🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Brésil Đỏ - Jean-Christophe Rufin full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo BRÉSIL ĐỎ Jean-Christophe Rufin Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB Tên sách: BRÉSIL ĐỎ Tác giả: Jean-Christophe Rufin Nguyên tác: Rouge Brésil Dịch giả: Dương Linh Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn Năm xuất bản: 2004 Số trang: 751 Khổ: 13 x 19 cm Giá bìa: 75.000 đồng Đánh máy: Minh Khuê, Hải Yến, Đông Thy, Ngọc Hằng, Thành Luân, Hồng Nhung, Thùy Trang, Thu Hương, Cẩm Nhung, Phương Vân, Hồng Anh, Kim Ngân, Thúy Hường, Thanh Hồng Kiểm tra: Minh Huy, Phước An, Thanh Hoa Chế bản ebook: Thảo Đoàn Ngày thực hiện: 21/02/2012 Making Ebook Project #231 – www.BookaholicClub.com Bạn đang đọc ebook BRÉSIL ĐỎ của tác giả Jean-Christophe Rufin do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project). Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn. Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc – người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc. Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách. MỤC LỤC GIỚI THIỆU TÁC GIẢ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM I. TÌM TRẺ NHỎ ĐƯA SANG XỨ SỞ ĂN THỊT NGƯỜI CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 II. VỊNH GUANABARA CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 III. LINH HỒN VÀ THỂ XÁC CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 IV. SIENNE CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 PHẦN KẾT VỀ XUẤT XỨ CỦA BRÉSIL ĐỎ GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Vị bác sĩ hai lần đoạt giải Goncourt JEAN-CHRISTOPHE RUFIN sinh ngày 28 tháng 6 năm 1952. Khi thi đậu vào Trường Đại học Y khoa, chắc hẳn Jean-Christophe Rufin không nghĩ rằng ông sẽ thành đạt bằng nghề viết lách, chứ không phải bằng con dao mổ. Ngày 6.11.2001 Rufin đã đăng quang lần thứ hai trên văn đàn Pháp. Tác phẩm “Rouge Bresil” (Brazil Đỏ) đoạt giải Goncourt – giải thưởng văn học cao quý nhất nước Pháp. Rufin còn là một nhà hoạt động xã hội lớn. Ông đã từng giữ chức Phó Chủ tịch Hiệp hội Bác sĩ không biên giới – tổ chức đoạt giải Nobel Hoà bình năm 1999. Tại vòng bỏ phiếu thứ 10 của giải Goncourt năm nay, Rufin đã chiến thắng nhờ hơn đúng có một phiếu. “Tôi đã khóc như một đứa trẻ khi hay tin này. Tôi đã thuyết phục mình rằng tôi sẽ không đoạt được giải này” – bác sĩ Rufin thổ lộ với kênh truyền hình LCI. Địa điểm hội đồng giám khảo Goncourt gặp hàng năm để chọn tác phẩm trao giải “lãng mạn theo đúng kiểu Pháp” – đó là nhà hàng Drouant ở Paris. Giá trị vật chất của Goncourt chẳng nhiều nhặn gì – chỉ vẻn vẹn khoảng 7USD, song nó vẫn được coi là giải thưởng văn học danh giá nhất nước Pháp, bởi thu hút được sự chú ý lớn của báo chí và khiến tác giả ngay lập tức trở thành người nổi tiếng, còn tác phẩm được phát hành với số lượng vô cùng lớn. “Rouge Bresil” là cuốn tiểu thuyết lịch sử thuật lại cuộc chinh phục của Pháp ở Brazil thời kỳ Phục hưng qua con mắt của hai đứa trẻ đi tìm cha mẹ mình. Just, cậu con trai sau trở thành quan chức trong bộ máy thực dân, còn Colombe, cô con gái lại đứng về phía những người da đỏ. Cô là đường dây độc đáo dẫn người đọc đi qua thế giới của người da đỏ mà giờ đây không còn tồn tại nữa. “Đây là loại tiểu thuyết sinh thái học, nếu ta có thể gọi được như vậy. Đó là sự đối đầu giữa hai khái niệm khác nhau về thiên nhiên” – Rufin nhận xét. Rufin bắt đầu cầm bút năm 1997 và ngay lập tức ông đoạt giải Goncourt cho tác phẩm đầu tay “L’Abyssin” (Người Abyssinia), Abyssinia là tên gọi cũ của Ethiopia. Hai năm sau với tác phẩm “Les Causes perdues” (Những mục tiêu bị đánh mất) kể về những sự mập mờ trong các hoạt động cứu trợ nhân đạo, Rufin đã đoạt một giải thưởng văn học khác. Ngao du nhiều nơi theo các hoạt động của tổ chức Bác sĩ Không biên giới, Rufin đã đưa vào tác phẩm của mình những vùng đất liên quan đến lịch sử nước Pháp. “Người Abyssinia” đưa người đọc trở về năm 1699, khi Vua Louis XIV cử đại sứ đến yết kiến Negus, Quốc vương Abyssinia với hy vọng sẽ lôi kéo được đất nước này vào quỹ đạo chính trị và tôn giáo của Pháp. Jean Baptiste Poncet, chàng dược sĩ trẻ chuyên bào chế thuốc cho các tổng trấn ở Cairo được Lãnh sự Pháp chọn dẫn đầu phái đoàn này. Họ đã vượt qua sa mạc Ai Cập và vùng núi hiểm trở của Abyssinia để đến cung điện của Negus, sau đó trở về Versailles, rồi lại quay trở lại. Trên đường đi chàng đã phải lòng con gái viên lãnh sự, chữa chứng bệnh kỳ dị về da cho Negus và tiếp kiến Vua Louis tại Pháp. Trong phần hai của cuốn tiểu thuyết có tên gọi “The Siege of Isfahan” (Vòng vây ở Isfahan), Rufin đưa Jean-Baptiste Poncet đến những vùng đất huyền bí như Ba Tư, Nga trong bối cảnh 20 năm sau đó. Ngoài mối quan hệ với Vua Louis XIV, Poncet còn trở thành bạn của Quốc vương Ba Tư Shah và Sa hoàng Peter Đại đế. Trong một chuyến đi ở Trung Đông, vợ và con gái ông rơi vào vòng vây của quân đội Afghanistan và trở thành vật mặc cả của Quốc vương Mahmud. Bên cạnh sự hiểu biết uyên bác về Trung Đông và Nga, Rufin đã tiếp tục hoàn thiện phong cách viết lôi cuốn, huyền ảo với bố cục vô cùng chặt chẽ. Nguồn: Lao Động, 10.11.2001 GIỚI THIỆU TÁC PHẨM Các cuộc chinh phục Brazil của người Pháp là một trong những sự kiện kì lạ nhất và ít được biết đến nhất của thời kỳ Phục hưng. Brésil đỏ kể câu chuyện của hai đứa trẻ, Just và Colombe, bị ép tham gia chuyến thám hiểm để làm thông dịch viên với các bộ tộc da đỏ. Mọi thứ trong cuộc phiêu lưu này đều quá mức. Khung cảnh: vịnh Rio hoang dã vẫn còn các khu rừng rậm và các bộ lạc da đỏ ăn thịt người. Các nhân vật – trước tiên là hiệp sĩ Villegagenon, người đứng đầu cuộc thám hiểm, hoài cổ về các cuộc thập tự chinh, chì đắm trong nền văn hóa cổ xưa, tiền thân của D'Artagnan hay Cyrano. Các sự kiện: vụ xử kín kịch tính của Pháp miền nhiệt đới là sự lặp lại cuộc chiến tranh tôn giáo mười năm trước. Đầy ắp những chân dung, phong cảnh, hành động, Brésil đỏ, được viết bằng một ngôn ngữ mỉa mai kiểu Voltaire, có dạng của một cuốn tiểu thuyết giáo dục và tình yêu. Nhưng sâu xa hơn, thông qua việc số phận và những lựa chọn của Just và Colombe, cuốn sách này đưa ra hai quan niệm đối lập về con người và thiên nhiên. Một mặt, nền văn minh châu Âu, thích chinh phục và toàn cầu, muốn giải phóng và gây chết chóc. Mặt khác, thế giới của người da đỏ, với những cảm xúc nhục dục, ý nghĩa của sự hòa hợp và cái thiêng liêng, tiếng gọi thường trực của hạnh phúc... Well Leon dịch “Cet ouvrage, publíe dang le cadre du programme de participation à là publication Nguyen Van Vinh, bénéficie du soutien du Centre Culturel et de Coopération de l’ Ambassade de France en République Socialité du Vietnam.” “Cuốn sách này xuất bản trong khuôn khổ chương trình hợp tác xuất bản Nguyễn Văn Vĩnh, được sự giúp đỡ của Trung tâm Văn hóa và Hợp tác Đại Sứ quán Pháp tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: Rouge Brésil © Gallimard, Paris Tôi đã quen biết lâu một người từng sống mười, mười hai năm ở cái thế giới mới được khám phá vào thế kỷ này, ở chính nơi mà Villgagnon đổ bộ, và đặt tên là nước Pháp Nam cực… MONTAIGNE Tiểu luận, I, XXXI. I. TÌM TRẺ NHỎ ĐƯA SANG XỨ SỞ ĂN THỊT NGƯỜI CHƯƠNG 1 - Kính thưa Đức Ông, Ngài thử tưởng tượng một người nhìn thấy vạc nước sôi sùng sục sắp luộc chín mình, thì sẽ có cảm giác thế nào. Nói rồi, người thủy thủ đưa mắt u sầu nhìn đống than hồng. Người Anh điêng nhổm người lên, kêu: - Nói bậy! Nói bậy! - Sao, bậy ư? Dễ các người không ăn thịt đồng loại chắc? Hay mày cho cách thịt người như thế là chưa đúng, hở thằng khốn? Rồi người thủy thủ lại quay sang thưa với viên sĩ quan: - Thưa Ngài, đúng là không phải người Brésil nào cũng làm như cách bọn bắt được tôi đã làm. Một số bọn chúng còn “hun sống”, tóm lại là chúng quay chín anh. Mày chịu chưa, hở thằng khốn? Anh thủy thủ, với sức lực yếu ớt nhưng ngoan cố của một người say, túm lấy áo người Anh điêng kéo vào sát cái mũi bóng loáng của mình. Hai bên gầm ghè nhau vài giây, mắt làm ra vẻ gườm gườm. Rồi anh thủy thủ bỗng buông tay, và hai người phá lên cười ha hả, bắt tay nhau rối rít. Tháp chuông lớn nhà thờ Rouen điểm tám tiếng, và tất cả các xà rầm trong quán rượu đối diện với công trình kiến trúc lâu đời ấy lại rung lên theo mỗi tiếng ngân. Viên sĩ quan, người gày khẳng và mặt xương xẩu, trông có vẻ ảo não. Cuộc hội ngộ giữa hai người chẳng làm ông xúc động. Ông đang sốt ruột vì có việc phải lo. Đã giữa năm 1555 rồi, nếu để qua tháng sáu thì gió sẽ không thuận. Ông đập tay lên bàn, nói giọng hầm hừ như đe dọa ai: - Ai cũng biết, bờ biển nơi ta sẽ đổ bộ là rất nguy hiểm. Nhưng ý ta đã quyết: tám ngày nữa, chúng ta sẽ nhổ neo để đi thiết lập một nước Pháp mới ở Brésil. Anh thủy thủ và anh thổ dân da đỏ nhấp nhổm trong chiếc ghế đẩu ba chân. Chỉ mới nghe thấy từ Brésil, một niềm hứng khởi chưa hoàn toàn quên lãng và những hình ảnh khó có thể tả bằng lời lại đã thoáng hiện trong ký ức và tạo cho nét mặt họ một vẻ mỉa mai chua chát có lẽ chỉ là do trí tưởng tượng. Viên sĩ quan lạnh lùng nói tiếp: - Chúng tôi không còn nhiều thời giờ nữa. Hai người nói xem, có đồng ý đi cùng đoàn viễn chinh của ta để làm thông dịch với bọn thổ dân hay không? Thích thú vì được chiêu đãi bia, anh thủy thủ tìm cách kéo dài cuộc gặp mặt. Anh thì thầm, giọng lè nhè: - Thưa Đức Ông, tôi đã thưa với ngài rồi: cứ đến đấy, ngài sẽ kiếm được khối thông dịch. Đã ba đời nay, những người Noócmăng chúng tôi đều đã tới đấy để kiếm thứ gỗ đỏ rất quý tạo ra màu đặc biệt riêng cho vải nhuộm của anh em nhà Gobelins. Bọn Bồ Đào Nha thật trâng tráo, dám nói chúng là người đầu tiên khám phá miền đất ấy! Thật ra chúng tôi đã làm ăn ở đó trước chúng nhiều. Không ai nói gì, anh ta lại hăng hái: - Ngài chỉ cần cặp bờ ai hôm là sẽ có hàng chục tên từ các làng gần đó kéo đến, sẵn sàng làm thông dịch cho ngài. Viên sĩ quan tỏ vẻ mệt mỏi: - Ta đã nói rồi, hiệp sĩ Villegagnon, là người cầm đầu đoàn viễn chinh, không muốn có điều gì bất trắc. Đoàn sẽ mang đủ mọi thứ cần thiết đến đấy lập cơ sở vững chắc. Chúng ta muốn có thông dịch của riêng mình, không phụ thuộc ai hết. Mọi người trong quán đều chú ý đến đôi bạn không xứng hợp với nhau chút nào, một người da đỏ và một thủy thủ gầy nhẳng. Anh này đánh bạo hỏi: - Ngài đã nói ngày nào đi, thế là rõ. Nhưng bao giờ về, Ngài cũng phải cho biết chứ. - Không bao giờ về. Đi đây là đi lập một tỉnh mới cho Đức vua. Ai đi cùng chúng ta sẽ ở lại đấy mãi mãi. Chúng tôi sẽ cung cấp cho họ đủ mọi thứ cần thiết, song không ai được nói đến chữ về. Họ là người của nước Pháp, thì ở đó chính là nước Pháp rồi. - Ngài đã đến đó bao giờ chưa? anh thủy thủ nheo mắt tinh quái. - Chưa – viên sĩ quan lườm một cái dài. Nhưng ta đã từng phiêu bạt ở nhiều nước phương đông. Anh thủy thủ đứng dậy, cả người chỉ còn lại một chút thịt dán sát vào khung xương mà cuộc sống bôn ba chưa lấy đi hết, lấy vẻ nghiêm trang tuyên bố: - Tôi cũng từng đi biển sang phương đông. Mùi gì! Ở đấy như ở nhà mình. Châu Mỹ, thì khác. Tôi đã đi bốn lần, thật tồi tệ. Vẫn là cái xứ Brésil mà ngài nói định lập một nước Pháp mới ở đó. Đã trải đủ thứ: nào sốt rét, nào mọi ăn thịt người, may mà tôi thoát khỏi tay bọn chúng. Và bây giờ còn có lũ chó đểu Bồ Đào Nha, chúng mà chặn được thuyền ta ngoài khơi thì chúng chặt chân tay ta không thương tiếc. Ngài nghĩ tôi lấy đâu ra nghị lực để chịu đựng tất cả khổ ải ấy? Anh vung tay, đưa một vại bia lên miệng, rồi nói như để chặn trước: - Giầu sang ư, xin đừng nói tới! Vàng, vẹt, gỗ quý chỉ vỗ béo bọn chủ tàu, chúng ngồi nhà mà vơ hết. Còn thủy thủ mạt hạng chúng tôi thì ngài xem: may còn cái xác… Không, thưa ngài, ý nghĩa duy nhất khiến chúng tôi cố chịu đựng mọi hiểm nguy ấy – nói đến đây, anh ta lén nhìn người bạn da đỏ, cứ như thể anh chàng khốn khổ này là nguyên nhân gây ra những khó khăn nguy hiểm cho mình ở châu Mỹ ấy – là hy vọng chờ ngày trở về. Anh thủy thủ nắm chặt hai tay đặt lên bàn, nói thật hùng hồn và dứt khoát phần kết luận: - Rất tiếc làm ngài không vừa lòng, song thà nói ngay còn hơn, tôi không đi đâu. Viên sĩ quan ngồi cắn môi. Phải lúc khác, ông đã giọt cho tên thủy thủ hỗn láo này một trận. Nhưng nếu làm thế, e rằng những người tự do khác trong đoàn sẽ chuồn hết. Còn lại người Anh điêng. Đến lúc này, anh ta mới hiểu, nhưng quá muộn, lời khước từ thứ nhất mà anh bạn thủy thủ vừa đưa ra đã đẩy anh vào tình thế phải hứng chịu cơn thịnh nộ dữ dội như thế nào. Ai nấy đều chú mục nhìn vào anh. Trời cuối xuân bắt đầu nóng, anh vẫn mặc áo cài hết cúc lên tận cổ và bó chặt hai cổ tay. Cẩn thận vậy không phải để làm dáng hay do nhu cầu gì, mà bắt nguồn từ sự lo lắng âm thầm: không biết được cởi cúc đến đâu là phải phép. Trong mấy tháng bị đưa sang Pháp, anh chàng khốn khổ đã mấy lần bị hố về cách ăn mặc, cứ thản nhiên để lộ những bộ phận thân thể kín đáo nhất, với mục đích rất vô hại là muốn cho chúng được mát mẻ. Người ta đã riễu cợt anh nhiều lần về chuyện này. Những ai bao dung lẽ ra nên thông cảm với anh. Bị đối phương bắt sống trong các trận chiến nơi rừng rậm Brésil, anh được các thủy thủ Pháp – trong đó có anh bạn đang ngồi cạnh anh – mua lại. Với mục đích bày tỏ lòng tôn kính đối với Đức Vua Henri II, Ngài đã báo trước là sắp tới sẽ đến ngự giá xuống Noóc-man-đi, một số nhà buôn ở địa phương đã gửi anh ta về Pháp cùng với khoảng năm mươi đồng hương khác. Vừa mới xuống tàu ở Rouen, người ta đã bảo anh nhẩy múa trước nhà vua và hoàng hậu, trên người chỉ đúng có túm lông che đậy, y như lúc anh bị bắt. Từng ở trần như vậy trước nhà vua nên sau đó, anh không hiểu rõ lắm, tại sao người ta lại bảo anh che đậy trước mặt dân thường người Pháp. - Thế nào? viên sĩ quan xẵng giọng giục để chấm dứt sự yên lặng chỉ thoang thoảng tiếng thở hổn hển của anh da đỏ. Con người khốn khổ bị đưa vào cuộc đấu trang tư tưởng gay go. Nói tới Brésil là gợi lên trong anh những hình ảnh rừng xanh núi đỏ, những hình ảnh sinh hoạt nhảy múa và săn bắn. Màu sắc bầu trời châu Mỹ, màu sắc hoa lá và chim chóc đã gột rửa tâm hồn anh khỏi cái xám xịt của cuộc sống thường nhật ở Rouen mà anh đã thấy quá tẻ nhạt. Tuy nhiên, anh đã phải lòng cái thành phố này ngay từ ngày đầu, ngày mà anh