🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bùa Ước - Chris Colfer full mobi pdf epub azw3 [Best Seller] Ebooks Nhóm Zalo CHRIS COLFER Trương Hoàng Uyên Phương dịch —★— NXB TRẺ ebook©vctvegroup | 10-11-2020 Dành tặng Bà, biên tập viên đầu tiên của tôi người đã cho tôi lời khuyên tốt nhất trong nghiệp viết lách của mình: “Christopher, bà nghĩ cháu khoan hẵng lo không thành nhà văn giỏi được, chờ đến khi học xong tiểu học đã.” “Đến tuổi nào đó, bạn sẽ đủ ‘chín’ để bắt đầu đọc truyện cổ tích trở lại.” - C.S.Lewis MỞ ĐẦU Chuyến Viếng Thăm Của Nữ Hoàng Hầm ngục là một nơi vô cùng thảm đạm. Ánh sáng hiếm hoi chập chờn hắt xuống từ những ngọn đuốc đóng đinh trên tường đá. Thứ nước hôi thối từ con hào bao quanh lâu đài bên trên rỉ xuống hầm ngục. Những con chuột to xù rượt đuổi nhau sục tìm thức ăn. Quả không phải chỗ dành cho một nữ hoàng. Vừa quá nửa đêm, tất cả chìm trong im lặng, chỉ thi thoảng mới có tiếng dây xích sột soạt. Xuyên qua cái tĩnh mịch nặng nề đó, tiếng bước chân dội vang khắp sảnh khi có người đi xuống những bậc thang xoắn ốc, tiến vào hầm ngục. Một phụ nữ trẻ xuất hiện cuối bậc thang, cả người được phủ kín bằng tấm áo choàng dài màu ngọc bích. Nàng thận trọng lần bước giữa dãy phòng giam, gây hiếu kỳ cho các tù nhân trong đó. Với mỗi bước đi, nhịp chân nàng lại chậm hơn và nhịp tim đập lại thêm gấp gáp. Tù nhân được xếp chỗ theo tội lỗi đã phạm. Nàng càng dấn bước sâu vào trong hầm ngục lại càng gặp phải những tù nhân độc ác và nguy hiểm hơn. Cái đích mà nàng đang hướng đến là phòng giam ở cuối hành lang, nơi đó, viên cai ngục to lớn đang canh giữ một tù nhân đặc biệt. Nàng đến đây để tìm lời giải đáp cho một câu hỏi. Câu hỏi đơn giản thôi, nhưng nó đã xâm chiếm suy nghĩ của nàng mỗi ngày, khiến nàng thao thức hàng đêm và là thứ duy nhất hiện ra trong giấc mơ của nàng mỗi khi nàng có thể thiếp đi giây lát. Chỉ có một người có thể cho nàng câu trả lời cần biết và người đó đang ở bên kia chấn song phòng giam phía trước. “Tôi muốn gặp bà ta,” người phụ nữ khoác áo choàng bảo viên cai ngục. “Không ai được phép vào thăm bà ta cả,” viên cai ngục đáp, có vẻ thích thú với lời đề nghị lạ lùng. “Tôi đang chấp hành mệnh lệnh nghiêm ngặt của hoàng gia.” Người phụ nữ này liền hạ mũ trùm đầu xuống để lộ gương mặt. Nàng có làn da trắng như tuyết, tóc đen như gỗ mun và đôi mắt xanh như rừng thẳm. Vẻ đẹp của nàng nổi tiếng khắp vương quốc và câu chuyện về nàng lại còn vang xa hơn thế. “Nữ hoàng, xin hãy thứ lỗi cho thần!” viên cai ngục kinh ngạc tạ lỗi. Anh ta vội vã gập người cúi chào thật thấp. “Thần không trông đợi có người từ cung điện đến đây.” “Không cần tạ lỗi đâu,” nàng nói. “Nhưng làm ơn đừng tiết lộ việc ta đến đây tối nay.” “Dĩ nhiên rồi ạ,” viên cai ngục gật đầu. Người phụ nữ đến trước chấn song, chờ viên cai ngục nâng chúng lên nhưng anh ta lại ngập ngừng. “Người có chắc là muốn vào đó không, thưa Nữ hoàng?” Viên cai ngục hỏi. “Chẳng liệu được bà ta có thể làm chuyện gì đâu.” “Ta phải gặp bà ta,” nàng kiên quyết. “Bằng mọi giá.” Viên cai ngục bắt đầu quay tròn tay đòn bẩy và chấn song phòng giam được nhấc lên. Người phụ nữ hít một hơi thật sâu và tiếp tục bước qua đó. Nàng tiến vào một hành lang dài hơn, tối hơn; từng chấn song, từng rào chắn lần lượt được nhấc lên và hạ xuống khi nàng vượt qua chúng. Cuối cùng, nàng đã đến cuối hành lang, chấn song cuối cùng được nâng lên và nàng bước vào phòng giam. Tù nhân ở đây là một phụ nữ. Bà ta ngồi trên một chiếc ghế cao giữa phòng giam, ngước nhìn chằm chằm lên khung cửa sổ nhỏ hẹp. Mất ít phút để tù nhân nhận ra có vị khách viếng thăm đằng sau. Đó là người đầu tiên đến thăm bà ta từ bấy đến nay, chẳng cần nhìn bà ta cũng biết là ai; chỉ có thể là một người duy nhất đó thôi. “Xin chào, Bạch Tuyết,” tù nhân khẽ nói. “Xin chào người, Mẹ Kế,” lời đáp của Bạch Tuyết run rẩy và lo lắng. “Hy vọng mẹ vẫn khỏe.” Mặc dù Bạch Tuyết đã chuẩn bị trước những điều muốn nói, giờ đây nàng vẫn cảm thấy khó thốt nên lời. “Ta nghe nói giờ ngươi là nữ hoàng,” người mẹ kế tiếp. “Đúng vậy,” Bạch Tuyết đáp. “Con đã kế thừa ngôi vị như dự định của cha.” “Vậy thì sao ta lại có vinh hạnh này đây? Ngươi đến để xem ta héo hắt đi chăng?” người mẹ kế gằn giọng. Giọng nói ấy đầy quyền uy và sức mạnh; người ta kháo nhau rằng nó làm cho ngay cả người đàn ông mạnh mẽ nhất cũng phải tan chảy như nước đá. “Trái lại,” Bạch Tuyết đáp. “Con đến để tìm hiểu.” “Hiểu gì mới được chứ?” người mẹ kế cay nghiệt đáp trả. “Hiểu vì sao…” Bạch Tuyết ngập ngừng. “Vì sao mẹ lại phải làm những việc đó.” Khi cuối cùng cũng nói lên được lời này, Bạch Tuyết cảm thấy như có một gánh nặng vừa cất khỏi vai mình. Rốt cuộc nàng cũng hỏi được điều bấy nay vẫn đè nặng trong tâm trí. Khó khăn thế là cũng qua một nửa rồi. “Có nhiều chuyện về thế giới này mà ngươi không hiểu đâu,” người mẹ kế nói và quay lại nhìn đứa con của chồng mình. Đó là lần đầu tiên Bạch Tuyết nhìn thấy gương mặt mẹ kế sau một quãng thời gian dài. Đó là gương mặt một người phụ nữ đã từng mang vẻ đẹp hoàn hảo, người phụ nữ từng là hoàng hậu. Vậy mà giờ đây, người ngồi trước mặt nàng chỉ còn là một tù phạm, mà vẻ đẹp đã phai thành một gương mặt cau có, buồn bã. “Có lẽ là thế,” Bạch Tuyết đáp lời. “Nhưng mẹ có thể trách con vì cố gắng tìm hiểu lý do đằng sau hành động của mẹ không?” Những năm vừa qua trong đời Bạch Tuyết là giai đoạn gây xôn xao tranh cãi nhất trong lịch sử hoàng tộc của vương quốc. Ai ai cũng biết câu chuyện nàng công chúa xinh đẹp trú ẩn nơi ngôi nhà của Bảy Chú Lùn, trốn tránh mụ dì ghẻ ganh ghét. Ai ai cũng biết về quả táo tẩm độc nổi tiếng và vị hoàng tử quyết đoán đã đem Bạch Tuyết trở về từ cõi chết. Câu chuyện thật đơn giản, nhưng hậu truyện không như thế. Ngay cả khi bận bịu với việc triều chính và cuộc hôn nhân mới mẻ, Bạch Tuyết vẫn nhận thấy mình thường xuyên tự hỏi liệu lời đoán định về sự ích kỷ của mẹ kế nàng có đúng không. Điều gì đó bên trong vị nữ hoàng trẻ tuổi này vẫn không tin một người lại có thể độc ác đến vậy. “Mẹ có biết ngoài kia người ta gọi mẹ là gì không?” Bạch Tuyết hỏi. “Bên ngoài những bức tường nhà giam này, nhân gian gán cho mẹ là Hoàng hậu Độc Ác.” “Nếu thế gian đã gán cho ta tên gọi đó, vậy thì đó là cái tên mà ta sẽ học cách để sống cùng,” Hoàng hậu Độc Ác đáp. “Một khi thế gian này quyết định, không có nhiều thứ người ta có thể làm để thay đổi cách nghĩ của nó.” Bạch Tuyết lấy làm ngạc nhiên trước sự dửng dưng của người mẹ kế, nhưng Bạch Tuyết cần bà phải để tâm. Nàng cần biết trong bà vẫn còn chút nhân tính. “Họ muốn xử tử mẹ sau khi tra rõ tội lỗi mẹ đã phạm với con! Cả vương quốc này muốn mẹ phải chết!” Giọng Bạch Tuyết nhẹ dần, chỉ còn là lời thì thầm yếu ớt khi nàng cố chống lại những cảm xúc dâng trào. “Nhưng con sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Con không thể…” “Vậy ra ta phải cảm ơn ngươi vì tha chết cho ta sao?” Hoàng hậu Độc Ác hỏi vặn. “Nếu ngươi trông chờ ai đó phủ phục xuống chân ngươi và bày tỏ lòng biết ơn, ngươi đã vào nhầm phòng giam rồi đấy.” “Con không làm thế vì mẹ đâu. Con làm thế vì bản thân con,” Bạch Tuyết đáp. “Dù sao đi nữa, người là người mẹ duy nhất con từng biết. Con quyết không tin mẹ lại là quái vật vô lương tâm như người ta nói. Bất kể điều đó có đúng hay không, con tin rằng sâu thẳm trong mẹ còn có một trái tim.” Nước mắt lăn dài trên gương mặt trắng trẻo của Bạch Tuyết. Tuy đã hứa với lòng mình sẽ vững tâm, nàng vẫn không kiềm chế được cảm xúc khi đứng trước người mẹ kế. “Vậy thì ta e rằng ngươi đã sai rồi,” Hoàng hậu Độc Ác nói. “Lương tâm duy nhất ta có đã chết từ lâu và trái tim duy nhất mà ta sở hữu là một trái tim bằng đá.” Hoàng hậu Độc Ác đúng là có một quả tim đá, nhưng không phải trong người bà ta. Một hòn đá có hình dạng và kích thước hệt như trái tim người được đặt trên cái bàn nhỏ ở góc phòng giam. Đó là vật duy nhất Hoàng hậu Độc Ác được phép giữ bên mình khi bà ta bị bắt. Bạch Tuyết nhận ra hòn đá đó từ những ngày thơ ấu. Nó bao giờ cũng rất quý giá đối với mẹ kế nàng, Hoàng hậu Độc Ác chưa bao giờ để nó ra khỏi tầm mắt. Bạch Tuyết chưa từng được phép chạm vào hay cầm lấy nó, nhưng bây giờ thì không gì có thể ngăn cản nàng. Nàng bước ngang qua phòng giam, cầm vật đó lên và tò mò nhìn. Nó gợi lại biết bao nhiêu hồi ức. Mọi sự thờ ơ và nỗi buồn mẹ kế đã gây cho nàng khi nàng còn là một đứa trẻ ùa về. “Cả đời này con chỉ muốn một điều duy nhất,” Bạch Tuyết nói. “Tình yêu thương của mẹ. Khi còn là một cô bé, con từng dành hàng giờ lẩn trốn trong lâu đài, những mong mẹ sẽ nhận thấy thiếu vắng con, nhưng mẹ chưa từng nhận ra. Mẹ ở trong phòng hết ngày này qua ngày khác với tấm gương, kem dưỡng da của mẹ và hòn đá này. Mẹ dành nhiều thời gian cho những người lạ mặt với các bí quyết chống lão hóa hơn là cho con gái của mẹ. Nhưng vì sao chứ?” Hoàng hậu Độc Ác không trả lời. “Bốn lần mẹ cố gắng giết con, ba lần chính tay mẹ thực hiện,” Bạch Tuyết tiếp, lắc đầu không tin được. “Khi mẹ phục sức như một bà già và đến tìm con nơi nhà của các chú lùn, con biết đó là mẹ chứ. Con biết mẹ rất nguy hiểm, nhưng con vẫn để mẹ vào nhà. Con vẫn hy vọng rằng mẹ sẽ thay đổi. Con đã để mẹ làm tổn thương con.” Bạch Tuyết chưa bao giờ tiết lộ điều này với bất cứ ai, nàng chỉ biết vùi mặt vào tay khóc sau khi thốt nên lời. “Ngươi nghĩ ngươi biết thế nào là tan nát cõi lòng ư?” Hoàng hậu Độc Ác nói với vẻ gay gắt đến độ khiến người con riêng của chồng giật mình. “Ngươi chẳng biết gì về nỗi đau cả. Ngươi không bao giờ nhận được chút trìu mến nào từ ta nhưng từ khi được sinh ra, ngươi đã được cả vương quốc này yêu mến. Người khác, trái lại, không được may mắn thế. Với Người khác, Bạch Tuyết à, đôi khi tình yêu duy nhất của đời họ cũng bị tước đi.” Bạch Tuyết không biết phải nói gì. Bà ấy đang nói về tình yêu nào đó? “Mẹ đang nói về cha con sao?” Bạch Tuyết hỏi. Hoàng hậu Độc Ác nhắm mắt lại và lắc đầu. “Tính ngây thơ quả là một phẩm chất được nhiều ưu ái,” bà ta nói. “Tin hay không thì tùy, Bạch Tuyết à, ta từng có cuộc đời của riêng ta trước khi bước vào cuộc đời ngươi.” Bạch Tuyết lặng đi và hơi xấu hổ. Dĩ nhiên nàng biết mẹ kế từng có một cuộc đời khác trước khi kết hôn với cha nàng, nhưng nàng chưa bao giờ nghĩ tới những gì có trong cuộc đời đó. Mẹ kế của nàng luôn rất kín đáo, Bạch Tuyết chẳng có lý do gì để nghĩ sâu xa cả. “Tấm gương của ta đâu?” Hoàng hậu Độc Ác gặng hỏi. “Nó sẽ bị phá hủy,” Bạch Tuyết đáp lời bà. Đột nhiên, hòn đá của Hoàng hậu Độc Ác trong tay Bạch Tuyết trở nặng. Bạch Tuyết không rõ liệu có thật vậy không hay nàng chỉ tưởng tượng thế thôi. Cánh tay cầm hòn đã trở nên mỏi nhừ và nàng phải đặt nó xuống. “Có quá nhiều điều mẹ không nói cho con,” Bạch Tuyết nói. “Có quá nhiều điều bao nhiêu năm nay mẹ giấu con.” Hoàng hậu Độc Ác cúi đầu và nhìn chằm chằm xuống đất. Bà giữ im lặng. “Con có lẽ là người duy nhất trên thế gian dành cho mẹ lòng thương cảm. Làm ơn nói con biết rằng lòng thương đó không phải là vô ích,” Bạch Tuyết van xin. “Nếu có chuyện gì trong quá khứ tác động đến những quyết định gần đây của mẹ, hãy cho con biết.” Vẫn không có câu trả lời nào. “Con sẽ không rời khỏi đây đến chừng nào mẹ kể con nghe!” Bạch Tuyết kêu lên, lần đầu trong đời nàng lớn tiếng. “Được thôi,” Hoàng hậu Độc Ác nói. Bạch Tuyết liền ngồi xuống một chiếc ghế cao khác trong phòng giam. Hoàng hậu Độc Ác nấn ná trong giây lát trước khi bắt đầu và Bạch Tuyết càng thêm chờ đợi. “Người ta sẽ mãi mãi lãng mạn hóa câu chuyện của ngươi,” bà ta bảo Bạch Tuyết. “Sẽ không có ai đoái hoài đến câu chuyện của ta. Ta sẽ tiếp tục bị hạ nhục, biến thành một kẻ độc ác ghê tởm cho đến muôn đời. Tuy nhiên, điều mà thế giới không thể nhận ra là một nhân vật phản diện chỉ là một nạn nhân mà chuyện của họ vẫn chưa được kể. Tất cả những gì ta đã làm, sự nghiệp cả đời ta và tội lỗi của ta chống lại ngươi, tất cả là vì ông ấy.” Bạch Tuyết cảm thấy trái tim mình trở nên nặng nề. Đầu óc nàng choáng váng và sự tò mò chiếm lĩnh toàn bộ con người nàng. “Ai cơ?” nàng vội hỏi đến độ quên kiềm chế sự nóng vội trong giọng nói. Hoàng hậu Độc Ác nhắm mắt lại và để những ký ức trở lại. Hình ảnh những nơi chốn, những người bà đã biết trong quá khứ hiện ra từ thẳm