🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bóng Tối Trỗi Dậy - Susan Cooper & Song Hạnh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kỳ Ảo] Ebooks Nhóm Zalo Bóng Tối Trỗi Dậy —★— Tác giả: Susan Cooper Người dịch: Song Hạnh Phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2008ebook©tve-4u Tặng Jonathan PHẦN MỘT TÌM KIẾM Đêm trước ngày Đông Chí “Quá nhiều!” James hét lên, sập cánh cửa lại sau lưng. “Cái gì cơ?” Will hỏi. “Quá nhiều trẻ con trong cái nhà này, chứ còn gì nữa. Đúng là quá nhiều.” James đứng trên chiếu nghỉ cầu thang, mặt mũi hầm hầm nom như cái đầu máy xe lửa tí hon giận dữ, rồi bước thình thịch đến chỗ ngồi trên bệ cửa sổ và nhìn chằm chằm ra ngoài vườn. Will đặt quyển sách của mình sang một bên, co chân lên nhường chỗ cho anh. “Em nghe thấy có tiếng quát tháo,” cậu nói, tựa cằm lên đầu gối. “Có gì đâu,” James nói. “Lại là chị Barbara ngu ngốc thôi mà. Lên giọng bà chủ. Nhặt cái này lên, đừng động vào cái kia. Rồi lại đến lượt Mary chõ vào, lắp ba lắp bắp, lắp ba lắp bắp. Ai cũng tưởng cái nhà này thế là đủ rộng rồi, nhưng đi đâu cũng đụng phải người.” Cả hai cùng nhìn ra ngoài cửa sổ. Khắp nơi, tuyết nằm mỏng manh và khiêm nhường. Dải xám rộng cong cong kia là thảm cỏ, với những lùm cây rải rác trong vườn quả vẫn còn thẫm tối phía xa xa; những mảng vuông màu trắng là mái gara ô tô, mái kho thóc cũ, chuồng thỏ và chuồng gà. Xa hơn chút nữa chúng chỉ nhìn thấy những cánh đồng trải dài tít tắp của Trại Dawson lờ mờ sọc trắng. Bầu trời xám mênh mang mù mịt những bông tuyết nhất định không rơi. Khắp khung cảnh ấy, chẳng có màu sắc nào hiện lên rõ rệt. “Còn bốn ngày nữa là đến Giáng sinh,” Will nói. “Ước gì tuyết rơi cho tử tế.” “Và mai là sinh nhật em rồi đấy.” “Ừm.” Cậu cũng đã định nói đến chuyện đó, nhưng như thế thì giống một lời nhắc nhở quá. Mà món quà cậu mong muốn nhất trong ngày sinh nhật lại là một thứ không ai có thể tặng được: đó là tuyết, tuyết phủ trắng xóa như tấm chăn dày tuyệt đẹp, và món quà đó chưa bao giờ xuất hiện. Ít nhất năm nay còn có tuyết rơi lắc rắc trên nền trời xám xịt, còn hơn là không có gì. Bỗng cậu nhớ ra nhiệm vụ: “Em vẫn chưa cho thỏ ăn. Anh có muốn đi cùng không?” Đi giày, mặc áo khoác và quàng khăn ấm xong xuôi, hai đứa vất vả len qua căn bếp ngổn ngang đồ đạc. Đài đang phát một bản nhạc giao hưởng; chị cả Gwen vừa thái hành vừa hát; mẹ cúi xuống bếp lò, khuôn mặt đỏ hồng rạng rỡ. “Lũ thỏ!” Bà hét lên khi nhìn thấy hai đứa. “Đem thêm cỏ khô ngoài trại về nhé!” “Chúng con đi đây!” Will hét lên trả lời. Khi cậu đi qua bàn, chiếc đài đột nhiên nhiễu sóng rú lên chói tai. Cậu giật nảy người. Bà Stanton la lên: “Vặn NHỎ cái thứ đó xuống.” Ra khỏi nhà, không khí bỗng im ắng hẳn. Will lấy một xô thức ăn viên từ chiếc thùng để trong kho thóc sực mùi gia súc ra - thực ra nó vốn không phải là kho thóc, mà chỉ là một cái lán dài, thấp lè tè, lợp mái ngói, đã từng là chuồng ngựa. Hai anh em giẫm trên lớp tuyết mỏng ra đến dãy chuồng thỏ đóng bằng gỗ dày, để lại những dấu chân đen sì trên nền đất đông cứng. Đang mở cửa chuồng để đổ thức ăn vào máng, Will chợt khựng lại, cau mày. Bình thường, lũ thỏ hay nằm co cụm im thin thít ở các góc chuồng, chỉ những con tham lam mới đến chúi mũi vào ăn. Hôm nay trông chúng có vẻ bồn chồn và bất ổn, đi đi lại lại, xô vào thành chuồng gỗ; một vài con thậm chí còn sợ hãi nhảy bật về phía sau khi cậu mở cửa. Cậu tiến về phía con thỏ cưng của mình, con Chelsea, với tay định âu yếm vuốt ve dưới tai nó như mọi khi, nhưng nó giật lùi lảng tránh và co rúm vào một góc, đôi mắt viền hồng ngước lên đờ đẫn và khiếp hãi. “Này!” Will lo ngại nói. “Anh James này, nhìn mà xem. Có chuyện gì với nó thế nhỉ? Tất cả lũ thỏ nữa?” “Chúng nó có vẻ vẫn bình thường với anh đấy chứ.” “Quái, em lại không thấy thế. Cả lũ cứ bồn chồn thế nào ấy. Cả con Chelsea nữa. Nào, thỏ ngoan, lại đây đi…” Nhưng chẳng ích gì. “Lạ thật,” James quan sát và nói hơi tò mò. “Anh cá là tay em có mùi lạ. Chắc là em chạm tay vào cái gì đó mà lũ thỏ không thích. Cũng giống như lũ chó và hạt hồi ấy, nhưng kiểu khác thôi.” “Em chưa chạm vào cái gì cả. Thực ra, em vừa mới rửa tay xong thì gặp anh.” “Đấy thấy chưa,” James nói ngay. “Rắc rối là ờ chỗ đấy. Chúng chưa bao giờ được ngửi thấy mùi em lúc sạch cả. Chắc là tất cả bọn chúng đều chết vì sốc đấy.” “Ha ha, buồn cười thật,” Will xông vào James, và chúng vừa vật lộn vừa cười sằng sặc trong lúc cái xô rỗng đổ lăn lông lốc trên nền sân cứng. Nhưng khi hai anh em đi về, cậu liếc nhìn lại thì thấy lũ thỏ vẫn nháo nhác, không chịu ăn mà mở to mắt chằm chằm nhìn theo cậu với vẻ sợ hãi kỳ lạ. “Hay con cáo lại mò đến,” James nói. “Nhớ nhắc anh dặn mẹ nhé.” Không con cáo nào có thể bắt lũ thỏ trong dãy chuồng quá chắc chắn của chúng được, nhưng lũ gà thì dễ bị tấn công hơn; mùa đông năm ngoái, một đàn cáo đã đột nhập vào chuồng gà bắt đi sáu con béo núc ních ngay trước phiên chợ. Bà Stanton, năm nào cũng chỉ trông vào tiền bán gà để chi trả cho mười một món quà Noel, tức giận đến nỗi sau đó đã thức liền hai đêm ngoài kho thóc lạnh cóng để canh chừng, nhưng lũ trộm ấy không quay trở lại. Will nghĩ nếu cậu là một con cáo thì cậu cũng biến mất tăm; mẹ cậu đã lấy một người chồng làm nghề kim hoàn thật đấy, nhưng với cái gốc gác mấy đời nông dân Buckinghamshire nhà bà, bà hẳn không đùa khi những bản năng xa xưa trỗi dậy đâu. Kéo cái xe đẩy nhỏ, một cỗ máy tự chế có cái đòn ngang bắc qua càng xe, cậu và James men theo lối đi uốn lượn cây cối um tùm, và ra con đường cái dẫn đến Trại Dawson. Đi nhanh qua nghĩa địa nơi đám thủy tùng tối sẫm mọc nghiêng xòa ra ngoài bức tường đổ; đi chậm hơn khi đến Rừng Quạ nằm ngay góc Ngõ Nhà Thờ. Chúng đã thuộc lòng nơi đây: những lùm cây dẻ ngựa cao vút, đầy tiếng quạ khàn khàn và trên ngọn thì vô số tổ quạ ngổn ngang như bãi rác. “Nghe bọn quạ kìa! Có gì làm chúng bực mình hay sao ấy.” Tiếng lũ quạ khàn khàn loạn xạ inh tai nhức óc, và khi Will nhìn lên những ngọn cây, cậu thấy lũ chim lượn tròn làm tối sầm cả một khoảng trời. Chúng đập cánh và bay tới bay lui; không có chuyển động đột ngột xáo trộn nào, chỉ có lũ quạ đang ầm ĩ lượn qua lượn lại đó. “Hay là cú?” “Chúng có đuổi theo cái gì đâu. Đi nào, Will, trời sắp tối rồi.” “Thì vì vậy nên lũ quạ làm ầm ĩ lên mới đáng lạ chứ. Đáng lẽ giờ này bọn chúng vẫn đang ngủ mới phải.” Will miễn cưỡng cúi đầu xuống, nhưng rồi bỗng nhảy dựng lên và nắm lấy tay James, mắt cậu bắt gặp một chuyển động nào đó trên lối đi nhỏ đang tối dần rẽ ra từ con đường hai đứa đang đứng. Ngõ Nhà Thờ: nó chạy giữa Rừng Quạ và nghĩa địa tới ngôi nhà thờ nhỏ xíu của làng, rồi dẫn ra sông Thames. “Này!” “Cái gì thế?” “Có ai đó đang ở đằng kia. Hoặc vừa ở đó. Nhìn chúng ta.” James thở dài. “Vậy thì sao? Chẳng qua là ai đó đi dạo thôi.” “Không, không phải đâu.” Will lo lắng nheo mắt nhìn xuống lối rẽ nhỏ. “Đó là một người đàn ông trông rất kỳ dị đang cúi lom khom, khi thấy em nhìn thì hắn chạy biến sau mấy gốc cây. Lủi đi, như gián ấy.” James kéo mạnh càng xe và rảo bước làm Will phải chạy mới theo kịp. “Vậy đấy, chỉ là một gã lang thang thôi. Đến chịu, hôm nay mọi người cứ gàn dở thế nào ấy - hết chị Barb[1], đến lũ thỏ, lũ quạ và bây giờ đến lượt mày cũng hâm hâm điên điên nốt. Thôi, đi lấy cỏ khô về nào. Anh muốn uống trà rồi.” Chiếc xe lóc cóc băng qua những vết lún đã đông cứng trên đường tiến vào sân Trại Dawson, một khoảnh đất vuông, rộng rãi, ba phía đều có nhà bao quanh, và bọn trẻ ngửi thấy cái mùi chuồng trại quen thuộc. Chắc hôm nay chuồng bò vừa được dọn phân; cụ George, ông lão chăn bò móm mém, đang đem phân đổ thành đống ở bên kia sân. Ông cụ giơ tay chào. Chẳng có gì lọt khỏi mắt cụ George; cụ có thể nhìn thấy con chim ưng bổ nhào xuống từ cách xa cả dặm. Ông Dawson từ trong chuồng ngựa bước ra. “À,” ông nói. “Cỏ khô cho trang trại nhà Stanton à?” Ông vẫn thường nói đùa với mẹ chúng như vậy, vì bà nuôi thỏ và gà. James trả lời: “Vâng ạ.” “Có ngay đây,” ông Dawson nói. Cụ George đã biến vào trong chuồng ngựa. “Mọi việc vẫn tốt chứ? Bảo mẹ là ngày mai bác sẽ bắt mười con gà. Và bốn con thỏ nữa. Đừng có xịu mặt xuống như thế chứ, nhóc Will ạ. Nếu chúng không được hưởng Giáng sinh vui vẻ thì những người thưởng thức chúng sẽ được hưởng.” Ông liếc nhìn trời, và Will cảm thấy trên khuôn mặt nhăn nheo rám nắng của ông thoáng một ánh nhìn khác thường. Trên nền mây dông âm u xám xịt, hai con quạ đen đang chậm rãi vỗ liệng một vòng tròn rộng quanh trang trại. “Lũ quạ hôm nay ầm ĩ quá bác ạ,” James nói. “Will nhìn thấy một kẻ lang thang ở bìa rừng đấy”. Ông Dawson nhìn xoáy vào Will. “Trông ông ta như thế nào?” “Một ông già nhỏ bé. Ông ta đã lủi đi.” “Vậy là Kẻ Lang Thang đã lên đường,” người chủ trang trại khẽ lẩm bẩm. “À. Cũng phải thôi.” “Thời tiết thế này thì lang thang sao được,” James vui vẻ nói. Cậu hất đầu lên bầu trời trên mái nhà phía Bắc; mây dường như đang trở nên dày hơn, cụm lại thành những đám màu xám pha sắc vàng kỳ quái như báo điềm gở. Gió cũng đang mạnh lên, thổi bay tóc mọi người và tất cả đều nghe thấy tiếng xào xạc xa xa trên những ngọn cây. “Tuyết sắp rơi dày hơn rồi,” ông Dawson nói. “Thật là một ngày kinh khủng.” Will đột nhiên nói, tự thấy làm lạ vì sự kích động của mình; dù sao thì cậu cũng muốn có tuyết cơ mà. Nhưng dường như một điều bất an gì đó đang xâm chiếm cậu. “Cứ… ma quái thế nào ấy.” “Sẽ là một đêm tệ lắm đây,” ông Dawson nói. “Cụ George mang cỏ khô ra rồi kìa,” James nói. “Đi thôi, Will.” “Cháu đi đi,” ông chủ trang trại nói. “Bác muốn nhờ Will mang về cho mẹ cháu một thứ đang để ở trong nhà.” Nhưng khi James đẩy chiếc xe về phía chuồng ngựa thì ông vẫn đứng đó, hai tay đút sâu vào túi chiếc áo cũ bằng vải tuýt, nhìn bầu trời đang tối dần. “Kẻ Lang Thang đã lên đường,” ông nhắc lại. “Và đêm nay sẽ rất tệ, còn ngày mai thì sẽ nằm ngoài sức tưởng tượng.” Ông nhìn Will, và Will, với sự lo lắng mỗi lúc một tăng, cũng nhìn vào khuôn mặt từng trải, đôi mắt đen, sáng, đầy những nếp nhăn hằn sâu sau hàng chục năm quan sát mặt trời, mưa và gió ấy. Trước đây cậu chưa bao giờ nhận ra mắt của ông chủ Trại Dawson lại đen đến như thế nào: thật kỳ lạ, trong cái cộng đồng dân cư toàn những người mắt xanh của họ. “Sắp sinh nhật cháu rồi nhỉ,” ông nói. Ừ “Ừm,” Will đáp. “Bác có cái này cho cháu.” Ông liếc nhanh quanh sân rồi rút tay ra khỏi túi; Will nhìn thấy trong tay ông có một vật gì đó giống một món đồ trang sức bằng kim loại màu đen, một cái vòng dẹt trên có hai đường cắt vuông góc chia hình tròn làm bốn phần đều nhau. Cậu đón lấy món quà, mân mê một cách hiếu kỳ. Cái vòng to khoảng cỡ lòng bàn tay và khá nặng; cậu đoán nó được làm bằng sắt, mặc dù vậy nó không có cạnh hay rìa sắc nhọn nào. Chất sắt lạnh băng trong tay cậu. “Cái gì đây ạ?” Will hỏi. “Tạm thời thì cứ coi nó là một thứ cần được giữ gìn,” ông Dawson trả lời. “Hãy luôn mang theo nó bên mình, lúc nào cũng vậy. Bây giờ thì cất vào túi đi. Khi nào về cháu luồn vào thắt lưng như cái khóa phụ ấy.” Will thả cái vòng sắt vào túi. “Cảm ơn bác,” cậu nói, giọng hơi run. Ông Dawson, thường vẫn là người dễ chịu, cũng chẳng làm cho ngày hôm nay được cải thiện chút nào. Ông chủ trang trại vẫn nhìn cậu với cái vẻ chăm chú phát sợ cho đến khi Will cảm thấy sởn hết cả tóc gáy; rồi ông nở một nụ cười nửa miệng méo mó, chẳng toát lên chút vui vẻ nào mà chỉ toàn sự lo lắng. “Giữ nó an toàn nhé, Will. Và càng ít lỡ lời nói về nó càng tốt. Cháu sẽ cần nó sau khi tuyết rơi đấy.” Ông trở nên linh hoạt hơn. “Giờ thì đi thôi, bà nhà bác đã chuẩn bị một lọ thịt xay cho mẹ các cháu đấy.” Hai bác cháu đi về phía khu nhà ở của trang trại. Vợ ông Dawson không có ở đó mà người đứng đợi ở cửa ra vào là Maggie Barnes, cô gái vắt sữa trong trang trại có khuôn mặt tròn, đôi má đỏ ửng luôn làm Will nghĩ đến một trái táo. Cô cười với cả hai người, chìa ra một cái lọ sành to màu trắng buộc dải ruy băng đỏ. “Cảm ơn Maggie,” ông chủ Trại Dawson nói. “Bà dặn con là ông muốn dành nó cho cậu Will đây,” Maggie nói. “Bà đi vào làng để gặp cha xứ có chuyện gì đó rồi. Ông anh của em có khỏe không, Will?” Lần nào gặp Will, Maggie cũng nói như vậy; ý chị ta muốn hỏi thăm Max, người anh trai thứ hai của Will. Mọi người trong nhà Stanton thường trêu là Maggie Barnes có ý gì đó với Max. “Anh ấy khỏe ạ, cảm ơn chị,” Will lịch sự đáp. “Anh ấy nuôi tóc dài. Trông như con gái ấy.” Maggie ré lên thích thú. “Thôi về đi!” Chị ta cười khúc khích và vẫy tay chào, nhưng đúng vào giây cuối cùng, cậu nhận ra ánh nhìn của chị ta đang trượt qua đầu cậu. Khi quay lại, đuôi mắt cậu thoáng thấy cánh cửa sân trang trại rung rung như có ai đó vừa vội vã lẩn đi. Nhưng khi cậu nhìn ra thì không có ai ở đó cả. Với cái lọ thịt xay to tướng được đặt trên xe giữa hai bó cỏ khô, Will và James đẩy chiếc xe ra khỏi sân. Người chủ trang trại đứng trên bậc cửa sau lưng chúng; Will có thể cảm thấy ánh mắt của ông đang dõi theo. Cậu lo lắng nhìn lên những đám mây lơ lửng đang kéo đến ngày càng nhiều và dè dặt thò tay vào túi sờ cái vòng sắt lạ lùng. “Sau khi tuyết rơi.” Bầu trời trông như thể sắp sập xuống đầu hai anh em. Cậu nghĩ: Chuyện gì đang xảy ra thế nhỉ? Một con chó trong trang trại vừa chạy về phía chúng vừa nhảy cẫng lên, ve vẩy đuôi; rồi đột nhiên nó dừng lại cách chúng vài thước, giương mắt nhìn cả hai. “Này, Racer!” Will gọi. Con chó cụp đuôi xuống, nhe răng gầm gừ. “Anh James!” Will kêu lên. “Nó không làm gì em đâu. Có chuyện gì thế nhỉ?” Hai đứa tiếp tục đi và rẽ vào con đường lớn. “Không chỉ vì chuyện đó đâu. Có cái gì đó không ổn, tất cả mọi chuyện. Cái gì đó rất tồi tệ. Racer, Chelsea… tất cả các con vật đều sợ em.” Bây giờ cậu bắt đầu thật sự cảm thấy sợ hãi. Lũ quạ kêu to hơn, mặc dù ánh mặt trời đang tắt dần. Chúng có thể nhìn những con chim đen sì ấy xúm đen xúm đỏ trên những ngọn cây, có vẻ bị kích động chưa từng thấy, đập cánh lượn đi lượn lại. Và Will đã đúng; có một người lạ mặt trên lối đi, đang đứng cạnh nghĩa địa. Đó là một người có dáng đi hấp tấp, quần áo tả tơi, trông giống một mớ giẻ cũ hơn là một con người, khi vừa thấy hắn, hai đứa bước chậm lại và theo phản xạ tự nhiên, đứng sát vào xe và xích lại gần nhau hơn. Hắn quay cái đầu bù xù nhìn về phía hai đứa. Đột nhiên, trong một giây hãi hùng nửa thực nửa mơ, một mảng tối sẫm rít lên khàn khàn lao xuống từ bầu trời, và hai con quạ to tướng bổ nhào vào kẻ lạ mặt. Hắn ta loạng choạng lùi lại, kêu lên, giơ hai tay che mặt, còn lũ quạ thì vỗ đôi cánh khổng lồ thành một vòng xoáy màu đen đầy hăm dọa rồi bay qua đầu hai đứa trẻ lao về bầu trời. Will và James đứng chết trân, mắt mở trừng trừng, dựa người vào hai bó cỏ. Kẻ lạ mặt chúi người xuống tựa vào cánh cổng. “Quạ…quạaaaa…” Tiếng kêu inh tai nhức óc vọng xuống từ phía lũ quạ đang điên cuồng bay bên trên khu rừng, và rồi lại thêm ba cái bóng màu đen vụt sà xuống theo hai con lúc nãy, hung hãn lao thẳng vào kẻ lạ mặt rồi lại bay đi. Lần này, hắn ta hét lên sợ hãi và loạng choạng bước ra đường, tay vẫn giơ lên che đầu, mặt cúi gằm; rồi hắn bỏ chạy. Hai đứa nghe thấy tiếng thở gấp gáp, sợ hãi của gã đàn ông khi hắn chạy vụt qua mặt chúng trên đường, qua cổng Trại Dawson về phía làng. Khi hắn chạy, chúng nhìn thấy mái tóc muối tiêu rậm rạp bết lại bên dưới chiếc mũ lưỡi trai cũ bẩn thỉu; chiếc áo khoác màu nâu rách tả tơi, buộc túm lại bằng một đoạn dây, và bên dưới là một mớ áo quần bay lật phật; đôi ủng cũ rích, một chiếc đã bị long đế khiến chân hắn lệch về một bên trông rất kỳ quái, nửa như chạy, nửa như nhảy lò cò. Nhưng chúng không nhìn thấy mặt hắn. Lũ quạ không lượn vòng nữa mà giảm tốc độ rồi lần lượt đậu lên cây. Chúng vẫn chuyện trò ầm ĩ bằng những tiếng kêu hỗn loạn của loài quạ, nhưng giờ đây trong đó không còn thấy sự điên cuồng và giận dữ nữa. Choáng váng, bây giờ Will mới dám ngọ nguậy đầu, cậu cảm thấy má cọ vào cái gì đó, và khi giơ tay lên vai cậu sờ thấy một chiếc lông dài màu đen. Cậu nhét cái lông vào túi áo khoác, chậm chạp như nửa tỉnh nửa mê. Hai đứa cùng nhau đẩy chiếc xe xuôi theo con đường về nhà, tiếng quạ kêu sau lưng chúng nhỏ dần thành tiếng rì rầm như báo điều chẳng lành sắp xảy ra, giống như dòng sông Thames cuộn sóng vào mùa xuân. Cuối cùng James thốt lên: “Bình thường lũ quạ không làm như vậy. Chúng không tấn công người. Và chúng cũng không bay xuống khi không có nhiều chỗ đậu. Chúng chẳng bao giờ làm thế.” “Đúng vậy,” Will đáp. Cậu vẫn đang đi trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, hoàn toàn không nhận thức được bất cứ gì khác ngoài một điều mơ hồ lạ lùng nào đó cứ lởn vởn trong đầu. Giữa những tiếng ầm ĩ, huyên náo ấy, đột nhiên cậu có một cảm giác kỳ lạ, mạnh mẽ hơn bất cứ cảm giác nào cậu đã trải qua: cậu thấy như có ai đó đang cố gắng nói gì đó với cậu, một điều gì đó đã vuột khỏi cậu vì cậu không thể hiểu lời nói. Nhưng cũng không hẳn là lời nói; nó tựa như một tiếng thét câm lặng. Nhưng cậu không thề hiểu được thông điệp đó, bởi cậu chẳng biết làm thế nào để hiểu được. “Cứ như là đài không bắt đúng sóng vậy,” cậu nói to. “Cái gì?” James hỏi, nhưng thực ra cậu không để ý nghe. “Kỳ lạ thật,” cậu nói. “Anh đoán gã lang thang đó chắc đang cố tóm một con quạ. Và chúng điên lên. Anh cá thế nào hắn cũng sẽ rình mò lũ gà và thỏ. Thật lạ là hắn lại không có súng. Tốt hơn hết nên bảo mẹ tối nay cho lũ chó ở ngoài chuồng ngựa.” James chuyện trò huyên thuyên như vậy suốt cho tới tận lúc chúng về đến nhà và dỡ mấy bó cỏ xuống. Dần dần Will ngạc nhiên nhận ra rằng tất cả ấn tượng kinh khủng về vụ tấn công hung dữ và điên cuồng của lũ quạ lúc nãy đang như dòng nước trôi tuột khỏi đầu James, và chỉ trong vòng vài phút, thậm chí ngay cả bản thân sự việc vừa xảy ra cũng biến mất khỏi đầu óc James. Một cái gì đó đã gọn gàng xóa đi toàn bộ câu chuyện tình cờ này trong trí nhớ James; một cái gì đó không muốn câu chuyện này lan truyền. Một cái gì đó biết điều này đã ngăn không để cho Will lan truyền nó. “Này, cầm thịt xay cho mẹ,” James nói. “Đi vào đi không thì chết cóng bây giờ. Gió đang mạnh lên đấy… may là bọn mình quay về nhanh.” “Vâng,” Will trả lời. Cậu cảm thấy lạnh, nhưng không phải do gió đang thổi mạnh hơn. Ngón tay cậu sờ quanh cái vòng sắt trong túi và nắm chặt lấy nó. Lần này, cái vòng sắt lại ấm áp. •§• Bầu trời xám đã tối sẫm lại khi chúng về đến khu bếp. Bên ngoài cửa sổ, chiếc xe thùng méo mó của bố chúng đang đậu trong quầng sáng vàng vọt. Căn bếp thậm chí còn ầm ĩ và nóng hơn cả lúc trước. Gwen đang dọn bàn ăn, kiên nhẫn tìm đường lách qua ba người đang cúi lom khom: ông Stanton đang săm soi một cái máy nhỏ nào đó cùng hai anh em sinh đôi Robin và Paul; và với cái dáng tròn mập của Mary chắn đằng trước, chiếc đài vặn hết cỡ đang phát oang oang một bài hát nhạc pop. Khi Will lại gần, lại một lần nữa, tiếng nhạc ngừng bặt và cái đài rít lên chói tai khiến tất cả mọi người phải nhăn nhó dừng lại và kêu la ầm ĩ. “TẮT cái thứ đó đi!” Từ phía bồn rửa bát, bà Stanton hét váng lên một cách tuyệt vọng. Mặc dù Mary, môi bĩu ra hờn dỗi, đã tắt tiếng lẹt xẹt và cả tiếng nhạc vốn đã bị chìm đi, nhưng tiếng ồn chỉ giảm đi chút ít. Không hiểu vì sao, chuyện đó không thể có khi hơn một nửa thành viên trong gia đình đang ở nhà. Cả gian bếp dài lát đá tràn ngập tiếng cười nói khi họ ngồi quanh chiếc bàn gỗ đã được lau chùi sạch sẽ; hai con chó giống collie xứ Wales, Raq và Ci, thì nằm ngủ lơ mơ trong góc phòng cạnh lò sưởi. Will tránh xa bọn chúng; cậu sẽ không thể chịu được nếu chính những con chó trong nhà lại gầm gừ nhe nanh với cậu. Cậu ngồi yên lặng suốt cả bữa trà - cả nhà gọi đó là bữa trà nếu bà Stanton chuẩn bị bữa ăn xong trước năm giờ, và gọi là bữa tối nếu muộn hơn - và chất xúc xích đầy đĩa, nhai đầy mồm để không phải nói chuyện. Trong không khí ầm ĩ vui vẻ của gia đình Stanton, chẳng ai quan tâm tới việc có người không nói gì, nhất là khi người đó lại là thành viên nhỏ nhất. Từ đầu bàn phía kia, mẹ vẫy Will và hỏi: “Ngày mai chúng ta dùng món gì trong bữa trà, Will?” Cậu ậm ừ: “Gan và thịt muối ạ.” James rên lên một tiếng rất to. “Im đi,” Barbara, là chị lớn và đã mười sáu tuổi, nói. “Đó là sinh nhật nó. Nó được quyền chọn.” “Nhưng mà gan,” James