phải nhẩy múa trước các vị vua chúa, dưới trận mưa xuân lất phất, nước mưa hòa lẫn với mồ hôi của anh, tạo nên một cảm giác thú vị. Lúc bị bắt, anh tưởng mình sẽ chết. Nhưng rồi anh cảm thấy hồi sinh trong cái nước Pháp cũng đang tự dán cho mình nhãn hiệu Phục hưng. Thừa lệnh Nữ hoàng Catherine de Médicis, anh cùng các đồng loại được trả tự do, lang thang khắp phố phường Rouen. Một buổi chiều, đang nằm duỗi dài người dưới bóng râm tháp phía Bắc của Nhà thờ Lớn Notre-Dame, anh được một cô gái phốp pháp người Noóc-măng, con một ông thợ cạo sống sung túc, để ý. Cô thuyết phục năn nỉ thế nào mà ông bố đồng ý đón anh về nhà, cho ăn ở, cho quần áo mặc. Và một ngày đẹp trời nọ, họ cho hai người thành hôn, cùng bốn cặp tương tự cũng theo gương. Nghĩ đến người vợ hiền má đỏ hồng hồng ở nhà, anh thấy có đủ nghị lực gạt sang một bên ý tưởng trở về rừng rú. - Không! – Anh đáp cộc lốc. Tiếng Pháp bập bẹ chưa cho phép anh nói hơn. Nhưng chỉ một từ “không” mạnh mẽ cùng thái độ bỗng trở nên dữ dằn của anh đủ thể hiện sự kiên quyết, không gì có thể thay đổi. Viên sĩ quan, đã mệt mỏi sau nhiều tháng chuẩn bị, ủ rũ nhìn việc trở ngại cuối cùng vừa nảy sinh này. Ông ta đã bắt đầu nản chí và toàn bộ tư thế, từ cái lưng còng còng, cái tay buông thõng, đến cái đầu gục thấp, đã chứng tỏ rất rõ rệt điều này. Câu chuyện lôi cuốn sự chú ý của cả quán, trong đó thủy thủ chiếm số đông, tất cả bọn họ đều im lặng theo dõi; Bỗng, từ một bàn ở góc cuối phòng, chỗ tối nhất và lạnh lẽo nhất, một người ngồi một mình từ nẫy ít ai để ý, cắt ngang tiếng bàn tán thì thầm và buông ra giữa đám đông bốn từ sẽ giải quyết được mọi vấn đề: - Đem trẻ con đi! Viên sĩ quan xoay người lại để xem ai vừa lên tiếng. Muốn cho mọi người thấy được mình, hắn đẩy cây nến trên bàn đến sát gần mặt cho ánh sáng soi rõ diện mạo. Đó là một người nhỏ bé, lưng còng, mái tóc hoa râm rất thưa và có vài sợi lòa xòa trước trán bị cái mũ chỏm bằng lụa trơn ép chặt xuống. Bộ râu mép ngắn ngủn, không dày hơn tóc là mấy, tạo một đường viền sát vành môi trên mỏng dính, hai đầu vểnh ngược lên, tô điểm cho nụ cười mà hắn cố nặn ra. Hắn yên lặng ngồi yên chờ mọi người thỏa mãn óc tò mò và tiếp tục bàn bạc về việc mà hắn vừa đề xuất. Viên sĩ quan cất tiếng vọng lên như nói với một bóng ma: - Lấy trẻ con, anh nói thế là nghĩa làm sao? Người nọ khẽ nghiêng đầu như đáp lẽ lại người đã chiếu cố đến ý kiến của mình: - Thưa Ngài, ai cũng biết trẻ con có khiếu ngôn ngữ rất nhạy. Đưa một người lớn vào đất lạ, phải mất mười năm may ra mới lõm bõm vài chữ. Một đứa trẻ, chỉ vài tuần có thể nói thông thạo, mà lại đúng giọng: Phần cuối của lời phát biểu chợt khiến mọi người để ý thấy hắn phát giọng lơ lớ hơi lạ. Mặc dù hắn nói tiếng Pháp khá sõi, nhưng dù sao vẫn pha một chút giọng miền nam, nghe vừa dễ chịu vừa khả nghi. Thật khó nói rõ xuất xứ: không biết là cách phát âm bẩm sinh của một người xứ Prô-văng xơ hay một chút mờ nhạt thể hiện sự tuyệt vời gần như hoàn hảo của một người Ý có học. - Anh nói rõ xem, do đâu anh dám chắc vậy? - Đấy là lẽ thường rồi còn gì và ai cũng biết cả. Song, vì ngài đã hạ cố muốn biết tôi là ai, tôi rất hân hạnh được trả lời ngài, tên tôi là Bartolomeo Cadorim và tôi từ nước cộng hòa Venise tới. Có những điều nói rõ ra lại làm cho bầu không khí u ám đi. Ở bến tàu này mà có mặt một người Venise dáng bộ như giáo sĩ kia, thì đúng là gián điệp rồi. Nhưng người nọ có vẻ thích thú hơn là bối rối bởi sự thù địch ngấm ngầm và tiếng thầm thì bàn luận của mọi người. Đến lượt viên sĩ quan xưng danh: - Tôi là thuyền trưởng Le Thoret, hiệp sĩ xứ Malte. Phục vụ dưới trướng hiệp sĩ Villegagnon, phó đô đốc xứ Bretagne. Người Venise đứng nhổm nửa người lên sau bàn như để cúi chào, miệng vẫn không rời nụ cười tinh quái khiến những người có mặt khó chịu. Hắn nói tiếp một cách tự nhiên: - Chúng tôi có nhiều kinh nghiệm về vấn đề này, vì nước cộng hòa Venise vốn có quan hệ thương mại từ lâu với tứ phương trên trái đất. Những đoàn tải đồ của chúng tôi sang phương đông có mang theo trẻ con, đã luyện chúng thành những thông dịch tuyệt vời chưa từng có trong quan hệ với Trung Hoa và vùng Cận Đông. Với lại, người Tây Ban Nha cũng làm như vậy. Ở Mêhicô chẳng hạn, mới đầu họ chỉ giao thiệp được với thổ dân Ajtèque thông qua một mụ bản xứ tên gọi Malinche, nhưng sau nhờ bọn trẻ, họ có cả một đống thông dịch dự trữ. Le Thoret bắt đầu có vẻ quan tâm, hỏi: - Theo anh, nên lấy những trẻ ở lứa tuổi nào? - Năm, sáu tuổi là tốt nhất. - Không thể được! – Le Thoret kêu. Ngài Villegagnon đã lệnh tuyệt đối không cho đàn bà lên tài. Mà trẻ ở tuổi như anh nói, không thể đi mà không có mẹ kèm để chăm sóc. - Lớn hơn một chút cũng tạm được. Nói cho đúng, càng lớn bao nhiêu thì năng khiếu ngôn ngữ càng kém dần bấy nhiêu. Hắn định nói nữa, về những mối liên quan tương ứng giữa các cơ quan người và lý trí nhưng nghĩ thế nào lại thôi, khi nhận thấy vị quân nhân kia bắt đầu đỏ mặt. Thoret nói ra chiều suy nghĩ: - Mà còn phải móc đâu ra được những đứa trẻ chịu đi, mà không đến nỗi vô tích sự. Việc tuyển người cho đoàn viễn chinh đã quá vất vả. Không tìm đâu ra người tự nguyện, dù đã hứa sang đấy sẽ được cấp đất sống vĩnh viễn. Tin đồn tệ hại lan truyền rằng ở đó có những bộ tộc ăn thịt người khiến ai nấy khiếp đảm. Lũ ngu dốt thà cam cảnh nghèo hèn rồi chịu chết ở nhà bằng đủ mọi cách khốn nạn hơn là chết chui vào bụng đồng loại. Thế mà nay lại phải tuyển trẻ con nữa! Tuy nhiên rõ ràng đó là một ý hay, nếu trình bày với Villegagnon, chắc Ngài sẽ chấp nhận. Anh chàng người Venise lấy giọng rất tự nhiên, nói tiếp: - Vậy là tin đồn có cơ sở, các ngài sẽ thẳng buồm tới Rio, nhất định xông vào hang ổ bọn Bồ Đào Nha? Nhưng tôi nghe nói, hình như giáo hoàng đã chấp nhận cho bọn ấy có quyền lực duy nhất trên đất Brésil. - Một giáo hoàng người Tây Ban Nha đã phân quyền lực ở Tân thế giới cho bọn Bồ Đào Nha, điều đó ta không cần biết – Le Thoret vừa nói vừa giụi mắt, quá mệt mỏi vì từ hai tháng nay ông luôn phải tập lại điệp khúc ấy – Nào ta có thấy cụ tổ Adam để lại di chúc nào cấm nước Pháp không được hưởng lợi ở châu Mỹ. - Hay lắm! Anh thủy thủ giơ cao vại rượu, tỏ ý tán đồng. Đám thủy thủ trong quán chỉ chờ dấu hiệu ấy để lại ồn ào chuốc rượu cho nhau, lấy lại không khí vui vẻ mà thái độ nghiêm nghị của Le Thoret từ nẫy đã làm cho lắng xuống. Ông giơ bàn tay xương xẩu bị mất một ngón do trúng đạn, ngăn các tiếng cười đùa. Nhìn chằm chằm vào anh lái buôn thành Venise, ông như chợt nhớ hắn ta là người lạ từ nước khác tới. - Ông không nên hỏi thêm nữa. Đức vua muốn việc này phải được giữ kín. Chín tiếng chuông nhà thờ lại làm rung các vại bia trên bàn, và đánh dấu chấm hết cho buổi trò chuyện hớ hênh này. Anh lái buôn trả tiền rồi đứng dậy đi ra, không quên chúc viên sĩ quan thuậm buồm xuôi gió, miệng nở một nụ cười bí hiểm. Anh thủy thủ ngồi ngủ gà ngủ gật. Người Anh điêng về nhà với vợ. Le Thoret bước ra ngoài quảng trường trước mặt, hơi rùng mình dưới làn mưa nhỏ bắt đầu rơi. Ông dã tưởng sẽ có chút thời gian nghỉ ngơi trước ngày lên đường. Vậy mà bây giờ lại phải đảo qua các cô nhi viện tìm kiếm trẻ con… CHƯƠNG 2 Một rặng liễu dài tít tắp, trồng thẳng hàng như một một hàng lính cầm kích, chạy thoai thoải từ đồng cỏ đến bờ vách đá. Biển ở dưới chân nhưng bị che khuất không nhìn thấy, chỉ nghe tiếng sóng vỗ rì rào. Gió nổi muộn từ ngoài khơi thổi vào, xua đuổi những đám mây rộng lớn phủ kín bầu trời, để lộ một vầng mặt trời nhợt nhạt không làm khô nổi cỏ ướt. Trên bãi xanh rờn, một con ngựa hồng lặng lẽ gặm cỏ, chỉ thỉnh thoảng ngọ nguậy cái đuôi để xua đám ruồi nhặng vo ve làm khuấy động khoảng không gian quang đãng sau trận mưa dông ẩm ướt. - Nhìn kìa, nó đấy – Just thì thầm. - Sao anh biết? – Cô bé nằm bên cạnh, hỏi một cách e ngại. - Thì ba đốm lang chân, là ngựa tiến vua mà – Just đáp. - Ba đốm? – cô bé lại hỏi. - Ừ – cậu con trai sốt ruột nói. Đấy, những đốm trắng ở chân, nó có ba cái. Ngựa tiến vua mà. - Thôi, anh đừng ra vẻ thông thái và đừng cư xử với em như với đứa bé con nữa đi, anh nghe lỏm được cái từ ấy khi lởn vởn quanh các ông thợ cày chứ gì. - Colombe, khẽ chứ! Nhỡ có người để ý. Nhưng con ngựa vẫn lặng lẽ gặm cỏ. Cô bé càu nhàu: - Mà đốm hay không, cũng dễ đoán đó là con ngựa giống nhà ông Griffes. Hai đứa trẻ đang lẻn vào lãnh địa của lão hàng xóm giầu có, nên Just tỏ ý bực mình khi nghe nhắc đến tên y: - Không nói gì đến lão, được không? Cậu nhìn con ngựa, vẻ thèm thuồng. Colombe đấu dịu: - Thôi được. À mà có khi đây là… con Gringalet! - Gringalet, con ngựa duyệt binh của hiệp sĩ Gauvain! – Just cười. Hai đứa trẻ bâng khuâng nằm ẹp trên cỏ, mặc cho hơi ẩm từ đất bốc lên và lá nhọn của đám bả chó đâm khẽ vào da qua làn áo vải mỏng. Con ngựa bỗng nghểnh cổ hít hít luồng gió mằn mặn đưa một mùi lạ đến khiến nó cảm thấy bất an, không biết là mùi cá tôm hay chim chóc thối rữa, và trong một lúc, nó có vẻ như lắng nghe tiếng lăn của đá cuội từ phía xa. Colombe nói: - Chắc chắn là chủ nó hay thì thầm vào tai nó. Nó đang lắng nghe đấy, anh ạ. Nghe gợi tên Gauvain, vị hiệp sĩ tự do, bôn ba tứ hải, người cháu vinh quang và phong nhã của vua Arthur xứ Galles, nhân vật huyền thoại mà cậu say mê đọc trong những ngày dài đằng đẵng ở Noóc-măng-đi, đôi mắt cậu bé vụt sáng. Vẫn ở tư thế nằm, cậu rướn nhẹ về phía trước. Colombe khích: - Vậy ra tay đi! Just như chợt tỉnh mộng, nhìn em gái, nắm chặt đoạn dây đang cầm ở tay phải rồi không nói không rằng, lẳng lặng đứng dậy. - Nào, hãy tưởng tượng anh là Chàng Trai Dũng Cảm, còn em là người đẹp của chàng. Vì em, anh hãy hành động đi. Cô bé nói dõng dạc như ra lệnh. Cậu bé lo con vật có thể nghe thấy và bỏ chạy. Cậu liền lao ra, không do dự. Vốn đã quen săn bắt thỏ hoang, hai người trẻ tuổi khôn ngoan mai phục ngược hướng gió để con vật không cảnh giác. Muốn đến gần nó, phải lợi dụng yếu tố bất ngờ nhưng không được thô bạo. Cậu chậm rãi nhưng kiên quyết tiến về con ngựa, tay cầm dây thừng giấu sau lưng. Con ngựa nhìn người lại gần, không cụp tai, chớp mắt. Just thong thả với tay lên cổ con ngựa hãy còn ướt nước mưa, đưa tay ra vuốt ve liên tục. Con ngựa có u vai rất cao, và Just chỉ đứng đến lưng nó. Cậu lại gần và vòng tay ôm cổ nó. Just cảm thấy mình thực sự yêu quý con vật này, không phải chỉ vì nó – đấy là tưởng tượng của hai anh em – là con Gringalet, chú ngựa trung thành của hiệp sĩ Gauvain, mà chủ yếu vì cậu thích nó, cậu thích những sợi lông cứng thẫm đen phơn phớt màu lửa ở gáy và đuôi nó, giống như mớ tóc bù xù rối tung của cậu. Quàng được sợi dây vào cổ nó rồi, cậu bé mới chập hai đầu lại và thắt một cái nút tạm bợ dưới mõm. Con vật để yên, và khi Just cầm đầu dây kia kéo căng ra, cậu hài lòng cảm thấy từ giờ nó sẽ tuân theo ý mình. Cậu kéo nó chạy một vòng rộng quanh bãi cỏ. Mặt biển xa đến tận chân trời, ngăn cách đồng cỏ xanh mướt với bầu trời xám xịt, nơi mây đen đã lại tích tụ, báo hiệu một cơn mưa khác. Just cho ngựa xoay đi một chút để ánh mặt trời nguy hại lấp lánh trên cỏ ướt không đập vào mắt nó. Rồi nhún một cái, tay bám chặt bờm và chân lấy đà tì lên cẳng ngựa, cậu đã nhẩy phắt lên lưng con vật. Cậu lấy chân thúc mạnh, ngựa lập tức tuân lệnh chủ mới. Cậu gọi: - Colombe, em lại đây được rồi! Just ngồi thật thẳng, tuy có hãnh diện nhưng hơi sợ. Cậu chỉ quen cưỡi những con ngựa còm của trang trại. Cậu cố giữ nét mặt bình thản, tuy mắt lấp lánh niềm vui và môi bặm lại cố giữ không reo hò. Cậu cầm hờ sợi dây dùng tạm làm cương trong đôi tay thon dài. Cái vật nối lỏng lẻo giữa quyết tâm của người và sức mạnh của ngựa tỏ ra gần như không cần thiết nữa do sự hòa hợp tự nhiên giữa con vật cao lớn với cậu kỵ sĩ mới mười lăm tuổi. Colombe chạy tới, không để ý gì đến bộ váy áo ẩm ướt dính vào người, nét mặt rạng rỡ trước thành công của anh. - Hoan hô, cho em lên với. - Lên ư? Không, em là một phu nhân, mà phu nhân thì không cưỡi ngựa diễu binh. - Thôi đi anh. Không phải ngựa diễu binh, nó là tuấn mã của ông Griffes chứ. Nào, đưa tay kéo em lên. Mớ tóc vàng của Colombe, đậm màu và bớt xoăn hơn do nước mưa, dính bết vào mặt cô. Lông mày cũng ướt, tạo đường viền long lanh khiến đôi mắt thêm sắc sảo. Cô bé đã sớm hiểu sức mạnh của cái nhìn sâu thẳm có tác dụng kích thích, gây xao xuyến. Cô mà nhìn ai, như lúc này đang nhìn Just, là với quyết tâm phá tan mọi ý đồ phản kháng. - Thôi được! – Just nhượng bộ – Bám lấy tay anh đây. Colombe nắm khuỷu tay anh, và Just kéo cô lên. Tuy kém anh hai tuổi, cô cũng gần bằng anh nhưng thân hình mảnh dẻ hơn. Cô nhẹ nhàng dọn chỗ ngồi chắc chắn trên mông ngựa rồi rất tự nhiên đưa đôi cánh tay trần vòng qua eo chàng trai, thì thầm vào tai anh: - Hỡi Chàng Trai Dũng Cảm, nếu đây đúng là con Gringalet, nó sẽ đưa ta phi đến những miền hoang lạ. Nhưng Just thận trọng chỉ cho ngựa đi bước một. Cậu hơi lo vì cảm thấy con vật không thuần như lúc đầu. Mặc dù lúc nào cũng có vẻ lơ đãng, chìm ngập trong mộng tưởng, gần như ngái ngủ, nhưng cậu có cảm nhận rất nhậy bén với muông thú, cỏ cây, với cả những vật câm lặng của thiên nhiên. Cậu cảm thấy con ngựa cũng tỏ vẻ tần ngần, có lẽ vì những tiếng thét to của Colombe. Ngược lại, cô bé mắt lúc nào cũng nhấp nháy, hiểu rất sâu mọi ngóc ngách của tâm hồn con người, lại dửng dưng trước những vật của tạo hóa được coi là không có tâm hồn. Cô tiếp tục cười khanh khách và cất tiếng the thé: - Ta ra bờ rào đi! Cho ngựa đi ra đường cái! Just cũng muốn phi ngựa đi thật xa. Nhưng cậu sợ. Ra đến hết bãi cỏ, Colombe sốt ruột lấy chân đạp tung cái cành cây đặt ngang dùng làm cửa rào. Con ngựa lồng lên một bước, khiến hai anh em suýt ngã. - Colombe, nhẹ nhàng thôi! Con ngựa thủng thỉnh đi bước một ra tới đầu rừng. Chẳng mấy lúc họ đã ở giữa những cây sồi hiền lành có những chạc cây cao đến nỗi khu vực gần mặt đất rất sáng sủa và an toàn. Con ngựa có vẻ đã bình tĩnh lại. Con đường bắt đầu lên dốc, và đến cửa rừng, họ leo lên một mô đất, từ đó có thể nhìn bao quát cả thung lũng và những cánh đồng san sát. Xa xa, họ trông thấy tòa nhà mới của ông Griffes tọa lạc trên một khu đất trũng, tua tủa những cột gỗ. Thợ thuyền đang lợp nốt mái của những lầu canh và hoàn thiện chiếc cầu thang lớn. - Ta không nên ở lại đây, sợ người ta trông thấy – Just nói để