🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bóng tối và Ánh sao - Laura Kinsale full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
BÓNG TỐI VÀ ÁNH SAO —★—
Tác giả: Laura Kinsale
Người dịch: Hoàng Cương
Nhã Nam phát hành
Nhà xuất bản Hà Nội - 2018
ebook©vctvegroup
29-11-2018
Mở đầu
1887
Ở một nơi tối tăm và tịch mịch, anh ngừng việc suy nghĩ. Anh để những tiếng người ồn ào lắng xuống, để âm thanh của cơn gió nhẹ thổi qua những tấm rèm lấp đầy tâm trí. Anh nhìn bóng phản chiếu lờ mờ của chính mình trong gương cho tới khi khuôn mặt đó biến thành của một người xa lạ, một tập hợp các đường nét không biểu cảm trong cặp mắt màu bạc và cái miệng cứng nhắc… và sau đó không còn là người lạ nữa, chỉ là một chiếc mặt nạ khắc khổ… rồi thậm chí xa hơn thế: không còn nhận dạng mà thay bằng những hình thù cơ bản. Chỉ có quang phổ của bóng tối và ánh sáng, một thực thể hữu hình và vô hình.
Với thực tế trước mắt, anh dự định thay đổi thành một người khác. Để giấu đi màu tóc vàng, anh mượn một món đạo cụ từ nhà hát kịch kabuki[1] - chiếc mũ trùm đầu màu đen mà các kuroko[2] đôi khi họ kín đáo bước lên sân khấu để thay đổi bối cảnh. Để che diện mạo thật, anh không vẽ mặt hay bôi nhọ nồi vì như thế chưa đủ - khó tẩy trang nhanh và quá dễ bị nhận ra. Thay vào đó, anh bịt một chiếc khăn che mặt màu than chì chỉ để hở đôi mắt làm từ loại vải mềm như chiếc áo choàng màu xám đen anh buộc quanh thắt lưng. Bên trong bộ trang phục tối màu anh mang theo thiết bị dùng để trèo tường, để phóng điện, để trốn chạy hay sát thương, để giết người. Anh chọn đi tabt[3] mềm thay cho giày vì nó giúp bước đi nhẹ nhàng và thật chân hơn.
Đất… nước… gió… lửa… và khoảng không. Anh ngồi khoanh chân trên sàn. Bằng đôi tai, anh lắng nghe tiếng gió dịu dàng nhưng không ai đủ sức chặn lại. Bằng những đốt xương, anh cảm nhận toàn bộ sức mạnh to lớn của mặt đất phía dưới. Bằng tâm trí, anh chấp nhận sự trống rỗng. Bất động, anh hòa lẫn vào bóng đêm: vô hình trong gương, tan vào cơn gió.
Với những ngón tay đan vào nhau, anh triệu hồi quyền lực của ý chí để thay đổi thế giới như nó vốn hiện hữu. Anh đứng dậy và biến mất.
Chương 1
London, 1887
Giữa đêm khuya, Leda tự nhiên choàng tỉnh. Nàng đang mơ về những quả anh đào. Giật bắn người theo phản xạ, cựa mình một cách khó chịu để hít lấy không khí đầy khó nhọc, cơ bắp co thắt khiến tim đập thình thịch khi nàng nhìn đăm đăm vào đêm tối và cố gắng điều hòa nhịp thở - để nhận biết sự khác biệt giữa giấc ngủ và thực tại.
Anh đào… và mận, có đúng không? Hay bánh ga tô nhân hoa quả? Bánh pút đinh? Công thức chế rượu bổ? Không… à, không phải… là cái mũ. Nàng nhắm mắt lại. Tâm trí mơ màng lướt qua câu hỏi sẽ dùng anh đào hay mận trang trí cho cái mũ bê rê Olivia kiểu vương miện may sẵn có thể mua ngay vào cuối tuần này, khi Madame Elise trả tiền công nhật.
Theo cảm tính, nàng thấy cái mũ là đề tài để ngẫm ngợi an toàn và phù hợp hơn việc nàng biết mình buộc phải xem xét - đó là căn phòng tối và vô vàn xó xỉnh thậm chí còn tối tăm hơn nữa, và sự quấy rầy nào có thể đã xảy ra, đến nổi đánh thức nàng khỏi một giấc ngủ sâu và vô cùng cần thiết.
Màn đêm gần như yên tĩnh, ngoại trừ tiếng tích tắc của đồng hồ treo tường và cơn gió nhẹ thổi vào cửa sổ tầng gác mái, đêm nay mang theo mùi hương của sông Thames, thay vì mùi dấm chua và chất chưng cất như thường lệ. Thời tiết của Nữ hoàng,
người ta vẫn gọi quãng thời gian đầu hè này như vậy. Leda cảm nhận được nó trên má mình. Các hoạt động chào mừng Lễ Jubilee khiến những con phố trở nên ồn ào hơn vào buổi tối, nào
là đám đông và sự nhốn nháo của những trò giải trí, những người ngoại quốc vô cùng kỳ dị đến từ mọi nơi trên trái đất, đội khăn xếp và đeo đồ trang sức trông như vừa từ lưng voi bước xuống.
Nhưng lúc này màn đêm đã lặng im. Trong khung cửa sổ để ngỏ, nàng có thể thấy bóng dáng cây phong lữ mình trồng, và đống lụa hồng làm xong lúc hai giờ sáng đang trải ngang bàn. Chiếc váy phải được chuyển đến cho khách lúc tám giờ, sau khi hoàn tất phần viền và gấp nếp cũng như thêu hình ở phần đuôi váy. Trước đó, Leda cũng phải ăn mặc chỉnh tề, và có mặt ở cửa sau nhà Madame Elise từ lúc sáu giờ rưỡi với bộ váy cất trong giỏ liễu gai để một cô thợ may mặc thử, kiểm tra lỗi rồi mới cho người giao hàng mang đi.
Nàng cố gắng tìm lại giấc ngủ quý báu nhưng cơ thể vẫn cứng đờ và tim đập thình thịch. Dường như có tiếng động? Nàng không chắc mình nghe thấy một âm thanh thực sự hay chỉ là tiếng trái tim đang rộn ràng trong lồng ngực. Vậy là theo tự nhiên, tim nàng lại đập mạnh hơn nữa và cái ý nghĩ vốn chỉ là một sự thừa nhận mơ hồ cuối cùng cũng hoàn toàn choán lấy tâm trí nàng, rằng ai đó đang ở trong phòng này.
Nỗi kinh hoàng mà Leda trải qua khi đối mặt với ý niệm đó sẽ khiến quý cô Myrtle khịt mũi. Quý cô Myrtle cũng là người can đảm. Quý cô Myrtle sẽ không nằm bất động trên giường, tim đập thình thịch. Quý cô Myrtle sẽ bật dậy, vớ lấy que cởi lửa vốn đặt ở vị trí rất tiện lợi và thuận tay ngay bên cạnh gối, bởi vì quý cô Myrtie luôn có thói quen lo xa để phòng ngừa mọi trường hợp nguy cấp, như khi nhận ra mình không phải người duy nhất trong căn phòng tối.
Leda không được như vậy. Ở khía cạnh đó, nàng biết mình là nỗi thất vọng với quý cô Myrtle. Nàng cũng có một que cời lửa nhưng lại quên để nó ở gần trước khi đi ngủ vì nàng lúc nào cũng mệt mỏi, và vì nàng là con của một phụ nữ Pháp hời hợi.
Tay không, nàng chẳng còn cách nào khác ngoài việc tiến hành bước hợp lý tiếp theo và tự thuyết phục bản thân rằng ngoài mình ra thì nhất định không còn ai trong phòng nữa. Chắc chắn không. Từ chỗ nằm, nàng có thể quan sát thấy hầu hết căn phòng, cái bóng trên tường chỉ là chiếc áo choàng và cây dù treo trên cây móc quần áo từ một tháng trước, sau đợt lạnh cuối cùng vào giữa tháng Năm. Trong phòng có một cái ghế, một cái bàn và cái máy may thuê, một bồn rửa mặt, một chiếc bát và bình đựng nước. Bóng dáng hình nộm của bà chủ tiệm may bên bệ lò sưởi khiến Leda thoáng giật mình nhưng khi căng mắt ra, nàng có thể nhìn xuyên qua những lỗ dệt thưa trên thân và váy áo để thấy hình vuông của vỉ lò trong lò sưởi. Kể cả trong bóng tối nàng cũng nhìn rõ được những thứ đó, giường được đẩy sát vào tường của tầng gác mái, nên trừ phi kẻ đột nhập đang treo mình trên xà nhà như một con dơi, còn không, nàng nhất định chỉ có một mình.
Nàng nhắm mắt lại.
Rồi mở mắt ra. Cái bóng kia có phải đã chuyển động. Nó hơi dài so với chiếc áo choàng, đổ bóng xuống tận khoang tối sát sàn nhà? Chẳng phải chỗ tối hơn kia là bàn chân của một người đàn ông sao?
Vô lý. Hai mắt đờ đẫn vì kiệt sức, nàng nhắm lại lần nữa, hít một hơi thật sâu.
Rồi mở mắt ra.
Nàng nhìn chằm chằm vào bóng của áo choàng. Rồi tung chăn ra, lồm cồm ngồi dậy và la lớn,“Ai đó?”
Chẳng có gì ngoài sự yên ắng đáp lại lời dò xét thông minh đó. Đứng chân trần trên sàn gỗ xù xì lạnh ngắt, nàng thấy mình quá ngớ ngẩn.
Xoay nửa vòng, nàng rà bàn chân qua cái bóng đen kịt dưới áo choàng. Rồi lùi bốn bước về phía lò sưởi, mò mẫm tìm que cời lửa. Với dụng cụ đó trong tay, nàng thấy mình đã làm chủ tình hình tốt hơn. Nàng đưa que cời về hướng áo choàng, chọc chọc đầu thép quanh cái áo, rồi lùa nó vào từng ngóc ngách sâu nhất trong phòng, kể cả dưới gầm giường.
Những chỗ tối đó hoàn toàn rỗng không. Chẳng có kẻ đột nhập nào. Chỉ là những khoảng không trống trải. Cơ bắp trên người thầm lỏng vì nhẹ nhõm, nàng đặt bàn tay bên ngực, thầm cầu nguyện tạ ơn và kiểm tra để thấy cửa vẫn khớp rồi mới quay lại giường. Cửa sổ mở nhưng vẫn đủ an toàn, nó nằm phía trên con kênh bùn đặc quánh, chỉ có thể chui và theo lối xà ngang dốc đứng. Nhưng nàng vẫn cứ để que cời trên sàn, ngay sát chỗ nằm.
Kéo tấm chăn vá víu nhiều chỗ lên tận mũi, nàng chìm vào một giấc mơ dễ chịu, trong đó con chim sẻ nhồi bông - đẹp đẽ và trau chuốt, đúng mốt đến nỗi người ta còn tưởng nó duyên dáng hơn cả những quả mận và anh đào khi làm viền cho chiếc mũ bê rê Olivia - nắm một vai trò quan trọng.
***
Lễ Jubilee đẩy mọi thứ, mọi người vào guồng quay điên cuồng. Khi Leda bước vội lên cầu thang sau ở phố Regent thì trời
đã sáng hẳn, những cô thợ may đều đã nghiêng đầu bên mọi kim dưới ánh đèn. Đa số bọn họ trông như đã ở đây cả đêm - có vẻ đúng thế thật. Năm nay, sự vội vã thường thấy của mùa lễ hội đã tăng lên, tiệc tùng, dã ngoại, các cô gái xinh đẹp, những mệnh phụ kiểu cách, tất cả đều bị cuốn theo vô vàn cuộc gặp gỡ và tiêu khiển cho Lễ Jubilee. Leda không ngừng chớp đôi mí mắt nặng tới khi nàng và cô thợ trưởng bung chiếc váy rộng từ trong giỏ. Nàng đã kiệt sức, bọn họ cũng vậy, nhưng sự hào hứng và háo hức thật dễ lây lan. Ồ, thật tuyệt làm sao khi được mặc bộ váy đáng yêu đến vậy. Leda nhắm mắt lại và lùi khỏi bộ váy dạ hội, thoáng chóng mặt vì đói và lo lắng.
“Hãy ăn một cái bánh đi,” thợ trưởng bảo cô. “Tôi chắc chắn cô đã không thể xong việc trước hai giờ sáng, đúng không? Cứ uống trà nếu muốn nhưng phải nhanh lên đấy. Sẽ có mặt cuộc hẹn sớm. Một đoàn khách nước ngoài đến đây vào đúng tám giờ - và cô phải chuẩn bị sẵn những cuộn lụa nhuộm.”
“Nước ngoài sao?”
“Từ phương Đông, tôi chắc vậy. Tóc họ màu đen. Nhớ kỹ vào, để da dẻ họ nhợt nhạt là không được đâu đấy.”
Leda bước vội sang phòng bên, uống vội tách trà đường cùng bánh nướng rồi chạy lên lầu, chào những cô thợ ở đó khi đi ngang qua. Tới tầng ba, nàng khom người chui vào căn phòng nhỏ, cởi bộ váy màu xanh hải quân giản dị và áo khoác bông, tắm bằng nước ấm đựng trong xô thiếc và bồn rửa bằng sứ, mặc áo lót và quần trong rồi cứ thế đi thoăn thoắt dọn hành lang.
Leda gặp một nữ học viên giữa hành lang. “Họ chọn đồ xong rồi,” cô gái nói. “Vải lụa sọc vuông - để bày tỏ lòng tôn kính trước tình cảm Nữ hoàng dành cho Balmoral.”
Leda khẽ kêu lên giận dữ. “Ồ! Nhưng tôi…” Nàng kịp kìm nén khi suýt nữa đã thốt ra lời thừa nhận rất khiếm nhã rằng mình không thể chi trả nổi cho bộ quần áo mới. Nhưng đó sẽ là đồng phục của tiệm trong quãng thời gian còn lại của Lễ Jubilee và Leda sẽ phải trả bằng chính tiền lương của mình.
Quý cô Myrtie qua đời đồng nghĩa với việc mọi thứ trở nên thực sự khó khăn. Nhưng Leda sẽ không than vãn về điều đó, không bao giờ, cho dù cuộc sống có tồi tệ tới đâu chăng nữa. Chỉ là nàng đã ngủ quá ít, bất an, dậy muộn và thường cáu bẳn. Nàng cảm thấy muốn đá một cú hơn là muốn khóc, vì quý cô Myrtle đã vẽ ra một kế hoạch chu toàn cho tương lai, để lại bản di chúc hợp thức, trong đó, hợp đồng cho thuê ngôi nhà nhỏ của bà ở Mayfair, nơi Leda được nuôi dạy lớn khôn, được dành cho cháu trai bà, một người đàn ông góa vợ sắp bước sang tuổi tám mươi, với điều kiện Leda phải được ở lại và quản lý nó cho ông ta, căn phòng ngủ vẫn là của nàng nếu muốn, và nàng quả thực rất muốn thế.
Người đàn ông góa đã đồng ý, thậm chí ở ngay tại văn phòng luật sư còn nói thật vinh hạnh vì tiểu thư trẻ tuổi của quý cô Myrtie đã nhận lời trông nom nhà cửa. Nhưng chính vào lúc mọi thứ đã được thu xếp vừa lòng cả đôi bên thì ôi thôi là xúi quẩy. Ông ta đi vào làn đường dành riêng cho xe buýt hai tầng, không kịp để lại di chúc hay người thừa kế hay thậm chí một ý kiến rõ ràng nào về chuyện đó nữa.
Nhưng thế mới là đàn ông. Cân nhắc hết mọi nhẽ thì đó là giới có phần ngu ngốc.
Ngôi nhà ở Mayfair khi đó về tay một cháu họ xa của quý cô Myrtle, và bà ta chẳng muốn sống ở đó. Cũng không giữ Leda lại
quản lý những người thuê mới. Leda quá trẻ để trở thành một quản gia hợp cách, như thế là không được. Không, cho dù quý cô Myrtle, một người mang họ Balfour, đã nuôi nấng Leda ở phố South. Lôi một cô gái ra khỏi vũng bùn và đặt cô ta cao hơn địa vị tự nhiên của mình là việc làm ngớ ngẩn. Người họ hàng xa đã băn khoăn về chuyện này, thực sự thế. Nhưng rõ ràng người cô, Myrtle, lúc nào cũng là một người kỳ dị - cả dòng họ đều biết chuyện đó - chưa tính đến việc bà đã từng đính hôn với một tử tước, rồi thay vào đó thoát ly gia đình với kẻ tồi tệ kia, để bản thân đi quá giới hạn cho phép, và chẳng phải cuộc hôn nhân kia luôn đem đến rắc rối cho bà đó sao?
Người họ hàng xa không tìm thấy giải pháp khả thi nào để giữ Leda ở lại làm bất cứ công việc gì, nàng không phù hợp với việc lao động chân tay hay nghề may vá buồn tẻ và bất thường, bà ta cũng không thể nhắm mắt viết giấy giới thiệu cho Leda làm một chân đánh máy. Dù rất lấy làm tiếc, thực sự lấy làm tiếc, nhưng bà ta không biết gì về cô Leda Etoile ngoại trừ mẹ cô là người Pháp, và viết một điều như thế trong giấy giới thiệu phỏng có ích gì?
Quả thật, như sau này Leda nhanh chóng nhận ra, dường như chỉ có hai chỗ sẵn sàng chào đón một quý cô trẻ gia giáo với gốc gác Pháp thiếu minh bạch, và phòng trưng bày của một tiệm may váy thời trang là nơi đáng kể đến trong số đó.
Leda hít thở thật sâu. “Chà, vậy chúng ta sẽ giống như nhóm múa Cao nguyên mặc váy sọc vuông, phải không?” Nàng nói với cô học việc. “Bộ của tôi xong chưa?”
Cô ta gật đầu. “Tôi chỉ lược gấu váy nữa thôi. Cô có một cuộc hẹn lúc tám giờ đấy. Với người nước ngoài.”
“Người phương Đông,” Leda nói khi theo chân cô gái đeo tạp dề trắng vào một căn phòng đầy vải vụn hoa văn đủ màu sắc nằm la liệt trên thảm và chiếc bàn dài. Trong lúc Leda thắt chặt coóc xê và điều chỉnh vòng kẽm của váy độn sau hông, cô học việc giũ thăng chiếc váy sọc xanh lá và xanh dương. Leda giơ hai cánh tay để tròng bộ váy qua đầu.
“Người phương Đông à?” Cô học việc lẩm bẩm với đống kẹp tăm trong miệng. Cô rút chúng ra và dính vào váy một cách thành thạo. “Có phải dám bẻ cổ gà trong khách sạn Langham không?”
“Dĩ nhiên không phải,” Leda nói. “Tôi tin rằng chính một vị sultan đã… à… gây ra sự cố không may cho đàn gia cầm.” Rõ ràng bẻ cổ gà không phải là chủ đề thích hợp một quý cô nên nhắc đến. Leda cố gắng tận tình mở mang đầu óc cho cô gái. “Những người phương Đông đến từ nước Nhật. Hay tên chính thức là Nippon.”
“Thế nước Nhật ở đâu?”
Leda nhíu mày, hơi nghi ngờ kiến thức địa lý của mình. Quý cô Myrtie từng đề xướng mạnh mẽ cho việc giáo dục phụ nữ nhưng lại thiếu phương tiện cần thiết - một quả địa cầu chẳng hạn - nên một số bài học của bà chỉ để lại những ấn tượng mờ nhạt.
“Rất khó mô tả,” nàng trì hoãn. “Tôi sẽ chỉ cho cô trên bản đồ.”
Cây kim trong tay cô gái thoăn thoắt trên mặt lụa. Leda nhăn mũi khi thấy hình ảnh phản chiếu của bộ váy sọc vuông trong tấm gương đã bị nứt. Nàng không chuộng kiểu hoa văn khổ lớn thế này, và tồi tệ hơn, vải lụa cứng không phủ vừa vặn trên
khung nâng. “Nhìn xem nó nhô ra kìa.” Nàng dằn dỗi kéo mạnh tấm vải lớn lòa xòa sau hông. “Nhìn tôi chả khác gì một con gà mái Scotland.”