nói. “Đáng đời,” Robin nói. “Nếu tao nhớ không nhầm, vào sinh nhật lần trước của mày, cả nhà phải ăn cái món pho mát trộn hoa súp lơ kinh tởm đó.” “Chị nấu món ấy đấy,” Gwen nói. “Và nó không kinh tởm.” “Đừng giận mà chị,” Robin làm hòa. “Em chỉ không thể ăn được hoa lơ thôi. Dù sao thì chị cũng hiểu ý em rồi chứ.” “Chị hiểu. Nhưng không biết James nó có hiểu không?” Robin, to con và giọng trầm, là đứa vạm vỡ hơn trong hai anh em sinh đôi và không dễ để mình bị đùa cợt. James vội vàng nói: “Thôi được, thôi được.” “Ngày mai sẽ làm các món nhiều gấp đôi, Will nhé,” ông Stanton đang ngồi ở đầu bàn nói. “Chúng ta nên tổ chức một buổi tiệc đặc biệt. Một nghi lễ bộ lạc.” Ông mỉm cười với cậu con út, khuôn mặt tròn trịa, phinh phính của ông tràn đầy yêu thương. Mary khịt mũi. “Hôm sinh nhật con mười một tuổi, con bị ăn đòn và bị bắt phải đi ngủ.” “Trời ạ,” mẹ nói, “thật lạ là con vẫn nhớ chuyện đó đấy. Lại còn cái cách kể chuyện mới hay ho chứ. Mẹ nhớ là con chỉ bị một roi khá mạnh vào mông thôi, và cũng xứng đáng nữa.” “Hôm đó là sinh nhật con,” Mary nói, ngúng nguẩy túm tóc đuôi ngựa. “Và con không bao giờ quên đâu.” “Cứ chờ đấy,” Robin đùa. “Ba năm chưa lâu đâu.” “Mà ở tuổi mười một con còn non lắm,” Bà Stanton nói, miệng nhai nhóp nhép vẻ trầm ngâm. “Hừm,” Mary nói. “Thế chắc Will thì không ạ?” Trong giây lát, mọi con mắt đổ dồn về phía Will. Cậu chớp mắt lo lắng trước một vòng tròn các khuôn mặt đang nhìn mình chăm chú, rồi cau có cúi xuống nhìn cái đĩa thức ăn để mái tóc nâu dày xõa xuống che lấp khuôn mặt mình. Thật vô cùng khó chịu khi bị nhiều người đến thế nhìn cùng một lúc, hay ít ra là bị nhiều người nhìn mà mình không thể nhìn lại hết được. Cậu cảm thấy cứ như thể mình đang bị tấn công. Và đột nhiên cậu tin rằng vì một lý do gì đó, sẽ thật nguy hiểm nếu tất cả bằng đấy con người đều nghĩ về cậu cùng một lúc. Cứ như thể ai đó không tốt có thể nghe thấy… “Will khá già dặn so với tuổi mười một,” cuối cùng thì Gwen cũng cất tiếng. “Gần như là không có tuổi,” Robin nói. Cả hai đều nói với vẻ khách quan và rất nghiêm túc, cứ như chúng đang bàn về một người xa lạ nào khác vậy. “Giờ thì thôi đi,” Paul đột nhiên cất tiếng. Trong hai anh em sinh đôi, cậu là người trầm tính và là nhân tài của gia đình, mà có khi là một nhân tài thật cũng nên: cậu thổi sáo rất hay và chẳng quan tâm mấy đến những chuyện khác. “Có ai đến dự bữa trà ngày mai không Will?” “Không. Angus Macdonald đi Scotland chơi Giáng sinh rồi, còn Mike thì ở với bà ở Southall. Em thấy chẳng sao cả.” Đột nhiên có tiếng động ở cửa sau, rồi một luồng gió lạnh thổi vào; tiếng giậm chân liên tục và tiếng run cầm cập khá rõ. Max từ lối đi thò đầu vào trong phòng; mái tóc dài ướt nhoét và lấm tấm trắng. “Mẹ, con xin lỗi đã về muộn, con phải đi bộ từ Common về. Wow, mọi người nhìn ra ngoài kia mà xem… như là bão tuyết ấy.” Cậu nhìn những khuôn mặt đang thuỗn ra và toét miệng cười. “Mọi người không biết là tuyết đang rơi à?” Trong phút chốc Will quên hết mọi thứ và hét to sung sướng, tranh với James để chạy ra cửa. “Tuyết thật á? Nhiều không?” “Chứ còn gì nữa,” Max trả lời trong lúc tháo khăn quàng làm vài giọt nước bắn lên hai đứa. Max là đứa lớn nhất trong mấy anh em, nếu không kể Stephen, người anh cả đã phục vụ trong Hải quân nhiều năm nay và rất hiếm khi về nhà. “Đây này.” Max mở cánh cửa kêu cọt kẹt và gió lại rít lên lùa vào trong nhà; bên ngoài, Will thấy một tấm màn trắng xóa mờ mờ lấp lánh toàn những bông tuyết to tướng - không nhìn thấy cây cối hay bụi rậm, chẳng có gì ngoài đám tuyết đang xoay tròn. Những tiếng phản đối đồng thanh vọng ra từ trong bếp: “ĐÓNG CỬA LẠI!” “Buổi lễ dành cho con đấy, Will,” bố nói. “Vừa đúng lúc.” •§• Một lúc lâu sau, trước khi đi ngủ, Will vén rèm cửa sổ phòng ngủ và dí mũi vào mặt kính lạnh ngắt, thấy tuyết thậm chí còn rơi dày hơn trước nhiều. Tuyết đã phủ đến năm, bảy phân trên ngưỡng cửa và cậu gần như có thể nhìn thấy lớp tuyết mỗi lúc một dày lên khi gió thổi mạnh tấp thêm những bông tuyết vào nhà. Cậu cũng có thể nghe thấy tiếng gió rít trên nóc nhà ngay trên đầu cậu và trong ống khói. Will ngủ trong cái gác xép mái nghiêng của ngôi nhà lâu năm; cậu mới chuyển lên ở trên đó cách đây vài tháng, khi Stephen, trước kia thường ở đây, quay lại hạm đội sau chuyến nghỉ phép. Trước đó, Will vẫn ở chung phòng với James - mọi người trong gia đình này đều phải chung phòng với một người khác. “Nhưng căn phòng áp mái của con phải có người ở,” ông anh cả đã nói thế, vì biết rõ Will thích căn phòng này như thế nào. Trên giá sách đặt ở góc phòng là bức chân dung Trung úy Stephen Stanton, lực lượng Hải quân Hoàng gia, trông có vẻ hơi cứng nhắc trong bộ quân phục, và cạnh bức ảnh là một chiếc hộp gỗ chạm trổ có hình con rồng trên nắp, đựng đầy thư từ mà thỉnh thoảng Stephen đã gửi cho Will từ những nơi xa lơ xa lắc. Chúng tạo thành một thứ kho báu riêng tư hết sức thiêng liêng. Tuyết đập lạo xạo vào cửa sổ, nghe như tiếng ngón tay búng vào lớp kính. Will lại nghe thấy tiếng gió rít trên mái nhà, còn to hơn cả lúc trước; gió đang mạnh lên thành bão. Cậu nghĩ đến kẻ lang thang và tự hỏi liệu hắn ta có tìm được chỗ trú ẩn không. “Kẻ Lang Thang đã lên đường… đêm nay sẽ rất tệ…” Cậu cầm áo khoác lên và lôi chiếc vòng sắt kỳ lạ ra, di ngón tay khắp vòng tròn, sờ cả mặt trên lẫn mặt dưới của hình chữ thập bên trong đã chia nó ra thành bốn phần đều nhau. Bề mặt của cái vòng hơi gồ ghề, nhưng mặc dù không có dấu hiệu gì chứng tỏ đã được đánh bóng mà nó vẫn nhẵn thín - cái kiểu nhẵn làm cậu nhớ đến một chỗ trên nền đá ráp trong bếp, nơi mọi dấu vết sần sùi đều bị mài nhẵn bởi biết bao thế hệ bàn chân đã đặt lên để bước vòng qua góc cửa. Loại sắt làm vòng rất lạ: đen sì, không sáng ánh lên nhưng cũng không có vết gỉ hay ngả màu nào. Một lần nữa, khi chạm vào cậu lại thấy nó thật lạnh; lần này lạnh đến nỗi Will hoảng hốt thấy nó làm tê cóng cả đầu ngón tay cậu. Cậu vội vàng đặt nó xuống. Rồi cậu rút thắt lưng ra khỏi quần và ném bừa quần lên lưng ghế như mọi khi, cầm lấy cái vòng, luồn nó vào thắt lưng như một cái khóa phụ theo lời ông Dawson dặn. Gió gào réo ngoài khung cửa sổ. Will luồn thắt lưng trở lại quần rồi thả xuống ghế. Đúng lúc đó, không hề báo trước, nỗi sợ hãi kéo đến. Làn sóng sợ hãi đầu tiên trùm lên khi cậu băng qua căn phòng đến giường ngủ. Cậu đứng như trời trồng giữa phòng, tai u u tiếng gió rít bên ngoài. Tuyết quất vào cửa kính. Will đột nhiên thấy lạnh cóng, khắp người tê cứng. Cậu sợ hãi đến nỗi không thể cử động được ngón tay. Trong phần ký ức bất chợt hiện về, cậu lại nhìn thấy bầu trời đang sẫm dần trên bụi cây, tối sầm vì đám quạ, những con chim đen sì lượn tròn trên đầu. Rồi hình ảnh đó biến mất, và cậu chỉ còn thấy khuôn mặt hết sức sợ hãi của kẻ lang thang và nghe thấy tiếng kêu của hắn khi đang chạy. Trong giây lát, trong đầu cậu chỉ có một bóng tối đáng sợ, cảm giác như đang nhìn vào một vực thẳm đen ngòm. Rồi tiếng gió rít lặng đi, và cậu thấy mình được giải thoát. Cậu đứng run rẩy, đưa mắt nhìn khắp phòng. Không có gì bất ổn. Mọi thứ vẫn hệt như bình thường. Cậu tự nhủ, nỗi sợ hãi là do suy nghĩ mà ra. Nếu bây giờ cậu không suy nghĩ nữa và đi ngủ thì mọi việc sẽ ổn thôi. Cậu cởi áo khoác và leo lên giường, nằm đó nhìn lên bầu trời đêm qua mái nhà nghiêng nghiêng. Bầu trời xám xịt đầy tuyết. Cậu tắt chiếc đèn ngủ nhỏ cạnh giường, và bóng tối tràn vào phòng. Ngay cả khi mắt cậu đã quen với bóng tối, cậu cũng không thấy có thêm một chút ánh sáng nào. Đến giờ ngủ rồi. Nào, ngủ đi thôi. Nhưng mặc dù đã xoay mình nằm nghiêng, kéo chăn sát cằm và nằm thư giãn, cố nghĩ đến điều tuyệt vời là khi cậu thức dậy sẽ là sinh nhật, chẳng có gì xảy ra cả. Không có tác dụng gì. Có điều gì đó bất ổn. Will khó chịu trở mình. Chưa bao giờ cậu có cảm giác như thế này. Càng lúc cảm giác đó càng tệ hơn. Cứ như có một sức nặng nào đó đang đè lên tâm trí, đe dọa, cố kiểm soát cậu, biến cậu thành một cái gì đó mà cậu không muốn. Chính thế đấy, cậu nghĩ: muốn biến ta thành ai đó khác. Nhưng thật ngớ ngẩn. Kẻ nào muốn cơ chứ? Và biến ta thành cái gì? Có tiếng cọt kẹt bên ngoài cánh cửa khép hờ, cậu giật nảy người. Rồi nó lại cọt kẹt, và cậu biết đó là tiếng gì: một thanh ván sàn thường vẫn hay nói chuyện một mình trong đêm, âm thanh quen thuộc đến nỗi bình thường cậu không hề để ý đến. Nhưng dù vậy, cậu vẫn nằm yên lắng nghe. Một thứ tiếng kẽo kẹt khác vang lên từ nơi nào đó xa hơn, ở căn phòng áp mái bên kia, và cậu lại sợ rúm người, giật nảy mình mạnh đến nỗi cái chăn cọ vào cằm. Mày chỉ giật mình thôi, cậu tự nhủ; mày đang nhớ đến chuyện buổi chiều mà, nhưng làm gì có nhiều chuyện để mà nhớ chứ. Cậu cố hình dung gã lang thang đó là một kẻ chẳng có gì đặc biệt, chỉ là một người đàn ông bình thường mặc chiếc áo ngoài bẩn thỉu và đi đôi giày cũ kỹ; nhưng thay vào đó, một lần nữa tất cả những gì cậu có thể nhìn thấy là những cú bổ nhào hằn học của đàn quạ. “Kẻ Lang Thang đã lên đường…” Lại có tiếng cọt kẹt lạ lùng, lần này ở ngay trên trần nhà phía trên đầu cậu, gió đột nhiên rít mạnh hơn, và Will ngồi bật dậy, sợ hãi với tay bật đèn. Căn phòng lập tức lại tràn ngập ánh sáng màu vàng ấm áp, và cậu xấu hổ nằm xuống, cảm thấy thật ngốc nghếch. Sợ bóng tối, cậu nghĩ: tệ làm sao chứ. Cứ như là một đứa bé. Anh Stephen sẽ chẳng bao giờ sợ bóng tối khi ở trên này đâu. Nhìn xem, vẫn cái giá sách và cái bàn, hai cái ghế và chỗ ngồi cạnh cửa sổ; nhìn xem, vẫn sáu con thuyền buồm nhỏ xíu treo trên trần nhà đang đu đưa, bóng của chúng đang giong buồm lướt trên tường. Mọi thứ vẫn bình thường. Đi ngủ thôi. Cậu lại tắt đèn và ngay lập tức tất cả mọi thứ thậm chí còn tồi tệ hơn trước. Lần thứ ba, nỗi sợ hãi lại ập đến như một con thú khổng lồ đang rình mồi. Will nằm kinh hãi, run rẩy, cảm thấy người đang run nhưng lại không thể cử động nổi. Cậu thấy như mình sắp phát điên. Bên ngoài gió vẫn rền rĩ, ngừng một chút rồi lại rít lên, và có một tiếng động, một cú đấm mạnh bị kìm lại giáng vào cửa sổ trên trần. Rồi trong một giây phút kinh hoàng, nỗi khiếp sợ thít chặt lấy cậu như một cơn ác mộng đã thành hiện thực; một tiếng ầm vang lên, cùng với tiếng gió hú đột nhiên to hơn và gần hơn, và một luồng gió lạnh cóng rất mạnh; và Cảm Giác khiếp sợ đó lại đè lên người cậu với một sức mạnh kinh khủng đến nỗi làm cậu co rúm lại. Will hét lên. Đến mãi sau này cậu mới biết mình đã hét lên; cậu sợ hãi đến nỗi không thể nghe được chính tiếng của mình. Trong một khoảnh khắc đen tối kinh hoàng, cậu nằm gần như bất tỉnh, lạc vào một nơi nào đó bên ngoài thế giới, trong khoảng không đen thẳm. Rồi có tiếng chân vội vã bước lên cầu thang ngoài cửa, một tiếng nói cất lên lo lắng, và ánh sáng an lành sưởi ấm căn phòng, đưa cậu trở về thực tại. Đó là tiếng của Paul. “Will? Chuyện gì thế? Em có làm sao không?” Will từ từ mở mắt. Cậu thấy mình đang cuộn tròn như một quả bóng, đầu gối co lên sát vào cằm. Cậu nhìn thấy Paul đứng phía trên, ánh mắt lo lắng đằng sau cặp kính gọng đen. Cậu gật gật đầu mà chẳng thể cất lên lời. Rồi Paul quay đầu sang hướng khác, Will nhìn theo và trông thấy cánh cửa sổ trên mái đang mở; cánh cửa vẫn đang đung đưa; một khoảng trời hình vuông đen thẫm mở ra qua khung cửa, và gió lùa cái giá buốt mùa đông vào phòng. Trên thảm, một đống tuyết nằm ngay bên dưới khung cửa sổ. Paul nhìn mép khung cửa sổ. “Chốt cửa bị gãy rồi… Có lẽ tuyết quá nặng so vơi nó. Dù sao thì nó cũng cũ rồi, sắt đã gỉ hết. Anh sẽ lấy dây thép buộc lại, rồi ngày mai tính sau. Nó làm em tỉnh dậy à? Chúa ơi, chắc là khiếp lắm nhỉ. Nếu anh tỉnh dậy như thế, anh sẽ chui vào gầm giường mất.” Will nhìn anh thầm cảm ơn và cố mỉm cười. Mỗi lời được thốt ra bằng cái giọng trầm ấm, an ủi của Paul lại đưa cậu trở lại gần hơn với thực tại. Cậu ngồi dậy và kéo lại tấm khăn trải giường. “Chắc bố để dây thép trong đống đồ linh tính ở gác xép bên cạnh,” Paul nói. “Nhưng hãy dọn đống tuyết này trước khi nó chảy ra đã. Nhìn xem, tuyết vẫn còn rơi đây này. Anh cá là không phải nhà nào cũng được xem tuyết rơi trên thảm đâu.” Paul nói đúng: những bông tuyết đang xoay tròn và rơi xuống qua lỗ hổng trên mái, bay khắp nơi. Hai anh em cùng nhau vun hết những gì có thể thành một quả cầu tuyết méo mó đặt trên tờ tạp chí cũ, rồi Will chạy xuống gác đổ vào phòng tắm. Paul lấy dây thép buộc lại chốt cửa sổ trên mái. “Đấy,” Paul nói và mặc dù không nhìn Will, ngay lập tức cả hai đều hiểu điều cậu định nói. “Will, anh thấy ở đây lạnh lắm… Hay em xuống phòng bọn anh mà ngủ trên giường của anh ấy, và anh sẽ đánh thức em lúc anh quay xuống… Hoặc là anh sẽ ngủ luôn ở đây nếu em chịu nổi tiếng ngáy của thằng Robin. Được không?” “Được ạ,” Will đáp, giọng khàn đi. “Cảm ơn anh.” Cậu nhặt mớ quần áo vứt bừa bãi trong phòng lên - cả cái thắt lưng và vật trang sức mới của nó - ôm thành một bó tròn trong tay, và trên đường đi ra, cậu dừng một lúc ở cửa, quay đầu nhìn lại. Giờ đây, chẳng còn nhìn thấy gì ngoài một vũng ướt sẫm màu trên tấm thảm chỗ tuyết vừa rơi xuống. Nhưng cậu thấy trong lòng lạnh hơn cái lạnh của không khí bên ngoài, và cảm giác trống trải, kinh hãi vẫn còn nguyên trong cậu. Nếu không có chuyện gì ghê hơn nỗi sợ bóng tối, cậu đã không đời nào đi tị nạn trong phòng Paul. Nhưng với những gì đã diễn ra, cậu biết cậu không thể ở một mình trong căn phòng vốn là của mình này. Vì khi hai anh em dọn đống tuyết, cậu đã nhìn thấy một thứ mà Paul không nhìn thấy. Trong một đêm bão tuyết gầm rú như vậy, khó có sinh vật nào có thể tạo nên tiếng thịch nhẹ trên ô cửa kính mà cậu nghe thấy rất rõ ràng ngay trước khi cánh cửa trên nóc nhà rơi xuống. Nhưng trong đống tuyết đó, cậu đã tìm thấy một cái lông quạ màu đen vừa mới rụng. Cậu lại nghe thấy tiếng người chủ trang trại như đang vang lên: Đêm nay sẽ rất tệ. Còn ngày mai sẽ nằm ngoài sức tưởng tượng. Ngày Đông Chí Tiếng nhạc làm cậu tỉnh giấc. Âm thanh ấy như mời gọi cậu, du dương, réo rắt; một thứ nhạc êm ái phát ra từ những loại nhạc cụ tinh tế nào đó mà cậu không nhận ra được, nó tạo ra một chuỗi âm thanh reo lanh canh vui vẻ như có ai đang rung những quả chuông vàng. Tiếng nhạc chứa đựng phép màu sâu xa nhất từng ẩn chứa trong những giấc mơ, trong những điều tưởng tượng của cậu khiến cậu bừng tỉnh và nở nụ cười trong niềm hạnh phúc thanh khiết khi nghe thấy nó. Đúng lúc cậu sắp tỉnh hẳn thì tiếng nhạc bắt đầu lặng dần nhưng nghe vẫn như đang mời gọi, và khi cậu mở mắt ra thì nó đã tắt hẳn. Những chuỗi âm thanh lanh canh giờ chỉ còn vang lên trong trí nhớ của cậu, và chính hồi ức ấy cũng biến đi quá nhanh đến nỗi cậu ngồi bật dậy trên giường, giơ tay ra như thể cậu có thể mang nó quay trở lại. Căn phòng lặng như tờ, không nghe thấy tiếng nhạc nào, nhưng Will biết đó không phải là một giấc mơ. Cậu vẫn đang ở trong phòng của hai anh em sinh đôi; cậu có thể nghe thấy tiếng thở chậm và sâu của Robin vọng đến từ chiếc giường kia. Ánh sáng lạnh lẽo lờ mờ quanh mép tấm rèm treo cửa, nhưng vẫn chưa thấy ai động tĩnh gì; giờ này vẫn còn sớm lắm. Will chui vào bộ quần áo nhàu nát cậu mặc từ hôm qua rồi nhẹ nhàng lẻn ra khỏi phòng. Cậu đi dọc hành lang đến bên cửa sổ chính giữa để nhìn ra ngoài. Đập ngay vào mắt cậu là ánh sáng chói lòa của một khung cảnh vừa quen vừa lạ, tất cả đều sáng trắng lên lấp lánh: mái của những ngôi nhà phụ vươn lên thành những tháp tuyết vuông vắn, và ở bên phía sau chúng, những cánh đồng và hàng rào cũng bị chôn vùi hoàn toàn, hòa vào với nhau thành một bề mặt phẳng lì, trắng toát, mênh mông trải ra đến tận đường chân trời. Will sung sướng hít một hơi dài, lặng lẽ tận hưởng tất cả. Thế rồi, rất khẽ, cậu lại nghe thấy tiếng nhạc, vẫn bản nhạc ấy. Cậu quay ngoắt lại, cố gắng tìm kiếm cứ như có thể nhìn thấy được nó đâu đó trong không gian kia như nhìn thấy một tia sáng mong manh vậy. “Mày ở đâu thế?” Tiếng nhạc lại biến mất. Và khi cậu quay lại nhìn qua khung cửa sổ, cậu phát hiện ra khung cảnh mà chỉ cậu mới nhìn thấy vừa rồi đã biến mất cùng bản nhạc ấy. Chỉ trong tích tắc thôi mà mọi vật đã thay đổi. Tuyết vẫn còn đó nhưng giờ đây không còn chất đống trên mái nhà hay phủ trắng những thảm cỏ và cánh đồng nữa. Giờ không còn mái nhà, cũng chẳng còn cánh đồng. Chỉ có cây. Will nhìn thấy một cánh rừng rộng lớn toàn một màu trắng toát: cánh rừng đầy những cái cây khổng lồ, sừng sững như những ngọn tháp và cổ kính như những tảng đá. Chúng trơ trọi chẳng có một cái lá, chỉ có lớp tuyết dày phủ trên tất cả các cành, đến tận những nhánh nhỏ nhất. Đâu đâu cũng thấy cây. Cây bắt đầu mọc lên ở ngay sát ngôi nhà đến nỗi khi nhìn qua những cành cao nhất của cây gần nhất thì tưởng như nếu dám mở cửa, cậu có thể thò tay ra nắm được chúng mà lắc. Rừng cây trải ra xung quanh đến tận đường chân trời xa xa cuối thung lũng. Khoảng đứt đoạn duy nhất trong thế giới trắng xóa những cành nhánh ấy là phía Nam, nơi có con sông Thames chảy qua; cậu có thể nhìn thấy cả nơi dòng sông lượn vòng thành hình một con sóng bất động đơn độc trên cái đại dương rừng trắng mênh mang kia, và hình dáng của nó khiến cho dòng sông trông có vẻ như rộng hơn so với bình thường. Will cứ nhìn, nhìn mãi, rồi cuối cùng khi nhúc nhích thì cậu phát hiện ra tay mình đang nắm chặt cái vòng tròn sắt đã được luồn vào thắt lưng. Miếng sắt ấm lên trong lòng bàn tay cậu. Cậu quay lại phòng ngủ. “Robin!” Cậu gọi ầm lên. “Dậy đi!” Nhưng Robin vẫn thở chậm rãi, đều đều như trước, và chẳng buồn động đậy. Cậu chạy sang phòng ngủ bên cạnh, căn phòng nhỏ thân thuộc mà trước kia cậu đã chia sẻ cùng James, và lay vai James rất mạnh. Nhưng mặc kệ, James vẫn năm yên, ngủ say sưa. Will lại đi ra hành lang, hít một hơi thật sâu rồi lấy hết sức la toáng lên: “Dậy thôi! Mọi người ơi, dậy đi!” Giờ thì cậu chẳng mong chờ có ai đó sẽ đáp lại nữa, và quả đúng như vậy. Một sự yên lặng sâu thẳm và vô tận bao trùm như đám tuyết phủ ngoài kia; cả ngôi nhà và mọi người đều đang chìm sâu trong một giấc ngủ say không gì có thể đánh thức dậy được. Will xuống cầu thang, đi ủng, khoác chiếc áo choàng bằng da cừu vốn đã qua tay hai hay ba ông anh trai trước khi được chuyển giao cho cậu. Rồi cậu đi ra ngoài qua lối cửa sau, khẽ khàng đóng cánh cửa lại sau lưng và đứng đó nhìn xuyên qua đám hơi nước tỏa ra từ hơi thở của mình. Cái thế giới trắng xóa kỳ lạ trải dài trước mắt cậu trong không gian tĩnh mịch. Không một tiếng chim hót. Không còn thấy khu vườn nhà cậu đâu trên mảnh đất mênh mông rừng ấy. Không có những ngôi nhà phụ, cũng không còn những bức tường cũ đổ nát. Giờ đây xung quanh ngôi nhà chỉ chừa lại một khoảng trống hẹp với những đụn tuyết nối nhau liên tiếp trước bìa rừng và một con đường nhỏ dẫn ra ngoài. Will chậm rãi đi xuống con đường ba bề bốn bên toàn một màu trắng toát như đường hầm ấy, chân bước thật cao để tránh cho tuyết khỏi rơi vào trong ủng. Khi vừa bước chân rời khỏi ngôi nhà, ngay lập tức cậu cảm thấy mình thật cô đơn, và cậu buộc mình phải bước tiếp mà không được quay lại nhìn vì biết rằng nếu quay lại, cậu sẽ không còn thấy ngôi nhà ở đó nữa. Cậu chấp nhận mọi thứ đang tràn vào tâm trí cậu mà không suy nghĩ hay thắc mắc gì, như thể đang trong một giấc mơ. Nhưng sâu thẳm trong tâm hồn, cậu vẫn biết rằng không phải mình đang mơ. Cậu hoàn toàn tỉnh táo, trong một ngày Đông Chí, cái ngày đã chờ đợi sự tỉnh giấc của cậu ngay từ khi cậu mới chào đời, và chính cậu, không hiểu bằng cách nào, cũng biết được điều đó, từ rất lâu rồi, hình như từ hàng thế kỷ hước. Còn ngày mai sẽ nằm ngoài sức tưởng tượng… Will đã ra khỏi lối đi nhỏ có mái vòm trắng, bước vào một con đường phủ tuyết mịn với hai hàng cây san sát cao vút ở hai bên, và cậu ngước lên nhìn qua đám cành cây, thấy một con quạ đen lẻ loi chậm chạp vỗ cánh bay qua, xa tít trên bầu trời buổi sớm. Cậu rẽ phải đi vào con đường hẹp mà thời kỳ đó người ta vẫn gọi là đường Thung Lũng Thợ Săn. Đây là con đường mà cậu và James thường đi để đến Trại Dawson, con đường đã in dấu chân hàng ngày của cậu, nhưng bây giờ trông nó thật khác. Bây giờ nó chỉ còn là một lối mòn xuyên qua cánh rừng, hai bên dày đặc cây cối với cành nhánh trĩu nặng tuyết. Will bước đi trong im lặng, đôi mắt sáng quan sát xung quanh, cho đến khi bỗng nhiên