🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bữa Cơm Ngày Mai Chúng Ta Cùng Chờ Đợi - Maiko Seo & Vương Hải Yến (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Bữa Cơm Ngày Mai Chúng Ta Cùng Chờ Đợi Tác giả: Maiko Seo
Người Dịch: Vương Hải Yến
Phát hành: Mintbooks
Nhà xuất bản Văn Học 04-2020
—★—
ebook©hotaru-team
Xuất bản lần đầu vào năm 2012 và tạo nên một cơn dư chấn lớn trong cộng đồng độc giả Nhật Bản bởi sự trong trẻo, ngây thơ và thuần khiết của mối tình đầu, Bữa cơm ngày mai chúng ta cùng chờ đợi xứng đáng được vinh danh là ấn phẩm xuất sắc nhất dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên.
Ngày 7/1/2017 – cuốn sách được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên với sự tham gia diễn xuất của hai ngôi sao được giới trẻ yêu mến là Yuto Nakajima và Yuko Araki.
“Nếu như có thể mở lòng, điều đó thật tốt biết bao Những cũng có những điều có lẽ đừng bao giờ nên biết.”
Câu chuyện tình đắng cay ngọt ngào trong bảy năm giữa Ryota Hayama và Koharu Uemura từ ngày đầu tiên hẹn hò cho đến ngày họ kết hôn. Đều là học sinh trung học nhưng tính cách hai người hoàn toàn trái ngược nhau. Nếu Ryota là chàng trai trầm tính, gần như thờ ơ với mọi thứ xung quanh thì Koharu lại là cô gái thẳng thắn và tràn đầy năng lượng. Kể từ ngày hợp sức trong thử thách nhảy bao gạo, họ bắt đầu quen nhau. Họ hẹn hò ở quán ăn nhanh, nhận ra đã phải lòng đối phương ở một quán ăn gia đình và hẹn ước tình yêu bên bàn ăn với những bữa cơm bình dị mà ấm cúng.
“Bữa cơm ngày mai chúng ta cùng chờ đợi là một bức tranh đẹp, một khúc nhạc êm êm vào buổi chiều nắng nhạt có những cánh hoa anh đào chao lượn trong tiếng nói cười. Ở đó chứa đựng những thanh âm trong trẻo của tuổi thanh xuân có ngập ngừng, có ngốc nghếch, tràn đầy mơ tưởng đan xen với đau buồn, cả ích kỷ lẫn thấu hiểu cùng hòa quyện để trưởng thành. Thật may vì đến cuối cùng chẳng điều gì lỡ dở, chẳng có ai lỗi hẹn với định mệnh của đời mình. Tôi đã nghĩ khi bộ phim khép lại rằng, yêu có thể mặn nồng, rạo rực nhưng yêu luôn là chốc lát, thương mới là cả một đời, là thứ có thể khiến hai người xa lạ thậm chí đối lập nhau vai kề vai đến cuối bến đỗ hạnh phúc – điểm cuối của tình yêu.”
(Trích cảm nhận của độc giả @isissapphiremoon về cuốn sách ấn tượng này)
Chương 1
Bao gạo mở ra tương lai
1.
Ngày tháng lặng lẽ trôi đi, ngờ như tôi đã có thể quên chuyện cũ. Vậy mà mỗi khi định khích lệ bản thân rằng mình đã ổn, thì những ngày tháng đó liền sống lại thật rõ nét trong tôi.
Chia ly là điều không thể tránh khỏi trong cuộc đời. Điều đó đã được nhắc tới ra rả trong các bài hát, các bộ phim điện ảnh và phim truyền hình, không cần nói thêm tôi cũng hiểu. Nhưng việc chấp nhận một sự chia ly trái với mong muốn quả là một điều quá sức với tôi.
Trên bầu trời xanh trong vắt nổi lên một cụm mây trắng yếu ớt. Trong lớp học đang tổ chức buổi họp quyết định việc tham gia các môn thi đấu trong ngày hội thể thao của trường. Những cuộc tranh chấp trong hòa bình xem ai sẽ tham gia môn nào trong các môn ném bóng vào rổ, kéo co, chạy tiếp sức v.v… mỗi lúc một mở rộng hơn. Tiếng oẳn tù tì, tiếng tranh giành, tiếng cười vang rộn. Lớp học ồn ào như chợ vỡ. Lúc này đây, đâu đó trên thế giới này đang có người chìm vào đau khổ. Nhưng ngày hội thể thao sẽ chẳng vì việc đó mà bị hủy bỏ. Dù có xảy ra chuyện gì, cuộc sống thường nhật ngu ngốc này vẫn cứ tiếp diễn thôi.
“Này cậu.”
Một giọng nói trong trẻo vang lên trên đầu tôi khi tôi đang mơ màng ngắm nhìn khung cảnh ngoài cửa sổ.
“Xin lỗi đã chen ngang khi cậu đang thẩn thơ suy nghĩ như vậy…” Tôi ngẩng đầu lên thì thấy Uemura đang đứng trước mặt mình. “… Nhưng cậu có thể xác nhận giúp tớ điều này được không?”
“Ừ, gì vậy?”
“Vì cậu không có ý kiến gì nên đã được xếp vào nhóm nhảy bao gạo, không vấn đề gì chứ?”
“Nhảy bao gạo ư?”
Cụm từ thường ngày chẳng nghe thấy bao giờ khiến tôi ngơ ngác hỏi lại.
“Năm ngoái cũng tổ chức phần thi này rồi, cậu không nhớ à? Trong môn thi ‘chạy tiếp sức kỳ diệu’ ấy. Phần chạy thứ ba sẽ là nhảy bao gạo.” Hội thể thao năm ngoái tôi tham gia môn ném bóng vào rổ, lúc đó tôi chơi rất chiếu lệ, chẳng buồn để mắt đến các môn khác. Vốn những cái tên như “chạy tiếp sức kỳ diệu” hay “nhảy bao gạo”, nghe thôi đã thấy ngớ ngẩn rồi.
“Chỉ cần chui vào bao tải gạo, nhảy về phía trước năm mươi mét rồi trao tín gậy cho người chạy tiếp theo là được. Những môn khác đã chọn đủ các bạn tham gia rồi. Cậu đồng ý nhé?”
Phải chui vào bao tải gạo và nhảy những năm mươi mét sao? Mệt chết mất. Thực lòng tôi thích những môn được hòa lẫn vào mọi người để không ai chú ý đến mình, như trò kéo co hoặc ném bóng vào rổ hơn. Nhưng hình như tôi chẳng còn cơ hội đòi hỏi nữa. Tôi lặng lẽ gật đầu.
“Ok, vậy chốt rồi nha.”
Uemura nói, rồi viết thêm tên tôi xuống dưới dòng chữ “nhảy bao gạo” trên bảng.
2.
Cho tới ngày hội thể thao, tiết Thể dục được dùng làm giờ luyện tập cho ngày thi. Môn chạy hay nhảy dây mới đáng luyện tập, còn trò nhảy bao gạo giống như trò chơi của con nít, có tập cũng chẳng để làm gì. Hơn nữa, nhiều bạn tham gia trò “chạy tiếp sức kỳ diệu” cũng đồng thời tham gia các trò khác, nên việc luyện tập cho trò này bị đẩy ra sau. Tôi bèn đi tìm một nơi râm mát trong góc sân tập, ngồi đó đợi tới lượt mình.
Chuyện xảy ra đúng vào mùa thu ba năm trước. Mùa hè năm đó cũng giống mọi năm, mọi người đều ầm ĩ kêu nóng, trời đã sang thu nhưng vẫn chưa thoát khỏi cái nóng mùa hè, nóng hệt như bây giờ vậy.
Lúc đó tôi học lớp chín, đang dốc sức luyện tập cho ngày hội thể thao cuối cùng của cấp hai. Khi ấy tôi là trưởng nhóm, phải tham gia vào mọi trận thi đấu ở mọi môn thi, tôi đà chạy cần mẫn hơn bất kỳ ai khác.
Sự cố gắng của tôi rất có thế sẽ cứu nguy cho cả đội. Tôi đã thực sự ấp ủ trong lòng niềm hy vọng ngây thơ ấy. Rằng nếu tôi cố gắng, mọi chuyện sẽ chuyển biến theo hướng tốt hơn để đền đáp những cố gắng đó. Vì tôi không làm được gì khác, nên tôi muốn gắng hết sức để làm những việc ở ngay trước mắt mình. Giờ ngẫm lại, sự cố gắng của tôi hóa ra hoàn toàn vô nghĩa. Chẳng có điều gì trên thế giới này tốt lên nhờ hành động của tôi cả.
“Xin lỗi vì chen ngang lúc cậu đang suy nghĩ vẩn vơ, nhưng chúng ta bắt đầu được chưa?”
Ngẩng đầu lên, tôi thấy Uemura đang đứng đó với bao tải gạo trên tay. “À, ừ.”
“Mình đi tập nào.”
Tôi đứng lên nhìn xung quanh, có mấy đứa đang xỏ chân vào bao gạo tập nhảy, mấy đứa khác thì cột hai chân vào nhau theo kiếu hai người ba chân rồi nhảy dây. Có vẻ phần luyện tập cho trò “chạy tiếp sức kỳ diệu” đã bắt đầu.
“Nào, cậu vào đây.”
Uemura nói sau khi khéo léo chui nửa người vào bao.
“Hả?”
“Hả gì nữa, hai người cùng vào chung đó.”
Uemura nói như thể chuyện hiển nhiên, nhưng tôi vẫn nhìn vào phía trong chiếc bao.
“Cùng chui vào cái bao này á?”
“Ừ. Cậu với tớ là cặp nam nữ duy nhất tham gia lần này.” Hẳn là cặp nam nữ duy nhất rồi. Bao tải gạo tuy to nhưng nếu chui vào thì co thể hai người sẽ dính sát vào nhau. Đương nhiên tôi không thể thoải mái khi chui vào đây cùng một cô gái nào đó được.
“Tại sao hai chúng ta lại thành một cặp?”
“Tại sao ư? Là vì tính cách của cậu rất u ám đó.”
“U ám ư…?”
“Thế nên không ai muốn ghép đôi với cậu cả. Người thì kêu nhảy với cậu sẽ bị tinh thần u ám của cậu ảnh hưởng, người thì kêu rất có thể hôm hội thể thao cậu nghỉ mất, nên mãi không chọn được bạn nào chịu ghép cặp với cậu. Vì tớ là ủy viên ban thể thao nên mới đành ghép cặp với cậu đấy.”
Sau khi tuôn ra một tràng những sự thật tàn nhẫn đó, Uemura chợt
ngẫm ra và nghiêng đầu hỏi: “Ôi, xin lỗi nhé, tớ không làm cậu tổn thương đấy chứ?”
“À không sao. Tớ quen bị ghét rồi.”
“Thế à? Kể cũng phải. Vì Hayama bị ghét suốt từ hồi lớp mười tới giờ mà.”
Hả? Có chuyện đó à? Tôi muốn hỏi lại như vậy, nhưng may mắn giữ được vẻ thản nhiên, chỉ nói: “Xin lỗi nhé, làm phiền đến cậu rồi.” “Không sao, đừng để tâm. Nào, cậu nhanh vào đây đi.”
Uemura nhích về phía trước chiếc bao, thúc giục tôi chui vào đứng phía sau. Tôi - một kẻ u ám và hình như luôn bị ghét từ trước tới giờ - chui vào chiếc bao tải, cố để cơ thể mình không chạm vào cô bạn Uemura - người đã miễn cưỡng ghép đôi với tôi trong phần thi này. Nhưng dù thế nào thì đó cũng là bên trong chiếc bao tải. Cơ thể chúng tôi sẽ cọ sát vào nhau, dù chúng tôi không muốn.
“Chúng ta sẽ nhảy như thế này về tới đích. Cự ly phải nhảy là năm mươi mét, nhưng hôm nay là ngày tập đầu tiên, mình đặt mục tiêu mười mét thôi nhé.”
Uemura đang giải thích về một môn thi đấu kỳ cục, nhưng tôi chẳng biết nói gì khác ngoài gật gù “Ừ, tớ hiểu rồi.”
“Vậy bắt đầu nhé.”
Nghe hiệu lệnh của Uemura, tôi cũng thử nhảy để tiến về phía trước, nhưng chiếc bao chỉ khẽ nhúc nhích rồi chệch sang một bên khiến chúng tôi mất thăng bằng chứ chẳng tiến lên được centimét nào.
“Ừm, phải nhảy đồng thời thì mới tiến về phía trước được, nếu không, không những giậm chân tại chỗ mà còn bị ngã nữa, nên cậu phải bắt nhịp
với tớ đấy.”
Uemura nói, giọng xen lẫn tiếng thở dài.
“Ừ.”
“Nào, hai, ba!”
Tôi nhảy theo lời ra hiệu của Uemura, nhưng bao gạo vẫn không tiến về phía trước. Bởi nó quá chật khiến tôi không nhúc nhích nổi. Mái đầu của Uemura cũng ở phía trước, ngay dưới cằm tôi, thật vướng víu, khiến ngay cả việc nhìn thẳng phía trước với tôi cũng thật khó khăn.
“Cậu nhảy dài hơn chút đi. Nếu cơ thể không nhảy bổng lên thì bao gạo không tiến về phía trước được đâu.”
“Ừ, tớ biết rồi.”
Tôi thực muốn nói “Là lỗi của tớ chắc?”, nhưng vì chưa từng chui vào bao gạo hay bao rác để chơi trò này bao giờ nên tôi ngoan ngoãn nghe theo.
“Thế thử lại lần nữa nhé. Hai, ba nào!”
Uemura hô “hai, ba”, “hai, ba” mấy lần để thông báo thời điểm nhảy cho tôi biết. Tôi bèn bật nhảy theo tiếng hô đó. Dần dần chúng tôi không còn bị loạng choạng mất thăng bằng nữa, nhưng chẳng nhảy về phía trước được bao nhiêu. Các đôi nhảy bao gạo khác tuy vẫn trêu cười nhau nhưng cũng đã nhảy được về phía trước kha khá rồi.
“Hayama này, chúng ta phải nhảy về phía trước, nên nếu cậu chỉ nhảy vống lên thì không được đâu. Phải nhớ nhảy về phía trước ấy.” Uemura ngoảnh đầu lại than phiền.
“Tớ vẫn đang cố gắng mà.”
“Vậy thử lại nhé. Nhớ nhảy về phía trước đấy. Hai, ba nào!”
Ở trường học thi thoảng lại thản nhiên tổ chức mấy trò kỳ cục thế này. Các trò trong môn “chạy tiếp sức kỳ diệu” như nhảy dây hai người ba chân, hay cõng nhau đi qua ván thăng bằng đều chẳng cần thiết trong đời sống thực. Ngoài trò nhảy bao gạo, còn nhiều trò có các cặp chơi nam nữ, nhưng nghĩ sao vẫn thấy kỳ cục. Nếu tổ chức mấy trò này trong ngày hội văn nghệ ở các công ty, chắc chắn sẽ bị kiện vì quấy rối tình dục cho xem.
“Các bạn nghỉ giải lao mười phút rồi chuyển sang tập kéo co và chạy tiếp sức theo nhóm. Nhớ uống nước đầy đủ đấy nhé.”
Có tiếng thông báo tiết luyện tập kết thúc, tôi liền lập tức ra khỏi bao gạo. Cái nóng và sự vô lý của phần thi này khiến tôi chóng cả mặt. “Hả, đã hết giờ rồi à? Tụi mình còn chưa làm được tí nào.” Vừa càm ràm, Uemura vừa bước ra khỏi bao, nhìn thẳng vào mắt tôi. “Hayama này, không có giờ nghỉ cho cậu đâu đấy.”
“Hả?”
“Có thể cậu nghĩ mấy trò này thật ngớ ngẩn vô nghĩa, nhưng nếu cậu nghỉ thì sẽ chỉ còn mình tớ, không thể tập luyện được.”
“Tớ hiểu mà.”
Dù rất khổ sở nhưng tôi vẫn phải chui vào bao tải gạo tập nhảy. Cuộc sống thật là khắc nghiệt.
3.
Từ khi lên cấp ba, giờ nghỉ trưa tôi chủ yếu ngồi đọc sách trong vườn trong. Hồi tiểu học, tôi chỉ đọc năm trang đầu và năm trang cuối của cuốn sách mỗi khi phải viết một bài văn phát biểu cảm nghĩ, nhưng giờ đây ngày nào tôi cũng đọc. Đọc sách là cái cớ hoàn hảo để tôi được ở một mình. Chỉ cần vờ như mình đang mải mê đọc sách, tôi có thể ngắt kết nối với mọi thứ xung quanh. Vả lại, sau khi đọc tôi phát hiện ra sách cũng không phải thứ tệ. Trong những cuốn sách tôi đọc, có nhiều cuốn đã dẫn tôi đến với một nơi khác hẳn thế giới hiện thực.