“Ồ, cũng không đến nỗi nào, cô Etoile. Màu xanh hợp với màu mắt cô đấy chứ. Nó làm chúng nổi bật hẳn lên. Phù hiệu cài tóc để trên bàn kia.”
Leda quờ tay với chiếc phù hiệu, thử gắn nó lên mái tóc màu gụ tối ở nhiều góc khác nhau cho tới khi vừa lòng mới thôi. Hoa văn sọc xanh lá của phù hiệu gần như bị chìm trong màu tóc nên Leda chỉnh cho nó nằm ở một góc nghiêng thật ngỗ ngược. Nếu còn sống, quý cô Myrtle ắt hẳn sẽ liếc qua một cái và tuyên bố ngay góc độ đó quá điệu đàng, không phù hợp với vẻ đẹp thanh lịch. Và nhân cơ hội kể lại chuyện mình đã từ hôn một tử tước - hành động rất thiếu cân nhắc, bà sẽ thừa nhận như vậy - nhưng các cô gái ở tuổi mười bảy thường đều được cho là sẽ cư xử cực kỳ ngớ ngẩn. (Đến đoạn này luôn có một ánh mắt đầy biểu cảm dành cho Leda bất kể nàng mười hai hay hai mươi tuổi). Quý cô Myrtle vốn thích cái ấn tượng khiêm tốn đầy quý phái. Việc góc nghiêng tinh tế này rất phù hợp với ngân sách vô cùng khiêm tốn dành cho việc mua sắm những món trang sức tầm thường và đồ thời trang rẻ tiền và một thực tế sẽ được những người quen thân quý cô Myrtle tốt bụng bỏ qua: họ là những quý bà quý cô gia giáo cũng ở trong hoàn cảnh tương tự và thấy mình hoàn toàn đồng ý với chuyện đó.
Nhưng quý cô Myrtle đã qua đời, và dù trong ký ức của Leda có trân trọng bà bao nhiêu đi nữa thì khiếu thẩm mỹ giản đơn như vậy cũng không được hoan nghênh đối với một phụ nữ làm việc trong phòng trưng bày ở chỗ Madame Elise, thợ chuyên
may váy sọc vuông được chỉ định đặc biệt cho Công chúa xứ Wales. Phải là bộ váy may đo đó thôi, và số tiền dành cho chiếc mũ Olivia trang nhã, thanh lịch (làm sẵn và được trang trí một chú chim sẻ nhồi giản dị) mà Leda mơ ước đã lâu chắc chắn hụt đi một nửa chỉ để trả cho trái tim màu vàng trên phù hiệu.
Bà Isaacson, người phụ trách hiện tại đằng sau cái biệt hiệu Madame Elise đã mất từ lâu, đi nhanh vào phòng cắt vải, đưa Leda một xấp danh thiếp, nhìn nàng từ đầu tới chân mà không nói tiếng nào, rồi gật đầu cái rụp. “Tốt. Tôi thích món trang sức tóc - khéo lắm. Nếu được thì hãy giúp cô Clark cài tóc cho vui mắt giống vậy nhé. Cô ta dạo này ủ dột quá.” Rồi bà ta chỉ vào những tấm thiếp. “Sẽ có vài quý cô người Anh đi cùng nhóm nước ngoài. Tôi tin chắc cả Phu nhân Ashland và cô con gái đều có mái tóc sẫm màu. Đầy đủ y phục riêng cho ban ngày và buổi tối. Hãy tập trung vào màu của trang sức và có thể cả màu hồng - không được lẫn màu vàng vào bất cứ thứ gì, hãy nhớ kỹ - dù trắng ngà có thể tạm chấp nhận được, để đó xem thế nào. Họ đi thành đoàn, cùng lúc khoảng sáu, bảy người. Theo tôi biết thì họ muốn được tư vấn chung với nhau. Nếu cần tôi sẽ gọi cô ra.”
“Dĩ nhiên, thưa bà,” Leda nói. Nàng ngập ngừng và buộc mình nói tiếp,“Thưa bà… tôi xin phép được nói chuyện riêng với bà nếu bà rảnh được không?”
Bà Isaacson ném cho Leda cái nhìn sắc lẻm. “Ngay lúc này thì không. Có phải về bộ váy mới để mặc trong phòng trưng bày?” “Tôi đang ở một mình, thưa bà. Và hiện giờ…” Ôi, thật tồi tệ khi phải nói ra điều này. “Hiện giờ tôi đang rất khó khăn, thưa bà.”
“Theo lệ thường, chi phí có thể được trừ vào tiền lương của
cô. Sáu xu một tuần là điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng.”
Leda nhìn xuống. “Với số tiền ít ỏi còn lại, tôi khó mà sống được, thưa bà.” Bà Isaacson đứng im một lúc. “Cô phải ăn mặc phù hợp với vị trí của mình. Tôi không thể cho phép sửa đổi hợp đồng, cô biết rồi đấy. Cô đã được thông báo rõ ràng mọi điều khoản khi đến chỗ chúng tôi. Điều này sẽ đặt ra tiền lệ vượt ngoài khả năng chúng tôi có thể xử lý.”
“Vâng, thưa bà,” Leda uể oải đáp lời.
Một khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi trôi qua, gần như không thể chịu đựng nổi. “Để tôi tìm cách thu xếp xem có được không,” cuối cùng bà Isaacson cũng cất tiếng.
Leda nhẹ hết cả người.
“Xin cảm ơn, thưa bà. Xin cảm ơn.” Nàng nhún gối chào còn bà Isaacson vội vàng nhấc váy và quay người rời đi. Leda nhìn xuống xấp danh thiếp. Như đã trở thành thông lệ trong năm dành cho khách phương xa này, người bên Bộ Ngoại giao đã gửi kèm những tờ giấy hướng dẫn nghi thức hữu ích. Bên dưới ngày tháng là lịch hẹn.
Đoàn Nhật 8 giờ sáng.
Công chúa hoàng tộc Terute-No-Miya của nước Nhật. Gọi trân trọng là Công nương. Không nói tiếng Anh.
Hoàng phu Okubo Otsu của nước Nhật. Gọi trân trọng là Quận công. Không nói tiếng Anh.
Phu nhân Inouye của nước Nhật. Ái nữ và đại diện của Công hầu Inouye, Bộ trưởng bộ Ngoại giao Nhật, gọi trân trọng theo nghi thức ngoại giao là Phu nhân. Thông thạo tiếng Anh, được giáo dục tại Anh, dễ giao thiệp.
Đoàn Hawaii (Đảo quốc Sandwich) - 10 giờ sáng.
Nữ hoàng Kapiolani của quần đảo Hawaii. Gọi trân trọng là Nữ hoàng. Nói một chút tiếng Anh, cần phiên dịch.
Công chúa Liliyewokalani, Công chúa của đảo Hawaii. Gọi trân trọng là Công nương. Thông thạo tiếng Anh, dễ giao thiệp. Phu nhân Ashland, Nữ hoàng hầu tước Ashland và con gái là Tiểu thư Catherine. Hiện cư ngụ tại hòn đảo Hawaii. Thân thiết với Nữ hoàng và Công chúa Hawaii.
Leda xem đi xem lại các tờ chỉ dẫn, ghi nhớ tước hiệu trong khi cô học việc hoàn tất gấu váy. Đây là môi trường đích thực của Leda. Quý cô Myrtle Balfour đã rất nhiệt huyết trong việc dạy dỗ Leda nhưng khuôn phép chuẩn mực để nàng được kiểm định bởi những người đã được xã hội thượng lưu công nhận. Quả thật, Leda đã được các góa phụ và phụ nữ luống tuổi chưa chồng ở phố South chân thành đón nhận. Bầu không khí của vụ tai tiếng thú vị mà quý cô Myrtie vẫn giữ được từ những ngày cùng kẻ tồi tệ kia, dù qua gần bốn mươi năm lặng lẽ sống ẩn dật trong căn nhà của cha mẹ bà, là tấm giấy thông hành cho bất cứ cơn bốc đồng kỳ lạ nào. Một người họ Balfour được phép, thậm chí được cổ vũ, nuôi tính lập dị - nó mang nét phiêu lưu táo bạo đầy ngọt ngào vào cái xã hội nhỏ kín đáo ở phố South.
Cho nên những phụ nữ quyền quý phố South đã lên mặt và thẳng thắn tỏ thái độ lạnh lùng với bất cứ ai dám nghi vấn sự khôn ngoan của quý cô Myrtle khi bà có ý tưởng dám con gái của một phụ nữ Pháp về nhà, đùm bọc Leda trong vòng tay gia giáo của họ, và nàng cứ thế lớn lên giữa những đóa hoa phai tàn của giới quý tộc Mayfair, xem đám con gái lớn của các bá tước và nam tước và người thân thiết.
Nhưng những vị vương tôn, công nương này phần nào vượt ra khỏi khuôn khổ quen thuộc của Leda, Bộ Ngoại giao đã rất tử tế và tận tâm khi nêu rõ những mối quan hệ đa dạng, để có thể tránh bất cứ nhầm lẫn bất tiện nào. Mọi thứ rồi sẽ tốt đẹp cả thôi, như cái lần các phu nhân Maharani, Xiêm La và đám phụ nữ Trung Quốc đến vào tuần trước.
Gấu váy đã xong, nàng bắt đầu chọn vải, mang lần lượt những cuộn gấm thêu, nhung và lụa nặng trịch đến chất sau các quầy hàng của phòng trưng bày, nơi có những ô cửa kính cao phản chiếu họa tiết sặc sỡ của tấm thảm trải sàn màu tím và hổ phách trong căn phòng lớn. Những cô gái đang ở đó cũng làm công việc tương tự, chuẩn bị cho đám đông khách hàng thường lui tới, hầu hết họ đều hẹn lịch trễ hơn và giờ giấc văn minh hơn. Nàng vừa đặt cuộn lụa sọc cuối cùng lên trên đống vải thì người giữ cửa đưa đoàn vương tôn Nhật Bản vào.
Madame Eilse họ Isaacson vội chạy tới, rê chân, nhún gối trước bốn phu nhân mảnh dẻ phương Đông đang đứng như những con nai sợ sệt trong khung cửa. Tất cả đều nhìn chăm chăm vào mũi giày phong cách phương Tây của mình, hai bàn tay ép sát vào váy. Đường ngôi chia mái tóc đen như mun nổi bật thành hàng thẳng tắp, trắng như khuôn mặt màu sứ của họ. Madame Elise cất lời chào trang trọng bằng giọng Pháp trong trẻo, và mời họ vui lòng đi theo mình.
Rồi bà ta lùi lại. Đến bước thứ ba, rõ là chẳng có phu nhân Nhật Bản nào chịu đi theo. Họ vẫn đứng yên đó, nhìn đau đáu xuống sàn nhà.
Madame Elise liếc người giữ cửa và hé miệng, Phu nhân Inouye? Lông mày nhướng cao. Người giữ cửa dường như hơi
nhún vai một chút. Bà ta buộc phải nói to hơn, bằng tiếng Anh, không nhấn giọng, “Phu nhân Inouye, tôi có thể mạo muội nhận lấy vinh dự này không, thưa phu nhân?”
Không ai lên tiếng. Một trong hai phu nhân Nhật Bản ở khuất phía sau yếu ớt ra hiệu bằng tay về phía người đứng trước mặt mình. Madame Elise bước một bước về phía đó. “Thưa phu nhân?”
Cô gái Nhật đặt nhưng ngón tay lên môi. Cô ta khẽ mỉm cười sau bàn tay, rồi bật ra một tiếng khúc khích e lệ. Bằng giọng nói nữ tính, dịu dàng, chỉ to hơn tiếng thì thầm một chút, cô ta nói điều gì đó không rõ, cứ như thể vừa ngậm nước vừa cố hát vậy. Rồi cô ta khẽ cúi người, chỉ ra cửa và lại cúi xuống.
“Ồ,” Madame Elise nói, “tôi cứ ngỡ phu nhân nói tiếng Anh.” Cô gái lại chỉ tay ra cửa. Sau đó đặt ngón tay lên cổ, nghiêng người, và ho một tiếng rất giả tạo. Rồi lại chỉ tay ra cửa. Mọi người ngơ ngác đứng im.
“Madame Elise?” Leda đánh bạo lên tiếng. “Có khi nào Phu nhân Inouye không tới chăng?”
“Không tới ư?” Giọng Madame Elise thoáng sợ hãi. Leda bước lên. “Phu… nhân,” nàng nói, chậm rãi và rõ ràng, rồi đặt bàn tay lên cổ, ho giống cô gái khi nãy và cũng chỉ tay ra cửa.
Cả bốn phu nhân người Nhật cúi mình, nghi thức chào hỏi của họ rất đa dạng, từ cúi thấp ngang eo đến một cái gật đầu khẽ.
“Ồ, ồ,” Madame Elise nói.
Một khoảnh khắc im lặng nữa trôi qua.
“Cô Etoile,” Madame Elise đột ngột bảo Leda,“cô có thể ra tiếp
khách.” Bà ta nắm khuỷu tay Leda và kéo nàng lên trước, chưng nàng ra như một món quà rồi nhún gối lùi lại, rời khỏi hàng. Leda hít một hơi. Nàng không biết ai là công chúa và ai là vợ quận công, nhưng đoán chắc họ là hai người đứng trước, chỉ hơi gật đầu chứ không cúi chào. Nàng khoát tay, cố gắng ra hiệu cho họ đến ngồi ở những chiếu ghế đã để sẵn quanh quầy hàng lớn nhất.
Như một đàn ngỗng nhỏ ngoan ngoãn, họ bước từng bước rất ngắn về phía ghế ngồi. Hai người ngồi vào ghế, hai người khác duyên dáng quỳ xuống sàn, mắt nhìn xuống.
Tốt thôi, rõ ràng hai người ngồi ghế thuộc hoàng tộc, hai người còn lại chắc là tùy tùng. Leda lấy một cuốn sách thời trang từ quầy hàng. Giữa công chúa và quận công phu nhân, nàng cũng không chắc ai có thứ bậc ưu tiên nên quyết định đưa nó cho người lớn tuổi hơn.
Bà ta hơi ngả ra sau với một cử chỉ từ chối, phẩy tay trước mặt như cái quạt.
Leda nhún sâu gối tạ lỗi với người kia, đồng thời đưa quyển sách sang.
Người này cũng từ chối nhận cuốn sách dày. Leda đứng với quyển sách dày cộp trên tay, tuyệt vọng nhìn hai người đang quỳ dưới sàn. Chắc chắn là không… có lẽ nào ở nước họ người có địa vị cao lại ngồi thấp hơn? Nàng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đưa cuốn sách cho vị phu nhân quỳ gần mình nhất.
Đó là người lúc trước đã ra dấu hiệu về việc Phu nhân Inouye bị khó ở. Giờ đây, cô ta cũng giương một bàn tay từ chối nhận sách. Rồi cô ta quay sang nói nhỏ nhẹ với vị phu nhân trẻ hơn đang ngồi trên ghế, người này thì thầm đáp lại. Leda ngơ ngác
đứng im trong lúc họ lầm bầm trao đổi. Rồi cô gái quỳ dưới đất quay lại, cúi thấp trán xuống sàn và nói, “San-weesh.” Leda cắn môi rồi trấn tĩnh lại rất nhanh. “San-weesh,” nàng lặp lại. “Thời trang?” nàng nói thêm, đưa cuốn sách ra lần nữa. Nhưng nó vẫn bị dứt khoát từ chối. Leda nhún gối lần nữa và đi ra sau quầy hàng. Nàng nhấc hai cuộn vai nhung và đem ra. Cũng có thể họ muốn chọn vải trước.
Đó là một nỗ lực bất thành. Các vị phu nhân Nhật Bản nhìn chằm chằm cuộn vải nhung nhưng không có ý định chạm tay vào. Rồi họ bắt đầu rì rầm trò chuyện với nhau.
“San-weesh,” người tùy tùng đang quỳ nói lại với Leda. “San weesh aye- ran.”
“Xin thứ lỗi,” Leda bất lực nói. “Tôi không hiểu.” Nàng thử một tấm lụa màu xanh như vỏ chanh. Có thể họ đang tìm loại vải nhẹ hơn.
“San-weesh aye-ran,” vẫn là câu trả lời nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng. “San-weesh aye-ran.”
“Ồ!” Leda bỗng thốt lên. “Ý cô là đảo quốc Sandwich?” Cô gái đang quỳ vỗ tay và cúi mình. “San-weesh!” cô vui vẻ lặp lại. Tất cả quý phu nhân người Nhật cười khúc khích. Người phụ nữ lớn tuổi hơn - có hàm răng đen khiến miệng bà tưởng như một khoảng trống tối om khi bà mở miệng - làm một động tác kỳ lạ và thực sự gây bối rối.
“Có phải cô muốn chờ nữ hoàng của đảo quốc Sandwich?” Leda hỏi.
Cô gái tùy tùng trả lời bằng một tràng tiếng Nhật. Leda nhún gối rồi lưỡng lự đứng đó. Các vị phu nhân đặt những bàn tay trắng mịn nhỏ nhắn vào lòng và cụp mắt xuống.
Trong hai tiếng đồng hồ, cho đến cuộc hẹn lúc mười giờ của Nữ hoàng đảo quốc Sandwich, tất cả đều giữ nguyên tư thế, với Leda đứng hộ tống cho nhóm nhỏ, họ vẫn kiên nhẫn ngồi chờ, không nhìn trái cũng không nhìn phải, chỉ đôi khi thì thầm to nhỏ với nhau. Ngắt quãng duy nhất của cuộc tra tấn tinh tế là khi Madame Elise có nhã ý đem đến một khay trà và bánh Savoy, các phu nhân thưởng thức với sự nhiệt tình duyên dáng và những tiếng khúc khích. Họ như những con búp bê luôn tươi cười, nhỏ bé và thẹn thùng.
Căn phòng trưng bày to lớn yên ắng đến mức ai cũng có thể nghe thấy tiếng xe ngựa dừng ngay bên ngoài tiệm và nhiều giọng Anh vang lên ở cửa trước. Leda nhẹ nhõm đến mức quên luôn cái lưng mỏi nhừ và nhún gối thật sâu. “Đảo quốc Sandwich,” nàng hồ hởi cất tiếng, chỉ ra cửa sổ.
Tất cả các phu nhân Nhật Bản nhìn lên và mỉm cười, rồi cúi mình ở các mức độ khác nhau.
Một thoáng sau đoàn Hawaii đã đến trước cửa. Một phụ nữ trang nghiêm, chậm rãi bước vào phòng trưng bày trước tiên, khoác một bộ váy lụa tím vừa khít với vòng một đầy đặn. Theo sau là một phu nhân cũng đậm người và duyên dáng không kém, trẻ hơn và xinh xắn hơn một chút, tóc nâu, gò má rộng, và có vẻ điềm tĩnh mang khí chất vương giả.
Madame Elise bước tới và nhún gối chào thật sâu. Người đi sau nói, “Chào buổi sáng” bằng giọng Anh êm ái và hoàn toàn dễ hiểu. Bà gật đầu về phía người phụ nữ mặc váy lụa tím. “Chị gái ta, Nữ hoàng Kapiolani.”
Với một tiếng thở nhẹ nhõm rõ to, Madame Eilse trở lại với giọng Pháp đặc trưng. “Rất vinh hạnh khi có sự hiện diện của
Nữ hoàng tại cửa tiệm hèn mọn của Madame Elise,” bà ta đon đả, dẫn hai vị phu nhân vào trong.
Ở phía đằng sau, những người còn lại đều dừng chân trước ngưỡng cửa. Leda nhìn nên, và nàng suýt nữa quên mất phép lịch sự trong giây lát vì không thể che giấu cái nhìn đầy ngưỡng mộ.
