🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bông Sen Vàng Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Bông Sen Vàng Tác giả: Sơn Tùng Nhà xuất bản: Nxb Thông Tấn Nhà phát hành: Đinh Tị Khối lượng: 330.00 gam Định dạng: Bìa mềm Kích thước: 13.5 x 20.5 cm Ngày phát hành: 06/2007 Số trang: 320 ------------------------- Epub (02/2019): @lamtam, tve-4u.org https://thuviensach.vn TỪNG GIỌT NƯỚC NHỎ THẤM VÀO LÒNG ĐẤT CHẢY VỀ MỘT HƯỚNG MỚI THÀNH SUỐI THÀNH SÔNG. BIẾT BAO NHIÊU GIỌT NƯỚC NHỎ HỌP LẠI MỚI THÀNH BIỂN CẢ. MỘT PHO TƯỢNG HAY MỘT LÂU ĐÀI CŨNG PHẢI CÓ CÁI NỀN ĐẤT VỮNG CHẮC MỚI ĐỨNG VỮNG ĐƯỢC. NHƯNG NGƯỜI TA DỄ NHÌN THẤY PHO TƯỢNG VÀ LÂU ĐÀI MÀ KHÔNG CHÚ Ý ĐẾN CÁI NỀN. NHƯ THẾ LÀ CHỈ THẤY CÁI NGỌN MÀ QUÊN MẤT CÁI GỐC. HỒ CHÍ MINH (Tuyển tập, Tâp II, trang 480) https://thuviensach.vn 1. Đã qua giờ Mão sang Thìn. Mặt trời len lỏi mới ra khỏi những vầng mây vảy rồng. Từ góc trời đông, mộ tia năng vàng xuyên qua tán cây chè vối đậu vào thau nước để trên sân ngời lên ánh sắc lung linh chiếu vào tốp học trò nhỏ của thầy Nguyễn Sinh Sắc đang giờ viết tập. Côn tô nét chữ cuối cùng, đặt bút xuống, ngồi thẳng người, ngực hơi nâng lên phía trước, đầu nghiêng nghiêng ngắm những hàng chữ viết tập mà cha cho mẫu trước lúc vào Quốc Tử Giám dự bình văn. Côn gật gật đầu, tự tin bài viết tập của mình sẽ được nhiều dấu khuyên của cha. Và hình ảnh cha ẩn hiện trong đầu, văng vẳng bên tai tiếng cha dặn học trò lúc đi: - Dù thầy vắng mặt, các trò vẫn luôn luôn như thầy hiện diện thì mới là người học trò: Đức ngôn thịnh lễ ngôn trung (đức nhiều lễ kính). Một con mèo cái có dáng và bộ lông báo, bốn chân đi bít tất trắng từ trên bàn thờ nhảy xuống phản, đi rón rén đến bên Côn, cất tiếng gọi: me..o m..eo... Côn xoay người đón bế con mèo, vuốt ve nó. Con mèo nũng nịu dúi dúi cái đầu lông mượt như nhung vào lòng Côn và hai mắt lim dim như vòi được ru để ngủ. Mấy bạn ngồi gần Côn đang chăm chú viết, dừng bút nhìn trìu mến con mèo ngoan ngoãn trong vòng tay ôm ấp của Côn. Nhìn âu yếm nhất, trìu mến nhất là hai cặp mắt trong sáng Công Tôn Nữ Huệ Minh và Lê Thị Hạnh ngồi bàn riêng ở gần cửa đi vào buồng Hoàng Thị Loan, thường gọi là bà cử Sắc hay thím cử Sắc. Nguyễn Sinh Khiêm, mặt thoáng một nét nghiêm, nhắc Côn: - Côn! em viết xong rồi còn phải giữ yên tĩnh để các bạn khác viết chứ. Em quên lời cha dạy lúc sáng à? Côn dí ngón tay trỏ vào con mèo - Tại con mèo cưng ni, anh ạ. - Em không nhận lỗi, mà còn đổ cho mèo? - Em vẫn ngồi yên xem lại bài thì bé mèo đến quấy rầy em đó. https://thuviensach.vn - Em phát cho nó mấy cái đuổi nó đi, lúc khác hãy... Diệp Văn Kỳ vỗ vỗ vào đầu con mèo, nói nhỏ: - Phát nhè nhẹ ri, dọa nó thôi. Nó ngoan lắm! Tôn Thất Tuấn, trạc tuổi với Khiêm, ngồi gần Kỳ, sải tay sang phát mạnh vào lưng con mèo. Bị đánh bất ngờ, con mèo nhảy vọt ra khỏi lòng Côn, chạy vào buồng, đứng trên khung cửi dệt nhìn ra lớp học, kêu me...o me...o... Côn nhìn theo con mèo, hai mắt chớp chớp vẻ xót xa. Kỳ chau mày định đấm trả Tuấn một cái lỗi đánh mèo vô cớ. Nhưng Côn đã kéo tay Kỳ lại, giọng Côn hơi dỗi: - Cậu Tuấn đánh mèo đang ngủ trong tay tôi thì có khác chi người "đánh chó không ngó chúa", đó nha. Tuấn cười hề hề như chẳng có can cớ gì đến mình cả. Bốn anh học trò lớp chuẩn bị thi Hương, ngồi bên cửa sổ phía hồi nhà đều quay lại, một anh nói: - Cậu Tuấn xin lỗi cậu Côn đi. - Tôi... tôi xin lôi cậu Côn nghe. Côn cười tươi, nói: - Cậu Tuấn đánh mèo thì xin lỗi mèo mới phải chớ. Cả lớp học cười vui vẻ. Kỳ chạy vào buồng định bắt con mèo ra cho Tuấn xin lỗi, nhưng con mèo đã nhảy tót lên xà nhà. Hồ Quang, người học trò nghèo, vẫn cặm cụi viết. Cả lớp đã viết xong bài tập. Mỗi người đặt nghiên mực của mình vào bàn độc thành hàng ngay ngắn, cho bút vào ống, đậy nắp chặt để mang theo về với sách học. Đám học trò nhỏ chạy ra ríu rít trên sân. Bốn người học trò lớn xếp bốn bài tập thành chồng trên án thư của thầy. Bước ra khỏi cửa, bốn người giương bốn ô lên, chân đất, quần trắng, áo dài lương, khăn nhiễu, tóc búi đụm, dáng đi đường bệ nho sinh, cử tử. Huệ Minh và Hạnh bị cảm, cố gắng đi học nhưng không dám về dưới nắng trưa, hai cô ngồi đợi gia nhân đưa xe đến đón. Hai cô giở đồ thêu ra và ngồi thêu tại bàn học. https://thuviensach.vn Thấy trời nắng to, Khiêm bê củi trong bếp ra sân phơi. Huệ Minh, Hạnh chạy vào bê giúp, nhưng Khiêm ngăn lại: - Đừng... xin mệ và cô đừng... cảm ơn. Mệ và cô đang còn ốm mà. Ngay lúc đó Hồ Quang, Kỳ, Côn - từ ngoài vườn đang đuổi bắt chuồn chuồn - đã chạy vào bê củi ra sân... với Khiêm. Côn trách anh: - Chẳng gọi em, anh bê củi một mình! - Có nhiều nhặn chi, một mình anh làm cũng được. - Mỗi người mần một chút vừa vui, vừa lẹ việc chớ!- Cậu Quang trải mớ củi ra giữa sân, nói. - Cậu Khiêm còn khách khí với tụi tui nghe!- Kỳ nói vui khi xong việc. Khiêm thanh minh: - Đâu có rứa. Cậu Kỳ nghĩ "oan" cho tôi rồi. Tuấn đi ra ngõ đứng nói chuyện với một nho sinh, học lớp ôn thi Hương. Không kể gì nắng găt, Côn và Kỳ lại lúi húi theo bắt hai con chuồn chuồn bên dọc hàng dâm bụt. Côn nhón chân, cúi sát bên bụi cây đi lò dò, tay sải ra đằng trước chìa hai ngón tay bắt được con chuồn chuồn sứ. Kỳ không cúi được thấp, bước nặng chân, con chuồn chuồn thấy động bay lên lại sà xuống đậu. Côn nhắc khẽ Kỳ: - Cúi thấp nữa... thấp xuống nữa... nhón bàn chân lên, đi bằng ngón chân thôi... Đi được vài bước, không chịu được mỏi, Kỳ thẳng người lên. Con chuồn chuồn vội bay vụt lên sang bên kia vườn. Hai cặp mắt ngây thơ nhìn theo con chuồn chuồn lấp lánh ánh biếc dưới nắng trưa mênh mang. Kỳ thở dài: - Tiếc quá. Con chuồn chuồn voi đẹp chưa từng thấy. - Tại cậu, bắt chuồn chuồn mà đi ào ào như đuổi chuột, bắt sao được? https://thuviensach.vn - Cậu Côn dẻo người. Cúi xuống lâu mấy cũng được, đi nhẹ như mèo. Có lẽ cậu cầm tinh con mèo. Côn cười, hai ngón tay cầm đuôi con chuồn chuồn bàn tay kia chìa ra cho nó đậu lên. Con chuồn chuồn vẫy vẫy cánh, sắc biếc ánh lên lấp lánh. - Đẹp tuyệt - Kỳ tấm tắc khen. - Mắt nó giống như mắt con phụng khảm xà cừ ở cánh tủ nhà cậu Tuấn hề. - Đúng rồi - Kỳ tán thưởng nhận xét của Côn - hai cái cánh nó rất giống đai mũ của các quan trong triều thường đội, các cậu nhể. - Vì rứa mới gọi là mũ cánh chuồn... hề... hề... Kỳ cười khoái trá. Côn gật gật đầu cùng cười vui. Kỳ còn nhận xét thêm: - Cái đuôi nó giống cái xiên nhuộm phẩm để vua xiên mứt, kẹo... Côn vẻ ngạc nhiên: - Vua mà cũng ăn kẹo, ăn mứt như trẻ con chúng mình à? Kỳ hơi sững lại, nhắc khẽ Côn: - Nói "vua ăn" sẽ bị quở đó, cậu Côn ạ. - Không được gọi "ăn" thì gọi là "vua chén" à? - Ấy... ấy đừng nói rứa – Kỳ hơi cuống - Các quan thị vệ và bọn lính hộ thành nghe được thì nguy to... - Không gọi "ăn", không gọi "chén" thì gọi bằng tiếng chi? - Phải nói là "vua ngự thiện". - Ngồi ăn mà lại... gọi là ngự... thiện? Tối nghĩa lắm - Côn đay giọng. - Vua khác người thường mà cậu - Kỳ bào chữa. Hai cậu học trò mải mê ngắm ánh sắc con chuồn chuồn và bàn cãi về việc gọi "vua ăn", "vua ngồi" không để ý kỹ, giờ Côn mới nhận ra cánh con chuồn chuồn bị rách. - Thả ra coi nó còn bay được nữa không? - Kỳ nói. https://thuviensach.vn Côn xòe rộng bàn tay, con chuồn chuồn đậu trong ban tay Côn vây vây cánh, đuôi nhúc nha nhúc nhích. Nó nhấc mình bay lên là là rồi đậu xuống một cành cây thấp phía xa, Côn, Kỳ chay theo con chuồn chuồn. Côn đưa tay ra... nhưng con chuồn chuồn đã bay lên một cành cây cao hơn. Côn phải né nghiêng tránh bóng mình khỏi vương vào mắt con chuồn chuồn rồi nín thở vươn tay ra túm lấy đuôi, chú chuồn chuồn rướn bay lên không nổi nữa đành phải uốn cong bám chặt lấy tay Côn, cánh vẫy vẫy... Côn cười vui với bạn: - Nó bay còn khỏe lắm. Để lát nữa tôi đưa cho bé Xển. Tội nghiệp, bị bại liệt, bé chỉ xển quanh trong nhà! - Ừ. Phải rồi - Kỳ hồ hởi nói - được con chuồn chuồn ni, bé Xển sẽ vui gấp mấy lần... Côn nhìn xuống sân xem bóng nắng: - Sắp hết giờ Tỵ. Chúng mình đến bé Xển trở về vẫn còn kịp giờ gia nhân đến đón cậu. - Được thôi. Đi nào! - Khoan, anh Kỳ vô xin mệ Huệ Minh, hay cô Hạnh sợi chỉ màu cột đuôi nó thì bé Xển mới giữ được nó chứ. - Ừ. Cậu Côn sáng ý đó - Kỳ nói. Giữa lúc hai cái đầu chụm lại, cột đuôi con chuồn chuồn sứ thì Tuấn từ ngoài ngõ vào, xòe tay chộp lấy. Vì quá mạnh tay, con chuồn chuồn bị đứt đuôi, rách nhàu hai cánh. Côn thõng hai tay xuống nhìn Tuấn: - Anh... Tuấn... - Côn không gọi tiếng cậu một cách bình thường nữa. Kỳ tím mặt lại. Thấy không ai nói một lời nào khác, Tuấn biết lỗi, đứng ngây người nhìn các bạn, lúng túng: - Con chuồn chuồn chứ mô phải báu vật chi mà các cậu tiếc hung dữ rứa? https://thuviensach.vn - Từ giờ bọn tôi nỏ chơi với cậu Tuấn nữa. Côn nói dằn từng lời. Kỳ thì gay gắt hơn: - Tôi sẽ thưa thầy và thưa với hai bác ở nhà. Anh Tuấn đừng trách tôi đó. Tiếng nhạc ngựa ngoài xa nghe rõ dần. Huệ Minh và Hạnh ở trong lớp chạy ra: Để gỡ bí cho bạn, Quang gọi: - Các bác ơi, đánh xe vô đây. Tuấn ngăn lại: - Ấy chết! phải giữ lễ chứ anh Quang. Học trò không được đưa xe, đưa cáng vô tận ngõ thầy học của mình. Nói xong Tuấn lảng đi. Huệ Minh, Hạnh, Kỳ, ríu rít chào đi ra xe. Nhưng không thấy Tuấn đâu cả. Kỳ chạy vào nhà chỉ có Khiêm và Quang trong đó. Kỳ lại chạy trở ra xe. Hai cô đã lên xe song mã đỗ ở trước lối đi ra đường Đông Ba. Kỳ còn chạy kiếm một vài nơi quanh mà vẫn không thấy Tuấn. Kỳ đành lên xe về một mình. Hai chiếc xe từ từ lăn bánh theo nhịp đi của ngựa. Những con mắt trẻ thơ trên hai cỗ xe ngựa ngoái lại nhìn Côn lưu luyến! Côn đi trở vào tay vẫn còn cầm con chuồn chuồn sứ cụt đuôi. Nhìn nó một lúc nữa rồi Côn để nó đậu lên một cành cây râm mát, khuất vào phía trong vườn. Thấy Tuấn từ ngoài đường cái chạy vào, mướt mồ hôi, Côn đon đả hỏi: - Cậu Kỳ đi tìm khắp, chẳng thấy cậu đâu. Cả hai xe về mất rồi. Tuấn hơi ngượng ngập: - Gặp xe tiện thì đi, không thì tôi đi bộ vui chân hơn, cậu ạ. Tuấn đứng sát bên Côn, giọng thầm thì: - Cậu đừng giận tôi nghe. Tôi biết sai rồi. Cậu cũng đừng thưa với thầy... Côn tươi cười: - Giận dỗi nhau tí chút, xong thôi. Ai lại thưa thầy viêc vặt ấy. Tuấn làm lành thật tình. Tuần cầm cái gói bọc giấy vẻ ngường ngượng, nài nỉ: - Cậu cầm dùm... của nhà làm, ngon lắm. https://thuviensach.vn - Cái gói chi? Tôi chẳng cầm đâu. - Kẹo đó mà. O tôi ở đằng Anh Danh chuyên làm bánh kẹo cho trong Nội. - Không, cảm ơn cậu. Tôi không dám nhận đâu. - Cậu Côn vẫn chưa thứ cho tôi à? - Ấy! cậu còn nghĩ tôi hẹp bụng vậy à? - Răng nỏ nhận kẹo? Đây. Tôi có hai gói. O tôi cho tôi một gói, một gói gởi biếu cậu và cậu Khiêm mà. - Tôi hiểu lòng thảo cua cậu lắm. Nhưng từ trước tới giờ mẹ tôi không cho anh em tôi nhận bất cứ món quà nào dầu nhiều dầu ít của ai khi chưa được cha mẹ cho phép. - Đây chỉ là gói kẹo, mô phải quà cáp chi, cậu? Côn nể bạn, nói: - Cậu mở ra coi đã. Tuấn mở gói, những chiếc kẹo nhuộm ngũ sắc rất đẹp mắt. Côn nhón tay cầm hai chiếc: - Để cậu khỏi áy náy trong lòng, tôi xin hai cái, tôi một cái, phần anh Khiêm một cái - Côn pha trò thêm - Rứa là ... là vui vẻ cả nghe! Tuấn nài Côn cầm thêm kẹo nữa. Côn xua tay, lắc đầu chạy vào nhà. Khiêm từ trong bếp bước