có cớ thúc ngựa đi, và có lẽ cũng để giấu nỗi xúc động mỗi khi cậu nhìn thấy tòa nhà xây dở nọ. Những cửa sổ lớn chan hòa ánh sáng kia, những ban công có cột hình vặn thừng kia, những mặt tiền có hoa văn kiểu cổ kia, là những thứ mà họ rất thích vì là đặc trưng của nước Ý, nhưng ở đây nó thuộc sở hữu của lão Griffes đê tiện. Là quan chức, thương nhân, thêm nghề cho vay nặng lãi, lão vơ vét đủ thứ. Trong khi hai anh em từ nhỏ lớn lên trên mảnh đất là cái nôi của nghệ thuật nhưng phải đi theo một người cha chuyên về binh nghiệp, luôn chinh chiến khắp nơi, toàn phải sống trong các trại binh. Những ý nghĩ trên làm họ đượm buồn, không nói gì trên quãng đường dài. Đường tiếp tục lên cao, và lâu đài Clamorgan, dinh cơ cũ của họ đột ngột hiện ra. Trước đây lâu đài này rất đàng hoàng, có vọng lâu, tường thành, hào sâu có cầu rút. Than ôi, giờ lại gần, thấy hào cạn nước, cầu không rút lên được nữa, vọng lâu thì phó thác số phận cho một giàn trường xuân rậm rì to như trái núi. Nhìn từ xa, Clamorgan vẫn còn bề thế; Colombe và Just tạm bằng lòng vậy. Nhưng đất đai mênh mông quanh lâu đài thì bị bỏ hóa, ngược lại với đồng ruộng của lão Griffes, luôn được các tá điền chăm sóc cẩn thận. - Đi nhanh nữa đi, Chàng Trai Dũng Cảm! – Colombe giục. Hình ảnh tòa lâu đài khiến cô bé lại tiếp tục tưởng tượng về một cuộc phiêu lưu trên lưng ngựa. Song Just không muốn thúc ép con vật. Đám mây lúc nẫy mở cửa ra để mặt trời le lói, nay đã khép lại. Trời đột ngột trở nên u ám, đầy khí lạnh. Con ngựa nghếch đầu, như nghe ngóng cơn dông sắp tới. Just điều khiển cho nó quay vòng trở lại. - Ta về thôi. - Không! Colombe kêu. Ở chơi lát nữa, đang vui. Cái chính là cô bực mình vì ý muốn không được chấp nhận. Nhưng Just đang ngồi quay lưng vào cô, cô không thể dùng đôi mắt để gây áp lực. Cô lấy tay đấm thùm thụp lên lưng anh. Tuy nhiên nắm tay yếu ớt chỉ lộp bộp trên tấm thân vạm vỡ của người con trai, và cậu tiếp tục điều khiển con vật quay trở về. Colombe sắp òa khóc, bỗng nhìn thấy một cành liễu lòa xòa sát vệ đường. Lúc ngựa qua ngang tầm, cô với lấy và nhẹ tay bẻ gãy. Lá bị tuốt bỏ hết, cành liễu trở thành một cái roi thật vừa tay. Thế rồi, cô lấy đà, một tay nắm chặt cái roi, một tay bám vào áo Just, cô quất mạnh lên mông ngựa. Con vật lồng lên phi nước đại, không phải do đau đớn, mà do sợ hãi. Just vội nắm cả hai tay vào đám lông bờm cho khỏi ngã nhưng lại thả dây cương ra, sợi dây đập liên tiếp vào má ngựa, làm nó càng sợ hãi và càng phi nhanh. Cứ thế, bộ ba lao về phía lâu đài, rồi, chợt con đường lượn lại ra biển, họ phải tách ra và hướng tới một mảnh đất bỏ hóa chạy dọc theo một bức tường. Just cuống lên vì sợ, không biết làm gì hơn là cố giữ mình khỏi ngã. Sắp qua một con suối; cậu nhẩm nghĩ có lẽ nên lao cả hai anh em xuống đó, có nước và bùn sẽ đỡ đau hơn. Nhưng con ngựa không để cậu chờ đến lúc đó. Khi phi đến gần một đài nước xây trên bậc đá, nó né mình tránh, luôn tiện hất cả hai kỵ sĩ xuống đất. Just lăn tròn xuống một bờ ruộng có cỏ rậm nên không sao. Colombe nhẹ hơn, bắn ra tận đài nước, đập đầu vào đó, nằm vật ra, mặt chảy máu. Just chạy đến, thấy cô bất tỉnh. Cậu đỡ nhẹ đầu cô, ôm lấy cổ, vỗ về cô. Thời khắc trôi qua, cậu chỉ còn nghe tiếng ngựa lồng lên phía xa, và tiếng róc rách của đài nước gần kề. Và Just, người thừa kế của dòng họ Clamorgan cao quý, Just, một cậu thiếu niên bình thường nhưng lại được cô em gái ngưỡng mộ đặt cho cái tên là Chàng Trai Dũng Cảm, lấy lại được bình tĩnh. Colombe vẫn chưa tỉnh. Cậu thét lên một tiếng, một tiếng xé tai, ồm ồm của người vừa vỡ giọng. Cậu nghe ngực em; tim vẫn đập. Em vẫn sống. Cậu bế em lên tay, còn kịp nhận ra em quá nhẹ, người ướt đẫm và lạc đâu mất một chiếc giầy. Rồi cậu chạy đi, đôi mắt đẫm lệ dán chặt vào gánh nặng trên tay vẫn bất tỉnh: - Em yêu, em yêu, đừng chết! Đừng bao giờ chết! Anh sẽ ở bên em mãi mãi. CHƯƠNG 3 Thời kỳ này, nước Pháp sống yên bình, nhưng ngoài biên thùy thì chinh chiến liên miên. Từ cuối thế kỷ trước, với giấc mộng bành trướng sang phía đông của Charles VIII, Pháp đã chọn nước Ý làm chiến trường cho các tướng lĩnh của mình. Dù thắng dù bại, khi trở về họ vẫn đầy vinh dự. Nước Pháp thích thú với trò đi lật đổ các ngai vàng để rồi lại đánh mất nó ngay tức khắc, liên kết với nước này nước nọ chỉ để rồi lại cắt đứt, thi nhau xáo những con bài lớn nhất, con K, con Q, con mã, của trò chơi không có luật lệ ấy. Các chuyến đi liên tiếp của những giáo hoàng đầy mưu lược, của những ông hoàng say mê nghệ thuật và của những kẻ đi chinh phục đau đầu nhức óc với hết âm mưu này đến âm mưu khác đã mang lại mối lợi cho vương quốc Pháp: trong nước được hưởng thái bình, còn quân đội thì có việc làm ở nơi xa. Không gì, ngay cả vụ thấy trận ở thành phố Pavie bên Ý, có thể phá vỡ nổi an ninh quốc nội được lập lại từ sau cuộc chiến tranh Một Trăm Năm. Khắp nơi thóc chất đầy kho, chỗ nào cũng ê hề vải, rượu, gia vị và sản phẩm thủ công. Các ông hoàng chan hòa gặp gỡ thần dân; giới quý tộc an hưởng bổng lộc từ đất đai. Những lâu đài mới theo kiểu cổ, mang màu sắc Ý, mọc lên ở khắp nơi. Ngài Gonzagues đang suy ngẫm như vậy về thế sự lúc đứng nhìn ra ngoài qua cửa kính tu viện. Mưa bụi vùng Noóc-măng-đi lâm thâm rơi trên cỏ xanh mướt đến não lòng. Cảnh thanh bình trải ra trước mắt: lũ bò đực no tròn, đàn dê gặm cỏ, đám bò cái vú căng sữa, rặng táo phủ kín những chùm hoa dày đặc còn trĩu nước mưa, hứa hẹn một vụ bội thu, lạ thay lại đè nặng lên tâm hồn người chiến binh già nua. Hai mươi năm nay, từ khi đeo chiếc thập tự xứ Malte và phục vụ dưới trướng ngài hiệp sĩ Villegagnon, đời ông toàn là binh đao, hành quân và đói rét. Ông đã chiến đấu với quân Thổ trước thành Alger, rồi sang Hung-ga-ri, rồi lại chiến đấu một cách vẻ vang nhưng không thu được lợi ích gì với các đế chế Sforza ở Milanais, với quân Anh ở Boulogne và cuối cùng đã phải chịu thấy thủ trước Tripoli. Và trong khi ông xông pha tên đạn, chịu thiếu thốn và bệnh tật, thì cánh đồng cỏ trước mặt ông đây vẫn không lúc nào thôi xanh tốt. Thế mà lẽ ra ông đã có thể sống một cuộc sống êm ả trong cơ nghiệp của gia đình ở Agenais. Dù là em út, ông vẫn có thể được các anh chia một phần đất cho riêng mình để hưởng lộc suốt đời. Ý nghĩ đó luôn bứt rứt lòng ông từ khi ông đến vùng này. Nhưng rồi có hai di chứng những viên đạn còn găm trong người ông, một ở bẹn, một ở vai, khiến ông hồi nhớ thời binh nghiệp vẻ vang, kích thích ông nghĩ tới những chiến tích sắp tới. Suy cho cùng, mình cóc cần gì bò với ruộng… Tiếng nói êm dịu của một nữ tu gọi đúng tên ông, chấm dứt hẳn cơn sầu muộn dằn vặt mới đè nén được phần nào: - Ngài Gonzagues de La Druz, phải không ạ? - Vâng, thưa mẹ, tôi đây. Vóc người lùn mập, tròn trĩnh, mắt tinh nhanh và bộ râu nhọn hoắt, nhọn đến nỗi người ta tưởng như chính nó gây ra vết sẹo dài lộ rõ giữa hai ve cổ áo, ngài Gonzagues lại còn đeo một lô gươm dao, dù không ở ngoài chiến trường. Lúc ông đỏ mặt đứng lập nghiêm, tiếng binh khí kêu lách cách âm vang dưới vòm tu viện, khiến bà mẹ cả phải mỉm cười. Bà hiểu sự luống cuống của viên tướng già không phải do đứng trước mặt một nữ tu, mà do thấy mình đối diện với một phụ nữ thực sự. Hẳn bà cũng vui thầm trong bụng. Bà nhìn ông bằng đôi mắt xanh biếc, nói: - Tôi mới nhận thư ông hôm qua. Vậy là ông cần tìm trẻ mồ côi để đưa sang Mỹ? - Thưa vâng – vị tướng lúng búng, bụng rủa thầm tại sao ông Trời oái ăm xui khiến ông tiếp xúc với một nữ tu xinh đẹp dường này. - Nhờ ngài thưa với hiệp sĩ Villegagnon rằng chúng tôi không mong gì hơn được giúp ích các ngài. Các ngài đem lời Chúa đi rao giảng ở các vùng đất mới, là làm việc vô cùng phúc đức. Nếu Chúa không đã dành cho tôi một phúc phận khác, ắt tôi sẽ là người đầu tiên xin đi theo các ngài. Chỉ một lời nói ấy thôi đủ khiến ngài Gonzagues tội nghiệp muốn bay ngay đến mọi vùng man di mọi rợ: ông không sao tưởng tượng nổi mình lại bị tác động một cách tai ác đến thế. Song, ông vẫn đủ can đảm để nhếch môi gượng cười, khiến cho mấy cái lông thưa thớt trên mặt vểnh cả lên. Mẹ cả nói tiếp: - Vậy là ngài cần kiếm trẻ mồ côi. Thời trước thì chúng tôi rất sẵn, các bà nữ tu kỳ cựu nhất của chúng tôi vẫn còn nhớ rõ. Nhưng đất nước ngày càng khấm khá, lo được tất tần tật mọi việc. Đúng là chúng ta còn nhiều người nghèo thật, nhưng may là chưa đến mức tín đồ của chúng ta bị cấm cửa thiên đàng chỉ vì không có tiền bố thí cho kẻ khó. Nhưng, thưa ngài, trẻ mồ côi thì thật là không còn, không còn nữa… Mẹ cả lắc lắc cái đầu có đường nét tuyệt mỹ của hình thể và của sự thánh thiện. Vốn là người không chịu khuất phục lâu – dù trước vũ khí của đàn bà ông thường tỏ ra yếu đuối, bất lực hơn – Gonzagues hỏi thẳng vào vấn đề, hy vọng sớm chấm dứt câu chuyện: - Có nghĩa là mẹ không có ai để giới thiệu? Song mẹ cả chưa chịu thua. Giữa những bức tường đá lặng lẽ âm u này, dường như mẹ muốn kéo dài những dịp được trò chuyện cho khuây khỏa. Mẹ vừa suy nghĩ vừa thong thả đi một vòng quanh phòng ra tới tận cửa sổ, mơ màng nhìn ra cây táo ngoài vườn: - Không, có, có chứ, ngài yên tâm. Gonzagues thốt lên một tiếng mừng rỡ, suýt nữa thì văng ra một câu “Bố khỉ!” thô tục. Vẫn có, vì tội lỗi luôn hiện diện, và những lần hỗn loạn về xác thịt vẫn sản sinh ra những đứa trẻ ngoài hôn thú. Biết bao cô gái khốn khổ bị nhục dục cám dỗ đành vứt bỏ chúng và các xứ đạo lại đẩy đến chỗ chúng tôi. Nhưng xem ra càng ngày càng nhiều gia đình chấp nhận những đứa trẻ báng bổ Chúa ấy. Mẹ hạ giọng xuống như tâm sự: - Mà một số cha xứ lại còn khuyến khích họ theo hướng ấy. Ngài biết không, ở những làng ven biển nơi dân chài thường vắng nhà lâu ngày, lắm ông thầy tu quả quyết với con chiên rằng thời gian mang thai kéo dài lâu mau tùy theo từng người. Tôi nghe người ta kể một cách nghiêm chỉnh trường hợp một đứa trẻ sinh ra sau mười tám tháng người mẹ mang thai. Cả làng đều khen ông Tạo khéo xếp đặt để nó cố chờ đợi lúc ông bố về rồi mới ra đời. Và ông bố khờ khạo vẫn tấm tắc khen con giống mình như đúc… Nghe nói về bí ẩn xấu xa của quá trình mang thai và sinh nở, ngài Gonzagues cúi đầu nín thinh, lòng đầy phẫn nộ. Chủ soái của ông, ngài hiệp sĩ Villegagnon, nói phải cải tổ cái giáo hội nước Pháp vì quá phồn vinh mà sinh hư hỏng, là rất đúng. Không tưởng tượng nổi sự sa đọa đã đến mức ấy trong khi ông phải chiến đấu đánh lùi bọn dị giáo ở tận đâu đâu. Lại cái bà nữ tu vẫn nhơn nhơn nói cười này nữa! Bà ta còn tỏ vẻ thích thú trước sự phẫn nộ mà ông tưởng đã cố kìm giữ được – không kể tiếng lách cách của thanh kiếm bên hông do cơn phẫn nộ của một người xứ Gat-xcô-nhơ chân chính khiến chân ông cứ rung rung. - Là tôi không muốn giấu ngài điều gì. Cơ sở tôi hiện đang nuôi giữ tám trẻ mồ côi. Bốn đứa là con gái, mà trong thư ngài nói không lấy con gái. Trong số con trai, một đứa có tật bẩm sinh tiên thiên bất túc, dở ngô dở ngọng. Ba đứa kia thì bé quá: mới lên bốn và lên sáu, chả là có hai đưa sinh đôi. Gonzagues lập tức nói luôn, vừa nói vừa thở như sau một sự cố gắng dài đầy vất vả: - Thưa mẹ, nếu vậy, cho tôi được thành thật cảm ơn, và xin kiếu từ. Nơi ông đến đây là tu viện thứ ba. Về phía Le Thoret, cũng đang có nhiệm vụ như ông, chắc cũng đã mò tới ngần ấy chỗ. Đâu cũng trả lời như nhau, và than ôi, đâu cũng thấy đạo đức suy đồi, cả cái bà nữ tu trời đánh này nữa, chưa bao giờ ông gặp ai khêu gợi sỗ sàng đến thế. Thà dứt khoát như vậy cho xong, để ông còn đi nơi khác – trong danh sách còn hai địa chỉ nữa. Nữ tu đặt bàn tay lên áo ông: - Khoan đã. Tuy đã khá gấp rồi nhưng dù sao thì cũng không phải lý do để ngài không có thời gian nghe tôi nói tiếp. Bị bàn tay hiểm độc chạm phải, Gonzagues thoắt cứng nghiêm người như kẻ chịu nạn. Nữ tu khoan thai nói tiếp: - Ngài hỏi xin trẻ mồ côi, nếu là con nhà cùng khổ càng tốt. Vì vậy tôi nói là không có. Nhưng có lẽ chúng ta chưa bàn đến những khía cạnh khác. Phải chăng ngài cần trẻ con để luyện cho chúng thành thông dịch bên những thổ dân Brésil, đúng không ạ? Gonzagues nghiêm nghị gật đầu thay lời đáp. - Ngài cần những đứa nghèo khổ, chắc chỉ vì ngài nghĩ dễ đưa chúng đi hơn? Lại một cái gật đầu nữa. - Nhưng nếu tôi giới thiệu những đứa có gia cảnh khá hơn, ngài có đồng ý không? Một lần nữa, Gonzagues gật đầu đồng ý. - Nếu vậy, mời ngài đi theo tôi. * * * Chạy lon ton theo sau cái bà mẹ cả quỷ quái đang nhanh nhẹn rảo bước, ngài Gonzagues đi xuyên suốt chiều sâu của tu viện. Họ gặp nhiều nữ tu sĩ, cả người có thâm niên lẫn người mới. Không phải tất cả đều xinh đẹp, song họ đều mặc áo tu một cách thoải mái, điều này khiến ông hiệp sĩ xứ Malte không thể đánh giá tốt được. Trên môi họ luôn phảng phất nụ cười vui vẻ hơi quá trớn. Sự có mặt những người như thế ở một nơi chuyên phụng thờ Chúa là một tội lỗi. Lại thêm mùi sáp nồng nặc bốc lên từ sàn đá, nơi đặt hàng loạt ngọn nến đều thắp lung linh dù không phải ngày lễ trọng. Qua những cánh cửa mở, thấy những ngăn tủ to đầy ắp những thứ tiện nghi mà lẽ ra con chiên của Chúa phải nguyện không được dùng. Suốt đường đi, Gonzagues cố luôn nhìn thẳng phía trước, tránh không ngó ngàng để khỏi bị cám dỗ. Cuối cùng, qua mấy bậc đá, họ đi vào dãy hành lang xây trên một cây cầu. Nữ tu chỉ về phía trước mặt, nơi có mấy cửa sổ soi sáng, nói: - Cuối hành lang này là bờ bên kia rồi, ta có thể vào rừng và vào làng. Đôi khi chúng tôi theo lối này vào làng làm lễ. Gonzagues không nói gì, nhưng lòng giận sôi lên vì cái lối ra đáng ngờ này. Ông nghĩ đến bao sự qua lại lén lút có thể diễn ra nhờ con đường kín đáo. Đến giữa hành lang, họ dừng lại. Một phòng nhỏ xây trồi ra trên một trụ cầu. Nữ tu mở cửa, dẫn ông vào bên trong. Hai mảng cửa kính lớn nhìn ra sông, một ô để mở nghe lọt tiếng nước chảy rì rầm: nơi này thật thuận tiện cho những cuộc bàn bạc kín. Một chiếc bàn hình tam giác và ba ghế đẩu là những đồ đạc duy nhất. Nữ tu ngồi xuống một ghế, ra hiệu cho Gonzagues ngồi theo, rồi nói, vẫn với nụ cười mà hình như chính bà gieo rắc tại đây, bất chấp lời thề nguyện khổ hạnh. - Ta chờ một lát, không lâu đâu. Gonzagues im lặng, ngồi ngay ngắn trên ghế, lúng túng vì binh khí lỉnh kỉnh trên người một phần, phần chính là vì phập phồng cảnh giác.Tiếng nước róc rách, tiếng chim ríu rít bên ngoài khiến người chiến binh già thấp thỏm, dù đã quen với