Bây giờ, em nghĩ mình nên coi áo quần. Điều này luôn khá khủng khiếp. Đây là cái khăn lông thú. Hoàn toàn giá trị. Em nghĩ vậy. Em không cần nó. Em tự hỏi có ai đó ở đây - bất cứ người nào đặc biệt tốt với dì Ada - hay có lẽ một người bạn đặc biệt giữa những người bạn khác - em muốn nói, những người đến thăm. Người ta gọi họ là khách tham quan hay khách đến thăm, em có để ý mà. Nếu thế tốt hơn nên tặng cô ta cái khăn lông. Nó làm bằng da lông chồn bắc cực thật. Chúng ta sẽ hỏi cô Packard vậy. Những thứ còn lại có thể đem đến hội từ thiện. Vậy là tất cả đã giải quyết xong, phải vậy không? Nào bây giờ mình sẽ đi tìm cô Packard. Tạm biệt, dì Ada. Cô nói lớn, đôi mắt quay về hướng giường ngủ. 'cháu vui mừng đã đến thăm dì lần cuối. Cháu tiếc dì đã không ưa cháu, nhưng để lấy làm vui dì Không ưa cháu và còn nói những lời thô lỗ, cháu không tị nạnh với dì đâu. Hẳn dì có Một số óc hài hước nào đó. Chúng cháu không quên dì. Chúng cháu sẽ nhớ đến dì khi nhìn cái bàn của chú William.' Họ đi vào tìm cô Packard. Tommy giải thích họ sẽ sắp xếp để cái bàn giấy và cái bàn gia công nhỏ buộc phải gởi đến địa chỉ của họ và ông sẽ thu xếp với những nhà bán đấu giá địa phương loại bỏ phần đồ đạc còn lại. Nếu cô Packard không phiền ông sẽ để cho bất cứ đoàn thể nào sẵn sàng nhận quần áo nơi cô. - Tôi không biết ở đây có ai thích cái khăn lông chồn này không, Tuppence nói. Đây là cái khăn đẹp. Có lẽ, một trong những người bạn đặc biệt của dì? hay có lẽ một trong những y tá đang chờ một ân huệ đặc biệt nơi dì Ada? - Đó là một ý tưởng rất hay, thưa bà Beresford. Tôi e cô Fanshawe không có một người bạn đặc biệt nào giữa những người khách đến tham quan, nhưng cô O'Keefe, một y tá đã làm nhiều việc dọn dẹp cho bà có lòng tốt đặc biệt và khéo ở tôi nghĩ cô ấy sẽ rất vui lòng và vinh dự nhận cái khăn ấy. - Còn bức tranh treo trên lò sưởi, tôi thích có nó - mà có lẽ thuộc về tài sản của ai đã tặng nó cho bà ấy, sẽ muốn lấy lại bức tranh đó. Tôi nghĩ chúng ta phải hỏi cô --? Cô Packard ngắt lời. "Tôi rất tiếc, bà Beresford, tôi e chúng tôi không thể làm điều ấy. Bức tranh ấy của bà Lancaster tặng cô Fanshawe bà này không còn ở với chúng tôi nữa." - Không còn ở với cô nữa sao? Tuppence kinh ngạc. Một bà Lancaster nào đó? Cái người tôi thấy lần sau cùng tôi ở đây - với mái tóc trắng chải ngược ra sau. Bà ấy đang uống sữa trong phòng khách dưới lầu. Cô nói bà ấy đi xa rồi? - Phải. Tất cả hơi bất ngờ. Một người bà con của bà ta, một bà Johnson nào đó, đã đem bà ấy đi xa cách đây một tuần. Bà Johnson từ Phi Châu nơi bà ấy hiện đang sống trong bốn hay năm năm sau cùng trở về - hoàn toàn bất ngờ. Từ khi vợ chồng bà ấy thuê một căn nhà tại nước Anh, thì bây giờ bà có thể chăm sóc bà Lancaster tại nhà riêng của bà. Tôi nghĩ bà Lancaster thật sự không muốn từ bỏ chúng tôi. Bà ấy trở nên quá - bảo thủ, bà sống rất tốt với mọi người và hạnh phúc. Bà ta rất phiền muộn, buồn phát khóc về chuyện ra đi - nhưng ai có thể làm gì được? Thế mới hay là thật ra bà ấy không biết gì, dĩ nhiên bởi vì nhà Johnson trả tiền cho việc bà ấy ở đây. Tôi đã gợi ý rằng khi bà sống ở đây quá lâu và đã làm cho bà ấy an tâm nhiều rồi, cách hợp lí nhất là nên để bà ta ở lại - Bà Lancaster đã ở đây với cô bao lâu? Tuppence hỏi. - Gần sáu năm, tôi nghĩ thế. Phải, độ chừng đó. Điều đó giải thích tại sao, bà ấy thật sự cảm thấy đây là mái nhà của bà. - Vâng, tôi có thể hiểu điều đó. Cô cau mày căng thẳng liếc Tommy rồi vênh cái cằm bướng bỉnh vào không khí. - Tôi tiếc bà ấy đã đi. Lần trước khi đang nói chuyện với bà ấy ở đây tôi có cảm tưởng - khuôn mặt bà hình như rất quen thuộc đối với tôi. Rồi thì sau này điều đó trở lại trong trí nhớ rằng tôi đã gặp bà với bà bạn cũ của tôi, một bà Blenkinsop nào đó. Tôi nghĩ thế khi tôi trở lại thăm dì Ada lần nữa, tôi sẽ tìm hiểu xem có đúng thế không. Nhưng tất nhiên bà đã trở lại với người của bà ấy thì điều đó lại khác. - Tôi hoàn toàn hiểu, bà Beresford. Nếu trong một thời gian ngắn bất cứ người khách nào đến thăm ở lại tiếp xúc với một số bạn già cũ hay ai đó biết những ngừơi bà con của mình, điều này tạo ra sự khác biệt lớn. Tôi không thể nhớ bà ấy có từng nhắc đến một bà Blenkinsop nào đó chưa, tôi cũng không thể cho rằng trong trường hợp này điều này có thể xảy ra. - Cô có thể nói cho tôi thêm một ít về bà ấy không, bà con của bà ấy là ai, bà ấy bắt đầu tới đây như thế nào? - Thật sự có rất ít điều để nói. Như tôi nói, cách đây chừng sáu năm tôi nhận được thư của bà Johnson nhờ điều tra về Nhà dưỡng lão, rồi bà Johnson tự mình đến đây kiểm tra lại. Bà nói bà đã lưu ý đến Sunny Ridge từ một người bạn và bà đòi hỏi những điều kiện và những thứ tương tự - rồi bà ấy đi. Cách đây một tuần hay nửa tháng sau đó chúng tôi nhận được một lá thư từ một hãng luật sư ở London đặt những câu hỏi rộng hơn, cuối cùng họ viết thư nói rằng họ rất muốn chúng tôi chấp nhận bà Lancaster phần bà Johnson sẽ đưa bà ấy đến đây khoảng chừng một tuần nữa nếu chúng tôi còn một chỗ trống. Tình cờ chúng tôi lại có, bà Johnson đưa bà Lancaster lại đây ngay còn bà kia thì thích ngay cái chỗ và căn phòng chúng tôi dành cho bà. Bà Johnson bảo bà Lancaster thích mang theo mình một số đồ đạc riêng, tôi hoàn toàn đồng ý, bởi vì người ta thường tìm thấy hạnh phúc khi làm điều đó.Vậy là mọi sự được thu xếp rất thoả đáng. Bà Johnson giải thích bà Lancaster là một người bà con của chồng bà, không gần lắm, nhưng họ cảm thấy lo lắng vì cả hai sắp đi Châu phi - tôi nghĩ là Nigeria, chồng bà ấy đang đám nhận một chức vụ ở đó và có lẽ họ sẽ ở đó vài năm trước khi trở về nước Anh, do đó họ không có nhà cho bà Lancaster ở, họ muốn được bảo đảm bà ấy được nhận vào một chỗ nơi bà ấy cảm thấy hạnh phúc. Thật ra tất cả được thu xếp rất mỹ mãn còn bà Lancaster thì rất an tâm ở đây. - Tôi hiểu rồi. - Mọi người ở đây rất thích bà Lancaster. Bà ấy hơi - bà biết những gì tôi muốn nói, bà ấy quên mọi việc, lẫn lộn đồ đạc và đôi khi không thể nhớ tên tuổi cùng đia chỉ. - Bà ấy nhận được nhiều thư không? Tuppence nói. Tôi muốn nói thư và quà tặng từ nước ngoài? - Tôi cho rằng bà Johnson - có một hai lần viết thư từ Châu phi nhưng không phải sau năm đầu tiên. Bà biết không, tôi sợ là, người ta quên. Đặc biệt khi người ta đến một xứ sở mới, một đời sống khác, tôi nghĩ họ không giao thiệp thân mật với bà ấy bất cứ lúc nào họ thích. Chính xác thì tôi cho rằng bà này chỉ là một người bà con xa, thuộc một danh gia vọng tộc, tất cả đối với họ có nghĩa thế mà thôi. Mọi xếp đặt thuộc phạm vi tài chính đều thông qua luật sư, ông Eccles, một hãng rất tốt, có danh tiếng. Thật sự trước đó chúng tôi có tiếp xúc một hai lần với ông ta vì thế chúng tôi hiểu rõ về họ, cũng như họ hiểu rõ về chúng tôi. Nhưng tôi nghĩ đa số bạn bè và bà con của bà Lancaster đều đã qua đời vì thế bà không có tin tức chi về họ cả, tôi cho rằng rất hiếm khi có ai đến thăm bà ấy. Khoảng chừng một năm sau có một người đàn ông rất đẹp trai đến, tôi nghĩ ông ta không hiểu rõ tính cách cá nhân của bà rõ lắm nhưng ông là bạn của ông Johnson và cũng nằm trong sở Thuộc địa hải ngoại. Tôi nghĩ ông ta chỉ đến đế bảo đảm bà ta mạnh khoẻ và hạnh phúc thôi. - Và sau cùng, mọi người quên bà ấy. - Tôi e là thế. Thật buồn có phải không nào? Nhưng chuyện xảy ra đó lại bình thường hơn là bất bình thường nhé. May thay, những người khách đến thăm chúng tôi đa số kết bạn ở đây. Nói chung họ thân với ai có cùng kí ức hay sở thích, do đó mọi việc được giải quyết vui vẻ cả. Tôi nghĩ hầu hết không ai còn nhớ tới thời quá khứ nữa. - Vài người, tôi giả thiết là hơi - Tommy ngập ngừng tìm chữ - hơi - anh đưa tay lên trán rồi bỏ xuống. Tôi không biết nói thế nào. - Tôi hiểu những gì anh muốn nói rồi, cô Packard đáp thay. Chúng tôi không nhận những người bị bệnh tâm thần, ông hiểu mà, nhưng chúng tôi vẫn nhận những người mà ông gọi là những trường hợp tạm chấp nhận. Tôi muốn nói, những người hơi lão suy - không thể tự chăm sóc mình cho đàng hoàng được, họ có những tưởng tượng và ảo giác nhất định. Đôi khi họ tưởng tượng họ là nhân vật lịch sử. Trong một chừng mức nào đó khá vô hại. Ỡ đây chúng tôi có hai Marie Antoinettes, một trong hai người luôn nói về một cái gì gọi là Petit Trianon và uống nhiều sữa mà bà ta hình như thích hợp với chỗ này. Chúng tôi có một sinh linh già đáng yêu tự cho mình là bà Curie rằng bà đã khám phá ra chất radium. Đọc báo thường xuyên, đối với bà là một thú vị lớn, đặc biệt với bất cứ tin tức về thả bom nguyên tử, hoặc những khám phá khoa học. Bà luôn giải thích bà và chồng bà đã khởi sự những thí nghiệm trên những lãnh vực này. Những ảo giác vô hại là những thứ làm được việc giữ cho bạn hạnh phúc khi bạn già. Ông cũng biết, không phải lúc nào chúng cũng kéo dài. Mỗi ngày ông không là Marie Antoinette hay bà Curie. Thường thường nó kéo dài khoảng nửa tháng một lần. Tôi đoán chừng họ trở nên mệt mỏi vì phải đóng mãi một vai diễn. Dĩ nhiên chính sự bị lãng quên thường xuyên gây cho ngừơi ta nỗi đau khổ. Họ không thể nhớ mình là ai nữa. Họ vẫn nói rằng họ quên một cái gì đó rất quan trọng và giá như họ có thể nhớ ra được. Đại loại như thế. - Tôi hiểu, Tuppence nói, cô lưỡng lự, rồi tiếp, bà Lancaster - có phải bà ấy luôn luôn nhớ lại những chuyện về cái lò sưởi đặc biệt trong phòng khách không?, hay bất cứ một lò sưởi nào đó? Cô Packard giật mình - một lò sưởi ư? Tôi không hiểu những gì cô nói. - Đó là một điều bà ta nói mà tôi không hiểu. Có lẽ bà có một vài mối liên hệ không vui nào đó với một lò sưởi, hay đọc vài câu chuyện làm cho bà ta sợ hãi. - Có thể. - Tôi vẫn còn khá lo âu về một bức tranh bà ấy tặng cho dì Ada. - Tôi thật ra nghĩ bà không cần phải lo, bà Beresford. Tôi cho là bây giờ bà ấy đã quên hết rồi. Tôi cho rằng bà ấy không đánh giá bức tranh đặc biệt lắm đâu. Bà ấy chỉ vui vì cô Fanshawe hâm mộ nó quá và vui lòng cho cô giữ nó thôi, tôi chắc bà ấy cũng vui lòng tặng lại cho bà bởi vì bà thích nó. Đó là một bức tranh đẹp, chính tôi cũng nghĩ thế. Tôi không hiểu biết mấy về tranh. - Tôi bảo bà những gì tôi sẽ làm nhé. Tôi sẽ viết thư cho bà Johnson nếu cô cho tôi địa chỉ, và chỉ hỏi xem việc giữ lại bức tranh có ổn không thôi. - Tôi chỉ có địa chỉ là khách sạn tại London nơi họ đến - tôi nghĩ là, khách sạn Cleveland, đường George, khu vực 1 hướng tây. Bà ấy đã thuê cho bà Lancaster ở đó chừng bốn năm ngày và sau này tôi nghĩ họ sẽ lưu lại với vài người bà con tại Scotland. Tôi hi vọng khách sạn Cleveland sẽ có một địa chỉ để chuyển thư. - Cám ơn cô - còn bây giờ, về cái khăn lông thú của dì Ada. - Tôi sẽ gọi cô O' Keefe cho bà. Cô ta ra khỏi phòng. - Em và bà Blenkinsop của em. Tommy nói. Tuppence có vẻ toại nguyện. - Một trong những sáng tạo mới nhất, em vui mừng có thể sử dụng cô ta. Em chỉ cố thử nghĩ một cái tên và bây giờ bà Blenkinsop xuất hiện trong trí. Có gì đáng buồn cười? - Cách đây đã lâu. Trong thời chiến không có nhiều gián điệp và hoạt động chống lại gián điệp dành cho chúng ta. - Rủi thay. Không thể tin được - ở trong nhà khách đó - sáng tạo ra một nhân vật mới cho mình - em thật sự bắt đầu tin mình là bà Blenkinsop. - Rất may mắn em đã lẩn tránh một cách an toàn. Một lần anh có nói với em, theo ý anh, em làm việc quá sức rồi. - Em không có. Em hoàn toàn bình thường. Một phụ nữ đẹp, hơi gàn, với ba đứa con là một điều quá sức chịu đựng. - Đó là những gì anh muốn nói. Một đứa con khá đủ. Ba đứa con là một gánh nặng vượt quá sức chịu đựng của em. - Chúng trở nên quá hiện thực đối với em. Douglas, Andrew, và - ơn Chúa, em quên tên của đứa thứ ba rồi. Em biết chính xác chúng trông giống như thế nào những tính cách của chúng và đúng chỗ chúng đóng quân, về những lá thư em nhận được từ chúng em nói những chuyện hớ hênh nhất. - Thôi, chuyện ấy qua rồi. Tommy nói. Không có gì để tìm hiểu nơi này nữa - quên bà Blenkinsop đi. Khi tôi chết và được chôn cất em hãy than khóc tôi một cách hợp lệ rồi tìm nơi cư trú cho mình trong một căn nhà dành cho người có tuổi, tôi hi vọng em sẽ dành phần nửa thời gian nghĩ mình là bà Blenkinsop. - Chỉ có một người đóng vai người thật việc thật thì rất chán. - Tại sao em cho rằng người già muốn trở thành Mary Antoinette, madam Curie và tất cả những thứ còn lại? - Em cho là bởi vì họ buồn chán. Người ta chán ngấy. Em chắc anh sẽ như thế nếu anh không thể dùng đôi chân để đi bộ, có lẽ những ngón tay anh cứng ngắt và anh không thể đan. Tuyệt vọng anh muốn tìm một việc gì đó để làm cho mình vui do đó anh thử khoác lên người một số tính chất công cọng và khi anh làm vậy anh hiểu mình trông như thế nào. - Bảo đảm là em có thể làm thế. Chúa giúp đỡ cho ngôi nhà dành cho người cao tuổi mà em đến. Hầu hết thời gian em sẽ là Cleopatre, anh hi vọng thế. - Em đâu phải là ngừơi nổi tiếng. Em sẽ là một kẻ nào đó như một người tớ gái giúp việc trong nhà bếp tại lâu đài của Cleves thuật lại tường tận vô số chuyện tầm phào tục tĩu mà em nghe được. Cánh cửa bật mở, cô Packard xuất hiện cùng một người phụ nữ trong bộ đồng phục y tá, cao, mặt tàn nhang với mớ tóc đỏ dày. - Đây là cô O'Keefe - ông và bà Beresford. Họ có chuyện nói với cô. Tha lỗi cho tôi. Một bịnh nhân đang cần tôi. Tuppence đúng nguyên tắc bày chiếc khăn lông chồn ra và cô O'Keefe ngây ngất liền. - Ồ! Đẹp quá. Quá tốt cho tôi. Bà đang cần nó mà - - Không, tôi không cần. Nó quá lớn đối với tôi. Tôi nhỏ con. Nó chỉ hợp với ngừơi cao như cô. Dì Ada cao. - Dì ấy là một quý bà cao cả - thời con gái chắc bà ấy đẹp lắm. - Tôi tin vậy. Tommy nói vẻ nghi ngờ. Chắc bà ấy là một người tánh tình thô bạo để chăm sóc hả. - Đúng. Bà ấy là người nóng tính. Nhưng tinh thần bà ấy thì vĩ đại. Không gì quật ngã bà ấy được. Bà cũng không ngốc. Ông sẽ ngạc nhiên về cách bà ấy bắt đầu hiểu mọi việc. Sắc như một cây kim. - Dù thế, bà ấy hay cáu giận. - Vâng, thật vậy. Nhưng đó là loại tiếng rên rỉ làm cho ông suy sụp - tất cả những lời phàn nàn than vãn. Cô Fanshawe không bao giờ buồn chán cả. Những câu chuyện lớn bà ấy kể cho ông nghe về ngày xưa - cưỡi một con ngựa phi lên cầu thang một ngôi nhà miền quê khi còn là con gái - hay bà nói thế - bây giờ nó sẽ là sự thật chăng? - Tôi sẽ xem bà có dám làm điều đó không. Tommy đáp. - Ông không bao giờ hiểu những gì ông có thể tin ở đây đâu. Những câu chuyện mà những người bạn thân yêu đến và kể cho ông nghe. Những tội ác mà họ nhận ra - chúng tôi phải báo cho cảnh sát biết ngay - nếu không, tất cả chúng tôi đều bị nguy hiểm. - Lần trước, khi chúng tôi đến đây có một người nào đó bị đầu độc. Tôi nhớ lại. Tuppence nói. - A, đó là bà Lockett. Nó xảy ra với bà ấy hàng ngày. Nhưng bà không cần cảnh sát, mà một bác sĩ được mời đến. Bà ta phát điên về những ông bác sĩ. - Và một ai đó - một phụ nữ bé nhỏ lớn tiếng đòi co ca. - Đó chắc là bà Moody. Linh hồn bé nhỏ, bà ấy đi rồi. - Cô muốn nói rời khỏi đây, đi xa? - Không, chứng nghẽn mạch máu vồ lấy bà ấy - rất bất ngờ. Bà là một trong những người rất tận tuỵ với cô Fanshawe - mà cô Fanshawe cũng không luôn luôn có thời gian dành cho bà - luôn luôn nói chuyện chơi, khi bà có thời giờ. - Bà Lancaster cũng đi rồi, tôi nghe vậy. - Phải, ngươi của bà đến tìm bà. Sinh linh khốn khổ, bà không muốn đi. - Câu chuyện bà nói với tôi là gì - về cái lò sưởi trong phòng khách? - À! Bà ấy có nhiều chuyện kể lắm, đó là một chuyện - về những chuyện đã xảy ra đối với bà- và những bí mật bà ấy biết - - Có chuyện gì đó về một đưá trẻ - một đứa trẻ bị bắt cóc hay bị giết - - Thật kì lạ, những chuyện người ta nghĩ ra. TV thường không tạo cho họ những ý tưởng - - Cô có thấy sự căng thẳng khi làm việc ở đây vơi những người già không? - Ô không - tôi yêu những người già - đó là lí do vì sao tôi đảm trách môn lão khoa. - Cô đã ở đây lâu rồi chứ? - Một năm rưỡi - cô ta ngừng lại - nhưng tháng tới tôi sẽ đi. - Tại sao? Lần đầu tiên có một sự kềm chế không chối cãi được hình thành qua cử chỉ của nữ y tá O'Keefe. - Bà biết rồi mà, bà Beresford, người ta cần sự thay đổi. - Nhưng cô sẽ làm cùng một việc không? - Vâng - cô ta nhặt chiếc khăn lông chồn lên. Một lần nữa tôi cám ơn bà nhiều - và tôi cũng vui mừng nữa, có một cái gì để nhớ đến cô Fanshawe - cô ấy là một bà già vĩ đại - ngày nay ông sẽ không tìm ra nhiều người như cô ấy đâu. BỨC HỌA CHẾT NGƯỜI (Agatha Christie) Chương 5 Một Bà Già Biến Mất Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Vào thời điểm thích hợp những đồ của dì Ada được gởi đến. Cái bàn giấy đáng yêu đã được lắp đặt.Chiếc bàn gia công truất quyền sở hữu những thứ linh tinh - chúng được bỏ riêng ra trong một góc tối của phòng tiền sảnh. Bức tranh vẽ ngôi nhà màu hồng nhạt bên con kênh Tuppence treo trên giá trên lò sưởi trong phòng ngủ nơi cô có thể ngắm nhìn nó mỗi buổi sáng khi uống tách trà sáng sớm. Từ đó lương tâm cô còn làm phiền cô một chút nữa, Tuppence viết một lá thư giải thích bức tranh đã thuộc quyền sở hữu của họ như thế nào nhưng nếu bà Lancaster muốn đòi lui, cô sẽ để cho họ biết mà thu gom. Lá thư này cô gởi cho bà Lancaster, nhờ bà Johnson chuyển giúp đến khách sạn Cleveland, đường George, khu vực 1 hướng tây chuyển giúp. Không có hồi âm, nhưng một tuần sau lá thư bị trả lại với dòng chữ "không biết địa chỉ người nhận'"ghi trên phong bì. - Thật mệt làm sao, Tuppence nói. - Có lẽ họ chỉ ở lại một hai đêm. Tommy phỏng đoán. - Nhưng em nghĩ họ sẽ để lại một địa chỉ để chuyển thư chứ. - Em có ghi" vui lòng chuyển giúp" không? - Có, em có ghi. Em sẽ gọi điện cho họ để hỏi - chắc họ phải để lại một địa chỉ trong sổ đăng kí khách sạn. - Anh sẽ vứt bỏ nó đi nếu anh là em. Tại sao cứ quan trọng hoá tất cả chuyện này? Anh hi vọng con mèo già đó quên mọi chyện về bức tranh rồi. - Em cũng có ý định thử xem. Tuppence ngồi xuống chỗ điện thoại và