“Cậu toàn đọc truyện viết về người chết nhỉ.”
Giữa lúc hồn tôi sắp lạc vào cuốn tiểu thuyết, tôi lại nghe tiếng ai đó phát ra trên đầu mình. Là Uemura. Gần đây không hiểu sao cô ấy thường bắt chuyện với tôi, nên chỉ cần nghe giọng là tôi nhận ra liền. “Ừ. Tớ chỉ đọc tiểu thuyết viết về người chết thôi.”
Đúng như Uemura nói, khoảng một năm trở lại đây tôi bắt đầu đọc tiểu thuyết trong đó có người chết, vớ được cuốn nào là đọc cuốn đó. Thật đáng tiếc, cái chết chẳng phải thứ gì hiếm hoi hay phi hiện thực. Trong lớp tôi có bạn đã mất mẹ, vợ thầy chủ nhiệm của chúng tôi cũng vừa bị thai lưu năm ngoái. Các nhân vật trong tiểu thuyết cũng chết đi dễ dàng như vậy. Có rất nhiều cuốn tiểu thuyết nói về nỗi đau khổ của những người còn sống khi người thân yêu qua đời. Rất có thể chúng sẽ cho tôi một gợi ý nào đó. Tôi đã bắt đầu đọc với suy nghĩ như thế. Tôi đã đọc những câu chuyện mất đi người yêu, mất đi bố mẹ và mất đi đứa con trai
bé bỏng. Chuyện về những người ra đi một cách đột ngột, cũng như những người chết đi sau bao năm tháng đấu tranh với bệnh tật. Nhưng tôi vẫn chưa tìm thấy điều mình muốn. Những cuốn tiểu thuyết đó chỉ cho người đọc thấy sự đáng quý của sinh mệnh, chẳng cuốn nào nói cho tôi điều tôi muốn biết.
Điều tôi muốn biết có lẽ cụ thể hơn thế. Ví dụ như ta có thế sử dụng di vật của người quá cố không, nên nhắc tới người chết nhiều hay ít trong cuộc hội thoại giữa gia đình, nên chủ động kể với bạn bè hay chỉ trả lời khi được hỏi tới. Tôi nghĩ, giá mà những điều đó được quy định cụ thể thì đơn giản biết mấy. Tôi muốn biết một câu trả lời thẳng thắn hơn nữa. Tôi muốn biết những ngày tháng khổ sở này sẽ tiếp diễn đến khi nào, và làm thế nào để cảm giác đè nặng trong lòng này giảm bớt.
“Cậu thực là một người ham đọc sách.”
Uemura tự ý kết luận như vậy rồi ngồi xuống bên cạnh tôi. “Cậu cần gì ở tớ à?”
Tôi khép cuốn sách lại. Cô ấy lại định càm ràm này nọ về chuyện nhảy bao gạo chăng?
“Không có gì đặc biệt cả. Nhưng mà này, chắc tại lúc nào cũng ở một mình nên cậu giao tiếp dở thật đấy.”
Uemura khẽ chau mày.
“Thế à?”
“Từ hồi lên cấp ba tới giờ, lần đầu tiên tớ nghe câu ‘Cậu cần gì ở tớ à?’ đấy. Cậu không thấy nói câu đó với bạn cùng lớp dễ gây phật ý lắm à? Đó cũng không phải một câu nên nói với người không thân thiết với mình lắm đâu.”
Không thân thiết lắm ư? Chính những điều Uemura nói mới dễ gây phật ý thì có.
“Vậy à. ừm, thế có chuyện gì vậy?”
“Không có chuyện gì cả. À, cậu đang đọc cuốn Gió nổi à? “Cậu đọc nó lần thứ hai rồi nhỉ.”
“Ừ.”
“Cậu thích cuốn này à?”
“Cũng không hẳn.”
Cuốn Gió nổi khó đọc, đầu óc tôi không thể tiêu hóa hết. Nhưng ngôn từ trong đó thật đẹp đẽ, có cảm giác chúng khiến cho mọi thứ trở nên trong suốt, dễ hiểu với tôi hơn.
“Không hẳn là thích mà cậu đọc đến hai lần ư?”
“Tớ đọc lần lượt các cuốn sách trong thư viện, giờ đang quay vòng trở lại cuốn đầu tiên thôi.”
Thấy tôi nói vậy, Uemura chỉ gật gù vẻ không hứng thú lắm. Và rồi, hình như đúng là chẳng có chuyện gì thật, cô ấy nhanh chóng đứng lên đi mất.
Sáng hôm sau, ngay khi vừa tới trường, Uemura đã chất một túi giây nặng trịch lên trên mặt bàn tôi.
“Gì vậy?”
Lúc đó tôi đang đọc sách. Tôi ngẩng đầu lên, không hiểu chuyện gì. “Tớ tìm thử thì thấy ở nhà mình có một đống. Nên tớ mang tới tầm ba chục cuốn. Nặng lắm đấy!”
Uemura chìa cho tôi xem lòng bàn tay ửng đỏ của cô nàng.
“Thế đây là gì cơ?”
“Còn có thể là gì nữa, là sách có nhắc đến cái chết đó. À, cậu đừng khách sáo không nhận nhé. Dù sao những cuốn này tớ cũng định mang tới cửa hàng sách cũ mà.”
Tôi nói lời cảm ơn rồi nhòm vào bên trong chiếc túi giấy. Bên trong xếp đầy chặt bộ tiểu thuyết về Asami Mitsuhiko.
“Những cuốn này…”
“Không lẽ cậu đọc cả rồi? Ông tớ rất thích những cuốn này. Tớ mới chỉ đọc vài cuốn thôi, nhưng cuốn nào cũng thấy người chết nhiều lắm.” “Chắc là thế thật.”
“Asami Mitsuhiko chẳng phải cảnh sát điều tra, vậy mà thường xuyên gặp phải những vụ giết người. Đáng thương quá phải không. Nhưng rồi anh ấy đã đứng lên để sống thật mạnh mẽ. Không những thế, anh còn chủ động tham gia điều tra những vụ án đầy nguy hiểm nữa. Nhân vật này có nhiều điểm để mọi người học theo đấy chứ.”
Uemura nói thao thao bất tuyệt đủ thứ chuyện.
“Ngẫm theo hướng đó thì thấy trên đời nhiều người tài giỏi nhỉ. Như thám tử lừng danh Conan đó, gặp phải bao nhiêu người chết mà lòng vẫn vững vàng. Trong khi cậu nhóc ấy chỉ là một học sinh tiểu học.” “Conan bản chất là học sinh cấp ba mà.”
Cuối cùng tôi cũng tìm ra một điểm để xen vào, nhưng Uemura có vẻ chẳng nghe lọt vào tai, cô kêu “Ôi, thầy đến rồi” rồi vội trở lại chỗ của mình.
Chuyện này là sao? Đây là nói một người khác nên bước vào ư? Lòng tôi bỗng thấy bồn chồn, giống như có ai đó đã tự ý bước vào một vùng
đất mơ hồ bên trong trái tim mình.
4.
Trước ngày hội thể thao, chúng tôi chỉ có hai buổi để luyện tập cho môn chạy tiếp sức kỳ diệu. Lần thứ hai sau lần thứ nhất ba ngày, khỏi nói cũng biết chẳng có chút tiến bộ nào.
“Ôi, tụi mình chẳng nhảy được tí nào.”
Sau khi nhảy thử hai, ba lần, Uemura tỏ ra hoàn toàn thất vọng. Tôi vẫn nghiêm túc cố gắng, nhưng mọi chuyện chẳng được như ý. Ngoảnh mặt nhìn quanh, những đội khác đều tiến bộ hơn so với lần trước. Trông họ vui vẻ hớn hở hệt như cái tên “chạy tiếp sức kỳ diệu” vậy. Sao họ có thể nhảy nhẹ nhàng đến thế nhỉ. Thần kinh vận động của tôi và Uemura đâu đến nỗi tệ, tại sao chúng tôi thua kém mọi người xung quanh đến thế? Vừa nghĩ tôi vừa ngắm nhìn xung quanh, và tôi chợt nhận ra. Ở những nhóm khác, khi nhảy, người đứng trước sẽ kéo mạnh bao tải gạo. Thế nên họ mới nhảy về phía trước được. Việc bắt nhịp để nhảy cùng nhau cũng rất quan trọng, nhưng vấn đề là kéo được bao gạo đó về phía trước bao xa. Đó chính là điểm mấu chốt của môn thi đấu này. Nếu vậy, người đứng phía trước nên là tôi. Tôi khỏe hơn, vả lại đứng như vậy Uemura sẽ không cản lối phía trước tôi nữa. Uemura có vẻ chẳng để ý tới người khác mấy, dù đứng trước hay đứng sau cô nàng cũng sẽ nhảy nhiệt tình thôi.
“Này Uemura, tớ có một đề xuất.”
Vừa giũ chân ra khỏi cái bao tôi vừa nói.
“Gì vậy?”
“Tớ đang nghĩ hay chúng ta đổi vị trí đứng trước và sau đi. Tớ khỏe hơn cậu mà. Cậu nhìn kìa, khi người đứng trước kéo theo cái bao, kéo được bao nhiêu là họ tiến về phía trước được bấy nhiêu.”
Tôi chỉ ngón tay về phía một cặp nam sinh đang nhảy bao rất khá, Uemura chăm chú nhìn theo và kêu lên “Đúng thế thật.”
“Tuyệt quá! Hóa ra cậu đã suy nghĩ giải pháp giúp tớ. Tớ chưa từng nghĩ cậu sẽ nhiệt tình với môn thi đấu này đến thế đây.”
“Vì với cách làm hiện tại thì chẳng biết sau bao lâu chúng ta mới nhảy hết năm mươi mét nữa.”
Với tình trạng hiện tại, chúng tôi sẽ phải dính lấy nhau trong bao đến hai, ba tiếng đồng hồ mất. Tôi muốn thời gian hai đứa cùng ở trong bao càng ngắn càng tốt.
“Được! Chúng mình làm thử đi!”
Uemura phấn khởi nói, chúng tôi đổi vị trí rồi làm thử.
Đứng nhảy ở phía trước dễ chịu hơn tôi tưởng. Lúc Uemura đứng phía trước, bóng dáng cô nàng khiến tôi bối rối, nhưng khi tôi đứng phía trước, tôi sẽ cảm thấy đơn giản là mình đang thò chân vào bao tải để nhảy thôi.
Khi tôi chỉ cần nhảy và kéo bao về phía trước mà không cần để ý tới Uemura nữa, quả nhiên chúng tôi đã nhảy được về phía trước. Uemura nhỏ người và nhẹ cân, tôi chẳng cần bắt nhịp cùng cô nàng, chỉ cần kéo chiếc bao thật mạnh là đủ để chúng tôi tiến bước rồi. Ở phía sau, Uemura vừa nhảy theo vừa reo hò: “Tuyệt quá! Tuyệt quá! Tụi mình đang nhảy về phía trước này!” Tôi cũng thấy hơi vui vì sự tiến bộ vượt bậc cua nhóm mình. Với đà này, chúng tôi sẽ dễ dàng vượt qua ải năm mươi mét đó thôi.
“Tới giờ giải lao rồi. Các bạn nhớ uống nước đầy đủ nhé.”
Nghe tiếng thông báo, tôi tuột chân ra khỏi bao rồi đi thẳng về phía bóng râm bên cạnh đó và ngồi xuống.
Mới chỉ mười phút, nhưng cái nóng do phải giam mình bên trong chiếc bao tải cộng với sự mệt mỏi vì phải nhảy liên tục khiến tôi lảo đảo. “Cuối cùng tụi mình cũng nhảy nhịp nhàng ghê đấy chứ.” Uemura nói với vẻ thỏa mãn, tôi muốn đồng tình hưởng ứng, nhưng không đủ hơi để tiếng nói phát ra.
“À, cậu uống nước Pocari* không? Chờ tí nhé.”
Uemura chạy về phía chiếc lều dựng ở một góc sân rồi lấy Pocari Sweat ra khỏi thùng giữ nhiệt mang tới để tránh học sinh bị say nắng, nhà trường cho học sinh giải lao sau từng khoảng thời gian luyện tập nhỏ và thường xuyên nhắc nhở học sinh uống nước.
“Tớ có mang tới ba chai, cho cậu một chai đấy.”
Uemura đưa một chai Pocari cho tôi.
“Cậu cho tớ thật à?”
Tôi ngần ngại không muốn nhận từ Uemura, nhưng cơ thể tôi lúc này vô cùng háo nước.
“Ừ. Dù sao Hayama cũng đâu có mang nước theo phải không?” “Ừ.”
Tôi cảm ơn rồi lập tức uống chai Pocari. Từ hồi lên cấp ba, tôi không tham gia câu lạc bộ nào, cũng ít khi vận động. Chẳng biết bao năm rồi tôi mới uống Pocari. Tôi cảm nhận được cơ thể mình đang hút lấy từng hạt nước mãnh liệt đến cỡ nào.
“Thật không bình thường khi đi tập hội thi thể thao mà không mang theo đồ uống thể thao thế này. Chắc cả trường chỉ có mình Hayama như
vậy thôi đó. Hayama chẳng chịu suy nghĩ nghiêm túc về cơ thể mình hay về hội thi thể thao gì cả.”
Uemura ngồi cạnh tôi, chậm rãi uống Pocari.
“Tớ có nghĩ mà.”
“Nói dối. Cậu chưa đọc bản tin của ban thể dục về sự đáng sợ của chứng say nắng và tầm quan trọng của việc bổ sung nước đầy đủ, phải không?”
“Đúng là có bản tin như thế. Tớ có cảm giác đã được phát cho tờ tin đó trong giờ sinh hoạt tập thể rồi.”
Trong giờ sinh hoạt tập thể, thỉnh thoảng các học sinh được các ban trong trường phát rất nhiều tờ tin tức. Ban học tập sẽ phát những tờ tuyên truyền kiểu một ngày hãy tự học ít nhất một tiếng, ban kỷ luật tuyên truyền việc phải tắt chuông điện thoại v.v… Những vấn đề nêu trong đó chỉ như vậy, không có gì quan trọng, nên tôi thường bỏ qua, chẳng bao giờ để ý đến.
“Bản tin đó là do tớ và bạn Ito lớp C viết. Vừa được phát, Hayama đã nhét ngay vào hộc bàn không thèm đọc, nên lúc đó tớ đã rất khó chịu với cậu.”
“Ồ, xin lỗi nhé. Không chỉ bản tin của ban thể dục thôi đâu, bản tin của những ban khác trong trường tớ cũng chẳng mấy khi đọc…” Tôi bất giác viện cớ.
“Tớ biết. Vì Hayama luôn thả hồn ra ngoài cửa sổ, nếu không thì cũng đọc tiểu thuyết nhắc đến người chết mà.”
“Tớ tạo ấn tượng như vậy à?”
“Nhưng Pocari vẫn rất cần thiết với cậu, phải không nào?”
Uemura bật cười nhìn chai nước đã uống cạn trong tay tôi. “Đúng là như vậy.”
Tôi cũng mỉm cười. Nếu không được Uemura đưa cho chai Pocari, có lẽ tôi đã ngất vì mất nước rồi. Nhờ chai Pocari mà cơn khát và những giọt mồ hôi trên người tôi đều lặng lẽ rút đi.
“Lớp mình nhiều người chọn Aquarius hơn, nhưng tớ thì nhất định phải là Pocari mới được. Nước hơi có vị ngọt và đem lại cảm giác có công hiệu thực sự. Thế Hayama thích loại nào?”
Tôi không biết trong môi trường cấp ba yên bình này cũng chia thành kiếu phe phái như vậy. Chẳng rõ sự khác nhau giữa Aquarius và Pocari thế nào, nhưng vì vừa được cho chai Pocari, nên tôi trả lời “Nếu so hai bên thì tớ thích Pocari hơn”, Uemura bèn gật gù vẻ mãn nguyện “Tớ biết mà.”
Pocari Sweat hay Aquarius. Một cuộc trò chuyện không có nội dung cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng sau những hỏi đáp vẩn vơ này, lòng tôi chợt dậy lên một cảm giác hoài niệm. Có lẽ việc tôi nói chuyện với người khác như thế này cũng là một việc lâu lắm rồi tôi mới làm, giống như việc uống đô uống thể thao vậy.