những cuộc phục kích, với những tiếng rúc giả chim muông mà chiến hữu dùng để liên lạc với nhau trong rừng. Hai phút trôi qua, một phụ nữ nữa mở cửa bước vào, lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế thứ ba, gật đầu chào hai người. Người mới đến không mặc áo nữ tu, vậy mà không hiểu tại sao Gonzagues lại thấy ở bà vẻ khiêm nhường, ngoan đạo hơn tất cả các cô gái nhí nhố gặp lúc nẫy. Giống như ông, người này có vẻ đã vất vả vật lộn với cuộc đời đến tận tuổi năm mươi bây giờ và tỏ ra mệt mỏi nhưng thanh thản. Những nếp nhăn trên mặt bà mà ngài Gonzagues thầm so sánh với mấy vết sẹo dài của mình do chiến tranh để lại, được làn phấn thoa nhẹ khóe léo che giấu, mái tóc búi gọn gàng, cách ăn vận bình dị nhưng không kém phần kiểu cách. Tai đeo đôi hoa nhỏ lóng lánh vừa đủ để nổi lên trên nền bộ váy áo đen, có đăng-ten viền quanh cổ và cổ tay. Gonzagues thầm biết ơn người phụ nữ bằng dáng điệu khoan thai lịch sự đã xóa đi những ấn tượng không hay ông có từ lúc đến đây. Ông chỉ để lộ niềm thích thú bằng một chút ươn ướt, rân rấn trong mắt phải mà ông vội kín đáo lấy tay áo quệt nang, tránh không phải khóc thực sự trước mặt người lạ. Tiếc thay, lúc mà người đó xuất hiện, mẹ cả lại không biến mất đi cho rồi: - Xin giới thiệu với bà, ngài Gonzagues de La Druz, hiệp sĩ xứ Malte. Người đàn bà cất tiếng bằng một giọng nói rất phù hợp với tính cách của mình, vừa nghiêm nghị vừa từ tốn: - Thưa ngài, tôi rất lấy làm hân hạnh. Và xin cảm ơn mẹ cả đây đã vui lòng giới thiệu tôi với ngài. - Ồ, chuyện nhỏ ấy mà. Mẹ cả cười đáp lại – chúng tôi chịu ơn bà nhiều. Bà là ân nhân tu viện chúng tôi từ bao năm nay… Người phụ nữ hạ thấp giọng, người run run vì xúc động: - Vâng, chúng tôi luôn đền đáp ơn Chúa đã ban phúc lộc. Chúng tôi luôn vâng theo lời răn của Người khi nó thuận lợi với mình và không quên nhớ rằng nếu lúc nào đó không thuận lợi thì vẫn đinh ninh một dạ. Tiếc rằng lúc này tôi đang ở trong trường hợp không thuận lợi. Trốn chạy là một từ mà ngài Gonzagues đã loại bỏ trong vốn từ ngữ quân sự của mình, nhưng, trong hoàn cảnh này thì ngài lại sẵn sàng làm việc ấy, nếu trốn chạy lúc này là vẻ vang. Bà nói tiếp: - Thưa ngài, biết ngài sắp lên đường, tôi không dám làm ngài bận tâm phải nghe kể lể nỗi bất hạnh của chúng tôi. Nhưng mẹ Catherine đây mới cho biết: ngài cần những đứa trẻ để đưa sang lập nghiệp ở châu Mỹ, phải không ạ? - Vâng, thưa bà, ngài Gonzagues khẽ nhè một cục đờm vào chiếc khăn tay và khò khè nói: - Nếu vậy, ngài sẽ không mất công vô ích nghe những gì tôi nói. Tôi sẽ rất vắn tắt. Bà cụp mắt xuống rồi lại ngước lên đăm đăm nhìn những ô kính màu hình thoi nho nhỏ ở cửa sổ: - Thế này, em út của chồng tôi đi lính, chiến đấu ở Ý phục vụ hoàng đế nước Pháp, rồi còn phục vụ nhiều ông hoàng khác nữa. Ba năm nay không có tin tức gì. Thế rồi, trước khi bặt tăm, chú ấy gửi về Ý hai đứa trẻ. Cứ cho rằng chú ấy là bố chúng, nhưng không biết người mẹ là ai. Thôi, ta bỏ qua, đời lính tráng mà, tôi đâu dám phán xét. Họ lắm vinh quang và cũng lắm tật. Quả là nhiều binh lính và tướng tá đã mắc vào những chuyện đó trong khi chinh chiến ở Ý. Một số lại còn rơi vào bẫy tình của những mụ vô lại đã từng lôi cuốn được cả những người dũng cảm nhất. Ngài Gonzagues cũng đã tham gia vào những chuyện điên rồ ấy nhưng vẫn còn tự kiềm chế được đối với những nỗi đam mê quá cuồng dại – trừ phi là ông không có khả năng khêu gợi được loại tình cảm mạnh mẽ, điều mà, mỗi khi nghĩ đến, lại làm cho ông buồn bã. Dù sao, lúc này, từ miệng phu nhân này nói ra, những việc điên rồ ấy đối với ông cũng thật đáng ghét. Ông không dám hỏi tên người lính nọ, sợ rằng, chẳng may mà mình quen biết anh ta, thì sẽ bị coi là góp phần trong nỗi ô nhục ấy. - Chúa chứng giám cho rằng khi hai đứa trẻ được chú em giao cho chồng tôi, thì chúng đã được nuôi dưỡng êm ấm trong gia đình tôi, bất kể nguồn gốc tội lỗi từ đó chúng ra đời. Hỡi ôi, cơ nghiệp chúng tôi, ở cách đây vài dặm, đã bị ông Trời gieo họa không thương tiếc. Đủ các thứ dịch bệnh làm cây cối và gia súc chết hết. Tháng tám là mùa mưa, thì đồng ruộng ngập úng, sau đó là sâu bọ, châu chấu, mưa đã tàn hại tất tật. Đã thế, ba lần liền bọn bô hê miêng lại tràn qua cướp hết đồ đạc và của cải. Tóm lại, thưa ngài, gia đình chúng tôi trước đây thuộc loại khá giả, nay không thể nói gì khác hơn là rơi vào cảnh bần hàn. Chưa lúc nào bằng lúc này Gonzagues thấy bực mình với số binh khí đeo trên người, chúng đã chẳng có ích gì cho ông, lại còn kêu lanh canh khi ông nhét lại khăn tay vào túi. - Và bây giờ bà lại chịu cái họa nặng cuối cùng nữa – cho đến lúc này, mẹ cả vẫn ngồi yên, bây giờ bà mới đưa ra một lý lẽ cuối cùng nặng cân nhất. Phu quân của bà đây, một lãnh chúa danh giá, lâm bệnh nặng và qua đời cách đây ba tháng, sau một đời vất vả, với nhiều điều không may. Nghe nhắc đến tang chồng, người phụ nữ ứa nước mắt và đưa bàn tay run rẩy lên lau nhưng rồi cuối cùng chỉ bôi nhoe nhoét thêm. Mẹ cả tiếp: - Trước mặt ngài đây là một người vợ và mẹ đáng kính, trong muôn ngàn đau thương vẫn lo lắng đến trách nhiệm của mình. Trong phá sản và cô đơn, bà biết ngôi nhà của Chúa luôn sẵn sàng giơ tay đón tiếp, và chúng tôi sẽ đền đáp biết bao công ơn mà bà dành cho tu viện bấy lâu nay. Nhưng bà không đành, vì không thể bỏ rơi hai đứa trẻ được giao phó. Tương lai chúng sẽ ra sao? Bố của chúng trước đây còn có thư về hàng tháng, nhưng từ lâu đã bặt tin, có lẽ đã từ giã cõi đời này rồi. Cơ nghiệp rồi phải phân tán hoặc bán đi. Vậy hai đứa trẻ tội nghiệp sẽ đi đâu? Vào cửa Chúa chăng? Chúng lại không có thiên hướng về mặt đó. Chẳng thể trách được chúng, chúng vốn được sinh ra trong tội lỗi. Rồi Đức Chúa Giêsu sẽ tìm đến chúng, dù chúng ở phương trời nào. Gắn đời chúng với Chúa khi chúng chưa muốn là không nên, sẽ mang tội cưỡng ép. - Xơ Catherine nói phải – người phụ nữ hưởng ứng. Tôi còn nghĩ xa hơn. Thôi thì hai đứa trẻ không còn gia đình nữa rồi, nhưng tôi muốn cho chúng một cơ may để lập gia đình mới. Chúng phải bắt đầu lại từ đầu, có một cuộc sống mới, quên đi những khổ đau của quá khứ. Vì vậy khi nghe nói đến “Tân thế giới”, tôi vội đến đây để cầu xin ngài đoái thương hai đứa, vui lòng mang hai cháu đi theo. Hy vọng lóe trở lại trong lòng Gonzagues. Qua những lời tâm sự rắm rối nọ, ông đã thấy hé mở lối ra. Việc người phụ nữ cầu xin thật rõ ràng, đơn giản. Dưới mắt ông, làm được điều phúc cho ai vẫn là châm ngôn hàng đầu. Giả thử ông có ngại ngần gì nữa thì ánh mắt cao quý của hai người phụ nữ, một rưng rưng lệ, một đầy nhiệt thành tuy từ bỏ đời trần tục, đã đánh tan mọi do dự cuối cùng. - Chúng bao nhiêu tuổi? Người phụ nữ ngập ngừng. - Tôi không nhớ rõ, vào khoảng mười một và mười ba. - Thế là được – Gonzagues gật đầu. Rồi, do dự một lát như e lệ, ông hỏi nhỏ: - Đứa lớn đã… hoàn chỉnh chưa? - Nó đã có lông tơ trên mép, da nó nâu sẫm nên trông rất rõ. Nhưng tôi nghe bà trông nom chúng nói chắc như đinh đóng cột: nó chưa phát triển đầy đủ thành đàn ông. - Chúng có bằng lòng đi không? Có thể những câu hỏi như thế này đã được tiên liệu trước, nên lời đáp cũng đến một cách dễ dàng, tự nhiên: - Chúng sẵn sàng rời bỏ lâu đài. Chúng chỉ mong cơ hội được gặp bố – mà chúng chỉ nhớ một cách mơ hồ. Nếu bảo với chúng là chúng đi gặp bố, thì đi đâu chúng cũng đi. - Nhưng bà có biết chúng đi là sẽ đi vĩnh viễn, không bao giờ trở lại? - Tôi không mong gì hơn là được thấy chúng tham gia công cuộc chinh phục những miền đất mới như tổ tiên chúng đã từng đi chinh phục, nhưng rồi lại để mất. - Về chuyện ấy, xin bà yên tâm. Tôi xin đảm bảo. Nói rồi, Gonzagues đứng dậy trong tiếng gươm đao lách cách. Tiếp theo là một loạt các cử chỉ xã giao xúc động, cảm ơn, cúi chào… mà Gonzagues phải chịu đựng như một thử thách cuối cùng: ông vẫn sợ bà nữ tu còn bày trò chèo kéo gì nữa. - Nào, bây giờ cho tôi gặp hai đứa. Chúng đâu? Mẹ cả đáp lời thay: - Thưa ngài, chúng hãy còn ở nhà, cách đây vài dặm. Ngài hiểu cho, chúng chưa biết gì, vì chúng tôi còn phải chờ ý kiến ngài hôm nay. Giờ ngài đồng ý nhận, chúng tôi sẽ báo để chúng chuẩn bị. Đúng hôm tàu nhổ neo, chúng sẽ đến trình diện ngài ở bến. Gonzagues thoáng chút do dự: chưa được nhìn tận mắt… Ông cân nhắc nhanh chóng rồi gạt đi ngay trước sự đau khổ của người phụ nữ hiền lành nọ. Vả lại, ông đã chót hứa. - Ba hôm nữa, tàu chúng tôi rời bến Havre-de-Grâce. - Sẽ có xe đưa chúng đến tận nơi hôm đó – bà nữ tu khẳng định. Họ ra hành lang. Người đàn bà dè dặt cảm ơn một lần nữa rồi đi về phía rừng, chắc ở đó có một con ngựa đang chờ bà. Gonzagues rảo bước quay trở ra nơi buộc ngựa. Năm phút sau, ngồi trên lưng ngựa rồi, ông mới giật mình: quên chưa hỏi tên họ người phụ nữ. Rồi gạt sang một bên nỗi lo lắng cuối cùng ấy, ông bật nói thành tiếng trong luồng gió ẩm ướt: - Ôi dào! Không sao. Chắc chắn đó là một gia đình danh giá. CHƯƠNG 4 Khi còn sống ở Ý, Just và Colombe coi cái tên Clamorgan là nơi đầy mộng mơ, vì đó là quê cha đất tổ. Bố chúng phải lâm vào đường cùng lắm mới liều gửi hai đứa trẻ về đó, và chúng biết hết sự thật đáng buồn về cái nơi hằng mơ ước. May thay người bố không phải chứng kiến nỗi thất vọng đó: hồi ấy ông bị thất sủng trước Hoàng đế nước Pháp nên không thể thân đưa các con về. Cách đây bốn năm, ông đã gửi gắm một sĩ quan cùng đi với chúng bằng xe ngựa về Rouen. Từ đó hai đứa trẻ lên xe bò đi Clamorgan. Ông bác của chúng đã quá già yếu, cả ngày ru rú trong căn phòng duy nhất còn có rèm cửa và lò sưởi. Lão sống bảo thủ như còn thời Trung Cổ, vẫn quản lý cơ nghiệp như thời chúa đất phong kiến, dẫn đến phá sản. Không chịu mua chịu bán cái gì, đến viên ngói vỡ rơi xuống cũng không buồn thay, và để cho nông dân sống vật vờ nghèo đói. Toàn bộ lương thực không dùng đến đều mục nát, mốc meo trên kho sát mái, khiến chẳng ai còn muốn làm việc nữa, và thế là dân quê lũ lượt bỏ đi. Không phải do lão keo kiệt, mà do sĩ diện hão ở cái thời thương nhân đã lên ngôi thay thế hiệp sĩ. Rồi một ngày kia, lão tắt thở. Một bà quản gia, trước kia là vú em, đã đón hai đứa trẻ về nuôi trong nhà mình. Đó là một ngôi nhà cũ kỹ, lợp rạ, bên trong đen kịt mồ hóng, trên tường và trần trang trí toàn các loại dụng cụ gia đình cần thiết, xoong nồi, cào cỏ, giỏ xách, tất cả treo lủng lẳng, không bày biện cầu kỳ gì cả. Just bế Colombe vẫn bất tỉnh về đó, đặt lên chiếc giường lớn trải nệm rơm sát lò sưởi. Cô bé rên rỉ và kêu đau đầu. Một ông chăn cừu già nua võ vẽ chút nghề lang – ít nhất lão cũng biết chữa bệnh cho cừu – vừa thở phì phò vừa vượt qua đoạn ổ gà lầy lội, đến xem và kê cho cô một thứ thuốc sắc gồm toàn cây cỏ. - Không sao, cô ấy sống. Lời phán quyết ấy giờ mới cất được nỗi lo cháy bỏng trong lòng Just. Bà vú Emilienne lập lại lần nữa lời khẳng định cho cậu yên tâm. Just muốn nghe bao nhiêu lần thì bà cũng vui lòng lớn tiếng nhắc lại bấy nhiêu lần. Cậu giả vờ nặng tai bốn lần liền như thế. Người mềm nhũn và sốt rất cao, Colombe nhăn nhó cố nuốt bát thuốc đen kịt và bốc khói nghi ngút, trên đó nổi lều bều những mảnh nấm vụn, rồi lại ngủ thiếp đi. Just ngồi canh ở đầu giường. Cậu đau thắt người nhìn tính mệnh em gái – là một nửa cuộc đời của cậu – mong manh như ngọn nến thoi thóp. Những gì đến nay còn nhớ được thì cuộc đời của hai anh em chỉ toàn là di chuyển, đi bộ, hành quân, nghỉ đêm trong những quán trọ lạnh lẽo… tất cả cứ xen lẫn chẳng có thứ tự và chẳng hợp lẽ gì với những kỷ niệm tươi đẹp sáng ngời về nước Ý và các trận đánh. Mọi việc xung quanh không bao giờ tĩnh lặng, và họ cũng không bao giờ hiểu tại sao nữa. Họ không có người thân nào khác ngoài người cha mà sau bốn năm trở về Clamorgan, hình ảnh đã nhòa dần trong ký ức. Song tất cả sự quay cuồng hỗn độn giữa người và sự kiện ấy, có một cái trục không thay đổi khi tất cả đã thay đổi, và vẫn trong thành khi tất cả đã bỏ đi: đó là tình cảm gắn chặt hai đứa trẻ với nhau. Từ quá khứ xa xôi nhất còn nhớ được, trong tâm trí Just luôn có Colombe. Họ cùng trải qua các thử thách như nhau, cùng mơ những giấc mơ giống nhau, cùng đọc chung các sách vở: Arioste, Virgile, Homère, cùng chơi những bản nhạc, gái thì thổi sáo, trai thì đờn măngđôlin. Chút ít thơ, nhạc ấy là tất cả hành trang của họ những lúc cùng thất thểu trên đường hành quân với binh lính. Nhưng giờ đây, Just không còn tâm trí nào để nghĩ đến thơ ca nữa. Vừa chất thêm củi vào lò sưởi, Just vừa nghĩ đến những tên đẹp đẽ mà em gái từng gán cho mình, mới đây nhất là danh hiệu Chàng Trai Dũng Cảm! Cậu giơ tay quệt mũi và tự thề là sẽ không bao giờ rời xa em gái, cả trong cõi chết. Cậu đang ở cái tuổi sẵn sàng thề thốt bất cứ điều gì, nhưng Just cho rằng trên đời này chưa có ai thốt lên lời nguyền một cách nghiêm túc và quyết tâm như mình. Đến sáng, Colombe đạp tung cái chăn lông ra, người đầm đìa mồ hôi nhưng đã mát hẳn, hình như cơn sốt nóng đã hoàn toàn trút hết sang cái bao đắp nhồi lông. Đến trưa, cô mở mắt và cất tiếng gọi. Ai nấy mừng rỡ, lại ứa nước mắt nữa. Ở cái xứ Noóc-măng-đi này, thời tiết hay thay đổi từng giờ, và trong tâm hồn con người cũng có những phút trời quang mây tạnh bất ngờ. Mặc dù cơn sốt đã lui, bà Emilienne vẫn bắt cô bé nằm yên. Cô vẫn có một cái bướu sưng u gần thái dương. Bà còn đe, cô mà ra khỏi giường thì chắc vui sẽ biến thành buồn mất. Câu này nghe thật thần bí, như lời chú của thầy phù thủy, lại có sức thuyết phục rất lớn. Nhưng cô vẫn tiếp tục nhí nhảnh, còn làm trò nhăn mặt nhíu mày để trêu Just. Chiều đã muộn khi họ bất chợt nghe thấy tiếng bánh xe cọc cạch ngoài đường. Bà Emilienne đang ở ngoài vườn rau. Rất nhiều gia đình đã bỏ đi nên bà tha hồ chọn miếng đất tốt nhất: bà ra đào cà-rốt gần đống rạ, ở đó có những củ rất to. Khi chiếc xe đến gần, hai đứa trẻ liền ngừng chuyện trò, bởi vì ở đây chẳng mấy khi có ai đi qua. Nghe thấy nó dừng lại trước nhà, Colombe nhỏm dậy gọi: - Anh Just, ra xem ai! Nhưng Just chưa kịp đụng đậy thì một bóng người đã đứng chắn giữa khung cửa. Đó là Belloy, tên hầu cuối cùng còn ở lại lâu đài. Hai đứa trẻ rất sợ hắn: hắn vừa lùn vừa xấu. Biết cơ nghiệp này giờ không chủ, hắn lên mặt quát lác và xử tệ với hai anh em, như muốn cảnh cáo chúng đừng hòng có quyền gì đòi hỏi ở cái cơ ngơi xập xệ này. Hắn vừa từ ngoài sáng bước vào nên chưa nhìn thấy gì. Hai anh em im