sâu tâm trí như ánh đom đóm trong hang động. Có rất nhiều điều bà đã chứng kiến trong những năm tháng thanh xuân, quá nhiều thứ bà ước rằng mình nhớ và quá nhiều thứ bà muốn quên đi. “Ta sẽ kể ngươi nghe về quá khứ của ta, hay ít nhất là quá khứ của người từng là ta,” Hoàng hậu Độc Ác nói. “Nhưng ta cảnh báo ngươi. Chuyện của ta không phải là một câu chuyện có kết thúc hạnh phúc mãi mãi.” CHƯƠNG MỘT Ngày Xửa Ngày Xưa “Ngày xửa ngày xưa” cô Peters giảng cho bọn học trò lớp sáu của mình. “Đó là những từ ngữ kỳ diệu nhất trong thế giới chúng ta và là cánh cổng dẫn lối vào những câu chuyện tuyệt vời nhất từng được kể. Chúng lập tức vẫy gọi bất cứ ai nghe được chúng – tiếng gọi vào một thế giới mà ai cũng được niềm nở đón chào và bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Những chú chuột có thể trở thành người, các cô hầu gái có thể thành công chúa và qua đó, họ có thể đem lại cho ta những bài học quý giá.” Alex Bailey háo hức ngồi thật thẳng trên ghế. Cô bé vẫn thường thích thú với những bài giảng của thầy cô, nhưng những lời này mới đặc biệt chạm vào tim Alex. “Truyện cổ tích không phải chỉ là những chuyện kể vu vơ để dỗ trẻ con ngủ,” cô giáo tiếp tục. “Giải pháp cho hầu hết mọi khó khăn có thể được tìm thấy ở cái kết của một câu truyện cổ. Cổ tích là những bài học cuộc sống được ngụy trang với đủ kiểu nhân vật và cảnh huống đặc sắc.” “Chú bé chăn cừu và chó sói” dạy ta biết giá trị của thanh danh tốt và sức mạnh của lòng trung thực. “Nàng Lọ Lem” cho ta thấy phần thưởng khi có một trái tim nhân hậu. “Vịt con xấu xí” dạy ta ý nghĩa của vẻ đẹp nội tâm.” Alex mở tròn mắt và gật đầu đồng tình. Đó là một cô bé xinh xắn, đôi mắt xanh biếc sáng ngời, mái tóc ngắn vàng ánh đỏ luôn được giữ gọn gàng không phủ xuống mặt nhờ một chiếc băng đô. Cách mà các cô cậu học trò khác nhìn chằm chằm vào cô giáo, như thể bài học được giảng bằng một thứ ngôn ngữ khác, là cái mà cô Peters không sao quen được. Vì vậy, cô Peters thường hướng về phía dãy bàn đầu, chỗ ngồi của Alex, mà giảng bài. Cô Peters là một người phụ nữ cao, gầy, cô luôn mặc những chiếc váy có hoa văn như những bộ sô-pha kiểu cũ. Tóc cô sẫm màu và xoăn, luôn được chải gọn hoàn hảo trên đầu cô như thể một cái nón (mà đám học trò cũng thường nghĩ thế). Qua cặp kính dày, mắt cô luôn nheo lại dưới cái nhìn phán xét mà cô đã dành cho lớp học suốt bao năm nay. “Đáng buồn thay, những câu chuyện bất hủ này không còn được coi trọng mấy trong xã hội của chúng ta,” Cô Peters nói. “Chúng ta đã đổi những lời giáo huấn sáng suốt trong đó để lấy các trò mua vui thiển cận như ti-vi và trò chơi điện tử. Cha mẹ bây giờ cứ để cho đám phim hoạt hình độc hại và phim ảnh bạo lực tiêm nhiễm vào con cái.” “Những lần duy nhất mà trẻ được tiếp xúc với truyện cổ tích là thông qua các phiên bản pha tạp qua bàn tay các công ty điện ảnh. Cổ tích chuyển thể thành phim thường bị tước mất các bài học đạo đức mà câu chuyện gốc muốn truyền đạt, thay thế chúng bởi lũ thú rừng hát hò nhảy múa. Vừa mới đây, ta đọc được rằng người ta làm phim mô tả Lọ Lem như một ca sĩ hip-hop với đời sống chật vật và Người Đẹp Ngủ Trong Rừng là một nàng công chúa chiến binh chuyên đấu với lũ thây ma!” “Hết sảy,” một đứa con trai ngồi sau Alex thì thầm một mình. Alex lắc đầu. Nghe những lời này, cô bé đau lòng lắm. Em cố gắng chia sẻ sự bất bình này với các bạn học nhưng buồn thay, mối bận tâm này không được các bạn hưởng ứng. “Ta chẳng biết liệu thế giới có khác đi không nếu mọi người đều biết đến truyện cổ tích theo cách mà Anh em nhà Grimm và Hans Christian Andersen muốn chúng được hiểu.” Cô Peters tiếp. “Ta tự hỏi liệu người đời có học được gì từ trái tim tan vỡ của Nàng Tiên Cá khi nàng chết ở cuối truyện thật về nàng. Ta không biết liệu có nhiều vụ bắt cóc như bây giờ không nếu trẻ em được biết về mối hiểm họa mà Cô Bé Quàng Khăn Đỏ phải đối mặt. Ta ngờ rằng những kẻ phạm tội chẳng đến nỗi hư hỏng nếu họ biết hậu quả mà Goldilocks gây ra cho Ba Chú Gấu.” “Có quá nhiều điều để học hỏi và phòng bị cho tương lai nếu chúng ta biết rộng lòng tiếp nhận những lời giáo huấn cổ xưa. Có lẽ nếu chúng ta hết mực trân trọng truyện cổ tích, sẽ dễ dàng hơn để ta có được cái kết hạnh phúc mãi mãi cho riêng mình.” Nếu Alex được tự do làm theo ý muốn, cô Peters sẽ được đáp lại bởi những tràng vỗ tay nồng nhiệt sau mỗi bài giảng của cô. Tiếc thay, sau giờ học của cô chỉ có những cái thở phào nhẹ nhõm chung của học sinh, chúng bày tỏ sự biết ơn vì buổi học đã kết thúc rồi. “Để xem các em hiểu biết về truyện cổ tích được bao nhiêu,” cô giáo nói với một nụ cười và bắt đầu rảo bước qua lại phòng học. “Trong truyện Đồ bỏ xó, cha của cô gái trẻ bảo với đức vua rằng con gái ông ta có thể dệt rơm thành cái gì? Có ai biết câu trả lời không?” Cô Peters lướt mắt khắp phòng học như cá mập hau háu tìm mồi. Chỉ có một học sinh giơ tay lên. “Mời em, Bailey.” Cô Peters gọi. “Ông ấy nói rằng con ông có thể dệt rơm thành vàng,” Alex trả lời. “Tốt lắm, Bailey,” cô Peters nói. Nếu cô có một học trò cưng – dĩ nhiên là cô chẳng bao giờ thừa nhận là có đâu – thì đó phải là Alex. Alex luôn sẵn lòng làm vừa ý mọi người. Em là định nghĩa của một mọt sách. Bất kể giờ nào trong ngày – trước giờ học, trong giờ học, sau giờ học, trước khi đi ngủ - lúc nào em cũng đọc sách. Em có khát khao học hỏi mạnh mẽ và vì thế, Alex thường là người đầu tiên trả lời các câu hỏi của cô Peters. Alex cố gắng tận dụng mọi cơ hội có được để gây ấn tượng tốt với bạn học, nỗ lực hơn mức cần thiết để hoàn thành những bài điểm sách và thuyết trình được giao. Tuy nhiên, điều này làm các học sinh khác khó chịu và Alex thường bị trêu chọc vì thế. Alex luôn nghe thấy các bạn nữ khác chế nhạo sau lưng mình. Em thường dành giờ ăn trưa ngồi một mình dưới bóng cây ở đâu đó, với một quyển sách mượn của thư viện. Mặc dù không bao giờ nói ra, thỉnh thoảng Alex cô đơn đến đau lòng. “Giờ thì có em nào có thể nói cho cô biết, thỏa thuận giữa cô gái trẻ với Đồ bỏ xó là gì không?” Alex chờ một chút trước khi lại giơ tay lên. Cô bé không muốn mình là học trò cưng tuyệt đối. “Em Bailey?” “Để đổi lấy việc biến rơm thành vàng, cô gái hứa sẽ trao đứa con đầu lòng cho Đồ bỏ xó khi cô ấy trở thành hoàng hậu,” Alex đáp. “Đổi chác thật là quá quắt,” đứa con trai đằng sau Alex bình phẩm. “Mà một lão già lùn cổ quái muốn có đứa bé làm gì cơ chứ?” đứa con gái ngồi cạnh thắc mắc. “Rõ quá mà, lão ta đâu thể nhận con nuôi với cái tên Đồ bỏ xó,” một học sinh khác chêm vào. “Ông ta có ăn thịt đứa bé không?” ai đó lo lắng hỏi. Alex quay đầu lại đối mặt với đám bạn ngớ ngẩn. “Các bạn chẳng hiểu ý nghĩa câu chuyện gì cả,” Alex nói. “Đồ bỏ xó lợi dụng cô gái vì cô đang cần được giúp đỡ. Truyện nói về cái giá của một cuộc thỏa thuận tồi. Ta sẵn lòng đánh đổi cái gì có giá trị lâu dài trong tương lai chỉ vì một thứ phù du của hiện tại? Hiểu chứ?” Nếu cô Peters có thể thay đổi nét mặt, chắc hẳn cô sẽ rất hãnh diện. “Nói hay lắm, Bailey,” cô lên tiếng. “Ta phải nói là, trong suốt những năm tháng đứng lớp của ta, ít khi ta gặp được một học sinh có hiểu biết sâu sắc như…” Một tiếng ngáy to chợt vang lên từ cuối phòng học. Một cậu bé ngồi ở hàng ghế cuối đang nằm ườn ra bàn, nước dãi chảy ra từ khóe miệng cậu ta, rõ là đang say ngủ. Alex có một cậu em sinh đôi và trong những lúc như thế này, em chỉ ước mình không có. Cô Peters chuyển sự chú ý sang cậu học trò như một cái kẹp giấy bị hút vào nam châm. “Trò Bailey?” cô Peters gọi. Cậu bé tiếp tục ngáy. “Trò Bailey?” cô Peters lại gọi tiếp, cúi xuống gần cậu hơn. Cậu bé lại ngáy một tiếng thật to. Vài đứa học trò bắt đầu bàn tán không hiểu vì sao cậu ta lại có thể phát ra âm thanh to đến thế. “Trò Bailey!” cô Peters quát vào tai cậu. Như thể có ai đó vừa đốt một cái pháo dưới ghế, Conner Bailey giật bắn người tỉnh lại, suýt chút làm lật cả bàn. “Tôi đang ở đâu? Chuyện gì xảy ra vậy?” Conner hỏi trong cơn hoảng loạn bối rối. Mắt cậu đảo nhanh khắp phòng trong khi bộ não cố gắng nhớ ra mình đang ở đâu. Cũng như chị mình, cậu bé có cặp mắt xanh biển sáng ngời và tóc vàng ánh đỏ. Gương mặt cậu tròn trịa và đầy tàn nhang, lúc này, hơi dẹt về một bên, như thể mặt một chú chó săn chân lùn khi chú ta vừa tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngắn. Alex chẳng thể nào thấy xấu hổ vì em mình hơn thế nữa. Ngoại trừ bề ngoài và sinh nhật trùng nhau, Alex và em trai khác nhau một trời một vực. Conner có thể có rất nhiều bạn bè nhưng khác với chị, cậu bé gặp khó khăn khi ở trường… chủ yếu là khó khăn trong việc giữ cho mình tỉnh táo. “Cô rất vui vì em lại có thể tham gia cùng lớp, trò Bailey ạ,” cô Peters nghiêm nghị nói. “Em ngủ ngon chứ?” Conner đỏ bừng mặt. “Em rất xin lỗi, thưa cô Peters,” cậu cất lời, cố gắng tỏ vẻ hết sức thành thật. “Thỉnh thoảng khi cô nói quá dài, em lại ngủ gục. Em không có ý xúc phạm cô. Em không thể cưỡng lại được.” “Trò ngủ gục trong giờ học của ta ít nhất hai lần một tuần,” cô Peters nhắc nhở. “Vâng, đúng là cô nói nhiều thật mà.” Trước khi có thể ngăn mình buột miệng thốt nên lời, Conner biết đó chẳng phải là điều nên nói. Vài đứa học trò phải cắn vào tay để nén cười. “Ta khuyên trò nên tỉnh táo khi ta giảng, Bailey à” cô Peters cảnh cáo. Conner chưa bao giờ thấy ai nheo mắt đến thế mà không nhắm tịt lại. “Trừ phi trò hiểu biết về truyện cổ tích đủ để tự giảng được bài này,” cô thêm vào. “Chắc là em làm được đấy,” Conner nói. Một lần nữa, cậu buột miệng không kịp suy nghĩ. “Ý em là, em biết khá nhiều về cái này, thế thôi.” “Ồ, thật sao?” cô Peters chẳng bao giờ thối lui trước một thách thức cả và cơn ác mộng tồi tệ nhất của mọi học trò là khi chúng dám thách thức cô. “Được thôi, trò Bailey, nếu trò hiểu biết đến thế, hãy trả lời câu hỏi này.” Conner nuốt khan. “Trong bản gốc truyện Người Đẹp Ngủ Trong Rừng, nàng công chúa ngủ thiếp đi bao lâu đến khi được đánh thức bởi nụ hôn đầu của tình yêu đích thực?” cô Peters hỏi, nhìn chằm chằm vào mặt học trò. Mọi ánh mắt đều dán vào Conner, sốt ruột chờ dấu hiệu nhỏ nhất cho thấy cậu không biết câu trả lời. Nhưng may cho Conner, cậu biết. “Một trăm,” Conner đáp. “Người Đẹp Ngủ Trong Rừng ngủ thiếp đi một trăm năm. Đó là lý do khiến nền lâu đài phủ đầy hồng gai và các thứ, vì lời nguyền tác động đến tất cả thần dân của vương quốc nên không ai chăm tỉa khu vườn cả.” Cô Peters không biết phải nói gì, làm gì. Cô cau mày nhìn đứa học trò, vô cùng ngạc nhiên. Đây là lần đầu tiên cậu trả lời đúng khi bị cô vặn hỏi và hiển nhiên là cô không trông đợi điều này. “Cố mà tỉnh táo đó, trò Bailey. May cho trò, sáng nay ta đã dùng đến tờ giấy phạt cuối cùng rồi, nhưng ta lúc nào cũng có thể xin thêm đấy,” cô Peters nói rồi bước lên trước lớp để tiếp tục bài giảng. Conner thở phào nhẹ nhõm và màu đỏ biến mất trên gương mặt cậu. Ánh mắt cậu chạm phải ánh mắt cô chị; cả cô bé cũng ngạc nhiên khi em mình trả lời đúng. Alex không trông chờ Conner nhớ được truyện cổ tích nào… “Giờ thì cả lớp, cô muốn các em lấy sách văn học ra, giở đến trang 170 và đọc thầm truyện Cô Bé Quàng Khăn Đỏ,” cô Peters hướng dẫn. Đám học trò làm theo lời cô. Conner tìm tư thế thật thoải mái trong chỗ ngồi và bắt đầu đọc. Câu chuyện, các bức tranh và nhân vật đều đã quá quen thuộc với cậu. Một trong những thứ mà Alex và Conner háo hức trông chờ nhất khi còn bé là các chuyến đi thăm bà nội. Bà sống ở vùng núi cao, giữa rừng rậm, trong một ngôi nhà bé nhỏ tựa như túp lều tranh, nếu mà thời nay vẫn còn thứ đó. Đó là một hành trình dài, đi xe phải mất vài giờ, nhưng cặp song sinh yêu chuyến đi đến từng phút một. Sự háo hức của bọn trẻ sẽ tăng dần khi xe chạy lên trên con đường quanh co uốn lượn, băng băng giữa hàng cây ngút ngàn, rồi khi vượt qua một cây cầu vàng, chúng sẽ hào hứng reo lên, “Sắp tới rồi! Sắp tới rồi!” Khi họ đến nơi, bà sẽ đón bọn trẻ nơi ngưỡng cửa với vòng tay rộng mở và cái ôm chặt đến ngạt thở. “Xem hai cháu kìa! Hai cháu đều cao lên ba tấc kể từ lần cuối gặp bà đấy!” Bà sẽ nói thế, ngay cả khi chúng chẳng cao lên chút nào, rồi bà dẫn chúng vào nhà, nơi mà một mẻ bánh quy mới ra lò đang chờ đón chúng. Cha của chúng lớn lên nơi rừng rậm, ngày nào ông cũng dành hàng giờ để kể bọn trẻ nghe về những