Ngày xưa mọi người luôn tới gần tôi hỏi han ân cần. “Cậu không sao chứ?”, “Cậu làm được không?”, “Mau lấy lại tinh thần nhé.”… Nhiều người không thích bị thương hại, nhưng cảm giác đó không tệ. Khi đứng ở vị trí được người khác động lòng thương cảm, tôi mới hiểu rõ điều đó. Trong sự thương cảm có chứa lòng nhân ái, dịu dàng của một con người. Đương nhiên từng có lúc tôi muốn mọi người để cho mình yên. Tôi từng nghĩ tại sao ngay cả lũ bạn này cũng lo lắng cho tôi. Có những lúc tôi đã nghi ngờ chúng chỉ tới hỏi han vì hiếu kỳ, có những lúc tôi thấy phiền phức không biết mình phải giải thích cùng một chuyện đến khi nào. Nhưng
nếu như lúc đó tôi bị mọi người xung quanh bỏ mặc hoàn toàn, chẳng ai đả động tới, thì mọi chuyện sẽ ra sao? Nghĩ tới thôi tôi đã rùng mình. Mọi người xung quanh đã chìa một cánh tay ra cho tôi nắm khi tôi đang yếu ớt chìm dần xuống. Tôi nghĩ nhờ thế mà tôi mới có thể thi vượt cấp, tốt nghiệp cấp hai và lên cấp ba được.
Ba năm đã trôi qua kể từ ngày đó, tôi đã trở thành học sinh cấp ba, trong lớp chỉ còn hai, ba đứa biết về chuyện của tôi. Lúc này, chẳng còn đứa nào đào lại chuyện xưa để thể hiện sự thương cảm với tôi nữa. Chuyện đó là đương nhiên, vả lại tôi sẽ rất khó xử nếu lúc này có người đưa bàn tay ra giúp đỡ tôi vì chuyện đó. Nhưng chỉ vì vài lần trò chuyện sau một thời gian dài bỏ bẵng thế này mà trái tim tôi lại lơ đãng mở ra mất rồi.
“Hôm đó là một ngày giống như hôm nay vậy.”
Tôi bất giác kể.
Đó là một ngày nắng trong trẻo, dễ chịu. Cái nóng hãy còn rơi rớt lại, nhưng không gian rất nhẹ dịu, không hề nồng ẩm. Tôi đến trường như mọi ngày. Lòng tôi bồn chồn với ý nghĩ rất có thể một cuộc gọi khẩn cấp sẽ được gọi đến, nhưng tôi vẫn cố gắng hết sức làm những việc cần làm. Nếu không làm vậy, tôi sợ rằng mình sẽ phát điên lên mất. Vả lại, tuy đã được thông báo rằng anh tôi không còn hy vọng gì nữa, nhưng đâu đó trong lòng tôi vẫn nghĩ anh tôi là trường hợp đặc biệt. Anh tôi là người tốt, tôi tin nhất định trời Phật sẽ phù hộ anh ấy. Anh tôi có nhiều triển vọng, và còn nhiều việc phải làm. Nên anh ấy sẽ ổn thôi. Đâu đó trong lòng tôi đã luận như vậy.
“Ngày gì cơ?”
Uemura nghiêng đầu thắc mắc.
“Ngày anh tớ mất.”
“Ừ, đúng là như thế.”
“Đúng là như thế ư? Cậu biết chuyện này à?”
“Tớ biết chứ. Tớ sống cùng khu với cậu mà. Cấp hai cũng học cùng trường nữa.”
“Thế à. Kể cũng phải… Lúc đó, tớ chưa từng nghĩ một người thân của mình sẽ chết. Nhất là anh trai tớ. Hôi đó anh ấy mới học lớp mười một. Anh ấy thường nói tương lai muốn trở thành một người lính cứu hỏa. Ngay cả hồi ở bệnh viện anh ấy cũng…”
“Hayama này, chuyện cậu kể có dài không?”
“Gì cơ?”
Câu chuyện bị cắt ngang, tôi chau mày lại.
“Ừm, chuyện cậu kể cần phải được lắng nghe một cách nghiêm túc. Xin lỗi cậu nhé, lần sau tớ sẽ nghe tiếp, tớ tham gia cả phần thi chạy tiếp sức vòng cuối nên phải đi luyện tập bây giờ. Mọi người bắt đầu tập trung lại rồi.”
Uemura áy náy đứng dậy. Người ta có thể dễ dàng kết thúc giữa chừng một câu chuyện như thế này ư? Bình thường câu chuyện này phải khiến mọi người gạt mọi chuyện qua bên để lắng nghe mới đúng. Tôi cảm thấy vô cùng hụt hẫng, cảm giác xa cách dâng lên trong lòng, mãi chẳng lắng xuống.
5.
Ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Mười. Ngày hội thể thao, bầu trời nắng trải rộng khắp. Thật lạ là ngày thể dục nào thời tiết cũng rất đẹp. Buổi sáng đã tổ chức thi kéo co và thi chạy tiếp sức giữa các câu lạc bộ, rồi tới giờ nghỉ trưa. Môn chạy tiếp sức kỳ diệu được tổ chức trong khung giờ sau bữa trưa, khung giờ thoải mái nhất.
“Hayama ơi, lại đây ăn đi.”
Đang định trải đồ ăn lên bàn thì Kisaki cất tiếng gọi. Đám con trai đang túm tụm lại ngồi thành vòng tròn phía sau lưng tôi.
“Phải đấy, lại đây nào.”
Miyashita và Nakai cũng đưa tay vẫy.
Tôi đã quen với việc luôn ở một mình, và ở lớp, việc tôi ở một mình đã trở thành điều đương nhiên. Nhưng mỗi khi có lễ hội trong trường, ai đó sẽ cất tiếng rủ tôi nhập hội. Mỗi khi có chuyến tham quan toàn trường, hoặc khi tổ chức hát đồng ca, tôi sẽ không ở một mình nữa. Điều đó làm tôi thấy khó xử và phiền phức, nhưng có lẽ trường học vốn là một nơi như vậy. Tôi có chút lưỡng lự khi gia nhập một nhóm nơi mọi người cười đùa sôi nổi thế này, nhưng dù sao đây cũng là dịp hội thi thể thao cuối cùng, tôi phải tận hưởng một chút mới được. Tôi “ừ” một tiếng và hòa vào vòng tròn đó.
“Hình như đây là lần đầu tiên tôi ăn cơm cùng ông đấy
Hayama.”
“Tôi cũng vậy.”
Mấy người cùng lên tiếng làm không khí chộn rộn lên thêm. “Hayama thích ở một mình à?”
“Ừm, nếu so sánh hai bên thì tôi thích ở một mình hơn.
“Lúc nào cũng thấy ông nhìn ra ngoài cửa sổ nhỉ. Nghĩ gi mà lung dữ vậy?”
“Không, chẳng có gì đặc biệt cả. Tôi chỉ lơ đãng thế thôi.” Vừa trả lời các câu hỏi liên tiếp, tôi vừa mở hộp cơm ra.
“Ừm, sắp tới kỳ thi rồi, hôm nay lớp B chúng ta hãy quên mọi chuyện phiền phức và quẩy thật tưng bừng nhé mọi người!”
Thay vì nói “Mời mọi người dùng bữa”, trưởng nhóm chạy Miyashita nói như vậy và chắp hai tay lại*.
“Hãy ăn thật nhiều để cầu chúc cho thắng lợi của lớp B nhé! Mà này Hayama, hộp cơm của ông trông ngon lành thế!”
“Ông thấy thế à?”
“Ừ. Chẳng bù cho tôi, ngày hội thể thao mà phải đi mua cơm ngoài cửa hàng tiện lợi đây này.”
Vừa kêu ca, Kisaki vừa hau háu nhìn hộp cơm của tôi.
Dù không phải ngày hội thể thao thì hộp cơm của tôi cũng sẽ được chuẩn bị công phu. Vốn dĩ tình yêu thương của mẹ được chia đều cho hai cậu con trai, nhưng bây giờ mẹ đành dành cả cho tôi. Không biết chuyện đó là tốt hay không tốt, nhưng mẹ luôn dành nhiều thời gian chăm sóc cho tôi như vậy.
“Mấy ông muốn ăn thử không?”
Tôi vừa dứt lời thì mọi người liền reo lên rồi vươn tay về phía hộp
cơm của tôi. Món thịt viên và cơm cuộn trứng mini bị cướp đi cùng những tiếng kêu đầy phân khích. Tôi có chút lạ lẫm nghĩ, hóa ra học sinh cấp ba ai nây đều tràn đầy năng lượng như vậy; rồi nhận lại món gà chiên bột hoặc bánh mì ngọt từ mọi người.
Trường học chẳng thiếu những điều ép buộc và những chuyện vô duyên khác. Nhưng đó cũng là nơi rất êm dịu. Bữa trưa lâu rồi mới ăn cùng mọi người thật ngon, cuộc trò chuyện giữa chúng tôi cũng rất vui vẻ, dù nội dung chỉ toàn những chuyện vô thưởng vô phạt.
“Này, cậu đừng có ăn nhiều quá đấy.”
Đang định ăn hết đồ ăn một cách ngon lành thì Uemura từ đâu bước tới.
“Tại sao?”
“Ăn nhiều sẽ nặng thêm, lúc nhảy bao gạo sẽ không nhảy xa được đâu.”
“Ra là vậy.”
“Nhớ chuẩn bị cho thật tốt đấy nhé.”
Uemura nói, hình như đã ăn xong bữa trưa, cô đi cùng mấy cô bạn khác ra sân. Bụng nghĩ chẳng hiểu sao cô bạn này chăm chút cho phần thi nhảy bao gạo đến thế, nhưng tôi cũng cất mẩu bánh mì ngọt đi để ăn sau.
“Uemura làm gì cũng nghiêm túc chỉn chu lắm. Hayama ạ, phen này mà ông để thua trong phần thi nhảy bao gạo thì chết với bạn ấy cho mà xem.”
Kisaki cười.
“Ông nói phải.”
“Nhưng mà tôi chạy ở phần chạy thứ tư đó, nên nhờ ông nhảy bao gạo
nhanh nhanh giúp nhé. Năm ngoái lớp mình về nhất môn chạy tiếp sức kỳ diệu đó, năm nay cũng phải giật giải mới được!”
Kisaki nắm bàn tay lại, tạo tư thế quyết tâm chiến thắng. Tôi cũng gật đầu bảo, “Ừ, tôi sẽ cố gắng.”
Môn thi chạy tiếp sức kỳ diệu là môn thi đấu theo từng khối lớp. Tại điểm xuất phát của vòng thi thứ ba, tôi chui sẵn hai chân vào bao tải gạo, cùng Uemura đợi tín gậy. Trong vòng thi cõng nhau đi qua ván thăng bằng, lớp B chúng tôi bị chững lại, giờ đang chạy sau cùng.
“Này.”
Từ phía sau, Uemura chọc chọc vào lưng tôi.
“Gì thế?”
“Cậu hồi hộp quá đó. Trong môn thi chạy tiếp sức kỳ diệu này chưa thấy ai căng thẳng như cậu đâu.”
Tim tôi đang đập thình thịch. Đây là lần đầu tiên từ khi lên cấp ba tôi đứng ở nơi này. Tôi thường không tham gia gì cả, chỉ hòa lẫn mình vào giữa đám đông. Lâu lắm rồi tôi mới tranh đấu với ai đó, đọ sức với ai đó trong tư cách thành viên của một đội, vì thế nên tim tôi mới đập nhanh như vậy.
“Đúng là tớ đang rất hồi hộp.”
Thấy tôi thẳng thắn thổ lộ tâm trạng, Uemura mỉm cười thật tươi. “Môn thi chạy tiếp sức kỳ diệu này không tính điểm đâu. Cậu đừng lo quá, cứ chơi thật vui thôi.”
Có thể đúng là như vậy, nhưng không khí của cuộc thi rất nóng, tôi nghe thấy nhiều tiếng cổ vũ “Lớp B cố lên”, “Bỏ xa lớp A đi”. Không cần biết có tính điểm hay không, đây vẫn là một cuộc thi có phân thắng bại. Vả
lại Kisaki đang chờ đợi chúng tôi ở phía trước. Nghĩ tới đó, trống ngực tôi càng khua mạnh hơn. Cần phải trao tín gậy cho cậu ấy sớm nhất có thể. Nhóm chạy thứ hai là nhóm nhảy dây hai người ba chân, họ đã vượt qua vòng này và đang chạy tới.
“Cậu bám chắc vào nhé.”
Vừa nhận tín gậy, tôi liền nói với Uemura như vậy.
“Ừ!”
Nghe Uemura đáp, tôi liền chú tâm kéo bao gạo, từng bước từng bước nhảy về phía trước. Vượt qua một nhóm vừa bị loạng choạng và một nhóm giậm nhảy một cách thong thả, bao gạo của chúng tôi tiến về phía trước với khí thế như vũ bão. Tôi cố kìm nén cơn hấp tấp muốn nhảy thật nhanh về phía trước để nhảy từng bước thật chắc chắn.
Hồi học lớp chín, tôi thường xuyên mang tâm trạng đó. Đợt hội thao cuối cấp, là người chạy cuối trong môn chạy tiếp sức, tôi không hề lơ đãng thả hồn qua cửa sổ, cũng không đọc những cuốn tiểu thuyết nhắc đến người chết, chỉ luôn nhìn vê phía trước và chạy nhanh hơn bất kỳ ai.
“Hayama ơi, ở đây ở đây!”
Nhìn thấy Kisaki vẫy vẫy tay, tôi cố nhảy nhanh hơn nữa. Một lần rồi lại một lần nữa giậm nhảy hết sức mình. Chui vào một chiếc bao tải để nhảy. Tôi biết việc này thật ngớ ngẩn, nhưng tôi vẫn gắng hết sức, mồ hôi tuôn đầm đìa để nhảy về phía trước.
“Nhờ ông cả đó!”
Trao tín gậy cho Kisaki xong, tôi và Uemura cùng ngồi bệt xuống trạm chuyến tiếp. Chân tôi khè run rẩy, một bên bụng âm ỉ đau vì giậm nhảy quá sức ngay sau bữa ăn. Cả hai đều thở dốc, và cùng bật cười vì độ thở dốc
của nhau.
“Mới nhảy năm mươi mét mà tụi mình đã thế này rồi, chứng tỏ ngày thường chúng mình quá thiếu vận động.”
“Ừ.”
“Ôi! Lớp B mình về nhất rồi!”
Uemura hoan hỉ reo lên.
“Ồ, đúng thật!”
“Tuyệt quá!”
Nhóm chúng tôi đã vượt qua lớp C, nhóm chạy vòng thứ tư của Kisaki vượt qua lớp A, cuối cùng lớp B chúng tôi đã giật đứt dải băng ở vạch đích.
“Hayama à, khi nãy cậu ngầu thật đấy.”
Trên đường trở lại ghế cổ vũ, Uemura nói.
“Chẳng hiểu sao tự nhiên tớ lại gắng sức như vậy nữa.”
Tôi gãi gãi đầu xấu hổ.
“Tớ tưởng câu ‘Cậu bám chắc vào nhé’ là câu nói của một người đeo kính râm ngồi trên xe phân khối lớn nói khi khởi động máy, không ngờ một người cầm tín gậy chân xỏ vào bao tải gạo cũng nói câu đó cơ đấy.”
Uemura cười ngặt nghẽo. Tôi thật muốn bảo cô nàng đừng có nhắc lại từng lời tôi nói như vậy, nhưng trông cô ấy có vẻ vui quá, nên tôi cũng cười theo.
“Hayama này, tớ đã quyết định một chuyện.”
Sau khi cười một tràng, Uemura nói.
“Gì cơ?”
“Rằng nếu chúng ta về nhất trong vòng thi nhảy bao gạo này, tớ sẽ bày tỏ tình cảm của mình.”
“Với ai cơ?”
“Còn với ai nữa, chính là Hayama đó. Trong hoàn cảnh này, chẳng phải sẽ rất kỳ cục nếu tớ tỏ tình với một người khác ngoài cậu hay sao?” “Hả…??? Với tớ ư?”
Lời tỏ tình quá đột ngột, chẳng dự cảm được điều gì trước đó nên tôi rất bối rối.
“Cậu thấy khó xử ư?”
“Không, không hẳn là khó xử, nhưng mà tại sao lại là tớ?” “Vì Hayama luôn làm mọi việc một cách nghiêm túc.”
“Nghiêm túc ư? Tớ ấy à?”
Tôi khẽ chau mày lại khi nghe thấy một câu nói không hợp với mình lắm.
“Ừ. Hayama luôn nghiêm túc làm mọi việc, cả khi cậu lơ đãng nhìn ra ngoài, lẫn khi nhảy bao gạo. Thế nên tớ rất thích cậu. Cậu có thể hẹn hò với tớ không?”
Uemura hối thức tôi, nhưng đột nhiên bị tỏ tình ráo hoảnh thế này, tôi chẳng thể tiêu hóa ngay được. Sau mỗi đợt hội thao hay ngày hội văn hóa, nhiều cặp đôi mới lại xuất hiện. Điều đó hiển nhiên như thể một phần chương trình lễ hội của trường cấp ba vậy. Nhưng chuyện này với tôi chẳng khác nào tiếng sét giữa trời quang.