thin thít định thu người lại để trốn tránh, thì hắn đã huơ tay sờ soạng tới bên giường, hét tướng: - Chúng mày đâu, đi ra! Tay hắn quờ phải Just: - Em gái mày đâu? - Tôi đây – Colombe miễn cưỡng lên tiếng, giọng không mấy nhẹ nhàng, vì cô không mong được đối xử tử tế hơn. - Cả hai theo tao, bà nhà gọi. Just chống chế rằng Colombe đang ốm, song cuối cùng hai anh em vẫn phải mặc vội quần áo, đi lên xe bò kéo. Xe chuyển bánh tới khúc đường quanh họ mới nhìn lại, thấy vú Emilienne từ vườn rau chạy ra rối rít xua tay. * * * Chiếc xe bò đã tới trước lâu đài. Belloy dùng lưỡi chậc chậc thật to để thúc con vật đi qua cây cầu rút ọp ẹp. Nhìn trên đầu, thấy cái cổng sắt răng bừa bị kẹt, không hoạt động được do gỉ vàng. Ngôi thành xưa, nay chỉ có hai con chó dữ bị xích chặt thay lính gác. Họ bước vào vọng lâu. Belloy bảo họ chờ trong gian gác. Đó là phòng tường đá rất lớn, có vòm cao vút. Chiếc lò sưởi đồ sộ, dễ có thể ngốn tới vài khúc cây to, nhưng lúc này lạnh ngắt. Sàn vương đầy rơm rạ và gỗ vụn. Tất cả đồ đạc chỉ gồm một cái hòm lớn bằng gỗ sồi đặt sát tường và một chiếc ghế bành cũ kỹ. Hai anh em đứng yên lặng, chờ xem sẽ bị trừng phạt gì về tội để xổng con ngựa. Nghe có tiếng nhạc nhong nhong cỗ xe song mã của bà bác đi qua cầu. Thường nhật bà ăn bận diêm dúa, thế mà hôm nay chỉ có bộ váy áo màu đen giản dị, khiến hai anh em ngạc nhiên. Họ biết đâu sáng hôm đó bà cố tình chọn trang phục đó để đi gặp Gonzaguea ở tu viện. Một lát im lặng để bà nhìn thật kĩ hay đứa trẻ, như để nhẩm tính lại xem chúng có thích hợp với ý đồ của mình hay không. Hai đứa đều đầu bù tóc rối, quần áo tồi tàn dính nhiều vết bùn khô, song bà thấy hài lòng. Belloy dịch ghế cho bà khoan thai ngồi xuống trong lúc Just và Colombe vẫn đứng nguyên, chờ xem bà sẽ phán quyết gì về vụ con ngựa. - Các cháu yêu quý! – Bà cao giọng không hợp chút nào với mấy từ thân thiết ấy. Colombe nắm chặt cánh tay Just, đứng sát vào anh. - Bác biết các cháu rất gắn bó với cơ nghiệp của dòng họ Clamorgan này, nhưng cũng rất nóng lòng được gặp lại bố các cháu. Hai anh em vẫn giữ vẻ mặt bất động, vì sự dè chừng đối với người đần bà này mạnh đến mức khó có thể rũ sạch được. - Vậy thì các cháu hãy mừng đi, ước muốn đó sắp thành hiện thực. Rồi ngừng lại một lát như suy nghĩ, bà ta nói tiếp: - Ít nhất là với một trong hai cháu. Hai đứa giật cứng người. Vậy là dưới cành lá hiền lành, con rắn độc đã trườn ra và giương răng móc. Họ muốn chia cắt hai anh em. - Cháu Just chẳng mấy lúc sẽ thành một trang nam nhi. Bố cháu sẽ luyện cháu thành chiến binh dũng cảm không thua kém. Bác sẽ cho cháu đi gặp ông ấy. Vừa lòng không? - Thưa bác, không – Just đáp, mắt nhìn thẳng nhưng ngước lên cao để khỏi gặp ánh mắt của người đàn bà mà cậu tin chắc là có ma lực. - Không? Bác không hiểu, tại sao vậy? Cháu không muốn gặp lại bố cháu ư? Hay là sợ phải đi chinh chiến? - Thưa bác, không – Just vẫn chỉ nói gọn lỏn, không muốn đáp lại lời khiêu khích. - Vậy thì vì sao? - Cháu không muốn xa em cháu. - Em cháu! Người đàn bà cười nhạt. Những đứa con hoang sinh ra bất chợt trên các nẻo đường, không biết mẹ là ai, mà mẹ chúng chắc cũng không rõ đã ăn nằm với ai, nay lại kiêu hãnh và ngu ngốc nhận nhau làm anh em một cách rất quả quyết! Thôi, khỏi mất thì giờ giải thích, vả tình thế này lại có cái hay. - Nhưng các cháu không thấy là đi theo bố, cuộc sống sẽ phiêu bạt nhiều nơi, không phù hợp với con gái hay sao? - Chúng cháu đã từng trải qua rồi – Đang lo lắng vì sự thiếu không khéo của anh, Colombe sốt ruột đợi cơ hội được tham gia câu chuyện. Và lúc này, cô bé mới nói xem được một câu. Bà bác nhìn kỹ cô cháu. Rồi nó sẽ xinh đẹp đay, tính tình lại có vẻ cương quyết, ngữ này hẳn sẽ khó bắt ép được nó vào tu viện sau khi tống được thằng anh đi. Điều này bà đã e ngại từ trước; đề phòng sẵn, bà không ngoan hứa với Gonzagues là sẽ giới thiệu hai đứa trẻ. Giờ phải biết lợi dụng chúng không muốn xa nhau để thực hiện mục đích. Bà đúng dậy, thong thả bước ra xa rồi quay lại: - Bác rất phiền vì các cháu cứng đầu, làm ta thêm khó xử, thực ra kế hoạch của bác chỉ nhằm lợi ích của các cháu thôi. Bà lại ngồi xuống ghế, cố nở một nụ cười trìu mến: - Tuy nhiên bác thấy hai cháu rất quấn quít nhau, không nỡ lòng nào chia cách. Nhưng các cháu cần giúp bác, kẻo bác làm phúc hóa ra mang tội. Hai đứa trẻ càng xích lại gần nhau, phấp phỏng chờ một cái bẫy khác. - Các cháu lại gần đây, bác nói điều này phải giữ kín. Họ tiến đến hai bước, dừng lại khi còn một khoảng cách. Bà cũng không muốn bảo chúng lại gần hơn, để tránh cái mùi tanh tanh của lũ quê mua. - Nghe đây, bố các cháu là một vị tướng. Trong các cuộc chiến ở Ý, nơi mà nhiều mối quan hệ được thắt chặt, bố cháu đã phục vụ nhiều ông hoàng khác nhau, ai cũng muốn có dưới trướng một chiến binh dũng cảm như ông. Nghe nói vậy về bố, Just tươi tỉnh hẳn lên. Song Colombe vẫn cảnh giác, chưa hiểu bà bác sẽ dẫn đến đâu. - Lần này, ông ấy phục vụ một cường quốc ở xa hơn. - Bố cháu không còn ở Ý? – Just kêu. - Bây giờ đâu còn nước Ý. Có thể nói, chỉ là một bàn cờ chi chít những công quốc nhỏ. Miền đất mới mà bố cháu hiến thân phục vụ là một trong số những công quốc đó nhưng ở xa hơn nhiều.. - Có phải ở Thổ Nhĩ Kỳ? Chả là hơn hai mươi năm trước, vua Francois đệ nhất đã bất ngờ ký liên minh với Thổ, mặc dù nước này là thù địch với các nước theo Cơ đốc giáo từ thời Thập tự chinh. Sự kiện này đã làm chấn động nước Pháp. Ngay cả ở những nơi khỉ ho cò gáy, dân chúng cũng sôi nổi bàn tán về bọn Thổ. Mặc dù những tin tức trên thế giới rất ít khi đến tai Just, cậu cũng đã được nghe về quan hệ Pháp-Thổ. - Không phải nước Thổ. Nhưng bác có tên ra thì cháu cũng chẳng hiểu gù, vì chính bác cũng không biết nó ở đâu. Chỉ biết là phải đi thuyền lâu ngày mới tới. - Đi thuyền! Just reo lên – Ồ, thế bao giờ thì đi ạ? Khác với em gái, cậu có vẻ đã hoàn toàn siêu lòng. - Khoan đã cháu. Còn cần phải thu xếp vài việc. Đoàn mà cháu sắp tham gia không được phép mang theo đàn bà con gái. Vì vậy em cháu không thể đi theo. Bà làm bộ do dự, rồi quay sang Colombe: - Tuy vậy cháu còn nhỏ, thân hình chưa phổng phao, nếu khéo léo thì chưa chắc ai biết cháu là con gái. Bác có thể nói với họ, các cháu là hai đứa trẻ nhưng như thế thì bác liều lĩnh quá và các cháu đừng làm gì để bác phải ân hận đã giúp các cháu đấy nhé. Cái từ mập mờ “đứa trẻ” ấy sẽ không rõ ràng về giới tính khác nhau giữa hai cháu... - Ôi, cảm ơn bác, cảm ơn! – Just lại reo, hoàn toàn tin rằng người bác gái tốt bụng hơn cậu tưởng và cậu thật sự vui mừng vì không phải nghi ngờ quá lâu về tính độc ác của người đời nữa. Bà bác tiếp, đặc biệt hướng về Colombe mà bà cảm thấy chưa thực đồng tình: - Tuy nhiên, bác chỉ dám liều nếu các cháu cam kết giữ kín đến cùng và hết sức làm cho mọi người tin là thật. Ngay bây giờ, hai cháu phải cắt tóc giống nhau, theo kiểu thị đồng, ăn mặc giống nhau, ta sẽ giúp các cháu làm việc ấy. Nói tóm lại, tuy hai cháu chẳng giống nhau mấy – nói đến đây, bà ta cười không mấy thiện ý – nhưng ít nhất cũng giống nhau về cách ăn mặc, đầu tóc và cử chỉ thái độ. Rồi lại nói riêng với Colombe: - Cháu phải lấy một tên con trai và bác thấy tên Colin là tiện nhất để khỏa lấp những sai sót mà một chút lơi lỏng cảnh giác có thêt xảy ra bất cứ lúc nào. Cháu đồng ý chứ? Dù câu hỏi không đặt ra cho mình, Just nhanh nhẩu đáp: - Được ạ! Conlombe im lặng ngẫm nghĩ một lúc rồi mới gật đầu. - Tốt lắm. Nhưng phải nhớ rằng một khi đã lao vào rồi thì không thể lùi được nữa, phải theo đến cùng. Vì vậy, các cháu phải giữ kín giới tính Colombe thật cẩn thận trong suốt thời gian quy luật tự nhiên chưa để lộ thân phận thật của cháu. Bác tin là cháu sẽ làm được. - Bố cháu có khỏe không? Ông có nhờ bác chuyển thư cho chúng cháu không? – Just sốt ruột ngắt lời. Cậu chỉ muốn biết ngay những chi tiết thực tế và chỉ nghĩ đến cha mình. - Không. Chỉ có lời nhắn của ông ấy qua một người khác thôi. Nhưng các cháu nghe ta nói tiếp đã: ai hỏi gì phải trả lời hết sức thận trọng, nhất là về tuổi tác. Với mọi người, thì Just mười ba, còn Colin mười một, rõ chưa? Họ gật đầu, mặc dù bị chưng hửng vì mỗi đứa kém đứt hai tuổi, do đó sẽ bị coi thường hơn vì quá “trẻ con”. - Bây giờ các cháu nghe bác dặn một lời cuối. Họ vội dỏng tai, chờ xem bà bác còn cho ra mưu mẹo gì lần chót. - Những kẻ các cháu gặp trong cuộc hành trình thuộc đủ các hạng người. Trong đó có những đứa có thù hằn với bố các cháu, hễ tìm thấy là chúng không tha. Vậy tuyệt đối không để lộ tên họ của mình, hay họ của bố thì cũng vậy. Lời dặn này chứng tỏ bà ta chưa bao giờ thực sự chấp nhận việc chú em chồng khoác tên dòng họ Clamorgan lên đầu những đứa con hoang. Colombe hỏi ngay: - Vậy làm thế nào chúng cháu tìm được bố, nếu không xưng tên họ? - Bố sẽ tự tìm đến các cháu, nhờ những tín hiệu mà bác đã thông báo trở lại qua người mang tin. Bà bắt hai đứa nhắc lại những điều đã dặn. Thấy chúng đều đã nhập tâm, bấy giờ mới nói lời chia tay. - Bác cầu nguyện Chúa che chở các cháu. Đã từng thấy ở Ý quân đội Pháp vung những câu thập tự đánh nhau với binh lính của Giáo hoàng trong khi cả hai bên đều nói cũng thời một đức Chúa, nên Just và Colombe thấy tốt hơn cả là không nên bàn cãi về vấn đề tôn giáo. Còn về những ước mơ cho tương lại, họ biết, chỉ có thể trông cậy vào nhau. Từ nãy, họ vẫn nắm tay nhau và lúc này, họ cũng xiết chặt hơn nữa. Bà bác đi khỏi, họ trờ về nhà thu xếp quần áo, vừa làm việc vừa vui vẻ nhẩy nhót vì sắp được gặp lại bố, lại được trở về cuộc sống mà họ ưa thích. Just nói: - Thích không, bà ấy chẳng nhắc gì đến chuyện con ngựa! CHƯƠNG 5 Colombe và Just nhớ mang máng đã có lúc đi thuyền lênh đênh biển cả. Có lẽ là đi cũng với binh đoàn Marseille đến Gênes. Nhưng chuyến đi đã gần như bị lãng quên ấy là trên một chiến thuyền có tù khổ sai chèo, và Địa Trung Hải lần đó cũng sóng yên biển lặng. Con thuyền dài, sàn thấp, không cao hơn mặt biển là mấy. Nó có những cánh buồm phụ không lớn lắm nên chẳng làm ai kinh ngạc được. Máy lại ở dưới tầng thấp tối tăm, sát mặt nước, từ đó thoát ra những tiếng thở nặng nhọc, khàn khàn và tiếng roi đen đét. Hai đứa trẻ thời đó hãy còn quá nhỏ để có thể mường tượng ở dưới đó giấu kín những việc ghê sợ và đáng nguyền rủa chừng nào. Bởi vậy chuyến đi ấy để lại ấn tượng tốt, không chuẩn bị tư tưởng cho chúng đón nhận cú sốc sắp tới. Chiếc xe ngựa do Belloy cầm cương phi nhanh ngay từ lúc xuất phát ở Clamorgan. Hai anh em ngồi nép vào nhau ở phía sau, áo quần của họ do bà bác sai người may vội nên còn mới tinh. Just ôm tay nải trên đầu gối, quàng tay giữ chặt lấy Colombe. Lần nào đi đâu cũng thế, hai anh em đều kết thành một khối, chụm đầu vào nhau, truyền hơi ấm cho nhau. Song lần này chúng không được xõa tóc vào nhau nữa vì cả hai đều bị cắt ngán. Nhưng cả hai vẫn vấn vương cảm giác như mớ tóc dày của người kia đang cọ sát vào tai mình, mỗi khi chiếc xe gặp ổ gà nẩy lên. Ngồi ở vị trí ấy, họ có thể thấy phong cảnh vùn vụt lùi về phía sau. Mọi vật nhỏ dần rồi mất hút; họ không biết chắc, có phải mình đã từng sống ở trên đời không. Và cuối cùng, tháp vọng lâu của lâu đài Clamorgan biến dần cho đến khi không còn nhìn thấy nó đâu nữa. Colombe chợt nhớ đến dáng bà bác đứng trên cầu rút để tiễn biệt hai anh em và nói: - Em dám chắc, bà ấy không nói thật hết với mình, anh ạ, nhưng em chưa biết là về việc gì. Lúc xe đến khúc quanh rừng sồi, họ bỗng thấy bà Emilienne xuất hiện. Bà ra sức chạy theo xe, cố quẳng cho chúng một giỏ thức ăn, nhưng chúng không bắt kịp, bao nhiêu bánh và táo rơi tung tóe xuống đường. Tối hôm trước, họ đã ngồi khóc hết nước mắt cùng bà già tội nghiệp. Bà không nguôi nỗi buồn mất hái đứa trẻ, lại tiếc cho cơ nghiệp nhà Clamorgan từ này sẽ không còn người thừa kế, chắc sẽ tan hoang. Lúc nẫy do đi vội, chúng đã quên nỗi buồn tối hôm trước, nay thật xao xuyến thấy bà đột ngột xuất hiện ở cửa rừng. Chúng đã làm biết bao người khóc, những người mà trước kia đã được giao nuôi chúng! Số phận như buộc chúng phải làm khổ những người giầu tình cảm đã chót yêu thương chúng. Sau đó, họ đi dọc bờ biển và xuyên qua những trảng cỏ xanh nhợt do nước mặn. Havara-de-Graace là một thành phố cảng mới lập, chưa kịp có ngoại ô. Xe đang chạy giữa đồng quê, thoắt cái đã lăn bánh giữa hai hàng cần trục con dê của thợ mộc và giàn giáo của các công trình xây dựng. Họ chưa kịp nhận ra mình đã vào đến thành phố thì xe đã đỗ xịch trước bến cảng rộng bát ngát. Chỉ cần quay ngang là họ đã đối hiện với kè đá. Cả hai đều reo lên khi đột ngột nhìn thấy đám tàu thuyền san sát. Ba con tàu khổng lồ đứng lù lù như những tường thành đen kịt. Đuôi tàu, chạm trổ mặt những vị thần sơn son thếp vàng, nhô cao hơn mái nhà. Một rừng cột buồn đóng đai sắt giữ cho những chiếc gậy thăng bằng của nghệ sĩ xiếc trên dây leo lơ lửng trên không, một số gậy thì thẳng đứng, một số khác thì xiên chéo, tưởng như sắp rơi xuống boong tàu trong một tấm lưới khổng lồ mà toàn bộ cảnh chằng chịt những thanh gỗ chĩa ra tứ phía ấy cũng không thể phá vỡ được. Các tàu chiến do tù khổ sai chèo, như những cô gái bán hoa trong môi trường nhỏ, có dáng vẻ uốn éo mong manh của những cảnh quan hệ thầm lén và những lần ôm ấp vội vàng của biển cả, dù đôi lúc cũng gây ra chết chóc. Đằng này, ba con tàu kia lại là những người khổng lồ trong môi trường lớn – đại dương.. tất cả những cơn bão tố dữ dội trong cái khoản không gian vô hạn mà dù sao cũng phải tìm đến một cái đích hữu hạn nào đó, chúng coi việc nhỏ nhặt và bất biến. Chưa bao giờ hai đứa trẻ lại cảm thấy mình nhỏ bé đến như vậy, và, theo hậu quả gián tiếp, lại to lớn đến như vậy. Bởi, so sánh với những vật khổng lồ ấy, họ chẳng kém gì những kẻ tự phong cho mình cái danh hiệu người lớn, dù trong trường hợp này thì thật tức cười. - Anh nghe mà xem – Colombe xiết tay anh thì thầm. Cô bé không dám gọi đùa anh là Chàng Trai Dũng Cảm nữa. Đối diện với những con tàu vĩ đại đến thế kia, cái tên nghe thật kêu ấy, cả toàn bộ những thứ hoa hòe hoa sói của đẳng cấp hiệp sĩ nữa, cũng mất hết uy lực và tính hấp dẫn. Just lắng tai nghe. Đến lượt cậu cũng nhận ra điều gì đã làm cho lòng người bất an đến thế: bến cảng bao trùm một bầu không khí ắng lặng như tờ. Người ta chỉ nghe được tiếng dây buộc tàu rất to, to