ngay lập tức liên hệ với khách sạn Cleveland. Vài phút sau cô quay trở lại phòng làm việc của Tommy. - Thật khá kì cục, Tommy - họ không từng Ở đó. Không có bà Johnson - không có bà Lancaster - không có phòng nào đăng kí cho họ cả. Không có bất cứ dấu vết nào chứng tỏ họ đã ở đó cả. - Anh nghĩ cô Packard đã lấy cái tên khách sạn sai. Vội vàng ghi lại - rồi quên - và có lẽ đã đánh mất địa chỉ - hay nhớ lộn. Những việc như thế vẫn thường xảy ra, em biết mà. - Tại Sunny Ridge em không hề nghĩ ra chuyện này. Cô Packard luôn là một người có năng lực. - Có lẽ họ không đăng kí trước tại khách sạn và khách sạn đầy người, vì thế họ phải đi kiếm nơi khác. Em biết sự tiện nghi ở London là như thế nào rồi - có phải em định tiếp tục làm rùm beng lên không? Tuppence rút lui. Ngay sau đó cô trở lại. - Em biết những gì em sắp làm. Em sẽ gọi điện cho cô Packard và em sẽ lấy địa chỉ của luật sư - Luật sư nào? - Anh không nhớ cô có nói đến một hãng những luật sư họ xếp đặt mọi thứ bởi vì gia đình Johnson đều ở ngoại quốc sao? Tommy, người đang bận rộn với bài diễn văn anh đang phác thảo để đọc trong một hiệp hội anh sắp tham dự, thì thầm - 'chính trị đứng đắn nếu một khả năng như thế phải nảy sinh' - nói: em đánh vần từ Khả năng như thế nào hả, Tuppence? - Em có nghe những gì tôi đang nói không? - Phải, phải, ý kiến rất hay - tuyệt vời - huy hoàng - anh viết bài đó - Tuppence bước ra ngoài - lại đâm đầu vào nói: - K - H- A- M- A- N- G. - Không thể nào - em dùng từ sai. - Anh đang viết cái gì thế? - Bài tham luận anh sắp đọc tại I.U.A.S. và anh muốn em để anh yên. - Xin lỗi. Tuppence rút lui. Tommy tiếp tục viết những hàng chữ rồi gạch bỏ. Khuôn mặt anh sáng bừng lên, như là ngòi bút đã tăng lên một bước. Một lần nữa cánh cửa bật mở. - Nó đây, Tuppence nói. Partingdale, Harris, Lockeridge và Partingdale, dãy phố 32 khu Lincoln, Trung tâm phía Tây. Điện thoại Holborn 051386. Nhân viên điều hành của hãng là ông Eccles. Cô đặt một tờ giấy lên đầu gối Tommy. Bây giờ Chính anh đảm nhận việc này. - Không! Tommy cương quyết đáp. - Phải! Nhưng bà ta là dì Ada Của anh. - Dì Ada thì bắt đầu từ đâu? Bà Lancaster không phải là dì ruột của tôi. - Nhưng đó là những Luật sư. Tuppence nài nỉ. Việc của một người đàn ông là tiếp xúc với những luật sư. Họ chỉ nghĩ rằng bọn đàn bà là điên rồi không chịu lưu tâm đến. - Một quan điểm rất nhạy cảm đấy nhỉ. - Ô, Tommy - hãy Giúp em. Anh đi và điện thoại còn em thì kiếm tự điển và tìm cách đánh vần chữ khả năng. Tommy nhìn vợ một cái, nhưng cũng bước ra. Cuối cùng anh trở lại và nói giọng kiên quyết - công việc này bây giờ khép lại rồi, Tuppence. - Anh gặp ông Eccles? - Nói một cách nghiêm túc tôi đã gặp một ông Will nào đó không nghi ngờ gì ông ta là người được giao công việc buồn chán của hãng Partingford, Lockjaw và Harrison. Nhưng lão ta dẻo miệng và thông báo đầy đủ. Tất cả thư từ và trao đổi thông tin theo đường Ngân hàng Các Quận phía Bắc, chi nhánh Hammersmith, họ sẽ chuyển giúp. Và đây, Tuppence, hãy để tôi nói với em, dấu vết chấm dứt rồi. Ngân hàng sẽ chuyển tất cả các hiện vật - nhưng họ sẽ không để lại bất cứ địa chỉ nào cho em hay bất cứ ai hỏi cả. Họ có những quy định bí mật và họ sẽ kiên trì đến cùng. Môi họ được dán chặt như vị Thủ tướng tự đại của chúng ta. - Được rồi. Em sẽ gởi một lá thư nhờ ngân hàng chuyển vậy. - Hãy làm đi - và ơn Chúa, Để Tôi Một Mình - hay tôi sẽ không bao giờ viết xong bài diễn văn. - Cám ơn, anh yêu. Em không biết sẽ làm gì khi không có anh. Cô hôn vào đầu anh. - Đó là loại bơ ngon nhất đấy. Tommy nói. Không đến tối thứ sáu tiếp theo Tommy bất ngờ hỏi: Nhân tiện nói luôn, em có nhận được hồi âm từ lá thư em nhờ ngân hàng chuyển? - Thật tử tế anh đã hỏi. Tuppence mỉa mai đáp. Không, em không nhận được. Cô nói thêm với giọng đầy suy tưởng. Tôi nghĩ chắc không nhận được. - Tại sao không? - Anh có thật lưu ý đâu. Tuppence lạnh lẽo đáp. - Nhìn đây, Tuppence - Tôi biết tôi khá bận - tất cả tại cái I.U.A.S. này - Ơn Chúa, mỗi năm chỉ có một lần. - Khởi đầu vào ngày thứ năm, phải không? Trong năm ngày. - Bốn ngày. - Và các anh đi xuống một chỗ chỉ có vài người biết, một ngôi nhà cực kì bí mật tại nơi nào đó ở miền quê, làm những bài diễn văn, đọc những bản tham luận và những người đàn ông đại diện cho Lực lượng Giám sát Bí mật tại châu Âu và xa hơn. Em quên I.U.A.S. bênh vực cho cái gì. Ngày nay họ có những cái thuộc về thuở ban đầu - - Liên Bang Hiệp Hội Bảo Vệ Quốc tế. - Thật khó đọc! Hoàn toàn kì dị. Em mong toàn thể chỗ đó bị đặt máy ghi âm, mọi người đều biết rõ những cụôc đối thoại bí mật nhất của kẻ khác. - Có khả năng xảy ra rất cao. Tommy nói với một nụ cười. - Em giả thiết anh lấy làm thú vị? - Trong một chừng mức nào đó thì có. Người ta gặp gỡ nhiều bạn cũ. - Bây giờ tất cả đều khá lẩn thẩn rồi, em nghĩ thế. Có ai làm chuyện gì tốt không? - Chúa ơi, thật là một câu hỏi khéo! Phải chăng người ta có thể tự tin rằng em có thể trả lời câu hỏi đó bằng một tiếng Có và Không giản dị - - Vậy thì có bất kì ai trong số họ tốt chứ? - Anh sẽ đáp Có. Một số người thật sự rất tốt. - Ông già Jose có đến đó không? - Vâng, ông ấy sẽ đến. - Trông ông ta dạo này thế nào anh? - Điếc đặc, gần như mù, bại liệt vì chứng thấp khớp - và em sẽ ngạc nhiên vì những cái ấy Không đánh gục được ông ta. - Em hiểu rồi. Cô suy nghĩ. Em ước chi mình được đến đó. Tommy có vẻ xin lỗi. - Anh nghĩ em nên kiếm việc chi làm trong khi anh đi xa. - Em có thể. Tuppence đáp với vẻ trầm tư. Chồng cô nhìn cô với sự hiểu biết mơ hồ mà Tuppence luôn đánh thức trong ông. - Tuppence - em định làm gì? - Không có gì cả, tuy nhiên - em chỉ đang nghĩ đến mức ấy. - Về cái gì? - Sunny Ridge. Và một bà già ngồi nhấp từng ngụm sữa và nói chuyện có vẻ lang bang về những đứa trẻ chết và những cái lò sưởi. Nó hấp dẫn em. Em nghĩ chuyến tới chúng ta đến thăm dì Ada em sẽ cố gắng tìm hiểu hơn về bà - nhưng không có lần tới bởi vì dì Ada đã chết - và lần tới khi chúng ta ở Sunny Ridge - bà Lancaster đã - đã biến mất! - Em muốn nói người của bà đã mang bà đi xa? Đó không phải là sự biến mất - điều này khá tự nhiên. - Đó là một sự biến mất - không dấu vết địa chỉ - không phúc thư - đó là một mât tích có dự mưu. Càng ngày em càng tin chắc về điều đó. - Nhưng - - Nghe đây, Tommy - giả sử một lúc này hay lúc khác một tội ác đã xảy ra - dường như tất cả được bao bọc an toàn - nhưng rồi giả sử một ai đó trong gia đình đã thấy một cái gì đó, hay biết một chuyện gì đó - một người nào đó có tuổi và ba hoa - một người nào đó hay nói chuyện phiếm với kẻ khác - một kẻ nào đó bất ngờ bạn nhận ra có thể gây nguy hiểm cho bạn - anh sẽ làm gì về chuyện này? - Arsenic trong súp? Tommy gợi ý một cách vui vẻ. Đánh họ vào đầu - đẩy họ xuống cầu thang. - Cái ầy khá cực đoan. Những cái chết bất ngờ lôi cuốn sự chú ý. Nên tính toán một số cách làm đơn giản hơn. Một viện dưỡng lão đẹp đáng kính trọng dành cho những quý bà có tuổi. Anh thăm viếng, tự xưng mình là bà Johnson hay bà Robinson - hay anh tìm một kẻ nào đó ở phía thứ ba không ai nghi ngờ để tạo ra những xếp đặt - thông qua một hãng cố vấn pháp luật đáng tin cậy anh quyết định những sắp xếp thuộc phạm vi tài chính. Có lẽ anh đã được ám chỉ rồi, người bà con có những liên tưởng và đôi khi những aỏ giác nhẹ nhàng - khá nhiều bà già khác cũng như vậy - Không ai nghĩ là chuỵên khác thường - nếu bà ta tán gẫu về chuyện sữa bị nhiễm độc, những đứa trẻ chết sau lò sưởi hay một vụ bắt cóc độc ác; không ai thật sự lắng nghe. Họ chỉ nghĩ đó là bà A hay bà B có những liên tướng đấy thôi - không người nào Chú ý hết. - Ngoại trừ bà Thomas Beresford. - Được rồi, Phải, em Đã chú ý. - Nhưng tại sao? - Em không hoàn toàn biết rõ. Tuppence chậm rãi đáp. Nó giống như những câu chuyện thần tiên. Bằng Cách Cắn Vào Những Ngón tay Tôi - Điều Độc ác Theo Đường Này Đến. Thình lình em cảm thấy sợ hãi. Em luôn nghĩ đến Sunny Riđge như một nơi chốn an bình hạnh phúc - rồi đột nhiên em cảm thấy ngạc nhiên... Đó chỉ là cách duy nhất em có thế nói. Em muốn tìm hiểu rõ hơn. Bây giờ bà già khốn khổ Lancaster đã biến mất. Một ai đó đã lẹ làng bí mật đem bà ta đi. - Nhưng tại sao họ làm thế chứ? - Em chỉ có thể nghĩ vậy bởi vì ngày bà ta càng tệ hơn - xấu hơn xét trên quan điểm của họ - nhớ lại nhiều hơn, có lẽ thế, nói chuyện với người khác nhiều hơn, hay có lẽ đã nhận ra một ai đó - hay một kẻ nào đó nhận ra bà ấy - hay đã kể cho bà nghe một điều gì đấy làm cho bà nảy ra một ý kiến mới về một chuyện đã xảy ra. Dù sao, vì lí do này hay lí do kia bà ta đã trở nên nguy hiểm đối với kẻ khác. - Nhìn đây, Tuppence, toàn thể sự việc này là tất cả những sự việc và những người nào đó. Đó chỉ là một ý tưởng do em nghĩ ra mà thôi. Không cần thiết em phải theo đuổi những chuyện không phải là việc của em rôi làm mình bị khủng hoảng tinh thần nhé. - Không có chi là khủng hoảng tinh thần theo lời anh cả, Tuppence đáp. Vậy anh không cần lo chi hết. - Em hãy để Sunny Ridge yên. - Em đâu nói mình sẽ trở lại Sunny Ridge. Em nghĩ họ đã kể cho em nghe tất cả những gì họ biết ở đó rồi. Em cho rằng nếu ở lại bà ấy hoàn toàn được an toàn. Em muốn khám phá nơi bà ấy ở Bây giờ. Em muốn đến bất cứ nơi nào bà ta ở Đúng thời trước khi một chuyện gì đó xảy đến cho bà. - Làm sao mà em lại nghĩ có chuyện gì xảy đến cho bà chứ? - Em không thích suy nghĩ. Nhưng em đang theo dấu đây. Em sẽ lại là Pruden Beresford, Thám tử tư. Anh có nhớ khi mình là đôi Thám tử Blunt rực sáng không? - Có, Tommy đáp. Em là cô Robinson, thư kí riêng của anh. - Không phải lúc nào cũng thế, dù sao, đó là những gì em sắp sửa làm trong khi anh đang diễn kịch tại Hoạt Động Gián Điệp Quốc Tế ở một chỗ ít người biết Manor. Đó là vì" Bảo vệ bà Lancaster" mà em sắp bận rộn đấy thôi. - Có thể em sẽ tìm ra bà ta được ổn định hoàn toàn chứ sao. - Em hi vọng thế. Không ai sẽ vui hơn em đâu. - Em định bắt đầu như thế nào? - Như em đã nói với anh, em mới bắt đầu nghĩ ra. Có lẽ một thông báo nào đó? Không, đó sẽ là một sai lầm. - Vậy, hãy cẩn thận. Tommy nói, hơi bất lực. Tuppence thậm chí không đáp lại. Sáng thứ hai, Albert, người giúp việc chính của gia đình Beresford trong nhiều năm, từ khi anh ta còn là một gã giữ thang máy tóc màu cà rốt được họ thuyết phục tham gia vào những hoạt động chống bọn tội phạm tăng thêm niềm vui cho họ, đặt khay trà buổi sáng trên chiếc bàn giữa hai giường, kéo các màn cửa, loan báo đó là một ngày đẹp trời, rồi dời cái vẻ ngoài bệ vệ của anh ra khỏi phòng. Tuppence ngáp, ngồi dậy, dụi mắt, rót một tách trà, cho một lát chanh mỏng vào, lưu ý rằng đó một ngày đẹp trời, mà bạn không bao giờ biết.. Tommy trở mình rên rỉ. - Dậy, Tuppence nói. Hãy nhớ hôm nay anh sắp đi nhiều chỗ. - Chúa ơi. Tommy nói. Tôi nhớ rồi. Anh ngồi dậy và cũng tự mình rót một tách trà. Anh nhìn bức tranh trên giá với vẻ thưởng thức. - Tôi dám nói, Tuppence, bức tranh của em rất đẹp. - Đó là hướng mặt trời đi vào phía bên cửa sổ và thắp sáng ngôi nhà. - Thanh bình thật. - Nếu em có thể nhớ lại trước kia em đã nhìn thấy nó ở đâu. - Anh không hiểu điều ấy lại quan trọng như vậy. Em sẽ nhớ lại lúc này hay lúc khác thôi. - Cái ấy không tốt. Em muốn nhớ lại bây giờ. - Nhưng tại sao? - Anh không hiểu à? Đó là đầu mối duy nhất mà em có. Đó là bức tranh của bà Lancaster - - Nhưng dù sao hai việc cũng không liên can tới nhau. Tommy nói. Anh muốn nói, sự thật có một lần bức tranh đã thuộc về bà Lancaster. Nhưng có thể đó chỉ là bức tranh bà ấy mua tại một cuộc triển lãm hay một ai đó trong gia đình bà ấy mua. Có thể là một bức tranh ai đó tặng bà như một món quà. Bà mang theo mình đến Sunny Ridge bởi vì bà nghĩ nó đẹp. Không có lí do gì bức tranh lại liên quan đến tư cách cá nhân bà ấy. - Đó là đầu mối duy nhất em có. - Đó là một ngôi nhà đẹp thanh bình. - Cũng vậy thôi, em nghĩ đó là một ngôi nhà trống. - Em nói sao, một ngôi nhà trống? - Em không nghĩ có ai sống ở đó. Em không nghĩ có ai sẽ ló ra khỏi căn nhà đó. Không ai sẽ tình cờ đi bộ ngang cầu, không ai nới giây buộc thuyền và chèo đi xa. - Lạy chúa tôi, Tommy nhìn cô chằm chằm. Có chuyện gì với em thế? - Lần đầu tiên nhìn thấy nó em đã nghĩ vậy. Em nghĩ" thật là một ngôi nhà đẹp để ở." Và rồi em nghĩ" Nhưng không ai sống đây cả, em chắc họ không ở." Điều này cho anh thấy rằng em đã nhìn thấy nó trứơc đây. Đợi một phút. Đợi một phút... nó đang đến. Nó sẽ đến. Tommy nhìn cô chằm chằm. - Ngoài một Cửa sổ, Tuppence nói hụt hơi. Ngoài cửa một chiếc xe hơi? Không, không, đó sẽ là góc sai lầm. Chạy dọc theo con kênh... và một chiếc cầu nhỏ với một vòm cung và những bức tường màu hồng của ngôi nhà, hai cây dương, hơn hai cây. Có Nhiều cây dương liễu. Ồ anh thân yêu, nếu em có thể - - Ồ, thôi thoát ra đi, Tuppence. - Nó sẽ trở lại với em ngay. - Chúa lòng lành, Tommy nhìn đồng hồ tay. Anh phải vội. Em và bức tranh Đã Thấy rồi của em. Anh nhảy ra khỏi giường chạy vội đến phòng tắm. Tuppence dựa lưng vào gối khép mắt lại, cố gắng cưỡng bách sự hồi nhớ chỉ tồn tại một cách khó nắm bắt ngoài tầm với. Tommy rót tách trà thứ hai trong phòng ăn thì Tuppence hiện ra đỏ mặt với chiến thắng. - Em nhớ lại rồi. Em biết nơi em nhìn thấy ngôi nhà. Nó ở ngoài cửa sổ một đoàn tàu. - Khi nào? Ở đâu? - Em không biết. Em phải nghĩ đã. Em nhớ đã tự nhủ:" một ngày nào đó ta sẽ trở lại căn nhà đó" - và em cố gắng nhìn xem tên từng nhà ga tiếp đó là gì. Nhưng anh biết ngày nay đường rầy xe lửa như thế nào rồi. Họ phá đổ phân nửa nhà ga - còn nhà ga kế tiếp mà chúng ta đi qua thì bị giật đổ hoàn toàn, cỏ mọc lấn sân ga, không còn bảng hiệu hay cái gì khác. - Cái cặp đựng tài liệu của tôi đâu rồi, Albert! Một cuộc tìm kiếm cuồng nhiệt xảy ra. Gần đứt hơi Tommy trở lại để nói lời tạm biệt. Tuppence đang ngồi suy niệm trước một dĩa trứng chiên. - Chào em, Tommy nói. Và vì Chúa, Tuppence, đừng có mà chõ mũi vào những việc không phải việc của em. - Em nghĩ, Tuppence nói, trầm tư mặc tưởng. Những gì em thật sự làm, là một cuộc hành trình vài ngày bằng xe lửa. Tommy có vẻ nhẹ nhõm. - Phải đấy. Anh nói giọng khích lệ, em thử đi xem sao. Mua một cái vé định kì. Có một số sơ đồ nơi em có thể du lịch qua một ngàn dặm trên khắp các quần đảo Anh quốc với một số tiền phải chăng. Cuộc đi này rất thuận tiện cho em., Tuppence. Du hành bằng xe lửa em có thể nghĩ ra tất cả những phần có khả năng xảy ra. Chuyện đó ắt phải khiến em hạnh phúc cho đến khi anh trở về nhà. - Chuyển tình yêu của em đến Josh nhé. - Anh sẽ chuyển. Anh nói thêm, nhìn vợ trong một cử chỉ lo âu, anh ước em đi với anh. Đừng làm việc gì ngu ngốc nghe? - Dĩ nhiên không. Tuppence đáp. BỨC HỌA CHẾT NGƯỜI (Agatha Christie) Chương 6 Tuppence Theo Dấu Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Anh yêu, Tuppence thở dài, anh yêu ". Cô nhìn quanh với đôi mắt buồn rầu. Cô tự nói với mình, chưa bao giờ cô cảm thấy khốn khổ như thế. Tất nhiên cô biết cô sẽ nhớ Tommy, nhưng cô không có ý kiến mình sẽ nhớ Tommy bao nhiêu. Trong suốt cuộc hôn nhân lâu dài của họ khó mà có cuộc chia tay nào lâu. Khởi sự trước ngày cưới, họ tự gọi họ là một "đôi phiêu lưu trẻ." Họ đã cùng nhau trải qua những khó khăn nguy hiểm, họ đã lấy nhau, đã có hai con đúng vào lúc thế giới dường như buồn tẻ hơn và tuổi trung niên đến với họ, thế chiến thứ hai xảy ra và trong mức độ gần như phép lạ một lần nữa họ lại thoát hiểm trong những vùng phụ cận của Cơ quan Tình báo Anh Quốc. Một đôi hơi khác đời, họ được một người tự xưng là ông 'Carter', một người đàn ông trầm tĩnh, không có đặc tính rõ rệt, tuyển mộ, nhưng đối với lời nói của người này mọi người đều khuất phục. Họ có những cuộc phiêu lưu, và một lần nữa lại có nhau. Nhân tiện nói luôn, việc này không được ông Carter dự tính. Tommy một mình đã được tuyển mộ. Nhưng Tuppence, phô diễn tất cả tính ngây thơ tự nhiên, trong một phong cách như vậy đã tìm cách nghe trộm khi Tommy đến một nhà khách trên bờ biển trong vai một ông Meadows nào đó, người đầu tiên anh thấy ở đó là một quý cô trung niên đang ngồi đan áo, cô ta ngước nhìn anh với đôi mắt ngây thơ và anh bắt buộc chào cô ta như là bà Blenkinsop. Vì vậy họ đã cùng nhau hoạt động như một đôi. "Tuy nhiên, Tuppence nghĩ, lần này mình không thể làm như thế được. Không có tổng số những chuyện nghe trộm, tính ngây thơ, hay bất cứ cái gì khác sẽ đem cô đến những ngõ ngách của một chỗ ít người biết Manor hay chia cắt những chi tiết rối rắm của L.B.H.H.B.V.Q.T. Chỉ là một hội những ông già, cô suy nghĩ một cách bực bội. Thiếu Tommy căn hộ trở nên trống vắng, thế giới đơn độc, và 'làm thế nào mà,' Tuppence nghĩ,' ta lại tự mình thu xếp được?' Đối với Tuppence đã khởi sự những bước đầu tiên trên những gì cô dự định thu xếp được thì vấn đề thật sự thuần tuý vô nghĩa. Lần này không có vấn đề của hoạt động trí tuệ, hoạt động phản gián hay cái gì đó đại loại. Không có gì thuộc bản chất chuyên nghiệp cả. " Prudence Beresford, hãng Thám tử tư, đó là những gì ta là." Tuppence tự nhủ mình. Sau một bữa ăn trưa tồi đã được vội vã dọn sạch, chiếc bàn nhỏ trong phòng ăn được rải lên những bảng giờ tàu đi đến, những sách hướng dẫn, những bản đồ, một vài cuốn nhật kí cũ mà Tuppence tìm cách khai quật lên được. Trong khoảng thời gian ba năm sau này, một lúc nào đó( cô chắc không lâu lắm) cô đã dự một cuộc hành trình bằng xe lửa, nhìn qua cửa sổ toa tàu, đã để ý một ngôi nhà. Nhưng, cuộc hành trình bằng tuyến đường sắt nào? Như đa số cư dân thời hiện đại, gia đình Beresford chủ yếu du lịch bằng xe hơi. Những chuyến du lịch bằng đường sắt họ ít khi dùng. Scotland, tất nhiên, khi họ đến ở lại với Deborah đứa con gái đã có chồng - Nhưng đó là một cuộc hành trình ban đêm. Penzane - những ngày nghỉ hè - Tuppence biết khu vực đó bằng cả trái tim. Không, đây là một cuộc hành trình ngẫu nhiên nhiều hơn. Với tánh siêng năng và kiên trì, Tuppence đã làm một bảng danh sách tỉ mỉ tất cả những cuộc hành trình có thể cô đã đi có lẽ thích hợp với những gì cô tìm kiếm. Một hay hai lần tham gia những cuộc đua lớn, một cuộc viếng thăm Northumberland, hai chỗ có thể tại xứ Wales, một bữa đặt tên thánh, hai đám cưới, họ có tham gia một cuộc bán giảm giá, có lần cô phát cho người bạn một số chó con, anh cho chúng ăn và bị mắc phải bịnh cúm. Nơi gặp gỡ là một xứ ít mưa chỗ các đường bộ giao nhau mà cô không nhớ tên. Tuppence thở dài. Có vẻ như kết luận của Tommy là một kết luận mà cô phải nhận. Mua một cái vé đi một vòng và thực tế đi du lịch trên hầu hết những nhánh thuộc khu vực đường rầy xe lửa. Trong một cuốn sổ tay nhỏ cô đã viết nhanh những đoạn ngắn bất cứ kí ức nào chộp được - những tia lửa mơ hồ - trong trường hợp chúng có thể trợ giúp. Ví dụ, một cái mũ - phải, một chiếc mũ cô đã ném trên một cái giá để đồ. Cô đang đội một chiếc mũ - một đám cưới hay lễ đặt tên thánh - chắc chắn không phải là những con chó con. Và - tia lửa khác - đá văng đôi giày của cô - bởi vì chân cô bị đau. Phải - điều đó được xác định - cô đã thật sự nhìn thấy Ngôi nhà - và vì bị đau chân cô đã đá văng đôi giày. Vậy, nó đã xác định đó là một nhiệm vụ xã hội mà cô hoặc là đi đến, hay trở về từ - trở về từ, dĩ nhiên rồi - bởi vì đôi chân đau nhức do việc đứng lâu trong đôi giày đẹp nhất của cô. Và loại mũ nào? Bởi vì điều đó sẽ trợ giúp - một cái mũ hoa - một đám cưới mùa hè - hay một chiếc mũ nhung mùa đông? Tuppence đang bận ghi nhanh những chi tiết tứ Bảng chỉ Giờ đi đến của tuyến Đường sắt ở những khu vực khác nhau thì Albert bước vào hỏi cô cần gì trong bữa ăn tối - những món cô cần đặt từ cửa hàng thịt và cửa hàng thực phẩm. - Tôi nghĩ tôi sẽ đi xa trong vài ngày nữa. Tuppence nói. Chú không cần đặt món chi cả. Tôi sẽ đi bằng xe lửa. - Cô có cần một ít bánh nhân thịt? - Có thể. Kiếm ít thịt băm hay món chi đó. - Có thể thêm trứng và bơ. Hay là có một hộp patê trong tủ đựng thức ăn - cái hộp đã nằm đó một thời gian lâu, quá thời hạn. Đó là một tiến cử khá mỉa mai nhưng Tuppence cũng đáp. 