“Ôi, Uemura này, tớ rất cảm kích… Nhưng nói sao nhỉ, tớ không biết nữa…”
Tôi chỉ nói được như vậy.
“Vậy à. Tớ hiểu rồi. Thôi không sao đâu.”
Uemura thất vọng nói, rồi đứng dậy đi tới nơi tập trung cho môn thi đấu tiếp theo.
6.
Ngày hội thể thao vừa kết thúc, không khí trong trường lập tức trở thành không khí thi cử, sức nóng của ngày hội thể thao vừa qua chỉ còn như một giấc mơ. Mọi người bắt đầu căng thẳng lo nghĩ về con đường học hành phía trước của mình, thầy cô cũng thường xuyên nhắc đến việc thi cử hơn. Số người đọc sách tham khảo trong giờ đọc sách tự do buổi sáng hoặc giờ nghỉ trưa đã tăng lên đáng kể.
Trường cấp ba tôi theo học là một trường điểm. Thời tôi học cấp hai, khi tính mạng anh trai tôi như ngọn đèn dầu trước gió, tôi đã cố gắng làm tất cả những việc trước mắt mình, học hành cũng không ngoại lệ. Thế nên dù bị kiệt sức ngay trước kỳ thi, tôi vẫn đậu vào ngôi trường tiêu chuẩn cao này mà không phải vất vả gì. Đề thi vào trường chủ yếu rơi vào phạm vi kiến thức của lớp bảy, lớp tám, tôi đã rất ngạc nhiên trước độ dễ của nó.
Nhưng kể từ khi biết có cố gắng cũng chẳng giúp ích gì việc học đã mất đi ý nghĩa đối với tôi. Tôi không có ý định học lên đại học. Tôi sẽ chọn một công việc nào đó, rồi chịu khó sống trong mức lương cho phép, thế là đủ. Tôi không nói đời người là vô nghĩa, nhưng tôi không còn ý muốn mang tới điều gì cho cuộc sống tương lai của mình nữa.
Hình như trong lớp chỉ có mình tôi không định học lên đại học, nhưng đọc bộ tiểu thuyết Asami Mitsuhiko giữa lúc mọi người học bài thế này cũng hơi ngại. Sau đợt hội thao, tôi đã trở nên thân thiết với mọi người xung quanh hơn, nên giờ tôi ý tứ bọc bìa sách lại. Dù rằng mọi người xung quanh chắc chẳng để ý xem một kẻ u ám như tôi đang làm gì đâu.
Uemura vẫn tràn đầy năng lượng như mọi khi. Cô nàng vốn dĩ là người như vậy. Có lẽ vì chúng tôi đã cùng nhau chui vào một chiếc bao tải gạo chật hẹp, nên cô ấy mới hiểu lầm tình cảm đó là thích mà thôi. Giờ cô ấy chẳng để tâm tới tôi nữa, cô ấy vẫn sống vui tươi như trước kia.
Nửa năm cuối của lớp mười hai trôi thật nhanh, nhanh như mùa thu vậy, thoắt cái đã vào giữa kỳ. Một ngày nhanh chóng kết thúc, và một tuần trôi qua với tốc độ còn lớn hơn thế. Lớp học mỗi lúc một tĩnh lặng hơn, những ngày tôi không có dịp nói chuyện với bất kỳ ai cũng tăng dần lên. Nghĩ kĩ lại thì ngoài Uemura hầu như tôi chẳng nói chuyện với ai cả. Tôi dần dần phát hiện ra những điều nho nhỏ như thế.
Mộ của anh tôi cách nhà tôi hai ga tàu điện. Tôi đến thăm mộ khá thường xuyên, bất cứ khi nào tôi nghĩ tới, thường là trên đường đi học về hoặc vào thứ Bảy. Đó là nơi tôi lui tới nhiều thứ hai sau trường học.
Nhiều người nói nghĩa trang đáng sợ và hiu quạnh, nhưng điều đó không đúng. Dù không có ai đến thăm mộ, thì nghĩa trang vẫn là nơi đông đúc người. Đương nhiên tôi đến để thăm anh trai, nhưng đơn giản là tôi cũng thích tới nghĩa trang nữa.
Lúc xây mộ cho anh, khu nghĩa trang này vẫn còn nhiều chỗ trống, nhưng giờ hầu như đã kín chỗ. Mới ba năm mà “cư dân” nơi này đông lên hẳn. Đó chính là số người đã phải rời bỏ nơi họ sống lúc sinh thời để chuyển tới nơi đây.
“Chậc. Trời lạnh quá, anh vẫn khỏe đấy chứ?”
Vừa bước sang tháng Mười một, mùa hè nóng như thiêu như đốt đã bay biến hoàn toàn, trời trở lạnh. Trong nghĩa trang buổi chiều muộn ngày cuối thu chỉ có mình tôi. Tôi co người lại, ngồi xuống trước mộ anh. “Trời lạnh nên hoa cũng lâu héo hon hẳn nhỉ. À, em sắp tốt nghiệp cấp
ba rồi đấy, cũng đến lúc phải nghĩ xem nên đi làm ở đâu rồi, theo anh công việc nào thì tốt? Chẳng biết em họp với nghề gì nữa. Có nên nhân dịp này tách ra sống riêng không nhỉ?”
Dù không nói thành tiếng, nhưng trước mộ anh tôi nói khá nhiều. Vừa lẩm nhẩm nói trong lòng, tôi vừa thắp nhang. Hồi mới bắt đầu đi viếng mộ, tay chân tôi lóng ngóng thắp nhang cũng khó khăn, nhưng giờ thì tôi quen rồi.
“Bố mẹ không nói gì nên em chẳng biết hai người muốn em làm thế nào. Em cũng không đặc biệt muốn làm gì cả, nên việc chọn lấy một công việc thật khó, mãi gần đây em mới biết nó khó thế này.”
Trước người anh đã mất, chỉ kể chuyện về bản thân mình như vậy thật không phải, nhưng anh tôi vốn là người độ lượng, chắc chắn anh đang lắng nghe tôi.
“Từ hồi tiểu học anh đã nói sau này muốn trở thành lính cứu hỏa phải không? Ngẫm kĩ thì điều đó thật tuyệt. Giờ em đã hom tuổi anh dạo đó rồi, vậy mà vẫn chưa nghĩ ra mình nên làm công việc gì cả.”
Anh trai tôi mất khi đang học lớp mười một. Chẳng rõ từ khi nào tôi đã sống trên đời hơn một năm so với anh. Nhưng tính cách anh chín chắn hơn so với tôi bây giờ rất nhiều, cơ thể anh cũng cao lớn hơn.
Anh từng cáu kỉnh nói “Tại sao anh phải gặp cảnh này?” Có lúc anh nói rất chua xót rằng “Anh còn muốn làm rất nhiêu việc.” Có lúc anh từ chối việc chữa trị với bố mẹ “Hãy giải thoát cho con”, có lúc anh kêu lên đầy khổ sở “Con không muốn chết”, có lúc người anh run rẩy “Con sợ lắm”. Nhưng rồi anh đã lặng lẽ chấp nhận. Đứng trước căn bệnh và cái chết, anh chấp nhận việc mình đã cố gắng sống cuộc đời đúng đắn ngay thẳng, nhân hậu và dịu dàng, nhưng chưa từng được nhìn nhận vì điều đó. “Đầu óc anh
chẳng còn bình thường trước điều bất công to lớn với mình. Nhưng có những điều mà phải trải qua cảnh ngộ này anh mới có thể hiểu ra được.” Anh trai tôi mỉm cười hiền hòa nói.
Tôi rất yêu quý anh trai mình. Từ khi còn nhỏ hai anh em tôi đã yêu thương nhau, nhưng phải tới sau khi anh trai mất, tôi mới nhận ra mình yêu quý và ngưỡng mộ anh đến mức nào. Dù bao nhiêu năm tháng có trôi qua, tôi cũng sẽ không thể vượt qua anh được. Anh là niềm tự hào của tôi.
Mỗi lần tới đây, tôi lại nhớ tới những điều tốt đẹp về anh trai mình. Những ngày tháng anh còn sống tràn về trong ký ức của tôi, thật khó để ngăn chúng lại. Phải rất vất vả tôi mới bứt suy nghĩ của mình ra khỏi luồng ký ức đó được. Có lẽ tôi luôn muốn kể với ai đó thật nhiều về anh trai mình. Có lẽ tôi muốn tâm sự với ai đó về cảm giác trống rỗng mơ hồ từ sau khi anh tôi mất. Từ khi lên cấp ba, chẳng còn ai lắng nghe tôi, tôi cũng không còn nhắc tới anh trai mình nữa. Có lẽ tôi không đủ mạnh mẽ để cất giấu tất cả những thứ đó trong trái tim mình.
Lúc luyện tập cho phần thi nhảy bao gạo, tôi đã vô tình kể ra chuyện về anh trai mình, nhưng vẫn chưa kể hết. Lúc này tôi chợt nhớ ra chuyện đó.
7.
Năm nay máy sưởi được đưa vào lớp học sớm hơn năm ngoái. Mấy ngày nay, bên ngoài cửa sổ lúc nào cũng trắng xóa. Mùa đông lạnh lẽo đang từng bước đến gần. Đồng thời tốc độ đọc sách của tôi cũng tăng lên. Bộ tiểu thuyết Asami Mitsuhiko có đến ba mươi tư cuốn, vậy mà khoảng giữa tháng Mười một tôi đã đọc hết. Ba mươi tư cuốn trong vòng chưa đầy hai tháng. Có khi đạt kỷ lục Guinness rồi cũng nên.
Tôi có hiểu thêm điều gì về cái chết không ư? Câu trả lời là không. Kẻ xấu chết như ngả rạ, người tốt cũng chết. Con người ta chết dễ dàng đến mức đáng kinh ngạc. Dễ tới mức, hễ có ai đó tới tìm Asami Mitsuhiko nhờ vả điều gì là tôi lại có dự cảm rằng có ai đó sắp chết rồi.
Nhưng sinh mệnh là một thứ lớn lao. Nó trọng yếu tới mức có thể dễ dàng thay đổi tính cách, cuộc sống và nhân sinh quan của một con người. Tôi chỉ hiểu ra được điều đó. Nhưng những cuốn sách mà Uemura đưa cho tôi là những cuốn tách rời tôi khỏi hiện thực nhất trong những cuốn tiểu thuyết tôi từng đọc. Chí ít thì trong thời gian cùng Asami Mitsuhiko giải đáp những điều bí ẩn, tôi đã tạm quên việc lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ.
Có điều, tôi có nên trả lại những cuốn sách này không nhỉ? Tôi thực sự bối rối không biết phải xử trí ra sao, bởi gần ba năm nay tôi không chịu giao tiếp với người khác rồi. Cậu ấy nói trước đó định mang đi bán sách cũ, vậy nghĩa là tôi không cần trả lại nữa chăng? Nhưng lẳng lặng đem sách đi bán sau khi đọc xong thì cũng không phải lắm. Tôi cứ nghĩ đi nghĩ
lại về chuyện đó. Mà không, không phải. Điều tôi băn khoăn không phải là nên làm gì với những cuốn sách, mà là có nên nói chuyện với Uemura về chúng hay không.
Nếu bận tâm về điều gì thì ta nên làm rõ điều đó. Tôi quyết định sẽ báo với Uemura về việc mình đã đọc xong sách.
“Uemura ơi, chỗ truyện này tớ đọc xong rồi. Ừm, cả bộ luôn.” Lúc tan học, Uemura chuẩn bị về, tôi bước tới bàn cô và đặt chiếc túi giấy chứa những quyển sách bên trong lên trên bàn.
“Thế à.”
Uemura thoáng liếc qua bên trong chiếc túi giấy.
“Ừ. Truyện thú vị lắm, cảm ơn cậu nhé.”
“Chỗ truyện này tớ tặng cậu rồi mà.”
“Thế à. Ừm, nhưng mà…”
“Nếu không cần tới nữa thì cậu có thể mang ra hàng sách cũ. Tớ chưa dặn cậu như vậy à?”
“Ừ, cậu nói phải.”
Thấy Uemura trả lời tỉnh queo như vậy, tôi đâm ra bối rối. “Chắc Hayama ngại lắm phải không?”
“Gì cơ?”
“Ngại bắt chuyện với tớ ấy. Bắt chuyện với một người cậu đã từ chối lời tỏ tình là một việc rất phiền phức đúng không?”
“À, không phải vậy đâu.”
“Là như thế còn gì. Thường ngày cậu đã không giỏi nói chuyện, giờ lại còn luống cuống nữa, nên câu chuyện mới trò nên kỳ cục thế này.”
“Hả? Ơ…”
“Cậu không cần miễn cưỡng nói chuyện với tớ đâu. Chỗ truyện này cậu thấy xử lý sao cho ổn thì cứ làm theo như thế nhé.”
Uemura nhanh chóng khoác cặp lên vai rồi ra khỏi lớp. Hệt như lúc cô ấy tỏ tình với tôi. Tôi luôn bất ngờ và bị động trước cách tiến hành mọi việc nhanh thoăn thoắt của cô ấy.
Uemura vừa đi khỏi lớp, tâm trạng tôi lập tức chùng xuống. Cảm giác u ám nặng nề trải ra rộng khắp bên trong cơ thể tôi. Cảm giác này là sao vậy? Đâu có xảy ra chuyện gì chấn động lắm, vậy mà tôi lại thấy trái tim mình xôn xao khó chịu. Trước cảm giác khó chịu không rõ nguyên cớ này, lòng tôi chẳng thể nào tĩnh lặng được.
Từ sau khi anh trai qua đời, tâm trạng tôi luôn nặng nề. Cảm giác trống rỗng sau khi anh mất tràn ngập mọi ngóc ngách tâm trạng tôi. Tôi đã ở yên trong tâm trạng nặng nề bức bối đó mà không chịu đựng thêm bất kỳ một thứ cảm xúc mới nào. Thế nên tôi không biết phải làm sao khi đột nhiên có một sức nặng mới mẻ và khác với mọi cảm giác nặng nề từ trước tới nay đè lên trái tim mình.
Trước mắt, tôi sẽ giao bộ tiểu thuyết Asami Mitsuhiko này cho hiệu sách cũ. Tôi nghĩ nếu làm như vậy cảm giác nặng nề trong lòng mình sẽ nhẹ bớt. Nhưng tiếc là bộ tiểu thuyết Asami Mitsuhiko đã biến thành 320 yên rồi trở về bên tôi. vỏn vẹn có 320 yên. Nhưng tôi chẳng có lòng dạ đâu mà chiếm lình số tiền này. Thật chẳng biết phải làm sao nữa.
Mà không, có lẽ như thế này cũng tốt. Lúc trả lại chỗ tiền này, tôi sẽ nói chuyện với Uemura trôi chảy hơn bữa trước. Chắc chắn sau vài câu trò chuyện, cảm giác xôn xao trong lòng sẽ bớt đi. Tôi muốn sớm giải quyết cảm giác nặng nề thừa thãi này.
Ngày hôm sau, tôi để sẵn đám tiền xu 320 yên vào túi để tới trường, vậy mà Uemura lại không tới.
Hình như cô nàng nghỉ học. Thôi đành để tới ngày mai vậy. Hai đứa học cùng lớp mà. Ngày mai tôi lại có cơ hội thôi. Tôi nghĩ vậy, nhưng tới hôm sau vẫn chưa thấy Uemura đâu, nếu cộng thêm thứ Bảy, Chủ nhật nữa thì tôi đã không gặp Uemura tới bốn ngày liên tiếp. Cảm giác nặng nề mới mẻ trong lòng tôi càng thêm nặng nề hơn khi không có mặt cô ấy.
“Ủa, có chuyện gì à?”
Sau khi hỏi địa chỉ nhà Uemura và nhận được câu trả lời với vẻ đầy ngờ vực của Mochida - cô bạn hay đi cùng Uemura, tôi tìm tới nhà cô ấy; nét mặt Uemura khi cô xuất hiện trông còn ngờ vực hơn cả Mochida nữa.
“À không có gì, thấy cậu nghỉ lâu nên tớ thắc mắc không biết cậu có chuyện gì không thôi.”
Tôi đứng ngoài cửa trả lời.
“Hayama vẫn đến trường á?”
Có lẽ khi nãy Uemura vừa ngủ dậy, cô nàng đang mặc bộ pyjama, tóc tai cũng bù xù.
“Ừ, có chứ.”
“Cậu tách biệt với thế giới quá đó. Tớ nghỉ học vì bị cúm đây. Mà không phải lớp mình nhiều người nghỉ học lắm à?”
“Ờ, cậu nói tớ mới để ý.”
Mấy ngày nay quả thực tôi cũng có cảm giác số học sinh trong lớp ít thật.
“Cậu lại không để ý xung quanh rồi. Dịch cúm đang hoành hành dữ dội, một vài lớp sắp phải nghỉ tạm thời kia kìa.”