Cùng đứng trong khung cửa là hai phụ nữ xinh đẹp nhất nàng được chiêm ngưỡng đồng thời tại cùng một nơi. Họ có gò má cao và làn da bóng mượt như nhau, mái tóc đen nhánh óng ả và cặp mắt đẹp diệu kỳ, người mẹ và con gái tạo nên một khung cảnh làm say lòng người. Cả hai đều ăn vận giản dị, Phu nhân Ashland trong bộ váy màu xanh dương sậm, khiêm tốn phủ lên khung độn váy khá kín đáo, khác xa vẻ ngoài nhìn nghiêng như gà mái của chiếc áo choàng Leda đang mặc. Cô con gái - tiểu thư Catherine, tấm danh thiếp gọi như vậy - mặc bộ váy hồng nhạt cho thiếu nữ lần đầu ra mắt, thân váy phồng nhỉnh hơn chút xíu so với độ rộng đang là mốt.
Madame Eilse vẫn còn bận bịu với cuộc giao tiếp giữa Nữ hoàng đảo quốc Sandwich và các phu nhân Nhật Bản nên Leda bước tới chào đón Phu nhân Ashland và con gái.
Phu nhân Ashland mỉm cười thân thiện, làm lộ nhưng nếp nhăn quanh mắt không có ở cô con gái. “Chắc cô bận bịu lắm,” bà nhã nhặn nói. “Chúng tôi sẽ không làm cô mất nhiều thời gian đâu - Nữ hoàng muốn một bộ váy ban ngày đặc biệt từ Madame Elise. Người đã dặn chúng tôi nói với các cô là không cần gấp lắm.”
Leda lập tức muốn ưu tiên cho bạn bè của vị phu nhân dễ chịu này trước những người khác. “Được phục vụ Nữ hoàng là
vinh dự lớn lao, thưa phu nhân. Chúng tôi rất vui lòng được giúp phu nhân bằng bất cứ hình thức nào phu nhân yêu cầu. Sẽ không hề phiền hà gì cho cửa tiệm chúng tôi…”
Phu nhân Ashland cười và nhún vai. “Chà, ta không mấy ưa thích ba cái chuyện thời trang tầm phào, nhưng có thể…” Bà nhìn con gái dò hỏi. Leda trông thấy mái tóc đen nhánh của bà điểm xuyết những sợi bạc. “Con có định chọn gì không, Kai?”
“Mẹ ngu ngơ tội nghiệp ơi,” tiểu thư Catherine nói bằng giọng Mỹ sôi nổi. “Mẹ biết con cũng thích coóc xê nhiều như mẹ mà.” Cô nghiêng đầu và mỉm cười đầy tin tưởng với Leda. “Tôi không thể chịu nổi nhưng thứ khủng khiếp đó.”
Không coóc xê? Tiểu thư Catherine được trời phú cho dáng người sẽ vẫn thanh lịch kể cả khi khoác bao tải bột mì, nhưng không mặc coóc xê ư? Leda có thể nghe tiếng quý cô Myrtle văng văng từ hầm mộ. “Chúng tôi có áo cánh màu hồng phấn,” nàng nói. “Nó rất hợp với một bộ áo dài buổi sáng. Thoải mái và nhẹ, nhưng cũng rất trang nhã.”
Người phụ nữ trẻ hơn hơi nhìn lên từ dưới hàng mi, một ánh mắt thích thú khó nhận thấy mà Leda để ý ngay lập tức. Cô mỉm cười và phất tay về phía quầy hàng.
“Phu nhân Tess?” Giọng trầm và ngọt ngào của công chúa người Hawaii ngắt quãng cuộc trò chuyện của họ. “Có chút khó khăn với đoàn hoàng tộc đây.”
Mọi hy vọng về việc Nữ hoàng đạo quốc Sandwich có thể giao tiếp với những phu nhân Nhật Bản dường như đã tan tành. Madame Eilse trông khá lo âu khi đứng giữa nhóm người xa lạ, nơi một số người của đoàn Nhật đang vẽ những hình thù mơ hồ trong không khí, và có vẻ chúng hoàn toàn vô nghĩa với chị em
Nữ hoàng Hawaii.
“Chúng tôi không có người phiên dịch,” Leda giải thích với Phu nhân Ashland,“nhưng có vẻ họ rất kiên quyết với một ý tưởng nào đó mà chúng tôi không tài nào đoán ra.”
“Samuel!” Phu nhân Ashland và con gái đồng thanh. “Anh ấy đã đi chưa nhỉ?” Tiểu thư Catherine bật thốt, chạy đến cửa sổ. Cô nâng khung cửa lên và nghiêng người ra ngoài. “Samuel!” cô gọi to, bằng tông giọng hơi thiếu đoan trang. “Mano Kane, chờ đã! Vào đây đi!” Giọng cô hạ xuống thành tiếng lẩm bẩm trìu mến. “Bọn em cần anh, Mano, đến cứu nguy lần nữa đi nào.”
Phu nhân Ashland chỉ đứng đó, không có động thái nào muốn kiềm chế màn phô bày bừa bãi của con gái. Tiểu thư Catherine quay lại. “Túm được rồi!”
“Quý ông Gerard có thể phiên dịch,” Phu nhân Ashland nói. “Ồ, đúng đấy, anh ấy nói tiếng Nhật thạo lắm.” Tiểu thư Catherine gật đầu khích lệ với các quý bà phương Đông. “Thật may vì anh ấy đưa chúng tôi đi sáng nay.”
Đúng vậy, với Leda, đây đúng là tình huống may mắn đặc biệt, vì nàng cho rằng không thể có nhiều người với tài năng khác thường như thông thạo tiếng Nhật lại tình cờ tháp tùng các quý bà quanh những tiệm may váy London trong quãng thời gian này. Nhưng Phu nhân Ashland và con gái bà đã sống gần nước Nhật hơn, dĩ nhiên.
Ít nhất thì đó là phỏng đoán của Leda. Chính nàng cũng không hoàn toàn biết chính xác vị trí của quần đảo Sandwich. Nàng quay mặt về phía hành lang, chờ đợi những nhà kinh doanh Yankee để ria mép rong ruổi khắp chốn trong chiếc gi lê
gọn gàng và giọng nói ầm ĩ. Người giữ cửa bước vào phòng, và trong âm sắc phô trương mà Madame Elise quả quyết sẽ đem lại ấn tượng thật trang trọng, hô to: “Ông Samuel Gerard!”
Căn phòng toàn phụ nữ chợt lặng ngắt khi quý ông Gerard xuất hiện nơi ngưỡng cửa… tiếng hít vào vang lên đồng thời khi họ thấy bóng dáng anh - một thiên thần Gabriel giáng thế với mái tóc vàng hơi rối, chẳng thiếu gì ngoài đôi cánh.
Chương 2
Hawaii, 1869
Phía đằng này của ván cầu kêu cồm cộp và cọt kẹt dưới gót giày của khách bộ hành qua lại, còn cậu đứng lặng yên trên cầu tàu. Người ta đi qua cậu, chạy đến với những người khác, quây quần trong cuộc đoàn tụ có cả nước mắt và tiếng cười. Cậu xê dịch hai chân, cảm thấy đau đớn trong đôi giày mới được để dành từ hồi còn ở London cho dịp này. Cậu rất muốn cắn ngón tay và phải nắm chặt thành quả đấm sau lưng để ngăn mình lại.
Cậu thấy đám phụ nữ mặc váy dài màu đỏ và vàng rực rỡ, đeo vòng lá sẫm màu quanh cổ, đám đàn ông chỉ mặc quần cộc với áo gi lê hoặc đội mũ rơm. Giữa đám đông có những cô bé cưỡi ngựa: da sậm, tươi cười, mái tóc đen dài xõa xuống bờ vai, trên đầu là vòng hoa tết, những cẳng chân nâu bóng đung đưa, í ới gọi và vẫy tay với những quý ông ngồi trong xe và những quý bà cầm dù. Đằng sau tất cả là những ngọn núi xanh vươn cao tới tận màn sương mù và cầu vồng kép vắt ngang qua bầu trời.
Trên tàu, cậu đã rất sợ phải rời khỏi cabin. Trong suốt cuộc hành trình, cậu ở lì trong không gian chật hẹp của mình, nơi chiếc đầu máy hơi nước nồng nặc mùi than cứ kêu rền rĩ và phục vụ mang tới đủ thứ cậu có thể ăn được. Cậu giấu mình ở đó đến tận sáng nay, khi người ta đến và bảo cậu nên mặc bộ quần áo đẹp nhất, bởi vì con tàu đã vòng qua vịnh Kim Cương và đậu ở cảng Honolulu.
Không khí ở đây thật trong lành với mùi hương lạ lắm, tươi mới, sạch sẽ như bầu trời và những ngọn cây. Đó là những giống
cây kỳ quái cậu chưa từng thấy bao giờ, có phần ngọn màu mận chín lấp lánh, đung đưa trên những cành cao, trơ trụi. Cả đời này cậu chưa từng được ngửi thứ không khí sạch đến vậy, chưa từng cảm nhận ánh nắng chói chang và ấm áp đến thế trên hai vai.
Cậu đơn độc đứng đó, cố tỏ ra vừa kín đáo vừa dễ gây chú ý, sợ rằng mình đã bị bỏ quên. “Sammy?”
Giọng nói đó êm ái, như ngọn gió lùa qua mái tóc và thổi những sợi vàng óng vào mắt. Cậu quay lại, nhanh nhẹn thấm nước vào lòng bàn tay và gạt lọn tóc bướng bỉnh về vị trí cũ.
Bà đứng đó, chỉ cách vài thước, tay ôm một cuộn hoa rực rỡ. Cậu nhìn lên gương mặt bà. Những tiếng hò la khó hiểu và tiếng nói chuyện của đám trẻ địa phương vang trong không gian. Ai đó quệt nhẹ vào cậu từ phía sau, đẩy cậu hơi nhích về phía bà.
Bà quỳ xuống trong chiếc váy xòe màu oải hương, dang rộng hai tay. “Cháu nhớ ta không, Sammy?”
Cậu ngơ ngác nhìn bà. Nhớ bà ư? Trong suốt chuỗi ngày cô đơn và những đêm uất ức, trong những căn phòng tối tăm, nơi bọn chúng trói tay cậu và làm những gì chúng thích, trong tất cả những ngày, những tuần và những năm của sự thống khổ câm lặng, cậu vẫn nhớ bà. Gương mặt rạng rỡ duy nhất trong cuộc đời cậu. Lời nói tử tế duy nhất. Cánh tay duy nhất đã vươn ra che chở cậu.
“Có thưa bà,” cậu thì thầm. “Cháu vẫn nhớ.”
“Ta bà Tess,” bà nói, như thể cậu không nhớ rõ. “Phu nhân Ashland.”
Cậu gật đầu, và thấy nắm tay mình đang ấn vào miệng. Với một cử động vụng về nhưng nhanh nhẹn, cậu bắt mình phải hạ
bàn tay bất tuân xuống, dùng tay kia khóa nó sau lưng. “Rất vui được gặp lại cháu, Sammy.” Vòng tay rộng mở của bà vẫn mời gọi một cái ôm. Bà nhìn cậu bằng đôi mắt xanh lơ đẹp dẽ. Một cục nấc to tướng mắc ở cổ làm cậu thấy khó thở. “Cháu sẽ để ta ôm cháu chứ?”
Không biết vì sao cặp chân trong đôi giày chật chội đưa cậu tiến về phía trước, một bước đi, rồi một bước chạy, và cậu đổ ầm vào vòng tay bà, mạnh mẽ vụng về khiến cậu cảm thấy mình thật ngốc nghếch, và đỏ bừng mặt vì xấu hổ. Nhưng bà đang kéo cậu lại gần với tiếng kêu mừng rỡ, tròng vòng hoa qua đầu cậu, áp gò má mịn màng vào má cậu. Mặt bà có vết ướt. Cậu nhận ra nó khi bà ôm chặt cậu, cục nghẹn trong cổ không cậu đau nhói như thể có thứ gì đó đang cố bật ra nhưng không thể.
“Ôi, Sammy,” bà nói. “Ôi, Sammy. Mất bao lâu chúng ta mới tìm ra cháu.”
“Cháu xin lỗi, thưa bà.” Câu nói bị chặn lại bởi những bông hoa và vải lụa mềm mại trên cổ áo bà.
Bà khẽ đẩy cậu ra. “Không phải lỗi của cháu!” Giọng bà như cười như khóc. Rồi lay nhẹ cậu. “Cháu xứng với từng phút tìm kiếm đó. Ta chỉ ước gì đám thám tử đáng ghét kia có thể tìm ra cháu sớm hơn. Khi ta nghĩ đến nơi cháu từng sống…”
Cậu chỉ nhìn bà, không hay biết gì về đám thám tử hay cuộc tìm kiếm và ước rằng bà hoàn toàn không nắm được chút thông tin gì về nơi cậu từng ở. Samuel cúi đầu. “Cháu xin lỗi,” cậu nhắc lại. “Cháu không biết… cháu không còn chỗ nào để đi cả.”
Bà nhắm mắt. Trong một khoảnh khắc thống khổ cậu đã nghĩ đó là sự ghê tởm, và cậu đáng phải nhận nó. Cậu biết chắc như vậy. Lẽ ra cậu không nên để những chuyện đó xảy ra với mình; lẽ
ra cậu phải làm gì đó; lẽ ra cậu không được tuyệt vọng và sợ hãi. Nhưng bà không ngoảnh mặt đi. Thay vào đó, bà lại kéo cậu đến gần, trao cho cậu một cái ôm chặt ấm áp thoảng mùi gió và hoa. “Không bao giờ như thế nữa,” bà nói quyết liệt. Giọng bà nghẹn lại, và cậu biết bà đang khóc. “Hãy quên tất cả, Sammy. Quên tất cả mọi thứ trước ngày hôm nay đi. Cháu đã về nhà rồi.” Nhà. Cậu để bà ôm cậu và giấu mặt và những bông hoa mát dịu, nghe thấy những âm thanh khe khẽ ngớ ngẩn thoát ra khỏi cổ họng, những tiếng thút thít nho nhỏ sẽ khiến ngay cả một đứa bé cũng cảm thấy xấu hổ. Cậu cố ghìm chúng lại, cố nói điều gì đó như một người trưởng thành, như cậu nên làm - tám tuổi, thậm chí là chín, có lẽ thế, và cậu phải nói được điều gì đó chín chắn. Nước mắt của bà làm ướt má cả hai người, cậu cũng muốn khóc nhưng đôi mắt lại khô khốc và cổ họng tiếp tục phát ra những âm thanh ngớ ngẩn đó… Nhà, cậu muốn thốt lên, và… Cám ơn bà, ôi, cảm ơn bà. Ôi, nhà…
Chương 3
Leda chăm chú nhìn anh. Sau đó nàng cố kìm nén, nhưng Samuel Gerard đã nhìn thẳng vào nàng, ánh mắt họ như khóa chặt vào nhau trong giây lát: ánh mắt nàng thì đông cứng, ánh mắt anh màu bạc và đẹp đến rực cháy, một tuyệt tác trên khuôn mặt nam tính không tì vết hoàn hảo… hoàn hảo hơn cả sự toàn mỹ của một tác phẩm nghệ thuật bằng đá, vượt trên tất cả trừ những giấc mơ.
Đó là khoảnh khắc lạ lùng nhất. Anh nhìn Leda như thể anh biết nàng và không ngờ sẽ thấy nàng ở đó. Nhưng nàng không biết anh. Nàng chưa bao giờ thấy anh.
Không phải anh. Chưa bao giờ thấy anh.
Ánh mắt anh lướt nhanh qua nàng. Tiểu thư Catherine bước tới, nói với anh bằng giọng thân thuộc êm ái, như thể trò chuyện với vị thiên sứ giáng trần đang đi giữa đám người phàm tục là điều bình thường nhất vậy. Khóe môi anh hơi cong lên, không hẳn là một nụ cười dành cho tiểu thư Catherine nhưng Leda bỗng dưng nghĩ thầm: Anh yêu cô ấy.
Dĩ nhiên rồi. Họ là một cặp uyên ương xứng đôi vừa lứa mà số phận đã định đoạt. Một mỹ nhân tóc đen và một thiên thần tóc vàng rực rỡ. Họ sinh ra để dành cho nhau.
A, vậy đó.
“Nào, hãy cho bọn em biết, những phu nhân tội nghiệp này đang cố nói điều gì?” Tiểu thư Catherine gặng hỏi, kéo anh đi với cô.
Anh buông tay cô ra và lịch sự cúi chào từng phu nhân người
Nhật. Mặt trời buổi sáng tìm anh qua những khung cửa sổ cao như để ban xuống một đặc ân, làm mái tóc vàng sậm của anh bóng mượt hơn, rải ánh sáng vào sâu trong từng nếp tóc. Khi đứng thẳng lại và ngước lên - qua hàng mi thật đẹp, dày và dài, sẫm hơn màu tóc - anh nói bằng những âm tiết lạ, ngắn gọn theo ngôn ngữ của họ, rồi cúi mình chào với vẻ tôn kính lịch thiệp trước khi kết thúc bài diễn thuyết ngắn gọn.
Vị phu nhân trẻ đáp lại bằng một chuỗi các từ ngữ và cử chỉ, khẽ nghiêng đầu một lần về phía Nữ hoàng Kapiolani với nụ cười e lệ.
Anh hỏi cô ta thêm lần nữa. Cô ta cười khúc khích và vẽ một hình uốn lượn trong không khí, vòng hai cánh tay thật rộng quanh người mình rồi hướng xuống chân.
Quý ông Gerard lại cúi mình khi cô ta kết thúc. Rồi hướng về Nữ hoàng và em gái. “Đó là một câu hỏi về thời trang, thưa lệnh bà. Một bộ váy đặc biệt.” Anh nói bằng giọng mang hơi hướng Mỹ hơn là Anh, giống tiểu thư Catherine, với thái độ nghiêm trang như thể vận mệnh các quốc gia đang ngàn cân treo sợi tóc. “Khi thiết triều, Nữ hoàng Kapiolani đã mặc một bộ váy trắng phải không, thưa lệnh bà? Được thêu rất bó?” Anh làm một cử chỉ sơ sài bằng một tay - đó là sự bắt chước vụng về theo kiểu của đàn ông theo cử động miêu tả chi tiết của vị phu nhân Nhật Bản. Cổ anh khẽ ửng đỏ. “Cổ trễ? Không có… à…”
“Không áo coóc xê,” tiểu thư Catherine nói với vẻ thông thái. Làn da rám nắng của quý ông Gerard hình như hơi ửng đỏ. Anh rời ánh mắt đi chỗ khác. Tất cả các vị phu nhân, đến từ các quốc gia khác nhau, bắt đầu mỉm cười. Thật tình, đàn ông ngu ngơ đến mức quá sức quyến rũ.
“Đúng vậy,” vị công chúa nói thêm. “Bộ mu’umu’u làm bằng lụa Nhật.” Bà nói với chị gái bằng một thứ tiếng khác, còi dịu dàng và dễ thương hơn cả tiếng Nhật.
Quý ông Gerard mỉm cười. “Lụa Nhật đúng không ạ?” Anh trò chuyện với những mệnh phụ phương Đông lần nữa, và nhận được những cái gật đầu hài lòng cùng những câu trao đổi hăng hái. Anh nhìn những người khác và dịch,“Họ muốn tạ ơn Nữ hoàng vì đã vinh danh đất nước họ.”
Khi đó, một loạt cử chỉ lịch sự được trao đổi qua lại, tất cả đều cảm thấy hài lòng về nhau. Madame Elise vỗ tay, trở lại với cung cách Pháp khoa trương của mình.
“Tất nhiên, bộ váy xòe với đường thêu màu trắng cắt theo phong cách Hawaii. Tôi thấy nó được miêu tả trong một trang của tạp chí Nữ hoàng.” Bà ta khúm núm. “Có lẽ các vương tôn muốn một bộ giống vậy, nếu Nữ hoàng vui lòng cho phép?”