cậu lại nghe thấy một tiếng động rất khẽ ở phía trước. Cậu đứng yên. Âm thanh đó lại vang lên, xuyên qua đám cây rậm rịt: một tiếng gõ nhịp nhàng nhưng lạc điệu, nghe như tiếng búa đập vào kim loại. Nó vang lên thành từng đợt ngắn không đều giống như ai đó đang đóng đinh. Trong khi cậu đứng yên lắng nghe, cảnh vật xung quanh dường như đã sáng hơn một chút; cây cối như đỡ dày đặc hơn, tuyết sáng lên lấp lánh, và khi ngước nhìn lên, cậu thấy khoảng trời phía trên đường Thung Lũng Thợ Săn đã biến thành một dải màu xanh biếc. Cậu nhận ra cuối cùng mặt trời đã lên cao qua khỏi mảng mây xám ảm đạm. Cậu tiếp tục lê bước về phía tiếng búa, và chỉ một lúc sau đã đến được một khoảng rừng trống. Tất cả chỉ có vậy, chẳng thấy làng Thung Lũng Thợ Săn đâu cả. Ngay lập tức, tất cả giác quan của cậu bừng tỉnh dưới một cơn mưa bất ngờ những tiếng động, cảnh vật và mùi vị. Cậu nhìn thấy hai, ba tòa nhà thấp xây bằng đá, mái nhà phủ một lớp tuyết dày; cậu thấy làn khói xanh của củi đốt bay lên, và cũng ngửi thấy mùi khói, đồng thời có cả hương thơm quyến rũ của bánh mì mới ra lò khiến cậu chảy nước miếng. Cậu nhìn thấy tòa nhà gần nhất chỉ có ba bức tường, cửa mở ra phía đường đi, trong nhà một ngọn lửa vàng đang cháy sáng rực trông như mặt trời bị nhốt bên trong. Hàng chùm những tia lửa bắn tóe ra từ chiếc đe nơi một người đàn ông đang quai búa. Đứng bên cạnh chiếc đe là một con ngựa ô cao lớn, tuyệt đẹp; Will chưa bao giờ nhìn thấy một con ngựa nào như vậy, màu lông đen tuyền thăm thẳm như bóng đêm, không một vết trắng nào. Con ngựa ngẩng đầu nhìn thẳng vào cậu, chân gõ xuống đất và hí lên khe khẽ. Người thợ rèn cất tiếng làu bàu, và rồi một người khác bước ra khỏi bóng tối phía sau con ngựa. Will thở dốc khi nhìn thấy người đó, cổ họng cậu bỗng nhiên trống rỗng. Cậu không hiểu tại sao. Người đàn ông đó rất cao, khoác một chiếc áo choàng đen rủ xuống như áo thụng; tóc ông ta mọc dài quá cổ và sáng lên một màu đỏ kỳ lạ. Ông ta vỗ vỗ cổ con ngựa, thì thầm vào tai nó; rồi dường như cảm nhận được lý do khiến con ngựa có vẻ bất an như vậy, ông ta bèn quay lại và nhìn thấy Will. Cánh tay ông ta đột ngột buông thõng xuống. Ông ta bước lên phía trước một bước rồi đứng đó chờ đợi. Đám tuyết và bầu trời bỗng tối sầm lại và buổi ban mai trở nên mờ mờ tối, khi một lớp mây mỏng ở phía xa xa bay tới nuốt chửng vầng mặt trời. Will bước qua đám tuyết trên con đường, tay thọc sâu vào trong túi. Cậu không nhìn vào cái dáng người cao lớn mặc áo choàng trước mặt. Thay vào đó, cậu chăm chăm nhìn vào người đàn ông kia, giờ đã lại cúi người trên chiếc đe, và nhận ra là mình có biết ông ta; đó là một người ở Trại Dawson. Bác John Smith[2], con trai cụ George. “Chào bác John,” cậu lên tiếng. Người đàn ông vai rộng, mặc một chiếc tạp dề bằng da, ngước nhìn lên. Bác khẽ cau mày rồi gật đầu chào. “À Will đấy à. Cậu ra ngoài sớm thế.” “Hôm nay sinh nhật cháu mà,” Will đáp lời. “Sinh nhật vào ngày Đông Chí,” người đàn ông lạ mặt khoác chiếc áo choàng thốt lên. “Thật là đầy hứa hẹn. Vậy là cậu đã mười một tuổi rồi đấy nhỉ.” Đó là một câu khẳng định, không phải là câu hỏi. Bây giờ thì Will buộc phải nhìn ông ta. Đôi mắt sáng xanh màu nước biển đi kèm với mái tóc nâu đỏ, giọng nói ông ta nghe rất lạ, không phải giọng của người miền Đông Nam. “Đúng vậy ạ.” Một người phụ nữ xuất hiện từ phía những ngôi nhà tranh gần đó, tay ôm một cái giỏ đựng đầy những ổ bánh mì nhỏ tỏa ra mùi thơm của bánh vừa nướng mà lúc nãy đã quyến rũ Will biết bao. Cậu khịt khịt mũi, bụng sôi lên nhắc nhở cậu về bữa sáng vẫn chưa ăn. Người đàn ông tóc đỏ lấy một ổ bánh mì, bẻ đôi và đưa cho cậu một nửa. “Đây. Cậu đói rồi đấy. Xin chúc mừng sinh nhật cậu bằng bữa sáng này, cậu Will.” Ông ta cắn một miếng vào nửa ổ bánh mì còn lại và Will nghe thấy tiếng vỏ bánh vỡ giòn tan thật hấp dẫn. Cậu đưa tay ra nhưng ngay lúc đó, người thợ rèn vung tay kéo một chiếc móng ngựa nóng đỏ ra khỏi lò rồi ấn nhanh vào chiếc móng guốc đang được kẹp chặt giữa hai đầu gối của ông. Mùi cháy nhanh chóng bốc lên át hẳn mùi bánh mới thơm ngon; cái móng lại được đưa vào lò còn người thợ rèn thì nhìn chăm chú xuống chiếc móng guốc. Con ngựa ô vẫn kiên nhẫn đứng đó không hề động đậy nhưng Will thì lùi lại, thả tay xuống. “Không ạ, cảm ơn ông,” cậu nói. Người đàn ông nhún vai, ngấu nghiến ngoạm miếng bánh mì, còn người phụ nữ, khuôn mặt khuất dưới mép chiếc khăn choàng, lại mang giỏ bánh đi mất. Bác John Smith vung tay đưa chiếc móng ngựa ra khỏi lò, nhúng vào xô nước khiến nó cháy xèo xèo và bốc hơi nghi ngút. “Mau lên, mau lên nào,” người đàn ông ngẩng đầu kêu lên, cáu kỉnh nói. “Trời đã sáng rồi đấy. Còn bao lâu nữa?” “Đám sắt thép này chẳng vội vàng bao giờ,” người thợ rèn nói, nhưng lúc này tay bác quai búa xuống chiếc móng đã trở nên nhanh và gọn hơn. “Xong rồi!” Cuối cùng bác cũng tuyên bố, tay cầm con dao gọt chiếc móng guốc cho gọn. Người đàn ông tóc đỏ dẫn con ngựa đi vòng ra, siết chặt đai yên rồi nhảy lên, nhanh nhẹn như một con mèo. Cao ngất trên yên ngựa, những nếp áo choàng sẫm màu phủ qua sườn con ngựa ô, trông ông ta như một bức tượng tạc vào đêm tối. Nhưng đôi mắt xanh lại chăm chú hướng xuống phía Will như muốn thuyết phục cậu. “Đi nào cậu bé. Ta sẽ đưa cậu đến nơi nào cậu muốn. Với lớp tuyết dày thế kia thì chỉ có cách cưỡi ngựa thôi.” “Cảm ơn ông, nhưng cháu không đi đâu ạ,” Will nói. “Cháu đi ra ngoài để tìm Kẻ Lang Thang cơ.” Chính cậu cũng ngạc nhiên khi nghe lời nói của chính mình. Thì ra là vậy, cậu nghĩ. “Nhưng hiện giờ Kỵ Sĩ đã lên đường rồi,” người đàn ông nói, và bằng một động tác rất nhanh ông ta giật cương quay đầu ngựa lại, rạp người xuống yên và quơ quét tay định túm lấy cánh tay Will. Will nhảy bật sang bên cạnh, nhưng nếu người thợ đang đứng gần cửa lò rèn không lao về phía trước và kéo cậu ra khỏi tầm với của ông ta thì cậu đã bị tóm rồi. Đối với một người to lớn như thế thì đó quả là một tốc độ đáng kinh ngạc. Con ngựa đen như bóng đêm lồng lên khiến người kỵ sĩ mặc áo choàng suýt bị hất xuống. Ông ta giận dữ hét lên nhưng rồi bình tĩnh lại ngay và ngồi trên yên ngựa, nhìn xuống với một vẻ mặt lạnh băng trông còn ghê rợn hơn cả khi giận dữ. “Hành động vừa rồi quả là ngớ ngẩn, anh bạn thợ rèn ạ,” ông ta nói nhỏ. “Bọn ta sẽ không bao giờ quên đâu.” Rồi ông ta quay ngựa tiến về hướng Will vừa đi tới, tiếng vó của con ngựa tuyệt đẹp kia chỉ vang lên lạo xạo trong tuyết. Bác John Smith nhổ nước bọt với vẻ khinh bỉ rồi bắt đầu treo đống đồ lề lên. “Cảm ơn bác,” Will nói. “Cháu hy vọng là…” Cậu ngừng lại. ẳ “Bọn chúng chẳng làm gì nổi ta đâu,” người thợ rèn nói. “Ta thuộc một dòng dõi mà chúng không thể hại được. Hiện giờ ta là người của con đường này, cũng như tay nghề của ta là để phục vụ những người sử dụng con đường. Uy lực của chúng không thể làm phương hại đến những gì nằm trên con đường đi xuyên qua vùng Thung Lũng Thợ Săn này. Cậu hãy nhớ lấy điều đó.” Trạng thái mơ màng nhạt dần, và Will cảm thấy đầu óc mình bắt đầu nhúc nhích. “Bác John ạ,” cậu nói, “cháu biết đúng là cháu phải tìm bằng được Kẻ Lang Thang, nhưng cháu không hiểu tại sao. Bác có thể nói cho cháu biết được không?” Người thợ rèn quay đầu lại, và lần đầu tiên nhìn thẳng vào cậu với vẻ thương cảm hiện rõ trên khuôn mặt sạm nắng gió. “Ôi không đâu, cậu Will ạ. Cậu vừa mới tỉnh dậy phải không? Nên cậu phải tự tìm hiểu lấy thôi. Hơn nữa, hôm nay mới là ngày đầu tiên của cậu mà.” “Ngày đầu tiên?” Will nói. “Ăn thôi,” người thợ rèn nói. “Giờ thì việc này không còn gì nguy hiểm vì cậu sẽ không phải chia sẻ miếng ăn với Kỵ Sĩ. Cậu thấy là cậu đã nhanh chóng nhận ra mối nguy hiểm tiềm ẩn trong việc đó như thế nào rồi đấy. Cũng như cậu đã biết còn nguy hiểm hơn nếu cưỡi chung ngựa với hắn ta. Hãy đi theo cảm tính của mình, cậu bé ạ, cứ làm theo cảm tính thôi.” Ông gọi với vào trong nhà: “Martha!” Người phụ nữ lại ôm giỏ bánh mì đi ra. Lần này bà kéo chiếc khăn choàng xuống, mỉm cười với Will, và cậu nhìn thấy một đôi mắt màu xanh nước biển như mắt tên Kỵ Sĩ nhưng ánh sáng lấp lánh trong đó hiền dịu hơn nhiều. Cậu sung sướng nhai miếng bánh mì nóng hổi giòn tan, giờ đã được cắt đôi và phết thêm mật. Ngay lúc đó, có tiếng bước chân lạo xạo từ phía con đường xa ngoài khoảnh rừng trống làm cậu hốt hoảng quay lại. Một con ngựa cái trắng muốt không có người cưỡi cũng không đóng yên cương, đang đi nước kiệu vào khoảnh rừng trống và tiến về phía họ: một hình ảnh trái ngược hoàn toàn với con ngựa đực mang màu đêm tối của tên Kỵ Sĩ vừa rồi, cao, tuyệt đẹp và không pha bất kỳ màu sắc nào khác. Trên nền tuyết trắng đến chói mắt đang lấp lánh dưới vầng mặt trời giờ đã lại ló ra khỏi mây, dường như có một ánh vàng mờ nhạt sáng lên giữa màu trắng của bộ lông, của lớp bờm dài phủ xuống chiếc cổ cong cong. Con ngựa bước đến đứng bên cạnh Will, khẽ cúi đầu xuống chạm mũi vào vai cậu như muốn chào, rồi lại hất cái đầu trắng kiêu hãnh lên, phì một đám mây hơi nước vào bầu không khí lạnh lẽo. Will đưa tay ra, kính cẩn đặt bàn tay lên cổ con ngựa. “Mày đến đúng lúc đấy,” bác John Smith nói. “Lò vẫn còn nóng đỏ đây.” Bác quay về lò rèn và thổi mấy hơi vào ống bễ để ngọn lửa bùng lên; sau đó dùng cây móc lấy một cái móng từ trên bức tường khuất phía sau rồi vứt nó vào trong lửa. “Tốt rồi,” bác vừa nói vừa nhìn mặt Will thăm dò. “Cậu chắc chưa bao giờ nhìn thấy một con ngựa như thế. Nhưng đây sẽ không phải là lần cuối cùng đâu.” “Nó đẹp quá,” Will thốt lên và con ngựa lại dịu dàng dụi mũi vào cổ cậu. “Lên đi,” người thợ rèn bảo cậu. Will cười phá lên. Rõ ràng đó là chuyện không thể; đầu cậu còn chưa chạm đến vai con ngựa, và thậm chí nếu có bàn đạp đi chăng nữa thì cũng còn lâu chân cậu mới với tới được. “Tôi không đùa đâu,” người thợ rèn nói, quả thật trông ông không có vẻ gì là người hay cười, chứ đừng nói gì đến chuyện nói đùa. “Đây là đặc ân dành cho cậu đấy. Hãy nắm lấy bờm của nó ở bất kỳ chỗ nào cậu có thể với tới, rồi cậu sẽ thấy.” Chiều theo ý ông, Will giơ cả hai tay lên nắm lấy túm lông dài thô ráp trên cỗ bờm phía dưới cổ con ngựa trắng. Ngay lập tức, cậu cảm thấy choáng váng, trong đầu kêu vo vo như có một con quay đang xoay tít bên trong, và xa thẳm đâu đó, đằng sau âm thanh này, cậu có thể nghe thấy khá rõ ràng đoạn nhạc như tiếng chuông đầy ám ảnh ấy, tiếng nhạc đã đánh thức cậu sáng nay. Cậu thét lên. Hai cánh tay cậu co giật lạ lùng; cả thế giới đảo lộn; rồi tiếng nhạc biến mất. Trong khi trí óc vẫn còn đang tuyệt vọng cố gắng tìm lại nó thì cậu nhận ra mình đang ở gần mấy cành cây phủ đầy tuyết hơn lúc trước, và giờ cậu đang ngồi trên cái lưng to rộng của con ngựa bạch. Cậu nhìn xuống người thợ rèn và sung sướng cười to. “Khi nào đóng móng xong,” người thợ rèn nói, “nó sẽ chở cậu, nếu cậu muốn.” Đột nhiên, Will trở nên nghiêm nghị và trầm ngâm suy nghĩ. Rồi có cái gì đó thu hút cái nhìn của cậu hướng lên trời, xuyên qua những cành cây cong queo, và cậu trông thấy ở trên kia, hai con quạ đen đang uể oải vỗ cánh bay qua. “Không ạ,” cậu nói. “Cháu nghĩ là cháu sẽ đi một mình thôi.” Câu vuốt ve cổ con ngựa, vắt cả hai chân sang một bên và bắt đầu trượt tít từ trên cao xuống, chuẩn bị tinh thần cho một cú xóc nảy bật cả người lên. Nhưng cậu thấy đầu ngón chân mình chạm xuống lớp tuyết rất nhẹ nhàng. “Cảm ơn bác John. Rất cảm ơn bác. Cháu đi đây.” Người thợ rèn khẽ gật đầu rồi quay lại với con ngựa, còn Will chậm chạp bước đi, trong lòng có phần thất vọng; cậu đã nghĩ ít nhất cũng được nghe một lời chào tạm biệt của bác. Đến bìa rừng, cậu liếc nhìn lại phía sau. Bác John Smith đang kẹp chặt một chân sau của con ngựa giữa hai đầu gối mình và với bàn tay đi găng lấy chiếc kẹp. Rồi, những gì Will nhìn thấy đã khiến cậu ngay lập tức quên hết mọi suy nghĩ về câu nói hay lời tạm biệt. Người thợ rèn không hề gỡ móng cũ hay sửa lại móng hỏng cho con ngựa; con ngựa này chưa được đóng móng bao giờ. Miếng bịt móng đang được đặt vào chân nó cũng giống như ba miếng khác mà giờ đây cậu nhìn thấy đang treo thành một hàng sáng lóe trên bức tường lò rèn ở phía xa kia, không hề giống móng ngựa bình thường mà có một hình dạng khác, một hình dạng rất quen thuộc với cậu. Cả bốn chiếc móng của con ngựa bạch ấy đều giống hệt cái vòng tròn có chữ thập bên trong mà cậu đang mang ở thắt lưng. •§• Will men theo con đường đi tiếp một đoạn nữa, bên dưới mảng trời hẹp xanh biếc. Cậu đút một tay vào áo khoác để chạm vào cái vòng tròn trên thắt lưng, và miếng sắt ấy lạnh như băng. Giờ thì cậu đã bắt đầu hiểu điều đó có nghĩa là gì. Nhưng không có dấu hiệu gì của tên Kỵ Sĩ; thậm chí cậu chẳng nhìn thấy một dấu chân nào của con ngựa ô kia. Và cậu cũng không nghĩ đến việc phải đối đầu với ma quỷ. Cậu chỉ cảm thấy có một cái gì đó đang lôi kéo cậu, càng lúc càng mạnh mẽ hơn, đi về phía mà trong thế giới thường ngày của cậu vốn là nơi Trại Dawson tọa lạc. Cậu thấy một con đường mòn nhỏ ở bìa rừng và rẽ vào đó. Con đường dài hun hút và hơi uốn lượn. Dường như ở vùng rừng xung quanh đó mọc rất nhiều cây bụi; các cành nhánh cao nhất của đám cây bụi và cây con nhô lên khỏi đống tuyết trông như đám gạc hươu màu trắng trên những cái đầu tròn trắng tinh. Khi đi vòng qua chỗ lượn tiếp theo, Will nhìn thấy trước mặt một túp lều vuông và thấp, tường trát đất sét xù xì, trên mái nhà là mũ tuyết cao ngất ngưởng khiến cho ngôi nhà trông như một chiếc bánh phủ lớp kem dày. Trên ngưỡng cửa, lão già lang thang run rẩy mà cậu gặp ngày hôm qua đang đứng đó lưỡng lự, một tay đặt trên cánh cửa ọp ẹp. Vẫn mái tóc dài màu xám ấy, vẫn bộ quần áo ấy và vẫn khuôn mặt khô xác xảo quyệt ấy. Will tiến đến gần lão và nhắc lại câu ông chủ Trại Dawson đã nói ngày hôm trước: “Kẻ Lang Thang đã lên đường.” “Chỉ có một người,” lão già đáp. “Chỉ có ta. Chuyện này thì liên quan gì đến ngươi?” Lão khịt khịt mũi, liếc xéo Will và chùi mũi vào ống tay áo nhờn mỡ. “Cháu muốn ông nói cho cháu biết vài điều,” Will nói, tỏ vẻ bạo dạn hơn những gì cậu cảm thấy trong lòng. “Cháu muốn biết tại sao hôm qua ông cứ lởn vởn ở khắp nơi. Tại sao ông lại theo dõi. Tại sao lũ quạ cứ bám theo ông. Cháu muốn biết,” cậu đột nhiên thốt ra suy nghĩ thật của mình, “người ta gọi ông là Kẻ Lang Thang nghĩa là sao.” Khi cậu nhắc đến bầy quạ, lão già lúng túng bước lại gần túp lều hơn nữa, đôi mắt hấp háy vẻ hốt hoảng hướng lên những ngọn cây; nhưng giờ thì lão nhìn Will với con mắt ngờ vực hơn hẳn lúc trước. “Cậu không thể là người đó!” Lão nói. “Cháu không thể là gì cơ?” “Cậu không thể… lẽ ra cậu phải biết tất cả chứ. Đặc biệt là đám chim thối tha kia. Định lừa tôi đấy hả? Định lừa một lão già tội nghiệp. Cậu đã đi cùng Kỵ Sĩ rồi phải không? Cậu là người của hắn hả?” “Tất nhiên là không rồi,” Will nói. “Cháu không hiểu ông đang nói gì.” Cậu nhìn túp lều tồi tàn; con đường mòn đã kết thúc ở đây, nhưng thậm chí đó cũng không thể được coi là một khoảng rùng trống tử tế nữa. Cây cối mọc sít sịt xung quanh, ngăn không cho nắng chiếu xuống. Đột nhiên cảm thấy buồn, cậu cất tiếng hỏi: “Thế còn trang trại đâu rồi?” “Chẳng có trang trại nào cả,” lão hành khất trả lời vẻ sốt ruột. “Chưa có. Cậu phải biết chứ…” Lão lại khịt mũi ầm ĩ và lẩm bẩm một mình; rồi lão nheo mắt và đi đến gần Will, chăm chú nhìn vào mặt cậu, mùi mồ hôi lưu cữu và mùi người lâu ngày không tắm bốc lên ngột ngạt kinh tởm. “Nhưng cậu cũng có thể là người đó lắm, có thể lắm. Nếu cậu mang theo Dấu Hiệu đầu tiên mà Cổ Nhân đã trao cho cậu. Cậu có mang nó theo đây không? Cho ta xem nào. Cho Kẻ Lang Thang già này xem Dấu Hiệu đó nào.” Cố gắng hết sức để không lùi lại vì ghê tởm, Will lần tay lên những nút áo khoác. Cậu biết chắc chắn từ Dấu Hiệu ám chỉ cái gì. Nhưng khi cậu lật vạt áo da cừu để lộ cái vòng tròn đang lồng ở thắt lưng thì tay cậu cọ vào mặt sắt nhẵn thín và cậu cảm thấy buốt thấu da vì cái lạnh như băng của nó; cùng lúc đó, cậu thấy lão già bật lùi lại, rúm ró, mắt nhìn chăm chăm phía sau vai cậu. Will quay phắt lại và thấy ngay tên Kỵ Sĩ khoác áo choàng đang ngồi trên lưng con ngựa ô màu đêm tối. “Cuộc gặp thú vị đây,” Kỵ Sĩ khẽ nói. Lão già kêu ré lên như một con thỏ khiếp đảm rồi quay lưng bỏ chạy vào rừng, vấp lên vấp xuống qua những đụn tuyết. Will đứng như trời trồng, nhìn tên Kỵ Sĩ, tim cậu đập thình thịch trong lồng ngực, dữ dội đến nỗi gần như làm cậu không thở nổi. “Rõ là chẳng khôn ngoan chút nào khi rời đường lớn, Will Stanton ạ,” gã đàn ông khoác áo choàng nói, mắt hắn rực lên như hai ngôi sao xanh biếc. Con ngựa ô men theo con đường tiến lên, tiến lên; Will lùi lại, tựa lưng vào túp lều xiêu vẹo, nhìn trừng trừng vào hai con mắt kia, rồi, với một nỗ lực phi thường, cậu bắt cánh tay chậm chạp phải dang ra, kéo vạt áo khoác để lộ rõ vòng tròn sắt trên thắt lưng. Cậu nắm chặt lấy phần thắt lưng bên hông; cái lạnh tỏa ra từ Vòng Tròn Dấu Hiệu ấy giá buốt đến độ cậu như cảm nhận được sức mạnh của nó, chẳng khác gì sức nóng của một luồng nhiệt có thể thiêu đốt mọi vật. Và tên Kỵ Sĩ đã dừng lại, đôi mắt hắn lóe lên. “Thế ra mi cũng đã có một cái rồi.” Hắn khom vai xuống trông thật lạ lùng, còn con ngựa thì hất cao đầu; cả hai dường như đang mạnh hơn lên, cao hơn lên. “Một cái thôi thì chẳng giúp được gì cho mi đâu, chưa đâu,” tên Kỵ Sĩ nói, và hắn cứ cao lớn lên mãi không ngừng, choán hết cả không gian trắng xóa, trong khi con ngựa của hắn hí lên chiến thắng rồi chồm lên, chân trước đạp vào không trung khiến Will chỉ còn cách duy nhất là ép mình sát vào tường. Ngựa và người sừng sững trùm lên trước mặt cậu như một đám mây đen tối che lấp cả tuyết lẫn mặt trời. ẳ Rồi cậu nghe thấy văng vẳng những âm thanh mới và những hình thù đen tối đang vươn cao kia dường như bị đổ sang một bên, bị quét đi bởi một luồng ánh sáng vàng rực, luồng ánh sáng ấy lấp lánh như có hàng nghìn hàng vạn những vòng tròn, những mặt trời và hàng triệu ngôi sao sáng trắng - Will chớp chớp mắt, và đột nhiên nhận ra đó chính là con ngựa bạch cậu gặp ở lò rèn, chính nó cũng đang vươn cao phía trên cậu. Cậu vội vàng chộp lấy cái bờm lượn sóng và trong nháy mắt cậu đã thấy mình ngồi trên cái lưng rộng của con ngựa, rạp người sát cổ nó, tay bám thật chặt hòng giữ lấy mạng của mình. Con ngựa bạch khổng lồ hí lên chói tai rồi nhảy lên, vượt qua những ngọn cây, xuyên qua những đám mây đen không rõ hình thù đang treo im lìm trên khoảng rừng trống như những đám khói; phi nước đại mỗi lúc một nhanh để lướt qua mọi vật, cho đến khi cuối cùng họ cũng ra đến đường cái, đến đường Thung Lũng Thợ Săn, xuyên qua Thung Lũng Thợ Săn. Con ngựa to lớn giảm dần tốc độ, nhảy những bước dài, và Will nghe rõ tiếng tim mình đang đập trong khi cảnh vật lướt qua trước mắt cậu thành một dải trắng mờ. Bỗng nhiên xung quanh họ trời đất chuyển sang màu xám xịt, mặt trời bị che khuất tối sầm lại. Một luồng gió vặn vẹo, luồn vào trong cổ áo, xuyên qua ống tay và cổ giày Will, xé tung mái tóc cậu. Những đám mây xám xịt khổng lồ cuồn cuộn bay từ phía Bắc đến gần cậu, mang theo sấm rung chớp giật; cả bầu trời rung chuyển gầm gào. Vẫn còn một khoảng trời xanh lờ mờ nhưng giờ đây cũng đang thu hẹp dần, hẹp dần. Con ngựa bạch tuyệt vọng rướn mình nhảy đến khoảng trời xanh ấy. Qua vai nó, Will nhìn thấy một hình bóng còn đen tối hơn cả những đám mây khổng lồ kia đang lao về phía họ: tên Kỵ Sĩ, người vươn lên cao sừng sững, hai con mắt to tướng biến thành hai đốm lửa trắng xanh kinh khiếp. Chớp giật, sấm rung như muốn xé toạc bầu trời, và con ngựa bạch vươn người nhảy kịp vào khoảng trời xanh ngay trước khi nó khép lại. Và thế là họ đã được an toàn. Bầu trời trước mặt và trên đầu họ lại xanh thăm thẳm; mặt trời tỏa ánh nắng ấm áp mơn man làn da Will. Cậu thấy họ đã bỏ thung lũng sông Thames lại phía sau. Giờ đây, họ đang bay giữa những sườn đồi uốn lượn của vùng Đồi Chiltern, nơi các đỉnh đồi phủ đầy những loài cây khổng lồ, những cây sồi và cây tần bì. Và len lỏi trên nền tuyết như một đường chỉ mỏng dọc theo chân đồi là những hàng rào, dấu tích còn sót lại của những cánh đồng cổ xưa - rất cổ xưa, Will vẫn luôn biết thế; xưa hơn bất kỳ thứ gì trong thế giới thường ngày của cậu, trừ những ngọn đồi và cây cối. Thế rồi Will nhìn thấy một dấu tích khác trên một ngọn đồi tuyết trắng. Dấu