“Tớ tưởng nhiều người nghỉ vì lạnh quá.”
“Chỉ vì lạnh mà nghỉ á, tụi mình là học sinh cấp ba rồi chứ có phải bọn con nít nhõng nhẽo đâu?”
Uemura ngạc nhiên nói, đoạn cô nàng hơi mỉm cười.
“Xin lỗi nhé, tớ ngốc thật.”
“Không sao. Cậu lúc nào chẳng ngốc như vậy. Thế sao cậu tới đây? Cậu mang vở ghi cho tớ à?”
“Vở ghi ư?”
Tôi hỏi lại y nguyên lời cô nói.
“Không phải cậu đã ghi bài đầy đủ trong lúc tớ nghỉ ốm và hôm nay mang tới cho tớ mượn sao?”
Ra là vậy. Hóa ra tôi nên làm việc đó cho cô ấy. Tôi đúng là khờ thật. Vừa nghĩ, tôi vừa đưa túi đồ mua ở cửa hàng tiện lợi ra trước mặt. “Tớ không mang vở đến. Nhưng có mua Pocari tới. Mua bằng tiền bán những cuốn tiểu thuyết tớ nhận từ Uemura bữa trước đấy.” Uemura reo lên “Ôi, Pocari à?” rồi nhận lấy chiếc túi với vẻ vui sướng.
“Đúng là lúc bị cảm cúm thì Pocari là nhất. Khi chơi thể thao, tớ có thể uống Aquarius hoặc Da-ka-ra cùng mọi người, nhưng khi bị ốm thì số lần tớ uống Pocari luôn nhiều hơn một cách áp đảo so với thứ nước khác. Chỉ cần nhìn chiếc vỏ nhãn màu xanh này tớ đã có cảm giác những thứ mất đi khỏi cơ thế mình được lấp đầy trở lại, như thể tớ sắp khỏi ốm đến nơi rồi ấy.”
“Lần đầu tiên tớ gặp một người ca ngợi Pocari đến thế đấy.” May là tôi đã dùng 320 yên đó để mua Pocari. Từ đáy lòng mình, tôi
thật sự nghĩ như vậy.
“Hi hì. A, có hai chai này. Cậu uống một chai không?”
Vừa cười, Uemura vừa đưa một chai cho tôi.
“À thôi, tớ không uống đâu.”
“Thế à. Thế thì tớ nhận cả hai chai nhé. Tớ đỡ sốt nhiều rồi, chỉ nghỉ đến hết hôm nay thôi, nên đừng lo lắng gì nha.”
“Ừ.”
“Ừm, hôm nay cảm ơn cậu đã dành thời gian tới đây nhé.” Uemura bước xuống khỏi bậc thềm, xỏ đôi dép lê vào chân và mở cửa ra.
“Ừ”
“Vậy, Hayama về cẩn thận nhé.”
“Ừ. À Uemura này…”
“Sao vậy?”
“Biết nói sao nhỉ, tớ…”
“Chuyện chai Pocari hả? Hay cậu nhận một chai về nhé? “Không, không phải vậy. Chuyện là… tớ… Tớ rất sợ cảm giác thích một ai đó.”
Sợ rằng cuộc nói chuyện lại nhanh chóng bị kết thúc như mọi khi, tôi luống cuống nói vậy. Không hiểu sao tôi chỉ nghĩ ra câu ấy. Uemura dựa người vào cánh cửa mở, mắt tròn xoe ngạc nhiên hỏi lại: “Cậu nói gì cơ?”
“À, ờm, tớ vừa nói rằng có lẽ tớ sợ việc thích một ai đó.” “Tớ không nghe nhầm đấy chứ? Hayama, cậu vừa nói là cậu sợ việc thích một ai đó hả?”
Mắt vẫn mở to, Uemura hỏi lại.
“Ừm, nếu được cậu có thể không nhắc lại lời tớ nói được không?” “Nhưng mà ngoài đời tó chưa nghe ai nói ‘sợ việc thích một ai đó’ bao giờ cả. Ngay cả trên phim ảnh thời nay người ta cũng không dùng câu đó nữa. Có cố gắng sống thêm tám mươi năm nữa tớ cũng không được nghe lại câu nói này mất.”
Có lẽ tôi vừa nói một câu quá văn vở. Nhưng một người nhắc lại để rồi chế nhạo câu nói mà người khác vội vàng thốt ra trong cơn xúc động như Uemura, có sống thêm một trăm năm nữa chắc tôi cũng không gặp ai khác mất.
“Tớ không giỏi diễn đạt lắm. Ý tớ là, tớ rất sợ khi nghĩ tới việc tớ sẽ phải trả giá cho những điều hạnh phúc tốt đẹp mình nhận được lúc này bằng những ngày tháng trống rỗng đang chờ đợi phía trước.”
“Những ngày tháng trống rỗng đang chờ đợi cậu đâu đó phía trước ư?” Dù tôi đã thay đổi từ ngữ để giải thích, nhưng Uemura vẫn chau mày như cũ.
“Nói thế nào nhỉ. Ví dụ nhé, cậu xem một bộ phim rất hãy rất cảm động, nhưng càng hay thì khi xem xong cậu càng buồn đúng không? Khi tập cuối của bộ truyện tranh cậu theo dõi đã lâu khép lại, cậu sẽ thấy rất hụt hẫng phải không nào? Những lúc như vậy cậu sẽ nghĩ nếu ngay từ đầu không đọc bộ truyện đó, thì lúc này cậu đã không rơi vào tâm trạng buồn rầu khó hiểu này, đúng chứ?”
“Chà, tớ không biết nữa. Tại gần đây tớ không xem phim hay đọc truyện gì cả. Tớ đang bận ôn thi đại học mà.”
Tôi nhiệt tình giải thích, nhưng Uemura vẫn nghiêng đâu vẻ không
hiểu.
“Vậy ví dụ cậu vừa ăn một suất bò bít tết cực kỳ ngon nhé. Nó rất ngon và rất hiếm khi cậu được ăn. Cậu sung sướng tận hưởng hương vị của nó, nhưng càng ăn thì miếng thịt trên đĩa càng nhỏ đi rồi biến mất.”
“Chuyện đó là đương nhiên. Làm gì có miếng bít tết nào ăn mãi vẫn còn nguyên như vậy, nếu có thì chỉ là một trò chơi khăm ai đó bày ra thôi. Nhưng mà, từ chuyện sợ việc thích một ai đó sang chuyện cơn sốc khi miếng bít tết bị ăn hết, cậu có thay đổi chủ đề nhanh quá không đó?”
“Ừ. Tớ đổi ví dụ hơi nhanh. Nhưng món bít tết, bộ phim, bộ truyện tranh hay người mình thích đều như nhau cả. Nếu từ đầu không có những thứ đó, người ta không thể có những giây phút vui vẻ hạnh phúc, nhưng cũng sẽ không phải nếm trải cảm giác buồn khổ khi đánh mất những thứ đó, phải không? Vì nếu ngay từ đầu không có những thứ đó thì sự kết thúc cũng không bao giờ tới. Tớ nghĩ như vậy tốt hơn. Tớ biết nghĩ thế là không nên, nhưng tớ vẫn không muốn. Vì nếu so niềm vui với nồi buồn, chắc chắn nỗi buồn sẽ lớn lao hơn. Dù có bao nhiêu ký ức hạnh phúc cũng không thể bù lại với nỗi buồn được. Tớ không giỏi biểu đạt ý mình, nhưng đại khái là như vậy đó.”
Thấy tôi giải thích xong, Uemura bảo:
“Nói nhiều vậy chắc phải khát rồi chứ?”
Cô đưa chai Pocari cho tôi.
“Ừ, vậy… tớ uống nhé.”
Tôi uống ừng ực hết chai Pocari, hệt như lúc vừa nhảy bao gạo xong. Cùng với việc không chơi thể thao nữa, tôi cũng không còn hăng hái nói chuyện nữa. Không biết vì nói nhiều nên bị mệt, hay vì tôi đã cố giải
thích một chuyện rắc rối, cơ thể không toát ra giọt mồ hôi nào của tôi nhanh chóng hút cạn từng giọt Pocari ấm áp.
“Khả năng giải thích của Hayama tệ đến mức khiến tớ ngạc nhiên đấy. Vả lại, lúc này tớ không có ý định sẽ chết hay bỏ đi đấu thật xa cả.” Vừa nhìn tôi uống chai Pocari, Uemura vừa nói.
“Ừ.”
“Vì số chai Pocari tớ đã uống nhiều hơn Hayama những hai mươi lăm lần cơ mà. Tớ chỉ bất cẩn bị nhiễm cúm xíu thôi, chứ cơ bản vẫn khỏe như vâm ấy.”
“Thế à? ừm, có lẽ đúng là như vậy.”
Uemura đã hiểu được câu chuyện lộn xộn tới mức khiến người khác phải kinh ngạc của tôi chưa nhỉ? Vốn dĩ tồi muốn nói điều gì với Uemura vậy? Giờ ngay cả điều đó tôi cũng không rõ nữa. Nhưng dù vừa mới khỏi cúm, Uemura vẫn khoác một chiếc áo khoác dày nặng bên trên bộ pyjama để tiễn tôi đến nửa đường.
“Trời vào đông rồi nhỉ.”
“Ừ.”
Con đường trước nhà Uemura là một con đường dốc dài thoai thoải. Vừa chậm rãi đi xuống dốc, chúng tôi vừa nhìn lên trời. Bầu trời trải rộng một làn ánh sáng tím nhạt bồng bềnh. Mặt trời sắp lặn.
“Trời lạnh nhưng dễ chịu hơn mùa hè nhỉ.”
“Ừ, đúng thế thật.”
Tôi gật gù trước câu nói của Uemura.
“Hayama cũng ghét thời tiết nóng bức à?”
“Không hẳn thế, nhưng mùa hè có nhiều thứ quá ngắn ngủi.”
“Cậu thấy thế à?”
“Mà mùa thu thì cũng ngắn ngủi.”
“Ừ, công nhận. Cuộc đời học sinh của chúng ta cũng sắp kết thúc rồi. Hayama định thi vào trường đại học nào?”
Uemura ngước nhìn tôi. Trời lạnh làm gò má cô ửng hồng. “À, tớ không định học đại học.”
Nghe tôi nói vậy, mắt Uemura còn tròn xoe hơn cả lúc nghe câu “sợ việc thích một ai đó” của tôi.
“Cậu không định học đại học ư? Thế cậu định làm gì?”
“Tớ sẽ đi làm.”
“Đi làm á?!”
Tiếng Uemura vang lên trên con đường tĩnh lặng.
“Nghe kỳ cục quá à?”
“Đi làm không có gì là kỳ cục cả, nhưng người như Hayama không làm việc được đâu. Thế gian này khắc nghiệt lắm đó. Một người hay thả hồn lơ đãng như Hayama e là sẽ bị đuổi việc ngay mất.”
“Thế á?”
Tuy gần đây kinh tế đang chững lại, nhưng tôi chưa thấy bản tin tuyến người nào ghi “Không chấp nhận những người hay lơ đãng” cả. “Cậu còn hỏi ‘Thế á’ à? Làm gì có công ty nào chịu tuyển những người chẳng bao giờ chịu để ý tới lời mọi người xung quanh, một ngày nhìn xa xôi đến mấy chục bận. Vả lại Hayama có thể làm gì chứ?” “Tớ cũng không làm được việc gì đặc biệt cả.”
Vừa nghĩ chẳng hiểu sao Uemura lại góp ý gay gắt như vậy, tôi vừa
thành thực trả lời.
“Thế thì cậu đi học đại học đi.”
“Đại học ư…”
“Sau bốn năm đại học, Hayama sẽ không thường xuyên lơ đãng thẩn thơ như bây giờ nữa, phải không?”
Cô bạn nói hoài về chuyện này như thể mình là giáo viên phụ trách hướng nghiệp vậy, nhưng âm điệu của Uemura khi cô sốt sắng với vấn đề này nghe thật dễ chịu.
“Tớ cũng không chắc nữa.”
“Sau bốn năm lại có một mùa Olympic. Sau bốn năm nữa, Hayama cũng hai mươi hai tuổi rồi. Quá hai mươi tuổi mà vẫn còn giống bây giờ thì nguy to đấy.”
“Liệu tớ có thể thay đổi trong bốn năm không?”
“Đừng lo. So với hồi lớp mười, Hayama đã thay đổi một chút rồi đó.” “Tớ thực sự sẽ thay đổi dần dần như thế sao?”
Lúc này, không biết phải tốn bao nhiêu thời gian tôi mơi tiến về phía trước được. Có thể bốn năm sau tôi vân giong như bây giờ, hoặc có thể tôi đã thay đổi tới chóng mặt.
“Ừ. Vả lại, đại học là nơi rất thoải mái. Vì cậu sẽ được trao cho rất nhiều tự do. Sau khi vào đại học, chỉ cần có hứng, cậu có thể khoác ba lô lên vai sang Thái Lan hoặc Ấn Độ nếu muốn đi tìm con người thật của mình, hoặc ra bãi biển nhặt vỏ chai hộp để bảo vệ Trái đất, hoặc tự làm một bộ phim ca ngợi tự do, hoặc trồng một loại nông sản sạch nào đó, hoặc vẽ tranh làm thơ bán bên vệ đường… Khi làm những việc đó, nhất định những kỷ niệm buồn sẽ dần phai nhạt, và những kỷ niệm khác sẽ ùa
vào thế chỗ.”
“Đại học là nơi người ta làm những việc ấy ư?”
Chẳng lẽ sau khi tôi không chú ý tới xung quanh trong một thời gian dài, hệ thống giáo dục trên đại học đã thay đổi tới mức đó rồi sao? Thấy tôi nghiêng đầu thắc mắc, Uemura bật cười: “Không đâu.”
“Thực ra tớ cũng không biết như thế nào sẽ tốt hơn. Nhưng tớ nghĩ chí ít thì khi lớp học tạm nghỉ, cậu cũng nên nhận ra điều đó. Tớ nghĩ bản thân việc tới học ở một lớp học không người cũng là một trải nghiệm đấy.” “Ừ, cậu nói phải. Tớ sẽ nghĩ thêm về chuyện này.”
“Vậy tạm biệt cậu nhé. Mai tớ sẽ tới lớp.”
“Ừ.”
Ra tới đường lớn, Uemura dừng bước. Tôi cũng đứng lại. Mặt trời chỉ còn chiếu xuống vài tia nhỏ bé, bóng chúng tôi củng mờ nhạt.
“Hẹn gặp cậu ngày mai.”
Uemura khẽ đưa tay lên vẫy, rồi quay người trở lại con đường cô vừa đi tới.
“Ừ, ngày mai nhé.”
Tôi cùng khẽ thầm thì.
Ngày mai. Tới lúc này tôi mới nhận ra trên đời có một từ kỳ diệu đến thế.
8.
Trong phòng hướng nghiệp có nhiều tờ rơi quảng cáo của nhiều trường đại học. Tờ nào cũng được thiết kế rất đẹp, nhìn vui mắt như tờ quảng cáo của một tour du lịch nào đó vậy. Chọn bất cứ trường nào cũng có vẻ như sẽ dễ dàng đến được mọi nước trong châu Á, và có thể nhặt những vỏ lon hộp rỗng cho tới khi nào thỏa ý.
Nhưng nhìn trường đại học nào cũng giống nhau. Sân trường long lanh, vườn trường xanh tốt. Phòng học đầy ăp các loại dụng cụ máy móc. Những bức ảnh trong nhà ăn hoặc ảnh sinh hoạt câu lạc bộ mà hẳn là khi chụp người ta đã phải nhắc mọi người cười lên rất nhiều lần.
Việc tìm ra một ngôi trường đại học mình muốn theo học giữa một rừng các trường giông giống nhau thế này thực là một công việc nan giải. Không biết mọi người đã chọn trường bằng cách nào nhỉ? Tôi đúng là một người bị bỏ lại phía sau quá xa. Cuối cùng tôi thấy hơi hối hận vì ba năm qua mình sống quá hờ hững.
Có đủ các khoa ngành, từ các khoa cơ bản như khoa Khoa học, khoa Văn học, khoa Kinh tế học, cho tới các khoa khá lạ như khoa Công nghiệp Dịch vụ, khoa Giáo dục Thế hệ sau… nhưng tôi chẳng có chút hứng thú nào. Hình ảnh những nơi làm việc hào nhoáng cũng sắp hàng cạnh nhau, nhưng một kẻ suốt ngày lơ đãng nhìn xa xăm như tôi lúc này có nghĩ tới công việc cũng chẳng ích gì.
Chẳng có cách nào để chọn. Nhưng nếu có thì chỉ có một. Tuy là một cách rất mơ hồ, chẳng có cơ sở gì, nhưng tôi chỉ có một
thứ để dựa vào. Nếu vậy, tôi phải nhanh lên mới được.