chuyến thám hiểm của ông hồi nhỏ: tất tần tật những cái cây ông trèo, những con suối ông đã lội qua và lũ thú dữ mà ông chỉ vừa vặn thoát được. Hầu hết những chuyện kể của ông đều được phóng đại, nhưng bọn trẻ yêu thích thời gian được ở bên cha hơn mọi thứ trên thế giới. “Ngày nào đó, khi các con lớn hơn, cha sẽ đưa các con đến tất cả những nơi chốn bí mật mà ta từng chơi ở đó,” cha chúng sẽ trêu chúng như thế. Ông là một người đàn ông cao lớn với ánh mắt hiền từ luôn nheo lại mỗi khi cười, mà ông cười nhiều lắm, nhất là khi trêu chọc bọn trẻ. Vào buổi tối, mẹ sẽ phụ giúp bà nấu bữa tối và, sau khi ăn, ngay khi chén đĩa được rửa xong, gia đình sẽ quây quần quanh lò sưởi. Bà sẽ mở quyển truyện dày cộm của mình ra, rồi bà và cha sẽ thay phiên đọc truyện cổ tích cho bọn trẻ cho đến khi chúng thiếp ngủ. Đôi khi, cả nhà Bailey cũng thức đến tận lúc mặt trời mọc. Họ luôn kể chuyện thật chi tiết và hào hứng đến độ bọn trẻ chẳng thấy phiền gì khi nghe đi nghe lại một truyện. Đó là những kỷ niệm đẹp đẽ nhất mà đứa trẻ nào cũng mong muốn. Tiếc thay, từ lâu bọn trẻ đã không trở lại với mái nhà tranh của bà… “TRÒ BAILEY!” cô Peters quát to. Conner lại mơ màng rồi. “Xin lỗi, thưa cô Peters!” Conner lớn tiếng đáp lại, ngồi thật thẳng trên ghế như một người lính canh phòng. Nếu ánh mắt có thể giết người thì Conner hẳn đã tiêu tùng dưới cái quắc mắt giận dữ của cô rồi. “Lớp ta nghĩ gì về truyện Cô Bé Quàng Khăn Đỏ thật sự nào?” cô giáo hỏi cả lớp. Một nữ sinh với những búp tóc xoăn và niềng răng thật dày giơ tay lên. “Cô Peters?” tóc xoăn hỏi. “Em không hiểu ạ.” “Vì sao thế?” Cô Peters nói như đang vặn hỏi, “Em có thể không hiểu cái gì chứ?” “Bởi vì, truyện nói rằng Con sói hung ác bị Bác thợ săn giết chết” con bé tóc xoăn giải thích. “Em cứ nghĩ con sói chỉ buồn vì các con khác trong bầy sói cười chê cái mõm của nó, rồi cuối cùng sói và Cô bé quàng khăn đỏ sẽ trở thành bạn bè. Ít ra thì đó là những gì đã xảy ra trong bộ phim hoạt hình em từng xem khi còn bé.” Mắt cô Peters trợn ngược đến độ có thể thấy được sau lưng có gì. “Đó,” cô nói với hàm răng nghiến chặt, “chính là lý do vì sao chúng ta có bài học này.” Tóc xoăn tròn mắt và trở nên buồn bã. Làm sao mà câu chuyện yêu dấu của nó lại sai đến thế? “Bài tập về nhà,” cô Peters cất tiếng và cả lớp đồng loạt rụt xuống trong chỗ ngồi, “các em phải chọn ra truyện cổ tích yêu thích nhất và viết một bài văn, nộp vào ngày mai, về bài học mà truyện dạy cho ta.” Cô Peters trở về bàn giáo viên và các học sinh bắt đầu làm bài tập trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại trước khi tan học. “Trò Bailey?” cô Peters gọi Conner tới bên bàn. “Cô muốn nói với em điều này.” Conner đang gặp rắc rối to và cậu biết điều đó. Cậu cảnh giác đứng lên và đi đến bên bàn cô Peters. Đám bạn ném cho những cái nhìn âu sầu khi cậu đi qua, như thể cậu đang đến chỗ tử hình vậy. “Vâng, cô Peters?” Conner cất tiếng hỏi. “Conner, cô đang cố gắng thông cảm với hoàn cảnh của gia đình em,” cô Peters nói, dán cái nhìn chăm chăm vào cậu qua gọng kính. Hoàn cảnh gia đình. Hai từ này Conner đã phải nghe quá nhiều trong năm qua. “Tuy nhiên,” cô Peters tiếp tục, “có những hành vi mà cô không thể chấp nhận trong lớp. Em thường xuyên ngủ gật trong giờ học, em không chú ý, chưa kể đến việc em làm bài trắc nghiệm và kiểm tra rất tệ. Chị của em có vẻ vẫn học tốt. Có lẽ em nên theo gương chị?” Nghe so sánh đó cứ như thể vừa bị ai đá vào bụng vậy, lần nào cũng thế. Hẳn nhiên là Conner chẳng phải chị cậu, cậu luôn bị phạt cũng vì thế. “Nếu điều này tiếp tục tái diễn, cô sẽ phải gặp mặt mẹ em, em có hiểu không?” cô Peters cảnh cáo cậu. “Vâng, thưa thầy… Ý là, thưa cô! Ý em là, thưa cô! Xin lỗi cô.” Đây quả không phải là ngày may mắn nhất của cậu. “Vậy được rồi. Em có thể về chỗ.” Conner chậm rãi đi về chỗ ngồi, đầu cúi thấp hơn trước. Cậu ghét cái cảm giác mình là đứa tệ hại hơn cả. Alex đã quan sát toàn bộ cuộc trò chuyện giữa em trai và cô giáo. Dù cậu em đã làm mình xấu hổ, nhưng Alex vẫn thấy ái ngại cho cậu như bất cứ người chị nào. Alex lướt qua các trang sách văn học, quyết định sẽ viết về truyện gì. Những hình ảnh không rực rỡ và thú vị như trong quyển sách của bà, nhưng nhìn thấy các nhân vật đã lớn lên cùng mình, cô bé cảm thấy như được về nhà, cảm giác này gần đây đã trở nên thật hiếm hoi. Nếu truyện cổ tích là có thật, Alex nghĩ. Ai đó có thể vẫy đũa thần và biến tất cả trở lại như cũ. CHƯƠNG HAI Đường Về Thật Xa “Chị thích bài học lần này quá,” Alex nói với Conner khi cùng đi bộ về nhà. Conner đã quá quen với những lời khẳng định tương tự từ chị, cậu lấy đó làm dấu hiệu để ngừng lắng nghe. “Em biết đó, cô Peters đã đưa ra một luận điểm rất hay,” Alex hào hứng tiếp tục, cô bé cứ thế mà thao thao bất tuyệt. “Nghĩ mà xem, trẻ em thiếu thốn biết bao nhiêu nếu không được nuôi dưỡng bằng truyện cổ tích! Ôi, họ đáng thương biết mấy! Em không thấy tội nghiệp cho họ sao? Conner, em có đang nghe chị không đấy?” “Có chứ,” Conner nói dối. Sự chú ý của cậu đang dành cả cho chiếc vỏ sò rỗng mà cậu đang đá lăn dọc đường. “Em có tưởng tượng nổi một tuổi thơ mà không biết đến các nhân vật và xứ sở đó không?” Alex tiếp tục. “Mình thật may mắn khi cha và bà nội không quên đọc truyện cho nghe lúc mình còn nhỏ.” “May mắn lắm…” Conner gật gù, dù cậu chẳng rõ cậu đang đồng tình với cái gì. Mỗi ngày tan trường, chị em song sinh nhà Bailey lại cùng đi bộ về nhà. Cả hai sống trong một khu phố đáng yêu, quanh đó là những khu phố đáng yêu khác và một loạt các khu phố dễ mến lại bao quanh đó nữa. Đó là một vùng ngoại ô rộng lớn, mỗi ngôi nhà trông tựa như nhà bên cạnh, nhưng cũng lại thật khác biệt. Để giết thời gian, trong khi đi, Alex luôn kể cho cậu em nghe mọi điều nảy ra trong óc mình: mọi suy nghĩ và mối bận tâm lúc đó, tóm tắt tất tần tật những bài học trong ngày và những gì định làm khi về đến nhà. Việc này lặp đi lặp lại hằng ngày làm Conner chán chết đi được, nhưng cậu biết mình là người duy nhất trên thế giới mà Alex có để chuyện trò, vì vậy cậu đã cố hết sức lắng nghe. Nhưng lắng nghe chưa bao giờ là điểm mạnh của Conner cả. “Chị biết chọn truyện nào để làm văn đây? Thật quá khó để chọn mà!” Alex vừa nói vừa vỗ tay hào hứng. “Em sẽ viết bài về truyện nào thế?” “Ừm…” Conner ấp úng, ngẩng đầu lên, dứt mắt khỏi mặt đất. Cậu phải tua lại cuộc trò chuyện trong đầu để nhớ được câu hỏi là gì. “Chú bé chăn cừu và con sói,” cậu đáp, chọn lấy truyện cổ tích đầu tiên hiện ra trong trí. “Em đừng chọn truyện đó,” Alex lắc đầu nói. “Truyện đó là rõ nhất còn gì! Em phải chọn truyện nào khó khó để làm cô Peters ấn tượng chứ. Em nên chọn cái nào có thông điệp ẩn giấu sâu hơn ấy, truyện nào không nói rõ mồn một như vậy.” Conner thở dài. Lúc nào thì xuôi theo lời Alex cũng dễ hơn là tranh cãi, nhưng đôi khi không thể tránh khỏi chuyện đó. “Được rồi, em sẽ chọn “Người Đẹp Ngủ Trong Rừng,” cậu quyết định. “Lựa chọn thú vị đấy,” Alex nói, thích thú với ý tưởng đó. “Em nghĩ bài học đạo đức của truyện đó là gì?” “Đừng chọc giận hàng xóm của bạn, em đoán vậy,” Conner đáp. Alex làu bàu tỏ ý không tán thành. “Nghiêm túc nào, Conner! Đấy đâu phải bài học đạo đức của “Người Đẹp Ngủ Trong Rừng,” cô bé quở trách em. “Phải chứ,” Conner giải thích. “Nếu nhà vua và nữ hoàng đã mời bà tiên dữ dằn đó đến dự tiệc mừng con gái ngay từ đầu thì sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra cả.” “Họ không thể ngăn chuyện đó xảy ra được,” Alex đáp lại. “Bà tiên đó rất độc ác và thế nào rồi cũng nguyền rủa công chúa nhỏ thôi. “Người Đẹp Ngủ Trong Rừng” chính là bàn về việc cố gắng tránh cái không thể tránh khỏi. Cha mẹ công chúa cố gắng bảo vệ nàng và đã ra lệnh phá hủy tất cả xa quay sợi trong vương quốc. Nàng được bảo bọc quá đáng, thậm chí chẳng biết đến mối nguy hiểm, để rồi vẫn bị cái kim đầu tiên nàng thấy đâm vào tay.” Conner suy nghĩ về giả thiết này và lắc đầu. Cậu thích ý tưởng của mình hơn. “Em không đồng ý,” Conner bảo chị. “Em đã thấy chị giận đến thế nào khi người ta không mời chị đi đâu đó, thường thì trông như chị cũng sắp nguyền rủa một đứa bé đến nơi.” Alex ném cho Conner ánh mắt coi thường sẽ làm cho cô Peters tự hào lắm. “Mặc dù không cách diễn giải nào là sai cả, nhưng chị phải nói là em hiểu sai bét,” Alex nói. “Em chỉ nói là phải cẩn thận với những người mà mình phớt lờ thôi mà,” Connor giải thích. “Lúc nào em cũng cho là cha mẹ của Người Đẹp Ngủ Trong Rừng bị thế là đáng đời.” “Vậy sao?” Alex hỏi vặn lại. “Vậy chị đoán là em cũng thấy đáng đời Hansel và Gretel, đúng không?” “Đúng vậy,” Conner nói, cảm thấy mình thật thông minh. “Và bà phù thủy cũng vậy!” “Vì sao vậy?” Alex hỏi. “Bởi vì,” Conner giải thích với nụ cười tủm tỉm, “nếu ở trong một ngôi nhà làm bằng kẹo thì đừng có ở kế bên một đám trẻ con béo phì. Nhiều nhân vật trong cổ tích chả hiểu lẽ thường gì cả.” Alex lại thốt ra tiếng làu bàu bất đồng. Conner tin là thế nào chị cậu cũng còn nói liên tu bất tận đến khi về nhà. “Mụ phù thủy có sống bên cạnh đâu! Bà ta sống trong rừng sâu kia! Bọn trẻ phải rắc vụn bánh mì dọc đường để tìm được đường về, nhớ chứ. Mục đích của căn nhà là để dụ bọn trẻ tới cơ mà. Bọn trẻ đang đói khát quá!” Alex nhắc cậu em. “Ít nhất là phải nhớ đúng truyện đã rồi hẵng chỉ trích chứ.” “Nếu chúng đói thì làm gì lại phung phí bánh mì thế?” Conner hỏi. “Theo em thấy thì bọn trẻ đúng là quậy phá mà.” Alex lại làu bàu bất mãn. “Vậy thì trong cái đầu dở hơi của em, em nghĩ bài học của truyện “Goldilocks và ba chú gấu” là gì?” Alex thử cậu em. “Dễ thôi,” Conner đáp. “Hãy khóa cửa lại! Có đủ kiểu, đủ loại kẻ trộm. Ngay cả những bé gái tóc xoăn cũng không thể tin được.” Alex lại làu bàu và khoanh tay lại. Cô bé gắng hết sức để không phì cười; em chẳng muốn công nhận ý kiến của em trai. “Goldilocks bàn về hậu quả! Chính cô Peters đã nói thế,” Alex nói. Mặc dù Alex không đời nào thừa nhận, nhưng tranh cãi với cậu em đôi khi cũng thú vị. “Em nghĩ truyện “Jack và cây đậu thần” nói về cái gì?” cô bé lại hỏi. Conner nghĩ ngợi chốc lát và nhoẻn cười tinh nghịch. “Đậu xấu có thể gây ra nhiều rắc rối hơn là chứng khó tiêu,” cậu đáp rồi tự mình phá lên cười như điên. Alex bĩu môi để giấu một nụ cười. “Em nghĩ bài học của “Cô Bé Quàng Khăn Đỏ” là gì?” cô hỏi. “Em cho rằng cô nàng nên gửi giỏ quà cho bà qua đường bưu điện chăng?” “Nãy giờ chị mới có một ý nghe được đó!” cậu nói. “Mặc dù em luôn thấy tội nghiệp cho Cô Bé Quàng Khăn Đỏ. Rõ là cha mẹ cô bé không thích cô lắm.” “Sao em nói vậy?” Alex hỏi, chẳng biết cậu em có thể nghĩ ra cái gì từ câu chuyện. “Ai lại sai con mình đi vào một khu rừng tối tăm đầy sói, mang theo một cái giỏ đầy thức ăn mới ra lò và mặc một cái áo choàng chói lọi thế chứ?” Conner hỏi. “Họ gần như đang mời con sói tới xơi cô bé còn gì! Cô bé chắc là quấy họ lắm!” Alex ráng nín cười nhưng với sự khoái trá của Conner, cô chị buột ra tiếng khúc khích nhỏ. “Em biết trong tâm chị cũng đồng ý với em mà,” Conner nói, thúc vai chị. “Conner, chính những người như em đã phá hỏng cổ tích trong tâm trí những người còn lại,” Alex nói, xóa nụ cười khỏi gương mặt. “Người ta đùa cợt về chúng, và thế là các thông điệp bị… bị… mất cả…” Alex đột ngột đứng lại. Mọi sắc màu trên gương mặt em biến mất. Cái gì đó bên kia đường đã thu hút ánh mắt em, một chuyện rất đáng thất vọng. “Chuyện gì thế?” Conner hỏi, quay lại phía chị. Alex đang nhìn chằm chằm vào một ngôi nhà lớn. Đó là một ngôi nhà dễ mến, sơn xanh với đường viền trắng và dăm ba cái cửa sổ. Sân trước được phối cảnh hoàn hảo; có vừa đủ cỏ, vài khóm hoa sặc sỡ và một cây sồi lý tưởng để leo trèo. Nếu một ngôi nhà có thể cười, ngôi nhà này sẽ cười toe toét đến tận mang tai. “Nhìn kìa,” Alex nói và chỉ vào tấm biển Bán Nhà cạnh bên cây sồi. Một dòng màu đỏ chói mang chữ Đã Bán vừa được thêm vào đó. “Nó bị bán rồi,” Alex chầm chậm lắc đầu vẻ không tin được. “Nó bị bán rồi,” cô bé lặp lại, không muốn đó là sự thật. Chút màu sắc trên khuôn mặt tròn trịa của Conner cũng đã biến mất. Cặp song sinh nhìn chằm chằm vào ngôi nhà một lúc trong im lặng, không biết nên nói gì. “Chúng ta biết rốt cuộc nó sẽ xảy ra thôi,” Conner lên tiếng. “Vậy mà sao chị lại ngạc nhiên thế này?” Alex thì thào