'được rồi, thế là đủ.' - Có cần thư nhờ chuyển? - Tôi thậm chí không biết mình đi đâu nữa. - Tôi hiểu. Albert đáp. Việc dễ chịu về Albert là anh ta luôn chấp nhận mọi sự. Không có gì phải giải thích với anh cả. Anh đi ra và Tuppence giải quyết chương trình của mình - những gì cô cần là: một cuộc đính hôn có dính líu đến đôi giày dự tiệc và chiếc mũ. Không may mục thứ nhất cô lên danh sách vướng vào những khu vực đường sắt khác nhau. Một đám cưới ở tuyến đường sắt phía Nam, mục kia ở nam Bedford. Nếu cô có thể nhớ lại một chút về khung cảnh... Cô đang ngồi phía tay phải của xe lửa. Cô đã nhìn thấy cái gì Trước con kênh? - Rừng? Cây? Cánh đồng? Một ngôi làng xa? Căng óc ra, cô cau mày nhìn lên - Albert đã trở lại. Vào giây phút đó cô còn xa mới hiểu Albert đang đứng đợi để lưu ý không nhiều hơn hoặc không ít hơn một câu trả lời lời cầu xin. - Lại cái gì nữa, Albert? - Nếu ngày mai cô sẽ đi xa cả ngày - - Và cả hôm sau cũng thế. - Vậy tôi nghỉ làm có ổn không? - Phải, tất nhiên. - Ây là Elizabeth - nó đã ló ra những chấm rõ ràng. Milly nghĩ nó bị sởi - Milly là vợ của Albert và Elizabeth là đứa con nhỏ tuổi nhất của họ. - Anh bạn, Milly cần anh ở nhà, dĩ nhiên rồi. Albert sống trong một ngôi nhà nhỏ xinh xắn cách đó một hai con đường. - Chấm đỏ chưa nhiều- cô muốn tôi đi khuất mắt khi cô bận túi bụi - cô ấy không thích tôi xáo tung mọi thứ lên - nhưng đó là những đứa con trai khác kia - tôi có thể mang chúng đi khuất mắt cô ấy tới nơi nào đó. - Dĩ nhiên rồi. Tất cả gia đình đều phải cách li kiểm dịch. - Vâng, đó là cách tốt nhất, và khỏi bệnh. Charlie bị lên sởi, Jean cũng thế. Dù sao, điều đó có ổn không? Tuppence bảo đảm với anh ta tất cả sẽ ổn. Một cái gì đó đang lay động dưới đáy sâu tiềm thức - một dự đoán hạnh phúc - một sự thừa nhận - chứng bịnh sởi - phải, tất nhiên rồi. Một cái gì đó có liên quan đến bịnh sởi. Nhưng tại sao ngôi nhà bên con kênh lại liên can đến bịnh sởi...? Dĩ nhiên! Anthea. Anthea là đứa con gái đỡ đầu của Tuppence - và Jane con gái của Anthea đang ở trường - học kì đầu - và đó là ngày Lễ phát thưởng và Anthea đã gọi điện - hai đứa nhỏ hơn đã ló ra những chấm đỏ của chứng sới và cô không có ai trong nhà để giúp còn Jane thì sẽ thất vọng nếu không có ai đến - Tuppence có thể đến không? Tuppence đáp tất nhiên cô sẽ đến - cô đang không có việc gì đặc biệt để làm - cô sẽ xuống trường đem Jane ra ngoài ăn trưa rồi trở về các hoạt động thể thao và tất cả những gì còn lại. Có một chuyến tàu đặc biệt dành cho trường học. Mọi việc trở về trong trí nhớ cô với trạng thái rõ ràng đáng kinh ngạc Một tờ báo mùa hè có in hinh những bông lúa! Cô đã nhìn thấy căn nhà trên cuộc hành trình trở về. Trên đường xuống đó cô bị hút vào một tờ tạp chí cô mang theo, nhưng lúc trở về không có gì để đọc, cô nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi, bị kiệt sức vì những hoạt động ban ngày và áp lực của đôi giày cô ngủ thiếp đi. Khi thức dậy đoàn tàu đang chạy bên một con kênh. Đó là một xứ sở từng phần là rừng, thỉnh thoảng một nhịp cầu, đôi khi một đường mòn uốn khúc hay một con đường lớn - xa xa một cánh đồng - không có làng mạc. Đoàn tàu bắt đầu chạy chậm lại, không có lí do gì sẽ chạy chậm, trừ một dấu hiệu ngược lại. Nó giật lùi rồi dừng lại bên một chiếc cầu, một chiếc cầu có một mái vòm cung bắt qua con kênh, một con kênh không dùng đến nữa, có thể đoán chừng như vậy. Phía bên bờ kênh, gần giòng nước, là một ngôi nhà. Một ngôi nhà mà Tuppence nghĩ ngay là một trong những ngôi nhà đẹp cô chưa từng thấy. Một ngôi nhà yên tĩnh, thanh bình, sáng bừng lên bởi ánh sáng vàng rực của mặt trời buổi chiều muộn. Không có người nào được nhìn thấy. Không có chó hay động vật nuôi. Tuy thế những cánh cửa lá sách màu lục chưa đóng chặt. Căn nhà hẳn có người ở, nhưng bấy giờ, vào lúc đó, ngôi nhà trống vắng. 'Ta phải tìm hiểu ngôi nhà đó. Tuppence nghĩ. Một ngày nào đó ta phải trở lại và nhìn ngắm nó. Đó là loại nhà ta thích ở.' Với cái giật nảy đoàn tàu lắc lư tiến về phía trước. - Mình sẽ tìm xem tên của nhà ga tiếp đó - để mình biết ngôi nhà hiện ở đâu. Nhưng không có nhà ga nào phù hợp. Đó là thời điểm khi mọi việc bắt đầu xảy đến với xe lửa. Những nhà ga nhỏ bị đóng cửa, thậm chí bị kéo đổ, cỏ lấn làm cho những sân ga mục nát. Trong hai mươi phút - nửa giờ - đoàn tàu vẫn chạy, nhưng không có gì được nhìn thấy có thể xác minh được. Phía trên những cánh đồng, có một lần Tuppence thấy chóp nhọn của nhà thờ. Đoạn tiếp đến một số nhà máy phức tạp. Những ống khói cao - một khu vực gồm những ngôi nhà tiền chế, rồi đồng quê rộng thoáng một lần nữa. Tuppence nghĩ thầm - ngôi nhà trông hơi giống như trong một giấc mơ! Có lẽ đó là một giấc mơ - ta không nghĩ ta từng đi và tìm kiếm nó - Quá khó khăn. Vả lại, đáng tiếc thay, có lẽ - Một ngày nào đó, có thể, ta tình cờ đến đó do một tai nạn! Vì thế, cô quên tất cả về ngôi nhà, cho đến khi bức tranh treo trên tường đánh thức dậy một kí ức ngủ quên. Và bây giờ, cám ơn một lời thốt ra vô tình từ miệng Albert, cuộc tìm kiếm đã chấm dứt. Hay nói đúng hơn, cuộc tìm kiếm sẽ bắt đầu. Tuppence lựa ra ba bản đồ, một cuốn sách hướng dẫn, và nhiều món phụ tùng khác. Bây giờ cô biết khu vực mình phải tìm kiếm còn sơ sài. Trường Jane cô đánh dấu thập lớn - Một nhánh của khu vực đường sắt chạy thẳng vào đường lớn đi London - Thời gian hết hiệu lực khi cô ngủ. Khu vực cuối cùng như dự tính gồm một quãng đường đáng chú ý - hướng bắc Mechester, đông bắc chợ Basing là một thành phố nhỏ, nhưng hoàn toàn là một nơi quan trọng chỗ các đường sắt giao nhau, có thể là hướng tây Shaleborough. Cô sẽ dùng xe, và khởi hành vào sáng sớm hôm sau. Cô đứng lên đi vào phòng ngủ quan sát bức tranh treo trên giá. Phải, không còn nhầm lần gì nữa. Đó là căn nhà cô đã nhìn thấy từ chuyến tàu ba năm trước. Căn nhà cô đã hứa sẽ tìm lại một ngày nào đó. Ngày nào đó đã đến. Ngày nào đó là ngày mai. BỨC HỌA CHẾT NGƯỜI (Agatha Christie) Book Ii Ngôi Nhà Bên Con Kênh Chương 7 Mụ Phù Thủy Thân Thiện Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Trước khi rời khỏi nhà sáng hôm sau, Tuppence cẩn thận nhìn một lần cuối cùng bức tranh treo trong phòng cô, không gắn quá nhiều chi tiết bảo đảm của bức tranh vào trong trí, mà chỉ ghi nhớ vị trí trong phong cảnh của nó. Lần này cô sẽ nhìn nó không phải từ cửa sổ một đoàn tàu mà từ con đường cái. Góc cận cảnh sẽ hoàn toàn khác. Ở đó có thể có nhiều cầu một vòm mái cong, nhiều kênh giống nhau không còn dùng nữa. Có lẽ những căn nhà trông giống ngôi nhà này ( nhưng Tuppence từ chối tin vào điều đó). Bức tranh được kí tên, nhưng chữ kí của nghệ sĩ thì không đọc được. Có thể nói tất cả bắt đầu với chữ B. Rời bức tranh quay đi, Tuppence kiểm tra lại đồ dùng cá nhân của mình: một bản đồ A. B. C. và hệ thống đường xe lửa liên hệ. Một trong những bản đồ quân vụ được tuyển chọn; những cái tên thăm dò từng khu vực - Medchester, Westleigh - chợ Basing- Middlesham - Inchwell. Chúng bao quanh khu tam giác ở giữa mà cô quyết định do thám. Với cô cô đem theo một cái túi ngủ nhỏ qua đêm từ khi cô sẽ có ba giờ lái xe trước khi đến khu vực điều tra, và sau đó, nghĩa là, cô kết luận, nhiều cuộc lái xe chậm dọc theo những con đường lộ và đường mòn trong xứ để tìm kiếm những con kênh có thể đúng. Sau khi dừng xe lại Medchester uống cà phê và một bữa ăn nhẹ, cô tiếp tục lái về phía trước bên một con đường lộ loại hai nằm sát cạnh một đường rầy xe lửa, băng qua miền thôn dã trồng rừng với nhiều con suối. Như hầu hết các miền quê ở nước Anh, đầy rẫy những bảng chỉ đường, mang những cái tên Tuppence chưa hề nghe, bề ngoài có vẻ khó mà dẫn đến cái nơi đang được đề cập đến. Thật vậy về phần này hình như có sự tinh xảo nào đó trong hệ thống đường bộ của nước Anh. Đường lộ quanh co tách rời khỏi con kênh, và khi bạn đầy hi vọng đi nhanh về phía nơi bạn nghĩ chắc là con kênh, bạn chỉ vẽ một khoảng trắng. Nếu bạn đi theo hướng khu vực trung tâm và vùng phụ cận Michedlen, bảng chỉ đường kế tiếp nơi bạn đến bắt bạn chọn lựa giữa hai con đường, một đến Pennington Sparrow, ngả kia đến Farlingford. Bạn chọn Farlingford trên thực tế tìm cách bắt đầu đến một chỗ như thế nhưng hầu như ngay lập tức bảng chỉ đường kế tiếp lại gởi bạn trở về Medchester, vì thế gần như bạn thụt lùi bước chân bạn. Trong thực tế Tuppence không bao giờ tìm ra khu vực phụ cận và trung tâm Michelden, trong một lúc lâu cô hoàn toàn không có khả năng tìm ra con kênh thất lạc. Nếu cô có bất cứ ý tưởng nào về ngôi làng mà cô đang tìm, những sự việc có thể dễ dàng hơn. Theo dấu những con kênh trên bản đồ chỉ là chơi trò xếp hình. Thỉnh thoảng cô đến chỗ đường rầy xe lửa điều ấy khiến cô vui lên rồi tiếp tục lòng đầy hi vọng lái nhanh về phía Đồi ong, Nam Winterton và Farrell St. Edmund. Farrell St. Edmund đã một lần có nhà ga, nhưng cách đây một thời gian nó đã bị bãi bỏ! Tuppence nghĩ, nếu chỉ có một con đường lộ vận hành sát con kênh, hay sát ven đường sắt, sẽ khiến việc tìm kiếm trở nên dễ dàng. Ngày tiếp tục trôi qua lặng lẽ và Tuppence càng lùc càng rối trí. Thỉnh thoảng cô lái đến một nông trại kề sát bên một con kênh nhưng con đường dẫn đến nông trại cứ nhất mực không liên can gì đến con kênh mà chạy thẳng lên một ngọn đồi đến một chỗ tên là Westpenfold có một nhà thờ với một tháp vuông chẳng ích lợi gì cả. Từ đó trong lúc phiền muộn đuổi theo một con lộ có dấu lún bánh xe dường như là con đường duy nhất ra khỏi Westpenfold trong ý thức về phương hướng của Tuppence( bây giờ cái ý thức đó càng lúc càng không thể tin cậy được nữa) dường như dẫn về hướng ngược lại cái hướng cô muốn đi, bất ngờ cô đến một chỗ nơi hai con đường chia nhánh phải và trái. Phía giữa còn một tấm bảng chỉ đường, hai cánh tay của cái bảng gãy rời. - Đường nào? Tuppence hỏi. Ai biết? Ta không biết. Cô rẽ vào con đường bên trái. Con đường quanh co, uốn khúc sang trái rồi sang phải. Cuối cùng nó vòng ngắn quanh một khúc quẹo, con đường mở rộng ra leo lên một ngọn đồi, ló ra khỏi những cánh rừng rồi xuôi lần xuống vùng thôn dã thoáng mát. Đã vượt lên được đỉnh dốc rồi nó lại đi xuống con dốc. Từ nơi không xa lắm một âm thanh não lòng vang lên - - Âm vang như một Chuyến tàu, Tuppence nói với một hi vọng bất ngờ. Đó là một đoàn tàu - rồi bên dưới cô là đường rầy xe lửa và một đoàn tàu chở hàng đang vừa chạy vừa phát ra những tiếng còi hụ não lòng vừa nhả ra những làn khói. Phía xa là con kênh và bên kia con kênh là ngôi nhà mà Tuppence nhận ra, băng qua con kênh là cây cầu một mái vòm cung, màu gạch hồng. Đường lộ chìm bên dưới đường sắt, nhô lên, đi về hướng chiếc cầu. Tuppence lái rất chậm bên chiếc cầu hẹp. Xa kia con đường tiếp tục chạy dài với ngôi nhà bên cánh phải. Tuppence vừa lái vừa tìm đường vào. Hình như không có lối vào. Một bức tường cao vô tư che khuất nó khỏi con đường. Bây giờ căn nhà bên tay phải cô. Cô dừng xe lại đi bộ trở lại cầu và từ đó cô quan sát được những gì cô có thể nhìn thấy ở ngôi nhà. Hầu hết những cửa sổ cao đều có những cánh cửa màu xanh lục đóng kín. Ngôi nhà có một vẻ rất yên tĩnh và trống trải. Dưới ánh sáng mặt trời lặn trông thái bình và dễ chịu. Không có chi gợi ý có người ở đó. Cô trở lại xe lái xa hơn một chút. Bức tường, một bức tường cao tầm thước, chạy dọc bên phải cô. Phía tay trái con đường chỉ là một hàng rào chạy thẳng ra những cánh đồng. Ngay sau đó cô lái đến một cánh cửa sắt rèn. Cô đậu xe bên lề đường, bước ra nhìn qua cánh cửa sắt. Đứng nhón gót chân cô có thể xem xét kĩ lưỡng. Cái mà cô nhìn vào là một khu vườn. Bây giờ chỗ đó chắc chắn không phải là một nông trại, mặc dù một lần nó đã là một nông trại. Tin chắc khu vườn hướng thẳng ra cánh đồng đằng xa. Khu vườn được trồng trọt và chăm sóc. Nó không được ngăn nắp lắm nhưng có vẻ như một người nào đó đang cố gắng giữ cho khu vườn được sạch sẽ ngăn nắp mà không thành công lắm. Từ cánh cổng sắt một lối đi hẹp hình vòng cung xuyên qua khu vườn vòng quanh tòa nhà. Tin chắc đây là mặt tiền nhà, mặc dù trông nó không giống như mặt tiền. Thật khó nhận thấy mặc dù vững chắc - một cánh cửa sau. Từ phía này ngôi nhà hoàn toàn khác. Khởi đầu, nó không hoang vắng. Người ta sống ở đây. Cửa sổ mở, những màn cửa rung rinh quanh chúng, một xô rác trước cánh cửa lớn. Cuối đằng xa khu vườn Tuppence có thể thấy một người đàn ông to béo đang đào, một người đàn ông có tuổi cao lớn ông ta chậm rãi kiên trì đào bới. Chắc chắn nhìn từ phía này ngôi nhà không quyến rũ, không nghệ sĩ nào muốn vẽ nó. Nó chỉ là một ngôi nhà có người ở. Tuppence tự hỏi. Cô lưỡng lự. Ta có nên tiếp tục đi và quên ngôi nhà? không, cô khó mà làm được điều ấy, sau tất cả những rắc rối cô gặp phải. Mấy giờ rồi? Cô nhìn đồng hồ nhưng đồng hồ tay cô đứng. Âm thanh một cánh cửa mở ra bên trong. Cô chăm chú nhìn qua cánh cổng lần nữa. Cánh cửa nhà mở và một phụ nữ bước ra. Bà ta đặt một bình sữa xuống rồi đứng thắng người lên, liếc nhìn về phía cổng. Bà thấy Tuppence và lưỡng lự một phút, rồi dường như đã quyết định, người đàn bà bước xuống lối đi đi về phía cổng. 'sao thế, Tuppence lẩm bẩm, sao nhỉ, đó là một mụ phù thuỷ thân thiện!' Đó là một người đàn bà chừng năm mươi tuổi. Bà ta có mái tóc dài rối bời vì gió, bay tung phía sau. Nhắc Tuppence mơ hồ nhớ đến một bức tranh( của Nevínon?) về một mụ phù thuỷ trẻ trên cán chổi. Có lẽ điều đó giải thích vì sao thuật ngữ phù thuỷ đến trong trí cô. Nhưng người đàn bà này không có gì trẻ đẹp. Bà ta trạc trung niên, một nét mặt có vết nhăn, ăn mặc khá cẩu thả. Bà ta đội một cái mũ hình tháp chuông mũi và cằm thì tới gần nhau. Như đã nói bà ta có thể ác nhưng bà ta không có vẻ gì độc ác. Bà ta dường như có một thiện tâm toả sáng vô hạn. 