Giờ nghỉ trưa. Không thấy Uemura trong lớp. Vừa khỏi cúm nhưng cô nàng đã ung dung ngồi nghỉ trưa ở vườn trong. Cô đang ngồi một mình trên băng ghế uống nước ép.
“Cậu không lạnh à?”
“Ừ. Trời nắng ráo mà.”
Tôi bắt chuyện, Uemura nheo mắt lại nhìn lên trời. Từ sáng nay mặt trời đã xuất hiện, tuy rằng những tia nắng của nó vẫn còn yếu ớt. “Cậu khỏe hẳn chưa?”
Tôi ngồi xuống băng ghế, cách Uemura một chút.
“Tớ khỏi cúm lâu rồi. Nhưng vì vẫn chưa hết hạn nghỉ cúm nên tớ mới đành phải nghỉ thêm thôi.”
“Thế à.”
“Không khí trong lớp ngột ngạt vì bật máy sưởi, Yumi và Sakiko lại nghỉ học vì cúm nữa. Thế nên tớ mới ngồi đây uống nước cam vắt nguyên chất này. Thứ nước này rất tốt cho cơ thể, chắc chỉ thua Pocari thôi.” Uemura cho tôi xem hộp nước ép bằng giấy.
“Ra là vậy.”
“Thế cậu có chuyện gì à?”
Nghe Uemura hỏi vậy, tôi bật cười.
“Bình thường, một học sinh cấp ba đâu có hỏi bạn ‘Thế cậu có chuyện gì à?’ chứ.”
“Ừ nhỉ. Mấy ngày vừa qua tớ chỉ ngủ chẳng chuyện trò gì, hôm nay tới lớp thì bạn thân nghỉ nên cũng không chuyện trò gì nốt, thành ra tớ trò chuyện dở ngang Hayama mất rồi.”
Uemura cũng bật cười.
“Nhưng tớ thực sự có chuyện cần nói đấy.”
“Gì vậy?”
Uemura chăm chú nhìn tôi.
“Tớ đã quyết định trường đại học mình muốn theo học.” “Không thể nào?!”
“Thật đấy. Vừa nãy tớ đã quyết định mình phải làm thế nào rồi.” “Hayama quyết định mọi thứ nhanh thật đấy. Tài thật. Mới hôm qua cậu còn định học xong cấp ba rồi đi làm luôn. À, nhưng mà thời gian cũng gấp rút rồi nên không thong thả nghĩ ngợi được nữa nhỉ. Thế cậu định học trường nào?”
Uemura trầm trồ, tự diễn giải, tự hiểu vấn đề rồi ngay lập tức đặt câu hỏi cho tôi.
“Tớ đã đọc rất nhiều những tờ quảng cáo trong lớp học hướng nghiệp, nhưng chẳng biết nên chọn trường nào. Gần ba năm đầu óc lơ đãng nên tớ không biết được cách quyết định con đường tiếp theo của mình nữa.” “Nhưng cậu đã chọn được rồi đúng không?”
“Ừ. Dù có thể lý do của nó rất vớ vẩn và ngốc nghếch.”
“Cậu đã chọn trường có nhiều giảng viên xinh đẹp ư? Hay chọn trường có thực đơn bữa trưa phong phú à?”
“Không, không phải vậy. Tớ định sẽ tới học cùng chỗ với cậu.” Tôi lúc này vẫn chưa đủ khả năng để một mình lên đường đi Thái khi mình muốn, hoặc làm phim hay sản xuất nông sản sạch mỗi khi có hứng. Nhưng chỉ cần có Uemura ở bên, tôi sẽ có thê sống mà không cần lơ đãng thả hồn tận đâu đâu nữa. Chắc chắn là như vậy.
“Cùng một chỗ với tớ ư?”
“Ừ, tớ sẽ theo học cùng trường đại học với cậu.”
“Hả? Thật á?”
Dù mới khoảng một tháng trước, chính Uemura đã chủ động tỏ tình với tôi, nhưng lúc này cô lại có vẻ không thoải mái khi nghe tôi nói như vậy.
“Cậu không muốn vậy ả?”
“Tớ thì không sao, nhưng sẽ khó cho Hayama đó.”
“Demura định thi một trường khó đến thế sao?”
Tôi không biết học lực của Uemura cỡ nào, cô ấy xuất sắc hơn tôi tưởng đến thế ư? Nhưng dù sao tôi vẫn có kiến thức nền tảng hồi cấp hai. Nếu tôi cố gắng hết sức, chắc mọi chuyện sẽ ổn thôi.
“Không không, điểm thi trung bình vào trường này không cao. Nhưng nếu muốn học cùng trường với tớ, thì Hayama sẽ phải thay đổi nhiều điểm đấy.”
“Thay đổi nhiều điểm ư?”
“Ừ. Đầu tiên là phải nuôi tóc dài, ừm, cậu rất cao nên phải làm sao đó để giải quyết chiều cao ấy. Còn gương mặt thì thời đại này dễ xử lý rồi.” “Gì cơ? Uemura định đi học trung cấp nghề à?”
“Không, tớ định theo học trường cao đẳng nữ sinh Nishimine.” Uemura cười.
“Trường cao đẳng nữ sinh Nishimine?”
“Ừ. Nó là một trường cao đẳng đào tạo trong hai năm, chỉ nhận sinh viên nữ.”
“À, thế à. Ra, ra là vậy.”
Tôi thất vọng và hụt hẫng hơn mình tưởng. Một cảm giác mệt mỏi sau khi tôi cố gắng tiến về phía trước - điều đã lâu tôi không làm - đột nhiên xuất hiện. Đúng là nếu hấp tấp quyết định con đường tương lai của mình thì mọi chuyện sẽ không thể suôn sẻ được.
“Còn có nhiều cách mà.”
Uemura nói như an ủi khi thấy tôi ngồi xuội lơ ở đó.
“Cậu nghĩ xem, trường đại học nhiều tới nỗi chém không hết ấy chứ.” “Ừ, hẳn là thế.”
“Quanh trường cao đẳng tớ theo học cũng có tới hai, ba trường đại học đấy.”
“Vì vùng đó có nhiều trường đại học mà.”
“Nếu như Hayama thực sự không đặc biệt muốn theo học một trường cụ thể nào, thì hãy dự kỳ thi tuyển của trường đại học ở gần cao đẳng Nishimine nhất đi.”
“Ừ.”
“Rồi chúng mình sẽ cùng nhau đi học, thỉnh thoảng trên đường về thì ghé qua chỗ này chỗ kia chơi nhé.”
“Ừ.”
Ủa? Vừa rồi cô ấy lại tỏ tình với tôi đó sao? Tôi nhìn vào mắt Uemura. “Trước đó cậu u buồn là vậy, thế mà sau khi chui vào bao gạo cậu đã nhảy được rất xa. Vậy thì cơn thất vọng ngắn ngủi này của cậu sẽ qua đi nhanh như người ta ăn bữa sáng thôi.”
“Cậu nói phải. Có lẽ đúng là như vậy.”
Tôi đã chui vào bao gạo, đã uống Pocari, đã mang sách tới hiệu sách cũ
và lại uống Pocari, mỗi lần như vậy lại được
Uemura khích lệ đủ điều. Qua những kỷ niệm đó, cảnh vát mà trước đó tưởng như đã hoàn toàn úa tàn trước mắt tôi giò dần dần ánh lên sắc màu từng chút một. Nếu có thể, tôi muốn mượn sức mạnh của Uemura thêm một chút nữa.
“À, cậu uống không? Đột nhiên quyết định con đường tương lai của mình, rồi ngay sau đó lại thất vọng, cảm xúc thay đổi chóng mặt thế, giờ hẳn là khát lắm rồi hả?”
Uemura đưa hộp nước ép đang uống dở ra trước mặt tôi. “Ừ, cảm ơn cậu nhé.”
Tôi đưa hộp nước cam ép lên miệng. Nước cam ép vừa đậm đà vừa hơi chua. Nó không thấm đẫm cơ thể tôi như Pocari, nhưng tôi có cảm giác đầu óc mơ màng của mình đã tỉnh ra đôi chút.
“Ừ. Vậy tớ sẽ nghiên cứu thêm một lần xem.”
Tôi đứng lên với trạng thái tỉnh táo nhờ hộp nước cam ép. Chỉ cần tôi tới phòng hướng nghiệp, vô số những tờ quảng cáo các trường đại học đang đợi chờ tôi ở đó. Hơn nữa, lần này tôi sẽ có thể ngay lập tức đưa ra được đáp án.
“Ừ. Cố lên nha. Còn năm phút nữa là hết giờ nghỉ trưa đó.” Uemura vẫn ngồi trên ghế, vẫy vẫy tay tạm biệt tôi.
“Ôi, tớ phải nhanh lên mới được.”
Tôi bước về phía lớp học.
Trên trời, vầng thái dương yếu ớt bắt đầu đón đông sang đang lặng lẽ chiếu những tia sáng xuống khu vườn trong. Không thể tin được rằng trong giờ nghỉ trưa êm dịu nhường này tôi lại không có thời gian rảnh để
thả hồn lơ đãng. Nhưng trái tim tôi đang đập rộn rã. Có cảm giác một thứ gì đó đã chuyển mình bên trong tôi khi tôi rảo bước đi như thế này.
Chương 2
Khi tích trữ nước, bạn sẽ hiểu ra điều gì đó
1.
“Jesus ơi, em ở đây. Jesus Christ!! Em ở đây này!”
Trước giọng nói rõ to của Uemura, người đi đường dáo dác nhìn xung quanh. Họ đang thử tìm ra chân tướng của kẻ được cô gọi là “Jesus” đó. Tôi vội vàng bước về phía Uemura, đầu cúi xuống để không chạm phải ánh mắt của những người xung quanh.
“Này em, đừng gọi cả họ lẫn tên của anh giữa phố như thế được không? Vốn tên anh cũng đâu phải Jesus.”
“Tại em gọi anh bao lần mà anh không để ý đấy chứ.”
Uemura thản nhiên nói.
“Thế à? Xin lỗi em. Ừm, vậy chúng ta đi thôi.”
Dù thế nào tôi cũng phải chạy trốn khỏi những ánh nhìn như muốn nói “Ra Jesus là cậu này hả?” đó. Tôi bắt đầu rảo bước thật nhanh. “Thế này mà cũng gọi là mùa mưa sao?”
Uemura thong thả nhìn trời, tôi cũng ngước lên nhìn theo. Bầu trời trong xanh chẳng chứa giọt nước nào. Chưa có thông báo hết mùa mưa, vậy mà vừa sang tháng Bảy, mặt trời đã xối xả giội xuống những tia nắng gắt.
Khu vực này là trước nhà ga, nhưng vì vòng xuyến dành cho xe bus được xây khá lớn, và quanh đây được trồng nhiều cây xanh, nên cảnh vật khá xinh đẹp và tĩnh lặng.
“Hôm nay chúng mình ăn KFC nhé?”
Uemura nói sau khi nhìn một lượt mấy cửa hàng đồ ăn nhanh liền kề nhau trước nhà ga.
“Ừ. Lần trước mình ăn bánh ngọt nướng rồi.”
Dần dà tôi trở nên thích ăn những món Uemura chọn, nên lần này tôi đồng ý luôn.
Thỉnh thoảng chúng tôi cũng đi xem phim và mua sắm, nhưng thường thì chúng tôi sẽ đợi nhau trước nhà ga vào những hôm cả hai không phải đi làm thêm, rồi đi ăn KFC hoặc McDonald’s. Đó là cách hẹn hò mọi khi của chúng tôi.
Tôi bắt đầu hẹn hò với Uemura từ dạo đầu mùa đông năm lớp mười hai. Trước đó tôi chẳng nghĩ ngợi gì cho tương lai, và tôi thi vào trường đại học này chỉ với lý do rằng nó ở rất gần trường cao đẳng mà Uemura theo học. Một trường đại học ít người biết đến, học phí thấp nhưng trang thiết bị đầy đủ, sách trong thư viện phong phú, thực đơn ở nhà ăn cũng đa dạng. Một vài giờ học trong trường cũng khá thú vị, một trường đại học rất được.
“Em ghét ăn gà, nhưng riêng gà rán KFC lại rất thích.”
Mỗi lần ăn gà rán, nhất định Uemura sẽ nói câu đó.
“Chắc đây là lần thứ ba mươi lăm anh được nghe câu này rồi đấy.” “Cho tới khi chết em sẽ nói cấu này thêm một trăm hai mươi lần nữa. Nhưng mà em khá ngạc nhiên khi thấy anh không hề kén chọn chút nào đấy.”
“Ừ. Có lẽ món gì anh cũng ăn được.”
Lúc này, tôi - một người thích cả thịt gà và KFC - đang nhồm nhoàm nhai thịt gà.
“Vậy mà hồi cấp ba từ người anh luôn toát ra bầu không khí kiểu như anh chẳng bao giờ để ý tới ăn uống vậy.”
“Thế á? Anh chỉ hơi u ám thôi chứ từ xưa có đặc biệt thích hay ghét món gì đâu. Dù có thể anh không thấy ngon miệng như bây giờ.” “Thật đấy. Trông anh u ám thế, nếu tự nhiên mở miệng khen món này ngon thì chắc em sẽ sợ lắm.”
Uemura bật cười nói.
“Còn anh thì thấy ngạc nhiên trước danh sách dài lê thê những món thích và ghét của em đấy.”
Uemura đã bắt chuyện với tôi, một kẻ luôn tránh xa mọi người xung quanh, nên tôi tưởng cô ấy có thể ăn mọi thứ, không ngờ cô ấy có nhiều món không thích đến vậy.
“Thế ư?”
“Em ghét thịt gà, tới McDonald’s thì bỏ mù tạc, tới MOS Burger thì bỏ sốt mayonnaise, uống Pocari chứ không chịu uống Aquarius, đúng chứ?” “Ra là vậy. Nhưng em vẫn ăn KFC, và tuy ghét mayonnaise nhưng em vẫn ăn ketchup mà. Nên không thể nói em ghét nhiều thứ được.” “Lý lẽ kiểu gì vậy? Ketchup sao thay thế mayonnaise được?” Toàn những thông tin vô thưởng vô phạt, nhưng thật tốt khi tôi dần hiểu được Uemura từng chút một thế này. Tôi có cảm giác mỗi lần tôi biết thêm một chuyện, tôi lại tiến thêm được một bước.
“Ồ, Jesus đây mà. Bạn gái ông đó à?”
Tôi quay đầu về phía cất lên tiếng nói sôi nổi ấy, một cậu chàng miệng cười tươi đang đứng đó, mặc một chiếc áo phông và quần soóc ngắn. “À, ừm. Tôi…”
Trước đối tượng nhìn quen quen mà không rõ là ai đó, tôi chỉ đáp lại một cách mơ hồ, còn Uemura thì mỉm cười nói: “Chào anh.” “Thích thế. Trong khi tụi này chỉ có ba thằng đực rựa với nhau.” Nhìn về phía gương mặt cậu, tôi thấy một anh chàng khác có vẻ là bạn cậu ta đang vẫy tay. Tôi có cảm giác đã từng thấy hai người này ở đâu đó rồi. Tôi vẫy tay với họ.
“Thỉnh thoảng đi chơi cùng tụi này đi.”
“Ừ, nhất định rồi.”
“Thế hẹn gặp ông ngày mai nhé.”
“Ừ. Mai nhé.”
Hẹn ngày mai, nghĩa là cậu ta là sinh viên và có học cùng tôi một số tiết học. Luận ra điều đó, tôi đáp lại cậu ta với giọng tụ tin hơn nhiều. Vì thường đi lại trong nhà ga gần trường đại học, nên mỗi khi hẹn hò cùng Uemura tôi rất hay gặp đám bạn cùng trường. Gọi là “bạn” nhưng hầu như chúng tôi chỉ biết mặt nhau, thế nên mọi người đều gọi tôi là Jesus.
“Bạn anh à?”
“Không hẳn, anh chỉ thấy cậu ấy quen mặt thôi. Có lẽ bọn anh có một số môn học cùng nhau.”
Nghe tôi trả lời, Uemura cười nói: “Đúng là anh Hayama có khác.” “Ở điểm nào cơ?”
“Ở điểm anh được một người chỉ hơi quen mặt gọi bằng biệt danh đó.” “Ừ. Trong khi anh thậm chí không biết họ của cậu ấy.”
Tôi cũng cười.
Tôi mới vào đại học chừng hai tháng, vậy mà đã được hầu hết mọi người xung quanh gọi là Jesus.