ra, tay cầm cái chổi đót, trách yêu em: - Côn giỏi ghê hề. Mẹ đi chợ, mẹ dặn anh, dặn em ở nhà làm chi, em nhớ không? - Mẹ dặn học xong anh chẻ củi, nấu cơm, em quét nhà, quét sân rồi đi khiêng nước giếng thơi về đổ đầy vại. - Những việc ấy chưa làm xong em đã bỏ đi chơi? - Em chưa làm, giờ em làm, mà anh! Côn chạy đến với anh trai, đưa cho anh chiếc kẹo. - Kẹo ai cho? https://thuviensach.vn - Cậu Tuấn đó, anh ạ. Cậu ấy biếu cả gói em không dám nhận, em chỉ nhận đủ phần anh một cái, em một cái, để cậu ấy vui lòng. - Em biết xử sự rồi đó. - Em đã biết "xử thế", nói theo lời cha thường dặn, chớ anh! Hai anh em cười vui vẻ. Bỗng nghe tiếng chẻ củi đằng sau nhà bếp, Côn chưa kịp hỏi anh thì Khiêm nói: - Quang đang chẻ hộ anh em mình. - Anh và em chia nhau một cái, còn cái kẹo này đưa phần Quang, anh ạ. Côn cầm chiếc kẹo chạy ra sau nhà đưa cho Hồ Quang, người học trò mà cha mẹ không có đất cắm dùi, sống lênh đênh trong chiếc thuyền te trên các dòng sông. * Mặt trời chênh chếch hàng cây bên mái hiên tây. Gió hiu hiu thổi. Hương sen thoang thoảng mơ hồ! Côn ra cửa Đông Ba đón mẹ chợ về. Côn ngạc nhiên gần như ngơ ngác nhìn những mâm cỗ đặt cúng dọc hai bên đường; ở các ngã tư, ngã ba đường cỗ cúng lại càng nhiều. Rất nhiều mâm bỏng, nồi cháo hoa, đĩa muối, đĩa gạo, có cả vàng giấy, vàng vó la liệt... Ai đi qua mâm cỗ cũng ghé nón, cúi đầu tưởng vọng. Thỉnh thoảng có cán, xe ngựa, xe song loan của các ông hoàng, bà chúa, các quan Nam, quan Tây đều phải xuống đi chân qua nơi đang nghi ngút khói hương. Dưới các bóng cây hai bên đường, những tốp người quần áo rách mướp, gầy gò, lem luốc đứng lố nhố, tay cầm rá rách, nồi đất, mắt chau háu nhìn vào cỗ cúng chờ đợi hương tàn để được cướp cỗ!... Côn chưa gặp được một người quen nào để hỏi về cái tích gì mà có lệ cúng này. Từ ngày theo cha mẹ vào kinh đô ở, hơn mười tháng, Côn chưa hề gặp cảnh cúng đường cúng sá lần nào. Côn tha thẩn ngoài cửa Đông Ba. Không biết đích xác mẹ đi chợ nào. Côn chỉ nghe mẹ nói với cha: "Hôm nay ngày lẻ, quanh đây không có chợ phiên chính, phiên xép ít người bán sợi. Tôi phải đi chợ xa mua sợi, mấy ngày nghỉ dệt rồi...". Mắt Côn luôn luôn hướng về phía cầu https://thuviensach.vn Gia Hội. Chưa thấy mẹ về nhưng Côn mừng reo lên khi nhìn thấy anh phó Tràng, một người hàng xóm sống độc thân tốt bụng: - Ồ chú! Ồ chú! chú đã về! - Cậu Côn! Cậu đi mô rứa? - Cháu đi đón mẹ cháu, bữa ni chú về sớm! không có việc hả chú? Anh phó Tràng kéo Côn sát vào người mình, dằn từng tiếng nặng chịch: -"Mồng năm, mười bốn, hăm ba.- Đi chơi còn thiệt nữa là đi buôn". Câu đã nghe ai nói về ba cái ngày phai kiêng trong một tháng ấy không? - Thưa, cháu chưa nghe ai nói chú ạ. - Các cụ truyền khẩu về tục lệ kiêng cữ, cậu ấm ạ. Có ông Trời không? Có Phật không? Có Chúa không? Có Thánh không? Có Thần không?... Chưa biết, nhưng cứ... cứ hay tin cái đã, cậu ạ. Phải tin có sự trừng phạt thiêng liêng thì con người càng thêm điều thiện, giảm điều ác, cậu ạ. Bữa ni là ngày hai mươi ba tháng năm, tui đi mần thuê, nỏ có ai thuê. Đi không lại về không. Đó, cậu coi, tay thợ của tui mà bữa ni đi mần thuê nỏ đắt!. - Chú ơi, cháu thưa với chú một việc nhé. - Ơ... ờ. Cậu cứ việc bảo ban tui, nỏ phải thưa gửi mần chi với anh phó mộc ni, cậu ơi! - Cháu nói thật tình mà. Cháu xin chú đừng gọi cháu bằng cậu, xưng tôi với cháu. Chú gọi bằng cháu xưng chú với cháu, với anh Khiêm của cháu nữa. - Tr...ờ...i...đất...ơi. Cậu còn bé thơ, con một ông cử nhân, một ông thầy học nổi tiếng mà cậu đối xử, ăn ở bình dân với mọi người hàng xóm, láng giềng. Anh phó Tràng ngập ngừng giây lát: - Cậu có lòng đại nhân quân tử với tui, sướng cái bụng tui lắm. Tui sông cô đơn, thèm người hiền. Tui thèm người hiền, chứ ngợm thì có thiếu chi ở cái đời ni. Nhưng, để tui xin phép ông cử, bà cử cho danh chính ngôn thuận thì cách xưng chú cháu với nhau mới đặng, cậu ạ. https://thuviensach.vn - Khỏi phải nói với cha mẹ cháu, chú ạ. Cha mẹ cháu thường nói chú là chỗ thân tình nhất của nhà cháu ở đây. Cha mẹ cháu không muốn chú gọi chúng cháu bằng cậu, không muốn gọi cha mẹ cháu là ông bà. - Rứa à... cháu! - anh phó Tràng bật ra tiếng "cháu" một cách hồn nhiên mà giọng nói vẫn còn rung ngần ngài ngại! - Đó! Chú gọi "cháu" nghe sướng hơn. Chú gọi "cậu" cháu phải nghe thôi chứ chẳng thích đâu, chú ạ. - Rồi. Việc nớ rứa là xong, nghe cháu. Chừ chú hỏi cháu đi ra đây có việc chi? - Cháu đi đón mẹ cháu chợ về, chú ạ. - Đi về cháu. Mẹ cháu đi chợ Mai mà. - Ban sáng mẹ cháu biểu đi chợ chi... cháu, cháu nghe thoáng, quên mất, chỉ nhớ là có đi qua Gia Hội, chú ạ. - Chú gặp mẹ cháu lúc mới sớm, đi lên cửa Thượng Tứ nói đi chợ Mai. Cháu không tin chú à? - Cháu... tin lắm... Thấy Côn buồn buồn, anh phó Tràng an ủi: - Chừ thì có khi mẹ cháu đã về ở nhà rồi, cháu ạ. Ta về cháu. À! Cháu vô quán ăn với chú một miếng chi, ấm bụng đã. Côn chớp chớp mắt nhìn anh phó Tràng: - Chú đi cả ngày không có việc làm, lấy tiền đâu chú cháu ăn quà, hả chú? - Đã đến nỗi chi mà lo cho nhọc cái bụng hả cháu? Lẽ mô chú mất việc một ngày mà đã cạn tiền lưng, gạo bị? Chú mời cháu đi ăn là đã dòm ngó vô cái bị dự trữ của mình rồi. Côn ngập ngừng, đầu hơi cúi xuống nhìn bàn chân anh phó Tràng to gần như cái bẹ cau, bước chắc nịch. Côn níu chặt tay anh phó Tràng: - Chú ơi! https://thuviensach.vn - Cháu lại muốn thay đổi việc chú mời cháu ăn cơm hàng? - Cháu mời chú cùng đi về nhà cháu ăn cơm với cha mẹ cháu, với anh em cháu. Lúc cháu ra đón mẹ cháu, anh Khiêm cháu đang dọn cơm đợi cha mẹ về cùng ăn cho vui, chú ạ. - Hề hề... - anh phó Tràng cười to, nói oang oang giữa đường cái - Cháu thảo ăn, tốt bụng lắm. Con nòi của giống, ông cha nói nỏ có sai. Cha cháu nổi tiếng ngươi nhân cách, người hiền, giàu chữ, trọng nhân nghĩa với cái biệt danh mộc mạc:"Ông cử Nghệ". Mẹ cháu một thục nữ đã ba con mà ra đường nỏ ai coi là nạ dòng. Bà thảo hiền, thương người như thể thương thân. Có một miếng ăn ngon, bà cũng bớt ra chia sớt với bà con xóm giềng. Ai đứt bữa, ai tối lửa tắt đèn, ba chìa tay giúp đỡ trong tình lá lành đùm lá rách. - Anh vuốt tóc của Côn sắp búi được đụm củ hành. Giọng anh càng tha thiết - Các cháu về sau sẽ được hưởng phước lộc của mẹ, của cha. Mẹ cháu chữ còn nhiều hơn một số bà phi trong Nội. Chú vô Nội chữa cung điện, chữa cả giường, cả ghế của các bà phi, chú được ngửi hương trầm mà cũng bị sặc mùi xú uế ở trỏng, cháu ạ... Anh phó Tràng nói một thôi dài nối theo một tiếng thở não nuột. Anh hạ giọng: - Chú nghe lời cháu về nhà cháu cùng ăn cơm. Cái vui của gia đình chắc làm ấm đời chú một phần. Nhưng... - Sao lại nhưng nữa, hả chú? - Nhưng chú phải ghé tiệm mua một món chi cho thêm tươi tươi bữa cơm gia đình, cháu ạ. - Không. Cháu không để chú mua một món chi khác nữa đâu. Ở nhà cháu còn có cá kho, mắm chua, lại còn nồi cá tươi nấu lát nữa. Côn hỏi dồn luôn: - Chú ơi! - Có chuyện chi hỏi chú nữa? - Sao lại có cái tục lệ đem mâm cỗ ra đường cúng, hở chú? https://thuviensach.vn Anh phó Tràng nhìn sang hai bên đường trầm ngâm, bước chậm lai. Giọng nói của anh trầm hẳn xuống: - Bữa ni... ngày... hăm...ba... tháng... năm... Ngày Quốc hận, cháu... ơi! - Anh cầm gọn bàn tay Côn nhỏ xíu mềm như chiếc lá non - Cả Kinh thành quyện mùi hương khói! https://thuviensach.vn 2. Tiếng súng Thành chao đưa, màn đêm buông gấp gáp. Cửa Thanh khép kín. Thành Nội, tấm áo giáp của Đại Nội chìm vào đêm tối. Khiêm đang lom khom trên phản làm ngựa cho Côn cưỡi, nghe tiếng súng Thành, hai anh em ngừng cuộc chơi. Khiêm nói: - Học thuộc bài sớm để rồi xin cha kể cho nghe tích ngày Quốc hận, em ạ. Côn giao hẹn: - Anh hoặc em học thuộc bài trước, ta cùng đợi nhau nghe cha kể, anh nhá. - Anh chưa lần nào học thuộc bài trước em cả. - Thì em đợi anh. Khuya mấy em cũng đợi mà. - Đợi anh hay em ngủ lăn ra giường, đánh thức mỏi cả miệng. - Em hẹn với anh nhá, hễ thấy em ngủ say gọi không dậy, anh cứ véo đau vô đùi em, em tỉnh ngay anh ạ. - Ê,...ơi! Vé...o thật đau vô đùi em! Nghe em dặn ngon ơ. Nhưng anh con nhớ dạo nọ em học xong, lăn ra ngủ, chưa xếp sách lên kệ, chưa rửa mặt, rửa tay chân. Mẹ không cho anh làm thay, bắt gọi em dậy làm xong phần việc mới được ngủ. Anh lay mãi em vẫn không dậy, ừ ừ mấy tiếng rồi lại ngủ khì. Anh cù vô nách em, cù nhẹ thôi. Vậy mà em cáu lại anh, tuôn ra một tràng chữ trách anh:"Đệ niên thượng trĩ. Đệ hữu bất tri giả, huynh tất tường vị. Giáo đệ, huynh khởi vong chi hồ?" (Tuổi em còn nhỏ, có điều gì chưa biết, anh dạy em, sao anh lại quên điều ấy?). Anh liền bị cha quở trách về tội không khuyên bảo em, lại trêu chọc em. - Lần ấy em thưa lại ngay với cha, lỗi ở em và em đã xin lỗi anh cơ mà. Dọn dẹp xong việc bếp núc, chị cử Sắc ngồi vào khung cửi dệt. Tay chị đưa thoi thoăn thoắt. Chị nhắc hai con: https://thuviensach.vn - Cha các con sắp về đó. Các con học bài đi. Chuyện chi mà ồn lên rứa? - Chúng con đang ôn bài, mẹ ạ - Côn nháy mắt với anh. - Mẹ đã vào khung dệt rồi. Anh em mình học bài thôi. Hai anh em học chung một đèn. Côn lấy que tăm khơi hai bấc thành hai ngọn đèn trong đĩa dầu lạc. Khiêm hai tay bưng cằm tựa lên bàn, học nhẩm từng chữ. Côn thì viết ra giấy nháp, xướng lên nho nhỏ để nghe từng chữ: Ái quốc, nghĩa là yêu nước. Quốc dĩ dân lập, nghĩa là, nước do dân lập nên. Dân dĩ quốc tồn, nghĩa là dân còn thì nước còn. Vô dân tắc quốc hà do thành, nghĩa là không có dân sao thành nước được? Vô quốc tắc dân hà sở tý nghĩa là, không có nước thì dân lấy đâu ra sự che chở? Cố quốc dân tất ái quốc, nghĩa là, dân trong một nước thì phải yêu nước... Anh cử Sắc vào Quốc sử quán thăm một người bạn là ông Phó bảng Cao Xuân Tiếu và mượn ít sách. Anh đi từ sau bữa cơm chiều. Lúc về đến đầu sân, anh nhìn vào nhà, lòng bồi hồi, bởi lâu nay anh chăm viêc sách đèn, lo việc thi cử và dạy học cho con mình, cho con em bạn bè nhờ, ít khi lưu ý về cuộc sống gia đình. Anh quá yên tâm vì đã có Hoàng Thị Loan, người vợ hiền đảm đang, gánh vác mọi việc lớn, việc nhỏ trong gia đình. Tôi nay, đứng ngoài sân, anh nhận rõ niềm vui hạnh phúc của gia đình mình mà tưởng chừng chuyện trong sách, mẹ dệt cửi thâu canh, con đèn sách chuyên cần. Anh bước vào nhà, giọng ấm áp: - Mình nghỉ tay một tý chứ? Làm quần quật cả ngày, tận khuya vẫn không rời con thoi. - Nhà về muộn rứa... Tôi cố dệt cho xong tấm đũi, bà hàng tấm bên Dinh hẹn lấy cho phiên chợ này. Khiêm, Côn thấy cha về, xếp sách, đặt vào kệ gọn gàng. Khiêm nháy nháy mắt với em: - Em nhắc lại với cha, xin cha kể chuyện ngày Quốc hận, nhé. - Anh thưa với cha hơn, chứ anh. https://thuviensach.vn - Em... Thấy cha vào, Khiêm thôi không nói với em nữa. Cả hai anh em ríu rít chào hỏi cha. Anh Sắc ân cần: - Các con đã học thuộc bài chưa? - Dạ... đã, chúng con... chúng con thuộc cả rồi ạ. - Khiêm thuộc đọc thật làu chứ? - Thưa cha, bài ni con thuộc kỹ hơn mọi bài trước đây ạ. - Vậy thì con tấn tới lên rồi. Là anh con phải cố gắng học giỏi, làm gương sáng cho em. - Thưa cha, em Côn sáng dạ. Bà ngoại, mẹ đều nhủ: Bé Côn có cái bụng sáng hơn đèn. Con khó học kịp em Côn, cha ạ. Anh Sắc cười hiền từ: - Con tự xếp mình đứng đằng sau em về đường