hỏi. “Chị cho là nó đã được để bán cũng lâu rồi, chị chỉ nghĩ là nó… em biết đấy… đang đợi chúng ta.” Conner nhìn thấy nước mắt bắt đầu ứa ra trong mắt Alex, qua màn nước mắt của chính cậu. “Thôi mà, Alex,” Conner cất lời và tiếp tục bước đi, “Về nhà thôi.” Alex nhìn ngôi nhà một lúc nữa rồi theo em. Ngôi nhà này chỉ là một thứ mà gia đình Bailey vừa đánh mất… Một năm trước, chỉ vài ngày trước sinh nhật thứ mười một của chúng, cha của Alex và Conner mất trong một tai nạn xe trên đường đi làm về. Ông Bailey sở hữu một hiệu sách cách nhà vài con phố, tên là Hiệu sách của Bailey, nhưng chỉ vài con phố nhỏ là đủ để tai nạn khủng khiếp đó xảy ra. Bọn trẻ và người mẹ đang nóng ruột chờ ông tại bàn ăn khi họ nhận được điện thoại báo rằng cha của bọn trẻ sẽ không thể về với họ tối đó, hay bất cứ tối nào sau đó. Ông chưa từng về quá giờ ăn tối trước đây, vì vậy, ngay khi điện thoại reo, họ đều biết đã có chuyện gì không ổn. Alex và Conner không bao giờ có thể quên được vẻ mặt của mẹ chúng khi bà trả lời điện thoại – vẻ mặt báo cho chúng biết, không cần nói lời nào, cuộc đời chúng sẽ không còn như trước nữa. Bọn trẻ chưa bao giờ thấy mẹ khóc như đêm đó. Mọi thứ sau đó xảy ra rất nhanh. Bọn trẻ khó mà nhớ được chuyện xảy ra trước sau thế nào. Chúng nhớ mẹ đã thực hiện vô số cuộc điện thoại và phải giải quyết nhiều thủ tục giấy tờ. Chúng nhớ bà nội đã đến để chăm sóc chúng trong khi mẹ chuẩn bị cho tang lễ. Chúng nhớ đã nắm tay mẹ khi họ bước dọc thánh đường nhà thờ ngày tang lễ. Chúng ghi nhớ hàng tá hoa và nến trắng, và gương mặt buồn bã của tất cả mọi người khi họ đi qua. Chúng nhớ tất cả các món ăn mà mọi người gửi đến. Chúng nhớ mọi người đã nói với chúng rằng họ tiếc nuối thế nào. Chúng không nhớ tới ngày sinh nhật thứ mười một, bởi vì chẳng ai nhớ cả. Bọn trẻ vẫn nhớ trong những tháng tiếp theo bà nội và mẹ đã cứng cỏi chịu đựng vì chúng ra sao. Chúng nhớ mẹ đã giải thích với chúng vì sao họ phải bán đi hiệu sách. Chúng nhớ rằng, cuối cùng, mẹ không thể giữ ngôi nhà xanh biển đẹp đẽ của họ lâu hơn được nữa, rồi cả nhà phải chuyển vào một nhà trọ dưới phố gần đó. Chúng vẫn nhớ bà phải từ biệt chúng khi họ đã ổn định trong ngôi nhà mới, nhỏ hơn. Chúng nhớ đã trở lại trường học và mọi thứ có vẻ bình thường giả tạo làm sao. Nhưng hơn hết, cặp song sinh nhớ rằng chúng không hiểu vì sao tất cả những chuyện này lại xảy ra. Tròn một năm qua, mà bọn trẻ vẫn không hiểu. Mọi người bảo chúng rằng từ từ rồi sẽ dễ dàng hơn, nhưng ý họ là bao lâu chứ? Thiếu vắng cha, nỗi mất mát ngày một lớn dần thêm. Chúng nhớ cha nhiều đến nỗi đôi khi, chúng muốn nỗi buồn cứ thế căng tràn, trào ra ngoài cơ thể chúng. Chúng nhớ nụ cười của cha, chúng nhớ tiếng cười của ông và cả những câu chuyện của ông nữa… Mỗi khi Alex có một ngày đặc biệt tệ hại ở trường, việc đầu tiên cô bé sẽ làm khi về nhà là tót lên xe đạp và đạp đến hiệu sách của cha. Cô bé sẽ chạy qua cánh cửa trước, tìm cha và nói: “Cha ơi, con cần được chuyện trò với cha.” Dù có đang giúp một khách hàng hay đang xếp sách mới lên kệ, ông Bailey vẫn sẽ gác việc đang làm lại, đưa con gái đến kho trữ sách phía sau và nghe xem chuyện gì đã xảy ra. “Có chuyện gì thế, con yêu?” ông sẽ hỏi với ánh mắt mở to đầy âu lo. “Hôm nay con đã có một ngày tồi tệ, cha ơi,” một lần Alex nói. “Những đứa trẻ khác vẫn trêu chọc con à?” ông hỏi. “Cha có thể gọi đến trường và nhờ cô con nói chuyện với chúng.” “Việc đó không giải quyết được gì đâu,” Alex vừa nói vừa thút thít. “Bằng việc công khai ngược đãi con, chúng đang lấp đầy lỗ hổng bất an bên trong do sự thờ ơ xã hội và gia đình gây ra.” Ông Bailey gãi đầu. “Vậy, ý con là sao, con yêu, rằng chúng chỉ đang ghen tức?” ông hỏi con. “Chính thế,” Alex đáp. “Vào giờ ăn hôm nay, con đọc được một quyển sách tâm lý trong thư viện giải thích việc đó.” Ông Bailey cất tiếng cười hãnh diện. Sự thông minh của cô con gái luôn làm ông ngạc nhiên. “Cha nghĩ con chỉ là một cô bé quá thông minh thôi, Alex à,” ông nói. “Nhiều khi con ước con cũng như mọi người khác,” Alex thú nhận. “Con mệt mỏi vì cô đơn rồi, cha ơi. Nếu thông minh và là học trò ngoan có nghĩa là con không bao giờ có bạn, thì con ước con giống Conner thì hơn.” “Alex, có ai kể con nghe truyện về cái Cây Cong chưa?” ông Bailey hỏi. “Chưa ạ,” Alex trả lời. Mắt ông Bailey sáng lên. Đôi mắt luôn như thế lúc ông sắp kể một câu chuyện. “Ừ,” ông bắt đầu, “một ngày lúc cha còn rất trẻ, cha đang đi dạo trong rừng và thấy một thứ rất đặc biệt. Nó là một cây thường xanh nhưng khác hẳn với những cây thường xanh khác cha từng thấy. Thay vì vươn thẳng từ mặt đất, thân của nó cong và uốn nhiều vòng như một cây dây leo lớn vậy.” “Sao thế ạ?” Alex hỏi, hoàn toàn bị lôi cuốn. “Điều đó là không thể. Cây thường xanh không mọc như thế.” “Có lẽ ai đó đã quên bảo cái cây như vậy,” ông Bailey đáp. “Dù sao đi nữa, một ngày kia, những người tiều phu đến và đốn hết cây trong khu vực đó, trừ cái Cây Cong.” “Vì sao vậy?” Alex hỏi. “Bởi vì họ cho rằng nó không dùng được,” ông Bailey trả lời. “Con không thể làm một cái bàn, cái ghế hay cái tủ với cái cây như vậy được. Con thấy đấy, Cây Cong có vẻ khác hẳn các cây khác, nhưng sự độc đáo đó đã cứu sống nó.” “Chuyện gì đã xảy ra với Cây Cong rồi ạ” Alex hỏi. “Nó vẫn còn đó đến giờ,” ông Bailey mỉm cười. “Nó đang cao, cao lên và cong, cong hơn từng ngày.” Một nụ cười chúm chím nở trên gương mặt Alex. “Con nghĩ con đã hiểu cha muốn nói với con điều gì, cha ạ,” cô bé nói. “Cha vui lắm,” ông Bailey tiếp. “Giờ thì tất cả những gì con phải làm là chờ cho các tiều phu đến và đốn hết các bạn con đi.” Alex phá lên cười, lần đầu tiên trong ngày. Ông Bailey luôn biết cách làm cô bé vui lên. Cặp song sinh phải đi lâu gấp đôi để về nhà từ khi chuyển vào nhà trọ. Đó là một ngôi nhà chán ngắt với tường nâu xỉn và mái bằng. Có ít cửa sổ và sân trước chỉ độc một thảm cỏ buồn tẻ sắp chết rụi đến nơi vì vòi phun nước không hoạt động. Nhà của gia đình Bailey ấm áp nhưng chật chội. Họ không có đủ chỗ cho đồ đạc và không cái nào trong đó hợp với căn nhà, bởi vì mục đích của chúng chưa bao giờ là vậy. Dù họ đã sống trong đó hơn nửa năm, những chiếc thùng chưa được dỡ ra vẫn còn xếp dọc tường. Không ai muốn dỡ chúng ra cả; không ai muốn chấp nhận rằng họ sẽ ở đó lâu như họ thực sự đã ở. Cặp song sinh lập tức lên lầu và vào phòng ngủ riêng của từng đứa. Alex ngồi vào bàn và bắt đầu làm bài tập. Conner nằm lên giường và thiếp ngủ. Phòng ngủ của Alex có thể bị nhận lầm thành thư viện nếu không có cái giường vàng tươi ở trong góc. Kệ sách đủ cỡ được xếp dọc trong phòng, chứa đủ thứ, từ truyện đọc đến các bộ bách khoa toàn thư. Phòng ngủ của Conner thì giống một cái hang động hơn, trong đó, cậu bé ngủ đông bất cứ khi nào có thể. Nó tối tăm và bừa bộn; những mẩu thảm lẩn trong các đống đồ bẩn. Một cái xăng-uých phô mai nướng ăn dở đã nằm trên sàn quá lâu, khiến ai cũng phải gai người. Khoảng một tiếng sau, cặp song sinh nghe tiếng động báo hiệu mẹ đang ghé về nhà từ chỗ làm, chúng xuống lầu để gặp mẹ trong bếp. Bà đang ngồi tại bàn nghe điện thoại, xem qua chồng phong bì vừa lấy ra từ hộp thư. Charlotte Bailey là một người phụ nữ rất đẹp với mái tóc đỏ và làn da điểm tàn nhang mà bọn trẻ chắc chắn đã thừa hưởng từ bà. Bà có một tấm lòng rộng mở, trìu mến và yêu thương con hơn bất cứ thứ gì khác trên đời. Đáng buồn là bọn trẻ rất hiếm khi được gặp bà. Là y tá tại một bệnh viện nhi địa phương, mẹ cặp sinh đôi buộc phải thường xuyên tăng ca gấp đôi để nuôi sống gia đình kể từ ngày chồng bà qua đời. Mỗi sáng, trước khi bọn trẻ thức dậy thì bà đã đi rồi và bà chỉ về nhà sau khi chúng đã ngủ. Thời gian duy nhất bà được ở bên cặp song sinh là vào giờ ăn trưa và ăn tối ngắn ngủi được về nhà. Bà Bailey yêu công việc của bà, yêu việc chăm sóc trẻ em tại bệnh viện, nhưng bà ghét việc nó chiếm mất thời gian riêng tư của bà. Theo cách nào đó, cặp song sinh cảm thấy chúng đã mất luôn cả mẹ sau cái chết của cha. “Chào các con,” bà Bailey nói với cặp song sinh, lấy tay che ống nói điện thoại. “Hôm nay ở trường vui chứ?” Alex gật đầu quả quyết. Conner giơ ngón tay cái lên một cách nhiệt tính thái quá. “Vâng, tôi có thể tăng ca thứ hai này,” bà nói vào điện thoại với ai đó từ bệnh viện. “Không có vấn đề gì đâu,” bà nói dối. Hầu hết những bao thư bà vừa xem qua có nhãn dán cảnh cáo đỏ chói, đề là Giấy báo hạn chót đóng tiền. Dù đã làm việc quần quật, đôi khi, bà Bailey phải bày ra đủ kế để đối phó với vấn đề tiền bạc. Bà đặt các bao thư úp xuống bàn, giấu chúng khỏi bọn trẻ. “Cảm ơn,” bà Bailey nói vào điện thoại rồi nhấn nút ngắt. Bà quay qua các con. “Các con sao rồi?” “Ổn ạ,” bọn trẻ đều ỉu xìu đáp. Bản năng người mẹ của bà Bailey lên tiếng. Bà biết rằng có gì đó làm bọn trẻ phiền muộn. “Có chuyện gì thế?” bà hỏi, quan sát vẻ mặt chúng. “Các con có vẻ xuống tinh thần.” Alex và Conner đưa mắt nhìn nhau, không chắc nên nói gì. Mẹ có biết về nhà cũ của họ chưa? Chúng có nên nói với bà không? “Thôi nào,” mẹ chúng nói. “Chuyện gì thế? Các con có thể nói với mẹ mọi chuyện.” “Tụi con không có buồn,” Conner đáp. “Tụi con biết rốt cuộc rồi chuyện đó sẽ xảy ra.” “Chuyện gì?” bà Bailey hỏi. “Ngôi nhà bị bán rồi,” Alex đáp. “Tụi con thấy nó hôm nay, trên đường đi học về.” Một khoảng lặng trước khi có người lên tiếng. Với bà Bailey, chuyện này không phải là mới, nhưng cặp song sinh nhận ra rằng mẹ cũng hụt hẫng như chúng và mong rằng chúng không nhận thấy. “Ồ, chuyện đó à,” bà Bailey cất lời, gạt chuyện đó đi. “Ừ, mẹ biết. Dù sao các con cũng không nên vì thế mà buồn. Chúng ta sẽ tìm được một ngôi nhà lớn hơn, đẹp hơn ngay khi mọi chuyện đã ổn.” Chỉ vậy thôi. Bà Bailey không phải là một người giỏi nói dối, bọn trẻ cũng vậy. Dù có thế, Alex và Conner luôn mỉm cười và gật đầu đồng tình với bà. “Các con đã học được gì ở trường hôm nay?” mẹ chúng hỏi. “Nhiều lắm ạ,” Alex tuyên bố với một nụ cười toe toét. “Không nhiều lắm,” Conner lầm bầm với một cái nhíu mày. “Đó là bởi vì em lại ngủ gật trong lớp nữa!” Alex méc mẹ. Conner ném cho Alex cái nhìn khó chịu. “Ôi, Conner, không phải vậy nữa chứ,” bà Bailey lắc đầu. “Chúng ta biết làm gì với con đây?” “Đâu phải lỗi của con!” Conner phân trần. “Bài giảng của cô Peters làm con ngủ. Tự nhiên vậy à! Cứ như là não con tự tắt đi vậy. Đôi khi ngay cả trò dây thun cũ của con cũng không làm gì được.” “Trò dây thun?” bà Bailey thắc mắc. “Con đeo một cọng dây thun vào cổ tay và bật tách nó mỗi khi thấy buồn ngủ,” Conner giải thích. “Vả lại con chắc là nó không có hại gì!” Bà Bailey lắc đầu, cảm thấy buồn cười hơn hết. “Ừ, đừng quên rằng các con may mắn lắm mới được ngồi trong phòng học đó,” bà Bailey dặn với “cái nhìn người mẹ” khiến cậu lập tức thấy tội lỗi. “Bọn trẻ ở bệnh viện không thích gì hơn là được đổi chỗ với các con và đến trường mỗi ngày.” “Họ sẽ đổi ý nếu gặp cô Peters thôi,” Conner thì thầm. Điện thoại reo ngay khi bà Bailey định tiếp tục mắng cậu con trai. “A lô?” bà Bailey trả lời điện thoại. Những nếp nhăn âu lo trên trán bà trở nên rõ hơn. “Ngày mai ư? Không, chắc là có lầm lẫn gì rồi. Tôi đã bảo họ tôi không thể làm việc ngày mai được; mai là ngày sinh nhật thứ mười hai của bọn trẻ và tôi định dành buổi tối bên chúng.” Alex và Conner nhìn nhau với vẻ ngạc nhiên y hệt. Chúng đã suýt quên rằng ngày mai là chúng lên mười hai tuổi. Hầu như là… “Bà có chắc không ai có thể lo việc đó không?” Bà Bailey hỏi, giọng nói trở nên khẩn thiết hơn bà muốn. “Không, tôi hiểu mà… Vâng, dĩ nhiên rồi… Tôi biết rõ việc cắt giảm nhân sự mà… Hẹn gặp bà ngày mai.” Bà Bailey cúp máy, nhắm mắt lại và buông tiếng thở dài thật sâu và thất vọng. “Mẹ có tin xấu đây, các con,” bà bảo chúng. “Có vẻ như ngày mai mẹ phải làm việc tối rồi, vậy nên mẹ không thể ở đây dự sinh nhật các con được. Nhưng mẹ sẽ bù đắp cho các con! Ta sẽ ăn mừng khi mẹ về nhà tối sau, được chứ?” “Được mà, mẹ,” Alex nói vui vẻ, cố gắng làm mẹ vui lên. “Chúng con hiểu.” “Không sao đâu,” Conner thêm vào. “Tụi con cũng không mong đợi cái gì đặc biệt cả.” Tình cảnh này làm cho bà Bailey thấy mình là người mẹ tồi tệ nhất thế giới và sự thấu hiểu của các con làm bà càng cảm thấy áy náy hơn. Bà thà thấy chúng giận dỗi, tức tối hay biểu lộ cảm