tích ấy cắt xuyên qua tuyết và cỏ, đến tận lớp đá phấn dưới nền đất; sẽ khó mà nhìn ra được nếu nó không quen thuộc đến thế. Nhưng Will đã biết. Đó là hình một vòng tròn, được một chữ thập chia thành bốn phần bằng nhau. Ngay lúc đó, hai bàn tay cậu đang bám chặt vào đám bờm rậm trên cổ con ngựa bất thình lình bị giật mạnh ra, và con ngựa bạch hí lên một hồi dài nhức óc ngay bên tai cậu rồi bỗng nhiên mất hút ở phía xa một cách kỳ lạ. Còn Will thì rơi xuống mãi, rơi mãi; nhưng cậu không cảm thấy cú va đập mà chỉ thấy mình nằm úp mặt xuống tuyết lạnh. Cậu loạng choạng đứng lên, lắc lắc người. Con ngựa trắng đã đi rồi. Bầu trời thật trong xanh và ánh mặt trời sưởi ấm gáy cậu. Cậu đang đứng trên một ngọn đồi tuyết phủ, xa xa vươn lên những hàng cây cao, và hai con chim màu đen đang bay đi bay lại phía trên những ngọn cây. Và trước mặt cậu, đứng sừng sững một mình trên sườn đồi tuyết trắng, không dẫn đến đâu hết, là hai cánh cửa khổng lồ bằng gỗ chạm trổ. Người Tìm Dấu Hiệu Will thọc đôi tay lạnh giá vào túi quần, đứng nhìn chằm chằm lên hai cánh cửa chạm trổ đang đóng chặt, sừng sững trước mặt. Chúng chẳng nói lên điều gì. Cậu chẳng tìm thấy ý nghĩa gì ở những biểu tượng ziczac lặp đi lặp lại thành vô số những họa tiết khác nhau trên đó. Loại gỗ ở hai cánh cửa này không hề giống những loại gỗ cậu đã từng thấy; nó bị nứt và lỗ rỗ nhưng lại bóng lên qua năm tháng, vì thế hầu như không thể nhận ra đó là gỗ nếu không có một số vân tròn nằm rải rác ở những nơi vẫn còn lại vết tích của mắt gỗ. Nếu không có các dấu hiệu đó, chắc Will đã tưởng hai cánh cửa này làm bằng đá. Mắt cậu lướt nhìn ra ngoài mép hai cánh cửa và thấy mọi thứ xung quanh chúng đều rung rung, giống như sự lay động của không khí trên một đống lửa hay trên một con đường nhựa bị hun nóng dưới ánh nắng mùa hè. Nhưng ở đây lại không có sự khác biệt gì về nhiệt độ để giải thích cho hiện tượng này. Không có nắm đấm cửa. Will duỗi hai tay ra, áp lòng bàn tay vào cánh cửa gỗ và đẩy. Khi cánh cửa mở ra dưới tay cậu, cậu tưởng như mình lại thoáng nghe thấy tiếng nhạc giống như chuông ấy; nhưng rồi nó lại biến mất vào khoảng trống mơ hồ giữa ký ức và tưởng tượng. Cậu bước qua cửa, và hai cánh cửa khổng lồ đóng chặt lại ngay sau lưng cậu không một tiếng động, ngay sau đó, ánh sáng ban ngày và cả thế giới xung quanh thay đổi hẳn đến nỗi cậu quên sạch trước đó chúng như thế nào. Bây giờ cậu đang đứng trong một gian sảnh lớn. Ở đây không có ánh mặt trời. Thực ra, trên những bức tường bằng đá sừng sững này không có lấy một chỗ nào gọi là cửa sổ mà chỉ có một chuỗi khe đá hẹp. Trên hai bức tường, nằm giữa những khe đá đó là một dãy thảm lạ mắt và đẹp đến nỗi dường như chúng đang bừng sáng trong cảnh nhập nhoạng. Will bị lóa mắt bởi những con thú, hoa lá và chim muông tuyệt đẹp được thêu hoặc dệt bằng đủ loại màu sắc rực rỡ như tấm kính màu được ánh nắng chiếu vào. Những hình ảnh lướt qua trước mắt cậu; cậu nhìn thấy một con kỳ lân bạc, một cánh đồng hoa hồng đỏ, một vầng mặt trời đang tỏa nắng. Trên đầu cậu, phần mái của những xà nhà uốn vòm cao tít chạy vào trong bóng tối; và góc phòng xa xa cũng đang chìm trong âm u. Cậu mơ màng bước thêm vài bước, chân đi êm ru trên những tấm thảm bằng da cừu trải trên nền đá, và cậu nhìn về phía trước. Ngay lập tức những tia sáng lóe lên và ngọn lửa bùng cháy trong bóng tối, soi rõ một lò sưởi khổng lồ nơi bức tường xa xa, và cậu nhìn thấy những cánh cửa, ghế tựa và một cái bàn lớn vững chãi được chạm trổ. Ở hai bên lò sưởi có hai bóng người đang đứng chờ cậu: một quý bà cao tuổi chống gậy và một người đàn ông cao lớn. “Chào Will, chúc mừng cháu đã đến,” quý bà nói với một giọng nhẹ nhàng và êm dịu, nhưng vẫn vang vọng khắp gian sảnh uốn vòm như tiếng chuông. Bà đưa một bàn tay gầy guộc về phía cậu, và ánh sáng từ lò sưởi lấp lánh trên một chiếc nhẫn rất to, cộm lên trên ngón tay bà như một chiếc vòng cẩm thạch. Bà nhỏ nhắn và mảnh dẻ như một con chim, và mặc dù bà đứng rất thẳng và hoàn toàn minh mẫn, khi nhìn bà Will vẫn có cảm giác bà đã rất nhiều tuổi. Cậu không thể nhìn rõ mặt bà. Cậu dừng lại và tay sờ vào thắt lưng một cách vô thức. Rồi người đàn ông cao lớn đứng bên kia lò sưởi chuyển động, cúi xuống châm một dây nến dài vào ngọn lửa, tiến về phía chiếc bàn rồi bắt đầu châm lửa ở dây nến vào những cây nến cao xếp thành vòng tròn đặt trên đó. Ánh sáng từ ngọn lửa vàng đang tỏa khói nhảy nhót trên mặt ông. Will nhìn thấy một khuôn mặt xương xẩu và rắn rỏi với đôi mắt trũng sâu và chiếc mũi khoằm như mỏ diều hâu; mái tóc bạc bù xù hất ra sau vầng trán rộng, đôi lông mày rậm và cái cằm chìa ra. Mặc dù không hiểu tại sao, nhưng trong lúc cậu quan sát những đường nét bí ẩn và khắc khổ trên khuôn mặt ấy, cái thế giới mà cậu đã sống từ lúc mới lọt lòng dường như quay cuồng, vỡ vụn và trở lại trong một hình hài khác không giống trước nữa. Đứng thẳng dậy, người đàn ông cao lớn nhìn cậu qua những cây nến đang cháy trên một khung tròn như cái bánh xe đặt nằm trên bàn. Ông thoáng mỉm cười, hai mép hơi nhích lên, những vết rạn chân chim hằn sâu dưới mắt. Ông thổi phù một cái để dập tắt dây nến đang cháy. “Vào đi, Will Stanton,” ông nói, và cả chất giọng trầm ấy dường như cũng ăn sâu vào trí nhớ của Will. “Vào đây học nào. Mang cả ngọn nến ấy theo nữa.” Will bối rối liếc nhìn xung quanh. Ở phía tay phải, cậu thấy một cái giá bằng sắt màu đen có chạm trổ cao ngang người cậu, phía trên chia làm ba đỉnh; hai đỉnh có ngôi sao năm cánh bằng sắt ở trên, đỉnh còn lại là một cái giá đỡ một cây nến to màu trắng. Cậu nhấc cây nến lên, nó khá nặng khiến cậu phải cầm bằng cả hai tay, và bước tới chỗ hai người đang đứng đợi ở cuối sảnh. Cậu chớp chớp mắt nhìn xuyên qua ánh lửa, và khi đến gần hơn, cậu nhận ra vòng tròn những cây nến trên bàn vẫn chưa khép kín, một giá đựng nến trong vòng tròn đó vẫn còn trống. Cậu dựa người vào bàn, nắm chặt lấy thân nến cứng và nhẵn, mồi lửa từ một trong những ngọn nến kia, rồi cẩn thận đặt nó vào giá nến còn trống. Cây nến này giống hệt những cây nến còn lại. Chúng đều rất kỳ lạ, kích cỡ không giống nhau nhưng đều lạnh và cứng như đá cẩm thạch trắng; lửa bốc lên rất cao, sáng và không có khói, tỏa ra một thứ mùi hơi giống mùi nhựa thông. Chỉ đến khi ngả về phía sau để đứng thẳng dậy Will mới nhận thấy có hai thanh sắt bắt chéo nhau ở bên trong vòng tròn nến. Ở đây, cũng giống như ở tất cả những chỗ khác, dấu hiệu đó lại xuất hiện: hình chữ thập bên trong vòng tròn, hình quả cầu bị chia làm bốn. Bây giờ cậu còn thấy có những giá nến khác trong cái khung đó: hai trên mỗi thanh cửa hình chữ thập và một ở điểm cắt giữa hai thanh. Nhưng tất cả đều còn trống. Quý bà khoan thai ngồi xuống chiếc ghế tựa bên cạnh lò sưởi. “Rất tốt,” bà nhẹ nhàng nói vẫn với cái giọng thánh thót đó. “Cảm ơn Will.” Bà mỉm cười, mặt chằng chịt nếp nhăn như mạng nhện, và Will cũng toét miệng cười đáp lại. Cậu không hiểu tại sao đột nhiên mình lại thấy rất vui sướng như vậy, dường như điều này quá tự nhiên đến mức không cần phải thắc mắc. Cậu ngồi xuống chiếc ghế đẩu trước lò sưởi, giữa hai chiếc ghế tựa, nó rõ ràng được dành cho cậu. “Cánh cửa,” cậu nói, “hai cánh cửa lớn mà cháu vừa đi qua ấy ạ. Tại sao chúng lại tự đứng được?” “Cánh cửa à?” Quý bà hỏi. Có điều gì đó trong giọng nói của bà khiến Will phải quay nhìn lại bức tường phía xa nơi cậu vừa bước vào: bức tường với hai cánh cửa khổng lồ và chiếc giá mà cậu vừa lấy nến ở đó. Cậu nhìn chằm chằm; có cái gì đó không bình thường. Hai cánh cửa gỗ đồ sộ đã biến mất. Bức tường xám trải dài trơ trụi, những phiến đá vuông lớn chẳng có gì đặc biệt trừ một cái khiên tròn bằng vàng, treo trơ trọi trên cao, tỏa sáng mờ mờ dưới ánh lửa lò sưởi. Người đàn ông cao lớn bật cười khe khẽ. “Chẳng có cái gì thực chất giống như bề ngoài đâu, cậu bé. Đừng mong đợi điều gì và đừng sợ điều gì, ở đây hay ở bất kỳ nơi nào khác. Đây là bài học đầu tiên của cậu. Đây cũng là bài thực hành đầu tiên của cậu. Chúng ta đang có Will Stanton ở đây, trước mặt chúng ta - hãy kể cho chúng ta biết chuyện gì đã xảy ra với cậu ấy, ngày hôm qua hoặc hôm kia.” Will nhìn những ngọn lửa đang giục giã, ấm áp và ân cần mơn man khuôn mặt cậu trong căn phòng lạnh giá. Cậu phải cố gắng lắm mới có thể nhớ lại được những gì đã xảy ra từ lúc cậu và James rời nhà đến Trại Dawson lấy cỏ khô - cỏ khô! - chiều hôm trước. Cậu ngạc nhiên nghĩ về tất cả mọi thứ đã xảy ra với cậu từ lúc ấy cho đến giây phút này. Một lát sau, cậu nói: “Dấu Hiệu. Vòng tròn với chữ thập. Hôm qua bác Dawson đã đưa cho cháu dấu hiệu này. Rồi Kẻ Lang Thang đi theo cháu, hoặc là cố gắng bám theo, và sau đó chúng - cho dù chúng là ai đi chăng nữa - chúng đã cố bắt cháu.” Cậu nuốt nước bọt, thấy ớn lạnh khi nhớ lại đêm kinh hoàng ấy. “Để lấy dấu hiệu. Chúng muốn có nó, mọi thứ đều xoay quanh nó hét. Hôm nay cũng vậy, mặc dù phức tạp hơn nhiều vì bây giờ không phải là hiện tại mà là một thời gian nào đó, mà cháu không biết là khi nào. Mọi thứ như trong mơ, nhưng lại là sự thực… Chúng vẫn đuổi theo dấu hiệu này. Cháu không biết chúng là ai, trừ tên Kỵ Sĩ và Kẻ Lang Thang. Cháu cũng không biết ông bà là ai, chỉ biết ông bà đang chống lại những kẻ đó. Ông bà, bác Dawson và bác John Wayland Smith.” Cậu dừng lại. “Tiếp tục đi,” giọng trầm trầm lại vang lên. “Wayland?” Will bối rối nói tiếp. “Cái tên lạ quá. Đó không phải là tên đệm của bác John mà. Điều gì đã làm cháu nói như vậy chứ?” “Ký ức chứa đựng được nhiều điều hơn chúng tưởng,” người đàn ông cao lớn nói. “Đặc biệt là ký ức của cậu. Thế cậu còn chuyện gì khác để kể không?” “Cháu không biết,” Will trả lời. Cậu nhìn xuống và di ngón tay dọc theo mép ghế; nó được chạm trổ những hình hơi lượn sóng đều đặn như một mặt biển thanh bình. “À, thực ra là có. Hai điều. Một là ở Kẻ Lang Thang có điều gì đó lạ lắm. Cháu không nghĩ hắn là một người trong bọn họ, bởi vì khi nhìn thấy tên Kỵ Sĩ hắn đã sợ rúm lại và bỏ chạy.” “Thế còn chuyện thứ hai là gì?” Người đàn ông to cao hỏi. Đâu đó trong bóng tối của căn phòng lớn vang lên tiếng chuông đồng hồ, âm thanh trầm như bị kìm lại: một tiếng chuông duy nhất, báo hiệu nửa giờ. “Tên Kỵ Sĩ ạ,” Will nói. “Khi tên Kỵ Sĩ nhìn thấy Dấu Hiệu này, hắn ta nói ‘Thế ra mi cũng đã có được một cái rồi.’ Trước đấy hắn không biết cháu đã có nó. Nhưng hắn vẫn bám theo cháu. Săn đuổi cháu. Tại sao thế ạ?” “Đúng vậy,” quý bà cất lời. Bà nhìn cậu vẻ buồn buồn. “Hắn săn đuổi cháu. Ta e rằng trong thâm tâm cháu đã đoán đúng, Will ạ. Cái chúng muốn nhất không phải là cái dấu hiệu ấy. Mà là cháu.” Người đàn ông cao lớn đứng đậy, đi ngang qua phía sau Will, một tay để lên thành ghế tựa của quý bà còn tay kia đút vào túi chiếc áo khoác cao cổ màu đen ông đang mặc. “Hãy nhìn ta, Will,” ông nói. ánh sáng từ vòng tròn nến đang cháy trên bàn nhảy nhót trên mái tóc bạc và làm đôi mắt sâu thẳm lạ lùng của ông càng trở nên sâu hơn, như hai vực sâu trên khuôn mặt xương xương. “Tên ta là Merriman Lyon,” ông nói. “Xin đón chào cậu, Will Stanton. Chúng ta đã đợi cậu lâu lắm rồi.” “Cháu biết ông,” Will nói. “Ý cháu là… trông ông… cháu cảm thấy… cháu có biết ông không ạ?” “Theo một nghĩa nào đó thì có,” ông Merriman nói. “Có thể nói, cậu và ta giống nhau. Chúng ta đều được sinh ra với cùng một năng lực và cho cùng một mục đích cao cả. Và cậu đang ở đây, tại thời điểm này, Will ạ, để bắt đầu hiểu rằng mục đích đó là gì. Nhưng trước hết cậu cần được dạy về năng lực đó.” Mọi thứ dường như diễn ra quá nhanh, quá xa. “Cháu không hiểu,” Will nói, lo lắng nhìn khuôn mặt rắn rỏi, chăm chú của người đàn ông ấy. “Cháu không có bất kỳ năng lực nào cả, thật sự không có. Ý cháu là cháu chẳng có gì đặc biệt cả.” Cậu nhìn hết người này lại đến người kia, hai bóng hình lúc sáng lúc tối bởi ánh lửa và ánh nến đang nhảy nhót, và cậu bắt đầu nhận thấy một nỗi sợ hãi đang lớn dần, một cảm giác bị mắc bẫy. Cậu nói: “Đó chỉ là những chuyện đã xảy ra với cháu, thế thôi.” “Hãy nghĩ lại đi, và hãy nhớ đến một vài sự kiện trong chuyện này,” quý bà nói. “Hôm nay là sinh nhật cháu. Ngày Đông Chí, ngày Đông Chí lần thứ mười một của cháu. Hãy nhớ lại ngày hôm qua xem, Đêm trước Đông Chí lần thứ mười của cháu, trước khi cháu nhìn thấy dấu hiệu lần đầu tiên. Không có điều gì đặc biệt xảy ra à? Không có gì mới à?” Will ngẫm nghĩ. “Các con vật đều sợ cháu,” cậu miễn cưỡng nói. “Và có lẽ lũ chim cũng vậy. Nhưng lúc ấy thì có vẻ như điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.” “Và nếu có một cái đài hay một cái tivi đang bật ở trong nhà,” ông Merriman nói. “Thì nó sẽ kêu rất lạ bất cứ khi nào cậu đến gần phải không?” Will nhìn ông chằm chằm. “Cái đài cứ réo ầm lên. Làm sao ông biết chuyện đó? Cháu tưởng đó là do nhiễu sóng hay gì đó chứ.” Ông Merriman mỉm cười. “Theo một cách nào đó. Theo một cách nào đó.” Rồi ông lại trở nên nghiêm nghị. “Giờ thì hãy lắng nghe nhé. Năng lực mà ta nói tới đó, nó chính là một quyền năng, ta sẽ cho cậu thấy. Đó là quyền năng của những Cổ Nhân, những người có tuổi đời tương đương với mảnh đất này hoặc thậm chí còn hơn. Cậu được sinh ra để kế thừa quyền năng đó khi cậu vừa qua tuổi thứ mười. Vào đêm trước sinh nhật cậu, quyền năng đó bắt đầu trỗi dậy, và giờ đây vào ngày sinh nhật cậu, nó đã được giải phóng, phát triển và trưởng thành. Nhưng nó vẫn còn đang lúng túng và chưa định hướng được vì cậu vẫn chưa biết cách kiểm soát nó một cách đúng đắn. Cậu cần phải được huấn luyện để biết cách điều khiển nó, trước khi nó có thể định hình và hoàn thành sứ mệnh mà vì nó cậu đã có mặt ở đây. Đừng nhăn nhó như thế, cậu bé. Đứng dậy. Ta sẽ cho cậu thấy nó có thể làm được gì.” Will đứng dậy, và quý bà mỉm cười khuyến khích cậu. Cậu đột ngột hỏi: “Bà là ai?” “Quý bà đây…” ông Merriman bắt đầu. “Quý bà đây đã già lắm rồi,” bà nói bằng một chất giọng trẻ trung trong trẻo, “và trong đời mình bà ấy từng có rất nhiều, rất nhiều tên gọi. Có lẽ, Will ạ, bây giờ tốt nhất cậu cứ gọi ta là - lão bà.” “Vâng ạ, thưa bà,” Will đáp, và ngay khi bà cất tiếng, cảm giác vui sướng lại tràn trề trong lòng cậu, nỗi lo lắng đang dâng lên bỗng lắng dịu, và cậu đứng thẳng dậy, háo hức nhìn vào khoảng tối đằng sau chiếc ghế của bà, nơi ông Merriman đã lùi về phía sau một vài bước. Cậu có thể nhìn thấy ánh sáng mờ mờ của mái tóc bạc trên một dáng người cao lớn, nhưng tất cả chỉ có thế. Giọng nói trầm trầm của ông Merriman vang lên từ trong bóng tối. “Đứng im tại chỗ. Nhìn vào bất cứ chỗ nào cậu thích nhưng không nhìn quá kỹ, không tập trung vào một cái gì. Hãy để tâm trí cậu được bay bổng tự do, hãy vờ như cậu đang trong một giờ học buồn tẻ ở trường.” Will bật cười và đứng đó thư giãn, ngả đầu về phía sau. Cậu liếc mắt nhìn lên, chậm rãi phân biệt những chiếc xà, rầm đen sì đan chéo nhau trên trần nhà cao tít và bóng của chúng in thành những vạch đen mờ ảo. Ông Merriman bất chợt nói: “Ta đang đặt một bức tranh vào đầu cậu. Hãy kể xem cậu nhìn thấy gì.” Hình ảnh hiện lên trong đầu Will thật tự nhiên như thể cậu định vẽ một phong cảnh tưởng tượng và đang hình dung ra nó trước khi vẽ lên giấy. Cậu miêu tả từng chi tiết khi chúng hiện lên trong đầu cậu. “Có một sườn đồi cỏ xanh mướt, vươn ra biển, giống như một vách đá thoai thoải. Bầu trời xanh mênh mông và bên dưới là nước biển xanh sẫm hơn. Thấp hẳn xuống phía dưới, nơi biển giao với đất liền có một dải cát vàng óng ánh tuyệt đẹp. Từ mũi đất cỏ xanh mướt ấy vào trong đất liền - đứng ở đây chỉ có thể nhìn thấy nó ở khóe mắt - là những quả đồi, những quả đồi mờ trong sương. Chúng có màu tím nhạt, còn sườn đồi hòa vào làn sương mù xanh mờ, giống như cái cách mà màu trong tranh vẽ nhòa vào nhau nếu bị ướt. Và,” cậu thoát ra khỏi tình trạng thôi miên nửa chừng đó và nghiêm túc hướng ánh mắt về phía ông Merriman, nhìn xuyên qua bóng tối với vẻ quan tâm đầy tò mò “và đó là một bức tranh buồn. Ông nhớ phong cảnh đó, dù cho nó ở đâu chăng nữa thì ông cũng đang nhớ nhà. Nó ở đâu vậy ạ?” “Đủ rồi,” ông Merriman hấp tấp nói, nhưng giọng ông có vẻ hài lòng. “Cậu làm tốt lắm. Bây giờ đến lượt cậu. Hãy cho ta thấy một bức tranh. Chỉ cần chọn một phong cảnh bình thường nào đó, bất kỳ cái gì, và nghĩ xem nó trông thế nào, như thể cậu đang đứng nhìn nó vậy.” Will nghĩ tới hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong đầu. Bây giờ cậu mới nhận ra suốt thời gian đó, đây chính là điều làm cậu bứt rứt trong sâu thẳm tâm trí: hình ảnh về hai cánh cửa khổng lồ chơ vơ trên sườn đồi tuyết phủ, với những chi tiết chạm trổ cầu kỳ, và phần mép cửa nhòa đi một cách khác thường. Ông Merriman lập tức cắt ngang: “Không phải cánh cửa. Không phải cái gì gần đến thế. Một nơi nào đó trong cuộc sống của cậu trước mùa đông này.” Will bối rối nhìn ông chằm chằm trong giây lát; rồi cậu nuốt nước bọt một cách khó khăn, nhắm mắt lại và nghĩ về cửa hàng kim hoàn của cha cậu ở thị trấn nhỏ Eton. Ông Merriman chậm rãi mô tả: “Tay nắm cửa có dạng đòn bẩy, là một thanh tròn, đẩy xuống khoảng mười độ sẽ mở được cửa. Một chiếc chuông nhỏ treo phía trên sẽ rung lên khi cánh cửa mở ra. Cậu đưa chân xuống một chút, chạm vào sàn nhà, cú bước hụt có thể khiến giật mình nhưng không nguy hiểm. Xung quanh tường là một dãy các tủ kính trưng bày, bên dưới là một quầy thanh toán cũng bằng kính - tất nhiên rồi, đây chắc hẳn là cửa hàng của cha cậu. Bên trong có một số món đồ rất đẹp. Ở góc trong cùng có một chiếc đồng hồ quả lắc cổ lỗ, mặt ngoài quét sơn và có tiếng tích tắc nhỏ, chậm rãi. Trong tủ trưng bày chính giữa có một chuỗi vòng cổ bằng ngọc lam khảm hình những con mãng xà bạc: ta đoán là sản phẩm của bộ tộc Zuni[3], nó đã cách quê hương một đoạn đường khá xa đấy. Một mặt dây chuyền bằng ngọc lục bảo như một giọt nước mắt xanh khổng lồ. Một mô hình nhỏ tuyệt đẹp bằng vàng của một lâu đài thời Thập Tự Chinh - có lẽ là hộp đựng muối - ta đoán từ nhỏ cậu đã rất thích nó. Và người đàn ông đằng sau quầy thanh toán, dáng người thấp, khuôn mặt hiền lành và vuí vẻ chính hẳn là cha cậu, ông Roger Stanton. Thật thú vị khi cuối cùng cũng nhìn rõ ông ấy, thoát khỏi lớp sương mù ấy… Ông ấy đeo một cái kính của thợ kim hoàn và đang nhìn một chiếc nhẫn: một chiếc nhẫn bằng vàng cũ có chín viên đá quý nhỏ xíu xếp thành ba hàng: ba hạt kim cương ở giữa và ba hạt hồng ngọc ở mỗi bên, và có vài dòng chữ rune[4] ở bên cạnh mà ta nghĩ sẽ ta sẽ phải nhìn kỹ hơn vào một ngày gần đây…” “Ông nhìn được cả cái nhẫn!” Will ngây ngất nói. “Đó là nhẫn của mẹ, lần gần đây nhất cháu đến cửa hàng thì bố cháu đang xem nó. Mẹ cháu nghĩ là một viên đá đã bị lỏng ra, nhưng bố cháu nói đó chỉ là ảo giác thôi… Làm sao ông lại làm được chuyện đó?” “Làm gì?” Trong giọng nói trầm trầm ấy có một vẻ mềm mỏng đáng lo ngại. “Thì… chuyện đó. Đưa hình ảnh vào đầu cháu. Và rồi nhìn thấy hình ảnh mà cháu nghĩ trong đầu. Thần giao cách cảm, có phải người ta gọi nó như vậy không ạ? Thật phi thường.” Nhưng trong thâm tâm, cậu bắt đầu cảm thấy không thoải mái. “Được thôi,” ông Merriman kiên nhẫn nói. “Ta sẽ cho cậu xem quyền năng bằng một cách khác. Trên chiếc bàn cạnh cậu có một vòng tròn nến, Will Stanton ạ. Nào… Cậu có biết bất cứ cách nào để dập tắt một trong những ngọn nến kia mà không cần thổi hay dùng nước, không dùng dụng cụ dập nến hay dùng tay không?” “Không ạ.” “Đúng. Chẳng có cách nào cả. Nhưng bây giờ ta cho cậu biết rằng cậu có thể làm được điều đó chỉ đơn giản bằng cách mong cho nó xảy ra, vì cậu là cậu. Với năng lực mà cậu có, đó là một việc rất dễ dàng. Nếu cậu chọn trong đầu một trong những ngọn nến kia và thậm chí không nhìn mà chỉ nghĩ về nó thôi, nghĩ về nó và yêu cầu nó tắt đi, thì ngọn nến đó sẽ tắt. Liệu bất kỳ một cậu bé bình thường nào có thể làm được điều đó không?” “Không,” Will trả lời chẳng mấy vui vẻ. “Làm đi,” ông Merriman nói. “Ngay bây giờ.” Căn phòng đột nhiên trở nên lặng ngắt, nặng nề như có một tấm màn nhung phủ lên. Will có thể cảm thấy cả hai người đang quan sát mình. Cậu tuyệt vọng nghĩ: Mình sẽ thoát ra khỏi chuyện này, mình sẽ nghĩ về một ngọn lửa, nhưng không phải một trong những ngọn nến đó; nó sẽ là một cái gì đó lớn hơn, một cái gì đó không thể tắt được trừ phi có một phép thần vĩ đại nào đó mà thậm chí cả ông Merriman cũng không biết… Cậu nhìn quanh căn phòng, nhìn ánh sáng và bóng tối đang cùng nhau nhảy nhót trên những tấm thảm sặc sỡ treo trên tường đá, và cậu nghĩ với mức độ tập trung ghê gớm về hình ảnh ngọn lửa đang bừng bừng bốc lên từ đám củi trong cái lò sưởi to tướng đằng sau cậu. Cậu cảm thấy hơi ấm của ngọn lửa tỏa trên gáy, nghĩ về phần chính giữa của đống củi khổng lồ đang rực lên thứ ánh sáng màu cam và những lưỡi lửa vàng đang nhảy múa. Tắt đi, ngọn lửa, cậu nói thầm trong đầu, đột nhiên cảm thấy an toàn và thoát khỏi những đe dọa của cái quyền năng đó, vì tất nhiên chẳng đời nào một ngọn lửa lớn như vậy lại có thể vô cớ tắt đi. Ngọn lửa, không cháy nữa. Tắt đi. Và ngọn lửa tắt. Ngay lập tức cả căn phòng lạnh buốt - và tối hơn. Vòng tròn nến trên bàn vẫn đang cháy, tỏa ra một vầng sáng duy nhất nhỏ nhoi, lạnh lẽo. Will quay phắt lại, kinh hoàng chằm chằm nhìn lò sưởi; không có dấu vết nào của khói, của nước, hay của bất kỳ thứ gì có thể làm cho ngọn lửa tắt. Nhưng nó đã tắt hoàn toàn, lạnh và tối, không một đốm lửa nào sót lại. Cậu từ từ đi về phía lò sưởi. Ông Merriman và quý bà không nói một lời và cũng không cử động. Will cúi người xuống, sờ vào những thanh củi đen trong lò sưởi, và chúng đều lạnh như đá - nhưng vẫn phủ một lớp tro mới, lớp tro ấy rơi xuống thành những hạt bụi trắng dưới ngón tay cậu. Cậu đứng dậy, chậm chạp xoa tay vào ống quần, hoang mang nhìn ông Merriman. Đôi mắt sâu thẳm của ông sáng rực lên như một ngọn nến màu đen, nhưng trong đó vẫn chan chứa sự cảm thông, và khi Will lo lắng liếc sang phía quý bà, cậu cũng nhận thấy nét nhân hậu trên khuôn mặt ấy. Bà dịu dàng nói: “Không khí hơi lạnh, Will à.” Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi chỉ vừa bằng một suy nghĩ chớp nhoáng, Will cảm thấy nỗi sợ hãi gào thét trong lòng, cảm thấy trỗi dậy ký ức về những giây phút kinh hoàng mà cậu đã trải qua trong đêm bão tuyết rùng rợn đen tối đó, rồi nỗi sợ ấy tan biến và cùng với nó, tâm hồn cậu dần trở lại bình lặng, cậu thấy mình dường như khỏe hơn, lớn hơn và thoải mái hơn. Cậu biết rằng dù cái quyền năng ấy là gì đi nữa thì trong một chừng mực nào đó cậu đã bắt đầu chấp nhận nó, thứ mà cậu đã khăng khăng phủ nhận và giờ đây cậu biết cậu phải làm gì. Hít một hơi thật sâu, cậu vươn vai, đứng thẳng và vững chãi giữa căn phòng lớn. Cậu mỉm cười với quý bà; rồi hướng cái nhìn vô định ra xa hơn và tập trung vào hình ảnh ngọn lửa. Quay lại nào, ngọn lửa, cậu nói thầm trong đầu. Cháy lại đi. Và ánh sáng lại nhảy múa trên những bức tường treo thảm, hơi ấm của ngọn lửa lại phả vào gáy cậu, lửa đã cháy trở lại. “Cảm ơn cháu,” quý bà nói. “Làm tốt lắm,” ông Merriman nhẹ nhàng nói, và Will hiểu ông không chỉ nói đến mỗi việc cậu đã dập tắt rồi lại đốt cháy được ngọn lửa. “Đó là một gánh nặng,” ông Merriman nói. “Đừng bao giờ nhầm lẫn về điều đó. Bất kỳ một năng lực, sức mạnh, hay tài năng vĩ đại nào cũng đều là một gánh nặng, và quyền năng này còn nặng nề hơn bất kỳ điều gì khác, và rồi cậu sẽ thường xuyên mong ước được thoát khỏi nó. Nhưng không thể thay đổi được gì đâu. Nếu cậu được sinh ra cùng vơi năng lực ấy thì cậu phải phục vụ nó, dù ở thế giới này hay bất kỳ nơi nào khác thì cũng không gì có thể ngăn cản cậu phụng sự nó được, bởi vì đó chính là lý do mà cậu có mặt trên đời và đó là Luật. Và, Will ạ, sẽ càng tốt hơn cho cậu nếu cậu chỉ có khái niệm mơ hồ về sự tồn tại cái năng lực đó của mình, vì cho đến khi đã trải qua hết những thử thách về kiến thức đầu tiên thì trước mắt cậu vẫn còn nhiều mối đe dọa lớn. Và cậu biết càng ít về ý nghĩa quyền năng của mình thì nó sẽ càng dễ bảo vệ cậu hơn, giống như nó đã làm suốt mười năm qua.” Ông nhìn chằm chằm vào đống lửa trong giây lát, nhíu mày, “Ta sẽ chỉ nói cho cậu biết điều này: cậu là một trong các Cổ Nhân, là người đầu tiên được sinh ra trong vòng năm trăm năm nay, và cũng là người cuối cùng. Cũng giống như những Cổ Nhân khác, cậu sinh ra là để cống hiến hết mình cho cuộc tranh đấu lâu dài giữa Ánh Sáng và Bóng Tối. Sự ra đời của cậu, Will ạ, đã hoàn thành một vòng tròn vốn phát triển từ bốn ngàn năm trước ở mọi vùng cổ xưa nhất trên mảnh đất này: vòng tròn các Cổ Nhân. Bây giờ, khi cậu đã nắm được quyền năng của mình, nhiệm vụ của cậu là bảo vệ vòng tròn đó khỏi bị hủy diệt. Sứ mệnh của cậu là tìm ra và bảo vệ sáu Dấu Hiệu Ánh Sáng vĩ đại đã được các Cổ Nhân tạo ra trong hàng thế kỷ, chúng chỉ hợp lực được khi vòng tròn đã khép kín. Dấu Hiệu đầu tiên đang nằm trên thắt lưng của cậu rồi, nhưng việc tìm được những Dấu Hiệu còn lại không hề dễ dàng. Cậu là Người Tìm Dấu Hiệu, Will Stanton à. Đó là sứ mệnh của cậu, là cuộc tìm kiếm đầu tiên của cậu. Nếu cậu hoàn thành được việc đó, cậu sẽ thức tỉnh một trong ba sức mạnh vĩ đại mà các Cổ Nhân sớm phải dùng đến để đánh bại thế lực Bóng Tối, cái thế lực hiện giờ đang không ngừng lén lút vươn ra khắp thế giới này.” Nhịp điệu giọng nói của ông lúc lên bổng lúc xuống trầm và càng lúc càng nghiêm nghị, dần biến thành một lời kêu gọi chiến đấu; một yêu cầu, Will bất chợt nghĩ, cảm thấy lạnh tê người khi nghĩ tới những điều vượt ra ngoài căn phòng lớn này, vượt xa hẳn cả khoảng thời gian lời kêu gọi này đang phát ra. “Vì Bóng Tối, Bóng Tối đang trỗi dậy. Kẻ Lang Thang đã lên đường, Kỵ Sĩ đã lên ngựa; chúng đều đã thức giấc, Bóng Tối đang trỗi dậy. Và người cuối cùng của Vòng Tròn đã xuất hiện để khẳng định chính mình, và đã đến lúc các vòng tròn phải được hợp lực. Ngựa trắng phải gặp được Thợ Săn, dòng sông phải đổ về thung lũng; phải có lửa trên núi cao, lửa dưới đá thẳm và lửa khắp biển khơi. Lửa để thiêu rụi Bóng Tối, vì Bóng Tối, Bóng Tối đang trỗi dậy!” Ông đứng đó, lừng lững như một thân cây trong căn phòng tối, giọng nói trầm trầm vang vọng, và Will không thể rời mắt khỏi ông. Bóng Tối đang trỗi đậy. Đó chính là điều cậu cảm thấy tối qua. Đó cũng là điều bây giờ cậu lại cảm thấy, một cảm giác mơ hồ về cái xấu xa đang châm vào các đầu ngón tay và đỉnh cột sống cậu, nhưng dù có chết cậu cũng không thể thốt ra được một lời. Ông Merriman nói, bằng một giọng du dương thật kỳ lạ so với thân hình cao lớn của ông, tựa như một chú học trò đang đọc bài: Khi Bóng Tối trỗi dậy; sáu vật đẩy lùi ngay, Ba từ vòng tròn đến, ba từ giữa đường ra; Gỗ, đồng và sắt; nước, lửa và đá; Năm vật quay trở lại, một lẻ loi lên đường. Rồi ông bước ra khỏi bóng tối, đi qua quý bà lúc này vẫn ngồi yên trên chiếc ghế tựa, đôi mắt sáng rực; một tay ông nhấc một ngọn nến trắng to ra khỏi vòng tròn nến đang cháy, còn tay kia xoay người Will về phía những bức tường cao ngất. “Nhìn thật kỹ, từng chút một, Will nhé,” ông nói. “Các Cổ Nhân sẽ cho cậu thấy một điều gì đó vè chính họ, và sẽ đánh thức phần sâu thẳm nhất trong cậu. Mỗi lần nhìn một thứ.” Và cùng với Will bên cạnh, ông sải những bước dài quanh căn phòng, hết lần này đến lần khác giơ cao ngọn nến trước từng tấm thảm treo trên tường. Mỗi lần như vậy, như thể được ông sai khiến, một hình ảnh trên tấm thảm thêu hình vuông lại sáng bừng lên trong giây lát, rạng rỡ và sâu thẳm tựa như khung cảnh dưới ánh sáng mặt trời ngoài ô cửa sổ. Và Will đã thấy. Cậu thấy một cây táo gai nở hoa trắng muốt, mọc lên từ một mái nhà lợp rạ. Cậu thấy bốn cột đá xám khổng lồ trên một mũi đất xanh rì vươn ra phía biển. Cậu nhìn thấy một cái sọ ngựa trắng nhởn không còn mắt nhe răng nhăn nhở, trên đó là một cái sừng mập, ngắn nứt toác mọc từ cái trán còn toàn xương và những dải ruy băng đỏ treo trên cái mõm dài. Cậu thấy tia chớp đang đánh vào một cây sồi cổ thụ và sau ánh chớp, một ngọn lửa khổng lồ bùng cháy trên sườn đồi trọc giữa nền trời đen kịt. Cậu thấy khuôn mặt một thằng bé không lớn tuổi hơn cậu là mấy, đang tò mò nhìn cậu chằm chằm: một khuôn mặt đen dưới mái tóc đen, với cặp mắt kỳ lạ nhìn như mắt mèo, viền ngoài đồng tử nhạt màu nhưng bên trong con ngươi hầu như là màu vàng. Cậu thấy một dòng sông rộng đang cuồn cuộn dâng nước lên và bên cạnh là một ông già gầy đét cưỡi một con ngựa lớn. Khi ông Merriman liên tục xoay người cậu từ bức tranh này sang bức tranh khác, đột nhiên cậu nhìn thấy, trong một thoáng kinh hoàng, hình ảnh sáng nhất: một người đàn ông đeo mặt nạ với khuôn mặt người, đầu hươu, mắt cú, tai sói, và mình ngựa. Hình người đó đã chạm tới phần ký ức sâu thẳm đã bị lãng quên nào đó trong tâm trí cậu. “Hãy nhớ những hình ảnh này,” ông Merriman nói. “Chúng sẽ là sức mạnh.” Will gật đầu, rồi cứng người lại. Đột nhiên cậu nghe thấy những âm thanh đang lớn dần bên ngoài căn phòng, và sững người nhận ra lý do khiến vừa rồi cậu cảm thấy khó chịu đến thế. Trong lúc quý bà vẫn ngồi bất động trên ghế, còn cậu và ông Merriman lại ra đứng cạnh lò sưởi thì gian đại sảnh bỗng tràn ngập những tiếng rên rỉ, lầm bầm và than vãn thê thảm như tiếng kêu của những con vật bị cầm tù trong một vườn bách thú quỷ quái. Đó là âm thanh ghê rợn hơn bất kỳ thứ âm thanh nào cậu từng nghe. Tóc gáy Will dựng ngược lên, nhưng rồi đột nhiên không gian lại yên ắng. Một thanh củi trong lò sưởi lách tách rơi xuống. Will nghe thấy mạch máu mình đang rần rật. Và trong im lặng, một âm thanh mới vọng vào từ đâu đó ngoài kia, phía sau bức tường xa xa: tiếng rên van vỉ đầy đau đớn của một con chó bị bỏ rơi đang hoảng hốt cầu khẩn sự giúp đỡ và tình bạn. Nó giống hệt tiếng con Raq và con Ci, hai con chó của nhà cậu, khi chúng mới là những con chó con, kêu lên để tìm sự an ủi trong bóng tối. Will thấy lòng mình tràn đầy thương cảm và theo bản năng quay người về phía phát ra âm thanh đó. “Ôi, nó đang ở đâu thế? Con vật tội nghiệp…” Khi cậu nhìn vào lớp đá trống trơn trên bức tường xa xa đó, cậu thấy một cánh cửa đã được định hình. Nó không giống hai cánh cửa khổng lồ đã biến mất khi cậu mới bước vào đây, mà nhỏ hơn nhiều; một cánh cửa bé xíu, lạ lùng, trông chẳng phù hợp với nơi này chút nào. Nhưng cậu biết rằng cậu có thể mở nó ra để giúp con chó đáng thương đang cầu khẩn kia. Con vật lại tiếp tục rên rỉ với vẻ đau khổ còn lớn hơn trước, to hơn, khẩn nài hơn, gần như thành một tiếng tru tuyệt vọng. Will hấp tấp quay người chạy ra cửa; nhưng rồi khựng lại giữa chừng khi thấy tiếng ông Merriman. Giọng ông nhẹ nhàng nhưng lạnh băng như đá mùa đông. “Đợi đã. Nếu cậu nhìn thấy con chó u sầu tội nghiệp đó, cậu sẽ rất ngạc nhiên đấy. Và đó sẽ là thứ cuối cùng cậu có thể nhìn thấy trên cõi đời này.” Hoài nghi, Will đứng yên và chờ đợi. Tiếng rên rỉ tắt lịm trong hồi tru cuối cùng. Trong giây lát không gian chìm trong yên lặng. Rồi đột nhiên cậu nghe thấy tiếng mẹ cậu vọng từ sau cánh cửa. “Will? Wiii…iill ơi… Đến đây giúp mẹ với, Will!” Đúng là tiếng mẹ cậu không lẫn vào đâu được, nhưng trong giọng nói ấy lại tràn ngập một cảm xúc khác thường: có một thoáng sợ hãi bị kìm nén khiến cậu kinh hoàng. Tiếng kêu lại vọng đến. “Will à? Mẹ cần con… Con đang ở đâu, Will? Ôi, xin con, Will, đến giúp mẹ đi với…” Và cuối cùng là một tiếng tắc nghẹn đau khổ, nghe như tiếng nức nở. Will không thể chịu được nữa. Cậu lao về phía cửa. Giọng ông Merriman gọi với theo nghe như tiếng roi quất. “Dừng lại!” “Nhưng cháu phải đi, ông không nghe thấy tiếng mẹ cháu à?” Will hét lên giận dữ. “Chúng đã bắt được mẹ cháu: cháu phải cứu…” “Đừng mở cánh cửa đó!” Trong giọng nói trầm trầm của ông Merriman ẩn chứa một sự tuyệt vọng mách bảo bản năng của Will rằng khi nguy kịch nhất, ông không đủ quyền năng để ngăn được cậu. “Đó không phải là mẹ cháu đâu, Will,” quý bà nói rành mạch. “Xin con, Will!” Giọng mẹ cậu lại khẩn khoản. “Con đến đây!” Will chạy tới cái then cửa nặng nề, nhưng do vội vàng, cậu loạng choạng va vào cái giá đựng nến to tướng cao ngang đầu làm cánh tay cậu đập mạnh vào bên sườn, cẳng tay cậu đột nhiên đau rát, cậu thét lên và ngã xuống nền, nhìn chằm chằm vào phía bên trong cổ tay, nơi dấu hiệu mang hình một vòng tròn bị chia tư in thành vết bỏng đỏ ửng. Một lần nữa chính biểu tượng bằng sắt cậu đeo trên dây thắt lưng ấy đã ngăn cậu lại bằng cái lạnh buốt ghê gớm; lần này nó làm cậu phát bỏng với cái lạnh như băng tuyết, một lời cảnh báo đầy giận dữ về sự hiện diện của thế lực xấu xa - sự hiện diện mà Will cũng đã cảm thấy nhưng lại quên mất. Ông Merriman và quý bà vẫn không nhúc nhích. Will loạng choạng đứng lên và lắng nghe, trong khi bên ngoài cánh cửa, tiếng mẹ cậu vẫn than khóc, rồi trở nên giận dữ, rồi đe dọa; rồi lại nhẹ nhàng tỉ tê, dỗ dành ngon ngọt; và cuối cùng cũng ngừng lại, tắt dần trong tiếng khóc nức nở làm cậu tan nát cõi lòng dù lý trí và cảm giác nói với cậu rằng đây không phải là thực. Và cánh cửa cũng mờ dần cùng tiếng khóc, biến mất như sương khói, cho đến khi bức tường đá xám liền lại thành một khối như trước. Bên ngoài, những tiếng rên rỉ, gào thét man dại không giống tiếng người lại bắt đầu. Quý bà đứng dậy và bước ngang qua phòng, chiếc váy màu xanh lá cây của bà kêu sột soạt nhè nhẹ theo bước chân. Bà đưa cả hai tay cầm lấy cánh tay bị đau của Will và đặt lòng bàn tay phải mát lạnh lên trên đó. Rồi bà thả tay ra. Cảm giác đau đớn ở cánh tay Will đã hết, vết bỏng đỏ rát lúc trước giờ chỉ còn là một vùng da nhẵn nhụi, không có lông và sáng bóng, lớp da thế này thường chỉ xuất hiện khi vết bỏng đã lành được một thời gian dài. Nhưng hình dáng vết sẹo ấy rất rõ nét, và cậu biết rằng cậu sẽ mang nó theo cho tới tận cuối đời, nó như dấu sắt nung đóng vào da thịt tội nhân. Những âm thanh ma quái bên ngoài bức tường lúc lên cao, lúc xuống thấp thành từng đợt thất thường. “Cháu xin lỗi,” Will đau khổ nói. “Cậu thấy đấy, chúng ta bị bao vây rồi,” ông Merriman nói, bước tới chỗ hai người. “Chúng hy vọng kiểm soát được cậu khi quyền năng của cậu chưa phát tiết hết. Và đây mới chỉ là sự bẩt đầu của hàng loạt hiểm nguy sắp tới thôi, Will à. Trong suốt mùa đông này, sức mạnh của chúng sẽ lớn dần lên, mà Pháp thuật Cổ xưa chỉ có thể đẩy chúng ra xa trong đêm Giáng sinh. Thậm chí ngay sau Giáng sinh, nó vẫn tiếp tục lớn mạnh, không bị suy yếu đi, cho đến tận Ngày Thứ Mười Hai, Đêm Thứ Mười[5]- mà trước đây đã từng là ngày Giáng sinh, và trước đó nữa, vào thời xa xưa của chúng ta, đã từng là ngày lễ mùa đông.” “Chuyện gì sẽ xảy ra ạ?” Will hỏi. “Chúng ta chỉ nên nghĩ tới những việc chúng ta phải làm thôi,” quý bà nói. “Và điều trước tiên là phải giải thoát cháu khỏi vòng vây của thế lực bóng tối đang bao quanh căn phòng này.” Ông Merriman chăm chú lắng nghe và nói, “Hãy tự bảo vệ mình. Hãy chiến đấu chống lại bất kỳ thứ gì. Chúng đã thất bại khi đánh vào một cảm xúc vừa rồi; chúng sẽ cố gắng giăng bẫy cậu bằng cảm xúc khác.” “Nhưng cháu không được sợ hãi,” quý bà nói. “Hãy ghi nhớ điều đó, Will. Cháu sẽ bị đe dọa, thường xuyên, nhưng đừng bao giờ sợ hãi. Những thế lực của Bóng Tối có thể giở nhiều trò xấu xa, nhưng chúng không thể hủy diệt được. Chúng không thể giết chết những thế lực của ánh sáng. Không thể, trừ khi chúng giành được sự thống trị cuối cùng trên toàn thế gian này. Và nhiệm vụ của các Cổ Nhân - nhiệm vụ của cháu và của chúng ta - là ngăn chặn điều đó. Vì thế đừng để bọn chúng làm cháu sợ hãi hay thất vọng.” Quý bà vẫn tiếp tục nói nhưng giọng bà chìm nghỉm như một hòn đá lọt thỏm dưới lớp sóng thủy triều vì những âm thanh rùng rợn lúc rên rỉ lúc than vãn bên ngoài bức tường căn phòng mỗi lúc một to hơn, to hơn, nhanh hơn và giận dữ hơn, thành một mớ hỗn loạn những tiếng rít và tiếng cười quái dị, tiếng hét sợ hãi lẫn với tiếng cười đùa, tiếng hú hòa với tiếng gầm. Khi Will nghe những âm thanh đó, da cậu sởn gai ốc, mồ hôi túa ra. Hệt như đang trong một giấc mơ, cậu nghe thấy giọng trầm trầm của ông Merriman đang gọi cậu xuyên qua những tiếng kêu quái dị đó. Nếu quý bà không cầm lấy tay cậu, kéo cậu trở lại chỗ cái bàn và lò sưởi, mảng sáng còn lại duy nhất trong căn phòng tối thì cậu đã không thể nào nhúc nhích nổi. Ông Merriman ghé sát tai cậu, nói nhanh và khẩn thiết “Đứng bên cạnh cái vòng, cái vòng ánh sáng ấy. Đứng quay lưng về phía bàn, và cầm lấy tay chúng ta. Đây là một kết nối mà chúng không thể phá vỡ được.” Will đứng đó, hai tay dang rộng, và dù cậu không nhìn thấy hai người đứng bên cạnh mình, nhưng mỗi người đều nắm lấy một tay cậu. Ánh lửa trong lò sưởi đã tắt, và cậu cảm nhận được rằng phía sau cậu, ngọn lửa của vòng tròn nến trên bàn đã cháy cao hơn và lớn hơn, cao đến nỗi khi ngả đầu về phía sau, cậu có thể nhìn thấy chúng bốc lên quá đầu cậu tạo thành một cột ánh sáng trắng. Cái cây lửa vĩ đại này không tỏa nhiệt, và mặc dù rất sáng, ánh sáng của nó vẫn không tỏa ra ngoài phạm vi cái bàn. Will không thể nhìn thấy phần còn lại của căn phòng, không thấy bức tường, bức tranh hay bất kỳ cánh cửa nào. Cậu không thể nhìn thấy gì ngoài bóng tối, một khoảng trống tối om mênh mông trong màn đêm đen ngòm đáng sợ này. Đó chính là Bóng Tối, đang trỗi dậy, đang trỗi dậy hòng nuốt chửng Will Stanton trước khi cậu đủ mạnh để làm chúng bị tổn hại. Trong luồng ánh sáng tỏa ra từ những ngọn nến lạ kỳ đó, Will nắm chặt lấy những ngón tay gầy yếu của vị lão bà và nắm tay cứng như gỗ của ông Merriman. Tiếng gào rú của Bóng Tối giờ to đến mức không thể chịu nổi, một tiếng rền rĩ the thé đầy đắc thắng, và mặc dù không nhìn thấy gì, Will vẫn biết rằng ngay trước mặt cậu, trong bóng tối, con ngựa ô khổng lồ đang chồm lên như nó từng chồm lên bên ngoài túp lều trong rừng, và tên Kỵ Sĩ đang đứng đó để sẵn sàng hạ gục cậu nếu mấy cái móng mới đóng của con ngựa không hoàn thành nhiệm vụ. Và lần này thì không có con ngựa trắng nào từ trên trời xuống cứu cậu hết. Cậu nghe thấy tiếng ông Merriman kêu lớn: “Cây lửa, Will! Tấn công bằng lửa! Giống như lúc cậu điều khiển ngọn lửa lò sưởi, hãy điều khiển ngọn lửa nến, và tấn công đi!” Vâng lệnh ông một cách tuyệt vọng, Will để đầu óc mình tràn ngập hình ảnh một vòng tròn lớn toàn những ngọn lửa nến bùng bùng đằng sau cậu, vươn lên như một cái cây màu trắng; cùng lúc đó, cậu cảm thấy hai người đang sát cánh cùng cậu cũng đang làm điều tương tự, và cậu biết rằng cả ba người họ có thể cùng nhau làm được những điều kỳ diệu hơn cả những gì cậu từng tưởng tượng. Cậu cảm thấy hai bàn tay kia siết vội tay cậu, và trong trí óc mình, cậu hình dung cột ánh sáng quất về phía trước như một cái roi khổng lồ. Bên trên đầu cậu xuất hiện một luồng ánh sáng trắng lớn và khi ngọn lửa khổng lồ ấy vụt về phía trước và giáng xuống như một tia sét thì có tiếng rú to khủng khiếp từ trong bóng tối khi một cái gì đó - gã Kỵ Sĩ, con ngựa ô, hoặc cả hai - lùi lại, ngã ra, rơi xuống, rơi xuống mãi. Và trong vệt ánh sáng chiếu vào khoảng tối trước mặt, trong khi mắt cậu vẫn còn bị lóa, xuất hiện hai cánh cửa gỗ khổng lồ chạm trổ mà cậu đã bước qua để vào căn phòng. Trong sự im lặng đột ngột, Will nghe thấy tiếng mình reo lên đắc thắng, và cậu nhảy bổ về phía trước, giật ra khỏi hai bàn tay đang nắm chặt lấy tay cậu, rồi chạy ra cửa. Cả ông Merriman và quý bà cùng kêu lên thất thanh nhưng đã quá muộn. Will đã phá vỡ vòng tròn, cậu đang đứng một mình. Cậu vừa nhận ra điều đó thì đã thấy đầu óc choáng váng, cậu loạng choạng ôm lấy đầu, một tiếng ù ù lạ lùng bắt đầu rung lên đều đều trong tai cậu. Cố lết chân đi, cậu lảo đảo đến bên cánh cửa, dựa người vào và yếu ớt đấm lên cửa. Chúng không suy chuyển. Tiếng kêu kỳ quái trong đầu cậu càng lúc càng to hơn. Cậu nhìn thấy ông Merriman tiến về phía cậu, phải cố gắng lắm mới bước đi được, người chúi về phía trước như đang ngược chiều một cơn gió lớn. “Thật ngu ngốc,” ông Merriman hổn hển. “Thật ngu ngốc, Will ạ.” ông nắm lấy hai cánh cửa và lắc, dùng cả hai cánh tay đẩy mạnh hết sức về phía trước đến nỗi những mạch máu chằng chịt hai bên trán hằn lên trên da như cuộn dây thép dày; cùng lúc đó, ông ngẩng đầu lên và hét to một tràng lệnh mà Will không hiểu. Nhưng hai cánh cửa vẫn không suy chuyển còn Will thì cảm thấy mình lả dần đi, như thể cậu là một người tuyết đang tan chảy dưới ánh nắng mặt trời. Cậu hồi tỉnh đúng lúc cậu đang bắt đầu trôi vào trạng thái mê man nhờ một cái gì đó cậu không bao giờ có thể diễn tả được - thậm chí cậu cũng không nhớ rõ. Nó giống như liều thuốc giảm đau, như nốt nhạc nghịch tai bỗng nhiên hòa điệu; như ánh sáng làm tâm trạng của cậu rạng ngời trong một ngày ảm đạm mà chính cậu