'Phải, Tuppence thầm nghĩ, 'chính xác bà Giống như là một mụ phù thủy, nhưng bà là một phù thuỷ Thân thiện. Tôi nghĩ bà là điều mà người ta thường gọi một" phù thủy trắng". Người đàn bà ngập ngừng bước đến cánh cổng và nói. Giọng bà ta vui vẻ với một âm thanh thôn dã yếu ớt. - Có phải cô đang tìm kiếm cái gì? - Tôi xin lỗi, Tuppence nói, hẳn bà nghĩ tôi rất thô lỗ khi nhìn vào vườn của bà bằng cách này, nhưng - nhưng tôi đang tự hỏi về căn nhà này. - Cô có vui lòng vào và nhìn quanh vườn không? Mụ phù thuỷ thân mật nói. - Tốt - tốt - cám ơn bà nhưng tôi không dám làm phiền. - Không có chi. Tôi không có chi để làm cả. Buổi chiều đẹp chứ nhỉ? - Vâng, đúng thế. - Tôi nghĩ có lẽ cô lạc đường. Bà phù thủy thân thiện nói. Đôi khi người ta bị vậy. - Tôi chỉ nghĩ đây là một ngôi nhà rất quyến rũ khi tôi đi xuống ngọn đồi phia bên kia chiếc cầu. - Đó là phía đẹp nhất. Thỉnh thoảng các nghệ sĩ đến vẽ phác hoạ. Hoặc họ quen với chuyện đó - một lần thôi. - Vâng. Tôi nghĩ họ sẽ vẽ. Tôi tin là tôi - tôi đã nhìn thấy một bức tranh - tại một cuộc triển lãm nào đó, cô vội vã thêm vào. Một số căn nhà rất giống ngôi nhà này. Có lẽ Là ngôi nhà này đây. - Có thể. Khôi hài thật, cô biết chứ, các nghệ sĩ đến và vẽ tranh. Rồi các nghệ sĩ khác dường như cũng đến. Vẫn y như thế khi hàng năm họ đều có cuộc triển lãm tranh địa phương. Những nghệ sĩ hình như chọn cùng một địa điểm. Tôi không hiểu vì sao. Cô không hiểu vì sao. Cô biết không, hoặc là một đồng cỏ và suối nhỏ, hay một cây sồi đặc biệt, hay một bụi liễu, hay cùng quang cảnh nhà thờ Normand. Năm sáu tranh khác nhau vẽ cùng một cảnh vật, đa số rất xấu, tôi nghĩ thế. Nhưng tôi không hiểu chi về nghệ thuật cả. Xin mời vào. -.Bà tử tế lắm. Tuppence nói. Bà có một khu vườn rất đẹp. Cô thêm vào. - Không tệ lắm. Chúng tôi trồng ít rau, hoa và những món khác. Nhưng hiện nay ông ấy không thể lao động nhiều và tôi không có thì giờ cho việc này việc khác. - Tôi thấy ngôi nhà này một lần từ xe lửa. Xe lửa đi chậm lại tôi thấy ngôi nhà này và tự hỏi có khi nào mình gặp lại nó không. Cách đây khá lâu rồi. - Bây giờ bất ngờ cô lại đi xuống ngọn đồi bằng xe hơi và ngôi nhà đó là đây. Không thể tin được, những sự việc lại xảy ra như thế, phải không nào? Tạ ơn Chúa. Người đàn bà này dễ nói chuyện cực kì. Người ta khó mà tưởng tượng ra cái gì đó để giải thích. Hấu như người ta có thể chỉ nói đúng những điều vừa nảy ra trong đầu. - Cô thích căn nhà này không? Mụ phù thủy thân mật nói. Tôi có thể hiểu là cô có quan tâm. Đó là một ngôi nhà hoàn toàn cổ, cô biết đấy. Tôi muốn nói, kiểu thời cuối Gerorgian, người ta nói nó vừa được gia cố thêm thôi. Dí nhiên, chúng tôi chỉ được ở nửa căn nhà thôi. - Tôi hiểu rồi, nhà được chia hai, phải không? - Thật ra đây là phía sau. Mặt trước là phía kia, phía mà cô thấy tứ cái cầu. Cái lối chia nhà làm hai thật khó tin. Tôi nghĩ vậy. Tôi cho là chia nhà bằng cách khác thì dễ chịu hơn. Bên phải bên trái, vậy đó. Không sau hay trước. Tất cả phần này thật ra là phía sau. - Bà ở đây bao lâu rồi? - Ba năm. Sau khi chồng nghỉ hưu chúng tôi cần một chỗ nhỏ thôi ở nơi nào mà chúng tôi được yên tĩnh trong xứ. Đôi khi giá rẻ. Chỗ này rẻ bởi vì sự hiu quạnh. Cô không ở gần làng hay nơi nào khác. - Tôi có thấy một nhà thờ chóp nhọn đằng xa. - Đó là Sutton Chancellor. Cách đây hai dặm rưỡi. Dĩ nhiên chúng tôi ở trong xứ đạo, nhưng không có bất cứ ngôi nhà nào cho đến khi cô đến làng. Đấy cũng là một ngôi làng nhỏ. Cô sẽ uống một tách trà chứ? Mụ phù thuỷ thân thiện nói. Tôi chỉ vừa mới đặt ấm nước chưa quá hai phút thì nhìn ra và thấy cô. Bà đưa hai tay lên miệng hét lớn." Armos", bà gào,"Armos". Từ đằng xa người đàn ông mập mạp quay đầu lại. - Trà trong mười phút nữa. Bà nói. Ông ta đưa bàn tay lên tỏ ý hiểu dấu hiệu. Bà quay lại, mở cánh cửa lớn và nhắc Tuppence bước vào. - Tên tôi là Perry. Giọng nói thân thiện. Perry. - Còn tôi Beresford. Tuppence nói. Bà Beresford. - Mời vào, bà Beresford, cứ nhìn quanh cho đã. Tuppence suy nghĩ một chút. Cô nghĩ" Đúng trong một phút mình cảm thấy giống Hansel và Gretel. Mụ phù thuỷ yêu cầu bạn vô nhà mụ. Có lẽ là một ngôi nhà bằng bánh ga tô có mùi gừng... chắc là thế." Rồi cô nhìn Alice Perry lần nữa và nghĩ đây không phải là nhà của mụ phù thủy của Hansel và Gretel. Đây đúng là một người phụ nữ hoàn toàn bình thường. Không, không hoàn toàn bình thường lắm. Đối với cô bà có một vẻ thân thiện hơi hoang dã đến kì. 'có lẽ bà ấy có khả năng mê hoặc,' Tuppence nghĩ,' nhưng mình chắc chúng sẽ là những mê hoặc tốt.' Cô cúi đầu thấp xuống một chút và bước lên bậc cửa vào nhà mụ phù thủy. Bên trong hơi tối. Những hành lang thì nhỏ. Bà Perry dẫn cô đi xuyên qua cái bếp vào phòng khách bên kia rõ ràng là phòng khách của gia đình. Không có chi gây hứng khởi về căn nhà này cả. Tuppence nghĩ, có lẽ đó là phần gia cố thêm kiểu thời cuối Victorian cho phần chính. Bề ngang hẹp. Dường như gồm có một hành lang nằm ngang, hơi tối, đáp ứng nhu cầu một dãy phòng. Cô thầm nghĩ chắc chắn việc chia đôi căn nhà là một kiểu khá kì dị, khác thường. - Mời ngồi và tôi sẽ mang trà vào. Bà Perry nói. - Để tôi giúp bà. - Đừng ngại, không qua 1 phút đâu. Tất cả sẵn sàng trên khay rồi. Một tiếng còi rít lên từ bếp. Rõ ràng thời gian tĩnh của ấm nước đã đến độ cuối. Bà Perry ra ngoài và một hai phút sau trở lại với khay trà, một dĩa bánh xcôn, một hũ mứt trái cây ba tách và bốn dĩa trà. - Tôi cho là cô bị thất vọng nên mới vô nhà. Đó là một nhận xét thông minh rất gần sự thật. - Ồ không. Tuppence đáp. - Nếu tôi là cô thì tôi cũng thế. Chúng không cân xứng, phải không nào? Tôi muốn nói phía trước và sau của toà nhà không cân đối. Nhưng đây là một chỗ ở dễ chịu. Không quá nhiều phòng, không nhiều ánh sáng nhưng nó tạo ra một giá khác biệt rất lớn. - Ai phân chia ngôi nhà này và tại sao? - Tôi tin cách đây khá lâu rồi. Tôi cho là bất cứ ai là chủ cũng nghĩ ngôi nhà quá lớn và quá bất tiện. Chỉ cần một nơi nghỉ cuối tuần hay một chỗ nào đó đại loại. Vì vậy họ giữ lại những căn phòng đẹp, phòng ăn phòng vẽ và làm một cái bếp bên ngoài phòng đọc sách, hai phòng ngủ và phòng tắm ở trên lầu, rồi xây tường bít lại và chừa lại những cái bếp những căn phòng nhỏ để rửa bát đĩa đồ đạc, sửa lại một chút. - Ai ở trong những phòng kia? Một kẻ vừa mới xuống vào dịp nghỉ cuối tuần? - Bây giờ không ai sống ở đó cả. Bà Perry đáp. Một cái bánh xcôn nữa nhé? - Cám ơn. - Trong hai năm qua it ra cũng không ai đến đây. Bây giờ tôi không biết nó thuộc về ai nữa. - Lần đầu tiên bà đến khi nào? - Có một quý cô trẻ thường xuống đây. Người ta nói cô ấy là nghệ sĩ. Ít ra đó là những gì tôi nghe được. Nhưng thật sự chúng tôi không bao giờ thấy cô ta. Thỉnh thoảng thấy thoáng qua. Cô thường đến lúc đã muộn vào mỗi tối thứ bảy sau sô diễn. Chiều chủ nhật thường đi xa. - Một phụ nữ hoàn toàn bí mật. Tuppence nói giọng khích lệ. - Cô hiểu đúng cách tôi thường nghĩ về cô ấy. Tôi hay dựng chuyện về cô ta trong đầu. Đôi khi tôi nghĩ cô ta là Greta Grabo. Cô biết không, cách Cô ta đi quanh luôn đeo kính đen còn mũ kéo xuống tận mặt. Ơn Chúa, tôi có kiếm cho mình một cái mũ chóp nhọn. Bà ta hất cái mũ đội đầu ra rồi cười. - Cái này cho một vở kịch chúng tôi sắp diễn tại phòng giáo xứ Sutton Chancellor. Một loại truyện thần tiên dành cho hầu hết trẻ em. Tôi đang đóng vai phù thủy. Bà thêm. - Ô, Tuppence nói, rồi nhẹ nhàng lùi lại, sau đó nhanh chóng thêm, vui nhỉ. - Phải, vui thật, chứ không à? Chính xác dành cho phù thủy, phải không nào? Bà ta cười vỗ vào má. Tôi cố kiếm một khuôn mặt hợp với vai. Hy vọng sẽ không nhét ý kiến vào trong đầu người khác. Họ sẽ nghĩ rằng tôi có con mắt qủy. - Tôi không cho họ nghĩ như vậy về bà. Tôi tin bà sẽ là một phù thủy được tin cậy. - Tôi vui cô đã nghĩ thế. Như tôi đang nói, nữ nghệ sĩ này - bây giờ tôi không nhớ tên cô ta - tôi nghĩ tên cô là Marchement, hay có thể một cái tên khác - cô sẽ không tin những sự kiện tôi thường dựng lên về cô ta. Thật sự, tôi khó mà thấy hay nói chuyện với cô ta. Đôi khi tôi nghĩ chính xác cô ta nhút nhát kinh khủng và loạn thần kinh. Những phóng viên báo chí xuống đây đi theo cô với những chuyện như thế, nhưng cô ta không bao gìờ gặp họ. Những lúc khác tôi thường nghĩ - cô sẽ bảo tôi ngu - tôi thường nghĩ những chuyện hung hiểm về cô ấy - cô biết đấy, cô ta sợ bị Nhận Diện. Có lẽ cảnh sát đang tìm cô. Có lẽ cô là một tội phạm nào đó. Thỉnh thoảng nó kích động, tạo thành những chuyện trong đầu. Đặc biệt khi cô không gặp nhiều người. - Không có người nào từng xuống đây với cô ấy hay sao? - Tôi không chắc. Dĩ nhiên những bức vách ngăn họ dựng lên khi chia đôi căn nhà rất mỏng, thỉnh thoảng người ta nghe những giọng nói và những sự kiện như vậy. Tôi nghĩ thỉnh thoảng vào dịp nghỉ cuối tuần cô ta đưa xuống đây một kẻ nào đó. Bà ta gật đầu. Một người đàn ông. Điều này giải thích vì sao họ cần một nơi yên tĩnh như thế này. - Một người đàn ông có vợ. Tuppence nói, làm ra vẻ giả vờ quan tâm. - Phải, một người đàn ông có vợ, phải không? - Có lẽ đó là người chồng đến với cô ta. Ông ta thuê chỗ này trong vùng quê bởi vì ông ta cần giết cô ta và có lẽ ông ta chôn cô trong vườn. - Trời ơi! Cô có một tưởng tượng quá lớn. Tôi chưa bao giờ nghĩ như thế. - Tôi giả sử có Ai đó phải hiểu rất rõ về cô ấy. Tôi muốn nói những đại lí nhà. Những người như vậy. - Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng tôi thích mình đừng biết thì hơn nếu cô hiểu những gì tôi muốn nói. - Vâng. Tuppence đáp, tôi hiểu chứ. - Ngôi nhà này có một bầu khí quyển, cô biết không. Tôi muốn nói có một cảm tưởng trong đó, một cảm tưởng rằng có một cái gì đó đã xảy ra. - Cô ta có ai đến dọn dẹp nhà hay làm cái gì như thế? - Khó kiếm người ở đây lắm. Gần đây có ai đâu. Cửa ngoài bật mở. Người đàn ông to lớn vừa đào đất trong vườn bước vào. Ông ta đến chỗ rửa bát vặn vòi nước, rõ ràng rửa tay. Rồi đi qua phòng khách. - Đây là chồng tôi. Bà Perry giới thiệu. Amos. Chúng ta có một người khách, Amos. Đây là bà Beresford. - Ông có khỏe không? Tuppence nói. Amos Perry là một người có tướng đi cà nhắc, cao. Ông ta to lớn và đầy quyền lực hơn Tuppence hiểu. Mặc dù có tướng đi cà nhắc và bước rất chậm, lão là một người đàn ông to lớn vai u thịt bắp. Lão nói, 'vui lòng được gặp bà, bà Beresford.' Giọng lão vui và lão ta cười, nhưng Tuppence trong một thoáng cô tự hỏi lão có thật sự là cái điều cô gọi là 'lành mạnh' không. Có một tính chất phác đáng ngạc nhiên trong cặp mắt và cô cũng tự hỏi bà Perry có cần một chỗ yên tĩnh để sống bởi sự thiếu năng lực tinh thần hiển nhiên của chồng mình không. - Ông ấy yêu vườn lắm. Bà Perry nói. Do việc lão đi vào cuộc đối thoại lắng xuống. Bà Perry nói gần hết nhưng cá tính của bà dường như có thay đổi. Bà trò chuyện với tính nhút nhát hơn và đặc biệt chú ý đến chồng. Tuppence nghĩ, để khuyến khích ông, trong một chừng mức nào đó mà một người mẹ có thể bơm cho một đứa trẻ nhút nhát có thể nói chuyện, trình diễn mặt tốt nhất của mình ra trước một người khách, mà vì hơi nhút nhát có lẽ ông ta không đủ khả năng. Khi cô uống trà xong, Tuppence đứng lên. Cô nói' Tôi phải đi. Cám ơn, bà Perry, rất cám ơn lòng hiếu khách của bà.' - Bà sẽ xem vườn trước khi bà đi chứ. Ông Perry đứng dậy. Nào, đi thôi. Tôi sẽ chỉ cho bà thấy. Cô đi với lão ra ngoài và lão dẫn cô đến cái góc đằng xa lão đang đào. - Những cây hoa này có đẹp không? Đây có một số hoa hồng lỗi thời - xem cái này, màu đỏ và trắng có sọc. - Commandant Bearepaire. Tuppence nói. - Chúng tôi gọi nó là' York và Lancaster'. Chiến tranh giữa các hoa hồng. Mùi ngọt, hả? - Mùi thơm tuyệt vời. - Thơm hơn chúng là Hybrid Teas kiểu mới. Trong một chừng mực nào đó khu vườn hơi không tương xứng. Những hạt giống kiểm tra thiếu hoàn hảo, còn hoa được cột cẩn thận kiểu nghệ sĩ. - Những màu sáng, lão Perry nói. Tôi thích những màu sáng. Chúng tôi thường đem người tới coi vườn, vui mừng là cô đã đến. - Cám ơn ông rất nhiều. Tôi nghĩ vườn và nhà ông thật sự rất dẹp. - Cô phải xem phía kia nữa. - Nó để vậy hay để bán? Vợ ông hỏi. Bây giờ không ai ở gần đây cả. - Chúng tôi không biết. Chúng tôi không thấy ai, không có biển treo và không ai từng đến thăm bên đó. - Tôi nghĩ, đó sẽ là một ngôi nhà đẹp để ở. - Cô cần một căn nhà à? - Phải, Tuppence đáp, quyết định nhanh. Vâng, thật sự chúng tôi đang tìm quanh trong xứ một chỗ nhỏ, dành cho khi chồng tôi về hưu. Có lẽ năm tới, nhưng tôi thích tìm quanh đây khi còn có thời gian. - Nếu cô thích yên thì ở đây yên tĩnh rồi. - Tôi cho là vậy, tôi có thể hỏi đại lí nhà địa phương. Có phải đó là cách ông kiếm nhà? - Đầu tiên chúng tôi đọc thông báo trên báo. Rồi mới đến đại lí nhà. - Chỗ ấy ở đâu - trong Sutton Chacellor? Đó là làng ông, phải không? - Sutton Chancellor? Không. Những văn phòng đại lí đặt ở chợ Basing. Russell và Thompson, đó là cái tên. Cô có thể đi gặp họ mà hỏi. - Vâng, Tuppence đáp, tôi sẽ làm. Từ đây đến chợ Basing bao xa? - Mất hai dặm đến chợ Basing và bảy dặm đến Sutton Chancellor. Có một con lộ chính từ Sutton Chancellor còn quanh đây toàn là đường mòn. - Tôi hiểu. Xin tạm biệt, ông Perry, cám ơn rất nhiều đã cho tôi xem vườn ông. - Đợi một chút. Lão ta cúi xuống, cắt một cái hoa khổng lồ và nắm ve áo Tuppence, lão nhét qua lỗ nút áo cô. Đó, của cô đó. Trông đẹp quá. Trong một phút Tuppence cảm thấy nỗi kinh hoàng bất ngờ. Người đàn ông cao lớn, đi cà nhắc, tánh nết tốt bụng này làm cô sợ chết khiếp. Lão ta nhìn cô cười. Cười khá là hoang dã, gần như đểu cáng. 'Trông cô rất đẹp,' lão lại nói.' Đẹp.' Tuppence nghĩ." Ta vui ta không còn là một thiếu nữ... ta không nghĩ ta thích lão cài một bông hoa lên áo ta." Một lần nữa cô nói lời tạm biệt rồi vội vã quay gót. Cánh cửa ngôi nhà chợt mở và Tuppence đi vào tạm biệt bà Perry. Bà Perry ở trong bếp, lau chùi đồ trà còn Tuppence hầu như tự động kéo một tấm vải ra khỏi lò nướng bắt đầu lau khô. - Cám ơn nhiều. Cô nói. Bà và chồng bà. Bà quá tử tế và hiếu khách đối với tôi - Cái gì kia? Từ nơi bức tường nhà bếp, hay đúng ra phía sau bức tường chỗ trước kia một dãy bếp lò cũ đứng, vọng ra một tiếng thét lớn đồng lúc với tiếng kêu quang quác và tiếng cào rạch. - Con quạ cổ xám đấy. Nó rơi xuống từ ống khói căn nhà bên kia. Lần nào trong năm nó cũng làm thế. Tuần qua nó rơi xuống ống khói nhà tôi. Cô hiểu không, chúng làm tổ trong ống khói. - Còn cái gì trong nhà kia vậy? - Phải, lại nó lần nữa. Một lần nữa tiếng quang quác và tiếng la của con chim lâm cảnh khốn cùng đến tai họ. Bà Perry nói. Không có ai trong ngôi nhà trống để chịu khó bỏ công ra, cô hiểu chứ. Những ống khói phải được chùi dọn và những thứ tương tự. Tiếng kêu quang quác tiếng cào cấu vẫn tiếp tục. - Con chim khốn khổ. - Tôi biết. Tôi không thể đem nó lên nữa đâu. - Bà muốn nói nó sẽ chết ở đó à? - Như tôi nói nó bay xuống ống khói của chúng tôi. Hai con, thật thế. Một con chim non. Chúng tôi lôi nó lên và nó bay được, nó ổn rồi. Con kia đã chết. Tiếng kêu quang quác và cuộc xô đẩy cuồng dại vẫn tiếp tục. Ông Perry qua cánh cửa đi vào. Chuyện gì thế? Ông nói, nhìn người nọ đến người kia. - Có một con chim, Amos. Nó hẳn kẹt trong ống khói nhà bên kia. Nghe không? - Ê, nó đến từ tổ con quạ cổ xám mà. - Tôi ước chúng ta vào đó được. - A, bà không thể làm được gì sất. Chúng sẽ chết vì sợ, nếu không có chi khác. - Nó sẽ bốc mùi. - Ơ đây cô không nên ngửi bất cứ cái gì. Cô mềm yếu lắm. Ông ta tiếp tục nhìn người nọ đến người kia," giống như tất cả bọn đàn bà ", nếu bà muốn tôi sẽ lấy nó ra. - Sao, có một cánh cửa sổ mở à? - Có thể vào qua cửa lớn. - Cửa nào? - Trong sân bên ngoài này. Chìa khóa treo ở đó. Lão ta bước ra đi dọc đến cuối vườn, mở một cánh cửa lớn ở đó. Thật ra đó là một nhà kho ươm cây giống, nhưng một cánh cửa lớn lại dẫn vào phía nửa ngôi nhà kia và gần cửa lớn của kho ươm cây giống sáu bảy chiếc chìa khóa rỉ treo trên một cái đinh. - Đây là một cái chìa khớp. Lão Perry nói. Lão lấy cái chìa xuống tra vào ổ, sau khi nhiều lần phỉnh phờ gây sức ép và cưỡng bức, chìa khoả rỉ sét trong ổ. - Trước tôi đã vào đây một lần, lão nói, khi tôi nghe tiếng nước chảy. Một người nào đó đã quên khóa vòi nước cho khớp. Lão đi vào và hai người phụ nữ theo sau. Cánh cửa dẫn vào một phòng nhỏ gồm những chậu bông khác nhau trên những cái kệ và một chậu rửa chén có một vòi nước. - Một phòng để hoa, tôi không ngạc nhiên mà. Nơi người ta thường chuẩn bị bông. Xem nào? Có nhiều chậu ở đây. Có một cánh cửa mở ra ngoài phòng để hoa. Cửa này không khoá. Lão mở cửa đi qua. Tuppence nghĩ, giống như đi vào một thế giới khác. Đường hành lang phía ngoài được phủ một đống thảm. Một lối đi nhỏ dọc theo có một cánh cửa lớn khép hờ và từ đó vọng đến tiếng đập cánh của con chim khốn khổ. Perry xô cửa mở ra và vợ lão cùng Tuppence bước vào. Những cửa sổ khép chặt nhưng có một phía một cánh cửa chớp đang treo lủng lẳng và ánh sáng lọt vào. Mặc dù căn phòng mờ tối, vẫn có một tấm thảm tuyệt đẹp trên sàn nhà, màu xanh lục đậm. Có một cái kệ dựa vào tường nhưng không có bàn ghế. Đồ đạc chắc chắn đã dời đi, những bức màn và thảm để lại như những đồ đạc cố định trao cho người thuê tiếp. Bà Perry đi về phía lò sưởi. Con chim nằm trong vỉ chắn lò đang vùng vẫy thốt ra những tiếng kêu quang quác lớn trong cảnh túng cùng. Bà ta cúi xuống, nhặt con chim lên và nói. Mở cửa sổ ra nếu ông có thể, Amos. Amos bước qua, kéo cửa chớp sang bên, mở khoá phía bên kia rồi đẩy mạnh chốt cửa. Ông bực bội nâng tấm cửa thấp có khung trợt lên. Ngay khi cửa mở ông Perry chồm ra ngoài thả con quạ. Nó lắc lư trên cỏ, nhảy nhanh vài bước. - Tốt hơn giết nó đi, nó bị thương rồi. Perry nói. - Để nó đó một chút, bà vợ nói. Cô không bao giờ hiểu. Loài chim hồi phục rất nhanh. Sự sợ hãi khiến chúng có vẻ như bại liệt đó thôi. Quả thế, vài phút sau với một sức chiến đấu cuối cùng, con quạ mỏ khoang đập cánh bay đi. - Tôi chỉ hi vọng, Alice Perry nói, nó không xuống ống khói nữa. Những sinh vật mâu thuẫn, loài chim ấy. Không hiểu chuyện ấy có gì hay cho chúng. Bay vào một căn phòng, không bao giờ chúng tự bay ra được. Ô, bà ta thêm vào, thật là hỗn độn. Bà, Tuppence và ông Perry ba người chăm chăm nhìn vào tấm vỉ chắn lò. Từ ống khói là một đống mồ hóng, rác rưởi kì lạ và những viên gạch bể rớt xuống. Rõ ràng cách đây ít lâu nó được sửa chữa tồi. - Một ai đó đã đến sống ở đây. Bà Perry nhìn quanh. - Một ai đó phải chăm sóc ngôi nhà, Tuppence đồng ý với bà. Một kĩ sư xây dựng phải xem xét và làm cái gì đó hoặc toàn bộ ngôi nhà sẽ sụp đổ. Có lẽ nước đang chảy qua mái nhà vào đỉnh những căn phòng. Phải, nhìn cái trần nhà kìa, nước xuyên qua đó. - Thật đáng xấu hổ. Tuppence nói. Làm đổ sụp một căn nhà đẹp - thật sự là một căn phòng đẹp, phải không? Cô và bà Perry cùng nhìn nhau thông cảm. Xây vào khoảng 1970 nó có tất cả sự sang trọng của một ngôi nhà thời đó. Nó có nguyên một mẫu những lá liễu in trên giấy dán tường không màu. - Nó sụp đổ bây giờ đấy. Tuppence cời đống đổ nát vào cái rá lò. - Người ta nên quét nhà mới phải. - Bây giờ bà muốn gì khi làm phiền mình với một ngôi nhà không thuộc về bà? Chồng bà nói. Để nó yên, thưa bà. Sáng ngày mai nó sẽ lại trong tình trạng như cũ cho coi. Với một ngón chân Tuppence chuyển động nhẹ nhàng những viên gạch sang bên. - Ô, cô kêu lên một tiếng nhờm tởm. Có hai con chim chết nằm trong lò sưởi. Bằng vẻ bên ngoài của chúng thì chúng đã chết khá lâu. - Cái gì đây? Tuppence hỏi. Cô dùng đầu ngón chân khều một vật gì đó nằm ẩn trong đống rác. Rồi cô cúi xuống và nhặt lên. - Đừng đụng vào con chim chết ấy. - Nó không phải là một con chim. Một cái gì khác ắt phải rơi xuống ống khói. Tôi