đèn sách à? -... - Về miếng ăn, anh nhường em, em nhường anh. Đó là đức tính đáng quý. Nhưng việc học phải cùng nhau đua tranh, cùng nhau tấn tới. Bẩm sinh thông minh, sáng láng mới chỉ là cái mầm, chưa phải cây ra hoa, kết trái. Cha đã từng nói với các con: Ngọc bất trác bất thành khí (ngọc không mài dũa không thành của quý). Phải lập chí từ lúc tập cầm bút, tập cầm cày, tập cầm cưa, cầm đục, các con ạ. Anh cử Sắc không gọi Khiêm đọc bài mà gọi Côn: - Côn đọc bài: Ái quốc. Côn đứng gần án thư cha, hai tay vòng trước ngực, mắt nhìn vào ngọn đèn trên bàn, Côn đọc một mạch rành rọt từ câu mở đầu:"Quốc dĩ dân lập"... cho đến câu chót của bài học thuộc lòng. Anh hỏi kiểm tra ngay: - Con giải nghĩa câu:"Quốc giả, tái dân chi châu dã" đến "kỳ quốc tiểu hữu năng hãnh tồn giả". https://thuviensach.vn Côn thấm lưỡi qua môi, giảng giải: - Tổ quốc là con thuyền, dân ở trên con thuyền ấy. Điều lợi, điều hại của Tổ quốc chính là niềm vui, nỗi lo của dân. Nếu như người nào cũng nghĩ đến lợi riêng mình, không lấy việc nước làm trọng, hoặc còn ra sức phá hoại thì còn gì là nước, là dân!. - Con về chỗ. Anh cử Sắc lại kiểm tra Khiêm. - Khiêm giải nghĩa câu: Phản Tổ Quốc, do châu nhân tự huyệt kỳ châu dã. Khiêm nhìn lên mái nhà, nói: - Kẻ phản bội Tổ Quốc khác chi người trong con thuyền lại tự đục thủng thuyền. - Con về chỗ Phút yên lặng. Tiếng cửi dệt của chị cử Sắc từ trong buồng vọng ra đều đều. Anh Sắc nhìn hai con đầy tin tưởng: - Các con ra đời vào thời buổi đất nước nhiễu nhương của thế kỷ này. Nhưng các con là người gánh trọng trách của thế kỷ sau. Chỉ còn ít năm nữa là sang thế kỷ hai mươi rồi. Cha mẹ sẽ gắng hết sức lo cho các con học. Có học mới hiểu biết, có hiểu biết mới có vốn để làm nên... Anh đứng dậy, cho phép hai con: - Hai anh em đi rửa mặt, rửa tay chân. Bài học tối nay cả hai anh em đều đang khen. Côn nhắc luôn với cha: - Thưa cha, lúc chiều cha dặn học bài tốt thì cha sẽ kể cho nghe chuyện ngày Quốc hận, ạ. - Cha vẫn nhớ. *** https://thuviensach.vn Chị cử Sắc khe khẽ đặt mình xuống giường. Bóng trăng nghiêng như giải lụa vàng giăng ngang cửa sổ. Qua ánh trăng trong, chị nhìn lờ mờ những cành cây nhún nhảy, bóng vờn trên sân vắng lặng. Sự vắng lặng đêm hè chốn kinh đô đã khơi gợi niềm nhớ quê... Hình ảnh người mẹ già, cụ Hoàng Xuân Đường, hình ảnh của con gái đầu lòng Nguyễn Thị Thanh, cô em gái Hoàng Thị An cứ lởn vởn trước vừng trán chị, rồi xa dần, lẫn vào tiếng chồng đang kể chuyện cho hai con ở gian bên mà lại nhập vào tâm trí chị: -... Tự Đức, một ông vua thuộc hàng nhiều chữ nhất của triều Nguyễn. Nhưng ông đã tự thú trong văn bia của ông ở Khiêm Lăng về tội để mất nước, các con ạ. Chính ông, dưới thời ông trị vì mà những ba lần làm văn bản bán nước. Lần đầu ký văn bản cắt ba tỉnh miền đông Nam Kỳ cho Tây dương vào năm Nhâm Tuất (1862). Năm Giáp Tuất (1874) lại làm giấy bán toàn bộ Nam Kỳ. Năm Quí Mùi (1883) làm giấy bán cả nước ta cho người Tây dương, năm ấy đức vua băng hà (chết). Năm Giáp Thân (1884) triều đình làm giấy bán tiếp, bán đoạn nước ta cho Tây dương gọi là hiệp ước Giáp Thân. - Mẹ sinh chị Thanh năm đó, cha nhể? - Côn hỏi. Khiêm rầy em: - Cha đang nói chuyện hệ trọng, em lại đá gà cái chuyện mẹ sinh, nỏ ăn nhập chi hết cả. - Ơ kìa, anh tưởng chỉ có việc vua Tự Đức chết là hệ trọng, còn việc mẹ ta sinh con không hệ trọng à? - Em nói việc mẹ ta sinh thì hệ trọng cái nỗi chi nào? Anh cử Sắc lặng thinh cho hai con tranh cãi để biết khiếu lập ngôn của con. Chị cử Sắc nằm trong giường thì bấm bụng cười thầm. Côn nằm cạnh cha, níu lấy cánh tay cha, hỏi gặng: - Anh Khiêm biểu việc mẹ sinh không có chi là hệ trọng, vua chết mới là việc hệ trọng. Riêng con thì vua chết là hết phận sự, chỉ còn lại tai tiếng hay danh thơm. Còn mẹ sinh ra các con để có thêm người, lớn lên lo việc nước, https://thuviensach.vn hay đi dạy học cho nhiều người biết chữ, hay cày ruộng có thêm nhiều thóc gạo, ai cũng được ăn no. Con nghĩ vậy, có phải không thưa cha? Anh cử Sắc chưa trả lời cho Côn mà hỏi Khiêm: - Em nó giãi bày lý lẽ vậy, con là anh, thấy sao? - Dạ... dạ... thưa cha, em con nói rõ ra thì nghe cũng ... cũng phải, cha ạ. Nhưng mà... - Nhưng mà, gì nữa - Anh cử Sắc hỏi Khiêm. - Nhưng mà em Côn nó khôn lắm. Nó nói cách chi nghe đều xuôi cả. - Anh Khiêm khen em như rứa, em buồn lắm. Em có khi nào nói việc ngược thành xuôi, xuôi thành ngược đâu? - Em Côn của con dầu có khôn đến mấy, vẫn là em của con. Con là anh, nói với em, phải nói lời chính ngôn, con ạ. - Dạ, con đã rõ, thưa cha. Côn sốt ruột: - Cha ơi, cha kể tiếp nước ta sau khi bị người Tây dương đô hộ, vua Tự Đức chết, rồi sao nữa, cha? - Khuya rồi con ạ. Các con sang giường ngủ. Hôm sau cha lại kể cho các con nghe. * Cơn mưa mùa hạ vừa dứt, trời lại đầy sao. Trăng cuối tháng chưa mọc. Khiêm, Côn chép xong bài sớm. Chị cử Sắc vẫn một mình một đèn ngồi trong buồng mắc sợi vào go, chuẩn bị dệt tấm vải mới. Anh cử Sắc xếp sách lại, rời khỏi án thư bước tới phản, nơi hai con đang ngồi đợi nghe cha kể tiếp chuyện ngày Quốc hận. - Côn lấy cho cha cái gối xếp để cha tựa! Côn sang giường cha bê đến bộ gối xếp ba tầng, Khiêm biết tính cha, lúc nói chuyện với bạn, lúc kể chuyện cho con nghe, lúc ngồi viết sách, thơ, phú thường có chén rượu nhấp một tí thấm giọng. Khiêm lặng lẽ đến bàn thờ lấy nậm rượu, một chén bạch định, rót đầy rượu, đặt bên cạnh cha. - Các con ngồi vào. Côn nũng cha: https://thuviensach.vn - Con được nằm nghe chuyện thì nhớ hơn là ngồi, cha ạ. - Ừ, thì con nằm bên cha đây. - Con nằm bên cha mà được gối đầu lên đùi cha thì nghe chuyện càng thích thú, chóng thuộc chuyện... - Vẽ chuyện - Khiêm giễu em - Đầu em nặng làm mỏi đùi cha. Ích chi việc gối đùi? - Cũng được, em nó thích vậy, cha chiều. Côn nằm gối đầu lên đùi cha. Khiêm ngồi tựa lưng vào vách. Hai anh em mắt đầy mơ màng lắng cả tâm hồn ngây thơ vào dòng suối chuyện của cha: - Vua Tự Đức không có con, ngài chọn một số cháu làm con nuôi, như Ưng Chân, Ưng Đăng, Ưng Kỷ. Trước ngày đức vua băng hà, tức ngày 14 tháng 6 năm Quí Mùi (1883) đức vua triệu các đại thần viện Cơ mật là Tôn Thất Thuyết, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường vào chầu. Tự Đức ký và trao Di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân, người con nuôi mà Tự Đức yêu mến nhất. Ưng Chân vốn là con thứ hai của Hồng Y. Ông Hồng Y là em trai thứ tư của Tự Đức, được Tự Đức phong làm Kiến Thụy công. Trước đó, năm Kỷ Tỵ (1869) vua công bố dạo dụ chọn Ưng Chân làm hoàng tử kế vị và phong làm Thụy quốc công Dục Đức. Năm ấy, Dục Đức tròn mười tám tuổi. Dục Đức là phụ hoàng của Đức vua Thành Thái ngày nay đó, các con ạ. - Sao không gọi là Thái Thượng hoàng, thưa cha? - Khiêm hỏi. - Vua cha truyền ngôi cho con thì lên chức Thái Thượng hoàng. Ông vua nào không được truyền ngôi cho con lúc còn sống thì gọi là phụ hoàng, nghĩa là cha của vua. Tiếc thay vua Dục Đức ở ngôi chỉ có ba ngày, đây là ông vua ngắn đời nhất của lịch sử nước ta. Bởi lẽ, vua Tự Đức biết một số tính tình không hay của thái tử Dục Đức, và ghi rõ vào di chiếu truyền ngôi để Dục Đức biết mà sửa, các quan trọng thần biết mà giúp vua ngăn ngừa. Nhưng, Dục Đức e ngại đoạn văn đó trong Di chiếu, ông mật bàn với các phụ chánh đại thần Tôn Thất Thuyết, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường sẽ không đọc đoạn văn nói lên nhược điểm của mình trước triều đình trong https://thuviensach.vn lễ đăng quang. Bề ngoại các phụ chánh đều ưng thuận, bên trong lập mưu hạ bệ Dục Đức bằng cái cớ này để đưa em trai Tự Đức là Hồng Dật lên ngôi. Quả nhiên lúc vua Dục Đức cho đọc di chiếu của vua Tự Đức đã không cho đọc đoan văn nhận xét một số tính tình không hay về ông. Phụ chánh đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường... đứng lên phát giác. Phụ chánh đại thần Tôn Thất Thuyết hạ lênh bắt ngay vua Dục Đức đưa đi giam tạm ở viện Thái y, sau chuyển sang ngục Thừa Thiên và ông bị chết đói trong nhà ngục ngày mồng 6 tháng 9 năm Giáp Thân (24/10/1884). Vợ con ông cũng đều bị bắt giam. Ngay tại lễ thiết triều, quan Ngự sử Phan Đình Phùng đứng lên phản đối việc bắt vua Dục Đức hạ ngục. Ông cho rằng: Vua Dục Đức dấu triều đình về những điều viết xấu về mình trong Di chiêu chưa đáng tội phải hạ ngục. Vua có làm điều gì sai thì giúp vua sửa mình. Việc bé chớ xé thành to mà gây ra thù oán, hiểm họa. Vận nước đang nghiêng ngả, giặc Tây dương đã nuốt gần hết giang sơn, kinh đô đang bị giặc uy hiếp mà trong triều, vua tôi không thuận thì khác nào tự mở cửa Thành mời giặc vô ngự trị! Các con ơi! tiếng nói của quan Ngự sử là tiếng nói can gián đừng làm điều có hại đến việc lớn mà ông cũng bị bắt ngay buổi thiết triều. Ba cha con anh cử Sắc chìm giữa im lặng, chị cử Sắc chăng sợi lên khung cửi ở trong buồng vẫn chăm chú nghe tiếng chồng lúc to, lúc nhỏ, bổng trầm và thấm đau từng lời. - Quan Phan Đình Phùng đã bị bắt ngày ấy sao hiện đang cầm quân đánh Tây ở quê ta, hả cha? - Côn hỏi. - Ông bị bắt giam một thời gian ngắn. Sau được cho về quê vì ông đỗ đầu thi Đình, gọi là Đình nguyên. Triều đình ai cũng kính nể ông. Một ông quan thanh liêm, nổi tiếng về khoa bảng. Ngày vua Hàm Nghi xuống Chiếu Cần Vương, ông hưởng ứng lập đội quân kháng chiến, tại rừng núi quê ta, con ạ. - Vua Hàm Nghi là do quan Đình (Phan Đình Phùng) đưa lên ngôi, hở cha? - Khiêm sốt ruột hỏi. - Để cha kể có đầu có đuôi, nghe tắt quãng đâu có hay hở anh? https://thuviensach.vn - Đúng. Em con nói đúng. Để cha kể tỉ mỉ các con nghe. Các con cần biết để khi có đủ trí khôn, các con mới hiểu cha anh một cách rành rõ thì mới khen chê lịch sử được đúng đắn... - Anh nhấp một tí rượu. Giọng anh buồn buồn - Hồng Dật lên ngôi, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa. Ông vua nay vốn là người cầm đầu trong việc ký văn tự bán nước gọi là hiệp ước Quý Mùi (1883). Ông ở ngôi được bốn tháng thì bị Hội đồng phụ chánh đại thần bắt uống thuốc độc, chết vào ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29/11/1883). Ngay lúc đó, Phụ chánh đại thần Trần Tiễn Thành bị ám sát. Hội đồng phụ chánh liền đưa Ưng Đăng lên ngôi, niên hiệu Kiến Phúc vao ngày mồng 3 tháng 11 năm Quý Mùi (2/12/1883). Cả một chuỗi thảm kịch diễn ra liên tiếp trong cung giữa lúc giăc Tây bao vây kinh đô của chúng ta. Đấy, cha chỉ nói sơ qua vài việc để các con biết. Sau khi lấy gọn đất Nam Kỳ của chúng ta, chính phủ Tây dương cử luôn một tên quan đưng đầu ngành quan cai trị xứ Bắc Kỳ của chúng ta là Ác-măng (Harmand). Chúng nó cử một tên vừa ác độc, vừa dã man để giết tróc dân mình. Cha nghe nói, cái tên Ác-măng này đã từng là quan sứ thần Tây dương ở bên Xiêm, rồi sang Ai Lao, đến Sài Gòn, ra Hà Nội. Tên Ác-măng khéo che dấu âm mưu thâm độc nên mới được chức đại diện cho chính phủ Tây dương đến coi việc cai quản xứ Bắc Kỳ. Đúng vào giữa năm Quý Hợi ấy, Tây dương mở các trận đánh chiếm khắp Bắc Kỳ, ép triều đình Huế phải ký hiệp ước công nhận quyền đô hộ của Pháp trên toàn bờ cõi nước Nam ta. Vua Tàu để cho mười bảy doanh quân đổ bộ vào Bắc Kỳ của ta trước đó mấy tháng. Mười hai doanh quân do tướng Hoàng Quế Lan chiếm đóng các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Ninh. Tướng Triệu Ốc chỉ huy năm doanh quân chiếm đóng Tuyên Quang và một phần Thái Nguyên. Sau đó vua nhà Thanh lại phái thêm Từ Diên Húc đem tiếp quân sang Việt Nam ta để cùng với hai tên Hoàng Quế Lan và Triệu Ốc cố chiếm bằng được Bắc Kỳ của ta. Trong tình thế đất Bắc bị dày xéo như vậy thì tên Ác-măng đã được lệnh từ bên chính quốc: Cho mở mặt trận tấn công kinh đô Huế! Đúng ngày mười tám tháng bảy năm Quý Mùi (20/8/1883) giặc Tây dương đánh chiếm cửa Thuận An, cửa ngõ của kinh đô ta. Thủy quân của https://thuviensach.vn giặc từ ngoài Bắc Kỳ kéo vào. Nam Kỳ kéo ra, do bốn tên đại tá chỉ huy, hội lại ngoài biển Đà Nẵng. Tổng chỉ huy đám giặc cướp này vẫn là tên Ác măng. Làm tai mắt cho Ác-măng đánh vào kinh đô lúc ấy là tên Tây dương đang đại diện chính phủ Pháp bên cạnh triều đình Huế. - Tên cái thằng Tây do thám ấy là chi hở cha?