Dường như đây là điểm mấu chốt. Nữ hoàng tỏ ra hoàn toàn vừa ý tưởng thưởng ân huệ cho hai chị em hoàng tộc đáng kính đến từ Nhật. Một người giữ cửa được phái đi tháp tùng bộ váy từ khách sạn; trong khi chờ đợi, chất liệu vải được lựa chọn, phải là loại lụa thêu kim tuyến nhạt màu; và quý ông Gerard tội nghiệp, trong vai trò phiên dịch, thực sự mắc kẹt giữa mạng lưới ngoại giao thời trang quốc tế.
Leda vội xuống phòng kho xem còn những loại vải được yêu cầu không. Rồi nàng quay lại, mang theo năm cuộn lụa trắng và vàng chất cao đến tận mũi. Khi nàng vừa bước vào phòng trưng bày, quý ông Gerard đã đến bên cạnh, lập tức nhấc chồng lụa nặng trĩu khỏi tay nàng.
“Ôi, không, làm ơn,” nàng khẽ hổn hển,“làm ơn đừng bận
tâm, thưa ông.”
“Không sao,” anh vừa nhẹ nhàng nói vừa đặt nhưng cuộn lụa lên quầy hàng. Leda cụp mắt xuống, ra vẻ bận bịu với đống vải vóc. Rồi nàng lén ngước lên và thấy anh vẫn đang nhìn mình.
Nàng không thể đoán được vẻ mặt anh. Vào giây phút nàng bắt gặp anh, anh lại quay đi, và nàng không dám chắc mối quan tâm của anh có vượt ra khỏi óc tưởng tượng đầy hy vọng của nàng hay không. Dù nàng cũng không mong anh sẽ có hứng thú với mình: không phải đây - không bao giờ ở đây; nàng sẽ không chịu nổi điều đó - không phải kiểu quan tâm mà một người đàn ông sẽ dành cho một cô gái ở phòng trưng bày. Đó chỉ là một khoảnh khắc bốc đồng, chỉ là một người đàn ông điển trai đến kinh ngạc - một cảnh tượng lộng lẫy mà nàng không thể không ngưỡng mộ.
Nhưng dường như… theo một cách hiểu kỳ, anh có vẻ thân thuộc đối với nàng. Thật khó quên được khuôn mặt nam tính hoàn hảo đó, ngay cả cách anh di chuyển cũng thật đáng nhớ, uyển chuyển, tự chủ và rất tập trung trong chiếc áo khoác sẫm màu vừa vặn, cổ áo xếp nếp. Anh có bờ vai rộng, dáng cao, đôi hàng mi đen ấn tượng và cặp mắt xám: hình ảnh anh đã khắc sâu đến không thể xóa nhòa trong tâm trí nàng. Hình như nàng đã có lần được chiêm ngưỡng bức tranh về một anh hùng ngời sáng trong sách, đó là Hoàng tử quyến rũ cưỡi ngựa trắng, và giờ đây anh ta đang ở trong phòng trưng bày của Madame Elise, trầm ngâm và bình tĩnh đứng đó, được vây quanh bởi nhung lụa đủ màu sắc và đám phụ nữ đang tán gẫu.
Những cô gái khác làm ở phòng trưng bày đang tìm kiếm mọi lý do khả dĩ để được vào phòng. Tin về quý ông Gerard đã lan ra.
Khi Leda trải một tấm vải thêu màu sứ lên quầy hàng, nàng bắt gặp nụ cười tự mãn chán nản từ cô Clark, người đang ra vẻ bận rộn quá mức khi cố chỉnh trang một quầy hàng không cần chỉnh trang.
Leda cố ngăn cô ta bằng cách lờ nụ cười đó đi. Ngày xưa, quý cô Myrtle từng cảm giác rằng đàn ông bà một sự áp đặt lên thế giới này, hiếm khi được chấp nhận trở thành những chủ đề trò chuyện lịch sự, chỉ có một ngoại lệ duy nhất là người đàn ông tồi tệ kia kẻ rõ ràng chứa đựng trong mình cả kho những hóa thân muôn hình vạn trạng của sự trụy lạc mà linh hồn con người có thể đắm chìm vào. Vì thế người đàn ông tồi tệ kia đáng được coi là một đề tài trò chuyện hoàn hảo, trên thực tế đã bị lạm dụng để phục vụ cho lợi ích của Leda cũng như những hướng dẫn tuy đao to búa lớn nhưng vẫn đúng mực trong phòng khách của quý cô Myrtle nhiều năm qua.
Leda luôn có chút đề phòng với đám đàn ông. Nhưng cuối cùng nàng cũng không thể không khẽ trao cho cô Clark một nụ cười đến tận mang tai.
Anh quá khác thường. Đúng như vậy.
Mỗi lần Leda trải một cuộn vải mới cho mọi người xem, anh lại kéo cuộn vải trước đó khỏi tay nàng khi nàng bắt đầu cuốn nó lại, rồi tự tay làm việc đó, dễ dàng nhấc thứ kềnh càng nặng trịch đó lên. Và anh không hề ầm ĩ, chỉ tiếp tục phiên dịch tiếng Nhật sang tiếng Anh và ngược lại lúc làm việc cùng nàng, trong khi Madame Elise nâng từng thớ vải lên gần cửa sổ và giải thích về những đặc tính vẫn việc nó sẽ nổi bật thế nào dưới ánh nến và ánh sáng đèn.
Khi Leda làm rơi chiếc kéo bạc, anh nhặt nó cho nàng. Nàng
nhận lấy và lí nhí cảm ơn, cảm thấy vô cùng bẽn lẽn vì đã đãng trí như một bà lão phiền hà lúc bàn tay trần của anh chạm khẽ vào tay nàng.
Leda quá tập trung vào việc bí mật quan sát anh đến độ giật bắn mình khi người giữ cửa thì thầm vào tai nàng từ phía sau. Nàng nhìn xuống và thấy trong bàn tay đi găng của anh ta có phong thư được niêm phong bằng hình một vòng hoa.
“Gửi cô Etoile.” Người giữ cửa đưa nó cho nàng.
Mọi người đều liếc về phía nàng ngoại trừ Madame Elise vẫn đang thao thao bất tuyệt. Leda thấy mặt mình chuyển sang đỏ bừng. Nàng giật bức thư và giấu ra sau lưng, thầm ước trên váy có một cái túi.
Giọng nói ra vẻ kiểu Pháp của Madame Elise vẫn vang lên, nhưng đột nhiên bà ta nhướng mày và nhìn thẳng vào Leda một lúc. Leda thả bức thư xuống nền nhà sau lưng mình, đứng lui lại để gấu váy che lấp nó. Nàng nuốt nghẹn và nhìn xuống, quờ quạng tấm vai trên quầy.
Nàng không cần mở thư ra xem. Cũng chẳng cần phải nhìn kỹ dấu niêm phong hình vòng hoa kia. Nó thuộc về nhà quý tộc nào cũng chẳng có gì khác biệt - một bức thư như thế chỉ mang đến một ý nghĩa, một kết cuộc.
Đây là cách bà Isaacson “sắp xếp vài chuyện”. Leda cảm thấy hoảng sợ, bẽ mặt và tức giận với bà Isaacson, rồi nàng thấy tủi nhục khi nghĩ có lẽ đó là điều bà chủ tưởng nàng yêu cầu. Nhiều cô gái ở đây đã đi lại với đám đàn ông… nhưng không… không, nó không nhất thiết phải diễn ra theo cách này, trong phòng trưng bày, trước mặt khách hàng và những cô gái khác.
Nàng đã bị gán vết nhơ một cách công khai - thân phận của
nàng cũng đã rõ ràng. Bị bán để lấy tiền trả cho một tấm vải lụa may váy và phù hiệu mặc ở phòng trưng bày.
Xung quanh nàng, các giao dịch vẫn diễn ra bình thường. Khi nàng đủ dũng cảm để nhìn lên, các phu nhân Nhật Bản đang xếp lịch để cô thợ trưởng đến khách sạn lấy số đo của họ. Giữa khung cảnh đó, quý ông Gerard vẫn tiếp tục phiên dịch. Hẳn là anh đã thấy bức thư. Tất cả họ đều đã thấy, nhưng dĩ nhiên không ai buồn quan tâm đến chuyện tình cảm của một phụ nữ làm ở tiệm váy.
Các phu nhân Nhật Bản đã đứng lên ra về. Leda không còn lựa chọn nào khác, nàng buộc phải bước khỏi vị trí đã thả rơi bức thư đầy quả quyết để tiếp đoàn Hawaii trong khi Madame Elise đưa những người khác ra cửa. Quý ông Gerard đi theo họ ra xe ngựa. Trước khi Leda có thể kín đáo nhặt bức thư lên, tiểu thư Catherine đã gọi tên nàng, háo hức bắt tay vào việc chọn vải. Leda chỉ kịp bày ra tấm lụa màu hồng Thụy Sĩ cho cô ấy và một cuộn lụa xanh lục bảo cho Nữ hoàng Kapiolani thì anh trở vào.
“Nào, hay nói cho bọn em nghe đi, Mano.” Tiểu thư Catherine quấn tấm vải hồng quanh cổ và đứng làm duyên. “Trong mắt đàn ông thì nó thế nào?”
Khi đi ngang qua phòng, anh phải bước lên tấm thảm có bì thư nằm đó.
Nhưng anh không nhìn nó, cũng không nhìn Leda. Song tiểu thư Catherine đã kịp nhận ra và nhắc anh về sai sót của mình. “Em tin là cô Etoile đã để quên bức thư kìa.” Nụ cười thân thiện kiểu Mỹ của cô dành cho Leda tràn ngập vẻ ngây thơ. “Anh nhặt nó giúp cô ấy chứ?”
Anh quay lại và cúi xuống. Leda khốn khổ cầm bấy bức thư.
Phần mặt trước của bì thư hướng lên trên, còn vòng hoa nằm lộ liễu trên mặt thảm.
Nàng thậm chí không thể cảm ơn anh. Cũng không ngước lên. Khi tiểu thư Catherine hồ hởi lôi kéo sự chú ý của anh trở lại với tấm lụa màu hồng Thụy Sĩ, Leda thầm ước giá mình chết luôn đi cho khỏi ô nhục, nằm biệt tích dưới một tấm bia mộ vô danh trong nghĩa trang tăm tối cách đó cả trăm dặm.
Nhưng nàng quyết định sẽ không làm những việc bất nhã như phơi bày nỗi hổ thẹn của mình trước thiên hạ. Nàng cúi đầu, bình thản giúp Nữ hoàng Kapiolani chọn tấm lụa xanh lục bảo. Nàng giúp tiểu thư Catherine và mẹ cô chọn một mẫu hoa văn phù hợp cho bộ váy buổi sáng. Nàng lắng nghe cuộc trò chuyện thân mật giữa quý ông Gerard và các phu nhân Hawaii, họ sẽ không bao giờ để anh thoát khỏi vòng kiểm soát. Rõ ràng họ hiểu nhau như các thành viên trong một gia đình: ngay cả hai phu nhân Hawaii cao lớn và thanh lịch cũng đối xử với anh bằng tình mẫu tử, mỉm cười trìu mến khi những người khác trêu chọc anh vì đã tỏ thái độ thiếu thoải mái của đàn ông khi lúng búng đưa ra nhận xét về thời trang. Và theo cung cách dễ thương, hơi đùa cợt, tiểu thư Catherine coi những nhận xét của anh như một thứ luật phải tuân theo, bỏ qua mọi mẫu hoa văn anh không ưng ý.
Họ yêu nhau, Leda nghĩ. Dĩ nhiên. Sao lại không chứ? Leda đứng đó, đưa ra những cuốn sách thời trang, đổi váy trên hình nộm, hướng dẫn tiểu thư Catherine đến phòng thử đồ khi cô khăng khăng theo kiểu Mỹ rằng thật vô lý khi bắt thợ trưởng đến tận khách sạn chỉ để “tiện cho cô”, trong khi cô đã ở ngay đây rồi. Và rồi tất cả xong xuôi, Leda nhún gối chào khi quý
ông Gerard nâng cánh tay Nữ hoàng và tháp tùng bà ra hành lang, theo sau là công chúa và Phu nhân Ashland. Tiểu thư Catherine dừng lại giây lát, đặt bàn tay lên cánh tay Leda và nói, “Cảm ơn cô. Thật đấy… tôi thường bảo mình rất ghét đến tiệm may nhưng lần này thì vui thật!”
Leda gật đầu, cố nở một nụ cười, thầm lo sợ cô gái ngây thơ này sẽ dúi chút tiền thưởng vào tay nàng, như thể nàng là người coi đất hoặc cô hầu gái vậy. Nhưng tiểu thư Catherine chỉ bóp khẽ tay nàng đầy thiện ý rồi buông ra, bước vội theo mẹ.
Leda trở lại quầy hàng, vớ lấy bức thư có hình vòng hoa, đi nhanh lên hành lang trống rồi xé vội bì thư khi còn chưa kịp dừng chân, thở hổn hển.
Cô Etoile thân mến:
Tôi đã ngưỡng mộ cô từ xa ở vũ vội thứ Ba tuần rồi, trong khi cô bận bịu cùng Madame Elise sửa váy áo cho các phu nhân. Nhưng một người như cô lẽ ra phải có phục trang lộng lẫy cho riêng mình, tôi tin chắc vậy, và sẽ rất vinh hạnh cho tôi nếu cô cho phép tôi đáp ứng điều đó, bằng một bộ váy xứng đáng với cô.
Sẵn sàng tuân theo những lời cô sai bảo.
Herringmor
Leda vò nát lá thư trong tay rồi xé vụn. Nàng sẽ không chịu đựng chuyện này; nàng sẽ không bị xúc phạm như thế - “ngưỡng mộ từ xa” - ôi, quá bất nhã! Nàng thậm chí còn không biết quý ông “Herringmore” này là ai, và chắc chắn không muốn được giới thiệu với ông ta. Thật thô tục và tồi tệ khi bị xem như một cô hầu gái dễ dãi đến vậy.
Có lẽ trở thành nhân viên đánh máy chữ lại hơn. Tất cả các quý bà quý cô ở phố South đều phản đối vì đó là công việc đòi
hỏi sự hăng hái và năng nổ, không phù hợp với một phụ nữ được giáo dục theo cung cách mềm mỏng. Nhưng các nhân viên đánh máy không bị buộc phải chịu đựng chuyện này, chắc chắn vậy.
Ngưỡng mộ từ xa, thật quá quắt! Bất lịch sự!
Nàng bước thình thịch xuống tầng dưới, vút những mẩu giấy vụn ra cửa sổ ở đầu cầu thang. Trong phòng tắm, nàng bỏ phù hiệu trên tóc xuống và thiếu chút nữa thì bị trẹo lưng trong lúc vội tháo nút và giúp bản thân thoát khỏi cái váy đáng ghét.
Sau khi mặc vào váy và áo khoác của mình, nàng quay về phòng trưng bày để đối chất với bà Isaacson-Elise, kẻ giả dối đáng ghê tởm - và thổi bay mọi cây cầu bắc lên trời cao về phía sau.
Đoạn đường từ phố Regent đến Bermondsey rất dài nên lúc còn dư dả, Leda toàn đi xe buýt hai tầng hoặc xe lửa. Khu vực nàng sống rất đáng sợ, nằm ở rìa của một nơi mà nàng e là mình có thể tìm thấy một khu ổ chuột lụp xụp nếu đủ can đảm đi vào những con phố xa hơn. Nhưng nàng cũng luôn nhủ thầm mình quả thực may mắn vì đã tìm được một căn phòng đơn ở đó sau khi khám phá ra mức lương hai bảng mười xu mỗi tháng, ban đầu có vẻ là một khoản tiền công kha khá, hóa ra vẫn chăng đủ để trả cho căn hộ nàng từng thuê ở Kensington. Phải mất một thời gian nhất định nàng mới nhận ra mình đang ở trong tình thế cấp bách đến mức nào.
Vào lúc này, căn phòng áp mái trong một dãy nhà cũ nằm chênh vênh trên con kênh nhỏ, với mái hiên xuôi và những cửa chớp bể nứt, thuộc về nàng - ít nhất cũng đến cuối tháng này. Nàng đã thanh toán mọi khoản chi phí phát sinh nên được bà
chủ nhà ưng ý và lập tức cho sửa cửa sổ lẫn ổ khóa, tuy nhiên, Leda đoán rằng sự ưu ái đó sẽ không còn nếu bà ta phát hiện ra nàng đã mất việc.
Tình trạng này sẽ không kéo dài, dĩ nhiên. Leda sẽ đến thăm các quý bà quý cô ở phố South. Họ sẽ cho nàng giấy giới thiệu mà Madame Elise đã từ chối, và Leda sẽ bắt đầu lại - lần này là một nhân viên đánh máy, công việc nhẽ ra nàng nên lựa chọn ngay từ đầu.
Giờ thì nàng chọn đi bộ, cho đến khi có thể lấy cuốn sổ chi tiêu từ cái hộp thiếc nhỏ và tính toán chính xác hoàn cảnh lúc này. Không muốn về sớm để làm dấy lên mối ngờ vực của bà chủ nhà, nàng tạt qua tiệm Strand ở A.B.C. Trong tiệm trà dành cho các quý bà này, nàng uống một tách trà và ăn một chiếc xăng uých kẹp dưa chuột. Rồi nàng mua thêm một chiếc bánh nướng, nấn ná tại chiếc bàn kê bên dưới tấm rèm đăng ten càng lâu càng tốt nhờ vào ba xu đã trả. Hôm nay không cầm theo giỏ đồ liễu gai nên nàng nhét chiếc bánh còn nguyên vào xắc tay, đi dọc theo bờ kè và gia nhập cùng đoàn khách bộ hành, những cỗ xe chở hàng phủ vải bạt, xe ngựa thuê qua cầu London, tiến vào khu công nghiệp hôi hám phía Nam con sông.
Thực sự nàng không muốn đi thong thả mà cố rảo bước giữa đám đông và những chiếc xe tải giao hàng. Tản bộ không có người đi kèm đúng là bất tiện, nàng không muốn bị hiểu lầm là một phụ nữ có nhân phẩm không rõ ràng. Nhưng quý cô Myrtle từng nói, giá trị con người sẽ bộc lộ qua bản chất, nên Leda giữ cằm ngẩng cao và bước khoan thai, phớt lờ xung quanh, nhất là đám người rách rưới nằm trong các khung cửa tối hay vạ vật ở quầy bán cà phê.
Mùi hương đầu tiên tỏa ra từ bên này cây cầu quả là dễ chịu và đáng chú ý: rễ cây diên vĩ, trà, dầu gỗ tử đàn và dầu thông từ tiệm Hay’s Wharf, hỗn hợp mùi thơm của cả thế giới bao la ngoài kia đã mang hơi thở tới cho cái kho chứa London. Một ông lão có vẻ say rượu ngồi ngẩn ngơ, rúm ró sát cột đèn, bên cạnh là con chó đang tuổi lớn gầy trơ xương nằm thở hồng hộc, cảnh giác nhìn chằm chằm vào bước chân của dòng người ngang qua trước mặt. Leda bước qua. Đi được gần hai mét, nàng đột ngột quay lại, lần mò trong xắc tay rồi bước tới nhét cái bánh nướng vào tay ông lão, sau đó bước đi trong khi ông lão lẩm bẩm điều gì đó phía sau. Nàng có thể nghe rõ tiếng rên đầy hào hứng của con chó.
Một con tàu lao ầm ầm qua đường ray vào ga London, cũng là tiếng xình xịch đã đánh thức nàng vào năm giờ mỗi sáng, đều đặn như chuông đồng hồ báo thức. Ở đây mùi dấm chua trùm lên khu dân cư, nhưng với nàng, khu công nghiệp còn thải ra những thứ mùi khó ngửi hơn - đợi khi gió thổi từ hướng Đông đến và nàng nhận ra mùi của xưởng thuộc da, lẫn làn hơi khó chịu của chất clo thi thoảng tới từ bệnh viện. Lũ trẻ uể oải la hét khi nàng đi ngang qua nhưng nàng chẳng hề quan tâm, và chúng cũng dừng lại để gãi những bàn chân trần rồi nhìn đăm đăm vào đó.