chưa bao giờ, cô thêm vào, nhìn chăm chăm vật ấy. Đó là một con búp bê. Con búp bê trẻ em. Họ nhìn xuống. Tả tơi, rách rưới, quần áo là những mảnh vụn, đầu nó thõng xuống vai, nguyên thủy hẳn là búp bê của một đứa trẻ. Một con mắt thủy tinh rơi ra ngoài. Tuppence vẫn còn giữ nó. - Tôi tự hỏi, cô nói, tôi tự hỏi làm sao con búp bê lại lên trên một ống khói được chứ. Phi thường lạ lùng quá. BỨC HỌA CHẾT NGƯỜI (Agatha Christie) Chương 8 Sutton Chancellor Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Sau khi rời khỏi ngôi nhà bên con kênh, Tuppence lái xe dọc son đường uốn khúc hẹp cô đoán chắc sẽ đưa mình đến làng thuộc Sutton Chancellor. Đó là một con đường cách biệt. Từ đó không nhìn thấy nhà - chỉ có những cánh cổng chắn từ đó những con đường mòn đầy bùn dẫn thẳng ra cánh đồng. Xe cộ rất ít - Có một xe máy kéo chạy dọc theo con đường, một chiếc xe tải chở hàng với bức tranh một ổ bánh khổng lồ trông thiếu tự nhiên kiêu hãnh loan báo nó mang theo niềm hoan lạc của người Mẹ. Tháp chuông nhà thờ cô nhìn thấy từ xa dường như hòan toàn biến mất - nhưng cuối cùng tái hiện hoàn toàn khá gần tầm tay sau khi con đường mòn thình lình uốn khúc và vòng rất gắt quanh một đai cây. Tuppence liếc nhìn đồng hồ đo tốc độ trên xe thấy mình đã chạy được hai dặm từ ngôi nhà bên con kênh. Đó là một nhà thờ cổ quyến rũ tọa lạc trong một khu sân nhà thờ khá lớn với vài cây thông đỏ đứng kề bên. Tuppence để xe ngoài cổng có mái che, để dành vài phút đứng ngắm nhà thờ và sân nhà thờ vây quanh. Đoạn cô bước tới cánh cửa lớn có vòm cung kiểu Normand nâng tay nắm nặng nề lên. Cửa không khóa cô bước vào trong. Bên trong không đẹp. Chắc chắn nhà thờ là một nơi cũ kĩ nhưng được nhiệt tình sơn quét và chùi dọn sạch sẽ. Ngoài sân những ghế băng bằng gỗ thông có lưng dựa màu đỏ rực rỡ và những cửa sổ có kính màu xanh lục đã phai tàn phần nào vẻ đẹp cổ xưa nó đã một lần sở hữu. Một phụ nữ trung niên trong chiếc áo choàng và váy đầm bằng vải tuýt đang cắm hoa trong những cái bình đồng xung quanh bục giảng kinh. Làm xong việc bàn thờ cô nhìn Tuppence dò hỏi đề cao cảnh giác. Tuppence bước lên lối đi giữa hai dãy ghế nhìn những phiến đá làm bia kỉ niệm gắn trên những bức tường. Trong những năm xưa hình như một gia đình Warrender nào đó được giới thiệu đầy đủ nhất. Tất cả đều thuộc Tu Viện, Sutton Chancellor. Đại uý Warrender, Thiếu tá Warrender, Sarah Elizabeth Warrender, người vợ yêu của George Warrender. Một phiến đá mới ghi nhận cái chết của Julia Starke( người vợ yêu khác) của Philip Starke, cũng thuộc về tu viện, Sutton Chancellor - dường như gia đình Warrender chết sạch. Không ai trong gia đình họ được gợi ý hay chú ý đặc biệt cả. Tuppence lại ra bên ngoài nhà thờ lần nữa. Theo Tuppence, bên ngoài quyến rũ hơn bên trong." Thời tiền Perp. Và Dec," Tuppence người được nuôi dạy với những khái niệm kiến trúc Cơ đốc giáo quen thuộc nói cho mình nghe. Cô đặc biệt không ưa thời tiền Perp. Đó là một ngôi nhà thờ kích thước cân xứng và cô nghĩ rằng có một lần chắc chắn ngôi làng của Sutton Chancellor là trung tâm quan trọng của cuộc sống thôn dã khá hơn bây giờ. Cô để xe lại đó đi bộ tới làng. Làng có một cửa hàng một bưu điện và độ chừng mười hai nóc nhà nhỏ hoặc nhà tranh. Một hai ngôi nhà lợp mái rơm còn những nhà khác thì đơn giản không đẹp. Có sáu trụ sở hội đồng địa phương cuối làng nhìn hơi thiếu tự nhiên. Một tấm bảng đồng treo trên cửa lớn thông báo:" Arthur Thomse, chùi ống khói." Tuppence tự hỏi có bất cứ đại diện nhà đất đáng kính nào kí hợp đồng sửa chữa ngôi nhà bên con kênh chắc chắn cần đến họ. Cô nghĩ mình đã điên biết bao không hỏi tên ngôi nhà. Cô chậm rãi đi bộ trở lại phía nhà thờ, và xe, ngừng lại quan sát sân nhà thờ thật kĩ. Cô thich sân nhà thờ hơn. Trong sân có rất ít mộ mới chôn. Hầu hết các bia đá kỉ niệm đều là mộ chôn thời Victorian, và thời kì trước - nửa bị hư bởi địa y và thời gian. Những hòn đá xưa rất đẹp. Một số đá với những tiểu thiên sứ đứng trên đỉnh bị để đại lên, và những vòng hoa chung quanh chúng. Cô đi loanh quanh, xem nhừng lời ghi trên mộ chí. Lại gia đình Warrender. Mary Warrender, tuổi 47, Alice Warrender, tuổi 33, Đại tá John Warrender bị giết ở Afghanistan. Những đứa trẻ khác nhau của giòng họ Warrender - lòng thương tiếc sâu sắc - những vần thơ hùng biện đầy hi vọng tốt đẹp. Cô hỏi mình có ai mang họ Warrender còn sống nơi đây không. Rõ ràng họ đã thôi không còn được chôn ở đây nữa. Cô không thể tìm ra bất cứ bia mộ nào muộn hơn năm 1843. Vòng quanh cây thông đỏ cao cô chợt thấy một tu sĩ già đang cúi mình trên một dãy bia mộ cũ gần một bức tường sau nhà thờ. Ông đứng thẳng người lên khi Tuppence đến gần. - Xin chào, ông vui vẻ nói. - Xin chào. Tuppence đáp rồi thêm. Con đang ngắm nhà thờ. - Bị sụp đổ bởi thời Victorian phục hưng. Tu sĩ nói. Ông có một giọng nói vui vẻ và một nụ cười dễ mến. Ông khoảng chừng 70 nhưng Tuppence tin chắc ông chưa hoàn toàn đến tuổi đó, dầu vẻ như ông bị thấp khớp và đôi chân đứng không vững. - Qúa nhiều tiền thời Victorian, ông buồn bã nói. Quá nhiều ông chủ đúc sắt. Họ là những tu sĩ, bất hạnh thay, chẳng có ý thức chi về nghệ thuật. Không có khiếu thẩm mỹ. Cô có thấy cái cửa sổ hướng đông kia không? Ông ta rùng mình. - Vâng. Tuppence đáp. Đáng sợ thật. - Tôi không thể đồng ý với cô nữa. Tôi là cha cố, ông nói thêm. - Con cũng nghĩ thế. Tuppence lich sự đáp. Cha đã ở đây bao lâu? - Mười năm. Đó là một giáo xứ. Những gì của họ đều tốt. Ở đây tôi rất hạnh phúc. Họ không ưa những bài thuyết giáo của tôi lắm. Ông buồn bã thêm. Tôi làm cái tốt nhất tôi có thể, nhưng tất nhiên cha không thể giả vờ hiện đại được. Ngồi xuống đây. Ông nói thêm vẻ hiếu khách, phẩy tay chỉ một phiến bia mộ bên cạnh. Tuppence ngồi xuống đầy biết ơn còn cha cố ngồi trên một tấm đá bia gần đó. - Cha không thể chịu đựng lâu được nữa. Ông nói giọng xin lỗi. Cha có thể làm gì cho con hay con chỉ đi ngang thôi? - Thật ra con chỉ đi ngang. Tuppence đáp. Con nghĩ con chỉ nhìn nhà thờ. Đắm mình trong xe hơi lang thang quanh những con đường hẹp. - Phải. Phải. Rất khó tìm ra một con đường lớn quanh đây. Nhiều bảng chỉ đường bị bể, còn Hội Đồng địa phương đáng lẽ sửa chữa thì họ không làm. Cha không biết rằng việc đó vô cùng hệ trọng. Nói chung người ta lái xe xuống những con đường mòn này không thường cố tìm đi nơi nào khác. Họ bị dính chặt vào những đường lộ chính. Đáng sợ. Ông lại thêm. Đặc biệt đường xa lộ cao tốc. Ít nhất, cha nghĩ vậy. Tiếng ồn, tốc độ và những tay lái thiếu thận trọng. Ô, không hề chú ý đến cha. Cha là một người già cục cằn. Con đừng bao giờ đoán cha đang làm chi ở đây. Ông nói tiếp. - Con thấy cha đang khảo sát những bia mộ. Có thói phá hoại những công trình văn hoá nào không? Có tụi mười ba nào đập vỡ bia? - Không. Ngày nay cách suy nghĩ riêng hướng về qúa nhiều hộp điện thoại bị phá hỏng và tất cả những vật khác mà những tên phá hoại các công trình văn hoá ấy làm. Những đứa trẻ khốn khổ. Chúng không biết chi về điều thiện, cha cho là thế. Đáng buồn, phải không? Rất buồn. Không. Nơi đây không có sự phá hoại ấy. Xét toàn thể trai tráng quanh đây tốt. À không, cha chỉ đang tìm ngôi mộ một đứa trẻ. Tuppence chuyển mình trên tấm đá bia. Mộ một đứa trẻ ư? - Phải. Một người nào đó viết cho cha. Thiếu tá Waters nào đó. Ông ta hỏi coi có khả năng một đứa trẻ được chôn ở đây không. Tất nhiên, cha nhìn lên bảng đăng kí, nhưng không có bảng ghi nào có tên ấy cả. Cũng vậy thôi, cha đi ra ngoài quay lại nhìn những bia mộ. Cha nghĩ, con biết đấy, người viết thư đã nắm một cái tên sai, hay có sự nhầm lẫn. - Tên thánh là gì vậy? Tuppence hỏi. - Ông ta không biết. Có lẽ Julia lấy tên mẹ. - Đứa trẻ mấy tuổi rồi? - Ông ta lại không chắc. Toàn thể sự việc hơi mơ hồ, cha nghĩ người đàn ông có ý nghĩ hoàn toàn sai lạc về ngôi làng. Cha chưa bao giờ nhớ một gia đình họ Water sống ở đây hay nghe đến tên họ. - Còn gia đình Warrender? Tuppence hỏi, trí nhớ cô trở về những cái tên trong nhà thờ. Nhà thờ dường như đầy những bảng đá dành cho họ và tên của họ rất nhiều trên những mộ chí ngoài này. - A, gia đình ấy bây giờ chết sạch rồi. Họ có một gia sản lớn, một Tu viện cũ thế kỉ 14. Nó bị cháy sạch. Cách đây một trăm năm, vì thế cha nghĩ bất cứ người Warrender nào ở lại đều đã rời đi - đi xa mà không trở về. Một người họ Victorian giàu có tên Starke xây một ngôi nhà mới trên công trường. Một ngôi nhà rất xấu nhưng tiện nghi, người ta nói như thế. Rất tiện nghi. Những phòng tắm, và tất cả. Cha cho rằng điều không giải thích được ấy Mới quan trọng. - Một việc hình như rất kì dị, ai đó đã viết thư và hỏi cha về ngôi mộ một đứa trẻ. Một người nào đó - một bà con? - Cha tưởng đến cha của đứa trẻ, một trong những bi kịch của chiến tranh. Một đám cưới bị tan vỡ khì người chồng phục vụ ở hải ngoại. Người vợ trốn đi với tình nhân khi người chồng đang phục vụ ở ngoại quốc. Có một đứa con, một đứa con chưa bao giờ ông nhìn thấy. Bây giờ hẳn đã lớn bộn, nếu cô bé còn sống. Chắc phải cách đây hai mươi năm hay hơn thế. - Sau khi tìm kiếm cô ta không phải là một thời gian dài sao? - Rõ ràng chỉ vừa mới đây thôi ông ta hay tin Có một đứa con. Mẫu tin đến với ông ta thuần tuý ngẫu nhiên. Toàn thể sự việc, câu chuyện lạ lùng thật. - Cái gì làm ông ấy nghĩ đứa trẻ được chôn ở đây? - Cha nghĩ ai đó tình cờ gặp vợ ông ta trong chiến tranh đã kể cho ông ta nghe rằng vợ ông nói cô ấy đang sống ở Sutton Chancellor. Con biết đấy, tình cờ thôi. Con gặp một ai đó, một người bạn hay một người quen con chưa hề gặp trong nhiều năm, đôi khi họ có thể cung cấp cho con tin tức mà dù thế nào con cũng không kiếm ra. Nhưng bây giờ chắc chắn cô ta không còn ở đây - không từ khi cha ở đây. Hoặc trong vùng phụ cận xa chừng nào mà cha biết được. Dĩ nhiên, Có thể người mẹ ra đi dưới cái tên khác. Tuy vậy, cha biết người cha đang thuê những cố vấn pháp luật và những đại diện điều tra, và những cái không nói ra được, rất có thể họ có khả năng thu được kết quả sau cùng. Điều ấy cần thời gian. - Có Phải đó Là Đứa Trẻ Tội Nghiệp Của Cô không? Tuppence thì thào. - Xin lỗi, con nói gì? - Không có gì, Tuppence đáp. Ngày nọ một ai đó nói với con điều gì đó. " Có Phải Đó Là Đứa trẻ Tội Nghiệp Của Cô Không?" Bất ngờ mà nghe đó là một việc gây giật mình. Nhưng con không thật sự biết bà già nói câu ấy có hiểu mình đang nói gì không. - Cha hiểu. Cha hiểu. Cha cũng thường như vậy. Cha nói những điều mà cha không thật sự hiểu ý nghĩa điều mình nói. Thật là rối rắm. - Con hi vọng cha biết mọi việc về những người Bây Giờ họ sống ở đây chứ? - Chắc chắn không nhiều. Vâng. Tại sao? Có phải con muốn tìm hiểu về một người nào đó? - Con tự hỏi có một bà Lancaster nào đó đang sống ở đây không? - Lancaster? Không. Cha không nghĩ cha có nhớ lại cái tên ấy không. - Và có một ngôi nhà - hôm nay con lái xe không mục đích - không chủ ý đặc biệt mình định đi đâu, chỉ lái theo những con đường mòn - - Cha hiểu. Rất đẹp, những con đường mòn quanh đây. Và con có thể tìm thấy những mẫu vật hoàn toàn hiếm. Cha muốn nói, thực vật học ấy. Trong những bụi cây ở đây. Tại những bụi cây này không ai hái hoa đâu. Không bao giờ chúng ta có du khách quanh đây điều đó chưa giải thích được. Ừ, thỉnh thoảng cha cũng tìm ra một số mẫu vật rất quý hiếm. Vi dụ, Cranesbell đầy bụi - - Có một ngôi nhà bên một con kênh, Tuppence nói, từ chối bị đưa theo dấu chuyện thực vật.' gần một cây cầu có một mái vòm cung. Cách đây chừng hai dặm. Con tự hỏi tên nhà là gì. - Để cha xem nào. Cầu một nhịp hình vòm cung bắt qua con kênh. A... có nhiều ngôi nhà như vậy lắm. Trại Merricol. - Đó không phải là một nông trại. - Cha hi vọng đó là nhà của Perry vậy - Amos và Alice Perry. - Chính xác. Tuppence la lên. Một ông và bà Perry. - Bà ta là người trông đập vào mắt, phải không nào? Đáng chú ý, cha luôn luôn nghĩ thế. Rất đáng chú ý. Khuôn mặt thời trung cổ, con có nghĩ vậy không? Bà sắp đóng vai mụ phù thủy trong vở kịch chúng tôi dàn dựng. Con biết đấy, trường trung học trẻ em mà. Có phải bà ấy trông giống một mụ phù thủy? - Dạ đúng. Một mụ phù thủy thân thiện. - Như lời con nói, tuyệt đối hợp li. Phải, một mụ phù thủy thân thiện. - Nhưng ông ta - - Phải, người bạn khốn khổ, cha cố nói. Tinh thần không hoàn toàn bình thường - nhưng không tổn hại đến ông ta. - Họ rất dễ thương. Họ mời con vào vì một tách trà. Nhưng điều con muốn biết là Tên của ngôi nhà. Con quên hỏi họ. Họ chỉ sống trong một nửa căn nhà, phải thế không? - Phải, phải. Trong những góc thường quen dùng như bếp cũ. Họ gọi nó là" Waterside," cha nghĩ thế, mặc dù cha tin cái tên cũ là 'Watermead'. Một cái tên khá vui, cha nghĩ vậy. - Phía kia của ngôi nhà thuộc về ai? - Toàn toàn thể ngôi nhà nguyên thủy thuộc về gia đình Bradley. Cách đây khá nhiều năm rồi. Phải, ít ra ba bốn chục năm, cha phải nghĩ thế. Rồi nó được bán, rồi bán lần nữa sau đó để trống trong nhiều năm. Khi cha tới đây nó chỉ được dùng như một nơi nghỉ cuối tuần. Một nghệ sĩ nào đấy - cô Margrave, cha tin thế. Cô ta không ở đây nhiều. Chỉ thỉnh thoảng xuống. Cha không bao giờ biết cô. Cô không bao giờ đi nhà thờ. Thỉnh thoảng cha thấy cô từ xa. Một cô xinh đẹp. Một con người rất đẹp. - Bây Giờ ngôi nhà thật sự thuộc về ai? Tuppence khăng khăng. - Cha không có ý kiến. Có thể hãy còn thuộc về cô ta. Phần nhà gia đình Perry ở chỉ là nhà thuê. - Con nhận ra điều đó, còn phải hỏi. Ngay khi con vừa nhìn thấy, bởi vì con có một bức tranh về ngôi nhà. - Thật sao? Đó chắc phải là tranh của Boscombe, hay tên ông ta là Boscobel - bây giờ cha không thể nhớ. Một cái tên như thế. Hắn là một người Cornish, nghệ sĩ rất nổi tiếng, cha tin thế. Bây giờ cha tưởng tượng hắn chết rồi. Phải, hắn thường xuống đây thường xuyên. Anh ta thường phác hoạ tất cả khu vực quanh đây. Tại đây anh ta cũng vẽ sơn dầu nữa. Một số tranh phong cảnh rất đẹp. - Bức tranh đặc biệt này được tặng cho một bà dì già của con chết cách đây một tháng. Nó lại được bà Lancaster nào đó tặng. Đó là lí do tại sao con hỏi cha có biết tên của ngôi nhà? Nhưng một lần nữa cha cố lắc đầu. - Lancaster? Lancaster. Không. Hình như cha không nhớ cái tên. A! Nhưng có một người con phải hỏi. Cô Bligh thân mến của chúng ta. Cô Bligh ấy rất năng động. Cô biết tất cả về giáo xứ. Cô điều khiển mọi việc. Hội phụ nữ, Hướng đạo sinh, Người hướng dẫn - mọi việc. Con hỏi cô ấy đi. Cô ta rất năng động, thực sự rất năng động. Cha cố thở dài. Hoạt động của cô Bligh hình như làm ông lo âu.' Nellie Bligh, trong làng họ gọi cô như vậy. Đôi khi những cậu con trai hát theo cô. Nellie Bligh. Nellie Bligh. Đó không phải cái tên gốc của cô. Nó là cái tên như Gretrude hay Graldine gì đó. Cô Bligh, người phụ nữ mặc chiếc áo choàng bằng vải tuýt Tuppence đã thấy trong nhà thờ, đang rảo bước nhanh đến gần họ, hãy còn cầm một can nhỏ đựng nước. Khi đến gần, cô chiếu tướng Tuppence với cái nhìn tò mò sâu sắc, gia tăng cước bộ và khởi sự cuộc nói chuyện trước khi đến gần họ. - Tôi xong việc rồi, cô vui vẻ tuyên bố. Hôm nay hơi có vấn đề. Ô vâng, hơi có vấn đề. Tất nhiên, cha biết đấy, thưa cha, con thường làm việc nhà thờ buổi sáng. Nhưng hôm nay có cuộc họp khấn cấp tại những phòng giáo xứ và thật sự cha không tin được nó mất thời gian thế nào! Quá nhiều cuộc tranh luận. Thật ra con nghĩ đôi khi người ta phản đối lại chỉ vì niềm vui được làm như thế. Bà Partington đặc biệt nổi cáu. Muốn mọi việc được thảo luận đầy đủ, cha biết mà, và tự hỏi như là chúng tôi có kiếm đủ giá khác biệt từ những phim khác biệt không. Con muốn nói, toàn thể công việc dù sao là một giá thấp, thật sự một vài si-ling đây đó không thể tạo ra sự khác biệt được. Và Burkenheads luôn luôn đáng tin cậy nhất. Con thật sự không nghĩ, thưa cha, cha phải ngồi trên một tấm bia mộ như thế. - Có lẽ, bất kính thật. - Ô không, không, dĩ nhiên con không muốn nói chuyện đó Tới Bất Cứ Mức nào, thưa cha. Con muốn nói Hòn đá, sự ẩm ướt đã thấm qua và với chứng thấp khớp của cha - mắt cô lướt nhẹ về phía Tuppence dò hỏi. - Hãy để cha giới thiệu con với cô Bligh. Cha cố nói. Đây là - đây là - cha lưỡng lự. - Bà Beresfold, Tuppence đáp. - A vâng, cô Bligh trả lời. Tôi thấy bà trong nhà thờ, không biết có nhầm không, vừa mới đây thôi, nhìn quanh khảo sát. Tôi muốn đến và nói chuyện với bà, gọi sự chú ý của bà đến một hai điểm đáng lưu tâm, nhưng tôi lại đang vội làm cho xong việc. - Đúng ra tôi phải đến và giúp cô, Tuppence nói giọng nói ngọt ngào nhất. Nhưng điều đó không ích gì, bởi vì tôi thấy cô biết chính xác nơi nào những bông hoa phải đến. - Rất dễ thương cho cô đã nói vậy, đó hoàn toàn là sự thật. Tôi làm việc cắm hoa nhà thờ trong - ồ tôi không biết bao nhiêu năm rồi. Chúng tôi để học sinh tự làm những bình hoa dại đặc biệt cho lễ hội, dĩ nhiên mặc dù chúng không có một chút ý kiến, tụi nhỏ khốn khổ. Thật sự tôi nghĩ đến một Ít lời hướng dẫn, nhưng bà Peake không bao giờ có bất cứ chỉ thị nào. Bà ấy quá kì dị. Bà ấy nói điều đó làm hỏng sáng kiến của chúng. Cô định ở lại đây à? Cô hỏi Tuppence. - Tôi định đến chợ Basing. Tuppence đáp. Có lẽ cô có thể chỉ cho tôi một khách sạn đẹp yên tĩnh để ở lại? - Tôi nghĩ cô sẽ hiểu chuyện ấy hơi không được vui. Đó chỉ là một phố chợ. Nó không cung cấp dịch vụ buôn bán xe hơi. Khách sạn Rồng xanh hai sao nhưng đôi khi tôi nghĩ những sao này Trong Bất Kì cách nào cũng không có ý nghĩa gì hết. Tôi nghĩ tốt hơn cô nên đến khách sạn Con Thỏ. Yên tĩnh hơn. Cô còn ở đây lâu không? - Không, chỉ một hai ngày trong khi tôi đi tham quan miền phụ cận. - Tôi e, không có chi nhiều để xem. Không có di tích thời cổ đại nào đáng chú ý hay cái gì như thế. Chúng tôi ở một miền thuần túy thôn dã và trồng trọt. Cha cố nói. Nhưng thanh bình, còn phải nói, rất thanh bình. Như