- Côn hỏi. - Tên nó là... - Anh cử Sắc lần lần mãi trong trí nhớ mới nhớ ra được - cha đã lập được phép sắp xếp tên húy của các vua, cha mẹ vua để dễ nhớ mà tránh "phạm húy" khi làm bài thi, nhưng bọn Tây Lang Sa này khó nhớ và nói cứ trẹo cả lưỡi. Hai anh em Khiêm, Côn cười giòn. Chị cử Sắc trong nhà cũng bật cười: - Tại vì cha các con ăn trầu lưỡi bị cứng đó nha. - Có vậy đó, các con ạ. Cha ăn đôi miếng trầu, nên mỗi lần nhắc đến tên cái đám cướp nước mình đâm khó khăn. Tên cái thằng Tây dương do thám trong triều đình ta là Săm-pô (De Champeau). Lúc trời còn mờ mờ, chưa sáng tỏ, khoảng giờ Dần ngày 18 tháng 7 Quý Mùi (20/8/1883), giặc Tây dương bắn đại bác, bắn súng cối xay, đổ bộ quân lên chiếm các pháo đài cửa Thuận An, khoảng giờ Mùi thì quân ta bỏ pháo đài, quân Tây dương chiếm gọn vùng cửa Thuận An. Trước tình hình ấy, triều đình ta vội cử thượng thư bộ Lại Nguyễn Trọng Hiệp xuống Thuận An thương thuyết với tên Ác-măng. Ông thượng thư bộ Lại không con cách nào khác đành dẫn tên Ác-măng và tên Sămpô về Huế, cầm theo tối hậu thư gửi triều đình: Nam triều phải rút quân hết ra khỏi 2 pháo đài cửa Thuận, tháo dỡ hết cả những công sự, những chướng ngại vật trên sông từ cửa Thuận đến kinh đô, phá hủy các kho vũ khí, nộp lại cho quân đôi Pháp quốc hai chiếc tàu thủy do chính phủ Pháp tặng chính phủ Nam triều từ năm Giáp Tuất (1874). Còn nhục nhã nào hơn nỗi nhục nhã này! Từ vua đến hầu hết đám quan đại thần run sợ, cúi đầu nhận mọi điều khoản của tối hậu thư. Vậy rồi, ngày 23 tháng 7 (25/8/1883) triều đình liền lập một phái bộ gồm Trần Đình Túc, Hiệp hiệu đại học sĩ, làm chánh sứ, Nguyễn Trọng Hiệp phó sứ đến đàm phán với tên Ác-măng. Trong cuộc đàm phán này, một đám quan đại thần cùng với nhà vua đã phạm tội đầu hàng, viết văn tự bán nước, lại còn cấu https://thuviensach.vn kết với giặc Tây dương chia quyền cai trị ba miền nước ta, cho quân Tây dương được tự do đóng quân trên cả toàn lãnh thổ để đàn áp các cuộc nổi dậy của dân ta, và quy định: Từ địa giới tỉnh Bình Thuận vào tận đất mũi của Nam Kỳ là chế độ thuộc địa; Từ địa giới bắc tỉnh Bình Thuận trở ra tới Lạng Sơn hưởng chế độ bảo hộ, thuộc Vương quốc An Nam. Có nghĩa là Trung Kỳ, Bắc Kỳ phải chịu hai tầng cai trị: Chính phủ bảo hộ người Pháp, và chính phủ Nam triều! Anh cử Sắc thở dài. Nhấp một tí rượu. Bé Côn ngồi dậy, chống tay lên căm, nhìn xoáy vào ngọn đèn. Khiêm cũng đổi lại thế ngồi. Trăng cuối tháng đã lên cao, ánh trăng như muôn đồng tiền vàng rắc xuống sân. Chị cử Sắc đã luồn sợi vào go xong và mắc lên khung cửi. Chị nhìn thấy ba cha con chung một ánh mắt buồn buồn. Nhưng bé Côn lộ rõ trong hai con mắt những tia sáng thao thức. Chị ra sân dọn dẹp, tai vẫn lắng vào nghe tiếng nói của chồng trong nhà: - Quan thân thần Tôn Thất Thuyết là người cầm đầu những ông quan có tinh thần yêu nước, quyết tâm kháng chiến, không cam chịu đầu hàng giặc Tây dương. Ông có quyền hành vào bậc nhất trong triều lúc ấy: Phụ chánh đại thần, Hội đồng viện Cơ mật, Hiệp biện đại học sĩ, Thượng thư bộ Binh kiêm quản Văn ban phò mã. Ông đã lập ra Phấn Nghĩa quân, chuẩn bị cho thời cơ mở trận phản công. Ông đã giao cho Tả quân đô thống Trần Xuân Soạn chỉ huy, huấn luyện đạo quân này. Ông cũng khôn khéo khuyên vua Ưng Đăng ra dụ các nơi lập đội hương binh từng làng, từng xa, từng tổng... để bảo vệ địa phương mình. Ông bí mật cho chuyển Nha sơn phòng Quảng Trị và phủ Cam Lộ ra Lăng Cầu làm "hành tại", phòng khi kinh đô Huế có biến. Ông cho đào hào, đắp lũy, xây thanh, xây pháo đài, trại lính, kho súng, dựng phòng tuyến chiến đấu. Dựng các nhà kiên cố và một số dinh thự, dựng am chứa vàng bạc, tiền dự trữ lâu dài... Trong khi ông Tôn Thất Thuyết và những người có tâm huyết đang lo việc chuẩn bị thời cơ thu lại giang sơn gấm vóc thì đám quan triều hèn nhát lại lo chạy vạy kiếm chác chức tước, bổng lộc, củng cố cái ghế quan trường mục nát của mình. Chỉ một mực lấy lòng bà mẹ vua Tự Đức, tức Hoàng https://thuviensach.vn thái hậu Từ Dũ mà triều đình đúc sách vàng, ấn vàng tiến bà. Cuốn sách nặng tới 58 lạng, ấn nặng hơn 86 lạng. - Không lo đúc súng đạn đánh giặc Tây lại lo đúc ấn vàng, sách vàng để được cái chi? Thật lạ, cha nhể? - Côn nói. Khiêm tiếp luôn: - Để có thêm oai quyền cai trị dân đó, em ơi! - Đúng, các con nghĩ rất hợp với ý cha. Chính giữa lúc đó nước nhà rơi vào tay giặc Tây dương hoàn toàn. Giặc Tây dương bắt tay với giặc Thanh. Chúng đã họp với nhau tại thành Thiên Tân, gần Bắc Kinh của nước Tàu. Bọn quỷ trắng đấm mõm cho bọn vua Thanh, những gì không rõ, thì mới có được cái điều: Tất cả quân đội vua Thanh phải cho rút ra khỏi đất Bắc Kỳ của An Nam, còn nhà Thanh phải tôn trọng tất cả những văn tự cam kết giữa nước Pháp và triều đình nước Nam. Và, nước Pháp sẽ tôn trọng vùng biên giới phía nam của Trung Hoa giáp với Bắc Kỳ của nước An Nam. Ông lại thở dài, nhấp một chút rượu: - Các con phải nhớ kỹ cái thuở Quốc nạn, đất nước chúng ta bị xâu xé như rứa đó. Chị cử Sắc từ ngoài sân đi vào, sẽ sàng nói với chồng: - Trăng lên cao rồi, nhà đi nghỉ, cho các con được ngủ. Thức khuya, sáng mai dậy chúng nó mệt mỏi, học chẳng vào đó! - Con không buồn ngủ đâu mẹ ạ. - Côn nói to để mẹ nhận mình không buồn ngủ. Khiêm nói tiếp với em: - Đang ở đoạn hồi hộp mẹ ơi... - Mẹ các con nhắc rất phải, cha cho các con đi ngủ. Cha cũng cần nghỉ nữa. Hôm sau cha sẽ kể tiếp cho các con nghe mà. Khiêm, Côn lên giường nằm, nhưng vẫn còn thao thức về những điều cha vừa kể. https://thuviensach.vn Mấy hôm sau anh cử Sắc mới kể tiếp được. Nhưng Khiêm lại không được nghe. Vì người bạn thân của anh cử Sắc lâu ngày đến thăm; hôm bạn trở về lại đúng vào ngày anh Sắc phải chủ trì cuộc bình văn ở Quốc Tử Giám, không đi tiễn bạn được, anh phải cho con trai trưởng đi hầu tráp tiễn bạn. Hai hôm sau Khiêm mới từ nhà bạn của cha trở về thành Nội. Côn ở nhà được nghe cha kể tiếp, và Côn cũng được cha giao việc:"Nghe những điều cha kể, con phải thuật lại cho anh Khiêm của con. Con nói theo cách của con. Miễn là nhớ đầy đủ những sự việc hệ trọng, những tên người, những chi tiết diễn biến của câu chuyện mà cha sắp xếp khi kể cho con nghe"... Anh cử Sắc biết sự sáng dạ, sức nhớ lâu và khiếu kể chuyện của Côn. Từ hồi lên năm tuổi ở với bà ngoại Côn được bà kể chuyện cổ tích cho nghe lúc tối, sáng hôm sau bé Côn kể lại cho đám trẻ hàng xóm nghe chẳng những mạch lạc như bà, mà còn thêm thắt chi tiết hợp lý, có duyên. Anh nghiệm thấy: Thầy dạy cho học trò làm thơ, làm phú, làm câu đối, thường thì học trò nào cũng làm được, làm đúng phép, đúng niêm luật. Nhưng thơ hay là tự thân học trò, không một người thầy nào có thể dạy nổi. Đã từng có học trò mới mười tuổi làm được một số bài thơ hay mà thầy học là cử nhân, tiến sĩ không làm nổi. Quan niệm như vậy, anh càng chú ý rèn cho Côn sớm phát triển thiên tư. Hôm sau khi bé Côn kể lại cho Khiêm nghe, anh cử Sắc vờ uống rượu đã ngủ say để bé Côn kể được tự nhiên. Chị cử Sắc ngồi dệt vải như thường lệ nhưng tai vẫn lắng nghe bé Côn kể chuyện với anh trai mình. Côn nói: - Anh ơi, em nhớ được bao nhiêu, em kể bấy nhiêu. Anh nghe mà thấy có chỗ nào không rõ, anh hỏi cha, anh nhé! - Em nỏ phải lo! - Bữa trước anh em mình nghe cha kể đến hồi giặc Tây dương sang Tàu ngoặc nhau với triều đình nhà Thanh, mua bán với nhau về đất Bắc Kỳ của ta. Giặc Tây đương giành được phần hơn tại cuộc mua bán ma quỉ đó. Thằng quan Tây dương đang ở Tàu liền gửi ngay "đại hỏa tốc" (điện tín) về https://thuviensach.vn cho tên trung tướng Tây dương, tên nó là Mi-ô (Millôt) đứng đâu ngạch cai trị Bắc Kỳ là: trong khoảng từ hai mươi đến bốn mươi ngày tự do tấn công chiếm tất cả các tỉnh giáp với vùng biên ải Trung Quốc. - Rằng em lại nhớ được cả tên thằng tướng giặc Tây dương đứng đầu ngạch cai trị Bắc Kỳ? - Em nghe cha nói đến tên thằng Tây, em liền ngẫm lại so tên nó với các tiếng của ta thường dùng, anh ạ. Ví dụ: cha nói Mi-ô, em nghĩ ngay "mi mắt", "ô che đầu". Vậy là em nhớ tên nó ngon ơ thôi. - Em kể tiếp đi. - Bọn giặc Tây dương vừa cho quân đi đánh chiếm các nơi, vừa bắt triều đình nước Nam ta đầu hàng chúng thêm nữa. Chúng bắt triều đình phải lệnh cho các quan Nam triều ở các tỉnh hợp lực với các quan binh Tây đàn áp dân mình nổi dậy chống Tây. Ở tỉnh nào cũng có người mình nổi lên, do các quan nghè, quan cử cầm đầu. Cũng có những ông quan Nam triều không tuân lệnh triều đình đã cùng với những người tai mắt trong địa phương tập hợp dân chúng đánh lại giặc Tây. Nhưng triều đình lại lập đoàn sứ bộ để ký văn tự bán nước ta hoàn toàn cho chính phủ Pháp. Văn tự ký ngay tại kinh đô này, do quan phụ chánh đại thần kiêm thượng thư bộ Lại Nguyễn Văn Tường, thượng thư bộ Hộ Phạm Thận Duật, thượng thư bộ Công Tôn Thất Phan. Đại diện cho Pháp là tên Pa-tờ-nốt (Fulo Patenôtre). Cha nói rằng: Đây là ban văn khai tử nền độc lập, tự chủ của nước Nam hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước! Bản văn bản bán nước này ký vào ngày 13 tháng năm, Giáp Thân, Kiến Phúc đệ nhất niên (6/6/1884). Chúng chia lại địa giới ba miền của nước ta: Từ phần nam tỉnh Bình Thuận trở vào là xứ Nam Kỳ thuộc địa, từ bắc Bình Thuận ra địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình là xứ Trung Kỳ, từ bắc Ninh Bình ra biên giới Việt Nam - Trung Quốc là xứ Bắc Kỳ. Hai kỳ này là chế độ "bảo hộ" của nước Pháp, thuộc Vương quốc An Nam. Làm xong bản văn bán nước, triều đình lại phải đem đến tòa sứ Pháp cái ấn bạc của vua Thanh trao cho vua nước Nam từ trước, đập bẹp và đúc thành bạc nén ngay trước mặt bọn quan Tây dương để lấy lòng tin! Quan thân thần Tôn Thất Thuyết không thể chịu https://thuviensach.vn nhục hơn được nữa, với quyền bính trong tay, ông ép triều đình đưa Ưng Lịch mới 13 tuổi lên ngôi vua, thay vua Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc và vua Hàm Nghi (Ưng Lịch) là con của Hồng Cai, mà Hồng Cai là em thứ sáu của vua Tự Đức. Hồng Cai được Tự Đức phong là Kiến quốc công. Ưng Lịch đã lên ngôi vua, nhưng chờ hết năm Giáp Thân, qua năm Ất Dậu (1885) mới lấy niên hiệu là Hàm Nghi. Vua lên ngôi rồi, thần dân đã một lòng hướng về đức vua nhưng giặc Tây dương không muốn thừa nhận đức vua. Vì chúng biết vua