xúc nào đó phù hợp lứa tuổi của chúng. Chúng còn quá nhỏ để mà làm quen với nỗi thất vọng. “Ôi…” bà Bailey nói, chống lại nỗi xót xa trong lòng. “Tốt rồi. Vậy ta ăn tối thôi… kiếm một cái bánh kem… và có một buổi tối thật tuyệt nhé… Giờ thì mẹ lên lầu chút thôi rồi trở lại làm việc.” Bà ra khỏi bếp và vội vã lên lầu, vào phòng ngủ. Cặp song sinh chờ một chốc trước khi lên lầu để xem mẹ ra sao. Chúng thập thò nhìn vào phòng mẹ. Bà đang ngồi khóc trên giường, những nắm khăn giấy vo tròn trong tay, trò chuyện với khung hình người chồng quá cố. “Ôi, John,” bà Bailey nói. “Em đã gắng mạnh mẽ để vực dậy gia đình mình, nhưng thật khó khăn khi không có anh. Các con thật ngoan. Chúng không đáng phải chịu cảnh này.” Bà nhanh chóng lau nước mắt khi nhận thấy bọn trẻ đang nhìn mình. Alex và Conner chầm chậm bước vào phòng và ngồi xuống bên cạnh mẹ. “Mẹ rất xin lỗi hai con, vì mọi thứ,” bà Bailey nói với con. “Thật không công bằng khi các con phải chịu đựng tất cả những điều này khi còn quá nhỏ.” “Sẽ ổn thôi, mẹ,” Alex cất lời. “Tụi con không cần làm gì đặc biệt vào ngày sinh nhật đâu.” “Dù sao thì người ta cũng coi trọng quá mức cái ngày sinh nhật,” Conner thêm vào. “Chúng con biết nhà mình đang khó khăn lắm.” Bà Bailey choàng tay qua người hai con. “Từ khi nào mà hai con trưởng thành đến thế?” bà hỏi chúng với đôi mắt ướt. “Mẹ là người mẹ may mắn nhất trên thế giới!” Mọi ánh mắt đều hướng về bức ảnh ông Bailey. “Các con biết cha con sẽ nói gì nếu ông ấy đang ở đây không?” bà Bailey hỏi bọn trẻ. “Cha sẽ nói, “Lúc này, chúng ta đang sống trong một chương khó khăn của cuộc đời, nhưng truyện nào rồi cũng tốt đẹp hơn!” Bọn trẻ mỉm cười với mẹ, hy vọng đó là sự thật. CHƯƠNG BA Bất Ngờ Ngày Sinh Nhật “Đặt bút xuống,” cô Peters đứng trước lớp ra lệnh. Học trò của cô đang làm bài kiểm tra toán và cô đã giám sát cả lớp chặt chẽ như một quản ngục suốt quãng thời gian đó. “Chuyền bài kiểm tra lên trước.” Bài kiểm tra trông như thể đã viết bằng chữ tượng hình cổ với Conner vậy. Hầu hết phần trả lời bỏ trống, cậu chỉ nguệch ngoạc vào những chỗ còn lại để trông có vẻ như đã cố gắng. Cậu lẩm nhẩm một lời cầu nguyện rồi chuyển bài kiểm tra lên trước với các bạn khác. Tất cả các bài kiểm tra đều được chuyền đến chỗ Alex, em xếp gọn chúng thành chồng cho cô Peters. Alex luôn cảm thấy thật tỉnh táo sau khi làm kiểm tra, đặc biệt là với những bài đơn giản như thế này. Bài kiểm tra của cậu em làm Alex chú ý vì đó là bài bỏ trống nhiều nhất. Alex biết ở trường Conner luôn cố gắng hết mình, nhưng có vẻ cái hết mình của cậu không bao giờ là đủ. Cô bé nhìn em trai, ước gì có thể giúp được… và rồi em nảy ra một ý: Có thể đấy. Alex nhìn lên cô Peters và thấy cô đang bận bịu với mớ ghi chép trong giáo án của mình. Cô giáo có nhận ra nếu Alex điền nhanh vài đáp án cho em trai không? Alex có thể làm một điều rõ là sai trái thế không? Có được coi là gian lận không nếu ta làm thế trên bài kiểm tra của người khác? Cử chỉ cao thượng có xóa nhòa được tội lỗi không, nếu xét trên tất cả mọi mặt? Alex vẫn hay lo nghĩ quá đáng về mọi thứ, vậy nên em cứ thế mà làm, không nghĩ ngợi nữa; Alex điền thật nhanh vào vài ô đáp án trong bài làm của cậu em, viết cẩu thả hơn thường lệ, rồi nộp chồng bài kiểm tra cho cô Peters. Đó là hành động mang tính bộc phát nhất mà cô bé từng làm. “Cảm ơn, trò Bailey,” cô Peters nói, nhìn vào mắt cô học trò. Alex cảm thấy như thể ruột gan mình lộn tùng phèo. Chút hưng phấn trong cơn bốc đồng giờ đây lại bị lấn át bởi cảm giác tội lỗi. Cô Peters luôn tin tưởng Alex; làm sao em có thể làm một việc thiếu suy nghĩ đến thế? Alex có nên tự thú việc vừa làm chăng? Hình phạt cho lỗi lầm của Alex là gì? Lẽ nào em phải chịu đựng mặc cảm tội lỗi này suốt đời sao? Alex nhìn lại em mình. Conner vừa buột ra một tiếng thở dài lặng lẽ, Alex cảm nhận được nỗi buồn và sự hổ thẹn của em trai; cô bé có thể thấu cảm nỗi tuyệt vọng của Conner như thể của chính mình. Những day dứt trong đầu Alex không còn nữa. Cô bé biết mình đã làm điều đúng đắn – không phải như một học sinh, mà trong tư cách một người chị. “Cô muốn tất cả các em lấy bài tập về nhà tối qua ra,” cô Peters yêu cầu, “và trình bày ngắn gọn bài làm của mình trước lớp.” Cô giáo vẫn thường làm cả lớp ngạc nhiên với những bài thuyết trình đột xuất để học sinh không dám lơ là. Cô ngồi vào một chiếc ghế cao ở cuối lớp, gần một cách đáng ngại với chỗ ngồi của Conner, như thế, cô có thể để mắt xem cậu có tỉnh táo hay không. Lần lượt từng học sinh một trình bày bài làm của mình trước lớp. Ngoại trừ một đứa con trai tưởng truyện “Jack và Cây đậu thần” kể về một vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh và một cô nhỏ dám khẳng định “Chú mèo đi hia” là một ví dụ sớm sủa về bạo hành động vật, cả lớp có vẻ đều hiểu đúng các truyện kể. “Thật khó để chọn chỉ một truyện cổ tích để viết bài,” Alex cất giọng trình bày một cách sinh động bài làm bảy trang của mình trước lớp. “Vì vậy, tôi chọn truyện mà chủ đề của nó xuất hiện trong hầu hết tất cả các truyện cổ tích và mọi câu chuyện từng được viết ra, “Cô bé Lọ Lem”!” Sự sôi nổi của cô bé không được các bạn học hưởng ứng. “Đã có nhiều người khó chịu với “Cô bé Lọ Lem”, cho rằng nó chứa đựng những yếu tố chống lại quan niệm nam nữ bình quyền,” Alex tiếp. “Nhưng tôi cho rằng việc đó hoàn toàn vô lý! “Cô bé Lọ Lem” không kể về chuyện một người nam cứu lấy một người nữ, nó bàn về luật nhân quả!” Phần đông cả lớp bắt đầu mơ màng về những thứ khác. Cô Peters là người duy nhất trong phòng học tỏ vẻ có chút hứng thú với phát biểu của Alex. “Hãy nghĩ về nó mà xem,” Alex tiếp tục. “Ngay cả sau nhiều năm chịu sự hành hạ từ mẹ kế và các chị, Lọ Lem vẫn là một người tốt và nuôi dưỡng niềm tin. Cô không bao giờ thôi tin tưởng vào bản thân và vào cái thiện trên đời. Dù cuối cùng cô đã cưới hoàng tử nhưng lúc nào trong thâm tâm Lọ Lem cũng hạnh phúc. Câu chuyện của cô chứng tỏ là ngay cả trong hoàn cảnh tồi tệ nhất – ngay cả khi có vẻ không ai trên thế giới này coi trọng bạn – chỉ cần có niềm tin, mọi thứ có thể trở nên tốt đẹp hơn…” Alex để tâm trí nấn ná trên những lời vừa nói. Cô bé nghi ngờ luận điểm cuối cùng mình đã khẳng định trong phần trình bày. Có thật đó là ý nghĩa của “Cô bé Lọ Lem” không, hay chỉ là những gì Alex tha thiết mong là ý nghĩa của “Cô bé Lọ Lem”? “Cảm ơn em, Bailey! Nói hay lắm,” cô Peters nhận xét với cái gần nhất với nụ cười mà khuôn mặt cô có thể nặn nên được. “Cảm ơn vì đã dành thời gian lắng nghe,” Alex nói và gật đầu với cả lớp. “Tới lượt em đấy, trò Bailey,” cô giáo thông báo. Cô đang ngồi gần cậu bé đến độ cậu có thể cảm thấy hơi thở âm ấm của cô trên cổ mình. Conner tiến lên trước lớp, kéo lê chân như thể chúng bị bao bọc trong một khối bê tông. Cậu bé chưa bao giờ gặp khó khăn gì trong việc nói năng trước lớp, nhưng cậu thà ở bất kỳ nơi nào khác hơn là thuyết trình trước một giáo viên. Alex gửi đến cậu em trai một cái gật đầu khích lệ. “Tôi chọn “Chú bé chăn cừu và chó sói”,” Conner nói, đi ngược lại với lời khuyên của chị cậu hôm trước. Alex xuội người xuống trên ghế và cô Peters đảo tròn mắt. Việc này thật đáng thất vọng. “Tôi biết mọi người đều đang nghĩ tôi đã chọn truyện dễ nhất,” Conner tiếp. “Tuy nhiên, khi đọc lại, tôi không cho là câu chuyện nói về tầm quan trọng của tính trung thực. Tôi nghĩ nó nói về sự kỳ vọng.” Cả Alex và cô Peters đều nhướng mày lên. Cậu ta đang muốn nói ý gì chứ? “Tất nhiên, chú bé chăn cừu là đứa bé hư. Tôi không thể phủ định điều đó,” Conner tiếp tục, ra hiệu về bài làm nửa trang cậu đã viết. “Nhưng ai có thể trách chú vì đùa vui chút xíu chứ? Rõ ràng là làng của chú đang gặp chút rắc rối với chó sói, và mọi người vì thế mà trở nên căng thẳng. Chú ta chỉ là trẻ con; làm sao họ có thể trông đợi chú lúc nào cũng hoàn hảo chứ?” Bài thuyết trình của cậu bé có lẽ không phải là hay nhất, nhưng nó rõ ràng đã khiến cả lớp phải chú ý. “Và truyện khiến tôi tự hỏi, vì sao không có ai trông chừng chú bé cả?” Conner thêm vào. “Có lẽ nếu cha mẹ chú ta để mắt tới, chú bé đã không bị sói ăn thịt. Tôi nghĩ câu chuyện cố gắng bảo chúng ta phải trông chừng con cái, đặc biệt nếu chúng là những tay nói dối bệnh lý. Cảm ơn.” Conner chẳng bao giờ cố tỏ ra hài hước cả. Cậu chỉ quá sức thật thà khi nói ra những ý nghĩ và quan điểm của mình thôi. Sự thành thật này luôn khiến cả lớp thích thú, nhưng với cô giáo thì không bao giờ. “Cảm ơn trò Bailey,” cô Peters nói gay gắt. “Em có thể ngồi xuống rồi.” Conner biết mình đã làm hỏng bét cả. Cậu về chỗ ngồi, trở lại vị trí của mình dưới cái nhìn lạnh lùng và hơi thở ấm của cô giáo. Chẳng biết cậu cứ phải cố gắng mãi để làm gì nữa? Chẳng có ngày nào mà sau buổi học, Conner không cảm thấy mình hoàn toàn vô dụng. Chỉ có một người có thể làm cậu bé cảm thấy khá hơn những lúc thế này. Conner chỉ ước gì người đó vẫn còn ở đây… Ông Bailey luôn biết được khi nào con trai cần được trò chuyện với ông. Óc quan sát hay linh cảm chẳng liên quan gì ở đây cả, mà là địa điểm. Thỉnh thoảng, ông Peters đi làm về và thấy con trai ngồi vắt vẻo trên cây sồi ở sân trước với vẻ trầm tư trên gương mặt. “Conner?” ông Bailey sẽ hỏi, tiến lại chỗ cái cây. “Mọi chuyện có ổn không, anh bạn?” “Ừ hử,” Conner sẽ lầm bầm. “Con có chắc không đấy?” ông Bailey hỏi. “Dạ.” Conner đáp chẳng mấy thuyết phục. Cậu bé không hay nói thẳng những rắc rối của mình ra như chị, nhưng người ta có thể thấy nó trên mặt cậu. Ông Peters sẽ trèo lên và ngồi vào chỗ cạnh con trai trên cành cây, nhẹ nhàng dỗ cậu nói ra những điều phiền muộn. “Con có chắc con không muốn nói về nó không?” Ông Bailey tiếp. “Có chuyện gì xảy ra ở trường hôm nay à?” Conner sẽ gật đầu. “Con bị điểm kém một bài kiểm tra,” cậu bé thú nhận vào một dịp nọ. “Con có học bài để làm kiểm tra không?” cha cậu hỏi. “Có ạ,” Conner đáp. “Con đã học rất kỹ, cha ơi. Nhưng chẳng ích gì cả. Con sẽ không bao giờ thông minh như chị Alex.” Má của cậu ửng đỏ vì xấu hổ. “Conner, để cha nói cho con biết một điều mà phải rất lâu cha mới học được,” ông Bailey nói. “Những người phụ nữ trong đời con sẽ luôn có vẻ thông minh hơn; đơn giản thế thôi. Cha đã lấy mẹ con hơn 13 năm rồi, vậy mà cha vẫn gặp khó khăn trong việc sánh bằng mẹ. Con không thể cứ so sánh mình với người khác.” “Nhưng con thật ngốc, cha ạ,” Conner thốt lên, mắt đẫm lệ. “Cha thấy điều đó thật không tin được,” ông Bailey nói. “Cần có trí thông minh mới trở nên hài hước và có được lời nói đùa hay, mà con là đứa trẻ hài hước nhất cha biết đấy!” “Tính hài hước chằng giúp ích gì cho môn lịch sử hay toán học hết,” Conner nói. “Chẳng có ích gì việc ở trường con cố gắng thế nào. Con sẽ luôn là đứa trẻ ngớ ngẩn trong lớp học thôi…” Gương mặt Conner trở nên trắng nhợt và vô cảm; cậu nhìn chằm chằm vào khoảng không, hổ thẹn đến mức đau lòng. May cho cậu, ông Bailey luôn có một câu chuyện khích lệ tinh thần cho mỗi tình huống. “Conner, cha có kể con huyền thoại về Chú cá biết đi chưa?” ông Bailey hỏi con trai. Cậu ngước nhìn lên cha. “Chú cá biết đi à?” Conner hỏi. “Cha ơi, con không có ý làm mất lòng cha đâu, nhưng con không nghĩ một câu chuyện của cha có thể làm con vui lên vào lúc này.” “Được rồi, tùy con thôi,” ông Peters đáp. Một lúc sau, sự tò mò đã xui khiến cậu nhượng bộ. “Được rồi, cha có thể kể con nghe chuyện Chú cá biết đi,” Conner cất tiếng. Mắt ông Bailey sáng lên như chúng vẫn luôn thế khi ông sắp kể một câu chuyện. Conner có thể đoán được đó sẽ là một câu chuyện hay. “Ngày xửa ngày xưa, có một con cá lớn sống một mình trong một cái hồ,” ông Bailey kể. “Mỗi ngày, con cá đều nhìn đầy ao ước cảnh một cậu bé đến từ ngôi làng gần đó chơi với lũ ngựa, chó và sóc trên bờ…” “Có con chó nào sẽ chết trong câu chuyện này hở cha?” Conner cắt ngang. “Cha biết con ghét các chuyện mà trong đó lũ chó phải chết…” “Để cha kể xong đã nào,” ông Bailey tiếp tục. “Một ngày kia, một nàng tiên đến chỗ cái hồ và cho con cá một điều ước…” “Tùy tiện quá vậy,” Conner thốt lên. “Sao các vị tiên cứ xuất hiện và làm việc tốt cho những người họ chẳng quen biết thế?” “Nghĩa vụ của họ chăng?” ông Bailey nhún vai. “Nhưng để khỏi tranh luận, cứ coi như nàng tiên đánh rơi đũa thần trong hồ và con cá đã lấy lại nó cho nàng, vì