cha nói với con, một số hoa rừng lại đáng chú ý. - A vâng, Tuppence đáp, con đã nghe và con đang lo hái vài mẫu trong những khoảng nghỉ khi thực hiện một ít việc săn bắn dễ chịu. - Thú vị lắm, cô Bligh nói. Cô có nghĩ chuyện ổn định cuộc sống trong vùng phụ cận này không? - Nói chung chúng tôi chưa xác quyết rõ ràng ở một miền phụ cận nào. Tuppence nói. Chúng tôi không vội. Trong mười tám tháng nữa ông ấy vẫn chưa về hưu. Nhưng cũng luôn phải kiếm tìm quanh đây. Với tư cách cá nhân, cái điều tôi thích làm là ở lại trong một miền phụ cận bốn năm ngày, kiếm một danh sách những bất động sản nhỏ thích hợp với mình và lái xe đi xem. Từ London xuống một ngày để coi một ngôi nhà đặc biệt rất mệt, tôi hiểu vậy. - Ô vâng, cô mang theo xe đến đây à? - Phải, Tuppence nói. Tôi phải đi kiếm một đại diện nhà tại chợ Basing sáng mai. Tôi giả thiết, không có nơi nào ở lại trong làng, phải không? - Tất nhiên, có nhà bà Copleigh, cô Bligh nói. Mùa hè bà ấy cho mọi người thuê. Khách mùa hè. Bà ấy chùi dọn đẹp đẽ. Tất cả các phòng. Dĩ nhiên, bà ta chỉ làm giường và bữa sáng và có lẽ một bữa an nhẹ buổi tối. Nhưng cha không nghĩ bà ấy cho nhiều người thuê vào tháng tám hay tháng sáu vào thời kì sớm nhất. - Có lẽ con có thể đi và tìm hiểu vậy. - Bà ấy là một phụ nữ có giá nhất đấy. Cha cố nói. Lưỡi bà thích đùa. Bà không bao giờ ngừng nói, không một phút nào. - Nói nhiều chuyện tầm phào và tán gẫu luôn luôn xảy ra trong những ngôi làng nhỏ này. Cô Bligh nói. Tôi nghĩ sẽ là một ý kiến hay nếu tôi giúp được bà Beresfold. Con có thể dẫn bà ấy đến bà Copleigh và chỉ xem coi có cơ hội không. - Cô rất tử tế. - Vậy chúng ta đi, cô Bligh nói nhanh. Chào cha. Còn tìm kiếm sao? Một bài thử nghiệm đáng buồn và quá khó thành công được. Con thật sự nghĩ đó là một đòi hỏi vô lí Nhất. Tuppence nói lời tạm biệt cha cố và bảo cô sẽ vui lòng giúp ông nếu có thể. - Con có thể dễ dàng xử dụng một hai giờ khảo sát những bia mộ khác nhau. Tuổi con mắt còn tinh lắm. Có phải cha chỉ đang tìm cái tên Waters? - Thật sự không. Cha cố đáp. Cha nghĩ, tuổi mới quan trọng. Một đứa trẻ độ chừng bảy tuổi. Một bé gái. Thiếu tá Waters nghĩ rằng có thể vợ ông đổi tên con gái và rất có thể người ta chỉ biết cái tên mới đổi ấy. Khi ông không biết tên con là gì, sự việc càng khó thêm. - Tới một chừng mức con có thể hiểu, toàn thể sự việc không thể tin được. Cô Bligh nói. Chưa bao giờ cha phải nói rằng cha sẽ làm một việc như thế, thưa cha. Điều đó vô nhân đạo, gợi ý một việc như thế. - Người bạn khốn khổ dường như rất bối rối. Lịch sử đều buồn, tới chừng nào cha có thể hiểu được. Nhưng cha không giữ con. Khi được cô Bligh dẫn đi Tuppence nghĩ thầm việc bà Copleigh nổi tiếng nói nhiều không quan trọng, bà khó mà nói nhiều hơn cô Blligh. Một dòng thác thông tin nhanh và độc tài tuôn ra từ môi cô. Túp lều của bà Copleigh chứng tỏ là một nơi ở thú vị có nhiều phòng xây lưng khỏi đường làng với phía trước một vườn hoa xinh xắn, một bậc cửa sơn trắng và một tay nắm bằng đồng đánh bóng. Hình như đối với Tuppence bà Copleigh giống như một nhân vật với vẻ đáng nể bước ra từ những trang truyện của Dicken. Bà ta rất nhỏ nhắn và rất tròn, vì vậy bà ta lăn về phía bạn trông giống như một trái banh cao su. Cặp mắt bà ta sáng lấp lánh, mái tóc vàng hoe cuốn thành những lọn xúc xích trên đỉnh đầu và một vẻ mạnh mẽ lạ thường. Sau khi trình diễn một chút nghi ngờ đế bắt đầu với - 'tôi không thường trực. Cô biết mà. Không. Chồng tôi và tôi nói" khách mùa hè, đó là khác." Ngày nay mọi người đều làm thế nếu họ có thể làm. Và phải làm, tôi tin chắc. Nhưng tháng này trong năm, chúng tôi không có nhiều khách. Không cho đến tháng sáu. Tuy nhiên, nếu chỉ ở vài ngày và quý bà không ngại điều kiện ở hơi thô, thì có lẽ - 'Tuppence nói cô không ngại đồ đạc thô sơ và bà Copleigh, đã quan sát cô kĩ lưỡng, không ngừng tiếng róc rách của dòng suối đối thoại, bảo có lẽ quý bà sẽ vui lòng lên xem phòng, và rồi đồ đạc sẽ được sắp xếp. Ngay lúc đó cô Bligh tự xé rào với ít tiếc nuối bởi vì cô không có khả năng rút thêm nhiều thông tin cần thiết từ Tuppence mà cô cần. Như là bà đến từ đâu, chồng bà làm gì, bà mấy tuổi, bà có con chưa và những vấn đề đáng quan tâm khác. Nhưng rõ ràng cô có một cuộc họp cô sắp chủ tọa và thật kinh khủng đánh liều để cho một kẻ khác nắm lấy địa vị đáng thèm khát đó. - Cô hoàn toàn ổn với bà Copleigh rồi, cô bảo đảm với Tuppence. Bà ấy sẽ săn sóc cô, tôi tin thế. Nào còn xe hơi của bà đâu? - Ô, tôi sẽ tìm nó ngay. Tupppnce đáp. Bà Copleigh sẽ nói cho tôi biết chỗ đậu. Thật sự tôi có thể để xe bên ngoài và đây không phải là con đường hẹp, phải thế không? - Chồng tôi có thể giúp cô việc đó tốt hơn. Ông ấy sẽ đậu xe trong cánh đồng cho cô. Chỉ vòng quanh con đường hẹp phía bên này thôi, và rồi sẽ hoàn toàn ổn. Có một cái kho để hàng ông có thể đưa xe vào đó. Trên cơ sở đó mọi việc được xếp đặt tử tế và cô Bligh vội vàng đến chỗ hẹn. Vấn đề bữa ăn tối sau đó được đặt ra. - Chúng tôi không có gì khi quý bà đến, bà Copleigh nói, nhưng nếu bà hài lòng với hai quả trứng một khoanh mỏng thịt nạc và có thể ít bánh mì với jambông ở nhà làm - Tuppence đáp điều đó thật tuyệt. Phòng cô nhỏ nhưng vui mắt dễ chịu với giấy dán tường hoa hồng và một giường ngủ tiện nghi và một làn không khí chung thì sạch sẽ không vết nhơ. - Vâng, đó là loại giấy dán tường đẹp, thưa cô. Bà Copleigh nói, người dường như đồng ý với tình trạng đơn chiếc của Tuppence. Chúng tôi chọn loại giấy đó để cho bất cứ cặp vợ chồng mới cưới nào đến đây vào tuần trăng mật. Lãng mạn, nếu bà hiểu điều tôi nói. Tuppence đồng ý sự lãng mạn là điều rất đáng mơ ứơc trong cuộc sống. - Ngày nay người ta không kiếm được nhiều để tiêu, những cặp mới lấy nhau ấy. Không phải là điều họ quen. Hầu hết những người cô biết đấy đang tiết kiệm tiền mua nhà hay làm giảm bớt những món phải trả. Hay họ bắt đầu mua sắm một số đồ đạc trong khi mua trả góp và điều này làm họ không còn tiền cho một tuần trăng mật sang trọng hay cái gì như thế. Khỏi phải nói, đa số người trẻ ấy đều thận trọng. Họ không cố thử hết tiền của họ. Bà ta rổn rảng xuống lầu và bà ta còn nói nhanh lúc đi, Tuppence nằm xuống giường và ngủ một nửa giờ sau một ngày mệt mỏi. Tuy nhiên, hy vọng lớn lao cô nhằm vào bà Copleigh, cảm thấy một lần được nghỉ ngơi đầy đủ, cô sẽ có khả năng dẫn cuộc nói chuyện đến những đề mục có thể gặt hái được thành công. Tin chắc mình sẽ lắng nghe, tất cả mọi chuyện về ngôi nhà bên con kênh, ai đã sống ở đó, trong vùng phụ cận kẻ nào từng nổi tiếng là ma quỷ hay thiên thần, ở đó có vụ tai tiếng nào và những đề mục tương tự. Khi được giới thiệu với ông Copleigh cô càng được thuyết phục về điều này hơn bao giờ, một người đàn ông mở miệng vừa đủ. Cuộc đối thoại của ông gồm những tiếng hự đáng yêu, thường mang ý nghĩa một sự xác định. Đôi khi một sự bất đồng, trong một âm giọng câm hơn. Tới một chừng mức Tuppence có thể hiểu được ông ta hài lòng để vợ nói. Ông ta hầu như tách rời sự chú ý của mình, phần lớn thời gian bận rộn cho ngày kế tiếp có vẻ là phiên chợ. Cho đến tận lúc Tuppence không có gì tốt hơn để có thể đưa ra liên hệ. Nó có thể được phân biệt bởi một câu châm ngôn - 'anh muốn thông tin, anh đã có'. Bà Copleigh là một vô tuyến điện hay là một cái ti vi. Bà chỉ cần bấm nút là những lời lẽ tuôn ra kèm theo những cử chỉ và nhiều biểu lộ bằng nét mặt. Không chỉ con người bà như trái banh hơi của đứa trẻ, khuôn mặt bà cũng làm bằng cục tẩy cao su. Những con người khác nhau đang được bà nói đến hầu như sống động trong tranh biếm họa trước mắt Tuppence. Tuppence ăn thịt heo nguội và trứng và vài khoanh bánh mì dày phết bơ và ca ngợi món mứt quả mâm xôi ở nhà làm, món sở thích của cô, cô thành thật loan báo, và nhanh chóng hấp thu tốt nhất dòng suối thông tin để có thể ghi vào sổ tay sau này. Toàn cảnh quá khứ của miền này dường như giăng ra trước mặt cô. Không có diễn tiến theo thứ tự nào xuất hiện điều đó làm cho sự việc khó khăn. Bà Copleigh nhảy từ mười lăm năm đến cách đây hai năm đến tháng qua, rồi trở lại một điểm nào đó từ số hai mươi. Tất cả điều này sẽ được phân loại nhiều. Tuppence tự hỏi cuối cùng mình có gặt hái được gì không. Nút đầu tiên bà ấn không cho cô kết quả gì. Đó là sự nhắc nhở đến bà Lancaster. - Tôi nghĩ bà ấy đến từ đâu đó, Tuppence nói, chấp nhận nhiều nét mơ hồ thể hiện qua giọng nói của mình. Bà ấy có một bức tranh - một bức tranh được vẽ rất đẹp do một hoạ sĩ tôi tin đã từng xuống đây. - Bà nói ai thế? - Bà Lancaster. - Không, tôi không nhớ bất cứ bà Lancaster nào trong những vùng này. Lancaster. Lancaster. Một người quý tộc bị một tai nạn xe hơi, tôi nhớ. Không, đó là tôi đang nghĩ đến chiếc xe hơi. Đó là một chiếc Lancaster. Không phải bà Lancaster. Cũng sẽ không phải cô Bolton, phải không? Tôi nghĩ bây giờ cô ta khoảng bảy mươi tuổi. Có thể cô đã cưới ông Lancaster. Cô ấy đi xa và du lịch ra ngoại quốc rồi và tôi có nghe cô ta cưới người khác. - Bức tranh bà ấy tặng dì tôi do ông Boscobel vẽ - tôi nghĩ đó là cái tên, Tuppennce nói. Món mứt thật tuyệt. - Giống như hầu hết mọi người đều làm, tôi không cho táo vào. Mọi người nói như thế làm mứt đông hơn, nhưng khiến mùi hương không còn. - Phải, tôi hoàn toàn đồng ý với bà. Nó mất hương vị. - Hồi này cô nói ai? Nó bắt đầu bằng chứ B nhưng tôi chưa hoàn toàn nắm bắt được. - Boscobel, tôi nghĩ thế. - Ô, tôi nhớ ông Boscowan rất rõ. Nào hãy coi lại. Chắc phải là - ông ta xuống đây cách đây ít nhất cũng mười lăm năm. Ông ta đến liên tục trong nhiều năm. Ông yêu thích chỗ này. Thực tế có thuê một túp lều. Đó là một trong những túp lều của Nông phu Hart, cái nhà ông ta giữ lại cho người làm thuê. Nhưng họ xây một ngôi nhà mới. Nhà hội đồng ấy. Bốn nhà tranh đặc biệt dành cho người làm thuê. - Ông B là nghệ sĩ bình thường, bà Copleigh nói. Ông thường mặc cái áo choàng không tin được. Loại vải nhung hay vải to sợi dày có sọc. Trong khủy tay áo có nhiều lỗ rách và ông mặc áo sơ mi màu xanh lục hay màu vàng. Ông ấy hả, rất thú vị.Tôi thích tranh ông ta. Một năm ông ấy có triển lãm. Thời gian khoảng gần lễ Giáng sinh. Không, dĩ nhiên không, phải là vào hè cơ. Mùa đông ông ấy không ở đây. Phải, rất đẹp. Nếu cô hiểu điều tôi nói, không có gì gợi hứng cả. Chỉ có một căn nhà với hai cái cây và hai con bò cái nhìn qua hàng rào. Nhưng tất cả đều dễ chịu yên tĩnh và những màu sắc đều đẹp. Không giống như một số bạn trẻ ngày hôm nay. - Bà có nhiều nghệ sĩ xuống đây không? - Thật sự thì không. Ô không, đừng nói đến chuyện đó. Một hai qúy bà đến đây vào mùa hè và thỉnh thoảng làm vài bức phác thảo, nhưng tôi không nghĩ nhiều về họ. Cách đây một năm tôi có một người bạn trẻ, tự xưng là một nghệ sĩ. Không đẽo gọt thích đáng. Tôi không thể nói tôi thích tranh anh ta nhiều. Dù sao tất cả những màu sắc đều cuốn xoáy mơ hồ. Cô không thể nhận thức được một chút gì. Hơn nữa anh ta bán nhiều tranh. Nhắc cô, là chúng không rẻ. - Chắc phải năm pound. Lần đầu tiên ông Copleigh thình lình xen vào cuộc đối thoại khiến Tuppence nhảy nhổm. - Cái chồng tôi nghĩ là, bà Copleigh lấy lại vị trí của mình như để lí giải giùm cho chồng. Ông ấy nghĩ không có tranh nào quá năm pound. Sơn dầu không đắt như vậy. Đó là những gì ông muốn nói, phải không, George? - A. George trả lời. - Ông Boscobwan sơn một căn nhà bên một cây cầu nhỏ có mái hình cung và con kênh - Waterside hay Watermead, nó được gọi thế nào? Hôm nay tôi đến hướng đó. - Cô đi dọc theo con đường đó sao? Nó không phải là con lộ, phải không nào? Rất hẹp. Ngôi nhà đơn độc, tôi luôn nghĩ thế. Quá hiu quạnh. Ông có nghĩ thế không, George? George tạo một âm thanh diễn tả sự bất đồng yếu ớt và có thể khinh bỉ sự nhát gan của phụ nữ. - Đó là nơi Alice Perry sống mà. Tuppence đành bỏ qua sự tìm kiếm tin tức ông Boscowan để tán thành với ý kiến về gia đình Perry. Cô nhận thấy rằng, điều này tốt hơn là đi theo bà Copleigh người luôn nhảy từ vấn đề này sang vấn đế khác. - Họ là một đôi kì dị. George làm một âm thanh đồng ý. - Họ giữ bí mật cho nhau. Như cô nói, không hoà trộn lẫn nhau. Cô ta đi quanh trông giống như không có gì trên đời này, Alice Perry đấy. - Điên. Ông Copleigh nhận xét. - Tôi không biết tôi có nói thế không. Bà ấy thì trông có vẻ điên rồi. Tóc bay tung. Hầu hết thời gian bà ấy mặc áo choàng đàn ông mang ủng cao su lớn. Bà nói những chuyện kì quặc và nhiều khi không trả lời cô khi cô hỏi bà một câu. Nhưng tôi không bảo bà ấy điên. Kì quặc, chỉ thế thôi. - Mọi người có thích bà ta không? - Hầu như không ai biết bà, mặc dù họ đã ở đây nhiều năm. Có đủ loại chuyện kể về bà ta nhưng rồi thì, đó luôn là những câu chuyện kể. - Loại chuyện nào? Những câu hỏi trực tiếp không bao giờ khién bà Copleigh lưỡng lự, người chào đón họ như một kẻ vì quá háo hức không thể đáp lại. - Người ta nói, gọi những hồn ma ban đêm. Ngồi quanh một bàn tròn. Và những câu chuyện về những ngọn đèn di chuyển xung quanh toà nhà buổi tối. Họ nói, cô ấy đọc nhiều sách trinh thám. Trong sách nhiều sự kiện được vẽ ra - những ngôi sao, những vòng tròn. Nếu cô hỏi tôi, thì đó là Amos Perry là một người không hoàn toàn ổn định. - Ông ta chỉ chấc phác thôi. Ông Copleigh dễ dãi nói. - Có thể về điều đó ông có lí. Nhưng một lần có một câu chuyện kể về ông ta. Thích làm vườn, nhưng không nhiều. - Dầu vậy đó chỉ là nửa căn nhà thôi, phải không? Tuppence nói. Bà Perry mời tôi vào rất tử tể. - Bà ấy làm thế à? Thật sao? Tôi không biết tôi có thích vô cái nhà ấy không nữa. Bà Copleigh nói. - Phần nhà của họ thì ổn rồi. Ông Copleigh đáp. - Còn phần kia có ổn không? Tuppence nói. Mặt tiền ngó ra con kênh ấy. - Hừm, thường có nhiều câu chuyện về nó đấy. Tất nhiên, trong nhiều năm không ai ở đó. Người ta bảo có nhiều chuyện kì dị về nó. Nhiều câu chuyện được kể lại. Nhưng khi cô đến đó, không có câu chuyện nào trong kí ức người ở đây. Cách đây lâu lắm rồi, khỏi phải nói. Nó được xây dựng cách đây trên một trăm năm. Người ta kể đầu tiên có một công nương tuyệt đẹp đến giữ chỗ đó, một trong những người qúy tộc tại triều đình xây cho cô. - Triều đại Victoria? Tuppence hỏi với sự chú ý. - Tôi không nghĩ thuộc triều đại của bà. Bà Hoàng già là một người đặc biệt. Không, tôi nói là triều đại trước cơ. Một trong những người thuộc triều đình vua George. Vị qúy tộc này thường xuống đây thăm công nương còn những câu chuyện thì tiếp tục như là họ cãi nhau và ông ta một đêm đã cắt cổ cô. - Kinh khủng quá! Họ treo cổ ông ta sao? Tuppence nói. - Không. Ô không, không có chi. Chuyện kể là, ông ta phải tẩy cái xác và xây tường bít lại phía trong lò sưởi. - Chôn cô ấy trong lò sưởi! - Người ta kể theo một số cách, người ta bảo cô ấy là một nứ tu và cô đã chạy trốn khỏi tu viện đó là lí do tại sao cô ấy bị xây tường bít lại. Người ta thường làm thế ở các tu viện. - Nhưng không phải những nữ tu sĩ xây tường bít cô ta lại. - Không, không. Chính ông ta làm. Người tình của cô, cái kẻ đã tóm cổ cô. Ông ta xây gạch quanh lò sưởi, đóng đinh một tấm sắt lớn trên lò. Dù thế nào thì, không bao giờ trông thấy cô nữa, linh hồn khốn khổ, đi dạo quanh trong những bộ đồ dài đẹp nhất. Tất nhiên, một số người bảo rằng cô đi xa với ông ta. Ra đi sống tại thành phố hay trở về một nơi nào khác. Người ta thường nghe những tiếng động và trông thấy những ánh đèn trong nhà, khi đêm xuống nhiều người không dám đến gần. - Nhưng chuyện gì xảy ra sau đó? Tuppence hỏi, cảm thấy đi lùi lại quá xa vào triều đại Nữ Hoàng Victoria hình như hơi quá sâu vào thời quá khứ so với những gì cô đang tìm kiếm. - Tôi không biết nhiều chuyện ở đó. Một nông dân tên Blodgid tiếp nhận chỗ đó khi nó được đề cập đến chuyện bán, tôi tin thế. Ông ta cũng không ở lâu. Họ gọi đó là nông dân qúy tộc. Điều đó giải thích tại sao ông ta thích căn nhà, tôi cho là thế, nhưng đất nông trại không quen lắm với ông, và ông ta không biết giải quyết thế nào. Và thế lại bán lần nữa. Ngôi nhà bị đổi chủ quá nhiều lần - những người xây dựng luôn đến theo và sứa sang lại - những phòng tắm mới - điều mơ hồ không giải thích được - có một lần, một cặp vợ chồng đã biến thành trại nuôi gà. Nhưng cô biết không, nó có một cái tên, vì sự không may. Nhưng trước thời đại của tôi tất cả không đáng kể. Tôi tin ông Boscowan có một lần đã có ý định mua căn nhà đó. Đó là lúc ông ta vẽ ngôi nhà. - Khi xuống đây ông Boscowan bao nhiêu tuổi? - Bốn mươi, hay có thể lớn hơn một chút. Trong một chừng mức nào đấy đẹp trai. Tới mức hơi béo. Ông ta là một người vĩ đại đối với các cô gái. - A, ông Copleigh nói. Lần này là một tiếng lầm bầm báo hiệu. - Tất cả chúng tôi đều biết các nghệ sĩ giống nhau thế nào. Bà Copleigh nói, bao gồm Tuppence trong sự hiểu biết này. Qua Pháp nhiều lần, học cách của người Pháp, họ là thế đấy. - Ông ta không cưới vợ ư? - Khi đó ông ta chưa. Khi ông ta xuống đây cơ ông ta vẫn chưa có vợ. Ông ta say mê con gái bà Charrington, nhưng không có gì cả. Mặc dầu cô ta là một cô gái tuyệt đẹp, nhưng quá trẻ đối với ông. Cô ấy chưa tới haimươi lăm tuổi. - Bà Charrington là ai? Lời giới thiệu những nhân vật mới này làm Tuppence cảm thấy lúng túng. - Mình làm cái qủy gì ở đây thế? Bất tình lình cô nghĩ khi những làn sóng mệt mỏi chụp lên mặt cô - ta chỉ đang lắng nghe nhiều chuyện tầm phào về mọi người, và tưởng tượng những sự việc như chuyện sát nhân không có gì thật cả. Bây Giờ ta Mới hiểu - chuyện khởi sự khi một con mèo gì xinh đẹp nhưng hết minh mẫn nhét một mớ hỗn độn trong đầu hồi tưởng lại những câu chuyện về ông Boscowan này, hay một kẻ nào khác giống ông ta tặng cho bà bức tranh, kể về ngôi nhà và những truyền thuyết xung quanh nó, về một người nào đó bị chôn sống trong một cái lò sưởi và vì một lí do nào đó bà nghĩ rằng đó là một đứa trẻ. Và đến đây ta bắt đầu