Trong con phố nàng ở, bọn trẻ được chăm nơm tử tế hơn. Đúng vậy, cặp vợ chồng độc tài nhà bên cạnh điều hành một nơi kiểu như trại trẻ mồ côi, đôi khi nhận nuôi vài đứa từ trại tế bần, giữ chúng sạch sẽ, chỉn chu và lễ phép, không bao giờ cho phép chúng nghịch đất cát bên ngoài, cố gắng tìm người bảo trợ và sắp xếp cho chúng đến những nơi tử tế. Một cậu bé xinh xắn đã
được quý ông nhân từ nhận nuôi hồi tháng trước, cứ như Oliver Twist trong truyện của Charles Dickens vậy.
Cho đến khi chuyện này diễn ra, Leda từng nghĩ rằng có thể đó thực sự là một ngôi nhà như trong cuốn sách ấy, nơi đám trẻ con được huấn luyện nghề móc túi. Nàng đã tính đến chuyện trình báo những hoài nghi của mình với cảnh sát nhưng lại sợ bị họ cười nhạo. Hoặc tệ hơn, bà chủ nhà sẽ không tán thành mối quan tâm mang bản chất công dân của nàng. Quý cô Myrtie sẽ không bao giờ ngã lòng trước kiểu e dè như vậy, dĩ nhiên, nhưng Leda cũng hiểu được những nguyên tắc tưởng như hiển nhiên ở phố South không phải lúc nào cũng được coi là đúng tại Crucix Lane hay Oakland Yard hay Maze.
Đi ngang qua cánh cửa thép của sở cảnh sát nằm ở góc phố, nàng dừng lại để chào người tuần tra đêm. Nhưng lúc này lại sớm hơn so với thường ngày nên Thanh tra Ruby còn chưa đến. Nàng để lại lời hỏi thăm cho một cảnh sát trẻ, anh ta chạm bàn tay to lớn vào chiếc mũ cứng một cách trang nghiêm và hứa sẽ chuyển lời.
Nàng rẽ vào một con đường chỉ rộng ngang một con hẻm, với những ngôi nhà trát vữa cũ kỹ như tấm hình Nữ hoàng Elizabeth treo trên vỉa hè lấm lem bùn đất. Nhưng nàng không hề quan tâm chuyện đó vì đang mải bận rộn với những ý nghĩ về một chiếc máy chữ mới tinh sáng bóng, cố bước nhanh lên cầu thang của ngôi nhà thuê trước khi bà Dawkins lóng ngóng ra khỏi căn phòng khách tí xíu. Nhưng bà chủ nhà đã đứng trong quầng sáng vàng vọt đổ bóng lên thành cầu thang và ba bậc đầu tiên, nguồn sáng duy nhất trong bóng tối ảm đạm của hành lang.
“Giờ thì có chuyện gì vậy?” Bà ta tì khuỷu tay núng nính bên khung cửa phòng khách và nhìn Leda bằng đôi mắt lồi xanh nhợt, với cái chớp mắt chậm chạp, máy móc của một con búp bê. “Cô về sớm thế?” bà ta vừa nói vừa gục gặc mái tóc xoăn, hai má rung rung. Bà Dawkins luôn tỏ ra tôn trọng Leda nhưng lại có kiểu nhìn bằng khóe mắt rất khó chịu mỗi khi cụp mi xuống.
“Vâng,” Leda nói. “Hơi sớm một chút.” Nàng bắt đầu lên cầu thang.
“Cô để giỏ ở dưới kia à?” bà Dawkins hỏi. “Cái giỏ đựng những bộ váy đẹp ấy? Để Jem Smollett giúp cô xách nó lên nhé, thưa cô?”
Leda dừng chân và quay lại. “Chắc chắn rồi, nếu tôi mang giỏ về. Nhưng hôm nay thì không. Chào buổi tối.”
“Không mang giỏ về!” Gượng bà chủ nhà thỏ thẻ mà sắc lạnh. “Họ sẽ không đuổi việc cô đấy chứ?”
Leda bước lên bậc tiếp theo và quay mặt về phía đầu cầu thang. “Dĩ nhiên là không, bà Dawkins ạ. Vài người trong chúng tôi được nghỉ ngơi một buổi chiều trước khi bước vào quãng thời gian bận rộn nhất. Chào buổi tối, thưa bà,” nàng nhắc lại, đi vội lên cầu thang trong tiếng lầm bầm của bà chủ nhà phía sau.
Không ổn chút nào. Bà Dawkins biết quá rõ mọi khách trọ bất kỳ thay đổi nhỏ nào trong thói quen của họ cũng dẫn đến mối ngờ vực rằng tình hình đã thay đổi. Leda nhấc váy lên và cắn môi, rẽ ở đầu cầu thang dẫn lên một cầu thang hẹp hơn. Lên đến trên cùng, nàng mở khóa, vào bên trong và đóng cửa lại.
Căn gác xép nhỏ quét vôi trắng trông khá ấm cúng, nhất là khi nàng mường tượng về những chuyện sẽ xảy ra nếu bị bà Dawkins tống cổ ra dường. Thất nghiệp, mái che duy nhất có
thể kiếm được là một trong những căn nhà thuê lạnh lẽo, nơi những người ở trọ bị dồn vào các căn phòng chung và những món đồ để dành nho nhỏ của nàng sẽ hoàn toàn biến mất với giá bốn xu một đêm có giường, giảm xuống còn ba xu nếu không giường.
Nàng cũng đã tuyệt vọng nghĩ đến chuyện giãi bày thảm cảnh của mình với các quý bà quý cô ở phố South nhưng quý cô Myrtle sẽ không bao giờ hạ mình đến mức phải cầu xin sự trợ giúp, dù bằng lời nói hay hành động. Nên có một chuyến thăm viếng lịch sự vào buổi sáng và đề cập rằng nàng thấy đây chính là thời điểm thuận lợi để tìm một công việc phù hợp hơn - chuyện này có vẻ khả dĩ chấp nhận được. Chứ thừa nhận mình sắp phải sống ngoài đường đến nơi - nàng không làm nổi. Không thể làm nổi.
Nàng mở tung ô cửa sổ bằng kính để bầu không khí tù túng thoát khỏi căn phòng. Mùi dấm nồng nặc trong khu dân cư lẫn vào mùi hôi hám từ con kênh bốc lên. Trời còn chưa tối hẳn nhưng nàng đã thay áo ngủ và nằm dài, lờ đi cơn ê ẩm bắt đầu lan dần quanh thắt lưng. Một chiếc xăng uých kẹp dưa chuột chả thấm tháp vào đâu, nhưng nàng đã quá mệt mỏi và kiệt sức một cách bất thường, thấm thía cảm giác sợ hãi về việc mình đã làm. Giấc ngủ có vẻ đơn giản mà hạnh phúc.
Nhắm mắt lại, nàng nghĩ về tiểu thư Catherine và mẹ cô, cũng như việc họ nên đeo những đồ trang sức thế nào để làm nổi bật nước da. Chìm vào giấc mơ quay cuồng và mơ hồ về những tấm lụa và giọng nước ngoài, nàng chợt bừng tỉnh khi căn phòng đã chìm vào bóng tối. Một thoáng bối rối vụt qua vì nàng có cảm giác như mình mới chợp mắt được ít phút chứ
không phải hàng tiếng đồng hồ.
Tim nàng lại đập mạnh, rộn ràng trong tai giữa sự im ắng đến rợn người. phía xa, tiếng còi tàu vang vọng trong đêm, như thể linh hồn đã thoát hẳn ra khỏi thân xác trói buộc.
Mắt nàng díu chặt vào nhau. Dường như tiểu thư Catherine đang mỉm cười đâu đó, nụ cười chân thành, xinh đẹp, đặt tay lên cánh tay Leda. Quý cô Myrtle giục nàng tỉnh giấc. Có người đang ở trong phòng. Nàng phải tỉnh dậy. Tỉnh dậy, tỉnh dậy, tỉnh dậy - nhưng nàng lại không thể mở nổi mắt. Nàng mệt đến mức có thể ngủ ngay trên phố. Không còn quan trọng nữa. Một cây kéo bạc lấp lánh trong rãnh nước. Nàng với xuống để nhặt nó lên… và một bàn tay đàn ông cản lại. Anh ở đây, thật sự ở đây, ngay trong phòng nàng. Nàng phải tỉnh dậy… nàng phải… phải…
Trong giấc mơ, anh nắm lấy cổ tay nàng và kéo nàng lại gần, ôm nàng sát vào lồng ngực. Nàng không sợ. Nàng không thể thấy anh, đơn giản vì không thể mở đôi mắt nặng trĩu. Nhưng nàng cảm thấy an toàn trong vòng tay anh. Thật an toàn và dễ chịu… an toàn…
Chương 4
Hawaii, 1871
Đó là một căn nhà rộng lớn, nhưng cậu đang quen dần với những căn nhà như vậy. Cậu thích chúng, nhưng căn phòng trống thoáng đãng với thảm len lauhala trải dưới đôi chân trần, những cột trụ màu trắng và cổng vòm rộng được gọi là lanat[4], thích cái cách mà những giọng nói vọng lại từ trần nhà cao tít và âm thanh của biển cả luôn văng vẳng bên tai.
Hôm nay cậu đi giày rồi ra ngoài cùng Phu nhân Tess, mặc đồ thủy thủ màu trắng có đai viền màu xanh hải quân và đỏ. Nó sạch đến mức khiến cậu thấy miễn cưỡng mỗi khi cử động vì không muốn làm bẩn nó. Dù có rất nhiều quần áo nhưng cậu lại thích chúng ở yên không ai đụng đến và hoàn hảo trong tủ treo hoặc rương. Thật tuyệt khi nhìn vào bên trong và thấy chúng được gấp gọn gàng, trắng tinh và thẳng thớm.
Cậu ngồi trong ghế, mắt nhìn xuống đường dệt chéo đẹp đẽ của tấm thảm trải sàn trong khi Phu nhân Tess nói chuyện với một phu nhân Hawaii - quý bà Dominis. Câu chuyện của họ không lọt vào tai cậu vì toàn việc của người lớn, chẳng có gì hấp dẫn cả. Phu nhân Tess đã hỏi cậu có muốn ở nhà chơi hay không, nhưng cậu không muốn. Cậu muốn đi với bà. Đó mới là điều cậu luôn mong chờ. Tuyệt nhất là lúc bà kéo cậu vào vòng tay và ôm cậu, nhưng cậu cũng thích lúc bà cầm tay cậu, hoặc khi cậu có thể đi theo túm một nếp váy của bà.
Hôm nay Phu nhân Tess còn đem theo cậu Robert và bé Kai. Vị phu nhân Hawaii thích gặp hai đứa bé, Samuel dám chắc như
vậy. Cậu tự hỏi liệu quý bà Dominis có một tên khác bằng tiếng Hawaii hay không, thay vì tên mà những người ngoại quốc hay gọi - được đặt theo tên người chồng râu quai nón người Italia. Khi cậu hỏi Phu nhân Tess, bà đã trả lời tên thánh của quý bà Dominis là Lydia. Thế cũng ổn thôi, nhưng cậu vẫn muốn biết tên thật của bà. Người Hawaii nào cũng có mặt cái tên lạ và dễ thương. Quý bà Dominis cũng rất hiền hậu, có giọng nói trầm trầm ấm áp và làn da nâu vàng của dân xứ đảo. Khi bà cúi xuống ôm gọn Robert và Kai vào lòng, hai đứa bé có vẻ trở nên trắng hồng và bé xíu. Riêng Samuel đứng nép sau lưng Phu nhân Tess khi quý bà Dominis muốn ôm cậu. Cậu thực sự không rõ lý do bởi cậu dám chắc là mình cũng sẽ thích được bà ôm. Nhưng Robert và Kai bà con ruột của Phu nhân Tess. Còn Samuel không có nổi một cái họ đàng hoàng. Cậu cảm thấy mình như một kẻ giả mạo trong bộ quần áo đẹp đẽ.
Bé Kai rúc vào lòng quý bà Dominis và áp má vào vòm ngực rộng của bà. Robert kêu ầm lên vì bị chầu rìa cho đến khi bà cho cậu một chiếc kukui-nut lei[5]. Cậu bé bốn tuổi ngồi bên chân bà, loay hoay gỡ các nút thắt giữa các hạt cây kukui được bôi dầu đen bóng.
“Cháu đã đi câu đấy à, Samuel?” Quý bà Dominis hỏi. Cậu gật đầu. Các phu nhân Anh và Mỹ chẳng bao giờ trò chuyện với trẻ con trong phòng khách, nhưng những quý bà Hawaii lại luôn muốn biết chúng làm gì, hào hứng như thể họ cũng là trẻ con vậy. Cậu nói,“Cháu bắt được một con mano, thưa bà.”
“Cá mập à! Nó to chứ?”
Cậu đu đưa người từ bên này sang bên kia trong chiếc ghế.
“Cũng khá to, thưa bà.”
“Dài bằng cánh tay ta không?”
Cậu ngước lên khi bà xòe ngón tay ra. Cánh tay bà tròn trịa và mềm mại, không mảnh mai như của Phu nhân Tess. “Dài hơn một chút ạ.”
“Cháu có giết và ăn thịt nó không?”
“Có, thưa bà. Cháu dùng mái chèo đập nó. Kuke-wahine giúp cháu xẻ thịt.”
“Chúng tôi đã ướp nó cho bữa tối qua,” Phu nhân Tess nói. “Tốt.” Quý bà Dominis mỉm cười với Samuel. “Giết rồi ăn thịt nó sẽ giúp cháu can đảm hơn.”
Cậu nhìn bà đầy hứng thú. “Thế ạ?”
“Chắc chắn. Mano kane. Một người-cá mập, không sợ hãi bất cứ thứ gì nơi biển cả.”
Samuel khẽ nhổm dậy, cậu mê mẩn ý tưởng đó. Rồi cậu xem xét nó, hình dung mình là một con cá mập lướt đi trong những vùng nước sâu tối tăm dưới đại dương. Dũng mãnh. Cắn xé bất cứ thứ gì đe dọa đến mình bằng hàm răng sắc đáng sợ.
“Ta sẽ hát một bài về cá mập cho cháu nghe,” quý bà Dominis nói, và bắt đầu cất giọng bằng thứ ngôn ngữ phong phú của mình. Nó không hẳn là một bài hát bởi không hề có giai điệu, thật vậy, và bà gõ ngón tay trong lòng để tạo nhịp. Cậu mải mê lắng nghe những câu chữ có vần cứ thế tuôn ra.
Khi bà hát xong, Phu nhân Tess yêu cầu thêm một bài nữa. Quý bà Dominis bế Kai đứng dậy rồi ra ngồi trước đàn piano. Từ lúc đó cho đến cuối buổi thăm viếng, bà thể hiện những ca khúc tiếng Anh thông thường, có Phu nhân Tess và cậu Robert cùng hát theo, và Kai thì vỗ hai bàn tay bụ bẫm nhưng lạc nhịp.
Samuel vẫn ngồi yên trong ghế. Cậu không tham gia với họ. Mặc kệ mọi giai điệu du dương trầm bổng, cậu chỉ thầm lắng nghe bài hát nhịp nhàng và sâu sắc về cá mập.
Chương 5
“Cháu nên lập gia đình thôi, cháu yêu,” quý bà Wrotham bảo Leda. Không may mà người phụ nữ luống tuổi này lại không bàn thêm làm thế nào để đạt được mục tiêu lý tưởng này, mà chỉ ngồi sát mép chiếc ghế quay sợi. “Ta không thích việc đánh máy.” Bà gõ nhẹ những ngón tay nổi gân xanh. “Cứ nghĩ đến găng tay sẽ bẩn đến mức nào mà xem.”
“Quý bà Wrotham, cháu không nghĩ mình sẽ đeo găng đâu,” Leda nói. “Ít nhất cháu cũng có thể bỏ găng ra khi làm việc trên máy.”
“Nhưng cháu sẽ đặt chúng ở đâu? Đôi găng sẽ dính bụi, cháu yêu… cháu thừa biết găng tay được làm từ chất liệu gì mà.” Bà chậm rãi gật đầu, những lọn tóc bạc ở hai bên thái dương đung đưa bên dưới cái mũ nhỏ, trông thùy mị như cô gái ngày xưa.
“Có thể chỗ bàn làm việc sẽ có ngăn kéo. Cháu sẽ dùng giấy báo gói đôi găng lại và cất vào trong đó.”
Quý bà Wrotham không trả lời, nhưng vẫn gật đầu theo kiểu chậm rãi cố hữu. Giữa những bức tường màu hồng nhạt và rèm che màu táo xanh đã bạc, trông bà thật mong manh, cổ kính như những vòng hoa bằng thạch cao kiểu George trang trí cho trần nhà và bệ lò sưởi.
“Ta không vui chút nào,” bà đột nhiên lên tiếng, “khi nghĩ đến cháu ngồi sau một cái bàn. Ta mong cháu cân nhắc lại, Leda thân mến. Quý cô Myrtie có thể không thích chuyện này, cháu có nghĩ vậy không?”
Câu ám chỉ bằng giọng trách móc nhẹ nhàng lại tác động tới
Leda rất nhiều. Chắc chắn quý cô Myrtle sẽ không thích chuyện này. Leda cúi đầu, tuyệt vọng nói, “Nhưng chỉ cần tưởng tượng công việc đó sẽ thú vị như thế nào đi ạ! Biết đâu cháu được gõ lại bản thảo viết tay của một tác giả ngang tầm Sir Walter Scott thì sao.”
“Khó lắm, cháu yêu,” quý bà Wrotham nói, gật đầu mạnh hơn. “Rất khó có khả năng. Ta không nghĩ chúng ta sẽ gặp được người giống như Sir Walter trong suốt cuộc đời này. Cháu vui lòng rót cho ta tách trà nhé?”
Leda đứng dậy, biết rằng yêu cầu này là một vinh dự dành cho nàng. Quý bà Wrotham đã rất tử tế khi đề nghị như vậy, bởi Leda nhận ra bà chủ nhà hơi mếch lòng khi nghĩ sẽ có ngày xuất hiện một tác giả sánh được với nhà văn mình yêu thích nhất.
Trong khi họ ăn bánh mì lát và bơ, cô hầu gái nói giọng khu Đông London thông báo Phu nhân Cove và chị gái, quý cô Lovatt, đã đến. Màn rắc rối thường lệ diễn ra trước ngưỡng cửa trong phút chốc, khi quý cô Lovatt cố lùi lại nhường bước cho em gái là phu nhân nam tước, còn Phu nhân Cove thì xua tay và làm vài cử chỉ tỏ vẻ bất lực khi muốn mời chị gái mình đi trước. Cuối cùng thì chuyện vẫn được giải quyết như mọi khi: phu nhân ngoan ngoãn vào trước chị gái và nhìn Leda đầy cảm kích khi cô xếp ghế cho họ ngồi gần khay trà.
Vẫn theo lệ thường, quý cô Lovatt hạ thân hình uyển chuyển vào một cái ghế bọc vải hoa và hỏi Leda nghĩ mình đang làm gì mà lại xa cách bạn bè lâu đến vậy. Trong lúc Leda cố giải thích để không khiến các quý bà quý cô lo lắng một cách không cần thiết về những chuyện xảy ra khi đi làm thuê, Phu nhân Cove đã cứu cánh cho nàng bằng giọng nói êm ái, rằng thật tuyệt vì
nàng đã tới đây mỗi khi có thể. Leda mỉm cười với bà, tỏ vẻ biết ơn vì sự giúp đỡ kịp lúc.