thế, nàng cho con cá một điều ước để trả ơn. Được rồi chứ?” “Thế được hơn rồi,” Conner nói. “Tiếp tục đi cha.” “Con cá, dễ đoán thôi, ước có được chân để nó có thể chơi với cậu bé đến từ ngôi làng,” ông Bailey kể. “Vì thế, nàng tiên biến vây của nó thành chân và nó trở thành Con cá biết đi.” “Việc đó thật quái dị,” Conner nói. “Để con đoán nhé, con cá trông dị hợm quá, cậu bé không muốn chơi với nó?” “Không, họ trở thành bạn tốt và cùng chơi đùa với các loài động vật trên bờ khác,” ông Bailey kể cho con. “Nhưng một ngày kia, cậu bé ngã vào hồ và không biết bơi! Chú cá biết đi cố cứu cậu bé, nhưng không được; chú ta chẳng còn vây nữa! Đáng buồn thay, cậu bé chết đuối.” Miệng của Conner há hốc như cái ngăn chứa đồ nhỏ trên xe hơi bị hư. “Con thấy đấy, nếu con cá đã ở lại hồ và không ước mình biến thành thứ khác, nó đã có thể cứu lấy mạng sống của cậu bé,” ông Bailey kết thúc. “Cha ơi, đó là một câu chuyện kinh khủng,” cậu bé thốt lên. “Làm sao một cậu bé sống gần một cái hồ lại không biết bơi? Chó biết bơi! Một trong những chú chó không thể cứu cậu bé sao? Nàng tiên đó ở đâu khi cậu bé đang chết đuối chứ?” “Cha nghĩ con đã bỏ qua ý chính của câu chuyện rồi,” ông Bailey nói. “Đôi khi, chúng ta quên mất ưu điểm của mình vì ta chỉ chú ý đến cái mà ta không có. Chỉ vì con phải nỗ lực hơn khi việc đó với người khác có vẻ dễ dàng không có nghĩa là con không có năng khiếu của riêng mình.” Conner nghĩ về điều này một chốc. “Con nghĩ con hiểu rồi ạ,” cậu bé nói. Ông Bailey mỉm cười với cậu. “Giờ thì sao ta không trèo xuống cái cây này, và cha sẽ giúp con học để làm bài kiểm tra tiếp theo?” “Con nói với cha rồi, học cũng không ích gì đâu,” Conner nói. “Con đã cố, cố và cố. Chẳng ích gì cả.” “Thế thì ta sẽ nghĩ ra cách học riêng vậy,” ông Bailey bảo cậu. “Chúng ta sẽ xem ảnh những người trong sách lịch sử của con và đặt ra những truyện cười về họ để con nhớ tên họ. Và ta sẽ tạo ra những bối cảnh hài hước để giúp con nhớ tất cả các công thức toán đó.” Conner gật đầu từ từ nhưng đầy quả quyết và đồng ý làm thế. “Được rồi,” cậu bé hơi nhoẻn cười nói. “Nhưng để cha tham khảo sau này, con thích câu chuyện về Cái cây cong của cha hơn.” Chuyến đi bộ về nhà hôm ấy rất im ắng. Alex có thể nhận thấy bài thuyết trình của em trai đã khiến cậu hơi căng thẳng. Từng chút một, cô bé thử phá vỡ sự im lặng bằng những lời nhận xét khích lệ - hay ít ra em nghĩ đó là khích lệ. “Chị nghĩ là em có ý hay đấy,” Alex lên tiếng. “Tất nhiên đó không phải là ý chị sẽ đưa ra đâu.” “Cảm ơn,” Conner đáp. Chị cậu chẳng giúp ích gì. “Em có lẽ đã phân tích hơi xa quá,” Alex lại nói. “Chị cũng làm thế hoài. Đôi khi chị đọc một truyện và diễn giải nó theo ý chị muốn, thay vì theo ý mà tác giả muốn chị hiểu. Cần phải luyện tập nhiều mới được.” Cậu bé không trả lời. Chị cậu vẫn chẳng giúp ích gì cả. “Ừ thì, hôm nay là sinh nhật chúng ta đấy,” Alex nhắc cậu. “Em có háo hức khi lên 12 tuổi không?” “Không hẳn,” Conner thú nhận. “Cũng như 11 vậy thôi. Mà mình chẳng phải sắp có thêm răng hàm rồi sao?” “Thôi nào, hãy suy nghĩ tích cực lên,” Alex kiên quyết. “Mặc dù chúng ta không có gì hào hứng để làm ngày sinh nhật, mình vẫn nên lạc quan. Có rất nhiều thứ đáng trông đợi mà! Một năm nữa là ta thành thiếu niên rồi!” “Thì thế,” Conner đáp. “Chỉ bốn năm nữa là mình có thể lái xe!” “Và sáu năm nữa chúng ta có thể bầu cử và vào đại học!” Alex thêm vào. Đó là tất cả những gì chúng nghĩ ra được. Sự hồ hởi của chúng là giả tạo, chúng đều biết thế, vậy nên cả hai giữ im lặng suốt quãng đường còn lại. Ngay cả nếu có một bữa tiệc hoành tráng nhất thế giới chờ chúng ở nhà thì ngày sinh nhật luôn thật khó khăn với hai chị em. Trường học cũng như dự đoán. Chuyến đi bộ về nhà như mọi khi. Cả ngày qua có vẻ bình thường. Chẳng có gì khác thường để làm cho ngày sinh nhật của chúng có vẻ đặc biệt… cho đến khi chúng về tới nhà và thấy một chiếc xe hơi màu xanh nhạt rẽ vào lối đi. “Bà nội?” cặp sinh đôi đồng thanh thốt lên. “Ngạc nhiên không nào?” bà của chúng reo lên, bước ra khỏi xe. Bà to tiếng đến độ cả khu nhà này có thể nghe được. Cặp song sinh chạy đến chỗ bà với nụ cười toe toét trên mặt. Chúng chỉ được gặp bà vài lần một năm và thật ngạc nhiên khi thấy bà trên lối đi mà chẳng có thông báo trước. Bà ôm chúng thật chặt đến nỗi hai đứa tưởng sẽ nổ tung mất. “Xem hai cháu kìa!” bà nói. “Hai cháu đều cao lên ba tấc kể từ lần cuối gặp bà đấy!” Bà của chúng là một người phụ nữ nhỏ bé với mái tóc nâu ngả xám dài được tết thành bím thật chặt. Bà có nụ cười ấm áp nhất và ánh mắt hiền từ nhất thế giới, đôi mắt nheo nheo vui vẻ mỗi khi bà cười, hệt như mắt của cha Alex và Conner. Bà vui vẻ và sôi nổi, vốn chính là cái mà bọn trẻ cần. Bà luôn mặc những bộ váy màu sáng và đôi giày mang đậm dấu ấn riêng với dây trắng và gót nâu. Bà không bao giờ ở cách xa hơn vài tấc chiếc túi du lịch xanh lục to lớn và cái ví của bà. Và dù ông nội đã mất nhiều năm trước, bà luôn đeo chiếc nhẫn cưới trên tay. “Chúng cháu chẳng hề biết bà tới!” Conner nói. “Còn gì là bất ngờ nếu các cháu biết bà tới chứ,” bà đáp. “Bà tới đây làm gì vậy bà?” Alex hỏi. “Mẹ các cháu gọi điện cho bà và nhờ bà ở bên các cháu khi mẹ đi làm,” bà bảo chúng. “Bà sao có thể để các cháu một mình vào ngày sinh nhật chứ? Ơn trời bà đang ở trong nước!” Bà chúng đã về hưu và dành phần lớn thời gian trong năm du lịch vòng quanh thế giới với những người bạn hưu khác. Họ đến các nước đang phát triển, đọc truyện cho trẻ em ở các bệnh viện và dạy những trẻ khác của cộng đồng biết đọc và viết. “Đến giúp bà mang đồ đạc vào nào,” bà bảo cặp song sinh. Bà mở cốp xe và bọn trẻ bắt đầu dỡ xuống hết túi này đến túi khác đầy ắp thức ăn mang vào nhà. Có đủ thức ăn để nuôi sống chúng hàng tuần. Bà Bailey đang ngồi ở bàn bếp, xem qua một chồng thư khác có dán nhãn cảnh báo đỏ chói. Bà nhanh chóng cất chúng qua một bên khi cặp song sinh và bà nội nối nhau vào bếp, mang theo các túi thức ăn. “Tất cả những thứ này là gì vậy ạ?” Bà Bailey hỏi. “Chào con yêu!” Bà nội nói với mẹ Alex. “Mẹ định nấu cho bọn trẻ một bữa tối sinh nhật hoành tráng và không chắc trong nhà con có gì, nên mẹ đã tới cửa hàng và chọn ra vài món.” Bà nội của chúng vốn khéo ăn nói. “Mẹ không cần phải mất công vậy đâu,” bà Bailey nói, lắc đầu, bất ngờ trước hành động này. “Không mất công gì cả,” bà nội nói với một nụ cười nhẹ trấn an. “Alex, Conner, sao các cháu không đi lấy quà sinh nhật từ ghế trước xe bà nhỉ, để bà hỏi thăm mẹ các cháu một chút? Nhưng đừng mở chúng trước tối nay đấy!” Bọn trẻ vui sướng làm theo lời bà. Quà là một từ đã biến mất khỏi từ điển của chúng bấy lâu nay. “Thấy không, chị đã bảo mà!” Alex nói với Conner trên đường ra xe của bà. “Sự lạc quan luôn được đền đáp đấy!” “Rồi, biết rồi…” Conner đáp. Nửa tá quà được gói với những cái nơ sặc sỡ, được đánh dấu riêng, đang chờ chúng trong ghế trước xe. Bọn trẻ trở vào nhà với đống quà của mình. Bà nội và mẹ chúng vẫn đang trò chuyện mà chắc hẳn chúng không nên nghe. “Mọi chuyện vẫn còn khó khăn,” bà Bailey nói. “Ngay cả sau khi bán hiệu sách, nhà bị tịch thu, tụi con vẫn còn vài món nợ và vài thứ chưa trả được sau lễ tang. Nhưng tụi con sẽ tìm ra cách. Trong vài tháng nữa tụi con sẽ vực dậy được.” Bà nội nắm lấy đôi tay mẹ Alex. “Nếu con cần thứ gì, con yêu quý, và ý mẹ là mọi thứ, con biết phải tìm mẹ ở đâu mà,” “Mẹ đã giúp đỡ nhiều quá rồi,” bà Bailey đáp. “Con không biết giờ chúng con đang ở đâu nếu không nhờ có mẹ. Con không thể đòi hỏi nhiều hơn từ mẹ nữa.” “Con không đòi hỏi, mẹ cho con đấy chứ,” bà nội vỗ về mẹ Alex. Bọn trẻ biết sẽ bị phát hiện nếu còn nghe trộm thêm chút nữa, nên chúng ôm quà trở lại nhà bếp. “Rồi, mẹ phải trở lại chỗ làm đây,” bà Bailey nói rồi hôn lên đầu cả hai đứa. “Có một đêm tuyệt vời nhé, các con! Mẹ sẽ gặp các con ngày mai. Chừa lại cho mẹ chút tiệc tùng nhé!” Bà thu dọn đồ đạc và thầm gửi một lời cảm ơn đầy ý nghĩa đến bà nội bọn trẻ trên đường ra ngoài. Bà nội xếp gọn đồ đạc của mình vào phòng ngủ dành cho khách rồi trở lại nhà bếp, nơi bà tìm thấy một chồng hóa đơn bà Bailey đã đặt qua một bên. Bà thả mớ thư từ đó vào ví của mình với một nụ cười. Thế đấy. Bà yêu thích việc giúp đỡ mọi người, đặc biệt là khi người ta không muốn thế. “Bắt đầu làm bữa tối nhé, các cháu?” Bà nội cất lời, vỗ tay. Alex và Conner ngồi vào bàn và trò chuyện với bà trong khi bà nội chúng làm việc thoăn thoắt. Bà kể cho chúng nghe tất tần tật về những chuyến đi vừa qua của bà, những khó khăn mà bà và bạn của bà vấp phải và những người thú vị đã gặp trên đường. “Bà chưa bao giờ gặp ai mà lại không học được điều gì từ họ cả!” Bà nội nói. “Ngay cả những người đơn điệu nhất cũng sẽ làm các cháu phải ngạc nhiên. Hãy nhớ đấy!” Bà làm nhiều món khác nhau, không thể biết được nguyên liệu nào sẽ cho vào đâu. Mọi thứ bà làm đều rất nhanh và bà sử dụng hầu hết chảo và đĩa có trong bếp. Với mỗi giây trôi qua, bụng của bọn trẻ lại réo to hơn, miệng chúng lại ứa nước miếng nhiều hơn. Cuối cùng, sau vài tiếng bị hành hạ với mùi thơm đầy khiêu khích, chúng cũng được ăn. Alex và Conner đã trở nên quá quen với những bữa tối đông lạnh và đồ ăn mua về đến nỗi chúng đã quên mất thức ăn ngon thì có vị thế nào. Có các dĩa khoai tây nghiền với mì ống và pho mát, gà nướng bỏ lò với cà rốt và đậu, lại có bánh mì nóng hổi. Bàn ăn nhà bọn trẻ trông như trang bìa một cuốn sách dạy nấu ăn vậy. Ngay khi bọn trẻ nghĩ chúng không thể ăn thêm được nữa, bà lại mang một chiếc bánh sinh nhật khổng lồ ra từ trong lò. Cặp song sinh rất ngạc nhiên; chúng thậm chí không nhận ra bà đã nướng một ổ bánh. Bà hát “Chúc mừng sinh nhật” và bọn trẻ thổi nến. “Giờ thì mở quà của các cháu ra đi!” Bà nói. “Bà đã thu thập chúng cho các cháu cả năm đấy!” Bọn trẻ mở những gói quà và ngập trong đủ thứ quà lưu niệm nhỏ từ mọi đất nước bà chúng đã đến. Alex được tặng bản in những cuốn sách yêu thích nhất của cô bé trong các ngôn ngữ khác: Alice ở xứ sở thần tiên bằng tiếng Pháp, Phù thủy xứ Oz tiếng Đức và Những người phụ nữ nhỏ bé tiếng Hà Lan. Conner được một đống kẹo và áo thun lòe loẹt có những dòng chữ đại loại như “Người bà điên rồ của tôi đã đến Ấn Độ và tất cả những gì tôi nhận được chỉ là cái áo sơ mi mèng này”. Chúng đều nhận được nhiều bức tượng nhỏ hình các kiến trúc nổi tiếng như tháp Eiffel, tháp nghiêng Pisa và đền Taj Mahal. “Thật điên rồ khi nghĩ rằng những nơi như thế này là có thật trên thế giới,” Alex nói, cầm cái tháp Eiffel trong tay. “Cháu sẽ ngạc nhiên khi biết còn biết bao nhiêu thứ đang chờ được khám phá ngoài kia đấy,” bà nội nói với nụ cười và ánh mắt lấp lánh. Một ngày chẳng đáng trông đợi mấy đã trở thành một trong những sinh nhật tuyệt nhất mà bọn trẻ từng có. Đêm về khuya, chuyến thăm của bà dần kết thúc trong vui buồn lẫn lộn. Từ khi cha chúng mất, bọn trẻ chưa bao giờ được gặp bà lâu hơn một ngày mỗi lần, và lúc nào cũng có khoảng cách đến vài tháng giữa các chuyến thăm. Bà lúc nào cũng bận bịu với các chuyến đi của mình. “Khi nào thì bà lại đi ạ?” Alex hỏi bà. “Ngày mai,” bà đáp. “Ngay sau khi bà đưa các cháu đến trường.” Lưng của bọn trẻ chùng xuống một chút. “Sao thế?” bà chúng hỏi, cảm thấy tinh thần bọn trẻ đang xuống thấp. “Chúng cháu chỉ ước bà có thể ở lại lâu hơn, bà ơi. Chỉ thế thôi,” Conner đáp. “Chúng cháu rất nhớ bà khi bà đi xa,” Alex thêm vào. “Mọi thứ ở đây thật ảm đạm khi không có cha, nhưng bà khiến cho mọi thứ có vẻ như ổn thỏa cả.” Nụ cười thường trực trên gương mặt bà nội thoáng mờ đi, và ánh nhìn của bà trôi ra ngoài cửa sổ. Bà nhìn chăm chú lên bầu trời đêm và hít vào một hơi dài. “Ôi, bọn trẻ của bà, nếu có thể dành mọi ngày bên các cháu, bà sẽ làm thế,” bà nói đầy ao ước, có lẽ buồn bã hơn bà định thể hiện ra. “Nhưng đôi khi cuộc sống trao cho ta những trách nhiệm nhất định – không phải vì chúng ta muốn thế, mà bởi vì mục đích của chúng ta là có chúng – và nhiệm vụ của chúng ta là phải thực hiện chúng. Tất cả những gì bà có thể nghĩ đến là bà sẽ nhớ hai cháu và cha các cháu đến thế nào khi bà đi xa.” Thật khó để Alex và Conner hiểu được điều đó. Bà không muốn đi xa nhiều như bà đã làm sao? Bà lại nhìn chúng; đôi mắt bà sáng lên với một ý tưởng mới. “Bà suýt quên mất. Bà còn một món quà