như cổ ngựa, căng căng chùng chùng theo nhịp lắc lư chậm chạp của thuyền bè. - Nào, xuống thôi, hai nhóc! – Belloy giục. Thực ra, hắn gọi rất nhỏ, nhưng, trong cái yên tĩnh chung, câu này lại vang lên như một tiếng hô. Hai anh em nhẩy xuống, mắt không rời đám tàu thuyền. Lúc quay lại phía sau, chúng mới phát hiện ra là bến cảng rất đông đúc, mặt dù rất yên ắng. Có khác nhiều người ở trước mặt chúng, đứng giữa các sọt đan bằng cành liễu, giữa các máy trục bất động, giữa các bao bằng đay. Trên cửa sổ và bao lơn các tàu buôn cũng đầy người. Có kẻ thì cheo leo trên các cọc cáp, có kẻ thì bám vào cột tín hiệu, có kẻ thì đứng chênh vênh trên những chiếc xe ngựa đã tháo bỏ cương nhưng càng lại lung lay rất đáng sợ dưới sức nặng của người và hàng hóa. Và tất cả đều hướng mắt về một phía. - Theo ta – Belloy ra lệnh. Hán lách người qua đám đông trước, may mắn thay, không dày đặc lắm. Hai anh em len lỏi theo sau không đến nỗi quá vất vả. Chỉ thỉnh thoảng mới có người, mắt vẫn chăm chú về phía xa, lầu bầu một vài câu khi bị giẫm vào chân. Càng đi ngược dòng người đứng sát vào nhau, giữa dãy nhà chứa hàng hóa và dãy lườn tàu, Belloy càng chậm bước. Không phải hắn bị ai ngăn cản mà là hắn mải nhìn mặt từng người mà mình vượt qua. Hắn có vẻ muốn tìm một người nào đó. Đột nhiên, như có dấu hiệu bí ẩn nào lặng lẽ lan truyền trong đám đông, tất cả mọi người đều quỳ gối xuống đất. Đó là một chuyển động chậm, như một đợt sóng lừng, đáp lại sự dâng lên hạ xuống đều đặn của mặt nước trong cảng, cũng mạng mẽ không kém, khiến tàu thuyền dập dềnh. Nhờ làn sóng người rộng khắp rạp xuống, hai anh em tự nhiên đâm ra cao hơn tất cả, bởi vì họ vẫn đứng yên, và thế rồi họ phát hiện ra cái mà ai cũng chăm chú nhìn. Phía xa bên kia quảng trường, sát mặt tiền cao vút của nhà thờ, có một cái bục che tán đỏ rực. Một linh mục mang áo choàng lóng lánh đang chuẩn bị làm lễ. - Nhìn kìa, anh, họ chuẩn bị xuất quân tham chiến. Just cũng có ý nghĩ giống em gái. Những buổi lễ ít ỏi mà họ đã dự là để cầu chúc cho quân đội sắp sang Ý chiến đấu. Tất cả đều tham gia vơi bầu nhiệt huyết chân thành: những bác lính già thì đầm đìa nước mắt, những anh lính trẻ măng, râu ria mới nhú chưa kịp xanh, thì chuẩn bị hiến dâng một cuộc đời sống chưa được bao lâu nhưng trống rỗng. Lúc này, Just và Colombe đã thấy được những khuôn mặt thể hiện rõ dấu hiệu kỳ lạ của cái chết và hy vọng, giữa khối đàn ông tập hợp trong im lặng này. Bởi vì, ngoại trừ trên các của sổ và ban- công, còn dưới bến cảng chỉ toàn thấy đàn ông. Bỗng dưng cảm động bởi lòng thành kính lặng thầm ấy, hai đứa trẻ bất giác quỳ xuống, chắp tay cầu nguyện mà không hiểu rõ tại sao mình lại làm như thế. Nhưng Belloy đã tóm cổ chúng lôi dậy: - Ô hay, làm gì thế? Đứng lên! Có những tiếng “suỵt, suỵt”, và tiếng làu nhàu. Song Belloy, theo sau là hai đứa trẻ, tiếp tục len loi qua đám người quỳ gối để tiến thẳng về phía lễ đài. Họ cố đến càng gần càng tốt một nhóm toàn hiệp sĩ đeo cây thập tự trắng của xứ Malte đang đứng trong một bệ bục. Trong khi chờ buổi lễ kết thúc, cả Belloy lẫn Just và Colombe đều chăm chú quan sát quanh mình. Không ai bảo ai, hai anh em cùng cảm thấy quang cảnh này phảng phất bóng dáng cha họ. Họ không thể dằn lòng không nhìn quanh để tìm kiếm khuôn mặt ông. Lễ đã xong, nhưng đám đông vẫn yên lặng. Viên giáo sĩ còn đang cầm cây thập tự đỏ chót, ban phép lành cho người từ nầy vẫn đứng trên bục. Mình ông ta được nhận vinh dự này: ông quỳ xuống để tỏ lòng thành kính. Rồi linh mục vung tay lên trời, như động tác thả chim, để ban phước lành cho quần chúng. Người trên bục đứng lên; vị linh mục đã làm xong chức trách, lui về, nhường chỗ cho ông ta. Just và Colombe đứng gần nhưng bị đội ngũ dày đặc những hiệp sĩ xứ Malte che khuất nên không nhìn rõ nhân vật quan trọng nọ. Hai anh em có cảm tưởng như ông ta là một người khổng lồ, cùng đứng trên bục mà vị linh mục hoàn toàn bị những người đứng dưới che khuất, trong khi ông ta vẫn cao vượt hẳn lên. Ông ta cất giọng trầm hùng mạnh, kêu gọi: - Hỡi anh em, vì vinh quang của Đức Chúa chúng ta, hãy hăng hái lên đường! Nước Pháp ở châu Mỹ muôn năm! Ngàn tiếng hô vang đáp lại. Khó tưởng tượng tại sao đang yên tĩnh lại chuyển thành ồn ào như vậy. Tiếng ồn kéo dài ra mãi, ai cũng muốn góp phần cầu khấn cho đoàn quân sắp ra trận. Người cao lớn nhẩy từ trên bục xuống đi hòa vào đám đông, nhưng có các hiệp sĩ Malte làm hàng rào bảo vệ. Ông ta đi đến đâu, ở đó vang lên tiếng hô: “Villegagnon muôn năm! Đô đốc muôn năm! Thẳng tiến tới Brésil!” Belloy lẵng nhẵng đi theo họ, bám lấy một hiệp sĩ để hỏi thăm, cuối cùng hắn cũng hỏi được điều mà mình cần. Hắn vất vả len đến gần một đức ông mập tròn, có chòm râu nhọn. - Ngài Gonzagues de La Druz! Vị này còn mải đi theo những sải bước dài của Villegagnon nên không nghe thấy. Belloy phải chạy tới, kéo tay ông ta. Gonzagues toan cự lại thì Belloy nói ngay: - Thưa ngài, đây là hai đứa trẻ... Gonzagues có vẻ như sắp thách hắn đấu kiếm. Rõ ràng là ông đang mải nghĩ đến chuyện khác. Một thoáng sau, ông mới chợt nhớ ra và lập tức trở nên ân cần: - À! Hai đứa cháu của bà... Ông bỏ lửng câu nói, tưởng Belloy sẽ cho ông biết bên của bà góa phụ mà ông quên không hỏi. - … của bà... bà gì ấy nhỉ? – ông lặp lại. Nhưng Belloy không hiểu, chỉ đáp: - Thằng lớn này là Just. Đứa kia là Colin. Chúng có mang theo đủ quần áo. Nhiệm vụ tôi đến đây là hết, xin chào ngài! Và, với sự nhanh nhẹn mà ai ở Clamorgan cũng gờm, với cái tài ẩn hiện như ma, lúc mà người ta bị bất ngờ nhất, Belloy đã lẫn mất tăm vào đám đông. - Đợi tí đã! – Gonzagues gọi với theo. Ông nhận thấy ngay mình đang gặp phiền phức với hai đứa trẻ vắt mũi chưa sạch này. Hơn nữa, do việc này, Villegagnon và đoàn tùy tùng lúc này đã đi khá xa, ông vội kéo luôn hai đứa trẻ cùng đi nhưng vẫn không bắt kịp chủ soái, đành bực mình đứng lại. Trên bến lúc nẫy yên lặng bao nhiêu thì giờ này ồn ào, hỗn độn bấy nhiêu. Người chạy lăng xăng như mắc cửi, gọi nhau ơi ới, mang vác những vật nặng, chở trên xe ba gác đủ loại hòm xiển. Ngài Gonzagues do dự không biết xử trí ra sao, rồi chợt nhớ mình vẫn chưa nhìn kĩ hai đứa thông dịch tương lai, ông đẩy chúng vào một ngôi nhà cửa mở toang, đưa lên cầu thang vào một hành lang vắng vẻ được trang hoàng những bức chạm bằng sành của Ý với thời Phục hưng, trên đó toàn là chân dung nghiêng của những người từ thời xa lắc xa lơ nào đó. - Để ta xem chúng mày thế nào nào – ông lần lượt nhìn chòng chọn vào tận mặt hai đứa trẻ. Just lo ông sẽ sờ nắn và phát hiện sự cải trang của em gái. Nhưng Gonzagues không phải người thô bạo đến vậy, vả lại ông không thể ngờ một trong hai đứa là gái. Ông chỉ muốn xem tuổi tác chúng thể nào, có hợp với mục đích sử dụng hay không. Ánh sáng dìu dịu ngoài cảng lọt vào cửa sổ hành lang cũng đủ để cho ông thấy rõ nét mặt chúng. Nhìn khuôn mặt nhẵn nhụi Colombe, ông hài lòng. Trái lại, nhìn Just ông sửng sốt: - Cái gì thế này? – vừa nói ông vừa nắm lên đôi vai vạm vỡ của cậu bé, xoay từ sau ra trước. Cằm của mày đã lún phún râu kìa. Bao nhiêu tuổi? - Mười ba. - Mười ba! Bậy! Hoặc là mày già trước tuổi, hoặc là mày nói dối. Tao đã đưa ối thằng chưa được vạm vỡ bằng mày ra trận rồi, thế mà chúng toàn trên mười tám cả rồi. Just coi đó như một lời khen. Cậu hăm hở định nói lên ý nguyện cầm súng chiến đấu ngay tức khắc. May mà cậu chưa kịp mở miệng, vì Gonzagues vừa khen cậu vạm vỡ đã chuyển ngay sang trạng thái giận dữ: - Biết ngay mà! Sao ta lại ngốc đến mức tin vào mụ nữa tu đó! – Rồi gườm nhìn Just, ông nói tiếp: Bây giờ ta biết làm sao? Tên đánh xe chuồn mất rồi, liệu chúng mày có biết đường trở về hay không? Colombe, nghĩ đến nguy cơ hai anh em có thể bị tách khỏi nhau, liền xen vào. Giờ cô đã là con trai, vậy có thể nhìn thẳng vào mắt người đối diện mà không sợ bị coi là trơ tráo, sỗ sàng. Cô nghiêm nghị nhìn Gonzagues, nhẹ nhàng thưa: - Thưa ngài sĩ quan, anh tôi đúng là hơn tôi hai tuổi. Tôi mười một, vậy anh ấy mười ba. Ánh ấy mới lớn phổng như thế được sáu tháng. Cha chúng tôi có vóc người cao và vạm vỡ, nên cha nào con ấy. Gonzagues nhún vai không nói gì, nhưng đã có vẻ dịu. Ông quay mặt nhìn ra phía bến cảng. Từ trên gác cao này, nhìn rõ các boong tàu dần dần đầy ắp người. Hàng trăm phu và thủy thủ mang vác đồ đạc riêng, họp thành từng hàng như kiến leo lên các ván gỗ dẫn lên cửa tàu. Lan can mạn tàu đã đầy người. Mọi người sắp lên tàu hết rồi, phải quyết định thật nhanh thôi. Gonzagues quay lại, tránh nhìn mắt Colombe và hất hàm bảo Just: - Thế là mụ xơ ấy đã lừa ta... Xơ Catherine! Trời chu đất diệt, rồi mụ sẽ biết tay ta. Thế còn bà góa kia, bà bác của hai đứa chúng mày ấy, tên gì nhỉ? Có được nói ra không nhỉ? Bà bác không dặn gì việc này. Colombe ngập ngừng đáp: - Marguerite. - Marguerite gì nữa? Không ai nói được họ của bà là gì ư? Nhưng rồi Gonzagues nén cơn bực xuống: cái tên Marguerite êm ái làm ông dịu lòng, không muốn cật vấn thêm. Dù lúc ở tu viện ông có hơi ngượng nghịu khi đối diện bà ta, ông vẫn giữ ấn tượng không tồi về khuôn mặt dịu hiền và mùi hương kín đáo của bà. Ông sẽ dành cho Marguerite một chỗ trong tâm khảm, lúc nào cảm thấy hồn thơ lái láng, ông sẽ trở lại. - Lẽ ra ta phải nhìn tận mắt các cháu trước khi nhận lời. Nhưng thôi, bây giờ thì đã muộn. Dù sao, các cháu đi là thực sự tự nguyện chứ? - Vâng ạ – cả hai đồng thanh. Gonzagues đẩy hai đứa đi trước: - Thế thì đi, kẻo nhỡ tàu. CHƯƠNG 6 Trong lúc mọi người ồn ào xô đẩy chuẩn bị lên tàu, có một thủy thủ lăng xăng đi lại trên bến, trông chẳng khác gì những người xung quanh. Hắn đi chân đất, ăn bận tồi tàn và bẩn thỉu như người có thói quen ngủ dưới đất và chỉ rửa ráy vào những ngày mưa bão. Nhưng hắn có một điểm khác: hai người Xcốtlen to cao, khoác khăn ta-tăng dài, trang bị xà mâu, trông cứ như vừa từ xứ sương mù tới, luôn bám sát hắn. Người thủy thủ có thể rẽ phải, rẽ trái, hai người đó không rờ hắn nửa bước. hắn bắt họ phải đi vòng bèo một hồi, chạy bộ ngược lên một con phố nhỏ ngổn ngang những cuộn dây chão mới tinh, đi qua một người bán bánh quế mà không thèm để ý đến lời chào của anh ta. Cuối cùng, hắn dẫn họ đến một ngôi nhà vuông vắn, rộng lớn bốn bề đều là mặt phố, được sử dụng làm quán trọ. Nhưng khi hắn định bước vào, một người Xcốtlen giữ hắn lại, cau mặt ra hiệu không được. - Vào thăm ông chú mà! Đến từ biệt. Ông chú già, già rồi – Người thủy thủ giải thích bằng ngôn ngữ mà cả hai người Xcốtlen đều mù tịch, tức là phương ngữ thành Venise. Vận dụng đủ mọi cử chỉ, điệu bộ, chắp hai ngón tay giật giật như để kéo dây chuông, hắn toát ra vẻ thật thà, hiền lành dù vẻ ngoài gớm ghiếc, mặt lởm chởm râu chưa cạo. Hắn nhắc đi nhắc lại chỉ muốn vào chào từ biệt ông chú trước khi lên đường và làm điệu bộ ôm, hôn. Kiểu ôm hôn kín cẩn một người già cả. Điệu bộ ấy khiến hai anh lính áp tải lại hiểu thành điều khác hẳn. Họ hơi đỏ mặt nhìn lên quán trọ, và nghĩ rằng cấm đoán một kẻ sắp đi xa lâu ngày muốn vào kiếm chút thú vui xác thịt, là không thuộc trách nhiệm của họ. Một anh đi vòng quanh quán, xác nhận quán chỉ có một cửa ra vào duy nhất. Họ liền cho anh thủy thủ vào, họ đứng bên ngoài canh gác, xà mâu gác chéo. Trong cái thành phố mới hình thành như Havre-de-Graace này, thành phố được Francois Đệ nhất cho xây để có cửa ngõ ra Đại Tây Dương, lại gần Paris và xứ Flandres, nhà cửa vẫn còn mới, lớp thạch cao mới trát hãy còn trắng và các thanh xà ngang, xà gồ vẫn có mùi gỗ tươi. Những điểm đó không thích hợp chút nào để tạo không khí ấm cúng cho một quán trọ của thủy thủ. Lúc này, trong gian phòng quét vôi trắng toát, ngọn lửa sáng rực nhảy nhót trong lò sưởi, bốn thủy thủ, nét mặt sầu thảm, đang ngồi chờ đêm xuống và uống bia trong những cái ca bằng sành xanh lơ, màu này gợi cho họ nỗi nhớ biển da diết. Tên thủy thủ người Venise đi lên gác, vào một phòng thông thẳng với cầu thang. Phòng lát gạch đỏ, đánh xi bóng lộn. Đồ đạc chỉ gồm một cái giường rủ màn che và một tủ lớn bằng gỗ sồi. Cửa sổ mở ra bến cảng chói chang ánh mặt trời. Trong mỗi hốc tường đầy hai bên cửa sổ có một chỗ trống để đặt ghế đá mà trong lúc vội dọn vào ở, người ta chưa kịp bọc đệm. Cadorim, lão lái buôn người Ý, ngồi đó và ra hiệu cho đồng hương ngồi trước mặt. Trước khi làm theo, tên thủy thủ cẩn thận thò đầu qua cửa để chắc chắn rằng hai tên lính vẫn ở bên dưới. Nhìn thấy các búp len trên trang phục của họ, hắn mới yên tâm. Hắn âu sầu nói: - Ông làm cho tôi bị rắc rối quá. - Mày nói gì? – Cadorim ra vẻ ngạc nhiên. Nhờ tao mày đã được ra tù. - Để rồi lại bị hai tên chết tiệt áp tải suốt. - Song chúng vẫn để mày được đi đâu tùy ý cơ mà? - Nhưng không rời nửa bước. Cadorim hạ thấp giọng: - Mày có nhận thấy, chúng có thái độ gì khác lạ với mày không, ý tao là chúng có nghi ngờ gì không? - Về mặt ấy thì không. Có lẽ chúng làm thế với tất cả những ai được giảm án tù để sung vào đoàn viễn chinh. Chúng sợ bọn chúng tôi lẩn mất. Hắn thở dài đánh thượt một cái. Cadorim cười tinh quái: - Thế chú mày không định chuồn đấy chứ? - Tên thủy thủ nhún vai nhìn lão. Lão giơ ngón tay trỏ dứ dứ như để đe nẹt một đứa trẻ. - Ông yên tâm, dù sao chúng tôi cũng sắp đi rồi. Cả hai nhìn ra ngoài bến. Ba chiếc tàu lớn đi Brésil vẫn còn đó, với các cột chính nặng trĩu nào trục căng buồm, nào dây chão, vượt cao hơn hẳn các tàu buôn và thuyền đánh cá thấp bé. Cadorim thốt lên: - Kể ra, trông cũng hùng vĩ đấy chứ! Tên thủy thủ cầu nhầu: - Phải, hùng vĩ với ai chỉ ngồi nhà. Nói rồi, hắn nhổ toẹt nước bọt xuống đất. Cadorim nhăn mặt: - Cửa sổ kia, sao không nhổ. Và dưới cửa sổ, có hai thằng Xcốtlen khốn kiếp – Tên thủy thủ cằn nhằn đốp lại ngay. - Thôi thôi, Vittorio ơi, ngày mai thì mày sẽ có cả đại dương đang hứng nước bọt của mày. Giọng nói nghiêm khắc của Cadorim đã áp đảo được tên thủy thủ. Hắn lập tức đổi thái độ, một việc mà hắn làm rất dễ dàng. Chính cái tài ấy là điều kiện thuận lợi để hắn trở thành một tên lừa đảo, nhưng chỉ trên đất liền thôi. Ai ngờ số phận lại đẩy hắn ra ngoài trùng khơi mà hắn rất sợ. Hắn rền rĩ: - Ôi, thưa ngài, ngài đã thương thì thương cho chót. Ngài cứu con đi. Ngài biết đấy, với con thì ở tù còn hơn phải ra đi lênh đênh. Chỉ vì nghe lời ngài hứa mà con... - Ta chưa quên lời hứa – Cadorim ngắt lời, rút dưới