còn ít tuổi mà Phụ chánh đại thần Tôn Thất Thuyết có uy quyền nhất là người cầm đầu phái không thuận với Tây, cương quyết kháng địch đến cùng. Chúng bắt triều đình ta phải tổ chức lại lễ đăng quang của vua, có bọn quan binh Tây vào dự lễ chứng kiến thì chúng mới công nhận. Quan thân thần không chịu điều kiện ấy. Tướng Mi ô liền phái một tên quan năm đem sáu trăm quân có đại pháo bao vây kinh đô Huế, hạ tối hậu thư cho triều đình ta: Trong vòng mười hai giờ Tây (12 tiếng) phải tổ chức lễ đăng quang lại và phải có mặt các quan binh Tây đại diện chính phủ Pháp dự để công nhận. Trước tình cảnh: Chưa chuẩn bị xong lực lượng kháng địch thì tình thế đã lâm cảnh hiểm nghèo, quan thân thần về dinh ôm mặt, nước mắt đẫm bàn tay. Phụ thân quan thân thần là Tôn Thất Đính khuyên: "Phải thực hiện khổ nhục kế. Bài học Câu Tiễn ngày xưa vẫn còn có ích cho ta ngày nay. Cùng tắc biến, nhưng phải biết chọn "thiên cơ địa hội" chứ không thể liều mạng để rồi thành danh trong thất bại. Nhạc phụ của con là ngài Nguyễn Thiện Thuật nói với cha lúc bái biệt trở về Bắc: "Nếu kinh đô có biến, tôi sẽ cùng với dân chúng ở quê nhà (Hưng Yên) chống giặc cứu nước". Con tính cho kỹ, cha con ta đã thề nguyện: "Chết trung không sống nịnh. Mà chỉ trung với đức vua vì nước chứ không thể trung với vua chỉ làm vì!" Quan thân thần lạy tạ cha, rồi ông liền căn dặn hai con trai của mình là Tôn Thất Đạm, mười tám tuổi, Tôn Thất Thiệp, mười ba tuổi sửa soạn hành trang, khí giới, chờ có lệnh là theo cha lên đường. - Côn nhắc lại với anh: - Tôn Thất Thiệp chỉ mới có mười ba tuổi, anh ạ. Ghê không! Vua Hàm Nghi cũng mười ba tuổi - Khiêm nhắc lại với em. Ừ nhể - Côn tâm đắc - Gánh https://thuviensach.vn vác việc nước đâu phải đợi ngay lớn tuổi, anh nhể? - Khiêm đáp ngay với em: Tuổi nhỏ mà chí lớn, như Trần Quốc Toản cha thường nhắc ấy. Côn lại kể tiếp: Quan thân thần cũng dặn dò gia nhân lo liệu phòng khi có biến... Quan thân thần lệnh cho quan Trần Xuân Soạn tụ binh mã và cấp tốc cho quan quân ra Hà Tĩnh tăng cường việc xây dựng căn cứ Sơn phòng Hương Khê để ứng phó khi kinh đô có biến. Quan thân thần vào triều quyết định làm lễ đăng quang đúng giờ. Cha nói là: Bữa đó bọn giặc Tây dương kéo đến điện Thái Hòa những hai mươi lăm tên võ quan và một trăm sáu mươi thằng lính mũi lõ, mắt xanh tóc trắng. Tên cầm đầu phái bộ Pháp đọc một tờ văn kể lể công của người Pháp đã giúp Gia Long đánh thắng nhà Nguyễn Tây Sơn thì mới có nhà Nguyễn ngày nay. Nó tuyên bố Ưng Lịch là Vua nước An Nam. Nó hứa sẽ dẹp hết các cuộc nổi loạn ở khắp nước và sẽ khai hóa nước An Nam thành một nước văn minh thịnh vượng... Côn ngượng ngập... Khiêm đang muốn nghe tiếp, hồi hộp, hỏi em: - Em bị quên một đoạn mô chắc? - Không. Em không quên. Cha mới kể cho em nghe đến đoạn đó. Em đang lần nhớ lại coi có sót mất đoạn hệ trọng nào không. Anh cử Sắc ngồi dậy nói với Côn: - Cha nằm mà vẫn nghe con kể cho anh con nghe. Côn ngập ngừng nói nũng với cha: - Cha... Cha thức mà con ngỡ... Sợ quá. Biết vậy con không kể để anh Khiêm xin với cha thì con lại được nghe cha kể hai lần, con nhớ càng kỹ hơn. - Con nhớ được những sự việc, những tên người, tên các địa phương và sắp xếp được thành từng phần, từng đoạn mạch lạc, cha nghe tốt rồi. Chị cử Sắc trong khung cửi dệt bước ra, cười trước dàn: - Mẹ đã nghe cha các con kể hôm nọ. Bữa nay mẹ nghe bé Côn kể lại gần như cha kể. Nhiều cái tên người Tây, người Tàu, tên người ta, tên các https://thuviensach.vn tỉnh mãi ngoài Bắc Kỳ mẹ cũng được nghe mà nỏ nhớ, con lại nhớ khá đầy đủ. Cha các con nói một số tiếng mẹ nghe còn rất lạ, rất mới mà con cũng nhập tâm được. Mẹ khen cho con đó! Khiêm giọng nũng nịu: - Con bắt đền cha, mẹ đó. Cha, mẹ sinh con mà chẳng sinh cái sáng láng thông minh cho con để con được như em Côn, nghe một nhớ hai ba? Chị cử Sắc cười: - Con trách cha của con ấy. Anh cử Sắc vui vẻ: - Con cũng sáng dạ, nhưng con hay lơ đãng, chưa thật chú tâm, bấm bụng vào việc mình học, mình làm. Tuổi của con là tuổi học. Đã qua tuổi bắt chước từng việc đơn giản. Nghe cho thấu, nhớ cho rõ. Chưa thấu, chưa rõ thì hỏi người lớn, hỏi người nào xung quanh cho kỳ biết. Em Côn có sáng dạ hơn con thật. Nhưng điều hệ trọng là, em Côn còn sớm có óc tự lập ý, lập ngôn và mạnh dạn hỏi, mạnh dạn nói. Nhờ vậy mà tỏa hóa sự hiểu biết mau. Thấy cha nhắc nhở anh, Côn lo anh buồn liền nằm xuống gối đầu vào đùi anh. Côn lại vòi cha: - Cha ơi, cha kể tiếp cho anh em con nghe, cha. - Các con đi nghỉ. Tối mai, tối mốt... cha, cha sẽ kể nốt cho các con. Trăng nối tuần trăng, anh cử Sắc lại nối tiếp câu chuyện kể cho các con trong những đêm kinh thành: - Bọn Tây dương đã phải công nhận Ưng Lịch là Vua nước Nam, niên hiệu Hàm Nghi. Nhưng chúng vẫn chưa hết mối lo về quan thân thần Tôn Thất Thuyết và một số người trung thành trong triều đang tìm mọi cách chống lại chúng. Bọn do thám Tây dương khoác áo sứ thần Pháp ở bên cạnh triều đình ta, bọn khoác áo tu hành Thiên chúa giáo như tên cố đạo Cát-pha (Caspard - anh Sắc nói chệch). Chúng nó dò la biết được khá tường tận việc quan thân thần Tôn Thất Thuyết đang đợi ngày một ngày hai là khởi nghĩa. Chúng biết rõ cả việc quan thân thần lập một đạo quân mang tên Phấn Nghĩa quân, xây dựng hành tại mới, củng cố Nha sơn phòng https://thuviensach.vn Hương Khê giao cho các quan Nguyễn Chính làm Chánh Sơn phòng, Tiến sĩ Phan Trọng Mưu, Phó Sơn phòng, Phan Đình Phùng Tham biện Sơn phòng. Bọn do thám đã báo mật hết với tên toàn quyền lưỡng kỳ. - Toàn quyền lưỡng kỳ là cái chức chi hở cha? - Khiêm hỏi. - Ừ, con hỏi ngay những điều chi chưa rõ là cha vui. Toàn quyền lưỡng kỳ là chức quan cao nhất, có quyền điều hành các cơ quan cai trị cả hai xứ Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Tên toàn quyền lưỡng kỳ thời vua Hàm Nghi là một tên thống tướng, tức là tướng chỉ huy tất cả các tướng lĩnh trong quân đội Tây dương xâm lược hai kỳ, Bắc và Trung. Tên nó là Cuốc-xi (De Courcy). Lấy cớ vô Huế đệ trình quốc thư của chính phủ Pháp lên Vua nước Nam, hắn âm mưu giết quan thân thần Tôn Thất Thuyết. Vừa đến kinh đô Huế vào ngày 20 tháng 5 Ất Dậu (2/7/1885) hắn đã láo xược ra điều kiện cho triều đình: Phải mở cửa Ngọ Môn cho sứ thần Pháp và các võ quan Tây dương vào Hoàng Thành lúc nào cũng được. Phải để quân đội Tây dương vào đóng quân trong Thành Nội... Tên toàn quyền lưỡng kỳ còn tư giấy sang viện Cơ mật đòi quan thân thần của ta sang tòa sứ Tây nhận lệnh để về thi hành. Biết ý đồ đen tối của hắn, quan thân thần không trả lời gì cả. Ngày hôm ấy - ngày 22 tháng năm, năm Ất Dậu, thần dân khắp kinh thành vẫn thấy sự yên ả của đất đế đô như thường nhật. Nhưng trong hoàng cung, trong tam tòa, trong các bộ đến các quân cơ thì hùng khí cuồn cuộn như sóng trào nước xoáy. Đúng cuối giờ Tỵ, đêm 22 rạng ngày 23, quan thân thần Tôn Thất Thuyết xuống lệnh cho Phấn Nghĩa quân do Trần Xuân Soạn trực tiếp chỉ huy tấn công ào ạt vào khu nhượng địa, đồn Mang Cá, khu sứ Tây... Giữa sự bủa vây quá mạnh của giặc Tây dương, kinh đô Huế như hòn đảo trơ trọi. Nhưng với tinh thần thà chết chứ không chịu nhục, từ tướng đến quân đã đánh giặc Tây dương một trận oanh liệt. Đến tảng sáng thì đạn dược của quân ta cũng vừa cạn, không còn sức tấn công. Không thể giữ Thành được nữa, đành phải tính nước đưa Vua bá thiên đô như đã trù liệu trước. Giữa sương đêm mờ mịt, nhờ Trần Xuân Soạn cầm quân giữ chân địch tại kinh thành, quan thân thần cùng với hai con là Tôn Thất Đạm và Tôn https://thuviensach.vn Thất Thiệp nhanh chóng hộ giá vua Hàm Nghi và Tam cung lên đường kháng chiến. Côn hồi hộp, hỏi: - Ba cha con quan thân thần đưa Vua ra bằng cửa nào, hả cha? - Vua ra cửa Quảng Đức, men theo con lộ ven sông qua chùa Thiên Mụ, đến Trường Thi ở La Chữ, con ạ. - Tam cung là những chi, hả cha? - Là ba bà hoàng vợ chính của Vua. Mỗi bà hoàng ở một cung cấm. Còn Tam cung ở triều Nguyễn này là: Bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức, bà Trang Ý, vợ Tự Đức, mẹ nuôi của vua Dục Đức, bà Học Phi, vợ Tự Đức, mẹ nuôi của vua Kiến Phúc và vua Hàm Nghi. Khi Đức vua và Tam cung đi lọt, Phấn Nghĩa quân được lệnh rút khỏi thành. Giặc Tây dương ào ạt vào chiếm đóng khắp nơi trong Nội: Chúng chiếm 9 cỗ súng đồng đã được phong danh ngọc: Hoàng dũng vô địch đại tướng quân. Chúng tranh nhau cỡi lên các nòng súng để chụp ảnh, họa hình gửi về nước. Chúng chia quân vào đóng phủ Tôn Nhân, Đại Lý Tự, miếu Công Thần, chùa Giác Hoàng, doanh trại Thượng Tứ, xưởng súng Tả, Hữu tướng quân, sở Lý Thiện, Hữu dực doanh Vũ Lâm, Trung Tiền, Tự Dực doanh Thành cơ, Quốc sử quán, viện Đô sát, Thái Tường, Trương Giải, Quang Lộc, Hàn Lâm, Thông Chính, Tào Chính cung Giám Dực Vũ, Bình An, Anh Danh, Ngục Thất, Linh Hựu, Tế Sinh, Kho Hỏa dược. Giặc Tây dương xả súng cối xay tàn sát thần dân ta. Chúng san bằng dinh bộ Binh và tư thất của quan thân thần Tôn Thất Thuyết. Những gia nhân không chạy thoát đều bị chúng giết sạch. Cụ Tôn Thất Đính, thầy học Ưng Lịch, phụ thân quan thân thần bị chúng bắt giam. Sau đó chúng đày ông ra đảo Côn Lôn, tận ngoài biển khơi ở phía Nam nước ta. Từ đấy dân ta gọi ngày 23 tháng năm Âm lịch là ngày kinh đô thất thủ và coi đó là ngày Quốc hận mà nhân dân ta thù nhớ muôn đời! Hàng năm dân chúng kinh thành làm cỗ cúng để tưởng nhớ vong linh những người bị giăc Tây dương tàn sát trong ngay kinh đô thất thủ. https://thuviensach.vn Khiêm buồn rầu thốt ra với cha: - Xảy loạn đang đêm hôm chẳng ai biết đường mà chạy, mà tránh đạn, khổ nhất cho người già, người tàn tật và trẻ nít như sắp chúng con, phải không cha? - Giặc tràn tới, nhà bị thiêu cháy không còn gì khổ bằng, các con ạ. Vẻ mặt Côn đau đớn nhìn vào nơi mẹ đang dệt vải: - Mẹ con hay nói: "Nước mất nhà tan". Đúng lắm, cha nhể? Chị cử Sắc nói vọng ra: - Các con để cha kể xong, muốn hỏi chi, các con hẵng hỏi. Anh cử Sắc vẫn cái giọng buồn buồn: - Trong lịch sử nước nhà, cha chưa thấy một trường hợp nào ba cha con hộ giá một Đức vua trên bước đường loạn lạc như cha con quan thân thần Tôn Thất Thuyết của chúng ta. Lại còn chưa kể tới chi tiết cụ Tôn Thất Đính được quân dân khắp Kinh thành gọi thân mật bằng biệt danh là: Quan cụ. Vào cái năm hộ giá Vua bá thiên, quan cụ đã ngoài bảy mươi tuổi. Quan thân thần năm mươi tuổi, còn quan Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp các con đã rõ: quan anh hai mươi tuổi được phong chức Khâm sai tán lý quân vụ. Quan em mười ba tuổi được trao trọng trách Cẩm y loan giá. Vua và tôi cùng lớp tuổi, hàng ngày Tôn Thất Thiêp vác thanh bảo kiếm dài gần bằng người nên chưa đeo bên hông được, ở bên cạnh Vua Hàm Nghi để cùng người chơi những trò con trẻ, cùng học chữ. Có bạn chơi, Vua đỡ phần nhớ mẹ, nhớ Hoàng cung. Hôm Tam cung khóc lóc, không chịu được đi đường xa, ăn ngủ thất thường, vắng nem công chả phượng, Vua Hàm Nghi cũng buồn lây. Lúc Tôn Thất Thiêp quỳ thưa: "Tâu bệ hạ, thần trộm nghe: Tam cung sắp trở về cung. Bệ hạ có hồi loan cùng với Tam cung không?" - Vua Hàm Nghi lưỡng lự rồi hỏi lại Cẩm y Tôn Thất Thiệp: "Nếu Trẫm hồi loan thì thần có hộ giá Trẫm không?" - Tôn Thất Thiệp thưa: "Tâu