cũng không thể hiểu nổi cho đến khi cậu nhận ra mặt trời đã bắt đầu chiếu sáng. Tiếng nhạc lặng lẽ đã đi vào trong tâm trí và làm choáng ngợp cả tâm hồn cậu lại vẳng đến, và ngay lập tức, cậu biết tiếng nhạc đó là của quý bà. Không thốt ra lời nào nhưng thực ra bà đang nói chuyện với cậu. Bà đang nói với cả hai người - và với Bóng Tối. Cậu quay đầu nhìn lại, choáng ngợp; quý bà dường như cao hơn, lớn hơn, vững chãi hơn trước, vẫn là hình dáng của bà nhưng được phóng đại lên nhiều lần. Quanh người bà tỏa ra một lớp sương vàng mờ ảo, một luồng sáng không phải từ những ngọn nến chiếu ra. Will chớp mắt, nhưng cậu không thể nhìn rõ được, dường như có một bức màn che giữa cậu và bà. Cậu nghe thấy giọng nói trầm trầm của ông Merriman trở nên dịu dàng hơn bao giờ hết, nhưng như bị vò xé bởi một nỗi đau buồn đột ngột và mãnh liệt nào đó. “Quý Bà,” Merriman đau đớn nói. “Xin hãy cẩn trọng, hãy cẩn trọng.” Không có tiếng đáp lại nhưng Will có cảm giác như mình vừa được ban phúc. Rồi cảm giác ấy biến mất, và bóng dáng cao lớn đang tỏa sáng ấy đúng là mà cũng không phải là quý bà chậm chạp đi vào bóng tối, hướng về phía hai cánh cửa, và trong giây lát, Will lại nghe thấy điệu nhạc ám ảnh mà câu không bao giờ có thể nắm bắt được trong ký ức của mình, và cánh cửa từ từ mở ra. Bên ngoài chỉ có ánh sáng màu xám, sự im lặng và không khí lạnh ngắt. Đằng sau cậu, ánh sáng tỏa ra từ vòng tròn nến đã tắt, chỉ còn lại bóng tối. Một thứ bóng tối trống rỗng, khó chịu, khiến cậu biết rằng căn phòng không còn ở đó nữa. Và đột nhiên cậu nhân ra bóng người đang tỏa ra ánh sáng vàng trước mặt cậu cũng đang mờ dần, đang biến mất, giống như làn khói đang mỏng dần, mỏng dần đến khi không thể nhìn thấy gì nữa. Trong chớp mắt, chiếc nhẫn lớn vẫn nằm trên tay quý bà chợt lóe lên hồng rực, và rồi ánh sáng đó cũng tắt dần, hình ảnh rực rỡ của bà cũng tan biến vào hư vô. Will cảm thấy nỗi đau đến tuyệt vọng của sự mất mát, như thể toàn bộ thế giới này đã bị Bóng Tối nuốt chửng, và cậu thét lên. Một bàn tay chạm vào vai cậu. Merriman đang đứng bên cạnh cậu. Họ đã đi qua hai cánh cửa. Hai cánh cửa gỗ khổng lồ chạm trổ từ từ đóng lại đằng sau họ, đủ thời gian để cậu nhìn thấy rất rõ chúng chính là những cánh cửa kỳ lạ trước đó đã mở ra trên con dốc hoang trắng xóa của Đồi Chiltern. Rồi, ngay giây phút hai cánh cửa khép lại, chúng cũng biến mất luôn. Cậu không còn nhìn thấy gì nữa: chỉ thấy ánh xám xịt của tuyết phản chiếu một bầu trời cũng xám xịt như vậy. Cậu đã quay trở lại rừng cây tuyết phủ mà cậu đi sáng nay. Cậu lo lắng quay vội lại phía ông Merriman: “Bà ấy đi đâu rồi? Chuyện gì xảy ra thế ạ?” “Thế là quá sức đối với bà ấy. Sự căng thẳng quá mức, kể cả đối với bà ấy. Chưa bao giờ… ta chưa bao giờ thấy chuyện này.” Giọng ông nghe nặng nề và cay đắng; ông giận dữ nhìn vào khoảng không vô định. “Có phải chúng đã… bắt bà ấy đi rồi?” Will không biết dùng từ nào để diễn tả nỗi sợ hãi mà cậu đã cảm thấy. “Không!” Ông Merriman nói. Câu trả lời ngắn gọn đầy vẻ miệt thị, nghe như một tiếng cười khinh bạc. “Quý Bà ở trên tầm quyền năng của chúng. Trên tầm bất cứ quyền năng nào. Cậu sẽ không hỏi những câu như vậy khi cậu đã học được thêm một chút. Bà ấy sẽ đi xa trong một thời gian, chỉ có vậy thôi. Khi phải đối mặt với những thế lực đang tìm mọi cách để đóng hai cánh cửa lại, bà ấy cần phải làm thế để mở chúng ra. Mặc dù Bóng Tối không thể hủy diệt bà, nhưng nó đã làm bà cạn kiệt sinh lực, khiến bà chỉ còn như một cái xác ve. Bà phải tự mình hồi phục lại, một mình ở nơi xa, và điều đó không có lợi cho chúng ta nếu chúng ta cần đến bà. Vì chúng ta sẽ cần bà. Cũng như thế giới này lúc nào cũng cần đến bà.” Ông nhìn xuống Will với ánh mắt lạnh tanh; đột nhiên ông dường như trở nên xa cách, gần như hăm dọa, như một kẻ thù; ông nôn nóng khoát tay: “Cài áo lại, nhóc, không thì chết cóng đấy.” Will lóng ngóng cài mấy khuy áo khoác ngoài; cậu thấy ông Merriman mặc một cái áo choàng màu xanh cao cổ đã cũ mèm. “Lỗi của cháu phải không?” Cậu đau khổ nói. “Nếu cháu không chạy lên trước lúc nhìn thấy cánh cửa… nếu cháu vẫn giữ tay của ông và bà ấy, và không phá vỡ vòng tròn…” Merriman trả lời cộc lốc. “Đúng thế,” rồi ông có vẻ dịu lại một chút. “Nhưng đó là lỗi của chúng chứ không phải của cậu, Will ạ. Chúng đã nắm được cậu, thông qua sự nôn nóng và hy vọng của cậu. Bọn chúng thích biến những tình cảm tốt đẹp trở thành xấu xa.” Will đứng khom vai, hai tay đút túi, mắt nhìn chằm chằm xuống đất. Trong đầu cậu, một điệp khúc văng vẳng như chế nhạo: Mày đã làm mất Quý Bà, mày đã làm mất Quý Bà. Cậu thấy cổ họng nghẹn đắng; cậu nuốt nước bọt; cậu không thể cất nên lời. Một luồng gió nhẹ thổi qua những tán cây làm vương những tinh thể tuyết trắng lên mặt cậu. “Will,” ông Merriman nói. “Ta đã quá giận dữ. Hãy tha thứ cho ta. Dù cậu có phá vỡ Bộ Ba hay không thì mọi việc sẽ vẫn diễn ra như vậy thôi. Hai cánh cửa khổng lồ là lối vào Thời Gian của chúng ta, và chẳng bao lâu nữa cậu sẽ biết nhiều hơn về công dụng của nó. Nhưng lần này cậu không thể mở được cánh cửa đó, ta cũng không, hay bất kỳ ai trong vòng tròn cũng vậy. Bởi sức mạnh đang giữ tấm cửa lần này là sức mạnh tối đa giữa mùa đông của Bóng Tối, mà không ai ngoài Quý Bà có thể vượt qua được một mình - thậm chí ngay cả Bà cũng phải trả một cái giá rất đắt. Đừng nản lòng; vào một thời điểm thích hợp, bà ấy sẽ trở lại.” Ông kéo cổ áo choàng lên biến nó thành một cái mũ trùm đầu. Khi mái tóc bạc bị che khuất, ông bất chợt biến thành một dáng người tối sẫm, cao lớn và bí hiểm. “Đi thôi,” ông nói và dẫn Will đi qua lớp tuyết dày giữa những cây sồi khổng lồ trụi lá. Đi được một lúc lâu, họ dừng lại ở một khoảng rừng thưa. “Cậu có biết cậu đang ở đâu không?” Ông Merriman hỏi. Will chăm chú nhìn những đống tuyết mịn và đám cây lô nhô xung quanh. “Tất nhiên là không ạ,” cậu trả lời. “Làm sao mà cháu biết được chứ?” “Tuy nhiên khi sắp được ba phần tư mùa đông,” ông Merriman giải thích, “cậu sẽ lẻn vào thung lũng này và ngắm những cây hoa xuyên tuyết mọc khắp nơi xen giữa cây cối. Rồi vào mùa xuân cậu sẽ trở lại để ngắm hoa thủy tiên. Ngày nào cũng đến trong suốt một tuần liền, để đánh giá xem có gì khác so với năm trước.” Will há hốc miệng nhìn ông. “Ý ông nói đến Trang Viên phải không?” Cậu hỏi. “Khu đất của Trang Viên chứ gì?” Trong thế kỷ mà cậu đang sống, Trang Viên ở Thung Lũng Thợ Săn là ngôi nhà lớn nhất làng. Từ ngoài đường người ta không thể nhìn thấy ngôi nhà, nhưng đất đai của trang viên này trải dài mênh mông dọc theo đường Thung Lũng Thợ Săn đối diện nhà Stanton, được bao quanh bởi những dãy hàng rào cao bằng sắt hoặc tường gạch cũ kỹ. Một bà cô chưa chồng Greythorne nào đó là chủ ngôi nhà, giống như gia đình bà đã sở hữu nó từ bao thế kỷ nay, nhưng Will không biết nhiều về bà; cậu hiếm khi nhìn thấy bà hay cái Trang Viên vốn chỉ nhớ mang máng là có những cột chống xây bằng gạch rất cao và ống khói theo kiểu Tudor[6]. Những bông hoa mà ông Merriman nhắc đến là những cái mốc riêng tư trong thời của cậu. Từ lâu lắm rồi, cuối mùa đông nào cậu cũng lẻn qua hàng rào Trang Viên để đứng giữa khoảng rừng thưa kỳ diệu này ngắm những bông hoa xuyên tuyết mùa đông duyên dáng đang tàn và sau đó là những bông thủy tiên mùa xuân vàng rực rỡ. Cậu không biết ai đã trồng những bông hoa đó; cậu chưa từng thấy ai đến đó chăm nom chúng. Thậm chí cậu không chắc liệu có người nào khác biết về những bông hoa đó hay không. Giờ đây hình ảnh những bông hoa như tỏa sáng trong tâm trí cậu. Nhưng những câu hỏi dồn dập ùa đến nhanh chóng xua tan hình ảnh ấy. “Ông Merriman? Ý ông là khoảng rừng thưa này đã xuất hiện ở đây từ hàng trăm năm trước khi cháu nhìn thấy nó sao? Còn gian đại sảnh đó nữa, có phải đó là một Trang Viên khác, lâu đời hơn cái Trang Viên mà cháu biết hàng thế kỷ? Còn rừng cây ở quanh chúng ta, nơi cháu đã đi qua và nhìn thấy người thợ rèn và tên Kỵ Sĩ… nó rộng mênh mông, có phải nó thuộc về…?” Ông Merriman cúi xuống nhìn cậu và bật cười, một nụ cười sảng khoái bất ngờ, không gợn chút gì sự nặng nề vừa bao trùm lên cả hai người. “Để ta chỉ cho cậu thấy một thứ khác,” ông nói và kéo Will đi sâu vào giữa đám cây, ra khỏi khoảnh rừng thưa, đi qua hàng dãy thân cây và đống tuyết. Và trước mắt cậu, khác hẳn với những gì Will tưởng tượng, cậu không nhìn thấy con đường hẹp, ngoằn ngoèo ban sáng đã dẫn cậu xuyên qua khu rừng toàn cây cổ thụ trải dài vô tận, mà là khung cảnh quen thuộc của con đường Thung Lũng Thợ Săn ở thể kỷ hai mươi, và bên kia con đường, gần đường cái, thấp thoáng bóng ngôi nhà cậu. Hàng rào Trang Viên ở ngay trước mặt họ, có vẻ hơi thấp xuống do bị ngập trong lớp tuyết dày; ông Merriman giơ cao chân bước qua còn Will chui qua khe hàng rào quen thuộc và họ đứng trên con đường tuyết phủ nhấp nhô. Ông Merriman lại bỏ mũ trùm đầu ra phía sau và ngẩng mái đầu tóc bạc lên như để hít thở luồng không khí của thế kỷ mới hơn này. “Cậu thấy đấy, Will”, ông nói, “những con người thuộc Vòng Tròn như chúng ta được đặt vào Thời Gian một cách hết sức linh hoạt. Cánh cửa là một lối đi để xuyên qua Thời Gian, theo bất kỳ hướng nào ta muốn. Vì tất cả mọi thời đại đều song song tồn tại, và tương lai đôi khi ảnh hưởng đến quá khứ, mặc dù quá khứ là con đường để dẫn tới tương lai… Nhưng người thường không thể hiểu được điều này. Trong một thời gian nữa cậu cũng vẫn chưa hiểu được. Chúng ta có thể đi xuyên qua năm tháng bằng những con đường khác nhau - một trong những con đường đó sáng nay đã đưa cậu quay trở lại khoảng năm trăm năm trước. Đó là nơi cậu đã đến - thời kỳ của Rừng Hoàng Gia, cánh rừng trải rộng khắp khu vực phía nam của vùng này, từ sông Southampton ngược lến thung lũng sông Thames ở đây.” Ông chỉ tay qua con đường về phía chân trời phẳng lặng và Will nhớ lại cậu đã nhìn thấy sông Thames hai lần trong cùng buổi sáng hôm đó: một lần nó nằm giữa những cánh đồng quen thuộc và một lần khác lại nằm dưới những tán cây. Cậu nhìn chằm chằm vào vẻ mặt hồi tưởng đầy xúc cảm của ông Merriman. “Năm trăm năm trước,” ông Merriman nói, “các đời vua nước Anh đã chủ tâm bảo tồn những khu rừng bao quanh làng mạc và thôn xóm để nuôi thả những động vật hoang dã, như nai, lợn lòi và cả sói nữa, dành cho các cuộc săn. Nhưng rừng không phải là nơi dễ bị kiểm soát, và các vị vua đã vô tình tạo ra một nơi trú ẩn cho thế lực Bóng Tối, cái thế lực mà nếu không có nơi này thì có lẽ đã bị đẩy lùi về phía những dãy núi và những xứ sở hẻo lánh ở phương Bắc… Đó chính là nơi mà cậu đã ở cho đến giờ phút này. Trong khu rừng Anderida, như cách người ta thường gọi. Cách đây đã lâu lắm rồi. Sáng sớm nay cậu đã bước vào đây, đi xuyên qua cánh rừng phủ đầy tuyết; đến sườn đồi trọc Chiltern; cũng chính nơi ấy là chỗ cậu đã bước chân qua cánh cửa lần đầu tiên - đó là một Dấu Hiệu, bước chân đầu tiên của cậu, trong ngày sinh nhật với tư cách là một Cổ Nhân. Và cũng nơi đó, trong quá khứ, chúng ta đã bỏ Quý Bà lại. Ta ước gì có thể biết được bà đang ở đâu và khi nào chúng ta lại được gặp bà. Nhưng chắc chắn bà sẽ trở lại khi có thể.” Ông nhún vai, như để rũ bỏ mọi gánh nặng. “Và bây giờ cậu có thể trở về nhà được rồi, vì cậu đang ở thế giới của mình.” “Nhưng ông cũng đang ở đây mà,” Will nói. Ông Merriman cười. “Lại quay về. Với những cảm xúc trái ngược nhau.” “Ông sẽ đi đâu?” “Loanh quanh đâu đó. Ta cũng có một nơi sinh sống ở thời hiện tại này như cậu. Bây giờ thì về nhà đi Will. Chặng tìm kiếm tiếp theo sẽ phụ thuộc vào Kẻ Lang Thang, và hắn sẽ tìm thấy cậu. Và khi vòng tròn của hắn đặt trên thắt lưng của cậu, bên cạnh Dấu Hiệu đầu tiên, thì ta sẽ đến.” “Nhưng…” Will đột nhiên muốn nắm chặt tay ông, cầu xin ông đừng đi. Ngôi nhà của cậu dường như không còn là pháo đài bất khả xâm phạm như từ trước đến nay vẫn thế nữa. “Cậu sẽ không sao đâu,” ông Merriman nhẹ nhàng nói. “Hãy đón nhận mọi thứ khi chúng đến. Hãy nhớ rằng quyền năng sẽ bảo vệ cậu. Đừng làm điều gì thiếu suy nghĩ để tự đem lại rắc rối cho mình, và tất cả sẽ ổn thôi. Chúng ta sẽ sớm gặp nhau, ta hứa đấy.” “Được rồi ạ,” Will trả lời không mấy chắc chắn. Giữa buổi sáng tĩnh mịch, một luồng gió lạ cuộn xoáy quanh hai người, thổi đám tuyết trên những hàng cây bên đường rơi xuống lộp bộp. Ông Merriman kéo áo khoác quanh người, đuôi áo tạo thành một vòng xoáy trên tuyết; ông nhìn thẳng vào cậu, cái nhìn chứa đựng cả lời cảnh báo xen lẫn động viên khuyến khích, rồi kéo mũ trùm đầu che khuôn mặt, rảo bước xuống con đường mà không nói thêm lời nào. Ông biến mất ở khúc ngoặt cạnh Rừng Quạ, đi vào con đường dẫn tới Trại Dawson. Will hít một hơi thật sâu rồi chạy về nhà. Con đường nhỏ nằm yên ắng dưới lớp tuyết dày trong buổi sáng mùa đông xám xịt; chưa có chú chim nào bay lượn hay hót líu lo, khắp nơi không một thứ gì chuyển động. Ngôi nhà cũng hoàn toàn im lặng. Cậu cởi bộ đồ mặc ngoài, đi lên cầu thang im ắng. Cậu đứng lại ở chỗ chiếu nghỉ, nhìn những mái nhà và cánh đồng trắng xóa bên ngoài. Bây giờ không còn rừng cây rộng lớn che phủ mặt đất nữa. Tuyết vẫn phủ dày nhưng xốp mịn trên những cánh đồng bằng phẳng của thung lũng, chạy dài tới dòng sông Thames uốn lượn. “Được rồi, được rồi.” James từ trong phòng nói vọng ra giọng ngái ngủ. Phía sau cánh cửa phòng bên cạnh, Robin làu nhàu không rõ tiếng rồi lầm bầm. “Một phút thôi. Đang đến đây.” Gwen và Margaret bước thấp bước cao đi ra khỏi phòng ngủ của hai đứa, vẫn mặc áo ngủ và dụi dụi mắt. “Không cần phải làm ầm lên như thế đâu,” Barbara nói với Will giọng quở trách. “Làm ầm lên á?” Cậu nhìn cô chị chằm chằm “Mọi người ơi dậy đi!” Cô bắt chước tiếng hét của cậu. “Hôm nay là ngày nghỉ mà, lạy Chúa.” Will đáp: “Nhưng, em…” “Không sao đâu,” Gwen nói. “Em có thể bỏ qua việc nó muốn đánh thức tất cả mọi người dậy ngày hôm nay. Dù sao thì nó cũng có lý do chính đáng mà.” Và cô bước lên hôn nhẹ một cái lên đỉnh đầu Will. “Chúc mừng sinh nhật, Will,” cô nói. Kẻ Lang Thang trên Đường Cổ “Người ta nói tuyết sẽ rơi nhiều hơn,” một người đàn bà to béo đang cầm cái túi lưới nói với người soát vé xe buýt. Người soát vé xe buýt, một anh chàng gốc Tây Ấn, lắc đầu và thở dài rầu rĩ: “Đúng là thời tiết thổ tả,” anh nói. “Chỉ thêm một mùa đông như thế này thôi là tôi sẽ về Cảng Tây Ban Nha ngay.” “Vui lên nào, anh bạn,” bà béo nói. “Anh sẽ chẳng thấy mùa đông nào như thế này nữa đâu. Tôi đã sống ở thung lũng sông Thames này sáu mươi sáu năm rồi mà chưa bao giờ thấy tuyết rơi như thế này cả, nhất là trước Giáng sinh. Chưa bao giờ.” “Năm 1947,” người đàn ông ngồi cạnh bà, một người gầy guộc với chiếc mũi nhọn dài, nói. “Đó là năm dành cho tuyết. Tôi thề đấy. Dày ngập đầu, rơi khắp đường Thung Lũng Thợ Săn, đường Đầm Lầy và vùng Quảng Trường. Thậm chí trong suốt hai tuần không thể đi qua được vùng Quảng Trường. Người ta phải ủi tuyết đi. Trời, đúng là một năm dành cho tuyết.” “Nhưng không phải trước Giáng sinh,” bà béo nói. “Đúng vậy, đó là vào tháng Giêng.” Người đàn ông rầu rĩ gật đầu. “Không phải trước Giáng sinh, không phải…” Họ có lẽ sẽ tiếp tục nói chuyện như thế này suốt cả quãng đường tới Maidenhead, và có thể đúng là họ làm như vậy thật, nhưng Will bất chợt nhận thấy bến cần xuống đang hiện ra giữa khung cảnh trắng toát một màu. Cậu đứng bật dậy, cầm lấy các loại túi và hộp đồ lỉnh kỉnh. Người soát vé giật chuông cho cậu. “Đi mua quà Giáng sinh hả,” anh quan sát. “Ừmmm. Ba… bốn… năm…” Will ôm chặt các túi quà vào ngực và với tay bám lấy thanh sắt ngang trên chiếc xe lắc lư. “Giờ thì em mua xong rồi,” cậu nói. “Lẽ ra phải xong từ trước cơ.” “Giá mà anh cũng thế,” người soát vé nói. “Đêm mai đã là Giáng sinh rồi. Vấn đề là máu anh đã đông lại hết cả… thời tiết ấm lên mới làm anh tỉnh ra được.” Xe buýt dừng lại và anh đỡ Will xuống xe. “Chúc mừng Giáng sinh, chàng trai,” anh nói. Họ biết nhau vì Will thường đi xe buýt đến trường. “Chúc mừng Giáng sinh,” Will nói. Đột nhiên cậu gọi với theo khi chiếc xe đang chuyển bánh: “Anh sẽ thấy thời tiết ấm lên vào ngày Giáng sinh đấy!” Người soát vé toét miệng cười để lộ hàm răng trắng bóng. “Em sẽ làm cho thời tiết ấm lên hả?” Anh đáp lại. Có thể mình làm được, Will nhủ thầm, khi cậu đi dọc con đường cái dẫn đến đường Thung Lũng Thợ Săn. Có thể mình làm được. Tuyết thậm chí phủ dày cả trên vỉa hè; trong hai ngày vừa rồi, chẳng có mấy người ra khỏi nhà và bước lên lớp tuyết ấy. Đối với Will, đó là những ngày yên bình, bất chấp ký ức về những gì xảy ra trước đó. Cậu đã có một bữa tiệc sinh nhật vui vẻ cùng gia đình, tưng bừng đến mức vừa đặt lưng lên giường cậu đã ngủ một mạch, gần như không hề nghĩ đến Bóng Tối. Sau đó, cả một ngày cậu chỉ chơi ném tuyết và trượt tuyết ngẫu hứng với các anh ở bãi dốc phía sau nhà. Đó là những ngày u ám, tuyết lơ lửng trên không trung nhiều hơn nhưng không hiểu sao vẫn chưa rơi xuống. Đó là những ngày vắng lặng; hầu như chẳng có chiếc xe nào chạy qua con đường này trừ xe tải của người đưa sữa và bánh mì. Lũ quạ cũng yên ắng, chỉ có một vài con thỉnh thoảng chậm rãi bay qua bay lại trên khu rừng của chúng. Will nhận thấy các con vật không còn sợ cậu nữa. Thực ra, chúng dường như còn thân thiện hơn trước là đằng khác. Chỉ có Raq, con lớn hơn trong số hai con chó, thường vẫn thích ngồi tựa cằm lên đầu gối Will, thì vẫn thỉnh thoảng nhảy bật ra khỏi lòng cậu không rõ vì lý do gì, như bị điện giật. Rồi nó bồn chồn đi loanh quanh trong phòng một lúc, sau đó quay lại nhìn đăm đăm vào mặt Will như dò xét, và rồi lại thoải mái như trước. Will không hiểu điều gì đã khiến nó thành ra như thế. Cậu biết ông Merriman sẽ hiểu được lý do; nhưng ông Merriman lại không có ở đây. Từ khi cậu trở về nhà vào buổi sáng cách đây hai ngày, cái vòng tròn chia tư trên thắt lưng vẫn ấm áp khi cậu sờ vào. Giờ đây, vừa bước đi, cậu vừa luồn tay vào dưới áo khoác để kiểm tra, chiếc vòng có vẻ lạnh; nhưng cậu nghĩ chắc hẳn đó chỉ đơn giản là vì cậu đang ở ngoài trời, nơi mọi thứ đều lạnh cả. Cậu đã tiêu tốn gần như cả buổi chiều đi mua quà Giáng sinh ở Slough, thị trấn lớn gần nhà cậu nhất; nó đã thành thói quen hàng năm, ngày trước Giáng sinh là ngày cậu chắc chắn có được tiền mừng sinh nhật từ các cô dì chú bác để mua sắm. Tuy nhiên, đây là năm đầu tiên cậu đi mua sắm một mình. Nó mang lại niềm vui cho cậu; thường thì đi một mình sẽ nghĩ ra được nhiều thứ hơn. Món quà quan trọng nhất dành cho anh Stephen - một cuốn sách về sông Thames - đã được mua từ cách đây khá lâu, và được gửi theo đường bưu điện tới Kingston, Jamaica, nơi con tàu của anh đang thả neo tại một vị trí có tên là Ga Caribe. Will thấy cái tên ấy nghe giống ga tàu hỏa hơn. Cậu đã quyết định phải hỏi anh bạn soát vé xe buýt xem Kingston như thế nào; mặc dù anh chàng soát vé là người Trinidad nên có thể sẽ có chút thành kiến về những hòn đảo khác. Cảm giác rầu rĩ trong hai ngày trước lại trở về, vì theo cậu nhớ, đây là năm đầu tiên cậu không nhận được quà sinh nhật của anh Stephen. Đã hàng trăm lần cậu cố gắng xua đuổi sự thất vọng với lời biện minh là bưu điện đã nhầm hoặc con tàu đột nhiên phải giương buồm lướt sóng giữa những hòn đảo xanh tươi vì nhiệm vụ khẩn cấp nào đó. Năm nào anh Stephen cũng nhớ; nếu không có chuyện gì đột xuất thì lần này anh ấy cũng nhớ. Anh Stephen không thể nào quên được. Mặt trời đang lặn ở phía trước, vầng mặt trời ló ra lần đầu tiên kể từ sinh nhật cậu. Nó tỏa ánh vàng da cam rực rỡ qua khe hở giữa các đám mây, và cả thế giới phủ tuyết trắng bạc ấy lấp lánh vô số tia sáng vàng mỏng mảnh. Sau những con phố xám xịt lầy lội trên thị trấn, mọi thứ lại trở nên tươi đẹp. Will bước đi, qua những bức tường bao quanh vườn, những hàng cây, rồi đến đoạn đầu một lối đi nhỏ không lát đá, khó có thể gọi là đường, được gọi là Hẻm Lang Thang, cắt từ đường cái và cuối cùng lượn vòng nhập vào đường Thung Lũng Thợ Săn gần nhà Stanton. Bọn trẻ đôi khi đi tắt qua lối đó. Will liếc nhìn xuống và thấy chưa có ai qua đây kể từ lúc tuyết bắt đầu rơi; con đường vẫn nằm yên ắng, không một dấu chân người, phẳng mịn, trắng muốt và đầy lôi cuốn, chỉ có một vài dấu chân chim đẹp như tranh vẽ. Một vùng đất chưa được khám phá. Will thấy khung cảnh thật hấp dẫn. Vậy là cậu rẽ vào Hẻm Lang Thang, thích thú dúi chân lạo xạo