điều tra quanh một khám phá kì thú nhưng vô giá trị. Tommy bảo mình là một đứa ngu, và anh ta hoàn toàn có lí - ta Là một kẻ ngu. Tuppence chờ đợi bà Copleigh cắt ngang dòng thác đối thoại, để cô có thể đứng dậy, nói lời chúc ngủ ngon lịch sự và lên lầu ngủ. Bà Copleigh vẫn còn say sưa hạnh phúc. - Bà Charrington? Bà sống một ít tại Watermead, bà và con gái bà. Bà Charrington là một phụ nữ qúy tộc xinh đẹp. Quả phụ một sĩ quan quân đội. Tôi tưởng thế. Túng tiền, mà căn nhà thì đang cho thuê giá rẻ. Làm vườn nhiều. Bà rất thích việc làm vườn. Không thạo việc giữ nhà cửa cho sạch sẽ, bà ấy không làm được. Một hai lần tôi đến làm ơn cho bà, nhưng không thể duy trì mãi được. Tôi phải đi xe đạp, mà đường trên hai dặm. Dọc con đường đó không có xe búyt. - Nhưng bà ở đó có lâu không? - Không hơn hai ba năm, tôi nghĩ thế. Tôi cho rằng, bị khiếp sợ sau khi những rắc rối xảy đến. Bà cũng có những mối lo riêng về cô con gái nữa, Lillian, tôi nghĩ đó là tên cô. Tuppence uống một hơi tách trà đậm nhờ nó bữa ăn được tăng cường, tìm cách chấm dứt chuyện bà Charrington trước khi đi tìm sự nghỉ ngơi. - Bà ấy có mối lo gì về con gái? Ông Boscowan chăng? - Không, không phải ông Boscowan là người gây ra nỗi lo phiền. Tôi không bao giờ tin điều đó. Đó là một người khác. - Người kháclà ai? Tuppence hỏi. Một người khác họ sống ở đây à? - Tôi không nghĩ ông ta sống trong những miền này. Một người cô ta gặp ở London. Không biết có phải cô ta đến đó để học vũ ba lê không? Hay nghệ thuật? Ông Boscowan sắp xếp cho cô học một trường nào đó ở đó. Tôi nghĩ tên là Slate. - Slate? Tuppence gợi ý. - Có thể. Loại tên đó mà. Dù sao, cô ấy thường đến đó và đó là cách cô biết ông bạn, ông ấy là ai. Bà mẹ không thích chuyện ấy. Bà cấm cô gặp ông. Đúng như mong đợi điều ấy không ích lợi chút nào. Trong một chừng mức naò đó bà là một phụ nữ điên. Giống như nhiều vợ của các sĩ quan quân đội thời đó. Bà ấy cho rằng các cô gái sẽ làm những gì họ được bảo làm. Trễ hơn thời gian quy định, cô ấy vâng lời. Sống tại Ấn độ và những miền đất này, nhưng khi đó là vấn đề của một chàng trẻ tuổi đẹp trai và bạn rời mắt khỏi cô con gái, bạn sẽ thấy con gái không làm những gì mình bảo nó. Không phải cô ta. Ông ta thỉnh thoảng thường xuống đây và họ lại gặp nhau bên ngoài. - Và rồi cô vướng vào chuyện rắc rối, phải không? Tuppence nói, dùng lời nói khéo nổi danh, hi vọng dưới hình thức đó sẽ không làm tổn thương ý thức đạo đức của bà Copleigh. - Chắc phải là ông ta, tôi nghĩ vậy. Dẫu sao, điều ấy hiển nhiên. Tôi thấy chuyện đó kéo dài thế nào trước khi mẹ cô biết. Cô ta là con người đẹp. Cao tròn lẳng và đẹp gái. Nhưng tôi không nghĩ cô ấy là hạng người có thể chịu đựng mọi sự. Cô ấy suy sụp, cô biết không. Cô thường đi lang thang bên ngoài như một kẻ dại, lẩm bẩm một mình. Nếu cô hỏi ông ta xử tệ với cô ấy, thì đúng thế. Đí xa và bỏ mặc cô ấy khi ông ta khám phá ra những gì đang xảy ra. Tất nhiên, một người mẹ như một người mẹ sẽ đi tìm hắn ta nói chuyện với hắn và khiến cho hắn hiểu phận sự của hắn nằm ở đâu, nhưng bà Charrington không có đủ tinh thần làm điều đó. Dù sao, bà mẹ đã khôn ngoan, bà đem con gái đi xa. Khóa cửa nhà lại, sau đó bà dựng bảng bán nhà. Họ trở về đóng gói đồ đạc, tôi tin thế, nhưng họ không bao giờ về làng hay nói chuyện với ai. Có một số câu chuyện đồn đãi quanh đây. Tôi không bao giờ biết có phần nào sự thật không. - Một số cư dân dựng lên chuyện gì đó. Ông Copleigh bất ngờ nói. - Tốt, anh có lí đó, George. Có lẽ chúng còn là sự thật. Những chuyện như thế vẫn xảy ra. Và như anh nói, cô gái ấy đối với tôi có cái đầu không thật ổn định lắm. - Chuyện gì nữa thế. Tuppence hỏi. - Thật ư, tôi không thích nói ra đâu. Từ đó là cả một thời gian dài và tôi không thích nói cái gì minh không chắc. Đó là cô Louise của Bà Badcok kẻ gây bối rối. Cô gái ấy là kẻ nói dối cực kì. Những chuyện cô ta nói. Bất cứ cái gì dựng nên một câu chuyện hay. - Mà chuyện gì cơ chứ? - Nói rằng cô con bà Charrington đã giết đứa trẻ rồi sau đó tự sát. Bảo rằng mẹ cô gần như hoá điên với nỗi buồn và bà con cô ấy nhốt cô ấy trong một nhà bảo dưỡng. Một lần nữa Tuppence cảm thấy sự bối rối vọt lên trong đầu. Cô cảm thấy hầu như mình đang lắc lư trong ghế tựa. Phải chăng bà Charrington là bà Lancaster? Đổi tên, hơi điên rồ rồi, ám ảnh bới vận mạng của con gái. Giọng nói của bà Copleigh tiếp tục không ngăn lại được. - Tôi chưa bao giờ tin một lời nào. Cô gái Badcok nói cái gì đó. Chúng tôi chưa bao giờ lắng nghe lời đồn đãi và những câu chuyện như vậy - chúng tôi có những việc khác để lo. Chúng tôi hãy còn sợ chết khiếp, trên khắp vùng quê bởi vì những việc đã xảy ra - những sự việc có thật - - Tại sao? Những gì đang xảy ra? Tuppence hỏi, kinh ngạc trước những sự kiện hình như sắp xảy ra, đặt trọng tâm quanh ngôi làng nom thanh bình của Sutton Chancellor. - Tôi dám nói cô đã đọc tất cả về câu chuyện trong các báo vào thời đó. Xem nào, có thể gần hai mươi năm qua rồi. Chắc chắn cô có đọc về câu chuyện ấy. Tội giết trẻ em. Đầu tiên những em gái nhỏ cỡ chín tuổi. Một ngày sau buổi học không về nhà. Toàn thể vùng phụ cận đổ ra ngoài tìm kiếm. Cô bé được tìm thấy tại Dingley Copse. Cô bé bị treo cổ. Việc đó làm tôi rùng mình mỗi lần nghĩ đến. Đó là tội ác đầu tiên, rồi ba tuần sau lại một tội ác nữa. Phía bên kia chợ Basing. Nhưng trong vùng phụ cận, như cô có thể nói. Một người đàn ông với một chiếc xe có thể làm điều đó dễ dàng. - Và rồi những tội ác khác. Đôi khi không tới một tháng hay hai. Tiếp lại một tội ác nữa. Từ đây không quá hai dặm. Dầu thế, hầu như ngay trong làng mình. - Không có cảnh sát - không có người nào biết kẻ nào đã gây ra sao? - Họ đã cố gắng khá vất vả rồi. Bà Copleigh đáp. Họ bắt giam giữ một người đàn ông ngay sau đó. Một người từ phía bên kia chợ Basing. Bảo ông ta đang giúp cảnh sát điều tra. Cô biết điều đó có nghĩ gì rồi. Họ nghĩ họ bắt được hắn ta. Đầu tiên họ lừa được một người rồi người khác nhưng luôn luôn sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ hay họ phải thả hắn ta ra. Khám phá ra anh ta không thể làm điều đó hay không có trong những miền này hay một ai đó cho anh ta một chứng cớ ngoại phạm. - Bà không biết, Liz, ông Copleigh nói. Có thể họ đã biết rất rõ kẻ nào làm việc đó. Tôi dám cá họ Biết. Đó thường là cái hướng, hay tôi đã nghe thế. Cảnh sát biết người đó là ai nhưng họ không có bằng chứng. - Đó là những người vợ, người mẹ hay thậm chí những người cha. Ngay cả cảnh sát cũng không coi là hệ trọng cái điều họ có thể nghĩ ra. Một người mẹ nói' tối qua thằng con tôi ăn tối ở đây" hay cô vợ trẻ nói đêm hôm đó cô đi coi phim với ông ta, và suốt thời gian đó ông ở với cô, hay một người cha nói ông và con trai ông ở ngoài trời trong cánh đồng xa làm một việc gì đó - bạn không thể làm chi để chống lại điều đó cả. Họ có thể nghĩ ông bố hay người mẹ hay tình nhân của ông ta nói dối, nhưng trừ phi một kẻ nào đó đến và khai anh ta thấy gã trai hay người đàn ông hay bất kể thứ gì trong một chỗ nào đó, họ không thể làm gì được. Đó là một giai đoạn kinh khủng. Tất cả chúng tôi quanh đây đều bồn chồn ngồi đứng không yên. - A, đúng vậy. Ông Copleigh nói. - Khi cùng nhau tụ tập họ đi ra ngoài kiếm tìm. Thỉnh thoảng họ tìm thấy ngay cô bé và đôi khi họ tìm kiếm hàng tuần. Đôi khi cô ta ở khá gần nhà trong một chỗ cô sẽ nghĩ chúng tôi chắc đã xem xét rồi. Tôi cho rằng chắc phải có ma thuật. Thật khủng khiếp. Bà Copleigh nói giọng đạo đức, 'thật kinh khủng, có những bọn đàn ông như thế. Chúng đáng bị xử bắn. Chúng phải bị treo cổ. Và nếu người ta để tôi làm, tôi sẽ treo cổ chúng. Bất cứ bọn đàn ông nào giết và tấn công trẻ em. Cách tốt nhất là đem nhốt chúng vào một nhà thương điên và đối xử chúng với sự dịu dàng cùng mọi tiện nghi gia đình. Rồi sớm hay muộn họ lại cho chúng ra ngoài, bảo rằng chúng đã được chữa trị và đưa chúng về nhà. Điều này xảy ra nơi nào đó tại Norfold. Chị tôi sống ở đó và chị kể cho tôi nghe chuyện này. Hắn trở về nhà và hai ngày sau hắn gây vụ khác. Những ông bác sĩ này, họ điên cả rồi, một vài người trong bọn họ, bảo hắn ta được chữa lành rồi trong khi chúng chưa lành. - Và bà chưa có ý tưởng về ai đã xuống đây? Tuppence nói. Bà có nghĩ thật sự đó là một người ngoại quốc không? - Với chúng tôi có lẽ là một người nước ngoài. Nhưng chắc chắn phải là một kẻ sống trong vùng - Ồ! Tôi nói tầm xe đi được hai dặm xung quanh. Trong ngôi làng này nó không thể ở đây được. - Bà luôn nghĩ như vậy, Liz. - Ông bồn chồn ngồi đứng không yên, bà Copleigh nói. Ông nghĩ chắc hắn ở đây trong miền phụ cận của ông bởi vì ông sợ hãi, tôi tưởng thế. Tôi thường xem xét mọi người. Ông cũng vậy, George. Ông sẽ tự bảo mình rằng tôi ngạc nhiên nếu có thể người bạn Kia ở đây, sau cùng hình như hắn khá kì dị. Không bình thường. - Tôi không giả thiết hắn ta thật sự có vẻ kì quái gì hết. Tuppence nói. Có thể hắn trông giống hệt mọi người khác. - Đúng vậy, có khả năng cô kiếm được một cái gì đó ở đây. Tôi đã nghe họ nói cái điều cô không biết đâu, và bất kể người nào hình như chưa bao giờ mắc chứng điên khùng gì cả, còn những người khác nói trong mắt bọn chúng luôn luôn có những cái nhìn trừng trừng giận dữ khủng khiếp. - Jeffreys, ông là Trung uý cảnh sát ở đây, ông Copleigh nói, ông luôn thường nói rằng ông ta có một ý kiến hay nhưng không có gì để làm cả. - Họ không bao giờ bắt gã sao? - Không. Trên sáu tháng, gần một năm. Toàn thể sự việc ngưng lại. Từ đó không có gì xảy ra quanh đây nữa. Không, tôi nghĩ hắn chắc trốn đi rồi. Cùng đi xa với nhau. Đó là cái điều làm mọi người nghĩ có thể họ biết hắn là ai. - Bà muốn nói vì dân chúng mà hắn Thật sự rời khỏi khu vực à? - Tất nhiên cái ấy khiến người ta nói vậy, khỏi phải nói. Họ nói có thể là một người nào đó. Tupence lưỡng lự định hỏi câu kế tiếp, nhưng cô cảm thấy với đam mê trò chuyện của bà Copleigh điều này không cần thiết. - Bà nghĩ đó là ai? Cô hỏi. - Cách đây khá lâu tôi khó mà muốn nói ra. Nhưng có những cái tên được nhắc đến. Cô biết không, nói đến và xem xét. Một số tên như có lẽ là ông Boscowan. - Thật sao? - Phải, là một nghệ sĩ, và tất cả nghệ sĩ đều kì quặc. Họ nói thế. Nhưng tôi không nghĩ đó là ông. - Nhiều người nói là Amos Perry, ông Copleigh lại xen vào. - Chồng bà Perry ư? - Phải. Lão ấy hơi kì dị, đầu óc ngớ ngẩn. Ông ta là loại người có thể làm điều đó. - Gia đình Perry sống ở đây à? - Không. Không phải tại Watermead. Họ có một túp lều cách đây chừng bốn năm dặm. Cảnh sát trông chừng họ, tôi bảo đảm. - Không thế kiếm được gì từ lão ấy đâu. Bà Copleigh nói. Vợ ông luôn luôn nói về ông. Buổi tối ở nhà với bà. Bà ấy nói thế, luôn luôn. Chỉ thỉnh thoảng đến quán rượu vào tối thứ bảy, vì vậy trong chuyện này không có gì. vả lại, Alice Perry là loại người bạn tin cậy khi bà ấy cho chứng cứ. Bà ấy không bao giờ giảm bớt cường độ hay chùn lại. Bạn không thể sợ hãi bà ấy là một người trong bọn chúng. Dù sao, Lão ấy không phải là tội phạm. Tôi không bao giờ nghĩ vậy. Tôi biết tôi không có gì để tiếp tục nhưng tôi có cảm tưởng rằng nếu tôi phải điểm mặt chỉ tên một người nào đó ra thì tôi phải đánh cá vào Sir Phillip. - Sir Phillip? Đầu Tuppence một lần nữa choáng váng. Một nhân vật khác nữa chưa được giới thiệu. Sir Phillip. Phillip là ai? Cô hỏi. - Phillip Starke - tận hưởng cuộc sống trong nhà Warrender. Thường được gọi là Cổ tu viện khi gia đình Warrender ở đó - trước khi nó cháy rụi. Cô có thể thấy những ngôi mộ nhà Warrender trong sân nhà thờ và những tấm bảng đề tên trong nhà thờ nữa. Thực tế gia đình Warrender luôn ở đây từ thời vua James. - Sir Phillip Starke bà con với gia đình Warrender à? - Không. Kiếm tiền bằng những phương tiện lớn, tôi tin vậy, hay cha ông ta làm vậy. Nhà máy thép hay cái gì như thế. Phillip là loại đàn ông kì dị. Công việc thì đâu đó về hướng bắc, còn ông ta ở đây. Ông ta không giao thiệp. Cái mà người ta gọi là một sự phục hồi lại - phục hồi lại - cáí gì. - Người sống ẩn dật. Tuppence gợi ý. - Đó là từ tôi đang tìm kiếm. Ông ta xanh xao, cô biết không, người gầy ốm đầy xương và rất thích hoa. Ông là nhà thực vật học. Thường sưu tầm các loại hoa dại nhỏ như trẻ con, loại hoa cô không nhìn đến hai lần. Ông ta thậm chí có viết một cuốn sách về chúng, tôi tin thế. Vâng, ông ta thông minh, rất thông minh. Vợ ông là một công nương dễ thương, và rất đẹp, nhưng trông buồn lắm. Tôi luôn luôn nghĩ thế. Ông Copleigh thốt một tiếng hự. 'Bà ngốc, ông nói. Lại nghĩ chuyện đó có thể là sir Philllip. Sir Phillip là người yêu trẻ con. Cho chúng trứng gà - tất cả dâu tây và bữa ăn gồm trà, bánh nướng, mứt trái cây, kem đặc. Ông không có con, cô hiểu chứ. Thường ông ta chận chúng lại trong một đường hẹp và cho chúng kẹo và một đồng sáu xu để mua kẹo. Nhưng tôi không hiểu. Tôi nghĩ ông ta lạm dung điều đó. Ông ta là một người đàn ông kì dị. Tôi nghĩ có một cái gì đó sai lầm khi vợ ông bất ngờ nhanh chóng bỏ ông mà đi. - Vợ ông ta bỏ đi khi nào? - Sau tất cả chuyện rắc rối này chừng sáu tháng. Kế đó ba đứa trẻ bị giết. Phu nhân Starke thình lình đi xa về mìền bắc nước Pháp không bao giờ trở về. Bà ấy không phải là hạng người làm việc đó, cô sẽ nói thế. Bà ấy là một công nương trầm tĩnh, đáng kính. Không có vẻ như là bà từ bỏ ông vì một người đàn ông khác. Không, bà không phải là hạng người làm được việc ấy. Thế Tại Sao bà nhanh chóng từ bỏ ông? Tôi luôn luôn nói bởi vì bà ấy biết một cái gì đó - khám phá ra một điều gì đó - - Ông ta còn ở đây không? - Không thường xuyên. Một năm ông ta xuống đây một hai lần nhưng ngôi nhà lúc nào cũng đóng cửa với một quản gia. Cô Bligh trong làng - cô ấy vẫn là thư kí của ông - cô trông coi mọi việc cho ông. - Và vợ ông? Bà ấy chết rồi, công nương tội nghiệp. Chết ngay sau khi đi ngoại quốc. Trong nhà thờ có một tấm bảng dựng cho cô. Nó sẽ là điều khủng khiếp cho cô. Có lẽ lần đầu cô không chắc, rồi có lẽ cô bắt đầu nghi ngờ chồng, rồi có lẽ cô đi tới chỗ hoàn toàn chắc chắn. Cô không thể chịu nổi điều đó và cô đi xa. - Những chuyện bọn đàn bà tưởng tượng ra. Ông Copleigh nói. - Tất cả điều tôi có thể nói là Có một Cái gì Đó không đúng về sir Phillip. Ông ta quá yêu trẻ, tôi nghĩ thế, và đó không phải là một thiên hướng bình thường. - Tưởng tượng của bọn đàn bà. Ông Copleigh nói. Bà Copleigh đứng dậy và bắt đầu mang đồ đạc khỏi bàn. - Về giờ giấc, chồng bà nói, bà sẽ cho qúy bà này những ác mộng nếu bà cứ tiếp tục những câu chuyện cách đây nhiều năm. - Nghe rất thích thú, Tuppence nói. Nhưng tôi buồn ngủ quá rồi, tôi nghĩ tốt hơn mình nên đi ngủ bây giờ. - Tốt, chúng tôi thường đi ngủ sớm. Bà Copleigh nói. Và cô sẽ mệt sau ngày dài trải qua đấy. - Tôi mệt. Tôi buồn ngủ kinh khủng. Tuppence ngáp dài. Chúc ngủ ngon và cám ơn bà rất nhiều. - Cô có cần tôi gọi dậy với một tách trà buổi sáng không? 8 giờ đúng có quá sớm cho cô không? - Không, tốt thôi. Tuppence đáp. Nhưng xin đừng lo nếu việc ấy gây phiền cho bà. - Không phiền gì cả. Bà Copleigh nói. Tuppence mệt nhọc lê mình đến giường. Cô mở va li, lấy ra vài thứ cần dùng, cởi bỏ áo quần, tắm rửa rồi thả rơi mình xuống giường. Những gì cô nói với bà Copleigh là sự thật. Cô mệt lử. Những sự kiện cô được nghe đi qua trí óc như những hình người di động trong cái kính vạn hoa và tất cả những tưởng tượng khủng khiếp. Những đứa trẻ chết - quá nhiều trẻ chết. Tuppence chỉ cần một đứa trẻ chết sau lò sưởi. Có lẽ cái lò sưởi phải liên can đến Waterside. Con búp bê của đứa bé. Một đứa trẻ bị giết bởi một cô gái trẻ giận điên lên bởi người yêu bỏ rơi đã lái khỏi cô bộ óc khá là yếu đuối của mình. Ô tôi thân mến, tôi đang dùng thứ ngôn ngữ thật là bi kịch kia. Tất cả là một đống hỗn độn - bảng liệt kê theo thứ tự thời gian đảo lộn - rồi sau đó người ta không thể chắc cái gì xảy tới. Cô đi ngủ và nằm mơ. Có một công nương Shalott nào đó nhìn ra ngoài cửa sổ toà nhà. Có tiếng cào rạch đang đến từ ống khói. Từ sau tấm chắn bằng sắt bị đóng đinh vào lò sưởi vọng lại những cú đánh. Âm vang của một chiếc rìu kêu vang rền. Clang, clang, clang. Tuppence thức giấc. Bà Copleigh đang gõ trên cánh cửa. Bà nhanh nhẹn bước vào, đặt khay trà xuống cạnh giường Tuppence, kéo màn cửa, hi vọng Tuppence ngủ ngon. Không ai trông vui vẻ hơn bà Copleigh, Tuppence nghĩ, bà ta không có những cơn ác mộng! BỨC HỌA CHẾT NGƯỜI (Agatha Christie) Chương 9 Một Buổi Sáng Tại Chợ Basing Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Tất cả tốt đẹp, bà Copleigh, khi bà nhảy ra khỏi phòng. Ngày khác. Đó là những gì tôi luôn nói khi thức dậy. Ngày khác. Tuppence nghĩ, nhấp chén trà đen đậm. Mình tự hỏi mình có đang tự biến mình một kẻ ngu không?... có thể lắm... ta ước Tommy ở đây để nói chuyện. Tối qua làm ta mụ đi. Trước khi rời phòng, Tuppence ghi vào sổ ghi chép từng đoạn ngắn từng sự kiện từng tên gọi khác nhau cô đã nghe tối hôm trước, mà lúc lên giường cô quá mệt không làm được. Những câu chuyện mang tính bi kịch mê lô, của quá khứ, có lẽ hàm chứa những hạt giống sự thật đây đó nhưng hầu như chỉ là nghe lóm, chuyện tầm phào, ác ý, tính tưởng tượng lãng mạn. "Thật sự, Tuppence nghĩ, mình đang bắt đầu hiểu đời sống tình yêu của một số lượng người bước lùi vào thế kỉ mười tám, mình nghĩ thế. Nhưng tất cả lên tới cái gì đây? Và mình đang tìm kiếm cái gì? thậm chí mình không biết nữa. Việc khủng khiếp nhất là mình đã vướng vào và mình không thể lùi được nữa. Có một mối nghi ngờ sắc bén rằng việc đầu tiên cô có thể gặp rắc rối là cô Bligh, người mà Tuppence nhận ra như là mối hăm dọa toàn thể Sutton Chancelor, cô tránh né tất cả những hiến tặng giúp đỡ bằng cách lái xe thật nhanh quá bưu điện chợ Basing, chỉ ngưng lại một chốc, khi chiếc xe bị cô Bligh với những tiếng kêu lanh lảnh đường đột đến bắt chuyện, để giải thích