Khởi nguồn của chuyện này là buổi lễ nhập học. Buổi lễ được tổ chức hoành tráng trong một hội trường lớn và bề thế. Nhưng khi bước vào hội trường này, tôi nhận ra không có ghế của mình. Trên mỗi chiếc ghế sẽ dán một mảnh giãy ghi mã số sinh viên, mỗi người sẽ ngồi vào ghế có số tương ứng của mình. Nhưng tôi tìm mãi không thấy chiếc ghế dán dòng mã số 200879 - mã số sinh viên của tôi. Có lẽ vì các bậc cha mẹ cũng tới dự nên tôi không nhìn thấy ghế trống nào cả. Khi tôi báo với người phụ trách đang đứng ngoài cửa, người đó bắt đầu cuống lên nói “Ôi, mã số bị sót rồi.” Buổi lễ sắp bắt đầu, mọi người đều nhìn về phía chúng tôi thắc mắc không hiểu đang có chuyện gì. Thấy người phụ trách đáng thương quá, tôi bèn trấn an anh ta, bảo “Thôi không sao, em sẽ đứng trong góc để nhìn cũng được.”
Sau sự việc ban đầu đó, những hành động kiểu như vậy của tôi vẫn nối tiếp.
Khi đợi tới lượt ở nhà ăn, bác cấp dưỡng nói “Tới bạn này là hết cơm suất nhé.” Thấy anh chàng xếp hàng phía sau kêu than “Ôi, phải làm sao bây giờ”, tôi liền nhường suất cơm cho cậu ta. Khi được nhờ “Cho tớ mượn vở ghi với”, “Cậu điểm danh giùm tớ nhé”… tôi cũng nhanh chóng đồng ý.
Không lâu sau, mọi người truyền tai nhau bảo “Hayama tốt bụng thật đấy”, rồi “Trái tim cậu ấy thật quảng đại”, rồi “Đúng là Jesus thời nay”, rồi “Tên Hayama toàn vần a, khó đọc chết đi được”, từ đó tôi được đặt biệt danh là Jesus.
Trước giờ tôi không hay để ý mọi người xung quanh, không ngờ mọi
người hay tranh chấp nhau đến vậy. Đối với tôi, việc không được ăn cơm suất hay không có ghế ngồi chẳng phải chuyện gì to tát. Ăn món khác cũng sẽ no bụng thôi, và đứng cũng sẽ nhìn thấy cùng một cảnh so với khi ngồi vậy. Việc cho mượn vở hay điểm danh hộ bạn không làm tôi đau hay ngứa gì. Có những người tức giận cho rằng thật không công bằng khi ai đó không phải đi học mà vẫn lấy được tín chỉ, những kẻ đi mượn vở lại dễ dàng đạt điểm cao… nhưng chuyện đó thì thế nào cũng được. Điểm số của tôi đâu vì thế mà thấp đi, nên tôi chẳng quan tâm chuyên đó. Một vài người thấy thế liền nhận xét rằng tôi tốt bụng, hào sảng, nhưng hoàn toàn không phải như vậy. Hành động của tôi, một kẻ được đặt biệt danh rất hùng hồn là “Jesus”, tiếc rằng không xuất phát từ sự thân thiện tử tế. Chỉ đơn giản là tôi không quan tâm đến việc người khác làm mà thôi. Sự không quan tâm đến người khác ấy sao có thể dẫn tới sự thân thiện, tử tế cho được?
“Không thể tưởng tượng có ngày anh được gọi là Jesus đấy Hayama ạ.”
Uemura nhìn vào mắt tôi nói.
“Hồi cấp ba thì đừng nói tới biệt danh, ngay cả tên thật anh cũng chẳng được mọi người gọi tới bao giờ.”
“Đúng là như thế thật. Nhưng không chỉ có tính cách u ám, anh Hayama còn suy nghĩ rất sâu sắc nửa. Anh chỉ giả vờ lo đãng, chứ thực ra khi đó đang nghĩ tới hòa bình thế giới đúng không?”
Uemura vui vẻ trêu chọc tôi về quãng thời gian tôi tỏ ra u ám đó. “Anh có nghĩ gì tới hòa bình thế giới đâu.”
“Nhưng mà kỳ diệu thật đấy. Vừa dạo trước anh còn cô lập với mọi người xung quanh, vậy mà giờ đây ngay cả những người không biết tên
cũng đưa tay vẫy chào anh.”
“Ừ. Anh chỉ bỏ việc thả hồn lơ đãng, những cái khác đâu có thay đổi gì nhiêu.”
“Thế à…”
“Ừm. Anh cũng không hiểu rõ chính mình nữa. Hồi anh trai anh bị bệnh, anh đã gắng sức làm mọi việc với nguyện ước rằng anh trai sẽ khỏi bệnh, nhưng anh làm thế chỉ vì anh trai mình, chứ bản chất anh không phải một người biết chú tâm và nỗ lực như thế. Hồi cấp ba, anh u ám và làm mọi việc một cách hời hợt, nhưng đó là vì anh buồn rầu khi anh trai mất, chứ không phải vì anh suy nghĩ sâu sắc, nặng nề gì. Bây giờ anh không còn buồn rầu như trước, cũng không nỗ lực hết mình vì chuyện gì, nên anh không rõ con người mình thực ra là thế nào nữa.”
Tôi cảm thấy kỳ cục khi bị gọi là Jesus, nhưng cũng không biết chính xác bản thân mình là người như thế nào.
“Thế sao.”
Ba năm học cấp ba, Uemura đã luôn để ý tôi, lẽ ra lúc này cô ấy có thể đưa ra một lời nhận xét gì đó về bản chất của tôi mới đúng, vậy mà cô ấy chỉ ừ hử rồi thôi.
“Em nghĩ sao?”
“Thỉnh thoảng em cũng nghĩ về chuyện đó.”
“Thế á?”
Trước câu nói bất ngờ của Uemura, tôi lắng tai lên nghe. “Con người thật sự của mình rốt cuộc là gì. Chuyện đó là chủ đề muôn thuở mà.”
“Ừm, em nói phải.”
“Anh thấy đó, em ghét thịt gà nhưng lại ăn được gà rán KFC. Đó là vì em quá cứng đầu ư? Hay là vốn em thích ăn thịt gà, chỉ là không nhận ra thôi? Hay vì cách nêm nếm của KFC quá ngon nên đó là điều đương nhiên? Em đã luôn nghĩ về điều đó, nhưng giờ vẫn chưa có câu trả lời.”
Uemura nói vậy với vẻ nghiêm túc, đoạn nói thêm “Riêng bánh quy thì dù không phải là sản phẩm của KFC em cũng thích”, rồi cô phết mật ong lên bánh quy.
“Đôi lúc anh có cảm giác mình bị bẻ lái sang hướng khác.” “Về cái gì cơ?”
Uemura ngơ ngác nhét miếng bánh quy vào miệng.
“Không có gì, thôi kệ đi.”
Đành vậy. Nghĩ mãi về một chuyện mà nghĩ bao nhiêu cũng không ra thì chẳng ích lợi gì. Tôi cũng đưa miếng bánh quy nóng lên miệng.
2.
“Có cái này bữa tối sẽ ngon hơn nhiều.”
Đặt chiếc lò vi sóng lên trên tủ lạnh xong, Tsukahara nói nét mặt ấm áp.
“Cảm ơn mày.”
Tuy chiếc lò vi sóng to kềnh đặt chông chênh bên trên chiếc tủ lạnh bé xíu, nhưng tôi cảm thấy may mắn vì có nó. Tôi nói lời cám ơn chân thành. Sau khi lên đại học, tôi lập tức bắt đầu cuộc sống một mình. Tôi phải tự trả tiền thuê nhà, tiền điện nước, tự nấu ăn và giặt giũ. Cho tới khi quen hẳn, nhiều lúc tôi cũng bối rối không biết phải làm cái này cái kia ra sao, nhưng sống một mình thật tự do và dễ chịu.
Thật vững tâm khi có ai đó để chia sẻ nỗi buồn. Sau khi anh tôi mất, sợi dây gắn kết giữa gia đình tôi trở nên mạnh mẽ hơn bình thường. Nhưng đồng thời nó cũng tạo nên cảm giác nặng nề, bức bối. Khi có người chia sẻ nỗi buồn cùng chúng ta, chúng ta sẽ thấy yên tâm hơn, nhưng việc ở bên người đó không khiến cho nỗi buồn ấy vơi đi chút nào. Trái lại, càng ở bên người đó, nôi buồn càng trở nên sâu sắc hơn. Đương nhiên không phải mình tôi cảm thấy thế. Vậy nên, mặc dù nói “Nhà mình còn nhiều phòng trống mà”, nhưng mẹ tôi vẫn cười và gói ghém đồ cho tôi chuyển đến nhà trọ. Còn bố tôi thì vui vẻ kể lại những gian khó thời ở trọ một mình hồi sinh viên của ông.
Chung cư tôi ở cách nhà năm ga tàu điện. Một khoảng cách vừa khéo. Thỉnh thoảng khi về nhà, tôi cảm nhận được rằng mình đúng là cậu con
trai của nhà này, cảm giác ấy còn mạnh mẽ hơn hồi tôi sống cùng bố mẹ nữa. So với hồi sống dưới cái bóng của anh trai, giờ đây tôi đã cảm nhận được một cách đúng đắn tình yêu thương của bố mẹ dành cho mình. “Chỉ cần có thêm cái giường nữa là hoàn hảo.”
Tsukahara nhìn một lượt quanh phòng tôi.
“Không cần đâu, đằng nào cũng chẳng có chỗ mà kê.”
“Có giường nhàn lắm đấy. Không cần phải trải chăn nệm mỗi lần đi ngủ, nên lúc nào buồn ngủ là được ngủ luôn. Ba năm sau tao sẽ thay cái giường mới, ráng đợi tới lúc đó nhé.”
“Ba năm nữa ấy à?”
Tsukahara không phải một người quen mặt, mà là một người bạn thật sự của tôi. Chúng tôi học cùng nhau một số môn, thỉnh thoảng còn cùng nhau ăn trưa. Cậu có vẻ thích đồ mới, mỗi lần thay món gì cậu đều cho tôi món đồ cậu không dùng tới nữa. Vừa có bạn mới, tôi lại khám phá ra lợi ích không ngờ đó.
“À phải rồi. Vở ghi chép của mày được chuyền vòng quanh dữ lắm đấy. Chúng nó chuyền tới tay tao để tao chép cuốn đó đến ba lần rồi.” Có lẽ vì nhiều tuổi hơn tôi do thi lại đại học một năm nên Tsukahara thường hay lo lắng bảo bọc cho tôi.
“Không sao đâu.”
Tôi cắt một miếng pizza - đồ ăn tôi gọi về để cảm ơn về chiếc lò vi sóng - rồi đặt vào đĩa Tsukahara.
“Thấy mày thật lòng nói thế, nể mày thật. Mày rộng rãi thật đấy.” Tsukahara nhét gọn miếng pizza vào miệng. Cách ăn uống của Tsukahara lúc nào cũng ngon lành như thế.
“Lò vi sóng mày cho đi được mà vở lại không cho người khác mượn được à?”
“Tao chỉ cho mày thôi. Vả lại sau đó mày lại mời tao pizza. Còn vở của mày thì được chuyền tới tay cả những đứa mày không biết.” “Ra là thế.”
“Nếu tao cho mượn, tao sẽ tính phí đấy. Một người một trăm yên, mười người cũng được một nghìn yên rồi. Vở của mày được hai mươi thằng chuyền tay nhau, nên sẽ được hai nghìn yên.”
Số tiền này còn nhiều hơn tiền công làm thêm một giờ nữa. Tôi hơi hối hận vì ngay từ đầu không thu tiền của tụi cùng lớp.
“Có thể làm theo cách đó sao?”
“Đương nhiên. Nếu có số tiền đó thì căn phòng này cũng được trang bị tươm tất hơn rồi.”
Mỗi lần tới đây, Tsukahara lại càm ràm rằng “Lần nào tới củng thấy phòng này sơ sài quá.” Trong phòng chỉ có một chiếc bàn nhỏ và đệm ngồi. Phòng chỉ rộng sáu chiếu nên như vậy là bình thường.
“Không phải phòng tao ít đồ, mà là phòng mày nhiều đồ quá thôi.” Tôi đã vài lần tới căn hộ của Tsukahara, phòng cậu ta nhiều đồ đến ngộp thở. Dàn loa, ti vi rồi tới sô pha; đống đĩa CD, sách vở, quần áo cùng các mô hình trang trí vứt lăn lóc khắp nơi.
“Phòng thế mới là bình thường. Như thế mới ra dáng phòng của một người còn sổng chứ.”
Tsukahara nói với vẻ tự hào.
“Phòng nhiều đồ thì dọn dẹp mệt lắm.”
Tôi nhìn quanh phòng mình. Từng này thứ là đủ rồi.
Lúc anh tôi mất, việc thu dọn đồ đạc anh tôi để lại đã khiển gia đình tôi băn khoăn trăn trở không ít. Chúng tôi thậm chí khống biết việc giữ nguyên mọi thứ như vậy có phải là đúng đắn hay không. Có những món đồ trực tiếp gắn bó với anh, nhưng cũng có những món chỉ gợi ra nỗi đau buồn của chúng tôi, nên chúng tôi đã phải phiền não suy nghĩ một thời gian dài.
“Bạn gái mày không ý kiến gì à?”
“Cô ấy chỉ bảo cách bài trí phòng này kỳ cục thôi.”
Nhớ tới dáng vẻ của Uemura, tôi phì cười. Căn chung cư này xây đã hơn bốn mươi năm, dù được giữ gìn sạch sẽ cẩn thận, nhưng không thể phủ nhận sự cũ kỹ của nó. Uemura thấy kỳ cục nhất là kệ bếp và phòng tắm nằm ngay lối vào, vậy mà bồn rửa mặt lại nằm tít phía trong cùng của căn phòng. Lần nào tới cô cũng kêu lên “Sao bồn rửa mặt lại xây ớ chỗ đó nhỉ?”
“Ra thế. Chà, no căng bụng rồi. Tối nay tao ngủ ở đây nhé.” Sau khi ăn đầy một bụng pizza, Tsukahara nằm lăn ra trên chiếu. “Ngủ lại đây á? Giờ mới là năm giờ chiều thôi mà?”
“Ừ. Khuân lò vi sóng và ăn xong pizza làm tao mệt quá.” “Nhưng tối nay tao phải đi làm thêm đấy.”
“Không sao. Tao sẽ tắm rồi ngủ trước, đừng lo.”
Đôi mắt Tsukahara đã díp cả lại.
Một chiếc lò vi sóng và một người bạn. Thật nhiều thứ đã đến bên tôi khi tôi bối rối không biết phải làm sao như thế này.
3.
Khi quyết định con đường tương lai của mình, Uemura đã nói với tôi rằng đại học là một nơi tự do. Cô ấy nói tôi có thể thẩn thơ nghĩ ngợi bao nhiêu tùy thích.
Điều đó không hẳn sai, nhưng những việc tôi cần làm nhiều đến không ngờ. Việc học không bận rộn đến vậy. Tôi chỉ cần lơ đãng ngồi đó, thỉnh thoảng ghi chép bài là đủ. Dù rằng thỉnh thoảng tôi cũng điểm danh hộ nhiều người và cho nhiều cậu bạn chỉ biết mặt mũi sơ sơ mượn vở.
So với việc học, thì việc đảm bảo cuộc sống sinh viên bận rộn hơn nhiều. Tiền sinh hoạt phí cần thiết hơn cả. Bố mẹ đã trả tiền học phí cho tôi dù tôi đi học chẳng vì mục đích lớn lao gì, nên tôi không muốn bố mẹ phải gánh vác cả chi phí sinh hoạt cá nhân của tôi nữa. Thành ra tôi đã dành tất cả thời gian ranh rỗi của mình để cần mẫn đi làm thêm.
Thông thường, tôi làm việc ở cửa hàng sách trước ga từ chiều tối, thỉnh thoảng tôi cũng sẽ làm thêm việc chuyên nhà cho người khác.
“Cho hỏi tờ Tokyo Walker ở đâu ạ?”
Phải rồi, hôm nay là thứ Ba. Một điểm tiện lợi của công việc ở cửa hàng sách chính là bạn sẽ biết hôm đó là ngày bao nhiêu và thứ mấy dựa vào ngày mở bán tạp chí.
“Nó vẫn được đặt ở chỗ mọi khi đó.”
Vừa tiếp tục công việc tôi vừa trả lời.
“Nhân viên kiểu gì khó chịu thế? Gọi chủ cửa hàng tới đây cho tôi.” “Được rồi, được rồi. Nó ở đây này.”
Tôi dẫn Uemura vào góc tạp chí thông tin.
Uemura rất hay ghé tới cửa hàng sách nơi tôi làm thêm. Cô bảo mình chẳng đọc sách bao giờ, rồi nói tiếp để tôi phải thấy biết ơn rằng, “Ở cửa hàng tiện lợi cũng bày bán, vậy mà em vẫn cất công tới chỗ làm thêm của anh để mua đấy. Thấy em tốt bụng chưa.” Một tháng cô tới chỗ tôi hai lần để mua tờ Tokyo Walker.