dưới những lớp tuyết sạch đã hơi cứng lại, làm các mảnh tuyết vỡ ra bám thành riềm trên ống quần nhét trong ủng. Gần như ngay lập tức, cậu không còn nhìn thấy mặt trời nữa, tầm mắt bị chắn bởi khoảnh rừng nằm giữa lối đi nhỏ này và một vài ngôi nhà trên đỉnh con đường Thung Lũng Thợ Săn. Vừa vất vả bước trên tuyết, cậu vừa ôm chặt những bọc quà vào ngực mình và đếm lại: con dao cho Robin, tấm da dê để lau ống sáo cho Paul; quyển nhật ký cho Mary, sữa tắm cho Gwennie; bộ bút dạ đặc biệt cho Max. Tất cả những món quà khác của cậu đã được mua và bọc lại từ trước. Khi bạn là một trong số chín anh chị em thì việc chuẩn bị cho lễ Giáng sinh quả là công phu. Nhưng rồi chẳng mấy chốc, hành trình đi bộ qua con hẻm này bắt đầu tỏ ra chẳng mấy thú vị như cậu tưởng. Mắt cá chân Will bị đau do phải căng chân ra đá tuyết để lấy lối đi. Những bọc quà kềnh càng khó mang. Màu vàng đỏ ấm áp của mặt trời đã nhường chỗ cho màu xám ảm đạm. Cậu thấy đói và lạnh. Trên cao, bên phải cậu là những tán cây rậm rì; hầu hết là cây đu, thỉnh thoảng có vài cây sồi. Phía bên kia lối đi nhỏ là một dải đất hoang, nhờ có tuyết đã biến từ một vùng mấp mô toàn cỏ và bụi cây dại rậm rì thành những con dốc trắng xóa trải dài mênh mông với những hốc tối sẫm đẹp như cung trăng. Xung quanh cậu, trên mặt đường phủ tuyết, rải rác những cành và nhánh cây nhỏ bị rơi từ trên cây xuống do tuyết phủ quá nặng; ngay phía trước, Will thấy một cành cây to đang nằm chắn ngang đường. Cậu lo lắng nhìn lên, tự hỏi không biết có bao nhiêu cành cây khô trên những cây đu khổng lồ kia đang chờ gió và sức nặng của tuyết bẻ gãy. Bây giờ mà kiếm củi thì rất tốt đây, cậu nghĩ, và đột nhiên nhớ lại hình ảnh như trêu ngươi của ngọn lửa sáng bừng nhảy nhót trong lò sưởi ở tòa đại sảnh: ngọn lửa đã làm thay đổi thế giới của cậu, biến mất khi cậu ra lệnh và rồi lại tuân lệnh sáng bừng lên. Trong lúc cậu đang bước đi một cách khó khăn trong tuyết lạnh, một ý tưởng ngông cuồng thú vị chợt nảy ra trong óc cậu bắt nguồn từ suy nghĩ về ngọn lửa đó, và cậu dừng lại, toét miệng cười một mình. Em sẽ làm cho thời tiết ấm lên hả? Không, anh bạn ạ, có lẽ em không thể giúp anh có được một ngày Giáng sinh ấm áp nhưng ở đây, ngay lúc này, thì em có thể làm mọi thứ ấm hơn một chút. Cậu tự tin nhìn vào cành cây khô nằm trước mặt, và dùng cái quyền năng mà cậu biết là mình có, và giờ đây đã điều khiển được một cách dễ dàng, Will khẽ nói với nó một cách tinh nghịch: “Cháy lên!” Và trên nền tuyết, cành cây rơi bùng cháy. Mọi chỗ trên cành cây, từ phần thân chính đã mục ruỗng cho đến cái nhánh nhỏ nhất đều sáng bừng lên một ngọn lửa vàng đang liếm cao dần. Có tiếng xèo xèo, và một tia sáng rực rỡ bốc lên từ đống lửa, cao như một chiếc cột. Không có chút khói nào tỏa ra, ngọn lửa cháy đều đều; những nhánh cây đáng lẽ phải cháy rất nhanh, rơi xuống và biến thành than thì lại vẫn tiếp tục cháy, như thể được tiếp thêm nhiên liệu từ bên trong. Đứng đó một mình, Will đột nhiên cảm thấy thật bé nhỏ và hoảng hốt; đây không phải là một ngọn lửa bình thường và không bị kiểm soát bởi những cách thông thường. Nó cháy khác hẳn ngọn lửa trong lò sưởi. Cậu không biết phải làm gì. Lo lắng, cậu lại tập trung tâm trí vào ngọn lửa và ra lệnh cho nó tắt đi, nhưng nó vẫn cháy, bền bỉ như trước. Cậu biết rằng cậu đã làm một điều ngu xuẩn, sai trái và có lẽ là nguy hiểm nữa. Nhìn qua cột lửa đang nhảy nhót, cậu thấy trên bầu trời xám xịt bốn con quạ đang vỗ cánh bay chậm rãi thành một vòng tròn. Ôi, ông Merriman, cậu rầu rĩ nhủ thầm, ông đang ở đâu? Rồi cậu thở hổn hển khi có ai đó chộp lấy cậu từ phía sau, chặn đôi chân cậu trong lớp tuyết không cho đá lên và vặn ngoéo tay cậu ra sau lưng. Những bọc quà vung vãi trên tuyết. Will thét lên vì đau. Lập tức bàn tay đang nắm chặt lấy cổ tay cậu nới lỏng ra, như thể kẻ tấn công này bất đắc dĩ mới phải làm tổn thương cậu, nhưng hắn ta vẫn giữ chặt lấy cậu. “Dập lửa đi!” Giọng nói khàn đục vang lên bên tai cậu, khẩn thiết. “Tôi không thể!” Will trả lời. “Tôi nói thật. Tôi đã thử, nhưng tôi không thể.” Người đàn ông chửi thề rồi làu bàu những tiếng rất lạ, và ngay lập tức Will biết đó là ai. Nỗi sợ hãi của cậu biến mất, hệt như trút bỏ được một gánh nặng. “Kẻ Lang Thang,” cậu nói, “để tôi đi. Ông không cần phải giữ tôi như thế.” Ngay lập tức, bàn tay lại siết chặt. “Ồ, không đâu, ngươi không thể đi được, nhóc con. Ta biết ngươi muốn lừa ta. Ngươi chính là người đó, giờ thì ta đã biết, ngươi là một Cổ Nhân, nhưng ta cũng không tin các ngươi hơn ta tin bọn Bóng Tối đâu. Ngươi mới thức dậy, ngươi là người mới, và để ta nói cho ngươi một điều mà ngươi chưa biết nhé… khi mới tỉnh dậy, ngươi không thể làm được bất cứ điều gì với bất cứ ai trừ phi ngươi có thể nhìn vào mắt người đó. Ta biết vậy, vì thế ta sẽ không để ngươi nhìn ta đâu.” Will trả lời: “Tôi chẳng định làm gì ông cả. Thực ra có một số người chúng ta có thể tin tưởng được mà, ông biết đấy.” “Hiếm hoi lắm,” Kẻ Lang Thang cay đắng nói. “Tôi có thể nhắm mắt lại nếu ông thả tôi ra,” “Hừ!” lão già nói. Will nói tiếp: “Ông mang theo Dấu Hiệu thứ hai. Hãy đưa nó cho tôi.” Không có tiếng trả lời. Cậu cảm thấy tay người đàn ông buông khỏi tay cậu, nhưng cậu vẫn đứng nguyên tại chỗ và không quay lại. “Tôi đã có Dấu Hiệu thứ nhất rồi, Kẻ Lang Thang,” cậu nói. “Ông biết là tôi có. Nhìn này, tôi sẽ mở khóa chiếc áo khoác, rồi tôi sẽ kéo nó ra phía sau để ông có thể nhìn thấy cái vòng đầu tiên trên thắt lưng của tôi.” Cậu kéo áo khoác sang một bên, vẫn không quay đầu lại và cảm nhận được cái dáng lom khom của Kẻ Lang Thang đang nghiêng sang bên sườn của cậu. Người đàn ông thở một hơi dài não nề qua kẽ răng, rồi ngẩng đầu lên nhìn Will không chút đề phòng. Trong ánh lửa vàng của cành cây đang cháy đều đều, Will nhìn thấy một khuôn mặt nhăn nhó với nhiều cảm xúc giằng xé: hy vọng, sợ hãi và cảm giác được giải thoát quyện vào nhau trong vẻ bất an đầy đau khổ. Khi người đàn ông cất tiếng, giọng lão vỡ ra, giản dị như một đứa trẻ đang buồn rầu. “Nó nặng lắm,” lão rầu rĩ nói. “Và ta đã phải mang nó rất lâu rồi. Ta thậm chí còn không thể nhớ được tại sao nữa. Luôn luôn sợ hãi, luôn luôn phải chạy trốn. Giá mà ta có thể loại bỏ nó, giá mà ta được nghỉ ngơi. Ôi, giá mà nó biến đi. Nhưng ta không dám đưa sai người, ta không dám. Những chuyện sẽ xảy ra với ta nếu ta làm vậy, chúng vô cùng kinh khủng, chúng không thể được diễn tả bằng lời. Những Cổ Nhân có thể tàn nhẫn, tàn nhẫn… Ta nghĩ ngươi đúng là người ta tìm kiếm, cậu bé ạ. Ta đã tìm kiếm ngươi rất lâu, rất lâu rồi, để trao Dấu Hiệu cho ngươi. Nhưng làm thế nào để ta có thể thật sự chắc chắn? Làm thế nào để ta có thể chắc chắn là ngươi không phải là một trò lừa gạt của Bóng Tối?” Lão ta khiếp sợ quá lâu, Will nghĩ, đến mức lão đã quên mất cách để kết thúc nỗi sợ. Thật kinh khủng làm sao, khi phải chịu đựng nỗi cô đơn tột cùng như vậy. Lão không biết tin mình bằng cách nào; đã quá lâu rồi lão không còn tin ai nữa, lão đã quên mất phải làm thế nào… “Xem này,” cậu nhẹ nhàng nói. “Ông phải biết là tôi không thuộc về Bóng Tối. Hãy suy nghĩ đi. Ông đã chứng kiến tên Kỵ Sĩ cố gắng quật ngã tôi mà.” Nhưng lão già đau khổ lắc đầu, và Will nhớ lại lão đã la hét và bỏ chạy thế nào ngay khi thấy tên Kỵ Sĩ xuất hiện. “Được rồi, nếu điều đó không ích lợi gì,” cậu nói, “thì liệu ngọn lửa có nói lên điều gì không?” “Ngọn lửa thì gần như là có thể,” Kẻ Lang Thang nói. Lão nhìn ngọn lửa đầy hy vọng; rồi khuôn mặt méo đi khi nỗi hoảng loạn lại kéo về. “Nhưng ngọn lửa này, nó sẽ mang bọn chúng đến, cậu bé ạ, cậu biết điều đó mà. Lũ quạ sẽ dẫn đường cho chúng. Làm thế nào để ta biết được liệu có phải cậu là một Cổ Nhân mới tỉnh dậy đang đùa nghịch hay đây là Dấu Hiệu để dẫn chúng đuổi theo ta?” Lão rên rỉ một mình đầy đau khổ, hai tay ôm chặt lấy hai vai. Đúng là một kẻ khốn khổ, Will thương hại nghĩ thầm. Nhưng bằng cách nào đó cậu phải làm cho lão ta hiểu. Will nhìn lên. Trên đầu cậu giờ đây đàn quạ đang lười nhác lượn vòng đã đông hơn và cậu có thể nghe thấy tiếng chúng gọi nhau ầm ĩ. Có phải lão già đã đúng, có phải những con chim đen sì kia là sứ giả của Bóng Tối? “Kẻ Lang Thang, vì Chúa,” cậu sốt ruột nói. “Ông phải tin tôi - nếu ông không tin ai, dù chỉ một lần thôi, đủ để trao cho người đó Dấu Hiệu thì ông sẽ phải mang nó suốt đời. Có phải đó là điều ông muốn không?” Lão già lang thang rền rĩ và lầm bầm, nhìn cậu trân trân bằng đôi mắt nhỏ tí điên dại; dường như hàng thế kỷ nay lão đã bị mắc kẹt trong sự ngờ vực giống như một con ruồi bị mắc vào mạng nhện. Nhưng con ruồi vẫn còn có cánh để có thể giúp chúng thoát ra khỏi mạng nhện; hãy trao cho lão sức mạnh để vỗ đôi cánh đó, chỉ một lần thôi… Thôi thúc bởi một phần nào đó rất lạ trong thâm tâm, và cũng không biết rõ lắm việc mình đang làm, Will nắm lấy vòng tròn trên thắt lưng và vươn thẳng người, cao hết sức có thể được và chỉ tay vào Kẻ Lang Thang, nói dõng dạc: “Cổ Nhân cuối cùng đã xuất hiện, hỡi Kẻ Lang Thang, thời khắc đã điểm. Bây giờ là thời điểm để trao lại Dấu Hiệu, bây giờ hoặc không bao giờ. Hãy chỉ nghĩ về điều đó - sẽ không còn cơ hội nào khác nữa. Ngay bây giờ, Kẻ Lang Thang. Trừ phi ngươi muốn phải mang nó suốt đời, ngay bây giờ hãy tuân lệnh Cổ Nhân. Ngay lập tức!” Như thể những lời ấy đã làm một cái lò xo bật ra. Ngay lập tức, mọi nỗi sợ hãi và nghi ngờ trên khuôn mặt già nua nhăn nhó giãn ra thành vẻ ngoan ngoãn nghe lời của một đứa trẻ. Với nụ cười thích thú gần như ngớ ngẩn, Kẻ Lang Thang dò dẫm sờ cái dây da to bản mà lão đang đeo chéo ngang ngực, rút ra một vòng tròn được chia tư bởi hình một dấu chữ thập giống hệt như cái Will đang đeo ở thắt lưng, nhưng nó phát ra ánh sáng màu vàng nâu đùng đục của đồng. Lão đặt nó vào tay Will, và bật ra một tiếng cười khúc khích trong niềm vui sướng đầy kinh ngạc. Trước mặt họ, ngọn lửa vàng từ cành cây trên tuyết đột ngột sáng bùng lên rồi tắt ngấm. Cành cây trở lại y nguyên như khi Will mới bước vào con hẻm: xám, không chút muội than, lạnh ngắt, như thể chưa đốm lửa nào chạm được vào nó. Nắm chặt chiếc vòng bằng đồng, Will nhìn chằm chằm xuống cành cây xù xì vẫn đang nằm trên lớp tuyết phẳng lì. Giờ đây khi ánh lửa đã tắt, không gian dường như đột nhiên mờ mịt hơn, tràn ngập bóng tối và cậu giật mình nhận ra chiều sắp tàn. Muộn rồi. Cậu phải đi thôi. Và rồi một giọng nói trong trẻo vang lên từ khoảng tối trước mặt: “Chào cậu, Will Stanton.” Kẻ Lang Thang kêu ré lên, một tiếng kêu sợ hãi, the thé khó nghe. Will vội bỏ vòng tròn bằng đồng vào túi và khó nhọc bước về phía trước. Rồi cậu gần như ngồi hẳn xuống tuyết vì nhẹ nhõm khi cậu nhận ra người vừa đến chỉ là Maggie Barnes, cô gái vắt sữa làm việc ở Trại Dawson. Maggie, người hâm mộ có đôi má đỏ như hai trái táo của Max này chẳng có gì đáng sợ cả. Thân hình béo tròn của chị ta quấn kỹ trong áo khoác, ủng và khăn; chị ta đang xách một cái giỏ đậy kín, đi xuôi về hướng con đường chính. Chị ta cười với Will rồi nhìn Kẻ Lang Thang vẻ cáo buộc. “Ơ kìa,” chị nói bằng chất giọng vùng Buckingham sang sảng, “lão già lang thang này đã quanh quẩn ở đây nửa tháng rồi. Ông chủ trang trại nói ông ấy muốn lão biến đi cho khuất mắt đấy, lão già kia. Lão ta đã quấy rầy cậu phải không, Will? Tôi dám cá là thế.” Chị ta trừng mắt nhìn Kẻ Lang Thang đang ủ rũ thu mình vào chiếc áo khoác dơ dáy giống hệt cái áo choàng không tay. “Ồ, không,” Will đáp. “Lúc đấy em lao trên chiếc xe buýt khởi hành từ Slough xuống, và em… đâm sầm vào ông ấy. Đúng là đâm sầm vào. Rơi hết cả đồ Giáng sinh,” cậu vội vàng nói thêm và cúi xuống nhặt các loại hộp, túi vẫn đang nằm vung vãi trên tuyết. Kẻ Lang Thang khịt khịt mũi, thu mình sâu hơn vào trong áo khoác và lê bước vượt qua Maggie để trở lại lối đi. Nhưng khi đi ngang qua Maggie, lão đột ngột dừng lại, giật nảy người về phía sau như thể vừa chạm phải một thanh chắn vô hình. Lão há hốc mồm, nhưng không kêu được tiếng nào. Will chậm chạp đứng thẳng dậy, quan sát, đống đồ chất đống trên tay. Một cảm giác lo sợ bắt đầu bò khắp người cậu, giống như cái ớn lạnh của một cơn gió lạnh lẽo. Maggie Barnes nói với vẻ hòa nhã: “Chuyến xe Slough trước đã qua đây lâu lắm rồi, cậu Will nhỉ. Thực ra, tôi đang đi bắt chuyến tiếp theo đây. Lần nào từ trạm dừng xe buýt đi về, cậu cũng mất nửa giờ cho đoạn đường chỉ cần năm phút à, Will Stanton?” “Em nghĩ việc em làm gì mất bao lâu thì liên quan gì đến chị,” Will trả lời. Cậu đang quan sát Kẻ Lang Thang lạnh cóng, và một vài hình ảnh rối bời hiện ra trong đầu cậu. “Cư xử thế đấy, cư xử thế đấy,” Maggie nói. “Mà cậu lại là một cậu bé được dạy dỗ tử tế chứ.” Đôi mắt chị ta sáng rực lên, nhìn xoáy vào Will qua tấm khăn choàng đầu. “Được rồi, tạm biệt, Maggie,” Will nói. “Em phải về nhà đây. Đã quá giờ uống trà rồi.” “Vấn đề với bọn lang thang bẩn thỉu ghê tởm này, giống như lão già mà cậu đã đâm sầm vào nhưng hắn vẫn chưa kịp làm phiền cậu,” Maggie Barnes vẫn không nhúc nhích mà nhẹ nhàng nói, “vấn đề với bọn họ là bọn họ ăn cắp mọi thứ. Chính tên này hôm nọ đã ăn cắp một thứ ở trang trại, cậu Will ạ, một thứ thuộc về tôi. Một món đồ trang sức. Một món đồ trang sức hình tròn khá lớn có màu nâu vàng mà tôi vẫn thường đeo trên cổ. Và tôi muốn lấy lại nó. Ngay bây giờ!.” Những từ cuối cùng bật ra với giọng hiểm độc, nhưng sau đó chị ta lại vô cùng ngọt ngào như thể giọng nói dịu dàng của chị ta chưa bao giờ thay đổi. “Tôi muốn lấy lại nó, tôi muốn vậy. Và tôi cho là có thể lão đã tuồn nó vào túi cậu nhân lúc cậu không để ý, khi cậu đâm vào lão. Nếu lão thấy tôi đang đến thì lão sẽ làm thế đấy, mà lão thì có thể thấy rõ lắm chứ, nhờ ánh sáng từ cái đống lửa nhỏ kỳ quặc mà tôi vừa nhìn thấy đang cháy ở chỗ này. Cậu nghĩ gì về tất cả những chuyện đó hả Will Stanton?” Will nuốt nước bọt. Tóc gáy cậu dựng ngược lên khi nghe những lời lẽ đó. Chị ta đang đứng, trông vẫn hệt như thường ngày, một cô gái có đôi má đỏ hồng, chất phác, phụ trách chiếc máy vắt sữa của nhà Dawson và chăm sóc lũ bê con; nhưng những lời chị ta đang nói ra không thể xuất phát từ một tâm địa nào ngoài tâm địa của Bóng Tối. Có phải chúng đã nhập vào Maggie? Hay từ trước đến giờ chị ta vẫn là người của bọn chúng? Nếu đúng như vậy thì chị ta còn có thể làm gì nữa? Cậu đứng đối diện với chị ta, một tay ôm chặt đống quà, một tay thận trọng thò vào trong túi. Dấu Hiệu Đồng lạnh toát dưới ngón tay cậu. Cậu triệu tập toàn bộ sức mạnh của ý nghĩ mà cậu có để đuổi chị ta đi nhưng chị ta vẫn đứng đó, lạnh lùng mỉm cười với cậu. Cậu gọi tất cả tên các quyền năng ông Merriman từng gọi mà cậu có thể nhớ được để thực hiện pháp thuật đuổi chị ta đi: Quý Bà, Vòng Tròn, và những Dấu Hiệu. Nhưng cậu biết cậu vẫn chưa gọi được đúng quyền năng. Và Maggie phá lên cười, thong thả tiến lên, nhìn vào mặt cậu, và Will nhận ra mình không thể nhúc nhích được. Cậu đã bị bắt, chết cứng như Kẻ Lang Thang; đứng bất động một chỗ và không thể di chuyển được lấy một phân. Cậu giận dữ nhìn chằm chằm vào Maggie Barnes trong chiếc khăn quàng đỏ mịn và chiếc áo khoác đen kín đáo, trong lúc chị ta thò tay vào túi áo khoác của cậu và lôi Dấu Hiệu Đồng ra. Chị ta giơ nó trước mặt cậu, rồi nhanh chóng mở cúc áo khoác của cậu, tháo thắt lưng ra và luồn cái vòng tròn bằng đồng vào cạnh vòng tròn sắt. “Kéo quần lên đi, Will Stanton,” chị ta châm chọc. “Ôi trời ơi, nhưng bây giờ thì cậu không thể làm thế được, phải không… Nhưng thật ra cậu đâu có đeo cái thắt lưng này để giữ quần phải không? Cậu đeo nó để giữ những… vật trang sức… bé xinh này an toàn…” Will để ý thấy chị ta cố hết sức chỉ cầm hờ hai Dấu Hiệu, và nhăn mặt lại khi phải chạm mạnh vào chúng; cái lạnh từ những vòng tròn này chắc hẳn đã thấu đến tận xương tủy chị ta. Cậu nhìn trong nỗi tuyệt vọng vô bờ. Cậu không thể làm gì. Mọi nỗ lực và công sức tìm kiếm đang bị đổ xuống sông xuống bể khi mà thậm chí cậu còn chưa làm được việc gì ra trò, và cậu không thể làm gì. Cậu vừa muốn hét lên giận dữ, vừa muốn òa khóc. Nhưng rồi, một cái gì đó lay động trong thẳm sâu tâm trí cậu. Một chi tiết nào đó thoảng qua trong ký ức, nhưng cậu không tài nào nắm bắt được. Cậu chỉ nhớ ra điều đó đúng vào giây phút Maggie Barnes má đỏ giơ chiếc thắt lưng ra trước mặt cậu, với vòng tròn thứ nhất và vòng tròn thứ hai để cạnh nhau, chiếc bằng sắt xám đục và chiếc bằng đồng sáng bóng. Hau háu nhìn hai chiếc vòng, Maggie cất tiếng cười ngạo nghễ, tiếng cười dường như càng có vẻ độc địa hơn khi được phát ra từ bộ mặt hồng hào cởi mở của chị ta. Và Will đã nhớ ra. …khi vòng tròn cửa hắn đặt trên thắt lưng của cậu, bên cạnh Dấu Hiệu đầu tiên, thì ta sẽ đến… Đúng lúc đó, ngọn lửa bùng lên từ cành cây đu rơi trên mặt đất mà Will đã đốt lúc trước, và ngọn lửa không biết từ đâu tạo thành một vòng sáng trắng lóa bao quanh Maggie Barnes, một vòng ánh sáng cao quá đầu chị ta. Chị ta đột nhiên sụp xuống tuyết, người co rúm lại, miệng méo xệch vì sợ hãi. Chiếc thắt lưng có hai Dấu Hiệu nối với nhau rơi khỏi bàn tay mềm rũ của chị ta. Và ông Merriman đang đứng đó. Cao lớn trong chiếc áo khoác đen dài, khuôn mặt khuất trong bóng tối của chiếc mũ trùm đầu, ông đang đứng đó bên lề đường, ngay phía trên vòng tròn sáng rực và người con gái đang rúm ró. “Mang cô ta ra khỏi con đường này,” ông hô to, dõng dạc, và vòng lửa sáng rực từ từ dịch sang một bên, đẩy cô nàng Maggie loạng choạng bước theo, cho đến khi nó là là trên mặt đất gồ ghề cạnh lối đi. Rồi với một tiếng nổ lách tách bất ngờ, vòng lửa biến mất, thay vào đó, Will thấy hai rào chắn khổng lồ bằng ánh sáng mọc lên từ hai bên đường tạo thành hai hàng rào những ngọn lửa cháy rực, trải dài về cả hai phía cho đến hút tầm mắt - dài hơn rất nhiều so với Hẻm Lang Thang Will từng biết. Cậu nhìn trân trân vào hàng rào ánh sáng ấy, cảm thấy hơi rờn rợn. Trong bóng tối bên ngoài, cậu có thể nhìn thấy Maggie Barnes đang bò lổm ngổm trên tuyết một cách thảm hại, hai cánh tay đưa lên mắt che ánh sáng. Còn cậu, ông Merriman và Kẻ Lang Thang đứng trong con đường hầm rộng lớn vô tận được dựng nên bởi những ngọn lửa trắng lạnh. Will cúi xuống nhặt dây lưng lên, và với một cảm giác chào mừng nhẹ nhõm, cậu nắm chặt hai Dấu Hiệu, cái bằng sắt ở bên tay trái và cái bằng đồng ở bên tay phải. Ông Merriman bước đến cạnh cậu, đưa cánh tay phải lên khiến chiếc áo choàng rủ xuống như cánh một con chim khổng lồ, và giơ một ngón tay dài chỉ về phía cô gái. Ông kêu to một cái tên dài lạ lùng mà Will chưa từng nghe thấy và cũng không thể nhớ được, và Maggie kêu ré lên. Ông Merriman nói, giọng khinh bỉ lạnh như băng: “Hãy quay lại và nói với chúng rằng chúng không thể chạm vào các Dấu Hiệu. Và nếu ngươi vẫn chưa bị hao tâm tổn sức, thì cũng đừng có mà thử thực hiện lần nữa mưu đồ của mình khi đang đứng trên những Con Đường của chúng ta. Vì những con đường cổ đã được đánh thức và quyền năng của chúng đã sống lại. Và lần này thì chúng sẽ không còn thương hại hay xót xa nữa đâu.” Ông lại kêu to cái tên kỳ lạ đó và ngọn lửa bên lề đường bùng lên cao hơn, người con gái rú lên run rẩy, như thể đang vô cùng đau đớn. Rồi chị ta lủi khỏi bãi tuyết, lưng còng xuống như một con vật ti tiện. Ông Merriman nhìn Will. “Hãy nhớ có hai thứ đã cứu cậu,” ông nói, ánh sáng lấp lánh trên chiếc mũi khoằm và trong đôi mắt sâu thẳm khuất dưới mũ trùm đầu. “Thứ nhất, ta biết tên thật của cô ta. Cách duy nhất để tước bỏ sức mạnh của một kẻ thuộc thế lực Bóng Tối là gọi kẻ đó bằng tên thật của hắn: cái tên mà bọn chúng thường giữ rất kín. Thứ hai, ngoài cái tên ra, còn có con đường. Cậu có biết tên của con đường này không?” “Hẻm Lang Thang ạ,” Will trả lời ngay. “Đó không phải là tên thật,” Merriman nói với vẻ không hài lòng. “Không phải ạ. Mẹ cháu chẳng bao giờ dùng tên đó cả, và cũng không muôn chúng cháu gọi thế. Mẹ nói, tên đó xấu lắm. Nhưng cháu chẳng thấy ai gọi nó bằng cái tên nào khác cả. Cháu cảm thấy thật ngốc nếu gọi nó là Ngõ…” Will đột ngột dừng lại, lần đầu tiên trong đời cậu thật sự được nghe và thốt ra cái tên ấy. Cậu nói chậm rãi: “Nếu cháu gọi nó bằng tên thật, Ngõ Đường Cổ.” “Cậu sẽ cảm thấy mình ngớ ngẩn,” Merriman nghiêm nghị nói, “Nhưng chính cái tên khiến cậu cảm thấy ngớ ngẩn đó đã góp phần cứu sống