Thêm người tham gia, câu chuyện chuyển sang các đề tài khác nhau, bao gồm cả về những người thuê nhà quý cô Myrtle. “Có vẻ thô lỗ lắm,” quý bà Wrotham tả khái quát về bà chủ nhà mới. “Mọi người có thể thấy mũi cô ta bên dưới vành mũ. Hai chị em tôi chưa ghé qua thăm.”
“Hắn ta là dân buôn súc vật,” quý cô Lovatt nói. “Dân buôn súc vật ạ?” Leda lặp lại.
“Hắn xử lý việc liên quan đến thú vật,” quý cô Lovatt nói rõ hơn, kèm theo cái nhấc ngón tay khó hiểu. “Khi chúng đã chết. Với số lượng lớn.”
Không ai nói thêm về chuyện đó nữa. Bất cứ điều gì quý ông này đã làm với số lượng lớn súc vật chết nên để dành cho trí tưởng tượng. Một thoáng yên lặng sầu muộn, trang nghiêm trôi qua khi mọi người cùng nghĩ về số phận đáng buồn của ngôi nhà quý cô Myrtie từng sở hữu, và Leda nghĩ đến căn phòng ngủ chật hẹp với thảm nhung trải sàn kiểu Brussels cùng giấy dán tường có hoa văn màu xanh nước biển đậm, điểm thêm sắc hồng và đỏ.
“Cháu đã sửa sang gì thêm cho căn hộ mới chưa, cháu yêu?” Phu nhân Cove hỏi Leda.
“Ồ! Sửa sang ạ?” Nàng loay hoay tìm câu trả lời phù hợp, chỉ chệch hướng một chút thôi cũng dẫn đến những dò hỏi kỹ hơn về căn hộ nàng đã không thể giữ lại cho mình. “Cháu chưa quyết định sẽ cải thiện gì cả. Cháu không muốn vội vàng.”
“Rất khôn ngoan,” quý cô Lovatt nói, gật đầu. “Cháu luôn là một cô gái vững vàng, Leda. Chúng ta đã lo lắng cho cháu,
nhưng ta tin cháu sẽ làm tốt thôi.”
“Ồ, vâng, thưa phu nhân.”
“Leda bảo tôi con bé muốn làm nhân viên đánh máy,” quý bà Wrotham thông báo. “Tôi phải nói mình không ưa chuyện đó.” “Chắc chắn không!” Quý cô Lovatt đặt tách trà xuống. “Không, chúng ta đều đồng ý nghề đánh máy không phù hợp. May quần áo là lựa chọn tốt hơn.”
“Cháu đã… thế này… các cô biết đó… cháu thực sự không cảm thấy thoải mái ở tiệm của Madame Elise,” Leda nói. “Vậy thì cháu phải thay đổi tình hình,” Phu nhân Cove nói khẽ với vẻ nhân từ. “Chúng ta có thể làm gì để giúp cháu nào?” Leda nhìn bà đầy biết ơn. “Ồ, phu nhân Cove… cháu sẽ có lợi thế rất lớn nếu có được một lời giới thiệu…” Nàng dừng lại, chợt nhận ra yêu cầu này có vẻ bất nhã,“… chỉ một câu thôi - thật đấy, cháu e là Madame Elise sẽ không… nếu cháu không quá lạm dụng… lòng tốt của mọi người…” Nàng cắn môi khi những lời nói lộn xộn cứ thế tuôn ra.
“Chúng ta sẽ cân nhắc,” quý cô Lovatt nói. “Không phải chúng ta không vui lòng giới thiệu cháu, Leda thân mến, cháu hiểu mà. Nhưng có thể cháu không nên quá vội vã rời khỏi tiệm Madame Elise để trở thành nhân viên đánh máy.”
“Nhưng, thưa cô…”
“Cháu nên lắng nghe lời khuyên đúng đắn, Leda ạ. Đánh máy không phải nghề phù hợp. Đó là công việc dành cho những phụ nữ mạnh mẽ.”
“Cháu sẽ làm bẩn găng tay,” quý bà Wrotham thêm vào. “Nhưng con bé đâu cần đeo găng, phải không?” Phu Cove rụt rè hỏi.
“Tất nhiên con bé phải đeo găng chứ, Clarimond. Sẽ có rất nhiều người ở tầng lớp bình dân dính líu đến công việc đó. Đám tùy phái. Đám giao hàng.” Mũi quý cô Lovatt nở to. “Có thể cả đám diễn viên nữa.”
“Diễn viên!” Phu nhân Cove líu ríu.
“Có thể con bé sẽ bị bắt đánh máy phần lời thoại cho họ. Tôi đã thấy quảng cáo của Văn phòng Sao lưu và Đánh máy dành cho Phụ nữ nhận đánh máy lời thoại cho diễn viên và tài liệu cho luật sư.”
Cả ba người đều nhìn Leda bằng ánh mắt khiển trách. Nàng xấu hổ cụp mi xuống và nhấp một ngụm trà, không dám đưa ra lời biện hộ nào. Nàng muốn ăn thêm vài lát bánh mì và bơ nữa nhưng như thế thì hơi bất lịch sự.
“Chúng ta sẽ cân nhắc,” quý cô Lovatt nói - dĩ nhiên bà sẽ cân nhắc và hai phu nhân sẽ khiêm nhường lắng nghe bài diễn thuyết cùng kết luận của bà về vấn đề này. “Leda thân mến, chúng ta luôn muốn điều tốt nhất cho cháu. Quý cô Myrtle cũng mong chúng ta chăm lo cho tương lai của cháu. Thứ Sáu tuần sau cháu quay lại đây và lúc đó chúng ta sẽ đưa ra quyết định.”
Leda dành cả ngày còn lại trong phòng chờ ở Văn phòng Môi giới Việc làm của bà Gernsheim. Cuộc phỏng vấn của nàng với bà ta không mấy suôn sẻ từ lúc bà ta biết Leda sẽ không có giấy bảo lãnh từ người chủ trước. Nhân viên đánh máy, bà ta nói với Leda, bà mất vị trí nhiều người tìm kiếm nhất, thường được trao cho những người đã qua đào tạo và có kinh nghiệm. Thậm chí không có cả giấy báo lãnh… Bà Gernsheim gõ cây bút vào lọ mực với thái độ nghiêm trọng.
Leda đề cập đến những mối quan hệ của nàng phố South.
“Tôi chưa nghe nhắc tới Phu nhân Cove bao giờ,” bà Gernsheim lảng đi. “Gia đình này có được liệt kê trong danh sách họ tộc của Burke không?”
“Chắc chắn có,” Leda nói, hơi tự ái. “Họ có tước hiệu nam tước từ năm 1630. Và Phu nhân Cove là người mang họ Lovatt từ bên nhà ngoại.”
“Được rồi. Vậy cô là họ hàng?”
Leda nhìn xuống đôi găng tay của mình. “Không, thưa bà,” nàng lí nhí.
“Ô. Vậy mà tôi cứ tưởng cô có liên hệ gốc gác nào đó giúp ích cho phần xuất thân của mình chứ.”
“Không ạ,” Leda nói thêm, và im lặng.
“Tôi tin ‘Etoile’ cũng là một họ không mấy quen thuộc. Gia đình cô ở quận nào?”
“Họ mất lâu rồi, thưa bà.”
“Tôi rất tiếc,” bà Gernsheim nói bằng giọng nghiêm nghị. “Nhưng gốc gác của cô ra sao? Ở trường hợp của cô, ít kinh nghiệm và có điều tiếng trong quá khứ, những chủ thuê tương lai chắc chắn muốn biết rõ cô là ai. Gần đây có rất nhiều vấn đề phức tạp; cả những dạng người không mấy phù hợp. Theo đảng xã hội. Hầu gái giết chủ. Những giai cấp nguy hiểm. Hẳn là cô đã nghe đến Kate Webster.”
“Chưa, thưa bà,” Lena nói.
“Chưa à?” Bà Gernsheim nhướng hai hàng lông mày thưa lên, có vẻ thực sự ngạc nhiên. “Báo nào cũng đăng vụ đó. Ở Richmond. Vài năm trước. Cô hầu gái đã làm tất cả - cắt cổ bà góa tội nghiệp và nấu xác bằng cái chảo đồng của bà chủ. Rồi chuyện Phu nhân Riel - bị hầu gái bóp cổ ngay trong nhà mình ở
Park Lane. Những vụ như vậy khiến các chủ thuê phải cẩn trọng hơn. Cô không phải người Ailen nhỉ, tôi mong vậy.” “Tôi gốc Pháp, thưa bà,” Leda điềm tĩnh trả lời.
“Cô nói rõ thêm được không, cô Etoile? Gia đình cô đến Anh bao lâu rồi?”
Leda bắt đầu cảm thấy căn phòng trở nên ngột ngạt. “Tôi không rõ lắm, tôi e là thế.”
“Cô có vẻ thạo chuyện của nhà Lovatt hơn nhà mình nhỉ.” “Mẹ tôi qua đời năm tôi lên ba. Quý cô Myrtle Balfour ở phố South đã nhận nuôi tôi từ lúc đó.”
“Còn ông Etoile? Cha cô?”
Leda ngồi lặng thinh, không biết trả lời thế nào.
“Cô có quan hệ họ hàng với quý cô Balfour không? Bà ấy không thể viết một giấy bảo lãnh sao?”
“Không, thưa bà,” Leda nói, và kinh hãi nhận ra giọng mình đang run rẩy. “Quý cô Balfour đã qua đời một năm trước.” “Và cô thì không phải họ hàng của gia đình Balfour?” “Không, thưa bà.”
“Cô được nhận nuôi?”
“Quý cô Balfour đem tôi về nhà.”
Bà Gernsheim đã mất kiên nhẫn. “Tôi không thể gọi đây là một lý lịch có triển vọng, cô Etoile ạ. Có lẽ tìm cho cô những công việc không đòi hỏi khắt khe về mặt năng lực sẽ tốt hơn nhiều. Cô đã tính đến các cửa tiệm chưa?”
Leda áp hai bàn tay đi găng đang xòe rộng vào nhau. “Tôi không muốn dính đến ngành buôn bán, thưa bà, nếu bà vui lòng.”
“Nào, nào, nó quá tốt mà. Cô không cho rằng dòng dõi của cô
quá cao quý so với việc đó chứ?”
“Tôi muốn một công việc đứng đắn hơn việc ở trong các cửa tiệm, thưa bà,” Leda bướng bỉnh. “Tôi thực sự muốn làm nhân viên đánh máy.”
“Nếu vậy, cô phải nộp cho tôi một giấy bảo lãnh tốt từ người có địa vị cao hơn. Chí ít bà từ Phu nhân Cove.”
“Vâng, thưa bà.”
Bà Gernsheim ghi chú lại. “Theo tôi hiểu thì Etoile chính xác là họ của mẹ cô?”
“Vâng, thưa bà.” Giọng Leda đã chuyển thành tiếng thì thầm. “Bà ấy không kết hôn?”
Leda không biết nói gì ngoài việc lắc đầu. Bà Gernsheim ngước mắt lên khỏi tờ giấy, cau mày nhìn Leda rồi ghi lại. “Nơi ở hiện nay của cô?”
“Nhà bà Dawkins ở Jacob’s Island, thưa bà. Khu Bermondsey.” “Jacob’s Island!” Bà ta gấp sổ và đặt bút xuống. “Cô đúng là một thử thách đấy, cô Etoile. Những cô gái biết điều hiếm khi muốn trèo cao. Khi cô quay lại đây với giấy bảo lãnh, chúng ta sẽ xem xét tiếp việc này. Thứ Hai tới có tiện cho cô không?” “Tôi tin mình có thể đem giấy trở lại trước thời hạn đó,” Leda quả quyết. “Cô đem nó đến càng sớm càng tốt, cô Etoile, nhưng cũng phải tới thứ Hai tôi mới tổ chức phỏng vấn để tìm công việc phù hợp với hoàn cảnh của cô được. Vui lòng đóng cửa nhẹ nhàng giúp tôi. Cả ngày hôm nay tôi đã bị cơn đau đầu hành hạ rồi.”
Leda cũng lên cơn đau đầu. Nàng rời văn phòng với tâm trạng ảm đạm. Bằng cách nào đó, nàng sẽ phải đến nhà Phu nhân Cove trong lúc chị gái bà, quý cô Lovatt không có nhà rõ là một việc
khó nhằn - rồi dỗ khéo để nữ nam tước rụt rè viết một tấm giấy bảo lãnh mà quý cô Lovatt đã ngụ ý rõ mà không được viết, kèm theo một câu nói ró Leda không có phong thái của kẻ sát nhân… loại chuyện sẽ làm khơi mào cho một cuộc tán gấu về nhưng người hầu độc ác, và cuối cùng sẽ khiến Phu nhân Cove phải run sợ khi nghĩ đến những mưu đồ tăm tối của tay quản gia - một người đàn ông lưng gù có giọng nói run rẩy đã làm việc trong nhà bà được ba mươi lăm năm.
Và phải chờ hơn một tuần để biết được mình có cơ hội hay không! Leda nhẩm tính số tiền của mình và mạnh dạn lê bước tiến về phía trước.
Nàng về đến khu nhà trọ thì trời đã nhá nhem tối. Viên thanh tra trực đêm vừa bước lên thềm đồn gác. Ông ta dừng lại khi thấy Leda đi tới từ phía sau và giữ cổng cho nàng. “Cô lại về sớm à! Tôi có nghe hôm qua cô ghé sớm.”
“Ông khỏe chứ, Thanh tra Ruby? Họ chuyển lời hỏi thăm của tôi đến ông chứ?”
“Có, thưa cô. Có chứ.” Cuộc trò chuyện này là một nghi thức giữa hai người. Leda hỏi thăm vợ và con ông ta, bữa tối có món gì, rồi đề nghị truyền cho ông ta công thức chế biến lưỡi bò của quý cô Myrtle.
“Rất cảm ơn, thưa cô. Mời cô lên đây và tôi sẽ ghi nó vào sổ, nếu cô không bận việc gì.”
Leda leo lên cầu thang và bước qua cánh cửa sắt đang được ông thanh tra giữ cho cô. Bên trong căn phòng kín bưng, bục của viên thanh tra nằm đơn độc giữa vùng ánh sáng đèn, như bục giảng kinh trong bóng tối tù mù. Một phụ nữ nằm sóng soài trên sàn trong xà lim đơn, như khối đen ngòm lẩm bẩm và rền rĩ
một mình giữa bóng tối, trong khi viên cảnh sát bật dậy khỏi ghế bên ngoài và chào cấp trên.
Leda cảm thấy mình sẽ tỏ ra tò mò một cách bất nhã nếu quan sát quá kỹ người phụ nữ trong đó nên nàng ngồi xuống ghế băng, dựa lưng vào bức tường quét vôi trắng, đặt cuốn sổ của viên thanh tra vào lòng để viết. Bất chấp bầu không khí ngột ngạt, viên cảnh sát dự bị bắt đầu cời than bên dưới ấm đồng đặt trên vỉ lò sưởi, xin lỗi viên thanh tra vì chưa pha trà cho ông ta.
Viên thanh tra nhăn mặt. “Không sao hết, cậu đã đun tách trà đắng nhất tôi từng uống đấy, MacDonald.”
“Xin lỗi, thưa ngài,” MacDonald nói. Anh ta thẳng lưng, như thể không nghĩ ra được phải làm gì với đôi bàn tay to lớn, lốm đốm tàn nhang của mình. Anh ta liền móc chúng vào lớp vải của chiếc thắt lưng trắng khiến phần khóa sáng bóng bị bung ra,
liếc sang Leda với vẻ hơi xấu hổ. “Tôi không biết phải làm thế nào. Ở nhà, vinh dự đó luôn thuộc về chị tôi.”
Nàng đặt cuốn sổ sang bên. “Để tôi pha trà cho ngài, ngài thanh tra. Chuyện này thì tôi rất thạo.”
“Sao lại không, cô thật tuyệt vời, thưa cô.” Thanh tra Ruby vuốt ria mép và mỉm cười. “Tôi rất biết ơn cô. Không có gì bằng bàn tay phụ nữ.”
Leda băng qua căn phòng tối, bận bịu với cái ấm và ngọn lửa. Qua khóe mắt, nàng thấy thân thể người phụ nữ trong xà lim lăn lộn, quằn quại trên sàn, như thể cố tìm một tư thế thoải mái hơn. Rồi cô ta bật ra một tiếng rên nhỏ. Khi cô ta nằm ngửa ra, hình dáng cái bụng phình tướng lên cho thấy cô ta rõ là đang… à… trong tình trạng chuẩn bị lâm bồn, như cách quý cô Myrtle sẽ gọi bằng giọng thì thầm sau bàn tay đang che miệng.
“Ôi, cô ơi,” Leda nói, nhỏm dậy từ bếp lò. “Cô vẫn ổn chứ?” Người phụ nữ không trả lời. Cô ta đang thở nặng nhọc, ưỡn cong người. Sau lưng Leda, Thanh tra Ruby càu nhàu hỏi, “Mac? Chúng ta có gì ở đây vậy?”
“Book nói vì tội gây rối, thưa ngài,” Hạ sĩ MacDonald hắng giọng. “Họ bắt cô ta trong phiên gác chiều. Cô ta bị đuổi khỏi Oxslip trong khu Island. Rồi làm loạn lên. Cào vào mặt Sally Chảo Rán.”
Leda ngạc nhiên quay lại đúng lúc bắt gặp hai người đang trao đổi ánh mắt. “Oxslip?” nàng hỏi. “Trong phố của tôi? Đó là nơi nhận nuôi trẻ mồ côi.”
Thanh tra Ruby cau mày với nàng. Ông ta cắn môi trên, dùng răng kéo giãn bộ ria ra. Hạ sĩ MacDonald có vẻ lúng túng. “Trại trẻ mồ côi,” Thanh tra Ruby thô lỗ nói. “Đúng vậy, thưa cô.”
Nàng nhìn người tù tự vuốt lưng và rên rỉ. Khi Leda nhìn kỹ hơn, có thể dễ dàng nhận ra người phụ nữ này chỉ là một cô gái da trắng vừa qua tuổi thiếu niên. “Có lẽ… Thanh tra Ruby… tôi tin là…” Leda lưỡng lự khi phải đưa ra ý kiến vì nàng chẳng biết gì về chuyện sinh nở, nhưng lúc này cô gái đang phát ra những âm thanh rất rõ ràng. “Có nên gọi bác sĩ không?”
“Bác sĩ sao, thưa cô?” Viên thanh tra chăm chú nhìn cô gái. “Ý cô không phải là… xin ơn trên cứu giúp… cô ta không sắp sửa…” Hình người nằm trên sàn xà lim ngắt lời ông bằng một tiếng rên lớn, rồi đột ngột chuyển sang thì thầm một tràng những lời báng bổ.
“MacDonald,” viên thanh tra quát,“cho người đi tìm xem y tá còn làm việc không. Cô ta không đủ tiền trả cho bác sĩ đâu.”
“Vâng thưa ngài. Tôi sẽ lo liệu ngay lập tức.” MacDonald vội đứng nghiêm chào và biến mất bên ngoài cánh cửa với tốc độ chóng mặt.
“MacDonald!” viên thanh tra oang oang gọi với theo. “Tôi nói cho người đi, không phải cậu đi? Thế đấy, một gã ngốc nghếch đần độn; chết tiệt, cậu ta đã nghe tôi nói rõ như ban ngày rồi đấy. Cậu ta luôn sợ những chuyện của phụ nữ.” Thanh tra Ruby cười toe toét với nàng. “Cậu ta để ý cô đấy, thưa cô. Ngày nào cũng hỏi thăm. Không thể kiềm chế niềm vui vì cô đã nói chuyện với cậu ta chiều qua.” Ông ta cởi chiếc áo khoác có hàng khuy sáng màu và bắt đầu xắn tay áo. “Và cô nghĩ sao về cô gái tội nghiệp này? Chắc chúng ta phải vào trong xem tình hình cô ta ra sao.”