“Thấy anh bán thứ gì đó thế này em cảm động lắm.”
“Anh biết mà. Đồ của quý khách là ba trăm năm mươi yên.” “Anh trả lại tiền thừa giúp em nhé.” Uemura nói rồi đưa đồng xu năm trăm yên ra.
“Vâng, ừm, xin trả lại quý khách một trăm năm mươi yên. Quý khách có cần túi đựng không ạ?”
Vì Uemura thích nghe nên tôi dùng cách nói của nhân viên với khách để nói với cô nàng.
“Không cần đâu anh. Ồ, đúng một trăm năm mươi yên thật này. Nửa năm trước anh suốt ngày nhìn xa xăm, vậy mà giờ đây anh tính được cả tiền thừa nữa. Giỏi quá đi!”
Uemura trầm trồ thán phục, nhưng việc tính toán này thực ra là do máy tính làm giúp.
“Mấy phép tính trừ vớ vẩn này anh đã thành thạo từ hồi học lớp hai rồi.”
“Thế à? Hóa ra anh là thần đồng cơ đấy.”
“Mà này, sắp tới giờ nghỉ giải lao ba mươi phút của anh rồi, chúng
mình cùng ăn gì đó đi.” Tôi nói nhỏ.
Bác Yamaguchi - người thường hay có ca làm cùng tôi -đã nhận ra sự có mặt của Uemura, bác vừa xếp sách vừa cười cười. Bác là một bác gái tốt bụng, bác đã chỉ bảo tôi nhiều thứ, bác rất thích nghe về chuyện yêu đương của người khác nên lúc nào củng muốn hỏi tôi về Uemura.
“Vâng. Vậy em đợi anh ở McDonald’s nhé.”
Uemura cất tiếng chào bác Yamaguchi rồi ra khỏi cửa hàng.
Vừa tới McDonald’s, Uemura liền chơi với mấy đứa bé ở bàn bên cạnh trong lúc chờ đợi tôi.
“Xin lỗi nhé, để em phải đợi rồi. Ồ, chào cháu.”
Tôi nhấn tiện chào luôn mấy đứa bé đang chơi cùng Uemura, cô liền cười bảo:
“Anh Hayama thích trẻ con lắm đúng không?”
“Anh không chắc nữa. Nhưng khi thấy một đôi anh em thế này anh sẽ rất vui.”
Ở bàn bên cạnh, hai cậu bé có gương mặt giống hệt nhau vừa ăn khoai chiến vừa cười đùa và nhìn sang phía chúng tôi. Thấy tôi cười đáp lại, chúng liền giấu mặt sau lưng mẹ vì xấu hố, rồi lại ăn khoai chiên và lại nhìn sang chúng tôi. Hai anh em có vẻ thích thú lặp lại việc này nhiều lần.
“Anh em anh có thân nhau như vậy không?”
“Ký ức thời nhỏ của anh mơ hồ lắm, nhưng anh nghĩ hai anh em mình cũng khá thuận hòa.”
“Thế à.”
Tôi ừng ực uống ngụm nước cam mà Uemura mua trước đó cho mình.
Nước cam chua chua làm đầu óc tôi tỉnh cả ra.
“Em cũng rất thích trẻ con đúng không?”
“Đương nhiên rồi. Thế nên em mới theo học khoa Giáo dục Mầm non thế này chứ. Bản năng làm mẹ của em mạnh hơn người khác đến tám mươi lăm lần đấy.”
Hồi cấp ba, Uemura đã nhắc tới chuyện muốn trở thành cô giáo nuôi dạy trẻ rồi.
“Mẹ em cũng là giáo viên mầm non à?”
“Không, chắc là không phải đâu.”
“Ồ. Thế bố em làm công việc gì? Nói tới đây mới nhớ, anh vẫn chưa biết chuyện này.”
Tôi chỉ biết rằng Uemura là con một. Mấy chuyện linh tinh thì biết rõ, vậy mà không ngờ những chuyên cơ bản về cô ấy tôi lại chẳng biết gì. “Ừm, đúng là thế thật. Thế bố mẹ anh thì sao?”
“Bố anh làm việc trong một phòng nghiên cứu liên quan đến thực phẩm gì đó. Nghĩ kĩ thì anh cũng không biết rõ về công việc của bố mẹ lắm.”
“Đúng thật.”
“Đúng thật ư, rồi sao?”
“Rồi sao cái gì cơ?”
“Ý anh là bố mẹ em làm công việc gì ấy.”
Tôi không nên hỏi những câu như thế này ư? Cảm thấy không khí chững lại, tôi uống thêm một ngụm nước cam.
“Ở nhà em không có bố mẹ.”
“Ủa… Ý em là sao?”
“Em không có bố mẹ.”
Uemura nhẹ nhàng nói vậy. Trước câu trả lời ngoài dự kiến, trong một lúc tôi chưa thế hiểu ngay được.
“Hả?”
“Ở nhà em chỉ có ông và bà thôi. Không có bố mẹ, chỉ có ba người, là em, ông và bà sống cùng nhau.” Uemura giải thích một cách ngắn gọn. “Chuyện đó nghĩa là sao?”
“Thì nghĩa là như thế đó. Ngay từ đầu em đã không có bố mẹ rồi.” “Anh chẳng biết tí gì về chuyện này cả.”
Ngơ ngác trước thông tin đột ngột, một lúc sau tôi mới nói được như vậy.
“Vì em chưa kể cho anh mà.”
“Anh thực sự không biết gì cả.”
“Thì em có kể đâu mà anh biết. Lúc hẹn hò với anh chẳng lẽ em phải báo cáo về hoàn cảnh gia đình mình hay sao?”
“Ý anh không phải vậy. Nhưng sao em không kể cho anh?” Nếu hai người hẹn hò với nhau, không phải thường người ta sẽ biết những chuyện này về nhau sao?
“Tiếc là em không thích hé lộ những chuyện tồi tệ và những chuyện bất hạnh trong quá khứ tí nào.” Uemura nói với vẻ ngán ngẩm. “Nhưng mà anh muốn biết. Anh muốn biết mọi chuyên về em, đặc biệt là, nói thế nào nhỉ, nếu em cho anh thấy những điểm em không thể cho người khác thấy, anh sẽ cảm thấy rất yên tâm. Anh sẽ yên tâm rằng anh đã tiến được thêm một bước tới gần tâm hồn em hơn.”
“Vậy để em để dành những chuyện không mấy khi cho người khác biết
cho tới lần gặp tiếp theo nhé.”
Uemura vừa nhai khoai tây vừa nói, như muốn thể hiện rằng mình chẳng định nghiêm túc kể ra.
Tôi đã tưởng mình đang từng bước tiến gần tới bên Uemura, vậy mà giờ lại có cảm giác cô ấy vừa chỉ cho tôi thấy khoảng cách không thể lấp đầy giữa chúng tôi. Và điều làm tôi buồn nhất là Uemura không định làm gì để cải thiện chuyện đó. Là tôi đang sai u? Tôi chợt thấy hoang mang, buồn bã, thất vọng, cảm giác rối bời bỏ quên tôi bấy lâu nay giờ lại quay trở lại.
“Ngẩm lại thì anh chưa thấy Uemura khóc bao giờ cả.”
“Thế ư? Mấy hôm trước lúc ngón chân út của em vấp vào góc tủ em đã rơm rớm nước mắt đấy.”
“Không phải chuyện đó.”
“À, còn có lần khi chúng ta cùng nhau xem phim, em định khóc nhưng thấy anh Hayama khóc trước rồi nên chẳng thế khóc được nữa.” Uemura đã từ bỏ việc nói chuyện nghiêm túc. Dù có nói thêm bao nhiêu nữa, câu chuyện cũng sẽ không có tiến triển gì. Rồi đầu óc tôi sẽ sao nhãng đi khi vẫn chưa nắm được thông tin gì cả. Những lúc thế này tôi nên làm gì nhỉ? Những lúc tôi không hiểu chính mình, không hiểu những việc xảy ra trước mắt, tôi nên làm thế nào? Một câu nói chợt nổi lên trong bộ não đang xoay mòng mòng của tôi:
“Anh hiểu rồi. Anh sẽ đi Thái.”
“Thái là cái gì cơ?”
Uemura chau mày trước lời tuyên bố của tôi. Bị Uemura nhìn với ánh mắt nghi hoặc, tôi cũng đâm ra ngạc nhiên trước khí thế của mình.
“Là vương quốc Thái Lan đó. Không phải em đã nói chúng ta có thể sang Thái Lan hay Ấn Độ để đi tìm chính mình, đó chính là điểm tốt của cuộc sống sinh viên sao?”
“Em từng nói thế thật à?”
“Ừ. Nên anh sẽ đi Thái.”
Ở Thái có người và có Phật. Chắc chắn ở đó sẽ có nhiều thứ mà Nhật Bản không có.
Tôi cảm giác như nếu mình đi Thái trong lúc chẳng có chút tri thức nào như hiện tại, tôi sẽ hiểu ra điều gì đó.
“Anh Hayama đôi khi bốc đồng nhỉ.” Uemura chăm chú nhìn vào mắt tôi nói.
“Làm gì có.”
“Hồi đó anh cũng đột nhiên chọn một trường đại học còn gì.” “Thì đúng là như vậy.”
“Thái là nước có nhiêu tín đồ Phật giáo đúng không? Nếu đã mất công đi, không phải anh nên tới Palestine hay La Mã sao?”
“Không, không hẳn vì Jesus chỉ là biệt danh nên anh không quan tâm, mà vì anh đi để tìm kiếm con người mình, chứ không đi để giác ngộ ra điều gì cả.”
“Nếu thế thì đi Thái rất tốn kém, đi Hokkaido hay Kyushu cũng được chứ sao. Dù sao việc xin visa cũng rất phiền phức.”
“Không sao, Thái là được rồi. Mà không, anh nhất định phải đi Thái.” Đúng vậy. Thái là một nơi tốt đẹp. Càng nhắc lại điều đó, tôi càng tin vào điều đó hơn. Tôi chưa từng đi nước ngoài bao giờ, nhưng chắc chắn là như thế.
“Thế sao? Ừm, tuy việc đi tìm bản thân nghe rất phiền phức, nhưng em ủng hộ anh.”
Uemura nói như thể đó là chuyện của một người dưng vậy.
4.
Bầu không khí ở Thái Lan là một bầu không khí hỗn độn khác hẳn với Nhật Bản. Một đất nước tràn đầy sinh lực. Sâu bên dưới đáy là một lịch sử lâu đời đang lặng lẽ hít thở. Những công trình bê tông cốt thép hay những tòa nhà cao tầng cũng không thể làm gián đoạn hơi thở của lịch sử ấy, và hơi thở lịch sử đó đã phả thẳng vào thân thể tôi khi tôi đang đứng ở noi này.
“Ở đây, ở đây! Anh khách tham gia Friendly Happy Tour bốn ngày khám phá vẻ đẹp của Thái Lan ơi, mau mau lên xe đi ạ.”
“Vâng, xin lỗi, tôi lên luôn đây.”
Đang chìm đắm trong dòng cảm xúc sâu lắng đó thì tôi sực tính trước câu nói của anh hướng dẫn viên, bèn vội vã leo lên chiếc xe bus nhỏ của đoàn.
“Này anh bạn trẻ, anh thả hồn mơ mộng cũng được thôi, nhưng không nên làm trễ lịch trình của tập thể như vây.”
“Cháu xin lỗi ạ.”
Tôi cúi đầu xin lỗi khách tham quan trên xe bus.
Chuyến đi tìm kiếm bản thân chẳng hiểu sao đã chuyển thành tour tham quan cảnh đẹp. Bởi đã tuyên bố với Uemura như vậy nên tôi muốn ngay lập tức xách ba lô đi luôn. Ngày tuyên bố câu đó, tôi đã đi thẳng tới một đại lý du lịch, và chuyến đi này là chuyến đi rẻ nhất, sớm nhất còn đặt được. Họ nói với tôi “Được lợi hơn mua vé máy bay nhiều đấy anh ạ. Tour này kèm theo bữa ăn, khách sạn và hướng dẫn tham quan nữa. Khách
sẽ được dẫn tới vài cửa hàng đồ lưu niệm, nhưng không mua cũng không sao cả.” Tôi đáp “Ồ, đúng là như thế thật”, mới hỏi đáp được vài câu như thế thì đã tới giờ xuất phát.
Đường từ Nhật qua Thái tôi đi một mình, nhưng vừa tới Băng Cốc tôi liền nhập hội với một hướng dẫn viên nói tiếng Nhật lơ lớ, một đôi nam nữ trẻ có vẻ như đang đi tuần trăng mật, và một nhóm các bác gái lớn tuổi đến từ vùng Kansai.
Quả là một tour du lịch tham lam, chúng tôi vừa đến nơi đêm hôm trước thì sáng sớm hôm sau đã lên xe bus và được dẫn đi tham quan. Cứ liên tục lên và xuống xe bus để đi một lượt qua nơi này nơi kia. Đến mức tôi quên cả mất mình đang đi tham quan địa điểm nào.
“Tiếp theo là chương trình mà mọi người mong đợi nhất, đó là cưỡi voi. Voi đó. Một con voi rất to. Chắc chắn mọi người sẽ phải giật mình cho xem!”
Anh hướng dẫn viên du lịch nói. Chúng tôi lục tục xuống khỏi xe bus. Trong công viên lớn, năm con voi đang chậm rãi bước đi. Có vẻ nơi đây là điểm tham quan phổ biến nên rất nhiều khách của các đoàn tham quan khác cũng đang tập trung tại đây. Cả voi lẫn những người Thái phục vụ nơi đây đều bình thản cho khách lên cưỡi voi rồi dắt đi một vòng, như thể họ đang thực hiện một khâu quen thuộc trong dây chuyền sản xuất vậy. Tiếp sau cặp đôi tân hôn hò hét sung sướng, và nhóm các bác gái thán phục rằng “voi to thật đấy”, tôi một mình trèo lên cưỡi voi. Quá trình trèo lên này chẳng dễ dàng chút nào.
Hồi cấp ba, trong giờ nghỉ tôi chẳng chơi với ai, chỉ ngồi đọc sách một mình. Thế nên việc ở một mình lẽ ra rất quen thuộc và dễ dàng với tôi mới đúng, nhưng khi tới những nơi vui vẻ thế này tôi lại thấy thật khó
khăn. Những ánh mắt như muốn nói “Hả? Anh ta đi một mình sao?” chĩa về phía tôi khiến tôi rất đau. Có lẽ chú voi này cũng chẳng mấy khi chở duy nhất một vị khách như vậy. Nghĩ tới đó, tôi chợt thấy có lỗi với chú ta. Dù chắc là chú ta chẳng để ý tới những chuyện đó, chỉ chậm chạp bước đi và khiến tôi bị mọi người xung quanh nhìn với ánh mắt hiếu kỳ mà thôi. “Tôi chụp ảnh cho cậu rồi này.”
Xuống khỏi mình voi, một bác gái tóc xoăn xù mì mở cho tôi xem màn hình chiếc máy ảnh kỹ thuật số của bác.
“Cảm ơn bác ạ.”
Dù tôi chẳng cần tới bức ảnh một mình cô đơn trên lưng voi làm gì, nhưng tôi vẫn nói lời cảm ơn bác ấy.
Giờ tôi đã đến Thái, nhưng việc này có giúp tôi nắm được điều gì không? Tôi dần trở nên lo lắng. Rất có thể chú voi sẽ cho tôi biết điều gì đó. Giống như lần tôi chui vào bao tải gạo vậy, bằng việc leo lên cưỡi voi - một việc tôi chẳng làm bao giờ - có thể tôi sẽ hiểu ra điều gì đó. Tôi ngước nhìn chú voi mình vừa cưỡi. Đôi mắt voi trống rỗng. Chú voi đã chở trên vai bao nhiêu lượt khách đó chắc cũng có nhiều suy nghĩ cho mình. Voi ơi, tao cũng vậy đấy. Vừa định vươn tay chạm vào mình voi thì giọng nói tiếng Nhật lơ lớ của anh hướng dân viên lại vọng tới:
“Chúng ta đi tiếp nào mọi người. Mọi người lên xe bus nhé.” Thời gian ở lại mỗi điểm tham quan thật ngắn ngủi. Tôi chẳng có thời gian để mà ủy mị hay tìm kiếm bản thân. Đây là một tour du lịch với lịch trình thăm thú kín đặc. Tôi nói lời tạm biệt với chú voi và nhanh chóng trở lại chiếc xe bus để không bị các bác gái trách mắng.
Phế tích Ayutthaya chúng tôi đi thăm từ buổi trưa thật kỳ vĩ. Cảnh tượng dễ dàng khiến đầu óc tôi suy nghĩ lung tung, nhưng tôi thật sự bị