áo ra một bọc tiền. Đây, năm trăm đồng tiền vàng, như đã hứa. Vittorio vẫn giữ bộ mặt khổ sở, làm ra vẻ không quan tấm đến tiền: - Đành vậy, nhưng đến với lũ mọi rợ ấy thì tiền mà làm gì? Ngài có nghĩ là ở bên ấy, con sẽ được sử dụng thứ kim loại mà thực ra cũng từ nơi đó mà ra không? - Nếu vậy thì... – Cadorim nói, rồi cất nhẹm gói tiền. Vittorio vội đưa tay giữ lại, nhưng không kịp. Cadorim cười: - Ta kéo mày ra khỏi cái lũ đầu trộm đuôi cướp ấy là làm ơn cho mày đấy. Về tài cướp giật, mày chẳng đáng một xu. - Ngài cho con xin lại đi! Tên thủy thủ cuống quýt nói. Đồng thời, hắn quỳ sụp xuống đất, nhưng vẫn không quên khéo léo tránh đặt đầu gối ở chỗ mà lúc trước hắn đã nhổ nước bọt. - Thôi nào – Cadorim cười gàn – Mày đóng kịch giỏi, chính vì thế ta mới cần mày. Đứng lên. Lão chìa bọc tiền ra, và lần này Vittorio chụp ngay lấy. - Giờ mày thử nói những người cùng đi với mày là ai,. Thuộc loại người nào. - Toàn một lũ điên. Vittorio vừa nói vừa nhét vội bọc tiền vào cái bị nhầu nát hắn đeo trước cổ. Cadorim gật đầu: - Ta cũng gặp một số, xem ra chúng không hiểu biết lắm tại sao chúng đi. Song ta là thương nhân, đi sát quá sợ gây nghi ngờ. Mày gần gũi họ hơn, nói ta nghe nào. - Chưa bao giờ thấy đám người bát nháo như thế! – Vittorio nói - Nghe nói một lũ đầu trộm đuôi cướp lấy từ tù ra phải không? Cadorim đoán chừng, miệng cười mỉa mai. Không hề để ý đến câu nói khó chịu vừa rồi của Cadorim, tên thủy thủ đáp ngay: - Bọn ấy còn không đến nỗi nào đấy ạ, dù sao thì mục đích ra đi rất rõ ràng. Trong số những đứa được thả ra ngoài, không chỉ toàn bọn lưu manh bình thường đâu ạ, con nói thật đáy. Cứ một thằng hỏi được thả thì có mười thằng cuồng tưởng mà cái lão nhà thần học thần hiếc người Đức Luther đã làm cho khùng khùng điên điên bằng cách nhồi nhét vào đầu chúng cái ý nghĩ là sang châu Mỹ để được thấy tận mắt những việc nói trong Kinh Thánh. Thấy Vittorioi lại sắp nhổ nước bọt, Cadorim giữ tay ngăn lại, và tỏ vẻ rất quan tâm: - Vậy là mày bảo trong số thủy thủ, có rất nhiều bọn huygơnô[1]? Bọn chúng có tổ chức không? Chúng đi chiến đấu cho một Nhà thờ dị giáo? - Không hẳn thế. Mỗi đứa đều tự cho là mình có cách thờ Chúa tốt nhất, đúng nhất và thề sống mái với ai không làm như chúng. Những tên điên ấy đều đơn lẻ, không gắn kết với nhau. Thực ra, phần lớn chúng còn mâu thuẫn, cấu xé lẫn nhau. - Nhận xét khá đấy. Hóa ra mày có khiếu hơn tao tưởng. Vittorio bỗng làm ra vẻ tự hào: - Ngài nên nhớ, tôi đã có lúc tập tọng tu ở nhà thờ. Nếu họ không đuổi tôi ra một cách bất công... - Ta biết, biết. Có bọn cuồng tín mới ra tù. Rồi gì nữa. - Còn cái đám hiệp sĩ xứ Malte đeo thập tự trắng trước bụng, luôn vênh cáo, chúng tưởng vẫn còn sống ở thời Thập tự chinh. Chúng nhầm Brésil với Jérusalem. Cadorim cười ngất: - Thế Villgagnon, chủ soái của chúng, mày gặp chưa? - Nhìn từ xa thôi. Hình như là tên điên nhất cả bọn. - Sao mày biết? - Một lái buôn người Noóc-măng từng buôn bán nhiều với phương Đông vui mồm kể chuyện. - Lão nói sao? - Rằng cái ý tưởng đi lấy thuộc địa là từ lão Villegagnon này. Người Noócmăng đã đi sang Brésil suốt chục năm nay, có bao giờ yêu cầu thế đâu. Họ buôn bán ngay trước mũi bọn Bồ Đào Nha và mong vua nước Pháp bảo vệ họ, song chỉ cần một đồn binh và vài đội tuần tra là cùng. Đằng này, Villegagnon gần như đem cả nước vượt biển sang đó. Ngài có biết không, ông ta nhồi nhét lên tàu một phường toàn những nghề mà nền văn minh ở đây đã sản sinh ra: những thợ làm bánh, thợ cày, thợ dệt vải thôi, thợ đóng gỗ quý, người trồng nho, thợ làm mũ, thợ đóng sách và thợ lợp mái. Những anh chăn lừa dù bên ấy làm gì có lừa, những kẻ hát rong khi ở đó làm gì có phố mà rong. Họ còn chỉ tôi xem một anh thợ thùa khuy. Khốn khổ, sống giữa những kẻ ở trùng trụng, làm gì mà cần khuy nữa mà thùa! Cadorim thích trí, vỗ tay lên đùi cười sằng sặc. Ngoài quảng trường, đàn hải âu bay lượn và kêu kíu kít như hưởng ứng. Lão kích thêm dể mong Vittorio kể tiếp: - Thế mà ngoài những nghề ấy ra, ông ta lại không nghĩ đến việc tuyển thông dịch viên! Cái thừa thì lo rất xa nhưng cái cần thiết thì phút chót mới nghĩ ra. - Về vấn đề thông dịch viên thì không có gì đáng ngạc nhiên cả. Đoàn của họ không chỉ là con tàu của Nóe mà còn là cái lò bát nháo đủ mọi thứ ngôn ngữ nữa. Mấy tay người Pháp trong dòng đạo xứ Malte kéo theo cả một đoàn tù nhân mà mỗi lần đi chinh chiến, họ bắt được đem về Pháp. Tôi còn gặp những kẻ tự xưng là hậu duệ của các hiệp sĩ Thập tự chinh nữa cơ đấy. Còn lại là bộn Thổ phản đạo, bọn tù binh cướp được của mấy nước Bắc Phi như Ma-rốc, An-giê-ri, Tuy-ni-di, Tri-pô-li, và cả cái bọn Xcốt-lên chết tiệt nữa, vì nghe nói, Villegagnon cũng đã từng chính chiến ở bên ấy. - Thế thì bọn chúng quan hệ với nhau làm sao? - Cứ một đứa nói tiếng Pháp, thì có tới năm đứa phải ra hiệu bằng tay. Cadorim vẫn còn giàn giụa nước mắt vì cười: - Hay lắm, Vittorio thân mến ạ, cậu sẽ dễ dàng hoạt động trong môi trường đó. Tôi gửi cậu vào đấy là rất đúng. Nghe vậy, tên thủy thủ sấm mặt, co người lại, ỉu sìu như củi gặp nước. - Thưa ngài, bọn họ đi là không bao giờ trở về. Đó là việc của họ. Nhưng còn tôi, tôi chấp nhận đổi hình phạt tù lấy việc sang châu Mỹ. Chỉ với điều kiện là ngài phải cho tôi được hồi hương. Dứt khoát như thế. - Đúng. Nhưng điều đó chỉ tùy thuộc vào cậu. - Vào tôi? – Vittorio kêu. Có nghĩa là ngài bỏ rơi tôi, bắt tôi phải tự xoay sở. - Không, cậu bạn ạ, sẽ có những thế lực lớn tiếp sức cho cậu. Tuy nhiên, họ có cứu được cậu hay không là vẫn tùy ở cậu. - Thế là thế nào? – Vittorio ngơ ngác. Hắn liếc nhanh ra cửa, ra nơi quảng trường rộng lớn, ở đó có tự do. Hắn cảm thấy chơi vơi, hết lối thoát, nói: - À! Biết nay mà. Ngài không có cách gì rút tôi về. Ngài cần một tên gián điệp, chỉ thế thôi, cứ việc đâm đầu vào chỗ chết! Ôi, sao tôi lại dại dột tin rằng nước cộng hòa Venise có thể giúp tôi được gì ở tận bên Mỹ, trong khi tàu thuyền của mình còn bị đánh tan tác ở Hy Lạp. - Hãy để nước Cộng hòa của chúng ta yên. Nếu ai có thể cứu cậu, thì đó là người Bồ Đào Nha, không ai khác. - Thế cũng còn được! – Vittorio lập tức nở nụ cười trên khuôn mặt đen nhẻm. Ra ngoài làm việc cho người Bồ Đào Nha. Và số tiền này... Tôi hiểu rồi. - Cậu muốn hiểu thế nào cũng được – Cadorim thủng thẳng nói. - Nhưng ngài nói xem, lúc nào thì bọn Bồ Đào Nha đánh chặn chúng tôi? Họ có áp sát tàu mà tiến công không? Ôi, tôi chỉ mong lúc hiệp sĩ Malte bị đánh tan không còn mảnh giáp. Cadorim không nói gì. Vittorio tiếp tục theo đuổi suy nghĩ của hắn, càng nói càng hăng: - Hay là họ cứ để chúng tôi tới nới rồi mới tiêu diệt tại chỗ, bắt hết bọn Pháp làm nô lệ! Nếu vậy, nhờ ngài nói trước với bọ cho tôi xin mười đứa, mười đứa thôi, để tôi bắt làm việc khổ sai trong một mỏ vàng, trước khi xênh xang mũ áo trở về. Vừa lúc đó, có tiếng đạp cửa, tiếng nói ầm ầm dưới nhà. Cadorim thò đầu ra ngoài cửa sổ nhòm xuống: - Chỉ còn một lính Xcốtlen, không thấy thằng kia đâu. - Chắc nó đang lên tìm tôi. Muộn rồi. Tàu sắp nhổ neo. – tên thủy thủ nói rồi ngáp: - Ta dặn cậu điều cuối cùng, rất quan trọng. Không biết ở đâu và lúc nào, nhưng cậu hãy tin ta, sẽ có người đến liên lạc với cậu, nói là do ta giới thiệu. Người ấy rất đáng tin cậy, có gì cậu cứ thổ lộ với nó. Và cậu sẽ được cứu thoát. - Và lũ chó chết ấy sẽ bị treo cổ tuốt tuồn tuột! – Vittorio phấn chấn tiếp lời, lúc này đã hoàn toàn yên tâm về lời hứa chắc nịch của người đồng hương. Rồi, chợt nghĩ ra một việc quan trọng. Hắn vội hỏi, trong khi tiếng chân nặng trình trịch của tên Xcốtlen đã vang lên trên cầu thang: - Nhưng làm thế nào tôi biết...? Cadorim nở một nụ cười bí hiểm, nói khẽ sát vào tai hắn: - Kẻ cứu cậu sẽ nói mật khẩu... - Mật khẩu gì? - “Ribère”. Mặt Vittorio tái nhợt: hóa ra người cứu hắn ra khỏi tù vẫn muốn hắn phải mang ký ức tội ác đi tới tận cùng trái đất. Vì “Ribère” là tên của nạn nhân hắn đã giết chết. Nhưng bây giờ không còn là lúc để phân vân. Tên lính Xcốtlen đã lên đến đầu cầu thang. Vittorio lao ra cửa. Hắn chạy ra, lẹ làng và mềm mại hệt như một con mèo và đóng lại thật nhanh, nhanh đến mức tên lính không kịp nhìn thấy gì trong phòng. CHƯƠNG 7 Trong ba con tàu, thì tàu thứ ba mang tên Grande Roberge dành để đón Villegagnon, phó đô đốc xứ bretagne và đoàn tùy tùng, gồm các hiệp sĩ và các nhà thông thái. Ngài Gonzagues cũng được vinh dự ở trong số này và dĩ nhiên là không đời nào chịu để tuột mất quyền lợi. Ông dẫn Just và Colombe đến chân một con tàu khác, đậu ở hàng đầu, có tên Rosée. Đó là tàu buôn, nhưng được trang bị thêm một số đại bác. Nó nhỏ hơn hai tàu kia, chủ yếu để chở súc vật và các đồ đạc, vật liệu. Một tên lính cao lớn người vùng Bantích đứng chặn trước cầu lên tàu, không cho bất kì ai không có tên rõ ràng trong danh sách mà hắn cầm ở tay lọt quá. Do hắn đọc tiếng Pháp vẫn chưa thông lắm, nên một đám đông chen chúc xung quanh hắn, vẻ mặt người nào cũng nhớn nhác và căng thẳng. Đoàn thủy thủ, các tội phậm và binh lính đã lên tàu từ trước. Lúc này chỉ còn đám thợ mà tên Ban-tích đang gọi tên, lần lượt theo nhóm nghề, bằng một giọng chói tai, phát âm sai bét. - Toi goi tho mo! Hắn hô rõ to. Đám người nhốn nháo nhắc đi nhắc lại cho nhau nghe câu ấy, phân vân một lúc rồi cũng đoán ra. - À, hắn gọi hợ mổ gia súc đấy, anh em ạ. Hàng trăm người phải cao giọng gọi hộ, còn những kẻ khốn khổ ấy thì đứng rải rác khắp bến cảng, mải từ biệt vợ con lần cuối. Gonzagues đàng hoàng lách đám đông tiến vào, hất hàm dõng dạc, chỉ vào hai đứa trẻ hỏi tên lính: - Thông dịch... Phải tàu này không? Mặc dù rất muốn tuân lệnh, nhưng người lính cố căng mắt ra mãi mà vẫn không sao làm cho đầu óc thêm chút sáng sủa nào, chút sáng sủa như một buổi bình minh giá lạnh trên biển Ban-tích. Gonzagues sốt ruột giật lấy bản danh sách trên tay hắn, tự mình tìm lấy: - Nào, thông dịch... thông dịch... Just nghển cổ nhìn qua vai ông, cùng tìm, rồi chỉ tay vào một dòng chữ, dù cậu không hiểu thông dịch là gì. Gonzagues ngạc nhiên: - Thế ra mày cũng biết chữ! Tốt. Như vậy càng dễ thực hiện nhiệm vụ. Vậy là đúng đây rồi, lên đi. Đến bến đỗ đầu tiên, ta sẽ gặp lại. Rồi ông lần lượt đẩy hai đứa lên bữa ván dùng làm cầu. - Lên trình diện với người phụ trách trên kia, ông ấy xếp chỗ cho. Chúc may mắn! Nói rồi, ông quay ra đi về phía tàu Grande Roberge để trở lại với đoàn tùy tùng của Villegagnon. Colombe gạt tay Just không chịu cho anh dắt. Không loạng choạng chút nào, hai anh em thận trọng bước lên đến cửa tàu. Tới boong, họ đứng lại chờ người đến hướng dẫn tiếp, theo như lời dặn của ngài Gonzagues, nhưng chẳng có ai đến hỏi han gì cả. Tất cả những người mới lên đều dồn về phía thành tàu nhìn xuống bến gọi nhau í ới, vẫy tay rối rít. Còn các thủy thủ, ai cũng có việc phải làm, người thì kéo thừng chão, người thì leo lên dây néo, ngời thì bận rộn bên máy móc. Một ông béo, râu rậm, mặt đầy nếp nhăn đứng ở boong trên, chụm tay lên miệng làm loa và phát ra các hiệu lệnh. Just và Colombe chờ một lát rồi cũng làm như những người khác mới lên sau, nghĩa là đi lại loanh quanh trên boong. Không có người thân nào ở phía đất liền để chia tay, họ ra tựa vào mạn tàu phía nhìn ra biển, mạn này vắng tanh. Từ chỗ đứng nổi trên mặt nước này, toàn cảnh thành phố Havre de-Graace hiện ra, trông như một cái dãy lớn của thiên nhiên được vùi dọc bờ biển mà nắp là hệ thống đê đôi mới đắp. Từ mặt nước đen sì và bầu trời xám xịt màu chì, một chất ăn mòn của cõi vô tận nhỏ giọt xuống, và chẳng bao lâu nữa cảnh vật sẽ hòa tan trong bóng tối. Đáng lẽ những điều mới lạ sắp tới phải làm cho hai anh em hoang mang, song ngược lại, họ lại thấy niềm tin mà chúng vẫn đặt vào cha một cách hoàn toàn cảm tính trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Thời xa xưa, ông luôn chia sẻ với các con lòng say mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên, và lúc này niềm tin ấy mạnh mẽ hơn cả những kỷ niệm về ông mà họ còn nhớ. Mọi người đã lên tàu, các ván cầu đã rút. Các dây neo nặng nề chuyển động và tàu Rossée bắt đầu chòng chành mạnh hơn. - Em nghe này! – Just giơ một ngón tay, nói. Cậu vừa cảm thấy có một sức sống trỗi dậy trong lòng tàu. Thấy ngăn chuồng run rung, tất cả bò sữa, la thồ, dê cừu thịt, gà trứng, chó săn dưới hầm và trên khoang boong cùng đồng thanh gân cổ lên kêu om sòm. Cùng lúc, số thủy thủ leo chót vót lên đỉnh cột, cởi dây thả cánh buồm mũi xuống kêu soàn soạt. Gió từ trước vẫn thoải mái luồn qua các dây dợ, nay gặp vật cản, phát ra tiếng động mạnh như chàng khổng lồ bị đánh trúng bụng. Từ chỗ đứng của mình, Just và Colombe có thể không được chứng kiến quang cảnh nhổ neo. Nhưng boong sau thì hai anh em không được bén mảng tới, còn toàn bộ mạn tàu nhìn về bến thì lại bị mấy hàng dày đặc người chiếm lĩnh mất rồi, và chắc chắn là họ nhất định không nhường chỗ cho bất cứ ai, với bất cứ giá nào. Colombe liền kéo tay Just: - Ta lại đằng này. Cô bé vừa nhìn thấy phía mũi tàu có hai thủy thủ thiếu niên đứng trên thanh ngang của cột buồm, tay bám chặt vào dây chão. Just chưa kịp ngăn, cô đã len lỏi đến đó. Với lợi thế người rất nhỏ nhắn và nhanh nhẹn, cô còn vòng ra sau họ để chiếm lấy một chỗ ở thanh ngang hẹp nhô hẳn ra khỏi mạn tàu và leo lên ngồi, hai chân bỏ hai bên. Khó khăn lắm Just mới thuyết phục được hai thủy thủ trẻ cho leo qua bởi vì cậu to ngang và dễ làm họ ngã lộn xuống nước hơn em gái. Nhưng rồi cậu cũng đạt được mục đích và nhận ngay ra rằng, chỗ mà Colombe ngồi, trong thì có vẻ nguy hiểm nhưng vẫn còn tốt chán. Rất nhiều thừng chão điều khiển quy tụ về chỗ này và tạo thành một cái nôi để em có thể ngồi trên lòng anh. Rosée là tàu nhổ neo đầu tiên, trước mặt hai đứa là toàn cảnh khu vịnh mênh mông, lác đác đây đó những thuyền câu nhỏ xíu. Bây giờ ba cánh buồm nữa được thả xuống nên con tàu no gió thực sự chuyển mình. Như con ngựa thồ miễn cưỡng trờ lại với công việc sau thời gian nghỉ, no căng chân, vươn vai. Tiếng cột kèo, thừng chão kêu răng rắc trong lúc tàu từ từ ra khỏi bến. Sáu trăm giọng đàn ông thi nhau hét lời từ biệt đáp lại, từ dưới bến vọng lên là tiếng than khóc rền rĩ của đàn bà và trẻ con. Cả khối người đáng thương ấy bắt đầu chuyển động, từng gia đình dắt díu nhau chạy suốt dọc bến rồi trên mái con để biển cho đến tận cuối mũi