Leda lùi lại và dựa vào tường, hơi do dự khi ông ta mở cửa xà lim và ra hiệu cho nàng bước vào. “Tôi e mình không biết nhiều về chuyện này,” nàng thừa nhận. “Cô ấy có vẻ đang bị đau và tôi nghĩ nên đưa một người có chuyên môn đến thì tốt hơn.”
“Chúa phù hộ cho cô, chúng tôi không cho người có chuyên môn xuống đây, cô biết đấy. Không phải cho loại chuyện thế này. Có thể y tá sẽ đưa bà đỡ đến… mà cũng có thể không.” Ông ta bước vào xà lim và quỳ bên cạnh cô gái. “Nào, phải làm gì bây giờ, cô bé? Cô đau đẻ phải không? Đau bao lâu rồi?”
Leda không nghe thấy câu tra lời lúng búng của cô gái, nhưng viên thanh tra lắc đầu. “Cả ngày phải không? Đứa trẻ ngốc, sao cô không chịu nói?”
“Tôi không muốn,” cô gái thở hổn hển. “Tôi chưa muốn nó ra.”
“Chà, dù gì thì nó cũng đang ra rồi. Con đầu lòng à?”
Cô gái rên rỉ thay cho lời đồng ý.
“Sao cô lại đến Oxslip? Không phải cô hy vọng sẽ được nhận một chiếc giường ở đó chứ?”
“Bạn tôi… cô ấy hỏi thăm hộ tôi, nói tôi có thể hy vọng họ sẽ nhận đứa bé.” Cô gái nuốt khan và quay đầu sang bên. “Tôi sẽ trả tiền để họ nuôi nấng nó. Tôi thề.”
Viên thanh tra lắc đầu. “Cô gái ơi, cô phải bao bọc cho con mình chứ,” ông ra nói. “Đem nó cho đám trông trẻ chả khác nào giết nó, tin tôi đi. Cô là người giúp việc phải không?” Có anh chàng nào trong thành phố hả?”
“Tôi… không tìm thấy anh ta.”
“Thật tệ. Nhưng ở Oxslip người ta sẽ không muốn một đứa trẻ mồ côi đâu, cô hiểu ý tôi không? Bạn cô có lòng tốt nhưng giới thiệu cô đến đấy thì sai hoàn toàn rồi.”
Cô gái bắt đầu thở dốc. Khuôn mặt nhăn nhó.
Viên thanh tra cầm lấy tay cô ta. Leda tiến lại gần hơn, cắn môi. “Tôi có thể giúp gì?” nàng thì thầm.
Cả hai cùng quay lại khi nghe tiếng cửa kêu ken két. Leda tưởng sẽ thấy Hạ sĩ MacDonald, nhưng đó là một viên cảnh sát lạ mặt chạy ào qua cửa, má đỏ bừng và cổ áo thít lại do di chuyển quá nhanh. Thanh tra Ruby đứng phắt dậy.
“Đừng bỏ tôi,” cô gái khóc to. “Đau quá!”
Leda bước hẳn vào xà lim. “Tôi sẽ ở lại với cô ấy,” nàng nói, quỳ xuống trên mặt sàn cứng. Nàng cầm tay cô gái, vỗ nhẹ lên đó, mặc cho những ngón tay hoảng loạn bấu chặt lấy đôi tay mình.
“Cảm ơn cô.” Viên thanh tra ra ngoài trao đổi với người mới đến. “Chào ngài sĩ quan. Có chuyện gì không ổn sao?”
Người đàn ông bật ra tiếng cười gay gắt. “Không ổn! Ừ! Sao chúng ta không có một cái máy điện báo trong văn phòng này chứ, tôi hỏi ngài đấy? Cả đám phóng viên đang đeo dính lấy tôi và Sở Ngoại vụ đang kề dao vào cổ tôi, nếu ông gọi đó là không ổn! Đi theo tôi ngay, Ruby, và hãy tỏ ra năng nổ.”
“Quân dự bị của tôi…”
“MacDonald hả? Tôi vừa gặp cậu ta ngoài phố. Lệnh cho cậu ta đi trước rồi. Báo chí, thưa ông, báo chí! Nếu ông nghĩ tôi muốn bị bắt quả tang ngay trước mũi một đám phóng viên chết tiệt thì nghĩ lại đi.” Ông ta thậm chí còn không nhìn về phía Leda hay cô gái trong xà lim đấy một lần, tay vẫn đặt trên cánh cửa mở, còn Thanh tra Ruby vội vã lấy mũ và áo choàng. “Đó là một trò bịp bợm, tôi sẽ bị cản trở, nhưng gã này đã công bố từ Whitehall sang tờ Times và ngược lại, và phải ra vẻ như thể chúng ta kiểm soát được tình hình đấy nhé. Tôi dự tính chúng ta có khoảng mười lăm phút trước khi bọn nhà báo đến hiện trường.” Ông ta lau trán bằng khăn tay. “Có một vụ trộm xảy ra ở khách sạn Alexandra, đồ của một hoàng tử phương Đông khốn kiếp nào đó, Xiêm La, tôi nghĩ vậy, nhưng đó không phải việc của chúng ta - thứ chúng ta nhận được là một lời nhắn chết tiệt từ một gã chết tiệt đã cuỗm nó, nói rằng cái vương miện chết tiệt bằng đá quý không thể thay thế của xứ Xiêm La đã bị đánh cắp - cái vương miện sẽ được trình lên Nữ hoàng, tôi phải nhắc để ông rõ - tên trộm này còn dám cả gan nói rõ có thể tìm thấy nó tại Oxslip ở khu Jacob’s Island!”
“Oxslip!” Thanh tra Ruby thốt tên.
“Bất ngờ lớn đấy nhỉ! Ông chỉ mới nghe nửa câu chuyện thôi. Ông có biết tên điên này đã để lại cái chết tiệt gì thay thế cho
vương miện ở khách sạn không? Một bức tượng tục tĩu từ một nhà chứa, Ruby! Một nhà chứa thực sự… và tôi không nói đến quán rượu Haymarket đầy gái đâu nhé. Ông có hình dung được không? Bên Sở Ngoại vụ lên cơn kích động; Bộ Ngoại giao thì phát điên rồi… điều đó xúc phạm nặng nề tới sự nhạy cảm chết tiệt của đám phương Đông… một rắc rối tầm quốc tế… điều đình thương mại… đám quan chức ngoại giao… tôi cho ông biết nhé, Ruby, tôi sẽ không giống như thằng khờ trước mặt lũ quan chức ngoại giao chết giẫm…”
Câu nói của ông ta mất hút khi cánh cửa đóng lại sau lưng họ. Leda hoang mang dõi theo họ đầy bối rối, rồi nhìn xuống cặp mắt sợ sệt của cô gái.
“Sẽ ổn cả thôi,” nàng nói, cố tỏ ra mạnh mẽ. “Bà đỡ đang đến.” “Có chuyện gì đó đang xảy ra,” cô gái thốt lên, lắc đầu hoảng đoạn. “Tôi ướt nhẹp hết, tôi đang chảy máu!”
Leda nhìn xuống, đúng thật, một vùng sẫm màu loang dần bên váy cô gái. Một vũng to, chảy ra sàn nhà. “Không, không phải máu,” nàng nói. “Nó không có màu. Nước ối đấy.” Leda đã từng nghe thấy điều đó - vỡ ối, cho dù nó có ý nghĩa gì đi nữa. Nàng e là đứa bé chuẩn bị ra đời. “Hãy bình tĩnh. Bà đỡ đang trên đường đến đây.”
Cô gái hét lên, cả cơ thể căng ra, những ngón tay bấu vào lòng bàn tay Leda.
Leda vuốt trán cô gái. Da cô ta mềm và ẩm, màu sắc khỏe mạnh, không giống màu tái nhợt của đói nghèo đã bắt đầu trở thành quen thuộc với nàng. Ắt hẵn cô ta cũng đã được ăn uống đàng hoàng và có chỗ nương thân. Cơ thể cô ta có vẻ cứng rắn và gọn gàng, không mảnh dẻ lắm, nhưng đó là niềm an ủi nhỏ nhoi
khi Leda cứ phải lắng nghe những âm thanh đáng sợ của cơn đau và sự cố gắng chịu đựng.
“Nó ra đấy,” cô gái thở hổn hển. “Ôi, không, nó sắp ra đấy!” “Không sao đâu,” Leda nói, muốn xoa dịu nỗi sợ hãi của cô gái. “Mọi thứ đều ổn cả. Tên cô là gì?”
“Pammy… Hodgkins. Ôi, thưa cô… cô là bà đỡ?”
“Không. Nhưng tôi sẽ ở lại với cô.”
“Bà đỡ có tới không?”
“Có Hạ sĩ MacDonal đã đi tìm người giúp rồi.”
“Nhưng ông ta nói… người dàn ông kia nói… ông ta đã điều ngài hạ sĩ đi chỗ khác.”
“Bà đỡ đang tới mà,” Leda nói với vẻ chắc chắn, nhất định không tin vào bất cứ điều gì khác. “Hãy nghĩ đến việc ôm con trong vòng tay sẽ tuyệt vời biết bao.”
Cổ Pammy gồng lên. Cô ta nhấc đầu gối và lăn lộn. “Tôi đau, đau quá!” Cô ta hít sâu và thở mạnh ra. “Ôi, nếu túm được tên Jamie đó, tôi sẽ giết hắn. Tôi muốn chết!”
Cánh cửa mở ra. Leda nhìn lên và thì thầm, “Ơn trời.” Hai phụ nữ lao tới chỗ họ. “Tôi bà Layton, y tá hộ sinh. Đây là bà Fullerton- Smith từ Hiệp hội Bảo vệ Sức khỏe Phụ nữ. Các cơn đau dồn dập đúng không?”
Câu hỏi đột ngột dành cho Leda bằng giọng lảnh lót. Nàng há miệng nhưng khép lại rất nhanh rồi nói với vẻ tuyệt vọng. “Tôi thật sự không biết. Nước ối đã chảy ra khá nhiều rồi.”
“Ra xem ấm đun nước đi,” bà y tá nói với Leda. “Bà Fullerton Smith, bà vui lòng trải tấm khăn vệ sinh này lên sàn giúp tôi.” Hai phụ nữ sắp xếp công việc một cách nhanh nhẹn và hiệu quả đã giúp Leda trút được gánh nặng. Bà y tá, hăng hái và hoạt
bát, không đủ kiên nhẫn nghe Pammy rên rỉ, bắt đầu cương quyết bắt cô gái, “Rặn đi, và tập trung vào,” trong khi bà Fullerton-Smith nhét một cuốn sách mỏng vào tay Leda. “Xin cô vui lòng nghiên cứu thứ này. Tối thiểu trong bốn tuần cô ta không được quay lại làm việc. Chúng tôi xin cô hay động viên cô ta nuôi con bằng sữa mẹ. Hãy xem phần có tiêu đề Tác hại của bú sữa bình. Ngoài ra, phải kiêng những thứ có chất gây nghiện như rượu bổ Godfrey, trà lá anh túc hay thuốc giảm đau. Giữ vệ sinh là tối quan trọng - tất cả đồ ăn đều phải được đậy kỹ, sữa bò phải đun sôi, rửa tay sau mỗi lần đi vệ sinh, chất thải phải đem đổ ngay lập tức. Cô sống ở đâu?”
“Tôi sống ở nhà bà Dawkins, thưa bà, nhưng Pammy…” “Chúng tôi sẽ thu xếp ghé qua thăm nom sau sinh. Cô ấy tên gì?”
“Pammy Hodgkins, nhưng…”
“Cứ để tôi ghi lại đã. Hiệp hội Bảo vệ Sức khỏe Phụ nữ ở đây để giúp đỡ và giáo dục.”
Pammy hét lên và bà Fullerton-Smith quay lại, bước vào xà lim. Leda ngồi xuống băng ghế bên ngoài, cuốn sách hướng dẫn Làm sao để chăm sóc em bé, Sức khỏe cô bà mẹ, Bệnh sởi, và Làm sao để nuôi dạy trẻ khỏe mạnh nắm chặt trong tay.
Chỉ mất vài tiếng đồng hồ, nhưng dường như một quãng thời gian vô tận đã trôi qua khi Pammy la hét, rên rỉ và thở gấp vì gắng sức. Ánh sáng đèn rọi xuống thành hình tròn trên bục trống còn căn xà lim nằm hẳn trong bóng tối, nơi vọng lại những tiếng thở nặng nhọc và những lời hướng dẫn dứt khoát. Pammy thét lên một tiếng chói tai rồi yên lặng. Trong một phút, sự tĩnh mịch dường như lớn lên và lớn mãi khi Leda căng mắt
nhìn mấy bóng người kề sát bên nhau, rồi bất chợt bà y tá ngồi lên và nói, “Con trai” bằng giọng bình thản, bế trên tay một hình hài nhợt nhạt và đung đưa nó.
Âm thanh yếu ớt như tiếng kêu kéo dài của con chuột cống dội đến từ xà lim. “Cô vui lòng chiếu ánh sáng thẳng vào đây,” bà y tá đề nghị.
Leda nhảy dựng lên, thắp cây đèn dầu của cảnh sát, mở cửa và rọi vào xà lim. Bà y tá đang lau rửa một hình hài tí hon, mềm oặt rất đáng sợ, tạp dề trắng đầy máu. Pammy lẩm bẩm và lại cố rặn. Bà Fullerton-Smith nói, “Xong rồi đấy,” sau đó dọn tấm khăn bẩn và thay một tấm lót sạch bên dưới cô gái yếu ớt.
Tiếng ọ ẹ bắt đầu biến thành một tràng tiếng trẻ khóc, dội quanh bốn bức tường. Bên ngoài, tiếng đàn ông văng vẳng trên phố, và cánh cửa mở tung ra. Viên thanh tra giữ cửa cho viên giám sát bước vào, theo sau là Hạ sĩ MacDonaild đang cầm một vật kích cỡ ấm trà bọc trong chiếc khăn len họa tiết cánh hoa, rồi những người khác tràn vào; đột nhiên đồn cảnh sát chật ních đàn ông, tất cả đều bàn luận, hô to nhưng câu hỏi át tiếng trẻ con đang khóc. Leda bị dồn vào tường cho đến khi Hạ sĩ MacDonaild chen vào bên cạnh và đưa tay cho nàng, để nàng tì vào đó đứng lên trên ghế.
“Các vị!” Viên thanh tra rống to. “Vui lòng trật tự!” Đám đông rơi vào yên lặng, chỉ còn lại tiếng khóc của đứa trẻ sơ sinh. Thanh tra Ruby không hề quan tâm đến nó, trao đổi nhanh với cấp trên rồi bước lên bục.
“Chúng tôi sẽ ra thông cáo,” giọng nói trầm bổng của ông ta át cả tiếng khóc. “Đúng tám giờ mười lăm phút tối, cảnh sát thuộc đơn vị này đã tiến vào ngôi nhà được biết đến với cái tên
Oxslip ở Jacob’s Island. Chúng tôi đã thấy thứ chúng tôi đang tìm kiếm tại đó, một vương miện chế tác ở nước ngoài, được cho là xứ Xiêm La và bị trộm từ khách sạn Alexandra. Chiếc vương miện hiện không bị hư hại gì, đang được bảo vệ nghiêm ngặt và sẽ được trực tiếp trả lại cho phía sở hữu. Đến đây là hết, thưa các vị.”
“Có bắt giữ ai không? Ai đó cất tiếng hỏi.
“Ông Ellis Oxslip và một phụ nữ được biết đến dưới cái tên Sally Chảo Rán đã bị đưa đi thẩm vấn.”
“Ở đâu?”
“Tại trụ sở của Scotland Yard, thưa ông.”
Những tiếng rên rỉ đồng thanh vang lên. “Sao lại ở đó? Sao các ông không đưa họ đến đây?”
“Như các vị có thể thấy, tối nay trụ sở chúng tôi có một vụ rắc rối nho nho.”
“Tin nhắn!” Ai đó gào lên át tiếng càu nhàu và tiếng khóc. “Đọc cho chúng tôi nghe tin nhắn đi, ngài thanh tra! Tin nhắn đó nói gì?”
“Tôi không có quyền đọc bất cứ tin nhắn nào.”
“Có phải nó nói Oxslip là nơi đám trụy lạc thường lui tới?” “Tôi không có quyền tiết lộ bất cứ thông tin nào về chuyện đó.”
Một người đàn ông khác chen lên trước. “Có thật là bức tượng đến từ Oxslip… bức tượng được để lại khách sạn í?” Thanh tra Ruby liếc mắt về phía viên sĩ quan. Ông này khẽ gật đầu. “Chúng tôi tin như vậy.”
Tiếng ngòi bút chì sột soạt điên cuồng trên mặt giấy. “Vậy đó là nơi hành xác! Có đúng không, Thanh tra Ruby?”
“Tôi không có quyền…”
“Thôi đi, ngài thanh tra!” một người đàn ông ở phía sau, dừng ngay trước mặt Leda, cao giọng với vẻ ghê tởm. “Đây là địa bàn của ngài, phải không? Ngài có biết chuyện gì đang diễn ra không?”
“Còn đám bé trai chúng tôi đã thấy thì sao?” Ai đó hét to. “Ngài có bắt chúng như những kẻ bị tình nghi?”
“Những người vị thành niên cư trú trong ngôi nhà không bị tình nghi là kẻ trộm. Họ sẽ bị thẩm vấn vì có thể những gì họ biết có liên quan đến vụ việc.”
“Sau đó ngài sẽ làm gì với chúng? Đưa chúng về lại với Oxslip và Sal?”
Viên thanh tra nghiến chặt quai hàm. Ông ta cau mày dữ dội và không trả lời câu hỏi.
“Mục đích của tất cả việc đó là gì?” người đàn ông phía trước Leda gặng hỏi. “Tống tiền, hay một cố gắng để đóng cửa Oxslip? Phải chăng cảnh sát đã dàn xếp chuyện này?”
Thanh tra Ruby lưỡng lự rồi nói, “Tôi không thể đưa ra kết luận về ý kiến này.”
“Sẽ là một việc tốt nếu họ đã dàn dựng,” người đàn ông bình luận và nhận được một tràng tán thưởng trong khi đứa bé khóc toáng lên. “Nếu các ngài không thể bắt quả tang chúng tại trận thì hãy tìm và loại bỏ luôn cái ổ đó đi! Những đứa bé đó… thật nhơ nhuốc, lạy Chúa!”
Lúc này viên thanh tra dường như mới sực nhớ ra Leda. Ông nhìn thẳng vào nàng, rồi xua hai bàn tay gạt đi những câu hỏi tới tấp. “Thế thôi, các vị! Còn có các quý cô hiện diện ở đây. Các vị hãy đến Yard và hỏi những gì các vị muốn. Ở đây chúng tôi
còn phải xử lý việc khác.”
“Vậy sao, hả!” một người đàn ông trẻ la lên, giơ ngón tay cái về phía xà lim nơi đứa bé vẫn đang khóc nhưng đã dịu hơn sau khi được bà y tá hộ sinh quấn trong tấm vải lanh. Nhưng viên thanh tra và Hạ sĩ MacDonald đã bắt đầu đẩy các phóng viên ra cửa. Một vài người bỏ đi, theo sau bà những người khác cố gắng bắt kịp, nhưng vẫn còn một số nán lại, cố gắng hỏi thêm vài câu. Bà Fullerton-Smith bế đứa bé ra khỏi xà lim.
Vừa leo từ ghế băng xuống đất, Leda đã thấy cái bọc nhỏ được đẩy vào vòng tay mình. “Tấm vải được Ủy ban Phụ nữ tại công viên Marylebone tặng,” bà Fullerton-Smith cho nàng biết. “Cô cứ giữ nó, nhưng chúng tôi đề nghị cô khử trùng nó và trao lại cho người nào cần dùng khi nó không còn có ích cho em bé. Người mẹ ngủ yên rồi, cô thấy đấy. Một đến hai tiếng nữa, khi hồi sức, cô ấy có thể bế con. Bà Layton và tôi phải trở lại phòng khám vì còn nhiều bệnh nhân khác cần chăm sóc tối nay. Nếu thấy hiện tượng xuất huyết thì phải gọi chúng tôi đến ngay lập tức.”