bệ hạ, Thần chỉ hộ giá bệ hạ đi đánh giặc Lang sa để cứu nước, cứu nhà. Dẫu phải chết thì thần chết theo con đường Cần Vương vệ quốc của phụ thân thần chớ không về đầu giặc. Xin bệ hạ tha lỗi cho thần đã nói ra cái điều ấy trước bệ https://thuviensach.vn hạ". Vua Hàm Nghi đỡ Tôn Thất Thiêp ngồi lên, nói: "Trẫm thử bụng thần mà nói vậy thôi. Tam cung không chịu được gió táp mưa sa thì Tam cung hồi cung cũng được. Phần Trẫm thì vẫn một chí hướng với quân tướng: Kháng Pháp đến cùng. Trẫm và thần đồng tuế, đồng tâm, đồng sàng, đồng mộng. Trẫm lên ngôi lúc sơn hà nguy biến phải lao lung như ri nhờ có được thần ngày đêm cùng Trẫm chia cay xẻ đắng làm cho tuổi ngọc của Trẫm đỡ phần lạnh lẽo. Vậy nên, hai ta là: Chiến sĩ nhi đồng cứu quốc vong!!!" Ngày phụ chánh đại thần kiêm thượng thư bộ Lại Nguyễn Văn Tường hộ giá Tam cung trở lại kinh đô Huế, Đức vua lấy cớ vi hòa (ốm) không đến chầu bái biệt. Cha đã bỏ công tìm hiểu chặng đường bá thiên của Vua: Ngày 23 tháng năm Ất Dậu (5/7/1885) Vua từ hoàng cung đến La Chữ. Ngày 24 tháng năm (6/7/1885) Vua tới thành cổ Quảng Trị. Ngày 27 tháng năm (9/7/1885) Vua rời Quảng Trị đi Sơn phòng Quảng Trị, ngày 1 tháng sáu (12/7/1885) thấu bản doanh. Ngày 9 tháng sáu (20/7/1885) Vua đến Bảo Đài, xã Thủy Ba, sát địa giới tỉnh Quảng Bình. Ngày 11 tháng sáu (22/7/1885) Vua phải quay trở lại Cam Lộ. Ngày 15 tháng sáu (26/7/1885) Vua ngược thượng đạo, trèo qua dãy núi Mai Lĩnh (Quảng Trị) đến đồn Chấn Lào. Ngày 20 tháng sáu (31/7/1885) Vua rời Chấn Lào đi theo đường sơn cước ra tới đồn Quy Hợp, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Hành tại tạm đặt ngay Sơn phòng Hà Tĩnh. Ở đây bốn tháng thì ngày 16 tháng mười, năm Ất Dậu (22/11/1885), Vua lại phải quay trở lại vùng rừng núi Quảng Bình, hành tại ở Cửa Kha. Về sau thiên đến Tá Bào. Cái ngày dời đến La Chữ thì quan thân thần đã vâng lênh Vua viết tờ thông cáo, báo cho thần dân cả nước biết, Vua đã bá thiên và quyêt tâm kháng Pháp lâu dài. Dời tới Hà Tĩnh, Vua xuống Hàm Nghi Đế Chiếu, thường gọi là: Chiếu Cần Vương. Chiếu vừa ban xuống, khắp nơi các bậc khoa bảng, tai mắt, các nhà hằng tâm hằng sản, dân chúng, nam phụ lão ấu đều hưởng ứng nhiệt liệt. Nổi vang nhất là cuộc nổi dậy của quan Đình Phan Đình Phùng và của quan Tán Tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật, nhạc phụ của quan thân thần Tôn Thất Thuyết. Dân quen gọi là quan Tán Thuật lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, tỉnh Hưng Yên. https://thuviensach.vn Anh cử Sắc giọng mỉa mai: - Hậu thế sẽ phán xét. Dầu cho có những kẻ xuyên tạc, xuyên tạc bằng miệng, bằng giấy bút, viết hàng chồng sách, đục xóa hàng trăm bia... Lịch sử rất công bằng. Các con nhớ cho là, ông Hoàng Cao Khải, hiện là quận công phụ chánh đại thần vốn là một chàng cử nhân, không bán được chữ kiếm ăn ở quê nhà phải xiêu cư ra Bắc Kỳ, lần mò được một chức quan nhỏ. Muốn làm quan to ông ta phải bán mình cho quỷ trắng, đàn áp dã man cuộc kháng chiến của nhân dân miền Hưng Yên, Hải Dương và quanh vùng đó do quan Tán Thuật lãnh đạo. Anh cử Sắc thở dài nói tiếp: - Ở quê ta, các con thường nghe kể về bao nhiêu cuộc nổi dậy hưởng ứng Chiếu Cần Vương. Ở làng Chùa, làng Sen ta có quân của quan Bang Mậu (Vương Thúc Mậu) gọi là Chung Nghĩa binh. Bà ngoại và mẹ của các con đã từng gánh gạo; gánh những gánh cơm nắm đi tiếp tế cho các quan Đình, quan Đề, quan Nghè. Có tiếng hơn cả là quân khởi nghĩa của quan Đình (Phan Đình Phùng). Chính quan Đình là người đã bị quan thân thần bắt giam tại triều, lý do cha đã kể hôm trước. Nhưng việc phò vua cứu nước là nghĩa cả, phải gác oán thù riêng cho nên quan Đinh đã phất cờ khởi nghĩa theo Chiếu Cần Vương chống giặc đến hơi thở cuối cùng. Ở ngoài Diễn Châu, quan Nghè Nguyễn Xuân Ôn lập căn cứ chống giặc Tây, dân cả vùng Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu đều theo quân Nghè Ôn đánh giặc cứu nước. Ngoài Thanh Hóa tả quân đô thống Trần Xuân Soạn cùng với các ông Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Phạm Bành lập chiến khu kiên cố Ba Đình đánh Tây dương, bọn giặc còn khiếp vía hơn cả chiến khu Bãi Sậy, chiến khu Vụ Quang... Anh cử Sắc lại thở dài: - Nước nhà tuy ở vận mạt chứ anh hùng cứu nước tài giỏi đâu có hiếm? Rốt cuộc, các anh tài bị chúng giết dần giết mòn. Những cuộc khởi nghĩa quân sĩ hao mòn, dân đói kiệt quệ và bị giặc bao vây, khi có tiếp tế được thì cũng tàn lụi dần. Vua bá thiên khắp rừng sâu, núi cao mà vẫn không yên. Bọn sứ Pháp vẫn tiếp tục tìm cách liên lạc để mua chuộc Đức Vua đều vô https://thuviensach.vn ích. Giặc Tây dương vẫn để trống ngôi vua từ tháng 5 đến tháng 11 năm Ất Dậu chúng mới đưa Ưng Đường lên ngôi. Ưng Đường tức Nguyễn Cảnh Tây, con trưởng của Hồng Cai và là anh của Đức vua Hàm Nghi. Ông ta lên ngôi hiệu là Đồng Khánh liền gửi "Quốc thư" sang cho Tổng thống Pháp, lời lẽ trong thư gạn không còn một chút quốc sĩ nữa. Ông ta quỳ rạp mình qua văn ngôn: ..."Vương tôi vô cùng biết ơn quý quốc. Cái ơn ấy không biết lấy gì báo đáp quý quốc. Nước tôi xin kính cẩn nhận quý quốc là Mẫu quốc. Vương tôi tấn phong quý Đô thống đại thần Cuốc-xy (De Courcy) làm Bảo hộ quận vương và ngài Khâm sứ đại thần Săm-pô (De Champeaux) làm Bảo công". Côn thốt lên: "Ôi! Dân mình biết sao được chuyện này, cha ơi!". - Nói chi dân! - Anh Cử Sắc giọng chua cay - Cả đến hạng mũ cao áo dài cũng lóa mắt và run như cầy sấy trước cái mũ chín rồng ngự trên ngai vàng, bệ ngọc! Còn cái thối nát, sự bẩn thỉu, sự đớn hèn, ti tiện ở trong cung cấm thì ai cho dân biết? Nếu có biết được đôi ba việc thì dân mình cũng chỉ xì xầm, nhỏ to trong xó nhà, nơi chợ búa đâu có ăn nhằm chi! Bởi vậy, cha biết được vài việc, cha nói lại với các con những điều ấy ở lại trong đầu các con, vì sắp tuổi này còn hoang sơ, chưa có được mấy việc đời trong đó. Ông thầm nghĩ: "Ta phải tạc ngay vào tâm trí các con những bức tranh lịch sử bi tráng của quê hương, của đất nước ở các thời mà ta chứng kiến, ta nghe, ta lượm lặt gom góp được". Ông kể tiếp - Các con nghe cha kể mấy hôm nay về tình cảnh vua, quan, dân tình của những năm sáu mươi, bảy mươi, tám mươi của thế kỷ này, cái thế kỷ cha con ta ra đời, lớn lên trong biến cố của đất nước. Các con đã nghe cha kể đó: Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh là ba anh em cùng một cha mẹ sinh ra. Nhưng Kiến Phúc không giống Hàm Nghi. Vua Hàm Nghi tuổi thơ mà chí trượng phu. Nếu Hàm Nghi không có thiên tư, không có chí trượng phu thì một quan thân thần phò, chứ mười quan thân thần như Tôn Thất Thuyết vẫn là một ông vua làm vì như bao ông vua khác. Ví như nghề làm gốm, nung đất thì đất thành cái bát sành chứ không thể thành đĩa ngọc được. Đồng Khánh là anh trai trưởng của Hàm Nghi, nhưng bản chất cái đầu ông ta là đất sét cho nên https://thuviensach.vn khi lên ngôi vua liền mất hết liêm sỉ. Người đã mất liêm sỉ thì làm gì còn có quốc sỉ? Ngồi trên ngôi cao thì đức tài phải cao, nhân cách phải lớn. Nếu không, cái ngôi thiên tử là nơi hạ tử của những kẻ bất nhân vô đạo khoác danh sang trọng để lam điều dâm bao. Đồng Khánh tuy là anh Vua Hàm Nghi, nhưng Đồng Khánh là loại "vua tự khai tử trên ngôi thiên tử". Ông ta vừa gửi "Quốc thư" hàm ơn "Mẫu quốc" cho Tổng thống nước Pháp, vừa xuống dụ xóa hết các quan tước và tịch biên toàn bộ gia tài của quan thân thần Tôn Thất Thuyết. Đồng Khánh lại còn ra dụ xóa tên cha con Tôn Thất Thuyết trong số Tôn nhân, đổi sang họ Lê, họ của mẫu thân Tôn Thất Thuyết. Và Đồng Khánh lệnh cho truy nã cha con Tôn Thất Thuyết về kinh. Ông ta còn ấm ức một nỗi nữa là: Lên ngôi báu mà không có ấn vàng "Ngự Tiền Chi Bảo". Vì Vua Hàm Nghi đã mang theo rồi. Ông ta liền cho đúc ngay một ấn khác. Rồi sang xin với Tam cung thừa nhận và nhờ Tam cung viết thư vận động Hàm Nghi trở về kinh đô Huế. Tam cung đã cùng với ông ta viết chung một "Ngọc thư" đóng ấn vàng Từ Dũ và ấn mới của Đồng Khánh gửi - Vua hàm Nghi có nhận được và phúc đáp Đồng Khánh. Thư phúc đáp có đoạn viết: "...Vì cùng máu mủ mà giữ tình anh em,còn về vương đạo thì Trẫm là hàng Tiên đế, huynh tuy đang ở ngôi nhưng chẳng phải người kế nghiệp của Trẫm, của giang sơn gấm vóc bốn ngàn năm xây đắp. Ngôi của huynh ngự trên ngọn súng đại bác của đám quỷ trắng lấy chi làm báu mà vời Trẫm về làm thần của huynh? Trẫm là giòng dõi Tiên Rồng thì vĩnh viễn thuộc về dòng giống Tiên Rồng..." Khiêm và Côn tỏ vẻ khoái trá về phong độ của Đức Vua Hàm Nghi. Khiêm nói: - Chả lẽ con khen "phò mã tốt áo", Vua Hàm Nghi thiệt đáng khâm phục, cha ạ. - Con còn thấy sự tài giỏi trong việc chọn đấng minh quân của quan thân thần, cha ạ. - Côn tiếp lời anh. - Phải, phải lắm - Anh Sắc mở rộng lời nhận xét của bé Côn - Ưng Đăng là anh, Ưng Lịch là em. Thường thường ai cũng nghĩ anh lớn tuổi mà hơn cả chục tuổi thì phải khôn phải giỏi hơn em. Vậy mà quan thân thần đã https://thuviensach.vn không chọn Ưng Đăng mà chọn Ưng Lịch lên ngôi với vai trò lịch sử: Vua kháng chiến chống giặc Pháp xâm lược, chứ không phải chọn ông vua để làm vì cho giặc mượn tiếng giày xéo non sông, bắt muôn dân làm nô lệ. Chị Sắc ngừng tay dệt nhắc các con: - Mẹ đã nhủ với các con, để cha kể nốt chuyện rồi hỏi sau ấy mà. Khiêm, Côn cười vẻ biết lỗi với mẹ, nhưng lại giục cha: - Vua Hàm Nghi đáp thư cứng rắn như vậy, Đồng Khánh và bọn Tây hẳn tức tối lắm, thưa cha? - Bọn Tây bày mưu với Tam cung và Đồng Khánh gửi thư nhằm mục đích dò xét nơi vua Hàm Nghi ở để bố trí bắt Vua. Quả như vậy, giữa lúc phong trào Cần Vương đang gặp nhiều thất bại dồn dập, nhiều yếu nhân bị hy sinh, bị chết bệnh, bị bắt, vũ khí đạn dược, quân lương đều kiệt quệ, quan thân thần giao việc bảo vệ Vua cho Tôn Thất Thiệp và một số cận vệ. Trao việc liên lạc với các lực lượng kháng chiến và trấn giữ vùng nam Nghệ Tĩnh cho Tôn Thất Đạm. Trần Xuân Soạn thay vai trò ông trong lúc ông sang Trung Quốc được ít lâu thì tên Trương Quang Ngọc - các con nhớ kỹ tên phản bội này: Trương Quang Ngọc, hắn lập mưu với đội hộ giá bắt Vua Hàm Nghi để cùng được phần thưởng của giặc Tây. Các con nhớ kỹ tên đội hộ giá: Nguyễn Đình Tình. Tên đội hộ giá này hàng ngày ở bên cạnh Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thiệp - Khiêm ngồi ngay người chân xếp bằng, tay chống xuống đùi, nhìn cha không chớp mắt. Côn ngồi chân co chân duỗi, một tay chống xuống giương, một tay kê đùi đỡ cằm cũng nhìn cha không chớp mắt. Chị cử Sắc đã ngừng tay thoi. Mắt chị để ngoài cửa sổ. Ngoài sân, gió se những chiếc lá khô bay lang thang. Anh cử Sắc giọng vừa đau đớn, vừa giận dữ dằn từng tiếng: Đúng cái đêm 27 rạng ngày 28 tháng 9 năm Mậu Tý (30/10 sáng 1/11/1888), hai thằng phản nước, bán vua, Trương Quang Ngọc, Nguyễn Đình Tình lén lút dẫn một toán lính vào đại bản doanh nằm sẵn. Bọn Tây thì lặng lẽ ém quân quanh đại bản doanh từ chập tối. https://thuviensach.vn Hành tại lúc này ở bên bờ suối Tá Bào. Vua Hàm Nghi nằm ngủ ngon giấc. Tôn Thất Thiệp nằm ở ngăn ngoài, lối ra vào cửa hành tại. Phía bên hành tại còn một cửa phụ để lính cẩm y ra vào. Tên đội Tình hàng ngày ra vào ở cửa này. Trời đã cuối thu, miền sơn cước đêm rất lạnh. Vua