nữa cho các cháu!” Bà nói, bật dậy và nhún nhảy đi vào phòng kế bên. Bà trở lại mang theo một cuốn sách to lớn và cũ kỹ với bìa màu ngọc lục bảo sẫm có tựa đề Miền Cổ Tích viết bằng chữ vàng. Alex và Conner nhận ra quyển sách ngay khi chúng vừa thấy nó. Nếu tuổi thơ của bọn trẻ có thể được biểu tượng hóa bằng một vật gì thì đó là cuốn sách này. “Đó là cuốn truyện cũ của chúng cháu!” Alex thốt lên. “Cháu đã không thấy nó nhiều năm rồi!” Bà nội gật đầu. “Nó đã cũ lắm và đã ở trong gia đình chúng ta từ lâu rồi,” Bà kể. “Bà mang chúng theo mình mọi nơi và đọc truyện cho trẻ em ở các nước khác nghe. Nhưng bây giờ thì bà muốn hai cháu giữ nó.” Cặp song sinh rất ngạc nhiên với nghĩa cử đó. “Gì ạ?” Conner hỏi. “Chúng cháu không thể lấy cuốn sách của bà được. Đó là Miền Cổ Tích. Nó là sách của bà. Nó luôn rất quan trọng với bà mà.” Bà nội mở cuốn sách ra và lật qua vài trang. Cả căn phòng lập tức tràn ngập mùi giấy cũ. “Thật thế,” bà nói. “Cuốn sách này và bà đã ở bên nhau nhiều năm nay, nhưng khoảng thời gian tốt đẹp nhất là khi bà đọc nó cho các cháu. Vì vậy, bà muốn để nó lại cho các cháu. Bà không cần nó nữa; hơn nữa, bà đã nhớ tất cả các truyện rồi.” Bà đưa cuốn sách cho bọn trẻ. Alex ngập ngừng nhưng rồi cũng nhận cuốn sách từ tay bà. Có vẻ không đúng lắm khi nhận nó. Cứ như là nhận được một món đồ gia truyền từ một người bà con vẫn còn sống vậy. “Mỗi khi các cháu thấy buồn, vào những ngày các cháu nhớ cha nhất hay khi các cháu ước gì bà có ở đây, tất cả những gì các cháu phải làm là mở sách ra và chúng ta sẽ được ở bên nhau trong tâm tưởng, cùng đọc sách,” bà bảo chúng. “Giờ thì trễ rồi, mà các cháu phải đến trường ngày mai đấy. Hãy chuẩn bị vào giường đi nào.” Bọn trẻ làm theo lời bà bảo. Mặc dù chúng đã quá lớn để làm thế, bà vẫn kiên quyết đưa chúng vào giường như những ngày thơ bé. Alex mang Miền Cổ Tích lên giường với mình đêm đó. Em nhẹ nhàng lật qua các trang giấy cũ, cẩn thận không làm rách chúng. Xem lại những minh họa đầy màu sắc về nơi chốn và nhân vật khiến cô bé cảm thấy như mình đang đọc một quyển lưu ảnh cũ vậy. Alex yêu thích được dành thời gian đọc về các nhân vật cổ tích hơn bất cứ thứ gì khác. Họ luôn có vẻ rất thật và gần gũi với em. Họ là những người bạn tốt nhất Alex từng có được. “Mình ước gì được chọn thế giới mà mình sống,” Alex nói, lướt nhẹ ngón tay trên những hình minh họa. Chúng thật cuốn hút. Trong tay cô bé là một thế giới khác hẳn thế giới em đang sống. Đó là một thế giới không bị tác động bởi chính trị hay công nghệ, thế giới mà điều tốt lành luôn đến với những người tốt bụng, thế giới mà trọn vẹn con người cô bé khao khát được là một phần trong đó. Alex mường tượng sẽ như thế nào nếu được là một nhân vật trong truyện cổ tích của chính mình: những khu rừng sẽ chạy qua, những lâu đài sẽ sống và những sinh vật mà Alex sẽ kết bạn. Dần dà, mi mắt của Alex bắt đầu trĩu nặng. Cô bé khép lại Miền Cổ Tích, đặt nó lên đầu giường, tắt đèn và bắt đầu trôi dạt vào giấc ngủ. Cô bé sắp sửa chìm vào cõi vô thức thì nghe thấy một tiếng động lạ. Một âm thanh ngân nga trầm ấm lấp đầy phòng. “Cái gì đấy?” Alex hỏi và mở mắt ra xem. Không thấy gì cả. “Lạ thật,” em lẩm bẩm. Alex lại nhắm mắt và bắt đầu thả mình vào giấc ngủ. Tiếng ngân nga lại bắt đầu vang khắp phòng. Alex ngồi dậy, nhìn quanh phòng và rốt cuộc cũng thấy cái gì đang tạo ra tiếng ồn. Nó đến từ bên trong cuốn Miền Cổ Tích bên đầu giường cô bé và, trước sự ngạc nhiên của em, các trang giấy rõ ràng đang phát sáng. CHƯƠNG BỐN Miền Cổ Tích Alex đã hành xử lạ lùng suốt cả tuần lễ. Conner nhận thấy ngay, bởi vì chị cậu không liến thoắng và vui vẻ như thường lệ. Thay vào đó, cô bé rất im lặng và trông như đang chìm trong hoang mang tột độ. Khi ăn sáng, Alex hầu như không nhận thấy em trai mở lời “Chào buổi sáng”. Ở trường, em không còn giơ tay phát biểu nhiều như trước nữa. Tan học, em hầu như không nói với Conner lời nào trên đường về nhà. Và ngay khi về đến nhà, Alex sẽ chạy vội lên lầu và nhốt mình trong phòng ngủ cho đến hết ngày. “Chị có ổn không?” Sau cùng, Conner cũng hỏi chị gái. “Chị có vẻ lạ lắm.” “Ừ, chị chỉ mệt thôi,” Alex đáp. Conner biết chị cậu hẳn phải mệt, bởi vì có vẻ như Alex chẳng hề ngủ nghê gì cả. Suốt cả tuần, mỗi lần cậu thức dậy vào lúc nửa đêm để đi lấy một ly nước hay vào nhà vệ sinh là lại thấy ánh đèn trong phòng ngủ của chị vẫn còn sáng, và cậu có thể nghe thấy cô chị lục đục bên trong, đang làm gì đó. Conner không cần phải là thần đồng mới biết được chị cậu đang gặp vấn đề gì đó nghiêm trọng hơn là chỉ mất ngủ. Cậu đã xem nhiều băng hình về sức khỏe ở trường, đủ để biết rằng con gái vào tuổi chị cậu sẽ bắt đầu trải qua các kiểu sớm nắng chiều mưa và thay đổi, nhưng Alex đã trở thành một con người khác hoàn toàn. Việc gì đó rất nghiêm trọng đang làm phiền lòng Alex, mà chị cậu lại giữ nó trong lòng. “Chị có thể mượn vài cây bút chì của em không?” Alex hỏi cậu em vào một đêm khuya khoắt, mắt tỉnh rao ráo. Việc đó cũng như một con công lại đi hỏi mượn vài cái lông vậy. Cậu bé không chắc phải đáp lại lời hỏi mượn này thế nào. Chị cậu hẳn không phải đang làm bài vào cái giờ này chứ? “Không phải là chị có tới hàng trăm cây sao?” Conner hỏi chị. “Ừ… nhưng chị làm mất cả rồi,” Alex đáp. Cậu bé chia sẻ số bút chì ít ỏi cậu có với chị. Alex cầm lấy và nhanh chóng biến mất vào phòng mình trở lại; cô bé thậm chí không bận tâm với việc chúng bị gặm nham nhở hay đã mất phần gôm. Đêm hôm sau, Conner cứ giật mình tỉnh giấc vì một âm thanh ngân vang đến từ phòng Alex. Nó rất khẽ nhưng lại có độ rung mạnh mà cậu có thể cảm thấy và nghe một cách rõ ràng. “Alex?” Conner lên tiếng, gõ cửa phòng chị. “Tiếng gì vậy? Em đang cố gắng chợp mắt và nó làm em muốn điên đầu lên!” “Chỉ là một con ong thôi. Chị đuổi nó ra ngoài cửa sổ rồi!” Alex trả lời với giọng hoảng hốt từ bên kia cánh cửa. “Một con ong sao?” Conner lúng túng hỏi. “Ừ, một con ong rất to. Giờ đang là mùa giao phối, em biết đấy, nên thời điểm này trong năm chúng hoạt động rất mạnh,” Alex nói vọng ra. “Ơ… được rồi…” Conner nói và trở lại giường. Tuy nhiên, mấy chuyện đó chẳng là gì so với những biến cố ở trường hôm sau. “Ai có thể cho cô biết tên các con sông chảy qua vùng Lưỡng Hà cổ nào?” cô Peters hỏi cả lớp trong tiết sử. Như thường lệ, chẳng có ai xung phong cả. “Có em nào biết không?” cô Peters hỏi. Mọi người đều nhìn vào Alex và trông đợi cánh tay của cô bé giơ lên, nhưng Alex chỉ nhìn chằm chằm xuống sàn. Em không hề chú ý. “Sông Tigris và Euphrates nhé,” cô Peters giảng cho cả lớp. “Có em nào cho cô biết rằng người ta tin là khu vực giữa hai con sông đó là gì không?” Cô giáo hướng về phía Alex đặt câu hỏi, nhưng chẳng có tác dụng gì: Alex đang đắm chìm trong suy nghĩ của riêng mình. “Em Bailey, có lẽ em biết câu trả lời?” cô Peters gợi ý. “Cho cái gì ạ?” Alex hỏi, bừng tỉnh khỏi giấc mơ màng. “Cho câu hỏi,” cô Peters đáp. “Ồ…” Alex ngập ngừng. “Không, em không biết ạ.” Cô bé tựa đầu vào tay và tiếp tục nhìn chằm chằm xuống đất. Cô Peters và cả lớp chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra cả. Alex lúc nào cũng biết câu trả lời. Làm sao mà lớp học tiếp tục hoạt động được mà không có Alex chứ? “Cái nôi của nền văn minh…” cô Peters giảng cho cả lớp, trả lời câu hỏi. “Nhiều người tin rằng nhân loại đã bắt đầu từ đó – em Bailey!” Alex ngồi bật dậy trên ghế. Cái việc khó tin nhất từng có trong lớp đã xảy ra: Alex Bailey ngủ gật trong giờ học! “Em… em… em vô cùng xin lỗi, cô Peters!” Alex thiết tha. “Em không hiểu chuyện gì xảy ra với mình nữa! Gần đây em không ngủ được mấy!” Cô Peters nhìn chằm chằm vào cô bé như thể vừa chứng kiến cảnh một con thú độc ác hoang dã sinh con vậy. “Không… không sao cả,” cô giáo nói. “Em có cần lên phòng y tế không?” “Không, em ổn ạ. Em chỉ hơi buồn ngủ thôi,” Alex đáp. “Em hứa chuyện đó sẽ không bao giờ tái diễn ạ!” Conner đã theo dõi mọi chuyện như xem một tai nạn tàu lửa vậy. Tất cả những gì cậu bé có thể làm là lắc lắc đầu. Chuyện gì đã xảy ra với Alex vậy? Người chị đích thực của cậu đâu rồi? Chị đang biến thành chính cậu! Âm thanh vang vọng mà Conner đã nghe thấy đêm qua đột ngột tràn đầy lớp học. Alex ngồi thẳng đơ trong ghế, vẻ lo lắng; mắt cô bé mở to hơn bao giờ hết. Vài học sinh khác nhìn quanh, cố tìm hiểu xem âm thanh đó phát ra từ đâu. “Em nào có thể cho cô biết người dân Lưỡng Hà đã mang đến cho Thời kỳ đồ đồng công nghệ gì?” cô Peters hỏi, hoàn toàn không biết đến âm thanh lạ. “Có em nào không?” cô hỏi lại. Cánh tay của Alex vọt lên không trung. “Mời em Bailey?” cô Peters vui sướng gọi. “Em có thể đến nhà vệ sinh không ạ?” Alex vừa nói vừa hé mắt nhìn trộm cô giáo. Cô Peters thở dài thất vọng. “Ừ, em đi đi,” cô đáp. Trước khi cô Peters dứt lời, Alex đã bật khỏi ghế, chụp lấy cặp của mình và chạy ra cửa. Conner nhìn theo trong khi chị cậu rời đi. Mắt cậu mở to đầy ngờ vực. Vì sao chị cậu phải mang theo cặp đến nhà vệ sinh chứ? Cậu bé phải biết được chuyện gì đang diễn ra. Cậu sẽ hỏi chị ngay bây giờ, ở trường, khi mà chị không có chỗ nào để trốn tránh và không có phòng ngủ nào để nhốt mình vào đó. “Thưa cô Peters?” Conner cất tiếng gọi. “Sao, em Bailey?” cô Peters hỏi. “Em có thể đến phòng y tế không ạ?” cậu hỏi. “Để làm gì cơ?” cô hỏi lại. Cậu bé chưa kịp nghĩ xa đến thế. “Ừm… cùi chỏ của em bị đau ạ,” Conner đáp. Cô Peters lạnh lùng nhìn cậu bé. Có lẽ cô còn tin hơn nếu cậu bảo mình là một con khủng long. “Cùi chỏ của em đau á?” cô hỏi. “Vâng, đau lắm ạ. Em đã va nó vào bàn, và giờ thì nó đang làm em đau muốn chết được,” Conner nói, siết chặt cái cùi chỏ hoàn toàn lành lặn của mình. Cô Peters nhíu mày và đảo mắt, hai dấu hiệu đặc trưng thể hiện sự khó chịu trên cùng một vẻ mặt. “Được thôi,” cô giáo nói. “Nhưng cô phải viết cho em một tờ xin…” Conner đã đi khỏi cửa trước khi cô dứt lời. Trong khi đó, Alex đã ào vào phòng vệ sinh nữ. Cô bé nhanh chóng nhìn xuống mọi khe cửa để chắc chắn mình chỉ có một mình. Alex kéo mở khóa cặp, lấy ra cuốn Miền Cổ Tích và đặt nó lên trên bồn rửa mặt; nó đang tỏa sáng và ngân vang hơn bao giờ hết. “Làm ơn tắt đi! Làm ơn tắt đi!” Cô bé nói với quyển sách. “Tớ đang ở trường! Tớ không thể bị bắt gặp với cậu ở đây được!” Âm thanh và ánh sáng dần dần dịu lại, và Miền Cổ Tích trở lại thành một cuốn sách bình thường. Alex vừa thở phào nhẹ nhõm thì hốt hoảng nhận ra có người đột nhiên xông vào nhà vệ sinh. Đó là em trai của cô. “Ong chẳng có mùa sinh sản nào cả, Alex,” Conner nói với một cái nhíu mày và tay chống nạnh. “Em đã tra cứu đấy. Chúng sống trong cộng đồng lớn như kiến vậy, ngay cả những con lớn cũng thế. Chúng chẳng có thời gian biểu đâu.” “Conner, em làm gì ở đây vậy? Em không thể vào nhà vệ sinh nữ được!” Alex la lên. “Em sẽ không đi đâu cả cho đến khi chị nói cho em biết chuyện gì đang xảy ra!” Conner gặng hỏi. “Chị đã nói dối với em suốt tuần nay. Em biết đang có chuyện gì đó; em có “trực giác song sinh” đấy.” “Trực giác song sinh?” Alex hỏi với vẻ chế nhạo. “Em bịa ra đấy,” Conner đáp. “Điều đó có nghĩa là em biết được mỗi khi có chuyện gì đó làm chị phiền lòng, ngay cả khi chị nói là không có gì cả. Ban đầu em còn tưởng chị gặp mấy rắc rối của con gái…” “Ôi, Conner, thôi nào!” Alex cắt ngang. “Nhưng rồi, sau khi nghe cái tiếng o e lạ lùng đêm khuya, em đoán mẹ hẳn là đã mua cho chị một cái điện thoại di động mà không muốn em biết. Nhưng rồi em nhớ ra chị chẳng có ai là bạn cả, vậy thì ai lại gọi điện và nhắn tin cho chị chứ?” Alex gầm gừ. Giờ thì cậu đang buộc tội và tỏ ra thô lỗ với cô chị. “Nhưng em hiểu chị đủ để biết rằng phải có chuyện gì tệ hơn mới khiến chị phải hành động như vầy,” Conner nói. “Chị im lặng, chị không trả lời được mấy câu hỏi của cô Peters, và chị ngủ gật trong giờ học! Chị đang cư xử như em vậy! Vậy nên chị nói đi, chị đang gặp chuyện gì?” Alex không nói gì cả; cô bé chỉ cúi nhìn xuống chân. Alex rất xấu hổ vì cách hành xử của mình bấy nay, nhưng em biết sẽ chẳng có ai tin vào lý do của mình, có lẽ chỉ trừ cậu em trai. Conner nhìn quanh nhà vệ sinh nữ. “Trời ơi, trong đây sạch sẽ quá cơ. Nhà vệ sinh nam trông cứ như là đáy của một cái thùng rác kinh khủng vậy… Chờ đã, sao chị lại mang theo cuốn sách của bà?” “Chị không