với qúy cô kia rằng cô đang có một cuộc họp gấp... khi nào thì cô trở về? Tuppence mơ hồ - cô sẽ ăn trưa chứ? - cô Bligh rất tử tế, nhưng Tuppence sợ hãi - "Trà, được. 4g30 tôi sẽ đợi cô." Đó hầu như là một Mệnh lệnh Hoàng gia. Tuppence mỉm cười, gật đầu, khởi động máy cho xe chạy. Có khả năng, Tuppence nghĩ - từ những đại lí nhà tại chợ Basing, nếu cô kiếm được bất cứ cái gì đáng chú ý - Nellie Bligh có thể cung cấp thêm thông tin có ích. Cô ta là loại phụ nữ tự kiêu về chuyện hiểu rõ mọi người ở đây. Khó khăn bất ngờ là cô quyết định biết rõ tất cả về Tuppence. Có thể vào buổi trưa này một lần nữa Tuppence sẽ hồi phục lại khả năng bịa đặt của mình! " Hãy nhớ lại bà Blenkinsop," Tuppence nói, thận trọng vòng quanh một khúc cua ngặt và ép vào một hàng rào để tránh bị một chiếc xe tải to như con bò mộng thích đùa thủ tiêu. Đến chợ Basing cô đậu xe vào khu đỗ xe chính, đi vào bưu điện và bước vào một phòng điện thoại còn trống. Giọng Albert trả lời - dùng lối đáp thông thường của anh ta - một tiếng độc nhất " hallo" thốt ra nghi ngờ. - Nghe đây, Albert - tôi sẽ về nhà ngày mai. Đúng giờ ăn trưa - có lẽ sớm hơn. Ông Beresfold cũng về nữa, trừ phi ông ấy gọi điện. Cho chúng tôi món gì đó - gà nhé, tôi nghĩ thế. - Rõ, thưa bà. Bà ở đâu - Nhưng Tuppence đã tắt máy. Cuộc sống của chợ Basing dường như đặt trọng tâm tại khu quan trọng nhất của nó - Tuppence đã tham khảo một tự điển cũ trước khi rời bưu điện và ba nhà trong số bốn nhà và những đại lí nhà đất có vị trí trong khu vực - nhà thứ tư ngự trên đường George. Tuppence viết tháu những cái tên rồi ra ngoài tìm. Cô bắt đầu với nhà Messrs. Lovebody và Slicker rõ ràng là uy nghi nhất. Một cô gái với những vết nám tiếp cô. - Tôi muốn hỏi về một căn nhà. Cô gái nhận tin này không chút chú ý. Có lẽ Tuppence đang hỏi về một số động vật quý hiếm nào đó. - Tôi không biết, tôi bảo đảm, cô gái đáp, nhìn quanh xem có một đồng nghiệp nào cô có thể traoTuppence lại không - - Một căn nhà, Tuppence nói. Cô là nhân viên đại lí nhà, phải không? - Đại lí nhà và bán đấu giá. Nhà bán đấu giá Cranberry mở cửa ngày thứ tư nếu đó là cái cô quan tâm, hai silling một bảng danh mục. - Tôi không lưu tâm chuyện bán đấu giá. Tôi muốn hỏi về một căn nhà. - Có đồ đạc? - Không đồ đạc. Để mua - hay bán. Những nốt chấm sáng lên một chút. - Tôi nghĩ tốt hơn cô nên gặp ông Slicker. Tuppence mạnh mẽ ủng hộ việc gặp gỡ ông Slicker và ngay sau đó ở trong một văn phòng nhỏ cô đối diện với một người đàn ông mặc bộ đồ vải túyt ca rô có in hình ngựa, ông ta bắt đầu lật ra một con số lớn những địa chỉ đăng kí đặc biệt đáng ao ước - thì thầm những lời bình luận...'8 Mandeville Road - kiến trúc sư xây, ba phòng, bếp Mỹ - ồ không, cái đó qua rồi - Nhà mướn Amabel - địa chỉ có khung cảnh, bốn mẫu - bán nhanh giảm bớt giá - Tuppence ngắt lời ông ta mạnh mẽ: 'tôi đã thấy một căn nhà quay về hướng tôi thích - tại Sutton Chancellor - hay hơn nữa, gần Sutton Chancellor - bên một con kênh - ' - Sutton Chancellor, ông Sliker có vẻ nghi ngờ - tôi nghĩ hiện tại trong hồ sơ chúng tôi không có bất động sản nào ở đó cả. Dường như không có bảng tên nào - có thể là Watersider. Rivermead - có một lần được gọi là ngôi nhà bên cầu. Tôi hiểu, Tuppence nói, căn nhà chia hai phần. Một nửa cho thuê nhưng những người thuê nhà không thể nói cho tôi biết về nửa kia, nửa quay ra con kênh và là nửa nhà tôi thích. Rõ ràng chỗ chưa có ai thuê. Ông Slicker lập tức nói rằng ông e là ông không thể giúp cô được, nhưng hạ cố cung cấp thông tin nhà Messrs. Blodget và Burgess có thể làm được điều đó. Dựa vào âm giọng đó, vị thư kí hình như ám chỉ nhà Messrrs. Blodget và Burgess là một hãng rất thấp kém. Tuppence đổi tuyến đường đến nhà Messr. Blodget và Burgess phía đối diện quảng trường - và bất động sản được đề cập đến của họ rất giống với bất động sản của nhà Messrs. Lovebody và Slicker - trong những cửa sổ bám đầy cáu bẩn của họ cùng loại những hoá đơn bán và những cuộc bán đấu giá sẵn có nếu cần. Mặt tiền vừa mới được sơn lại nhiều màu lục khác nhau rực rỡ hơn, nếu được coi như là một hành động có khen thưởng. Những sắp xếp tiếp nhận thì không khích lệ tương đương, Tuppence được chuyển qua ông Sprig, một ông già tâm tình rõ ràng chán nản. Một lần nữa Tuppence thuật lại những nhu cầu của mình và những điều kiện cần thiết. Ông Sprig chấp nhận nhận thức về địa chỉ đăng kí hiện tại, nhưng không hi vọng, hay hình như tới một điểm nào đó, được quan tâm lắm. - Tôi e là căn nhà đó không ở tại chơ. Người chủ nhà không muốn bán. - Chủ nhà là ai? - Thật ra tôi không biết rõ. Nó thường xuyên đổi chủ - một lúc nào đó có tin đồn về một đơn đặt hàng bắt buộc. - Chính quyền địa phương cần nó với mục đích gì? - Thật sự, bà - è -( ông ta liếc nhìn tên Tuppence ghi nguyệch ngoạc trong tờ giấy thấm lớn của mình) - bà Beresford, nếu bà có thể trả lời được cho tôi câu hỏi này bà sẽ là người khôn hơn những vật tế thần gây ấn tượng nhất là những ngày này. Cách của hội đồng địa phương và việc lập kế hoạch xã hội luôn che phủ trong vòng bí mật. Phần hậu ngôi nhà có một số sữa chữa cần thiết và được cho thuê một giá cực kì rẻ - è - à vâng, một ông và bà Perry. Phần liên quan đến người chủ thực tế của bất động sản, vị qúy tộc trong vấn đề sống ở nước ngoài hình như hết quan tâm đến nó. Tôi tưởng có một số vấn đề về sự kế thừa ít quan trọng, và được những cố vấn pháp luật điều hành. Một số khó khăn nhỏ về luật pháp dựng lên - luật pháp thiên về tốn kém, bà Beresford - tôi tưởng người chủ hoàn toàn bằng lòng việc căn nhà sụp đổ - không thực hiện sửa chữa nào ngoại trừ phần gia đình Perry ở. Tất nhiên, trên thực tế đất đai sẽ có giá trị hơn trong tương lai - việc sửa chữa những ngôi nhà bỏ hoang ít khi thích hợp. Nếu bà quan tâm đến một bất động sản loại đó, tôi bảo đảm tôi có thể cung cấp cho bà một số bất động sản có giá trị hơn cái của bà. Nếu tôi có thể hỏi, trong khu đất đó có cái gì đặc biệt lôi cuốn bà thế? - Tôi thích dáng vẻ bên ngoài của nó, Tuppence nói. Đó là một ngôi nhà rất Đẹp - tôi nhìn thấy nó đầu tiên từ chuyến tàu - - Tôi hiểu -ông Sprig ghi dấu nhanh nhất một cảm tưởng ông có thể có' sự ngu ngốc của đàn bà không thể tin được' - và mềm mỏng nói,' tôi sẽ thật sự quên tất cả về nó nếu tôi là bà.' - Tôi cho rằng bà có thể hỏi ngừơi chủ nếu họ chuẩn bị bán - hay nếu bà cho tôi địa chỉ của họ - hay của ông ta - - Chúng tôi sẽ liên hệ với những cố vấn pháp luật của những chủ nhà nếu bà đòi hỏi - nhưng tôi không thể đưa ra nhiều hi vọng lắm đâu. - Tôi cho rằng người ta phải thông qua các cố vấn pháp luật về mọi sự ngày hôm nay. Tuppence nghe âm vang vừa ngu ngốc vừa cáu kỉnh... và luật sư thì luôn luôn làm Chậm trễ mọi việc - - A vâng - luật pháp thì sinh sôi nảy nở nhiều sự trì hoãn - - Và Ngân hàng cũng vậy - thật tồi tệ! - Ngân hàng - Ông Sprig hơi giật mình. - Quá nhiều người cho bạn một Địa chỉ ngân hàng. Điều này cũng mệt nữa. - Phải - phải - như cô nói - nhưng ngày nay người ta hiếu động quá và xê dịch quá nhiều - sống ở ngoại quốc và vậy đó. Ông mở một ngăn kéo bàn giấy. Nào. Tôi có một bất động sẳn ở đây, Crossgates - hai dặm từ chợ Basing - điều kiện rất tốt - vườn đẹp. - Tuppence đứng lên. - Không cám ơn. Cô quả quyết chào tạm biệt ông Sprig rồi bước ra ngoài quảng trường. Cô viếng thăm nhanh toà nhà thứ ba dường như là chỗ chính thức bán bò sữa, nông trại nuôi gà và đại để những nông trại trong tình trạng bỏ hoang. Cô thăm lần cuối cùng nhà Messr. Robert và Wiley tại đường George - hình như là một sở nhỏ nhưng công việc túi bụi, do đòi hỏi của luật pháp mà bắt buộc phải lo - nhưng nói chung không thú vị và không biết rõ Sutton Chancellor và lo bán những nơi cư trú chỉ mới xây một nửa với giá tiền rất đắt kì dị - một bức minh họa của một chỗ khiến Tuppence rùn vai. Người đàn ông trẻ thấy khách hàng có thể đi ra, bèn chấp nhận không sẵn lòng lắm sự hiện hữu của một nơi như Sutton Chancellor. - Cô nhắc đến Sutton Chancellor. Tốt hơn nên thử hỏi nhà Blodget và Burgess tại khu vực. Họ nắm giữ một số động sản trong tay xung quanh - nhưng tất cả đều ở trong tình trạng rât nghèo nàn - sụp đổ - - Có một ngôi nhà tuyệt đẹp gần đó, bên một chiếc cầu qua con kênh - tôi thấy nó từ chuyến tàu. Tại sao không ai muốn sống ở đó? - Ô! Tôi biết chỗ ấy, đây - bờ sông - cô sẽ không kiếm được ai ở đó - nó nổi danh là ngôi nhà bị ma ám. - Ông muốn nói - có ma? - Người ta nói vậy - nhiều câu chuyện về nó. Tiếng ồn ban đêm. Và tiếng rên rỉ. Nếu cô hỏi tôi, đó là tiếng con mọt nghiến. - Chao ôi, Tuppence nói. Đối với tôi nó có vẻ đẹp và hiu quạnh. - Đa số mọi người sẽ nói chỗ ấy quá hiu quạnh chứ sao. Ngập lụt vào mùa đông - hãy nghĩ đến điều ấy. - Tôi thấy có nhiều chuyện để nghĩ. Tuppence cay đắng nói. Cô lẩm bẩm khi lê chân về quán Con Thỏ và Lá Cờ nơi cô định tăng cường bữa ăn trưa cho mình. 'Nhiều chuyện để nghĩ - lụt, con mọt nghiến, ma, tiếng xích sắt vang rền, sự vắng mặt những chủ nhà và chủ đất, những cố vấn pháp luật, những ngân hàng - một căn nhà không ai cần hay yêu thích - có lẽ ngoại trừ Ta - ồ, cái ta muốn bây giờ là Thức Ăn. Thức ăn tại Con Thỏ và Lá Cờ ngon và nhiều - món ăn thịnh soạn dành cho nông dân hơn là thực đơn giả tạo của Pháp dành cho du khách đi qua - súp đặc khai vị, chân heo với nước sốt táo, phó mát Stilton - mận và bánh kem sữa nếu bạn thích - mà Tuppence không - Sau một chuyến dạo quanh rời rạc, Tuppence trở lại xe hơi và lái về Sutton Chancellor - không thế cảm thấy rằng buối sáng của mình có kết quả. Khi cô trở lại góc cuối cùng và nhà thờ Sutton Chancellor hiện ra trong tầm mắt, Tuppence thấy dạng cha xứ nổi lên trong sân nhà thờ. Ông bước đi rất chậm. Tuppence lái đến gần ông. - Cha vẫn đang còn tìm nấm mộ đó à? Cô hỏi. Cha cố đặt một bàn tay lên cái lưng gầy gò. - Chao ơi, ông nói, mắt cha không tốt lắm. Quá nhiều lời đề bia bị tẩy xóa. Lưng cha cũng làm cha đau. Quá nhiều đá bia nằm liệt trên đất. Thật sự, khi cha cúi xuống, cha có cảm giác mình không bao giờ đứng lên được nữa. - Con cũng không làm chuyện ấy nữa, Tuppence nói. Nếu cha nhin vào bảng đăng kí của giáo xứ và chí có vậy, cha đã làm tất cả việc cần làm. - Cha hiểu, nhưng ông bạn khốn khổ dường như quá mong mỏi, quá tha thiết. Cha hoàn toàn tin chắc rằng tất cả chỉ là lao động phí thời gian thôi. Tuy nhiên, cha thật sự cảm thấy đó là nhiệm vụ của mình. Cha còn một khoảng ngắn nữa cha chưa tìm, tứ cây thông đỏ bên kia đến bức tường đằng xa - mặc dù dù hầu hết bia mộ đều vào thế kỉ mười tám. Nhưng cha vẫn thích cái cảm giác cha đã làm xong nhiệm vụ của mình một cách rốt ráo. Cha không thể tự mình đến gần được. Tuy vậy, cha sẽ để lại đến ngày mai. - Hoàn toàn có lí. Tuppence nói. Cha không nên làm quá nhiều việc trong một ngày, con bảo cha nhé, cô thêm vào. Sau khi con uống trà với cô Bligh xong, con sẽ đi và tự con sẽ xem xét. Từ cây thông đỏ đến bức tường, cha nói thế phải không? - Nhưng cha không thể đòi hỏi khả thể đó nơi con - - Chuyện đó ổn thôi. Con hoàn toàn thích làm. Con nghĩ lảng vảng quanh sân nhà thờ rất thú vị. Cha biết mà, những chữ khắc cổ cho ta một bức tranh của người ở đây và tất cả mọi điều không giải thích được. Con sẽ hoàn toàn tận hưởng điều đó, con sẽ thích thật mà. Hãy trở về và nghỉ ngơi đi cha. - Dĩ nhiên rồi, chiều nay cha thật ra phải làm cái gì đó về bài thuyết giáo của mình. Con là một người bạn rất tốt bung. Cha tin chắc thế. Một người bạn Rất tử tế. Ông cười tươi với cô rồi đi vào nhà của cha xứ. Tuppence liếc nhìn đồng hồ tay. Cô dừng lại cạnh nhà cô Bligh. 'Cũng nên có ý định khắc phục', Tuppence nghĩ. Cánh cửa trước mở cô Bligh vừa mang một dĩa bánh x-côn mới nướng băng qua tiền sảnh vào phòng khách. - Ô! Bà đây rồi, bà Beresford thân mến. Tôi rẩt vui được gặp bà. Trà sẵn sàng rồi. Âm nước đang bắc. Tôi chỉ mới bỏ trà. Tôi hi vọng bà mua sắm đủ thứ bà muốn. Cô thêm vào, lưu ý nhìn chứng cớ trống rỗng một cách đau đớn trong cái bị mua sắm trên cánh tay của Tuppence. - Thật sự tôi không có nhiều vận may, Tuppence nói, khoác một bộ mặt lương thiện khi cần. Cô biết đấy - chỉ thỉnh thoảng thôi - trúng cái ngày người ta không tìm được màu sắc hay đồ vật đặc biệt mình cần. Nhưng tôi luôn luôn tận hưởng cái thú tham quan một nơi mới lạ thậm chí dù nó không thú vị gì. Tiếng còi một ấm nước phát ra tiếng rít the thé đòi hỏi sự chú ý và cô Bligh ném mình trở vào bếp để theo dõi, rải một bộ thư đang chờ gởi bưu điện trên cái bàn phòng đợi. Tuppence khom mình nhặt lên, khi cô đặt chúng trên bàn chú ý trên đỉnh một bì thư đề địa chỉ gởi một bà Yorke, Nhà Rosetrellis dành cho Quý bà Có Tuổi - gởi đến một địa chỉ ở Cumberland. "Thật sự, Tuppence nghĩ, mình bắt đầu cảm thấy toàn xứ này không có gì ngoài những Nhà Dưỡng lão! Tin chắc không lâu nữa Tommy và mình sẽ ở trong một nhà!" Chỉ có ngày kia, một số người bạn tử tế và hữu ích đã viết thư giới thiệu một chỗ rất dễ chịu tại Devon - những đôi vợ chồng - hầu hết là công chức nghỉ hưu. Nấu ăn tuyệt hảo - Bạn mua đồ đạc riêng và đồ đạc cá nhân. Cô Bligh tái xuất hiện với bình trà và hai người ngồi uống trà. Cuộc nói chuyện với cô Bligh thì bản chất ít kịch tính và sôi nổi hơn cuộc nói chuyện với bà Copleigh, liên can nhiều đến việc kiếm thông tin hơn là cung cấp. Tuppence được báo mơ hồ về những năm quá khứ của việc phục vụ ở ngọai quốc - khó khăn cuộc sống gia đình tại nước Anh, cung cấp những chi tiết của một đứa con trai và đứa con gái đã có chồng vợ với những đứa con và nhẹ nhàng hướng câu chuyện về những hoạt động của cô Bligh tại Sutton Chancellor rất nhiều - Hội Phụ Nữ, Hướng Dẫn Viên, Hướng Đạo Sinh, Hội Bảo Vệ Phụ nữ, Thuyết Giảng, Nghệ Thuật Hy Lạp, Làm JamBông, Dạy Cắm Hoa, Câu Lạc Kịch, Hội Ai hữu Khảo cổ học - sức khoẻ của cha cố, sự cần thiết làm cho ông tự săn sóc sức khỏe bản thân, sự đãng trí của ông - bất hạnh là những ý kiến khác biệt của các cha tổng quản - Tuppence khen ngợi bánh xcôn, cám ơn tính hiếu khách của cô chủ và đứng dật từ giã. - Nghị lực của cô thật tuyệt vời, cô Bligh, làm thế nào cô giải quyết được tất cả chuyện này thế, tôi không tưởng tượng nổi. Tôi phải thú nhận rằng sau một ngày du ngoạn và mua sắm, tôi chỉ muốn nghỉ ngơi một chút trên giường - chỉ nửa giờ hay nằm khép mắt cũng vậy - một chiếc giường rất tiện nghi. Tôi phải cám ơn cô rất nhiều đã giới thiệu tôi với bà Copleigh. - - Một phụ nữ đáng tin cậy nhất, dù tất nhiên bà ta nói rất nhiều - - Ô! Tôi thấy tất cả những câu chuyện địa phương của bà đều làm cho người ta vui. - Phân nửa thời gian bà ta không biết mình nói gì! cô còn ở lại đây bao lâu? - Ô không - ngày mai tôi sẽ về nhà. Tôi thất vọng không tìm được một bất động sản nhỏ nào - tôi đã hi vọng ngôi nhà bên con kênh khung cảnh tuyệt đẹp ấy - - Tốt hơn bà không mua nó. Nó đang trong tình trạng sửa chữa tồi. Vắng chủ đất - đó là một nỗi nhục. - Thậm chí tôi không biết ngôi nhà thuộc về ai. Tôi hi vọng Cô hiểu. Hình như cô hiểu rõ mọi việc ở đây. - Tôi chưa bao giờ chú ý đến ngôi nhà đó. Nó đổi chủ luôn - người ta không thể theo kịp. Gia đình Perry ở một nửa căn - căn kia lâm vào tình trạng suy sụp và sụp đổ. Tuppence nói lời tạm biệt và lái trở về nhà bà Copleigh. Căn nhà rõ ràng yên tĩnh và trống trải. Tuppence lên phòng ngủ, đặt cái bị mua hàng trống rỗng xuống, rửa mặt và thoa phấn vào mũi. Lại nhón gót ra khỏi nhà, nhìn ngược xuôi đường phố, rời chỗ để xe, cô đi vòng nhanh qua góc phố, sử dụng lối đi dành cho người đi bộ xuyên qua cánh đồng phía sau làng, ngẫu nhiên lối đi ấy dẫn đến cái bậc trèo qua tường để vào sân nhà thờ. Tuppen trèo lên bậc cửa vào sân nhà thờ, mặt trời chiều thật thanh bình, và bắt đầu khảo sát tấm bia mộ như cô đã hứa. Thật ra cô không có động cơ kín đáo nào khi làm vậy. Cô không hi vọng có gì để khám phá ở đây. Về phía cô thật sự chỉ là lòng tử tế. Cha cố già hơi điếc, và cô muốn ông cảm thấy rằng lương tâm của ông được thỏa mãn hoàn toàn. Cô đã mua cuốn sổ với cây bút trong trường hợp có gì đáng chú ý cô sẽ ghi cho ông. Cô tin chắc cô chỉ tìm kiếm một bia mộ có lẽ được dựng lên để tưởng niệm cái chết của một số trẻ em ở lứa tuổi được quy định. Đa số những nấm mộ ở đây đều thuộc về thời cổ. Chúng không đáng chú ý lắm, nó không đủ cổ xưa để thu hút hay tác động đến hay chăm sóc những giòng chữ khắc. Đa số hoàn toàn là mộ của những người già. Tuy vậy cô cũng lần lữa một chút khi đi qua, vẽ những phác hoạ tinh thần trong trí. Fane Elwood, ra đi 6 tháng giêng. William Marl, ra đi 5 tháng giêng, lòng thương tiếc sâu sắc. Mary Treves, năm tuổi. 14 tháng ba 1835. Điều đó đi lùi quá xa. 'Niềm vui trọn vẹn trong hiện tại'. Mary Treves thật là may mắn. Bây giờ cô hầu như đã đến bức tường đằng xa. Ở đây những nấm mộ bị quên lãng và cỏ mọc đầy, hình như không ai chăm lo mảnh nghĩa địa này. Nhiều hòn đá không còn đứng thẳng mà nằm dài trên mặt đất. Bức tường ở đây bị tàn phá và vỡ vụn ra từng mảnh. Có những chỗ nó bị sụp xuống. Đứng thẳng phía sau nhà thờ, từ ngoài đường lộ không thể nhìn thấy - chắc chắn bọn trẻ đến đây có thể làm công việc phá hoại. Tuppence cúi xuống trên những phiến đá - những chữ gốc bị hỏng nặng không thể đọc được - nhưng dùng hết sức mình dựng lên một phía, Tuppence đọc thấy những chữ cái và những từ bò ngoằn ngoèo, cũng bởi cỏ mọc lấn từng phần. Cô cúi xuống dùng ngón trỏ dò từng chữ, và rải rác kiếm được một từ - Người nào mà... xúc phạm đến... một trong những ngôi mộ nhỏ này... Millstone... Millstone... Millstone... và phía dưới - được khắc không bằng phẳng bởi một bàn tay tài tử: Nơi đây an nghỉ Lily Waters. Tuppence hít một hơi thở sâu - cô ý thức có một bóng đen sau cô, nhưng trước khi cô có thể quay đầu lại - một vật gì đó đánh vào sau đầu và cô té xuống trên mộ chí trong bóng tối và sự đâu đớn.