ngủ đắp tấm áo long bào trùm kín. Tôn Thất Thiệp cũng phủ áo kín mặt. Đội Tình dẫn lối cho tên Ngọc và một toán lính người thiểu số đi vào hành tại bằng cửa phụ. Vào lọt khỏi cửa, chúng mò mẫm bủa ra các phía quanh nơi Vua nằm. Đội Tình châm đèn hồng lạp lên. Bọn lính run, tên Ngọc cũng run... Nghe tiếng động, Vua và Tôn Thất Thiệp vùng dậy! Các mũi giáo đã châu vào quanh Tôn Thất Thiệp và tên Ngọc nhảy lên long sàng ôm lấy Vua Hàm Nghi, có cả hai lính giúp sức. Vua mắng: - Quân phản chủ. Tụi bay muốn ăn thịt ta hãy lui ra đã. - Bẩm! Lệnh của sứ thần mẫu quốc Pháp và quốc vương An nam Đồng Khánh, chúng con đón Đức vua về kinh. - Mẫu quốc Pháp, vua Đồng Khánh của các ngươi cho đón ta cái kiểu cướp rừng ni hỉ? Vừa lúc đó, Tôn Thất Thiệp chộp được thanh gươm vùi dưới tấm áo đắp vung lên chém được một tên, bọn lính bị đánh trả bất ngờ đã dạt ra. Tôn Thất Thiệp lao vào đâm tên Ngọc, nhưng!... Nhưng!... một mũi lao của tên lính bảo vệ tên Ngọc phóng vào ngực Tôn ... Thất ... Thiêp!... Với sức mạnh của tuổi hoa niên ở buổi đầu tráng kiện và dũng khí Người Trung Nghĩa, ông không ngã xuống, ông tự tay rút mũi lao ra khỏi ngực, máu vọt theo hình vồng cầu lên áo Vua Hàm Nghi. Ông quì xuống trước Vua nhưng lảo đảo ngã. Đức vua đỡ lấy ông! Ông chỉ kịp nói: "Thần đã không bảo vệ được Hoàng đế! Thần có tội với quốc dân, với Hoàng đế, với Phụ thân của thần!!" Ông tắt thở trên tay Vua Hàm Nghi! Đức vua bế ông đặt xuống long sàng và cởi áo hoàng bào đắp lên thi hài người cận vệ trung thành, người bạn tuổi thơ trong máu lửa. Đức vua cúi đầu vĩnh biệt. Đức vua quay đầu nhìn bọn chó phản chủ. Chúng tâu gì Vua cũng không nói. Từ lúc này cho đến khi chúng đưa Đức vua về giam ở đồn Thuận An, Vua Hàm Nghi không hé https://thuviensach.vn răng. Cả khi bà Học Phi, mẹ nuôi đến khuyên, Vua cũng không nói gì. Đức vua câm lặng cho đến ngày chúng đày sang một nước ở Châu Phi, thuộc địa của Tây dương (An-giê-ri). Còn Tôn Thất Đạm, nghe tin vua đã bị bắt, em trai đã hy sinh, ông ngất lăn ra giữa bản doanh đèo Ngang! Trước lúc nghe biến cố này ông đã đau đớn về cái tin dữ: Cha đang bị nhà Thanh giam giữ, vì họ đã bắt tay với Pháp từ lâu. Ông trấn tĩnh lại ngay. Ông mặc lễ phục, trèo lên đỉnh núi cao, hương về hành tại, chắp tay nói giữa thanh thiên bạch nhật: "Thần Tôn Thất Đạm, Khâm sai chưởng lý quân vụ, cúi tâu Ngự lãm. Thần không được gần gũi hoàng thượng để hộ giá khi có phản thần làm việc ám muội. Thần mang tội rất lớn! Ôi! Đây là mệnh trời xui nên nước ta gặp bước suy vi, nên các trung thần không được gần Vua để cứu giá. Các quan văn võ sẽ mang hận suốt đời. Vậy xin Hoàng thượng tha thứ, và thần xin thề trước đất trời giữ mãi lòng trung cho đến chết". Ông đã viết những lời ấy vào tờ sớ, cho lính mang về nơi giam giữ Vua Hàm Nghi. Ông tập hợp quân sĩ lại, làm lễ cầu yên cho Đức vua Hàm Nghi, cho phụ thân ông và truy điệu Tôn Thất Thiệp. Ông an ủi quân sĩ trước tổn thất to lớn này, và ông khuyên mọi người đành nuốt hận trở về quê quán làm ăn nuôi chí phục thù, chờ thời cơ sẽ ra tay cứu nước. Thời vận chưa tới thì nuôi con cháu, dạy cho con cháu nối bước ông cha rửa hờn cho Tổ Quốc! Quân sĩ buông xuôi hai tay, vũ khí rơi xuông! Mọi người cúi đầu lê từng bước nặng nề trên các ngả đường quê xơ xác! Quan khâm sai Tôn Thất Đạm đi vào rừng, cởi tấm khăn nhiễu trên đầu. Ông tuẫn tiết trên cành cây đại thụ lúc hoàng hôn ngày 12 tháng 10 năm Mậu Tý (15/11/1888)! Tiếng sụt sịt của chị cử Sắc ở trong phòng bên vọng sang. Anh cử Sắc thấy mắt mình cũng ươn ướt và hai con anh ngồi như đã hóa thạch. Đứng lên châm hương trầm, anh nói với hai con và tự nhắc nhở mình: Quan cụ, quan Thân thần, quan Khâm sai Tôn Thất Đạm, quan Cẩm y loan giá Tôn Thất Thiệp đều là những bậc: "Chí sĩ nhân nhân vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân" nghĩa là ta phải luôn luôn đặt cái chí trong cái https://thuviensach.vn nhân: Sống là sống với nhân, chết là chết vì nhân, gặp cảnh ngộ phải xả thân, thì xả thân để giữ nhân, chứ không thể sống mà mất đức nhân... https://thuviensach.vn 3. Tiếng chim ríu ra ríu rít trên mái nhà. Không gian mở theo tiếng chim xa xanh bát ngát. Côn dừng tay trên trang sách, lắng nghe từng tiếng chim. Giữa âm thanh chim ca hát trên cành cây, tai Côn lọc rõ một tiếng chim non yêu ớt buồn buồn: Thiêp... Thiệp... Thiêp... Côn bâng khuâng mường tượng ra nhiều hình ảnh trong đầu... Trước mắt Côn đang hiện dần con đường mòn lắt lẻo vắt qua những cánh đồng lúa vàng, những cồn mả như úp bát, cây đa giữa đồng, cái ao đầu làng và con đường rẽ làm nhiều nhánh nhỏ vào làng như bàn tay xòe ra năm ngón. Hình ảnh bà ngoại đứng trên sân nhìn ra đường gọi cháu về ăn cơm lừng lững giữa lòng hồi tưởng của Côn... Khiêm từ dưới bếp lên, thấy em ngồi ngẩn trước chồng sách của cha, gọi giật giọng: - Côn! - Côn giật mình. - Dạ, anh gọi em! - Em lục lọi sách kín của cha hả? - Lại đây anh! - Côn nói vẻ hệ trọng - Em đã tìm thấy tờ Chiếu Cần Vương. - Chế...t! chế...t! Cha chưa cho phép, em dám liều, vô lễ rứa à? - Em đã xin cha cho anh em mình được đọc tờ Chiếu. Cha hứa nhưng chưa nhớ cất kỹ vào đâu. Giờ em lục thấy, cha cài kín giữa hai tờ bìa bồi ghép lại, tờ chiếu được bọc bằng giấy điệp. Khiêm ngồi xuống bên em. Hai anh em chăm chú vào tờ Chiếu Cần Vương. Côn nhận xét: - Chữ của cha, anh ạ. - Cha sao lại, chứ mần chi có được tờ chính. - Hai anh em mình thử đọc coi có biết được hết mặt chữ trong tờ Chiếu ni không. - Ngắn thôi ấy mà! https://thuviensach.vn - Ngắn mà nhiều chữ khó, chưa học thì cũng không thể đọc hết được anh ạ. - Ừ, em đọc trước đi. Côn đọc: - "Hàm Nghi Đế Chiếu" - Khoan... khoan đã. Phải thắp hương em ạ. Cha mỗi lần đọc loại sách cao siêu của các bậc Thánh hiền, đọc Chiếu, đọc Sắc phong, đọc Dụ của Vua, cha đều thắp hương đó. Côn đang lưỡng lự thì Khiêm đã cầm nén hương chạy xuống bếp châm lửa. Dưới mái nhà tranh buổi ban mai, trong Thành Nội, thoang thoảng hương trầm, hai mái đầu tóc trái đào nghiêng xuống tờ Chiếu Cần Vương cách đó hơn mười năm về trước. Đọc xong, hai anh em nhắc lại từng câu, bàn luận, giống như cha thường đàm đạo với các bạn văn. Khiêm đọc nhấn dài giọng: - "Tự cổ ngự nhưng chí sách, bất xuất, chiến, thủ, hòa tam gia nhi dĩ. Chiến chi, tắc vĩ hữu kỳ cơ, thủ chi, tắc nan kỳ đắc lực, hòa chi tắc sở cầu vô yểm. Dương thử sự thế thiên nan vạn nan, bất đắc dĩ nhi dụng quyên..." Vậy là, em thấy không. Vua cũng do dự về ba cái sách chống giặc: đánh, giữ, hòa. Đánh thì chưa có cơ hội, giữ lại lo không đủ sức, hòa thì bị chúng đòi hỏi với lòng tham vô đáy. Côn ngồi trên ghế, thõng hai chân xuống đất. Hai ngón chân cái dí xuống nền nhà, bàn tay trái níu vào cạnh bàn, ngón trỏ tay phải đưa qua đưa lại trên hàng chữ anh ánh mực nho sáng như những con mắt ngấn lệ. Khiêm biết Côn vốn hay xúc động. Đọc sách Nhị Thập Tứ Hiếu cũng trào nước mắt. Nhìn cử chỉ em, Khiêm thấy em đang nén sự nghẹn ngào, lựa lời nói với em điều đồng cảm: - Đức vua Hàm Nghi tuổi nhỏ mà gánh vác trọng trách giang sơn, lớn lắm em hề! https://thuviensach.vn - Anh nói đúng quá - Côn nhấc bàn tay trái của mình, nhẹ nhõm hẳn lên. - Đọc Chiếu Cần Vương, em càng thấm thía bài học thuộc lòng Ái Quốc của cha giảng mới rồi cho anh em mình. Em mường tượng thấy Đức vua Hàm Nghi đang ngồi trước mặt, nói với em: "Ngã quốc nhi lai, ngẫu nhân đa cố" Cha cũng thường nói vậy: Nước ta gặp nhiều biến cố lắm. Đức vua nói câu này, thương quá: "Trẫm dĩ xung linh tự vị, ký ư tự cường tự trị, bất hạ vi mưu, Tây phái hoành bức, hiện tình nhật thâm nhất nhật"... Thương Vua quá chứ anh. Này nhá: "Trẫm tuổi trẻ nối ngôi, chưa kịp lo việc tự cường, tự trị. Bọn phái viên của Tây hoành hành áp bức ngày một thậm tệ"... - Hai anh em đọc sách chi rứa? Nghe hay, thảm thiết lắm! Khiêm, Côn bất thần cùng quay ra: - Ôi! Mệ Huệ Minh... Anh Kỳ... - Khiêm cất tiếng hỏi - Côn tiếp - Mệ và anh Kỳ đến lâu chưa. Kín tiếng ghê! Huệ Minh cười thoáng trên làn môi cắn chỉ, nói nhỏ nhẹ: - Đến chưa dừng chân thì anh Kỳ đã đánh tiếng mà anh còn trách bọn tôi "kín tiếng"! - Huệ Minh kéo dài hai tiếng: kín tiếng . Côn vội vàng thanh minh: - Kín tiếng là lúc nói môi không hở, răng không lạnh. Chịu chưa? Huệ Minh phì cười. Kỳ, Khiêm cũng đều cười. - Anh Côn vụng chèo, nhưng rất là khéo chống nghe - Huệ Minh khen mát lại Côn. Khiêm đỡ lời: - Hai anh em tôi từ sang giờ đọc chưa hết tờ Chiếu Cần Vương. Huệ Minh tưởng mình nghe nhầm, hỏi lại: - Hai anh đọc ... đọc Chiếu Cần Vương à? - Vâng - Côn đáp. Huệ Minh càng sửng sốt. Kỳ hỏi luôn: - Chắc thầy cất giữ được? - Vâng - Côn đáp. Khiêm nói: - Mệ và cậu Kỳ sợ Chiếu Cần Vương à? Kỳ đáp vô tư: https://thuviensach.vn - Việc chi phải sợ? Huệ Minh có phần tự ái với Khiêm: - Răng anh Khiêm hỏi lạ rứa? Nỏ lẽ bọn tôi không biết đau xót nước mất, thương nhớ và kính trọng Đức Hàm Nghi vì nước phải đi đày sang đất nước người? Biết Khiêm lỡ lời, thấy Huệ Minh buồn thật sự, Côn đỡ lời thay anh: - Mệ, cậu Kỳ, đừng giận lời anh Khiêm vừa nói. Bởi hôm cha tôi kể chuyện kinh đô thất thủ có dặn rằng: Yêu nước là một tình cảm, là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi người dân ở trong một nước. Vậy mà, ở nước ta hiện thời không được nói đàng hoàng chữ Ái Quốc. Cả đến Chiếu Cần Vương của Đức vua Hàm Nghi cũng bị coi là "ngụy chiếu". Cha dặn bọn tôi là phải giữ miệng. Mệ và cậu Kỳ hiểu cho lòng bọn tôi. Huệ Minh vẻ xúc động, mắt nhìn xuống, khép nhẹ hàng mi. Diệp Văn Kỳ hồn nhiên, nói: - Cái bụng cậu Khiêm, cậu Côn thiệt như đếm vậy đó, mệ Huệ Minh ạ. Ngày tụi mình nhập môn, thầy cử Sắc cũng đã dạy bài Ái Quốc là bài mở đầu "lót dạ" cho chúng mình để theo đường học của thầy. Hôm tôi ngồi học ôn bài Ái Quốc, cha tôi đang đi dạo ngoài hiên môn, tôi không để ý. Tôi đọc to từng câu trong bài để dễ thuộc. Lúc đọc câu: "Quốc gia, tải dân chi châu dã... Bạn Tổ Quốc, do châu nhân tự huyệt kỳ châu dã...", cha tôi bước vô nói: "Con hãy giải nghĩa Nôm cha nghe". Tôi nói như lời thầy giảng: "Nước, Tổ Quốc là con thuyền chở dân, kẻ phản lại Tổ Quốc chẳng khác chi người ở trong con thuyền đã đục thuyền thủng giữa biển khơi". Cha tôi gật đầu nói với tôi: "Cụ Thượng Tấn (Đào Tấn) đã chọn được một người thầy dạy con học đúng như cha mong đợi! "Xưa và nay, đất Nghệ đều là đất sinh hào kiêt, sinh anh tài, sinh người nghĩa khí!" - Mệ còn giận tôi nữa không, mệ Huệ Minh? - Khiêm hỏi rất hồn nhiên. - Buồn. Tôi nỏ giận mô. Mà cũng hết buổi rồi. https://thuviensach.vn Phòng học vui vẻ hẳn lên. Côn và Kỳ nghe tiếng chim ríu rít từ trên mái nhà xa lanh lảnh hòa vào bầu trời xanh trong. Tay Côn vẫn giữ khư khư tờ Chiếu Cần Vương. Khiêm kể thêm với Kỳ về quan Đào Tấn: - Cha tôi thân với cụ Thượng Tấn từ hồi cụ ngồi Tổng đốc An Tịnh. Cha tôi đậu khoa thi Hương trường Nghệ, Cụ Thượng Tấn bắt đầu kết thân với cha tôi từ trong buổi tiệc khoản đãi các ông tân khoa. Côn đưa tờ Chiếu Cần Vương cho Huệ Minh đọc. Huệ Minh lại trao cho Kỳ, Huệ Minh nói: - Tình đồng môn có khi hơn cả tình đồng tộc, thầy cử Sắc đã dạy chúng ta cái điều ấy. Đã kết bạn sách đèn thì đâu còn có phân chia con nhà quan với con nhà dân. Tấm gương