Leda đang định sửa lại nhầm lẫn của bà Fullerton-Smith về việc nàng có quan hệ cá nhân với Pammy thì nghe thấy bà y tá thông tin cho Hạ sĩ MacDonald viết lại trong sổ hồ sơ. “Bà Dawkins ở Jacob’s Island,” bà ta nói về chỗ ở của Pammy.
“Ôi, không…” Leda cố gắng đi vòng qua bà Fullerton-Smith đang độc thoại về các hướng dẫn. “Hạ sĩ MacDonald, cô ấy không sống ở đấy!”
Tiếng phản đối của nàng chìm nghỉm giữa những câu hỏi dai dẳng của hai phóng viên, họ vẫn đang gạ gẫm xem liệu Hạ sĩ MacDonald có thể mở bọc vương miện hay không. Trong khi dó,
bà Fullerton-Smith và bà y tá đã gói ghém đồ dạc. Bà y tá lột tạp dề dính máu qua đầu và nhét nó vào chỗ khác. Đứa bé bắt đầu khóc trở lại, Leda nhìn xuống đôi mắt nhắm nghiền và cái miệng há to.
“Yên nào, yên nào,” nàng thì thầm một cách vô ích, vỗ vỗ vào lưng của cái bọc. Đứa bé chỉ gồng mình và gào to hơn, làm cho khuôn mặt trở nên đáng sợ, trắng nhợt và đỏ bừng. Leda túm lấy cánh tay bà y tá phía sau bà Fullerton- Smith, nhưng cả hai đều đã rời đi trước khi nàng kịp thốt ra lời phản đối rõ ràng.
Thanh tra Ruby và sếp của ông ta bước ra, cản đám phóng viên lại. Trong lúc Hạ sĩ MacDonald bận đối phó với một nhà báo cực kỳ dai dẳng, người còn lại lẻn đến bên Leda, nơi món đồ bọc trong tấm khăn len được đặt trên ghế. Anh ta kéo mép tấm khăn, lật nó ra. Vương miện kiểu phương Đông bằng vàng và sứ tráng men nằm lộn ngược, đó là một chiếc mũ có chóp nhọn như một ngôi đền nhỏ, khảm kim cương dày đặc xung quanh một viên ruby cỡ đại gắn vào khung trắng.
Người phóng viên vội vã phác họa hình ảnh vào cuốn sổ cho đến khi Hạ sĩ MacDonald tức giận hét lên và đẩy anh ta ra chỗ khác. “Anh đang làm gì thế? Đi ngay; cút khỏi đây, cả hai!” Anh ta đẩy một người qua cửa, lôi người kia theo sau. Họ vừa đi vừa phản đối ầm ĩ. Leda có thể nghe thấy tiếng người nói oang oang ngoài phố khi họ cố gắng cầm chân Hạ sĩ MacDonald lại trên bậc thềm.
Không biết làm gì hơn, nàng vào xà lim và quỳ bên cạnh Pammy. “Cô thấy sao?” nàng hỏi. “Có muốn nhìn con không?” Cô ta nhắm nghiền mắt như một đứa trẻ. “Tôi không muốn nó!” cô ta càu nhàu. “Hãy mang nó đi đâu cũng được.”
“Bà y tá nói một hai giờ nữa là cô có thể bế con được rồi.” “Tôi không bế đâu.”
Leda nhìn xuống gương mặt rầu rĩ của cô ta. Pammy mở mắt và nhấc một bàn tay, đẩy cánh tay Leda một cách yếu ớt. “Tôi không nhận nó đâu,” cô ta nói. “Tôi ghét nó. Đi đi!” Leda đứng dậy và quay lại băng ghế. Tiếng khóc của trẻ sơ sinh cứ tiếp tục vang lên. Nàng ngồi xuống bên cạnh chiếc vương miện và nhìn vào khuôn mặt đứa bé. Nó thật sự xấu xí, cái miệng ướt nhẹp, da nhăn nheo và mẹ nó không muốn nó. Leda ôm nhẹ cái bọc dễ ghét, điều này chỉ khiến nó khóc to hơn. Rồi nàng nhìn chăm chú vào chiếc vương miện bằng vàng và bắt đầu thổn thức một cách vô cớ.
Chương 6
Hawaii, 1871
Bé Kai thích bơi lội. Cô bé hét lên với những con sóng lớn vỗ ào ạt vào rặng đá ngầm ở Waikiki, và đập hai bàn tay bé xíu lên vai Samuel.
“Xa! Đi xa!” cô bé đòi. “To!”
Nên cậu vòng cánh tay quanh người cô bé và ngụp xuống con sóng êm ả, cách hơi xa hầu hết đám trẻ Hawaii khác. Khi nhấc cô bé lên trên lớp sóng, vạt váy dài của bộ đồ bơi cô bé đang mặc lại dập dềnh cùng con sóng quét qua bộ ngực trần của cậu. Cô bé cười vang, kêu to và đôi lúc cậu ấn cô bé xuống nước thay vì nâng lên, để rồi cùng nhau ngoi lên với những giọt nước lăn dài trên mặt và miệng thì mặn chát vị muối.
“Đi xuống!” Cô bé hét. “Đi xuống.”
Cả hai cùng hít một hơi dài, Kai tinh nghịch phồng má rồi chúm miệng. Samuel chìm xuống làn nước trong vắt, giữ chặt cô bé trong tay. Làn sóng mạnh mẽ cuốn lấy họ, đưa họ vào gần bờ thêm vài mét, và cát dưới chân cậu trượt đi. Cậu ôm siết cơ thể mũm mĩm của Kai để ám hiệu “đi lên”, và cô bé quẫy đạp dữ dội. Samuel bật khỏi lớp cát, vùng đứng dậy, nhấc bổng Kai trên đôi tay mình.
Cô bé thét lên phấn khích. Một đợt sóng khác tràn qua, mang theo những âm thanh ồn ào và tung bọt trắng xóa. Samuel giũ nước khỏi mái tóc. Khi tai đã hết ù, cậu nghe thấy những tiếng la hét át đi giọng của Kai. Cậu nhìn về phía bờ biển và thấy nhiều bóng người cấp tập lao lên bờ.
“He mano!” Giữa tiếng sóng ầm ì, tiếng la hét vẫn vang đến chỗ Samuel.
“He mano!He mano nui loa!”[6]
Cậu thấy nó, một phần của cái vây đen nhô lên khỏi con sóng, một cái bóng sẫm màu di chuyển rất nhanh, dài như tấm ván lướt sóng của người Hawaii. Con cá mập chặn đường vào bờ của cậu và Kai. Samuel dường như nhận ra đám đông đang tụ tập lại, la hét, chạy dọc theo bờ cát.
Sau đó, cậu nhớ rất rõ cảm giác bình tĩnh lan tỏa khắp cơ thể khi con cá mập quay lại và lao về phía họ.
Cậu nhấc Kai khỏi mặt nước, để cô bé ngồi lên vai. Cô bé nắm chặt tóc Samuel, vẫn cười, chân đập đập vào ngực cậu. Cậu dùng tay giữ chặt cổ chân Kai. Cô bé hét điều gì đó nhưng cậu không nghe thấy. Trên cả tiếng sóng, trên tiếng than van sợ hãi từ bờ biển và tiếng la của đám đàn ông đang mang xuồng ra, cậu nghe thấy một thứ khác nữa.
Cậu nghe thấy bài hát của mình, bài hát u ám của người anh em cá mập. Cậu đứng yên và lắng nghe.
Sóng che khuất cái vây trong khoảnh khắc, nhấc chân cậu khỏi lớp cát và nhẹ nhàng mang cậu xuống. Cậu nhìn bóng dáng khổng lồ vụt qua cách đó chỉ vài mét. Tiếng la hét gọi mẹ của Kai vang trong tai cậu, như tiếng còi xe lửa vẳng lại từ nơi xa xăm, nhưng bài hát vẫn ngập tràn trong tâm trí cậu.
Nó giữ cậu yên lặng, câm nín; như một rặng san hô cố định, một mảnh gỗ trôi dạt không có sự sống - một vật thể bất động, không sợ hãi. Con cá mập lượn qua, quay lại và đến gần, như cơn ác mộng khổng lồ. Samuel vẫn lắng nghe bài hát. Cậu cảm nhận được sự tò mò chậm rãi của con cá mập - bên trong sự tò mò đó
là cơn đói cồn cào và vô tri, nhưng cậu hoàn toàn yên bình và là một phần của con sóng, nó không muốn thứ như vậy. Kai đã ngừng la hét. Cô bé cũng ngồi yên trên vai cậu, những ngón tay vò mái tóc cậu. Trong không khí, cậu nghe thấy những tiếng la hét và tiếng va đập — đám đàn ông trên xuồng đang quạt mái chèo ràn rạt xuống nước, hối hả lao về phía trước. Con cá mập xoay mình lướt đi, băng qua cậu sát sạt. Samuel nhìn nó bơi, thấy lớp da màu xám đen, vây lưng, đuôi, và bỗng nhiên nó rẽ ra phía biển cả, cách xa hẳn chiếc xuồng đang tiến tới.
Chiếc xuồng trông thật to lớn, lao xuống chỗ họ trên một ngọn sóng lớn. Những mái chèo khua nước mạnh mẽ. Samuel bắt đầu cảm nhận được nỗi sợ hãi ập tới - không phải từ con cá mập mà từ mối đe dọa của những vũ khí bằng gỗ và những tiếng la hét dữ dội. Chiếc xuồng dường như chuẩn bị đâm mạnh vào bên hông cậu nhưng với kỹ thuật điêu luyện, những người Hawaii ở phía đuôi đã xoay nó hướng thẳng vào con sóng và nhẹ nhàng trôi ra đằng sau Samuel. Ai đó lôi tuột cô bé Kai đang la hét khỏi vai cậu.
Những cánh tay mạnh mẽ thô bạo chụp lấy cậu. Samuel quay lại, nhảy dựng lên rồi đâm sầm vào mặt gỗ cứng và trơn láng, hai đùi và đầu gối bị va đập mạnh. Trong một thoáng rối loạn, mạn xuồng phía bên kia bị nhấc bổng khỏi mặt nước và cả chiếc xuồng suýt bị lật, nhưng rồi cậu được kéo mạnh lên, gục vào một lồng ngực mặc áo trắng, nhận ra những từ tiếng Anh dội trong tai.
Những lời cảm tạ thượng đế và cảm tạ cậu; Ngài Gryphon ghì chặt Samuel như không thể thả ra. Đối diện với họ trong xuồng,
Kai ngọ ngậy trong cánh tay nâu bóng của một người Hawaii, hét to,“Cha, cha!” và cố giãy giụa thoát ra.
Tiếng chửi thề ở sát bên tai, đôi tay ôm chặt cậu đến đau đớn “Samuel, cảm ơn cháu, cảm ơn Thượng đế vì đã mang cháu đến, Thượng đế yêu cháu, cậu bé, cháu là một anh hùng giáng thế…” Giọng nói cứ tiếp tục mãi, lẩm bẩm không dứt, cuối cùng Kai cũng thoát ra được, loạng choạng đi đến ngã vào lòng Samuel, và cha cô bé ôm gọn cả hai, đến khi xuồng cập bờ rồi vẫn không chịu buông.
Phu nhân Tess đang đợi, lội xuống làn nước biển, gấu váy lòa xòa dạt theo những con sóng đánh vào bờ. Trên mặt bà có vệt nước mắt, mái tóc đen nhánh xổ tung khỏi những chiếc ghim kẹp. Bà giằng bấy Kai vào vòng tay, quỳ xuống dụi mặt vào đôi vai và mớ tóc ướt của Samuel. Nước biển rút dưới chân họ, cát cũng trôi theo. Cậu hơi loạng choạng để giữ thăng bằng.
“Đứng vững nào, con trai.” Bàn tay vững chãi vẫn đang ôm vai cậu. Samuel ngước nhìn khuôn mặt Ngài Gryphon. Ánh nắng chiếu lên mái tóc vàng của ông, ông thật to lớn, thân thiện và cao thượng, và trước đây ông chưa bao giờ gọi Samuel là “con trai”. Ông đang cười tươi. Samuel cảm thấy gương mặt mình thay đổi, cảm thấy nụ cười ngập ngừng, run rẩy nở trên môi. Đám đông vây quanh, người Hawaii cởi trần người ướt sũng, người haole[7] đáng kính da trắng, mặc đồ sẫm màu kín đến tận cằm, đầu đội mũ, có cả quản gia người phương Đông của Phu nhân Tess, người vẫn đi cùng họ để phục vụ cho buổi picnic ngày Chủ nhật ở Waikiki.
Ai đó bắt đầu reo hò. Ngài Gryphon nhấc bổng Samuel lên dễ dàng như khi cậu bế Kai. Vô số bàn tay nắm lấy tay chân cậu và
quăng cậu lên cao theo nhịp điệu. Hoan hô! Hoan hô! Họ tung cậu lên ba lần, rồi cho cậu ngồi thẳng lại và nhấc cậu lên vai Ngài Gryphon, bất chấp quần cậu còn đang ướt sũng. Kai cựa quậy và hét to trong lòng Phu nhân Tess, cũng muốn được nâng lên, khiến cậu Robert cũng khóc nhè cho đến khi quản gia Dojun nhấc bổng cậu chủ và đi về phía rặng dừa nhô ra trên bãi biển.
Phân nửa đám đông bắt đầu di chuyển theo hướng đó; nửa kia nán lại để tiếp tục tung hô những người Hawaii đã lấy xuồng đi tìm con cá mập. Từ đâu bỗng báo tin đức vua Hawaii đang nghỉ ngơi trong căn nhà ở Waikiki. Khi họ đến chỗ có những cây cọ cao vút, các cô gái đã chờ sẵn với những chiếc vòng tết từ hoa và lá cây maile. Ngài Gryphon đặt Samuel xuống. Khi mọi người lùi lại và giữ yên lặng, các cô gái bước tới và đeo những vòng hoa vào cổ Samuel, bao phủ cậu trong mùi hương ngọt ngào và những chiếc lá mát lạnh.
“Đức vua vinh danh lòng dũng cảm của cậu.” Cô gái đầu tiên hôn lên hai má cậu, và khi người thứ hai bắt đầu làm tương tự, cậu ngọ ngậy lùi lại, khiến cô ta cùng cả đám đông bật cười, và cô ta giữ lấy vai cậu rồi hôn.
Cậu lùi lại và va vào Ngài Gryphon, ông cúi xuống thì thầm, “Hãy nói điều gì đó để họ bẩm báo lại với đức vua.” Samuel liếm môi. Cậu hít một hơi. “Xin nói với ngài… đức vua… rằng… thật sự, chẳng có gì nghiêm trọng cả. Xin nói với ngài, những bông hoa thơm lắm ạ.”
Câu nói đó dường như khiến tất cả bật cười, nhưng Ngài Gryphon đã choàng tay qua người Samuel và kéo cậu lại gần nên mọi chuyện thành ổn cả. Thật tuyệt vời. Samuel hơi run rẩy. Cậu
quay lại nhìn làn nước màu ngọc lam sáng lấp lánh bên trong rặng đá ngầm, rồi đến nhưng đợt sóng cuồn cuộn, nơi con cá mập lớn đã lướt đi như một cái bóng trở lại lòng đại dương xanh sẫm, sâu thẳm.
Chương 7
“Gã lại ôm đồ ăn cắp biến mất lần nữa!” Má bà Dawkins ửng hồng vì hưng phấn, đi theo Leda lên cầu thang tối om với tin tức mới nhất về những vụ trộm lạ lùng bắt đầu từ tuần trước. “Đã là bần thứ ba rồi đấy. Báo đây, thưa cô! Đọc đi. Lần này là Hoàng tử xứ Phù Tang nhé. Gã này đúng là một tên trộm tinh quái. Lấy cả một thanh bảo kiếm thần thánh ngay trước mũi anh chàng Nhật Bản, rồi cả đám bảo vệ đứng gác chật kín khắp nơi nữa chứ.” Bà ta gần như hét lên vì sung sướng trước sự bất lực của cảnh sát. “Tin này hay quá. Gã cũng để lại một vật khá thô thiển, nhưng dĩ nhiên báo chí không nhắc đến rồi. Họ có bao giờ dám nói thẳng ra chuyện gì đâu, nhưng thể nào cũng có người đoán ra, cô công nhận không. Chắc lại từ một ngôi nhà bẩn thỉu nào đó, nơi gã bảo cảnh sát tự tới đó mà tìm thanh kiếm.”
Leda biết quá rõ về vụ trộm thứ ba này cũng như thủ đoạn quái dị của chúng, rằng một vật vô cùng quý giá sẽ bị đánh cắp từ các đoàn ngoại giao đến tham dự Lễ Jubilee, thế chỗ nó là thứ nhơ bẩn đến độ không diễn tả nổi. Chuyện đó đã đủ lạ lùng rồi, nhưng kỳ cục hơn, tên trộm dường như không mấy hứng thú với đồ ăn cắp, hắn luôn gửi tin nhắn cho cảnh sát, chỉ cho họ chỗ đến lấy lại từng báu vật - lần nào cũng trong một “ngôi nhà trái luân lý”, như cách diễn đạt ý tứ của báo chí.
“Thật thú vị làm sao,” nàng nói, cốt để làm nản lòng bà Dawkins, rồi tiếp tục lên cầu thang. Thực ra, Leda biết về những vụ trộm này nhiều hơn bà chủ nhà, vì nàng có thói quen pha trà cho Thanh tra Ruby cũng như nán lại sở cảnh sát tới quá nửa
đêm, khiến người ta tưởng nàng vẫn đang làm việc tại tiệm váy. “Chúc ngủ ngon, thưa bà.”
Một bàn tay nhanh nhảu thò ra túm váy Leda, giữ nàng lại. “Hôm nay là thứ Sáu, thưa cô. Mười bốn silinh một tuần nhé.” “Mới sang thứ Sáu được có nửa giờ mà, bà Dawkins. Mong bà không cảm thấy buộc phải thức chờ tôi thế này,” Leda nói. “Tôi sẽ rất hân hạnh được gửi tiền bà vào buổi sáng.”
Bà Dawkins cười toe toét, không hề bối rối. “Tôi chỉ muốn nhắc cô một chút thôi. Hôm nay tôi đã phải đuổi nhà Hoggins ở tầng dưới đi. Nhiều người muốn vào ở phòng của họ lắm, toàn người trả tiền đàng hoàng như cô cả. Chứ không trả tiền thì sao tôi có thể giúp đỡ được, phải không? Tôi chẳng phải dân làm từ thiện gì hết. Mười bốn silinh một tuần, không bao ăn. Chỗ chúng tôi có đường ống nước, thưa cô, bằng đó thôi cũng đáng nửa đồng curon rồi, tôi nói với họ thế đấy.”
Bà ta cũng thường xuyên bảo Leda như vậy. Cuối cùng cũng tách được bà chủ nhà, nàng tiếp tục lên gác. Vào phòng, nàng rửa mặt rồi tưới nước cho cây phong lữ bên khuôn cửa sổ dưới ánh nến. Cái nóng ban đêm như làm nồng đậm thêm mùi khó chịu của khu dân cư, may mà một chiếc lá phong lữ bị gãy đã tỏa ra chút hương thơm hơi gắt nhưng tươi mát phả vào những thứ mùi nồng nặc. Nàng ngắt nó bằng móng tay, vò nát và đưa lên mũi để xua hẳn đi mùi chua của những xưởng ủ bia.
Nàng nhìn chăm chú ra khung cửa sổ vào màn đêm ẩm ướt. Khu ổ chuột bắt đầu từ con phố phía sau chỗ nàng ở - một nơi nàng không muốn nhìn đến, từ chối nhìn đến, không dám nhìn đến - nàng cảm thấy nó níu kéo mình, bằng mọi cách lôi nàng xuống như một cái dạ dày đang ngoác miệng. Nàng nghĩ đến