biết chuyện gì đang xảy ra hết!” Alex bật khóc thành tiếng và thổn thức như mọi người vẫn khóc khi kiệt sức và căng thẳng quá mức. Conner lùi lại một bước để tự vệ. Cậu bé chưa từng thấy chị mình kích động như vậy. “Ban đầu chị còn tưởng mình hoang tưởng đấy thôi!” Alex nói. “Chị cứ tưởng mình bị dị ứng với món gì đó mà bà đã nấu trong bữa tối. Đó là đêm đầu tiên nó xảy ra! Nhưng rồi nó cứ xảy ra hoài, nên chị biết đó chẳng phải là phản ứng dị ứng gì cả!” “Alex, chị đang nói về cái gì thế?” Conner hỏi. “Cuốn Miền Cổ Tích!” Alex hét lên. “Nó phát sáng! Nó ngân vang! Mỗi ngày nó lại to tiếng hơn và sáng chói hơn! Chị mất ngủ vì cố gắng tìm hiểu vì sao nó lại thế! Nó phá vỡ mọi nguyên tắc khoa học!” “À…” Conner nhướng mày. “Alex, em nghĩ chúng ta nên đến phòng y tế…” “Hẳn em cho rằng chị điên rồi!” Alex bảo cậu em. “Ai cũng sẽ đi đến kết luận đó trừ phi họ chính mắt chứng kiến. Nhưng chị thề là chị đang nói sự thật!” “Em không nghĩ là chị điên đâu,” Conner nói dối, bắt đầu nghĩ rằng chị cậu chắc chắn phát điên rồi. “Nó xảy ra một hoặc hai lần mỗi ngày,” Alex kể. “Chị sợ mẹ sẽ phát giác ra, nên chị mang nó đến trường; mẹ chẳng cần phải thêm một mối lo về một cuốn sách bị ma ám nằm trong nhà nữa.” Conner chẳng biết phải nói gì. Cậu bé thoáng tưởng tượng ra những chuyến thăm của cậu và mẹ đến bệnh viện tâm thần địa phương và những lời châm chọc mà cậu sẽ nói về chiếc áo khoác trắng mà Alex phải mặc. Rõ ràng là chị cậu đã mất trí rồi, nhưng sau tất cả những chuyện mà chúng đã trải qua, cậu không thể đổ tội cho chị được. Cậu miên man suy nghĩ cha sẽ xử lý tình huống này ra sao. Ông sẽ dùng đến câu chuyện nào để an ủi Alex? “Alex,” Conner cất lời với ánh mắt thấu hiểu. “Chúng ta đã trải qua nhiều chuyện trong năm qua. Cũng hoàn toàn bình thường thôi nếu ta cảm thấy quá tải và…” Tiếng ngân nga lại bắt đầu. Hai đứa ngó cuốn Miền Cổ Tích trên bồn rửa; trước sự nhẹ nhõm của Alex và sự kinh hoảng của Conner, nó đang tỏa sáng. Conner nhảy ngược ra bức tường phía sau như thể đang đối diện với một trái bom vậy. “Cuốn Miền Cổ Tích!” Conner la hoảng. “Nó tỏa sáng! Nó ngân nga!” “Chị đã bảo em mà!” Alex nói. Conner há hốc miệng tưởng như cằm chạm đến ngực cậu được. “Nó bị nhiễm chất phóng xạ ư?” cậu hỏi. “Chị không nghĩ thế,” Alex đáp. Cô bé vươn tay cầm cuốn sách. “Đừng đụng vào nó, Alex!” Conner kêu lên. “Bình tĩnh nào, Conner,” Alex trấn an cậu. “Chị đã giữ nó cả tuần rồi.” Chỉ dùng một ngón tay, Alex gạt cho cuốn sách mở ra và cả nhà vệ sinh lập tức được chiếu sáng. Tất cả hình minh họa và chữ viết đã biến mất, và các trang sách có vẻ như được làm toàn bằng ánh sáng. Alex cúi xuống gần cuốn sách hơn. “Nghe này. Em có nghe thấy không?” cô bé hỏi. “Chị có thể nghe thấy tiếng chim và tiếng lá. Chị chưa từng nghe các tiếng động này phát ra từ quyển sách trước đó!” Conner nhích dần khỏi bức tường rồi cúi xuống cùng chị. Tiếng chim ríu rít và tiếng cây lá xào xạc trong gió dội vào nền gạch và sứ trong nhà vệ sinh. “Làm sao chuyện này có thể xảy ra được?” Conner hỏi. “Chị có chắc là nó không có pin hay cái gì đó đại loại không đấy?” “Kết luận đã cân nhắc kỹ nhất của chị, tính đến mọi kiến thức khoa học và kỹ thuật mà chị biết, thì đó là phép màu,” Alex nói. “Chẳng còn cách giải thích nào khả thi nữa!” “Chị có nghĩ bà biết chuyện này không?” Conner hỏi. “Bà đã giữ quyển sách nhiều năm trước khi trao cho tụi mình. Chị có nghĩ chuyện này từng xảy ra rồi không?” “Chị không nghĩ bà lại đưa nó cho chúng ta nếu bà biết nó có thể làm được những gì,” Alex trả lời. “Chị nói phải,” Conner nói. “Bà vẫn còn cắt nhỏ phần thịt của em khi đến nhà mình ăn tối, vì bà không tin em khéo dùng dao.” “Còn nữa,” Alex tiếp. Cô bé luồn tay vào cặp và lấy ra một cây bút chì. Thật cẩn thận, cô bé đặt cây bút chì lên cuốn sách đang mở. Nó nhanh chóng chìm vào trang sách đang phát sáng và biến mất. “N-n-nó đi đâu rồi?” Conner lắp bắp trong sự kinh ngạc tột độ. “Chị không biết!” Alex đáp. “Chị đã bỏ đủ thứ đồ vật vào đó cả tuần nay! Bút chì, sách, tất bẩn và tất cả những thứ chị tìm được mà chị biết là mình sẽ không tiếc chúng. Chị nghĩ nó có thể là một dạng cửa gì đó.” “Cửa đến đâu chứ?” Conner hỏi tiếp. Alex không có câu trả lời. Tất nhiên, có một nơi mà cô bé mong là cuốn sách sẽ đưa đến. Cặp song sinh cúi xuống cuốn sách sát hơn, mũi của chúng gần như chạm vào nó. Bọn trẻ phải nheo mắt lại vì nó quá chói. Đột nhiên, một chú chim đỏ rực bay ra từ quyển sách. Bọn trẻ hét lên và chạy khắp phòng trong cơn hoảng loạn. Chúng va vào nhau, va phải bức tường và đụng vào bồn rửa trong lúc chú chim hạ xuống phía trên chúng; chú ta cũng hoảng sợ như bọn trẻ vậy. Cuối cùng, Conner mở cửa nhà vệ sinh và chú chim bay ra khỏi đó, đến với thế giới rộng lớn. “Chị không hề nói là có thứ đi ra từ nó!” Conner lớn tiếng trách. “Chị không hề biết! Đó là lần đầu tiên chuyện đó xảy ra!” Alex to tiếng đáp trả. Cuốn sách từ từ tắt dần ánh sáng và trở lại bình thường. Đầu óc của Conner đang xoay như chong chóng. Cậu bé không thể tin nổi những gì chính cậu vừa chứng kiến. Hèn gì mà Alex lại có một tuần tệ hại thế. Giờ thì cậu bé thấy sự tỉnh táo của mình cũng đang mất dần. “Chúng ta phải bỏ cuốn sách này đi thôi!” Conner kêu lên. “Tan trường rồi, chúng ta nên đạp xe đến chỗ con sông và vứt nó xuống để không ai có thể tìm thấy nó.” “Chúng ta không thể bỏ nó đi được!” Alex nói. “Đó là cuốn sách của bà! Nó đã có trong gia đình mình từ bao lâu nay rồi!” “Mấy con chim đang bay ra từ đó đấy, Alex! Em chắc rằng bà sẽ thông cảm thôi!” cậu bé cả quyết. “Nếu như tiếp theo là một con sư tử hay cá mập thì sao? Em biết chị muốn phát điên lên khi không biết được chuyện gì đó, nhưng đây là một chuyện mà chị phải bỏ qua. Nó có thể nguy hiểm hơn là chúng ta tưởng đấy! Ai biết được chuyện gì có thể xảy ra chứ?” Cô bé biết em mình nói đúng, nhưng có cái gì đó về toàn bộ chuyện này kích thích trí tò mò của em bất chấp mọi lý lẽ. “Chị nghĩ em đang phản ứng thái quá thôi,” Alex nói. “Chị không muốn vứt bỏ nó cho đến khi chị biết thêm về nó đã.” Cô bé đóng cuốn sách lại, cho vào cặp rồi đi ra khỏi nhà vệ sinh. “Alex! Đừng bỏ đi chứ! Alex!” Conner gọi với theo chị. Bọn trẻ trở lại lớp học. Tất cả học sinh đang đọc thầm sách lịch sử. “Alex, chúng ta phải nói chuyện!” Conner thì thầm. “Hai trò Bailey, làm ơn vào chỗ ngồi và đọc chương nói về Lưỡng Hà,” cô Peters ngồi ở bàn giáo viên ra lệnh. “Vâng, cô Peters,” Alex đáp rồi quay lại chỗ cậu em, thì thào, “Chúng ta sẽ nói về nó sau, Conner!” Conner buông ra một tiếng động như thể tiếng của một con gấu. “Cậu Bailey, chuyến đi đến phòng y tế thế nào rồi?” cô Peters hỏi. “Không cần nữa ạ; cùi chỏ của em bắt đầu đỡ hơn trước khi em đến đó,” Conner đáp lời, giữ trong tay cái cùi chỏ khác với cái mà ban nãy cậu khẳng định là bị đau. Cô Peters nhướng cao một bên chân mày, nó dường như muốn cao hơn cả cô ấy. Bọn trẻ ngồi vào chỗ và mở sách lịch sử ra, nhưng chẳng đứa nào có thể tập trung đọc cả. Ý nghĩ trong chúng ầm ĩ đến độ chẳng thể tập trung vào cái gì được. Conner liên tục ngước nhìn lên chỗ chị, thầm mong chị quay lại để cậu có thể làm một cử chỉ nào đó cho chị biết mức độ nghiêm trọng của sự việc. Alex có thể cảm nhận được ánh mắt cậu em dán vào sau lưng mình, vì vậy, cô bé giữ mình nhìn thẳng tới trước, quyết tâm phớt lờ em. Và rồi, điều tệ hại nhất có thể xảy ra đã xảy ra. Miền Cổ Tích bắt đầu ngân nga trong phòng học yên ắng từ bên trong cặp của Alex. Cô bé quay lại phía em trai, rốt cuộc cũng chịu nhìn vào mắt em. Chúng phải làm gì bây giờ? Cô Peters quá chăm chú vào bài giảng nên không nghe thấy nó trước đây. Cô có thể không nhận ra nó lần nữa không? “Tiếng ồn gì đấy?” cô Peters dõng dạc. Tất cả học sinh đều nhìn quanh lớp học, cũng tự hỏi câu y hệt. Alex và Conner sợ cứng người; chúng cảm thấy như gan ruột đã rớt ra ngoài cơ thể rồi. “Nếu có ai biết tiếng đó là gì, các em tốt nhất là nói cô biết trước khi cô phát hiện nó,” cô giáo cảnh báo. Alex có thể cảm thấy nhịp tim mình đập dồn trong cổ họng. Chẳng thể biết được chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô giáo tìm thấy cuốn sách. Alex chỉ có thể tưởng tượng trường học sẽ làm nhặng xị lên như thế nào với phát hiện đó… Có lẽ họ sẽ gọi cho đài tin tức địa phương… Có lẽ các chuyên viên của chính quyền sẽ tịch thu cuốn sách để tiến hành nghiên cứu… Có lẽ gia đình của Alex sẽ bị đưa đi vì họ đã tiếp xúc gần với cuốn sách… Cô Peters đã bước đến chỗ ngồi của Alex. “Trò Bailey, có cái gì trong cặp của trò à?” cô giáo hỏi. Mọi sắc màu trên gương mặt Alex đều biến mất. Cô bé cần một phép màu! Đột nhiên, một quyển sách sử dày cộm bay vút ra từ cuối phòng học và đập vào đầu cô Peters, để lại một vệt lõm trên mái tóc dày của cô. Cả lớp quay về hướng cuối lớp và trông thấy cánh tay vươn ra của Conner. Cậu ta vừa ném một quyển sách vào cô giáo! Gương mặt của cô Peters ửng đỏ. Một con bò đực đang xông tới cũng có vẻ vô hại so với cái nhìn của cô lúc này. “Trò Bailey! Trò bị cái gì thế hả?” cô quát lên. Cả trường học hẳn phải nghe được tiếng cô. Trong một thoáng ngắn ngủi, Conner thấy cả cuộc đời cậu trôi qua trước mắt. Cậu thật lòng nghĩ rằng mình sắp chết. Gương mặt cậu trắng nhợt, gần như trong suốt. “Em xin lỗi, cô Peters!” Conner lí nhí. “Có một con ong! Em không có ý ném vào cô!” cậu nói dối. Tai và mũi của cô giáo gần như bốc hơi vì tức giận. “Cấm túc, trò Bailey à! Cho đến hết tuần này, tuần tới và tuần tới nữa!” cô Peters quát. Cô trở lại bàn mình và ngay lập tức bắt đầu điền vào mọi tờ giấy phạt mà cô có được trong tay. May thay, lớp học trở nên căng thẳng đến độ mọi người đã quên mất tiếng ngân nga lạ đó và, còn may hơn thế, họ chẳng hề nhận ra nó tắt dần đi. Nhiệm vụ của Conner đã hoàn thành. Conner biết cậu đã làm điều đúng đắn – không phải như một học sinh, mà với tư cách một đứa em. Ngay sau đó, chuông reo lên và tất cả học sinh rời khỏi chỗ ngồi, lũ lượt đi ra khỏi phòng học – trừ Conner, người vẫn ngồi nguyên một chỗ. Alex đi đến chỗ em. “Cảm ơn em vì việc đó,” cô bé lên tiếng. “Chị nợ em một lần nhé,” Conner đáp lại. Alex gật đầu và ra khỏi lớp học để đi về nhà một mình. Conner vẫn ngồi tại chỗ cho đến khi cô Peters điền xong các tờ phạt. “Đến đây, trò Bailey,” cô bảo. Conner đến bên bàn cô giáo như thể nó đang bốc cháy vậy. “Hành động ném đồ trong lớp học của tôi sẽ không bao giờ được tha thứ đâu; trò có hiểu tôi không, trò Bailey?” cô nói, nhấn mạnh từng âm tiết của từng từ. “Còn xảy ra một lần nữa là tôi cho trò bị đuổi học đấy!” Cậu bé nuốt nước bọt và gật đầu. Cô đưa cho cậu một chồng lớn các tờ phạt. “Mẹ trò cần phải ký tên vào cả mớ giấy phạt này,” cô Peters bảo cậu. Cậu bé lại gật đầu. “Em thật sự xin lỗi ạ,” Conner nói. “Em hy vọng em không làm cô bị đau.” Cậu bé thành thật đến độ cả cô Peters cũng cảm thấy được sự ân hận của cậu. Cô biết, tự bên trong, Conner luôn là một đứa trẻ ngoan – một học sinh dở, nhưng vẫn là một đứa trẻ ngoan. “Được rồi, trò Bailey,” cô nói. “Tôi tin là tôi đã đánh giá thấp tác động của hoàn cảnh gia đình lên trò và chị trò. Tôi sẽ liên hệ với mẹ trò và cho bà một danh sách những chương trình sau giờ học mà tôi nghĩ trò và chị trò nên tham gia, cũng như một danh sách những cuốn sách hướng dẫn tự khắc phục mà có lẽ hữu ích đấy.” Conner gật đầu đồng ý. “Tôi nghĩ nếu trò có một nơi nào đó để thỉnh thoảng lánh đi, nó sẽ giúp trò giải quyết được những việc trò đang trải qua,” cô nói. Conner tiếp tục gật gù. Nếu có lúc nào trong đời mà cậu cần một nơi để trốn chạy khỏi thực tế thì đó là bây giờ, và cậu bé tin chắc chị cậu sẽ đồng ý với cậu. Và rồi, như một tia chớp, một ý nghĩa nảy ra trong cậu. Ôi trời ơi, Alex! Conner nghĩ. Chị ấy sẽ tự mình đi vào cuốn sách! Đó là lý do chị vẫn còn giữ nó! Đó là lý do chị khước từ việc vứt bỏ nó! Conner thả rơi tất cả giấy phạt và chạy vọt ra cửa. “Em xin lỗi, cô Peters, em không thể bị phạt cấm túc hôm nay được! Có chuyện vừa xảy ra rồi!” “Trò Bailey! Trở lại đây ngay lập tức!” cô Peters quát với theo cậu, nhưng đã quá muộn. Cậu bé đã đi mất rồi. Conner chạy nhanh hết sức có thể trên đường. Alex đã đi trước cậu một lúc lâu, cậu có đến kịp để ngăn chị lại không? Nếu như khi cậu đến mà chị đã đi rồi thì