đất liền để tiếp tục gọi với theo người thân trên tàu. Bây giờ, tàu Rosée đang nhằm thẳng đại dương mà tiến và, như thể đã phát hiện ra cái mùi mà nó đang tìm kiếm, phăng phăng lướt nhanh về phía Đại Tây Dương. Khi cả ba con tàu đã vượt qua các ngọn hải đăng, chúng tập hợp lại đội hình và bắt đầu đi kèm nhau. Tiếng gọi í ới không còn hướng về đất liền nữa mà truyền từ tàu này sang tàu kia, nghe yếu hẳn do gió rất mạnh. Chiếc tàu đo đốc vượt lên dẫn đầu và hai đứa trẻ được dịp thấy rõ hai tượng thần Neptune trang trí ở đuôi tàu nhấp nhô ngay trước mắt. Từng lúc, gió tạt đến một điệu nhạc kèn túi do đội vệ binh Xcốt- len của Villegagnon thổi mừng cuộc khởi hành. Yên tĩnh dần trờ lại. Người ướt đẫm bụi nước và sương mù, Just và Colombe đã tưởng là lễ nghi xuất phát đã chấm dứt. Nhưng rồi, các nòng súng bằng đồng tua tủa hao bên mạn tàu lại nhả ra hai mươi phát đại bác. Lâu nay hai đứa đã quên mất tiếng gầm khủng khiếp mà hùng vĩ của súng đạn. Loạt súng này vang lên như dấu mở đầu của cuộc sống mới của chúng. Colombe lẳng lặng gục đầu vào vai Just, cả hai cũng khóc thút thít vì vui sướng. Do tiếng gió rít át mất, chúng hầu như không nghe thấy tiếng quát giận dữ của tên lính người Ban-tích bảo chúng leo xuống boong tàu. * * * Sau phút nhổ neo nhộn nhạo, thuyền trưởng Imbert ra lệnh, tất cả mọi người phải được đưa đến đúng vị trí của mình và không được đi lại lộn xộn. Việc chuẩn bị khởi hành đã kéo dài hơn nhiều so với dự kiến. Trời đã về chiều. Một đám mây đen kịt cuồn cuộn ở cả một vùng chân trời rộng lớn, trông như một đàn bò rừng đang xông đến tấn công. Thuyền trưởng Imbert hiểu rằng không thể trông chờ điều gì tốt lành ở cơn dông sắp tới ấy được. Trên các tầng boong, không khí rất nhộn nhịp, mọi người tranh thủ lúc còn chưa ra đến vùng sóng to gió lớn để thu xếp chỗ nằm. Ai cũng muốn tìm nơi mắc võng đỡ bất tiện nhất, tùy theo quan niệm của từng người về tiện nghi, trong cái khoang chật hẹp và tối tăm mà đứng cũng còn khó. Và ai cũng nhận thức được một điều là, những chiến thắng đầu tiên và nho nhỏ ngày hôm nay có tính chất quyết định đối với việc họ sẽ khổ ít hay khổ nhiều trong hàng mấy tháng trời lênh đênh trên biển cả. Just và Colombe không kịp tham gia vào cuộc tranh giành ấy: tên lính lúc trước đã cho hai anh em lên tàu và dẫn chúng bước xuống ba lần cầu thang tới chỗ dành cho thông dịch viên. Vì người ta cho rằng thông dịch viên là trẻ con, tức là nhỏ người nên đã xếp cho chúng một hốc kín mít dưới hầm, cạnh kho, sát chỗ nhốt gia sức. - Cấm ra ngoài! – Tên người Ban-tích dữ dằn quát, hắn cứ luôn phải cao giọng như thế vì chẳng ai trên con tàu này hiểu được hắn nói gì. Just khom người vào trước, sờ soạng, và cảm thấy một bên là dãy thùng to, bên kia là vách bằng ván thùng; cậu lĩnh ngay một cái dằm. Cái hang tối này càng vào sâu càng loe ra. Cậu đã chạm tay thấy lớp tôn vỏ tàu, chắc ở đáy sẽ rộng hơn một chút. Nhưng chưa kịp tiến thêm nữa, Just đã đụng phải một khối thịt. Từ trong tối, có tiếng quát: - Thằng nào đấy? Không biết đây đã có người rồi à? Thì ra trong cái hốc hẹp đã đầy những người. Hai đứa đành bằng lòng với chút khoảng trống gần cửa. Họ tựa vào thùng ngồi bên nhau, tay bó gối. Just rụt rè hỏi những người không quen biết: - Xin lỗi, các ông có biết phải ở như thế này bao lâu? Tiếng cười gằn ha hả đáp lại. Giọng nói lúc nãy lại cất lên: - Các cậu ơi, nghe thằng nhóc nó hỏi kìa. Rồi hắn nhại lại tiếng nói của Just, vốn pha trộn âm hưởng giọng Noóc măng với giọng Ý nhẹ nhàng. Tiếng cười lại rộ lên. Nghe kỹ, Just đoán có tất cả ba người. Ánh sáng yếu ớt của một ngọn đèn từ bên ngoài bắt đầu chọc thủng bóng đêm. Họ im lặng chờ cho sáng rõ thêm để nhìn mặt những người bên trong. - Em khát – Colombe thì thầm vào tai anh. Một mùi nồng nặc bốc lên gồm lẫn lộn những mùi cỏ khô, mùi súc vật và mùi nhựa xảm thuyền. Đúng là hai anh em khát khô cổ. Giọng nói lúc nẫy lại cất lên: - Phải chịu vậy thôi. Thì ra trong cái hốc nhỏ này, một lời nói dù nhỏ cũng vang âm khiến ai nấy đều nghe thấy. - Có một cái thùng gì đây này – Colombe lại hỏi. - Ha! Ha! Thùng! Các cậu nghe chưa, chúng nó tưởng đang ở đâu vậy! Sao không bảo có cả một vòi nước luôn thể? Dù tiếng nói làm ra vẻ kẻ cả, hách dịch, nhưng giọng thì ồm ồm như người mới lớn. Colombe đoán là người nói cũng chỉ xấp xỉ tuổi họ - Vậy làm thế nào? – Cô vẫn hỏi một cách tự nhiên. - Chờ, chứ sao! - Thế thì lại hay. Có nghĩa là chuyến đi sẽ không lâu – Colombe đơn giản nhận định. Một loạt tiếng cười giễu cợt nổ ran. Giọng nói nọ nhại lại, khi tiếng cười sằng sặc đã bớt và họ lấy lại được hơi: - Không lâu! Đúng rồi, và tao khuyên mày đợi lúc tới nơi hãy uống. Giờ đã nhìn rõ hơn. Qua bóng rối mờ mờ, thấy có hai người nằm co quắp ở trong cùng, và phía trước họ là một chàng trai cao lớn, đầu gần đụng tới trần. Hình như anh ta cũng đã nhìn rõ hai anh em và thấy hài lòng trước vẻ tiều tụy của chúng. Hắn nói tiếp với vẻ hạ cố để nhấn mạnh hơn ơn huệ mà hắn đã ban cho chúng khi chịu nhận chúng dưới quyền mình: - Các cậu phải bằng lòng với chút đồ ăn thức uống mà một ngày hai lần mà người ta sẽ mang đến. Lúc đó thì cố mà ăn cho hết, chẳng nhiều nhặn gì đâu. - Bao giờ họ mang tới?- Just hỏi. - Phải chờ đến mai. Lúc nẫy họ đã cho ăn bữa tối, thì các cậu chưa tới. Thật cám cảnh! Từ lúc ở lâu đài Clamorgan ra đi, họ không có hột nào vào bụng. Giờ nghĩ đến rổ thức ăn của vú Emilienne rơi tung tóe xuống đường mà tiếc. Tuy nhiên, con tàu lắc lư bắt đầu làm họ nôn nao. - Các anh cũng là thông dịch? – Just ngẫm nghĩ mãi mới dám hỏi, vì vẫn chưa hiểu nghĩa của từ ấy. - Thì cũng như cậu thôi! Bao giờ đến xứ sở của lũ mọi là ta mới trổ tài. Just lắc đầu: - Nếu vậy, chắc chúng tôi sẽ xuống trước các anh. Vì chúng tôi không đến với lũ mọi. - Thế đi đâu? – Cậu kia trố mắt giả vờ quan tâm, đến lúc ấy hai anh em mới nhìn thấy ánh lấp lánh trong lòng trắng mắt cậu ta. - Đi gặp bố. Mọi người sắp cười toáng, thì cậu kia đã giơ tay ra hiệu, rồi lấy giọng phường tuồng, pha trò. - Yên nào, các bạn! Tình hình nghiêm trọng đây. Cậu ta chĩa một ngón tay lên trời ra vẻ nghiêm trang: - Xét rằng tàu này đi châu Mỹ, lên xứ sở của bọn mọi ăn thịt người; xét rằng tàu đi thẳng một mạch không cần bến nào giữa đường; xét rằng hai cậu này khai là đi gặp bố. Tôi kết luận: bố các cậu là mọi ăn thịt người! Nói rồi, cậu ta ra hiệu cho phép đàn em thả sức đùa cợt và chính mình cũng cười phá lên, hòa vào bản song ca những tiếng hô hố của hai đứa kia. Nhưng Just, nhanh nhẹn như những lúc đi săn bắn chim sáo bằng cung tên trong các khu rừng ở Clamorgan, đã bật dậy, nhẩy bổ đến chỗ cậu thiếu niên vừa chế nhạo mình và túm lấy cổ áo cậu ta. Just ghé sát mặt vào và dằn từng tiếng: - Cha chúng tôi là một thuyền trưởng rất tài ba và là một người luôn giữ lời hứa. Anh mà xúc phạm tới ông ấy thì sẽ phải trả giá đấy. Cậu kia hơi sững lại vì bất ngờ, nhưng rồi thu hết sức đẩy Just ra, nhẩy đè lên. Hai tấm thân lăn tròn trên sàn đầy dầu mỡ và rác bẩn. Dù cố sức đến đâu, Just cũng không chống cự được với một đối thủ dạn dày, có vẻ đã quen ẩu đả, lại còn thụi cậu những cú không thương xót bằng cả hai nắm đấm vuông chằn chặn, nặng như hai quả chùy nữa. Hai đứa còn lại, nhỏ hơn đã nhổm dậy để cỗ vũ đồng đội. Colombe vừa la hét vừa cố can, tách hai người ra. Tiếng ồn ào cộng thêm tiếng đạp thình thịch vào các thùng gỗ, khiến một thủy thủ gần đó chạy lại. Hắn ngó qua cửa hốc, giơ đàn lên soi sáng. Just bị rách toạc một bên tay áo, đưa tay quệt môi chảy máu. Tên kia thản nhiên phủi quần áo, lùi về phía sau. Mặc dù trông ít tuổi hơn Just, hình như là thế, cậu ta lại có thân hình chắc nịch của một người quen ăn no vác nặng sống ở thôn quê. Tất cả những gì thoáng hiện ra trong ánh sáng le lói là cái đầu cắt rất ngắn lốm đốm những mảng nấm tóc trắng hếu và cái mũi bèn bẹt. - Làm gì mà ồn thế? – Tên lính quát. Nếu muốn có chuyện thì hãy đợi đấy: sắp được nếm mùi ngay bây giờ đấy. Rồi hắn xách đèn đi. Tiếp theo là một lát yên lặng nặng nề để hai bên kiểm điểm những tổn thất của mình. Nhưng giây lát yên lặng ấy lại khiến cho họ nhận ra một sự náo động khắp con tàu. Thừng chão buộc các thùng tôn-nô mà chúng dựa lưng vào kêu cót két. Một thứ âm thanh như tiếng sôi bụng ùng ục, hòa lẫn tiếng rên rỉ của lũ gia súc, vọng lên từ những tầng đáy sâu nhất. - Rồi mày biết tay tao – cậu kia dứ dứ Just ưỡn ngực lên tỏ vẻ không sợ. Hai bên chắc lại sớm hầm hè nếu họ không dần dần thấy chân tay bải hoải, tâm trí lơ mơ vì say sóng. Họ cứ có cảm giác lảo đảo, cứ như những thùng to kia đã đổ sặp lên đầu. Lời đe dọa của tay thủy thủ bây giờ mới sáng tỏ trong đầu óc mờ mịt của chúng: bão sắp ập tới. Con bão tới thật, hung hăng như muốn trừng phạt những tội lỗi nào đó của con người mà chỉ có Trời mới biết. Suốt cả đêm, tàu dềnh lên tới ngọn, rồi lại chìm sâu xuống đáy những hõm sóng hung dữ. tàu va vào những bức tường nước dựng đứng, chao đảo đến mức gần lật nghiêng, nếu dưới hầm không chất hàng hóa, súc vật đến hết trọng tải thì có lẽ đã chìm nghỉm từ lâu rồi. Trong lòng tàu, tiếng ồn ào như chợ vỡ và tiếng kêu rống thảm thiết của đàn gia súc đã nhường bước cho một sự yên lặng nặng nề và khiếp sợ, sự yên lặng chỉ bị khuấy động bở tiếng gió rít và tiếng răng rắc khủng khiếp của cột buồm gẫy. Nhưng, dù bão có đáng sợ đến đâu, vẫn còn một mối nguy đáng sợ hơn rình rập từ phía bờ biển mà đoàn tàu hãy còn quá gần. Suốt đêm, thuyền trưởng Imbert không rời bánh lái, theo dõi từng phút từng giây để tránh đá ngầm và các hòn đảo nhỏ. May sao trời sáng rõ mà không xẩy ra chuyện gì. Bình yên trở lại và đến gần trưa thì nhìn thấy một đường viển bờ biển ở phía chân trời. CHƯƠNG 8 Sáng ra, Just thức dậy đầu tiên, đầu nặng chịch, lưng đau như dần do phải nằm trên sân mấp mô. Trong hốc vẫn tối mò nhưng vài tia sáng hẹp đã rắc hoa lên vách gỗ. Miệng đắng ngắt, cổ khát khô, Just nhìn Colombe vẫn đang ngủ; khi trông ra mấy đứa cũng cảnh nằm phía trong, cậu mới mang máng nhớ lại câu chuyện tối qua. Cả đêm trước đọng lại trong trí cậu là một loạt mơ hồ những lăn lóc, đụng độ, những tiếng còi huýt. Cơn say sóng đã làm đầu óc cậu hoàn toàn mê muội. Cậu có cảm giác mơ mơ màng màng đã nghe thấy tiếng la hét, chạy trốn và đuổi bắt, cả tiếng súng nữa. Nhưng thứ tự xẩy ra thế nào thì chịu. Lúc này, con tàu có vẻ đứng yên một chỗ, như người đã kiệt sức. Just thận trọng ló đầu ra ngoài: sàn tàu thật là hỗn độn. Những chiếc võng rách tung treo lủng lẳng, nhiều hòm lương thực rơi lỏng chỏng, những chiếc hũ sành vỡ tan, các thứ đựng bên trong chẩy lênh láng, ruồi nhặng bâu đầy. Mặt trời phủ lên boong một thứ ánh sáng nhợt nhạt, góp phần ảm đạm cho quang cảnh. Đáng sợ nhất là chung quanh im lặng không một tiếng động. Just lại chui vào trong, khẽ đánh thức Colombe. Phía trong, ba tên đồng hành cũng bắt đầu động đậy. - Khát! – Colombe rền rĩ. Just xốc Colombe ra khỏi hốc, dìu cô đi giữa đống ngổn ngang. - Ta lên trên xem sao. Anh không hiểu đã xẩy ra chuyện gì. Colombe bước đi, hai tay ôm đầu. Just phải đỡ em gái lên thang. Khoang boong giữa cũng lộn xộn và vắng người như dưới hầm, nếu không kể hai thủy thủ nằm vật dưới đất cạnh một khẩu pháo và đang rên rỉ. Lúc này, trời đã sáng sủa hơn và Colombe thấy tỉnh táo hẳn lại. Lên hết cầu thang cuối cùng, Just phải lấy tay che mắt. Trên cao là một màu xám đơn điệu nhưng sáng rực, như thể mặt trời, trốn sau lớp mây mỏng, cùng lúc đã trải ra rộng khắp. Nhìn ra, cậu thấy tàu Rosesee đang neo trong một cái vịnh có đồi thấp vây quanh. Hai tàu kia cũng thả neo gần đấy. Colombe giật tay Just, kêu: - Nhìn kia, chúng mình đến nơi rồi. Phía sau, họ nghe thấy tiếng mấy đứa còn lại cũng đã bước lên, và Colombe định báo tin vui cho họ, thì Just đã kéo tay và chỉ: - Tất cả họ làm gì ở đằng kia? Colombe quay đầu lại và thấy một quang cảnh bất thưởng. Tất cả những hành khách dân sự của tàu Rosée đều bị dồn hết về boong mũi, vây quanh là một hãng lính canh lăm lăm gươm đao. Hai khẩu súng hỏa mai, nòng gác trên giá ba chạc, nhằm về phía nhóm người ấy. Vài thủy thủ đi lại tự do chăm chú làm công việc của mình. Hai trong số họ cặm cụi lau rửa sàn gần cột buồm cái và vun một đám thủy tinh vỡ và gỗ vụ vào một cái xô to. Đây đó còn vương vãi những vũng lầy nhầy màu đỏ trông như máu. Bỗng một bàn tay vạm vỡ tóm lấy gáy hai anh em, và có tiếng nói to: - Ồ, còn sót bọn thông dịch này! Đưa chúng lại đây! – thuyền trưởng Imbert đang đứng giữa hàng quân đối diện những người bị bắt, gọi với. Hai anh em được điệu tới gần đám đông. - Chúng có năm đứa kia mà! Còn những đứa kia đâu, hả lũ quỷ con? – Imbert hỏi. Với cái cằm hai ngấn, đôi môi đầy đặn, trông ông thuyền trưởng có vẻ nghiêm khắc, nhưng không độc ác. Đúng là ông không độc ác thật, hơn nữa, vốn là một người hiểu rõ sự tàn bạo khôn lường của biển cả, ông không coi những tính xấu thông thường là quan trọng và không để bụng thù ghét ai. Khi đi ngang qua ông thuyền trưởng, Colombe đã có đủ can đảm để quỳ sụp xuống chân ông: - Thưa ngài, cầu xin ngài cho con nước uống. Con khát. Imbert quay sang hỏi thuộc hạ: - Chúng chưa được ăn uống gì sao? Một thủy thủ – hẳn là phụ trách việc này – lúng túng đáp: - Dạ, tại cơn bão… - Thế thì cho chúng ăn uống mau. Ta cần chúng để sử dụng vào việc mới. A, những đứa kia đây rồi. Hai cái bóng thiểu não, phải có một thủy thủ dìu, lết tới, theo sau là cái bóng thứ ba, thất thểu không kém. Đang uống cho hả cơn khát, Just cũng phải ngừng tay để tò mò nhìn mặt những đứa đã dám xúc phạm cha mình. Vì được ra thở khí trời và uống nước mát, cậu đã nhớ lại hết. Hai đứa bé hơn, đầu to và tứ chi gày guộc, rõ ràng là con nhà nghèo khổ, chuyên sống lang thang ngoài hè phố. Nhưng thằng lớn thì tinh ranh hơn, và chắc nó cũng không quên chuyện cũ. Hắn cao hơn Just, mặc chiếc cáo chẽn bẩn, quần cộc đến lưng chừng đầu gối. Hồi đêm, Just và Colombe đã thoáng nhìn thấy hắn có bộ mặt gân guốc và cái mũi bẹt. Nay giữa ban ngày, trông hắn chẳng còn gì đáng sợ nữa, và nếu không vì lời nói xấc láo đêm hôm trước, thì Just đã sẵn lòng tỏ sự thông cảm với một kẻ không may bị đời hắt hủi, dồn vào nghèo khó và bạo lực. - Cho cả những đứa này uống nước nữa – thuyền trưởng ra lệnh. Ông tỏ vẻ bằng lòng, nhìn những đứa trẻ và cười: - Rất hợp với những gì ta cần.