cậu đấy. Ngõ Đường Cổ. Đúng vậy. Và nó không được đặt theo tên một ông Đường Cổ xa lắc xa lơ nào đó đâu. Cái tên đó chỉ đơn thuần cho biết con đường là gì, cũng giống như ý nghĩa của tên các con đường và địa danh trong những vùng đất cổ vậy, giá mà con người quan tâm đến chúng hơn nữa. Thật may là khi cậu đùa giỡn với ngọn lửa ấy thì cậu đang đứng trên một trong những Đường Cổ, nơi các Cổ Nhân đã đặt chân lên suốt ba nghìn năm qua, Will Stanton ạ. Nếu cậu đang ở bất kỳ nơi nào khác, với cái quyền năng còn chưa được rèn luyện đó của cậu, thì cậu đã tự đặt mình vào một tình huống dễ bị tấn công đến mức mọi thế lực Bóng Tối trên vùng đất này đều sẽ bị hút về chỗ cậu. Giống như cô nàng phù thủy kia đã bị lũ chim thu hút. Hãy nhìn kỹ con đường này, cậu bé, và đừng gọi nó bằng những tên thông tục nữa.” Will nuốt nước bọt và nhìn chằm chằm con đường có hai hàng rào bằng lửa trải dài tít tắp như một đường mặt trời huy hoàng nào đó, và đột nhiên có gì đó thôi thúc khiến cậu lóng ngóng cúi chào, gập lưng lại thấp hết mức đống quà cho phép. Những ngọn lửa lại bùng lên và uốn cong vào trong như thể chúng cũng cúi chào đáp lễ. Rồi chúng tắt lịm đi. “Khá lắm,” ông Merriman nói với vẻ ngạc nhiên và có phần thích thú. Will nói: “Cháu sẽ không bao giờ, không bao giờ làm bất kỳ chuyện gì bằng… bằng quyền năng nữa, trừ khi có lý do chính đáng. Cháu hứa. Có sự chứng giám của Quý Bà và thế giới cổ. Nhưng,” cậu không thể kiềm chế được “ông Merriman, chính ngọn lửa đó đã dẫn Kẻ Lang Thang đến với cháu, phải không ạ, và Kẻ Lang Thang mang theo Dấu Hiệu.” “Kẻ Lang Thang đang đợi cậu, cậu ngốc ạ,” Merriman tức giận trả lời. “Ta đã nói là hắn sẽ tìm thấy cậu, và cậu thì lại không nhớ ra. Bây giờ thì hãy ghi nhớ. Trong thế giới pháp thuật, mọi lời nói dù nhỏ nhất cũng đều có ý nghĩa và trọng lượng. Mọi lời mà ta nói với cậu - hay mọi lời mà bất kỳ Cổ Nhân nào khác có thể nói. Kẻ Lang Thang ư? Từ rất lâu rồi, lâu đến mức cậu không thể tưởng tượng nổi, hắn đã đợi cậu được sinh ra, đợi cậu đứng một mình với hắn và yêu càu hắn đưa Dấu Hiệu. Ta phải nói rằng cậu đã làm rất tốt - vấn đề khó khăn nhất là khiến cho hắn từ bỏ Dấu Hiệu khi thời điểm đã đến. Kẻ khốn khổ. Hắn đã có lần phản bội các Cổ Nhân, cách đây rất lâu rồi, và đây là số phận của hắn.” Giọng ông hơi dịu xuống. “Quả là một thời kỳ vất vả cho hắn, phải mang theo Dấu Hiệu thứ hai. Nếu hắn muốn, hắn còn có thể đảm nhiệm một việc khác trong sứ mệnh của chúng ta, trước khi hắn có thể nghỉ ngơi. Nhưng chưa phải bây giờ.” Cả hai cùng nhìn thân hình bất động của Kẻ Lang Thang, lão vẫn đang đứng im lìm bên đường từ lúc bị Maggie Barnes yểm bùa. “Đúng là một tư thế chẳng dễ chịu tí nào,” Will nói. ẳ ẳ “Hắn chẳng cảm thấy gì đâu,” ông Merriman nói. “Thậm chí sẽ chẳng bị tê chân tê tay gì cả. Các Cổ Nhân và những kẻ thuộc Bóng Tối có chung một vài pháp thuật nho nhỏ, và một trong số đó là đưa con người ra khỏi Thời Gian trong một khoảng cần thiết. Hay đối với thế lực Bóng Tối thì chúng sẽ đưa người ta đi bao lâu tùy ý thích của chúng.” Ông chỉ tay vào cái dáng bất động, không rõ hình thù rồi khẽ đọc nhanh một vài lời thần chú mà Will không nghe được, và Kẻ Lang Thang tỉnh dậy, giống như hình ảnh trong một đoạn phim đang tạm ngừng được bật trở lại. Lão mở to mắt nhìn ông Merriman và há hốc mồm, kêu lên một âm thanh khô khốc kỳ quặc không thành tiếng. “Đi đi,” ông Merriman nói. Lão già co rúm lại, siết chặt cái áo đang bay lật phật quanh người rồi lóng ngóng nửa chạy nửa đi xuôi theo con đường hẹp. Đang dõi theo lão, Will chợt chớp mắt, rồi nhìn thật kỹ, rồi lại dụi mắt; dường như Kẻ Lang Thang đang mờ dần, mỏng đi một cách lạ thường, đến mức cậu có thể nhìn xuyên qua người lão ta thấy những cái cây phía bên kia. Rồi lão đột nhiên biến mất, giống như một ngôi sao bị mây che khuất. Ông Merriman nói: “Ta làm đấy, không phải tự hắn đâu. Ta nghĩ, hắn xứng đáng có được một khoảng thời gian yên bình tại một nơi nào đó khác. Đó là quyền năng của Đường Cổ, Will ạ. Cậu đã có thể dùng mẹo này để thoát khỏi cô ả phù thủy kia, một cách vô cùng dễ dàng, nếu cậu biết cách. Trong thời gian tới, cậu sẽ được học điều đó, cùng với những tên thật và nhiều điều khác nữa.” Will tò mò hỏi: “Thế tên thật của ông là gì?” Đôi mắt đen lấp lánh chiếu vào cậu từ bên trong chiếc mũ trùm đầu. “Merriman Lyon. Ta đã nói với cậu khi chúng ta mới gặp nhau rồi.” “Nhưng cháu nghĩ nếu đó đúng là tên thật của ông, của một Cổ Nhân, thì ông đã không nói cho cháu biết.” Will nói, “Hay ít ra là cũng không nói to lên.” “Cậu đang vỡ ra rồi đấy,” ông Merriman vui vẻ nói. “Đi thôi, trời tối rồi.” Họ cùng đi xuôi theo lối đi nhỏ. Tay ôm đống túi và hộp, Will lóc cóc chạy bên cạnh dáng người khoác áo choàng đang sải bước đó. Họ nói chuyện rất ít nhưng ông Merriman luôn đưa tay giữ lấy cậu khi cậu hẫng chân xuống hố hay vấp vào đống gì đó. Khi họ đã đi được một đoạn xa, đến khúc ngoặt rẽ vào con đường rộng hơn, đường Thung Lũng Thợ Săn, Will nhìn thấy Max, anh trai cậu, đang rảo bước về phía họ. “Nhìn kìa, anh Max đấy!” “Phải rồi,” ông Merriman đáp. Max gọi, vẫy tay vui vẻ, rồi tiến đến gần. “Anh đang đến trạm xe buýt đón em đây,” anh nói. “Mẹ lo cuống lên vì cục cưng của mẹ về muộn đấy.” “Thôi đi, vì Chúa,” Will đáp. “Tại sao em lại đi đường kia?” Max vẫy tay về hướng Hẻm Lang Thang. “Chúng em vừa…” Will bắt đầu, và khi quay đầu để chỉ sang phía ông Merriman thì cậu không nói tiếp được nữa, đột ngột đến mức cậu cắn cả vào lưỡi. Ông Merriman đã biến mất. Trên nền tuyết nơi ông vừa đứng chỉ một giây trước đó không sót lại bất kỳ dấu vết gì. Và khi Will nhìn lại con đường họ vừa đi qua để tới đường Thung Lũng Thợ Săn, hướng tới tận khúc quanh xa nhất của lối đi nhỏ hơn, cậu chỉ có thể nhìn thấy một hàng dấu chân duy nhất - dấu chân của chính cậu. Cậu tưởng như vừa nghe thấy trong không gian một tiếng nhạc mơ hồ trong như tiếng bạc, nhưng ngay khi cậu ngẩng đầu lên lắng nghe thì tiếng nhạc ấy cũng biến mất. PHẦN HAI KIẾN THỨC Ngày trước Giáng sinh Ngày trước Giáng sinh. Đó là ngày mà niềm vui Giáng sinh thật sự bùng cháy trong nhà Stanton. Những ngụ ý, những bóng gió và hứa hẹn về các món quà đặc biệt vốn đã được nhỏ to trong nhà hàng tuần trước bây giờ đột ngột bùng lên thành niềm mong ngóng khôn nguôi. Mùi bánh nướng thơm phức từ bếp tỏa khắp ngôi nhà, đến tận góc nhà nơi Gwen đang hoàn thành những nét trang trí cuối cùng trên lớp kem của chiếc bánh Giáng sinh. Mẹ đã làm chiếc bánh này từ ba tuần trước, còn chiếc bánh putđing[7] dành cho lễ Giáng sinh thì từ ba tháng trước cơ. Mỗi khi có ai đó bật đài lên, tiếng nhạc Giáng sinh quen thuộc nhưng không bao giờ cũ lại tràn ngập không gian. Không ai bật tivi vì vào thời gian này nó đã trở thành thứ đồ không thích hợp. Đối với Will, không khí của ngày hôm nay đã đến từ rất sớm. Ngay sau bữa sáng - một bữa sáng lộn xộn hơn hẳn ngày thường - là đến nghi lễ kép đốt củi Giáng sinh[8] và trồng cây Giáng sinh. Ông Stanton đang ăn nốt lát bánh mì nướng cuối cùng. Will và James bồn chồn đứng hai bên, cạnh bàn ăn sáng. Người bố cầm trong tay miếng vỏ bánh ăn dở, dán mắt vào trang thể thao của tờ báo. Bình thường Will cũng rất say mê theo dõi số phận câu lạc bộ bóng đá Chelsea, nhưng trong buổi sáng trước Giáng sinh thì khác. “Bố ơi, bố có muốn ăn thêm ít bánh nữa không ạ?” Cậu hỏi thật to. “Ừm,” ông Stanton ậm ừ. “À à.” James hỏi: “Bố uống trà thế đã đủ chưa ạ?” Ông Stanton nhìn lên, quay cái đầu tròn với đôi mắt hiền hậu sang hai bên nhìn từng đứa một rồi bật cười. Ông đặt tờ báo xuống, uống cạn tách trà, rồi nhét nốt miếng bánh mì vào mồm. “Nào, đi thôi,” ông lúng búng trong miệng, xách tai từng đứa một. Cả hai đứa hò reo sung sướng rồi vội vàng chạy đi lấy ủng, áo khoác và khăn quàng. Họ đẩy chiếc xe ba gác xuống đường, theo sau là Will, James, ông Stanton và anh chàng Max cao kều, còn to hơn cả bố, hơn tất cả mọi người, với mái tóc đen dài tua tủa thò ra ngoài chiếc mũ lưỡi trai càn quấy nom thật tức cười. Không biết Maggie Barnes sẽ nghĩ gì về cái bộ dạng này, Will vui vẻ nghĩ thầm, khi chị ta tinh nghịch nhìn trộm qua rèm cửa để liếc mắt đưa tình với Max như thường lệ đây; và ngay lập tức, cậu nhớ lại chuyện về Maggie Barnes, và cậu nhủ thầm trong một khoảnh khắc hoảng hốt: Trại chủ Dawson là một trong các Cổ Nhân, bác ấy cần phải được cảnh báo về chị ta - và cậu gần như phát điên vì trước kia đã không nghĩ tới chuyện này. Họ dừng lại trong sân nhà Dawson, được cụ George Smith ra đón với một nụ cười rộng ngoác. Sáng hôm đó đường dễ đi hơn vì người ta đã cho máy xúc tuyết đi qua một lượt; nhưng khắp nơi, tuyết vẫn nằm bất động trong cái lạnh triền miên, xám xịt và không một chút gió. “Tôi đã để dành cho ông một cây hết ý nhé!” Cụ George vui vẻ kêu lên. “Thẳng như cột buồm, giống hệt cây của Trại chủ. Cùng là hai cây Hoàng Gia thì phải.” “Đúng là Hoàng Gia thật,” ông Dawson nói, vừa bước ra ngoài vừa khép chặt chiếc áo khoác quanh người. Will biết ông nói theo nghĩa đen; hàng năm, đồn điền Vương Miện bao quanh Cung điện Windsor[9] đều bán một số cây Giáng sinh và nhiều cây được chở về làng bằng xe tải của Trại Dawson. “Chào Frank,” ông Stanton nói. “Chào Roger,” Trại chủ Dawson đáp lại, và cười với các cậu bé. “Này, các chàng trai. Đẩy cái xe vòng ra phía sau đi.” Đôi mắt ông nhìn Will bâng quơ, không hề tỏ ra chú ý, nhưng Will đã cố tình mở hé áo khoác để cho thấy trên thắt lưng của cậu giờ đã có hai Dấu Hiệu vòng tròn chia tư, chứ không phải một. “Nhìn cả nhà vui vẻ mà tôi cũng thấy vui lây,” ông Dawson hồ hởi nói với cả mấy bố con, trong lúc ba anh em hì hục kéo cái xe đẩy vòng sang phía sau chuồng ngựa; tay ông thoáng đặt lên vai Will, hơi ấn xuống để nhắn nhủ rằng Trại chủ Dawson đã biết về những chuyện xảy ra trong vài ngày qua. Cậu nghĩ tới Maggie Barnes và vội vàng tìm cách cảnh báo ông. “Bạn gái anh đâu, Max?” Cậu cố tình hỏi thật to và dõng dạc. “Bạn gái á?” Max tức giận nối. Vốn đang có mối quan hệ rất thân mật với một nàng sinh viên tóc vàng học cùng Trường Nghệ Thuật London, người vẫn ngày ngày gửi cho anh những phong bì thư màu xanh dày cộp, anh chẳng thèm mảy may quan tâm tới tất cả đám thiếu nữ trong vùng. “Hô, hô, hô[10],” Will cố gắng hô to. “Anh biết mà.” Thật may mắn, James cũng thích những trò kiểu này và hào hứng tham gia. “Maggie-maggie-maggie,” James khoái chí hát. “Ôi Maggie, nàng vắt sữa dễ thương yêu Maxie chàng nghệ sĩ vĩ đại, oooh… oooh…” Max thụi vào sườn James, và anh chàng này phá lên cười hinh hích. “Cô Maggie buộc phải chia tay chúng tôi rồi,” ông Dawson lạnh lùng thông báo. “Chuyện ốm đau trong gia đình, cần có mặt ở nhà. Cô ấy đã khăn gói lên đường từ sáng sớm nay rồi. Rất tiếc vì đã làm cậu thất vọng, Max.” “Cháu không thất vọng,” Max nói, mặt đỏ bừng lên. “Đó chỉ là mấy trò đùa lăng nhăng vớ vẩn…” “Ô ô ô…” James lại vừa hát vừa nhảy nhót, cách xa tầm tay Max. “Ô ô Maxie tội tình thay, đã để mất nàng Maggie của mình…” Will không nói gì. Cậu đã thỏa mãn. Cây thông cao lớn với đám cành lá buộc gọn ghẽ bằng những dải dây màu trắng lù xù được chất lên xe đẩy, và cùng với nó là một đoạn rễ sồi sần sùi mà Trại chủ Dawson đã cưa ra và chẻ làm đôi ngay từ đầu năm để dành làm Khúc gỗ Noel cho cả nhà ông và nhà Stanton. Nó phải là rễ chứ không phải cành cây, Will biết vậy, mặc dù chưa từng có ai giải thích tại sao. Tối nay, họ sẽ đốt khúc gỗ ấy trong chiếc lò sưởi lớn xây bằng gạch trong phòng khách của gia đình, và nó sẽ cháy âm ỉ cả buổi tối cho đến khi họ đi ngủ. Mọi người còn cất một mẩu gỗ Noel năm ngoái ở đâu đó để dùng làm mồi châm lửa cho khúc gỗ năm nay. “Đây,” cụ George nói, đột ngột xuất hiện cạnh Will khi cả mấy bố con đang đẩy chiếc xe ra khỏi cổng. “Nhà anh nên có thêm cả cái này nữa.” Cụ chìa ra một bó cây nhựa ruồi[11] nặng trĩu quả. “Cụ tốt bụng quá, cụ George ạ,” ông Stanton nói. “Nhưng chúng tôi có cả một cây nhựa ruồi to tướng trồng ngay trước cửa rồi, cụ biết mà. Nếu cụ biết ai đó chưa có thì…” ẳ “Không, không, cứ lấy đi,” ông cụ ngoắc ngón tay. “Cây nhà anh chẳng có được một nửa số quả so với chỗ này đâu. Đây là cây nhựa ruồi đặc biệt đấy.” Cụ cẩn thận đặt nó lên xe; rồi bẻ nhanh một nhánh cây con, kín đáo cài nó lên khuy áo khoác trên cùng của Will. “Và một sự bảo vệ hiệu quả chống lại Bóng Tối,” giọng nói già nua hạ thấp xuống bên tai Will, “nếu treo trên cửa sổ và cửa ra vào.” Rồi cụ toét miệng, phô ra hai hàng lợi hồng hồng, làm khuôn mặt nâu sạm nhăn nheo của cụ giãn ra trong một nụ cười xa xưa, và Cổ Nhân lại trở về là cụ George, vẫy chào tạm biệt họ. “Chúc mừng Giáng sinh!” “Chúc mừng Giáng sinh, cụ George!” Khi họ long trọng đưa cái cây vào nhà qua cửa trước thì hai đứa sinh đôi đã đón sẵn với một tấm ván hình chữ thập và tuốc nơ vít, để làm bệ cho nó. Ở cuối phòng, Mary và Barbara đang ngồi giữa một biển giấy màu sột soạt, cắt chúng thành những dải băng đủ màu, đỏ, vàng, xanh da trời, xanh lá cây, rồi dán thành dây xúc xích. “Lẽ ra chị phải làm xong từ ngày hôm qua rồi chứ,” Will nói. “Còn phải để cho hồ dán khô đi nữa.” “Lẽ ra em phải làm xong từ ngày hôm qua thì có,” Mary tức tối nói, hất mái tóc dài về phía sau. “Đây là việc của con út chứ.” “Hôm trước em đã cắt bao nhiêu là dải rồi mà,” Will nói. “Bọn chị dán hết từ lâu rồi.” “Dù sao đi nữa thì em cũng đã cắt rồi.” “Hơn nữa,” Barbara dàn hòa. “Hôm qua nó đã đi sắm đồ Giáng sinh. Nên tốt hơn hết là ngậm miệng lại, Mary ạ, không thì có khi nó giữ quà của em lại đấy.” Mary vẫn còn càu nhàu nhưng đã dịu bớt, và Will miễn cưỡng dán một vài dây xúc xích lại với nhau. Nhưng mắt cậu vẫn dõi ra phía cửa, và khi thấy James cùng bố xuất hiện, tay ôm đầy những hộp cactông cũ thì cậu lặng lẽ lẻn ra theo sau hai người. Không gì có thể ngăn cậu trang hoàng cây Noel cả. Bên trong những chiếc hộp là tất cả những vật trang trí quen thuộc để biến cuộc sống thường ngày của gia đình thành một lễ hội kéo dài mười hai ngày đêm; bức tượng thiên thần tóc vàng để đặt lên ngọn cây, những dây đèn màu nhấp nháy. Còn có cả những quả bóng thủy tinh mỏng mảnh để treo lên cây Noel, được giữ gìn rất cẩn thận nhiều năm nay. Những hình bán cầu xoắn trông như những con sò màu đỏ và màu vàng lục, những mũi tên bằng thủy tinh dài mảnh, những mạng nhện được làm từ sợi và hạt thủy tinh màu bạc; được treo trên những cành lá khuất trong bóng tối, chúng khẽ đung đưa và tỏa ánh sáng mờ ảo. Ngoài ra, còn biết bao thứ quý giá khác. Những ngôi sao vàng nhỏ xinh và những vòng tròn bện bằng rơm; những chiếc chuông bằng giấy bạc nhẹ nhàng đung đưa. Rồi đến một loạt những sản phẩm trang trí của mấy đứa trẻ nhà Stanton, từ một chú tuần lộc nhỏ mà Will làm từ cái ống thông điếu cho đến hình chữ thập rỗng tuyệt đẹp mà Max uốn bằng dây đồng ngay trong năm đầu tiên ở trường nghệ thuật. Tiếp đó là chùm dây kim tuyến lóng lánh để phủ lên bất kỳ nơi nào, và thế là cái hộp hết sạch đồ. Nhưng vẫn chưa hẳn đã hết. Trong khi cẩn thận đưa tay lục lọi trong mớ giấy vụn chất đầy trong một chiếc thùng cactông cũ cao gần bằng cậu, Will tìm thấy một chiếc hộp dẹt chỉ to bằng bàn tay của cậu. Nó kêu lóc xóc. “Cái gì đây nhỉ?” cậu tò mò hỏi, cố gắng cậy cái nắp ra. “Chúa ơi,” bà Stanton đang ngồi trong chiếc ghế bành giữa phòng bỗng kêu lên. “Mang đây cho mẹ xem chút nào, cưng. Đó có phải là…. ôi đúng rồi! Nó ở trong cái hộp lớn kia à? Mẹ cứ nghĩ là nhà mình đã đánh mất nó từ lâu lắm rồi cơ đấy. Anh Roger ơi, nhìn xem này. Xem cậu út của chúng ta đã tìm được gì đây này. Đây chính là cái hộp chữ cái của Frank Dawson mà.” Bà ấn vào một cái chốt trên nắp hộp và nó kêu tách lên, bật ra. Will nhìn thấy bên trong có những miếng gỗ nhỏ chạm trổ tinh xảo, một loại gỗ nhẹ nào đó mà cậu không biết tên. Bà Stanton cầm một miếng lên: một chữ S uốn lượn, với cái đầu rắn được tỉa tót tỉ mỉ tuyệt đẹp và phần thân rắn có vảy uốn quanh một sợi dây gần như vô hình. Rồi đến một miếng khác: một chữ M cong cong, hai đỉnh nhô lên giống như hai ngọn tháp sinh đôi của một nhà thờ huyền ảo. Những nét chạm khắc tinh xảo đến mức gần như không thể nhận ra mấu nối giữa miếng gỗ với sợi dây mảnh dùng để treo chúng lên. Ông Stanton leo xuống chiếc thang đứng đến gần nhẹ nhàng thò một ngón tay vào trong hộp. “Ái chà chà,” ông nói. “Giỏi lắm Will.” “Con chưa bao giờ nhìn thấy cái hộp này,” “Thật ra con đã nhìn thấy rồi,” mẹ cậu nói. “Nhưng từ lâu lắm rồi nên con không nhớ đấy thôi. Nó biến mất từ bao năm nay rồi. Hóa ra là nó nầm dưới đáy cái hộp cũ kia từ bấy đến giờ.” “Nhưng chúng là gì vậy ạ?” “Đồ để trang hoàng cây Noel chứ còn gì nữa,” Mary lên tiếng khi cô nhòm xuống qua vai mẹ. “Trại chủ Dawson làm cho chúng ta đấy,” bà Stanton nói. “Các con thấy không, nó được chạm trổ thật đẹp. Và tuổi của nó đúng bằng của gia đình mình - vào lễ Giáng sinh đầu tiên của chúng ta trong ngôi nhà này, Frank đã làm một chữ R cho Roger,” bà nhặt nó lên, “và một chữ A cho mẹ.” Ông Stanton kéo ra hai chữ cái gắn liền với nhau bằng một sợi dây mảnh. “Robin và Paul. Hai chữ này có muộn hơn bình thường một chút. Bố mẹ không nghĩ là sẽ sinh đôi… Quả thật, Frank đúng là cừ. Anh không biết liệu đến giờ cậu ta có còn thời gian cho những việc như thế này không nữa?” Bà Stanton vẫn đang lật từng miếng gỗ trang trí nhỏ bằng những ngón tay thanh mảnh nhưng cứng cáp. “M cho Max, và M cho Mary… Frank đã cáu điên lên với vợ chồng mình vì tội lặp lại, em vẫn còn nhớ rất rõ… Ôi, anh Roger,” giọng bà đột nhiên thấp xuống. “Nhìn cái này xem.” Will đứng nhìn bên cạnh bố. Đó là một chữ T được tạc theo hình một cái cây nhỏ tinh tế với hai nhánh cây chĩa sang hai bên. “Chữ T ư?” Cậu hỏi. “Nhưng trong chúng con có tên ai bắt đầu bằng chữ T đâu?” “Đó là Tom,” mẹ cậu trả lời. “Mẹ cũng thật sự không hiểu tại sao mẹ lại không bao giờ nói chuyện với đám em út các con về Tom. Chuyện đó đã lâu lắm rồi… Tom là người anh đã mất từ khi còn rất nhỏ của các con. Anh ấy bị bệnh phổi, một loại bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh, và anh ấy chỉ sống được có ba ngày. Bác Frank đã khắc sẵn chữ cái này cho anh ấy vì đó là con đầu lòng của bố mẹ, và bố mẹ đã chuẩn bị sẵn hai cái tên để lựa chọn: nếu là con trai sẽ tên là Tom, còn con gái sẽ tên là Tess…” Giọng bà nghe như đang thổn thức và Will đột nhiên cảm thấy hối tiếc vì đã tìm ra những con chữ kia. Cậu vụng về vỗ nhẹ lên vai bà. “Đừng suy nghĩ gì cả, mẹ ạ,” cậu nói. “Ôi, trời ơi,” bà Stanton mạnh mẽ nói. “Mẹ không buồn đâu, con yêu. Chuyện đó đã lâu lắm rồi. Nếu còn sống thì giờ Tom đã là một chàng trai rồi, lớn hơn cả Stephen. Mà nói cho cùng,” bà đưa ánh mắt hài hước nhìn khắp căn phòng chật ních người và hộp, “thì một đàn chín đứa con cũng đã là quá đủ đối với bất kỳ một người phụ nữ nào rồi.” “Đúng vậy,” ông Stanton đồng tình. “Đó là vì các cụ tổ làm nghề nông của mẹ đấy, mẹ ạ,” Paul lên tiếng. “Họ mong muốn gia đình đông con nhiều cháu. Nhiều lao động miễn phí.” “Lại nói đến lao động miễn phí,” bố cậu nói, “James và Max biến đi đâu rồi nhỉ?” “Đang đi lấy thêm hộp rồi ạ.” “Có thế chứ. Rất năng động!” “Tinh thần Giáng sinh mà,” Robin nói vọng xuống từ trên chiếc thang đứng. “Những người Thiên chúa giáo ngoan đạo ăn mừng, và những thứ tương tự như vậy. Sao ai đó không bật nhạc lên nhỉ?” Barbara, đang ngồi trên sàn cạnh mẹ, cầm miếng gỗ khắc hình chữ T từ tay bà để xếp vào hàng chữ cô đặt trên thảm theo thứ tự các anh chị em trong nhà. “Tom, Steve, Max, Gwen, Robin và Paul, con, Mary, James,” cô đọc lần lượt. “Nhưng chữ W của Will đâu?” “Chữ cái của Will cũng ở đó cùng với những miếng khác. Trong hộp ấy.” “Em còn nhớ không, đó thực ra không phải là chữ W đâu,” ông Stanton nói. “Đó là một biểu tượng gì đó. Anh dám chắc lúc đó Frank đã chán ngấy chẳng muốn khắc chữ nữa rồi.” Ông toét miệng cười với Will. “Nhưng nó không có ở đây,” Barbara nói. Cô dốc ngược chiếc hộp xuống và lắc lắc. Rồi, cô nhìn cậu em út với vẻ mặt rất nghiêm trọng. “Will,” cô nói, “mày không tồn tại.” Nhưng từ đâu đó trong sâu thẳm tâm trí cậu, Will cảm nhận được một nỗi lo lắng đang lớn dần. “Bố nói đó là một biểu tượng, không phải là chữ W,” cậu nói thật tự nhiên. “Thế đó là biểu tượng gì ạ?” “Một mạn đà la, bố nhớ là vậy,” ông Stanton đáp. “Một cái gì ạ?”