sáng về tình bạn giữa thầy cử Sắc với cụ Thượng Tấn đáng để chúng mình học lắm. Hai cậu là con thầy, bọn tôi là học trò của thầy, là bạn sách đèn của hai cậu, hoàng thân quốc thích không có dính dáng chi đây cả. Côn phá tan cái không khí ngột ngạt bằng câu chuyện vui: - Bà ngoại tôi ở ngoài Nghệ An thuộc rất nhiều chuyện cổ tích hay trần đời. Ngày Côn chưa biết chữ, bà ngoại đã kể cho Côn nghe chuyện cổ tích: Cô Tấm mồ côi cha mẹ, đi xem trẩy hội mùa xuân đã được hoàng tử kén về làm vợ - Kỳ vẻ thích thú gật gật đầu - lại còn chuyện về đời Hùng Vương có chàng Chử Đồng Tử đi đánh cá thấy công chúa Ngọc Dung đi ngoạn cảnh bên sông. Chàng sợ quá, vì không có quần áo che thân đã vội nằm vùi cát lên kín người. Công chúa không biết, chọn nơi vắng vẻ ấy hạ lệnh cho đám nữ tỳ vây kín màn để công chúa tắm. Lúc tắm xong lên thay xiêm y. Trời xui đất khiến sao đó, các nữ tỳ đã quây màn cho công chúa đúng nơi bãi cát mà chàng Chử Đồng Tử trốn. Chàng muốn thoát khỏi ngay cái nơi đáng sợ này trước lúc công chúa tắm xong lên. Nhưng, đám nữ tỳ đứng ngoài màn vây khá đông. Chàng muốn chui xuống lòng đất mà không được. Lúc công chúa vào trong màn, chàng nhắm mắt, nín thở. Chẳng hay, một nữ tỳ bưng lên một thau nước để công chúa rửa chân, thau nước tưới https://thuviensach.vn vào chân công chúa, chảy lênh láng, cát trôi làm lộ trần cả thân hình Chử Đồng Tử. Công chúa hốt hoảng suýt ngất đi. Chử Đồng Tử quỳ thưa với công chúa về cảnh ngộ của mình. Công chúa nghe ra liền nghĩ duyên này trời đã xe cho. Nàng kết tình chồng vợ với Chử Đồng Tử. Huệ Minh cố nén cười không được. Tiếng cười cả bốn người vui nhộn hẳn lên. Huệ Minh giọng ngượng ngập: - Cậu Côn đã thêm mắm thêm muối khi kể. Tôi cũng được nghe chuyện cổ tích ấy, nhưng Chử Đồng Tử sợ trốn vô lùm cây, công chúa gặp phải chứ mần chi có cái chuyện Chử Đồng Tử vùi mình vô bãi cát? - Đã gọi là kể chuyện cổ tích thì chẳng ai kể giống ai được. Tôi kể theo lối của bà ngoại tôi đó. Tôi cũng thêm thắt nhưng ít thôi. - Người đời xưa tốt lạ hề - Khiêm nói - Hoàng tử kết tóc xe tơ với cô gái mồ côi ở chốn thôn quê. Công chúa kết tình phu phụ với anh chàng chăn trâu, nghèo đến nổi không có một miếng giẻ trên người! Thời này có đốt đuốc đi tìm khắp chốn cùng nơi cũng khó gặp được tình người với người như rứa. Kỳ đánh trống lảng: - Bữa ni, thầy cho nghỉ học, chúng mình phải đi chơi một tí chứ, ngồi bàn hoài cái chuyện của các cụ à? - Đúng đó. - Huệ Minh nói giọng hăng hái - Chúng ta sang chú phó Tràng xem chú ấy chạm đồ thờ, đẹp lắm. Kỳ, Khiêm đều đã đứng dậy, Huệ Minh còn do dự: - Chừ, vẫn chưa thấy Hạnh đến, ta đợi thêm vài khắc nữa. - Đi thôi - Kỳ giục - Hạnh chúa lề mề. - Hanh đến đây không thấy bọn ta, khắc sang chú phó Tràng tìm - Khiêm nói. Bốn người học trò xấp xỉ bằng đầu nhau rảo bước dưới hàng cây văng vẳng tiếng chim và tiếng lá xôn xao, nhập nhòa bóng nắng. Côn lắng nghe. Đứng lại, vẻ thận trọng: https://thuviensach.vn - Có một tiếng chim trên cây kia, nghe lạ lắm. Cả nhóm đều ngước nhìn. Huệ Minh bình thản lắng nghe, không nhìn lên ngọn cây. Côn lại nhắc: - Phải lắng tai thật tĩnh lặng mới phân rõ được tiếng chim nhỏ, mới ra ràng thì phải. - Ừ. Ừ... - Kỳ nói - Có tiếng chim non thiệt. Nó kêu chậm và thấp: "Thiệp"... "Thiệp"... "Thiệp"... hay "Tiếp"... "Tiếp thiệp" long ra mấy tiếng ấy đều đúng cả. - "Tiệp... tiệp" thì đúng hơn. - Huệ Minh xác nhận. - Giữa "tiệp" và thiệp" chứ nỏ giống "thiếp" hay "tiếp". Côn hỏi các bạn: - Hay quan Cẩm y Tôn Thất Thiệp bị giết trong hành tại Vua Hàm Nghi, oan hồn ông hóa thành chim bay về kinh đô Huế, quê hương ông? Cả nhóm học trò yên lặng, đăm đăm nhìn lên hàng cây hun hút lưng trời!... Khiêm gần như trách em: - Em hay tưởng tượng hão huyền tận đâu đâu! - Chưa hẳn là hão huyền, cậu Khiêm ạ. Điều cậu Côn mơ tưởng có khi là thật. Vì quan Tôn Thất Thiệp nhớ nước, thương Vua Hàm Nghi mà đã hóa ra chim cũng nên. Các cụ thường nói: Oan hồn thì hồn hiện. Vua Thục nhớ nước, chết đã hóa ra con chim quốc. Khương Linh Tá bị giết còn hóa thành đèn dẫn đường cho Đổng Kim Lân bế ấu chúa đi trong đêm, kia mà - Huệ Minh nói. - Có khi cậu Côn nói đúng đó, - Kỳ nói, mắt vẫn nhìn lên hàng cây. - Không phải là tiếng chim oan hồn thì đó là tiếng chim gọi bạn, gọi chúng mình nhớ gương trung liệt Tôn Thất Thiệp - Côn nói. Khiêm ưng ý: - Nói rứa nghe được. Khiêm giục các bạn đi và nhắc Huệ Minh chú ý đường đá lổn nhổn: https://thuviensach.vn - Mệ đi hài cao đế, đừng nhìn lên cây nữa kẻo ngã đó. Đường gồ ghề ni nhiều "bẫy" lắm. - Dạ, đa tạ cậu Khiêm. - Nơi gồ ghề khúc khuỷu chưa chắc bị ngã mà lại ngã ở đoạn đường bằng phẳng đó, mệ ạ. - Dạ, có khi gặp vậy đó, cậu Côn ạ. - Có lẽ... Hồ Quang kia rồi! Kỳ nói. Cả nhóm nhìn về trước. Quang thấy Côn trước, chạy vội đến. Quang chào Huệ Minh và chào Khiêm, bá vai Kỳ, bá vai Côn cùng đi đến nhà phó Tràng. Huệ Minh đi sau cùng, cách mấy bước, vấp phải trái mù u, Huệ Minh ngã quỵ gối xuống, kịp ối một tiếng. Cả nhóm chạy lại nhưng chỉ ngồi xuống bên cạnh. Huệ Minh ôm lấy chân xuýt xoa. Côn ghé xuông thổi thổi vào chỗ đau cho Huệ Minh. Rồi Kỳ, Khiêm, Quang đều làm theo Côn. Nhưng con trai không dám đụng vào người con gái, dù chỉ ở bàn chân. Một bà cụ đi qua, liền cúi xuống năn bóp cho Huệ Minh và dìu cô đứng dậy. Cả nhóm cảm ơn bà cụ rối rít. Huệ Minh ứa nước mắt. Côn pha trò để Huệ Minh vui: - Chân hài cao ngất Vấp trái mù u Ngã lăn ra đất Bàn chân sưng vù Mệ khóc hu hu... Cả nhóm cười. Huệ Minh cũng nghiêng đầu giấu nụ cười. Giọng nũng nịu: - Cậu Côn. Cậu mần vè trêu, tui bỏ về nghe. - Côn muốn mệ cười cho đỡ đau, chứ không có ý đùa cợt đâu. Huệ Minh nhấc bước chân chầm chậm, nói: - Tui và Hạnh, thỉnh thoảng gia nhân đánh xe đưa đi học. Cậu cũng mần vè chế đó. https://thuviensach.vn - Côn có vè chế mệ đi xe thật à? Khiêm hỏi Huệ Minh. Nhưng Côn thưa lại với anh ngay: - Em có làm vè xe ngựa. Nhưng em chế cậu Tuấn, cậu Kỳ, đâu có chủ bụng chế mệ Huệ Minh và Hạnh. Nhưng - Côn ngập ngừng - Bữa đó hai xe cùng đến, mệ nghe Côn đùa với hai cậu, mệ cũng tưởng đùa cả mệ nữa. Côn xin nhận lỗi. Thiệt tình xin lỗi mệ và cả Hạnh nữa. - Anh sẽ thưa việc ni với cha mẹ. Huệ Minh hốt hoảng: - Không... không... Cậu Khiêm đừng mần rứa. Đừng thưa thầy và thím. Tui trách vui cậu Côn với nhau ở đây thôi m...à. - Mệ Huệ Minh nói thiệt lòng đó cậu Khiêm. Có chi mà cậu phải làm phiền lòng thầy thím hề - Kỳ nói. - Tui cũng nghĩ rứa - Quang nói - Cậu Khiêm không nên thưa thầy thím, cậu Côn đọc vè đùa nhau cho vui ý mà. - Em đọc lại cho anh nghe vè ứng khẩu bữa đó. Nếu đáng tội phải phạt, em về xin nhận tội trước cha mẹ. Làm sai, nói sai thì em sửa chữa. Khiêm dịu dàng trở lại: - Em còn thuộc vè thì đọc đi. Côn đọc rất hồn nhiên: "Bụng béo, chân teo Thịt nhão bèo nhèo Ngồi đâu ngủ đó Không bằng đi bộ Xương cứng thịt săn Tỉnh táo mắt thần Học mau thuộc chữ"... Cả nhóm học trò lại cười lên, Huệ Minh e thẹn hơi cúi đầu, cười chúm chím. Khiêm nắm tay giơ lên: - Vè hay lắm. Hay lắm. Anh tung hô em Côn vạn đại, xóa việc mách với cha mẹ. https://thuviensach.vn Cả nhóm thở phào nhẹ nhõm, và rẽ luôn vào ngõ chú phó Tràng ngay trước mặt. Côn dừng bước nói: - Mệ, anh Khiêm, cậu Kỳ đợi ngoài ngõ, để tôi với Quang vô nhà trước coi chú ấy có nhà không đã nha. Côn kéo tay Hồ Quang đi khuất sau hàng cây. Huệ Minh nhìn thơ thẩn phát hiện thấy một tổ chim trên cây bên ngõ nhà chú phó Tràng, Huệ Minh gọi: - Cậu Khiêm, cậu Kỳ ni, tổ chim. Tổ chim trên chạng cây ni. Khiêm ngước nhìn trước, chưa kịp nói thì Kỳ đã trèo lên cây, chân bám vào chạng ngàm, tay níu cành to trên cao. Khiêm nhắc: - Tay níu vào cây thiệt chắc nghe. Từ từ đã. Vít cây vào đầu, thật sát mình, nhìn vào tổ thấy rõ chim trong tổ hãy đưa tay bắt, nhẹ thôi. Chim non dễ chết lắm. Kỳ lần lần bàn chân lấn ra giữa cành cây: Cái cành khá to đã sà xuống. Huệ Minh không dám nhìn lên tổ chim nữa. Tiếng cành cây gãy kêu rắc rắc... Huệ Minh hốt hoảng hai tay bịt măt. Tổ chim rơi xuống. Khiêm vừa nói vừa chạy tới: - Không khéo chim chết... chim chết... Kỳ nhảy vội xuống đất chạy vội đến. Khiêm đặt hai con chim non để vào cái lá bàng: - Chim chết thiệt. Tội nghiệp! Kỳ đỡ lấy lá bàng đựng hai con chim trên bàn tay Khiêm xuýt xoa. Huệ Minh không dám đến gần, Côn và Quang trong nhà phó Tràng ra, nói to: - Chú đi làm thợ từ sáng. - Cái chi rứa?- Quang hỏi - Cái chi rứa hai cậu? - Chim non trong tổ. Chết rồi - Kỳ đáp. Côn ngồi ngay xuống, chau mày: - Các anh chắc quên bài đã học: "Đình tiền thụ hữu điểu sào?" - Nhớ chứ - Kỳ nói - Lúc thầy giảng bài đó, thầy chỉ tay ra hàng cây bên ngoài, nói: "Ví như cây cao trước nhà kia có một tổ chim vừa làm đẹp cho https://thuviensach.vn cây, vừa là nơi đất lành chim đậu. Có nhiều chim đến vườn, chim sẽ cho ta tiếng hót và bắt sâu cho cây cối trong vườn". - Thầy còn dặn chúng ta: Tổ chim khác nào ngôi nhà của con người. Phá tổ chim cũng như phá một ngôi nhà êm ấm vậy - Huệ Minh nhắc thêm. Kỳ và Khiêm lấy một đoạn cây, bới lỗ ngay dưới gốc cây có tổ chim, đặt cái lá bàng gói hai con chim non xuống, lấp lại. Côn nhìn lên ngọn cây cao, nhìn xuống gốc cây vừa chôn hai con chim non, giọng buồn buồn: - Lát nữa chim mẹ chim cha bay về không thấy tổ ấm, không thấy con đâu chúng đau khổ lắm, lại kêu khóc thảm thiết! Trên đường về nhà, năm người học trò bước đi lặng lẽ nặng nề như người có tội! https://thuviensach.vn 4. Từ hôm con chuồn chuồn sứ bị Tuấn làm gãy đuôi, Côn chưa bắt được một con chuồn chuồn nào đẹp hơn để gửi cho bé Xển. Mỗi lần Quang đến thăm bé Xển, Côn đều nhắc: "Quang nói với bé Xển, Côn còn nợ một chú chuồn chuồn sứ nhé". Bé Xển bị bại liệt hai chân từ lúc lên ba tuổi. Gia đình bé Xển thân với gia đình Hồ Quang. Bố của Quang sống bằng nghề thuyền te. Bố của bé Xển lại là thợ xây có "hoa tay". Mẹ Quang thường mang cá lên các chợ bán. Mẹ bé Xển bán hàng ở chợ Đông Ba. Hai bà từ chỗ mua, bán với nhau thành tình thân như ruột thịt. Hai gia đình cảnh nhà khác nhau, nghề sinh sống cũng khác biệt. Nhưng bố mẹ của hai nhà cùng chung một mơ ước con trai được học dăm ba chữ Thánh hiền. Họ đã nghiệm thấy: Đói gạo đói cơm đã nhục nhưng không nhục bằng đói chữ. Hai tiếng "dân ngu" đè nặng lên đầu của những người không có chữ. Dù có bát ăn bát để, dù có lịch lãm việc thiên hạ, biết cư xử phải đạo, hợp tình hợp lý ở đời mà không được cái danh nho sinh thì vẫn là "đồ vô học". Bố của Hồ Quang muốn được rời dòng sông lên cạn "cắm dùi" cho con cái đỡ khổ kiếp sống lênh đênh sông nước đã mấy đời rồi. Nhưng không có cái chữ, lại không có đủ tiền để biện lễ biếu khắp các cửa quan, cửa các thầy lý hương... Một người bạn vạn chài có con học được mức "viết chữ hàng tám" chạy vạy được một chân thư lại cho quan huyện. Nhờ vậy, cả nhà rời thuyền te lên bờ làm ăn sinh sống. Tuy gia đình bạn ông hiện còn là "dân cư ngụ" nhưng vẫn hơn gấp trăm lần cái kiếp người "sống vô gia cư", "chết vô địa táng". Bố bé Xển có nỗi đau riêng về sự mù chữ của mình. Ông đi làm thợ, mỗi lần đắp xong những hàng chữ nổi trên các miếu thờ, các cổng làng, cổng chợ, trùng tu các cửa tam quan, các tháp ở các ngôi đền, ngôi chùa, lăng tẩm ông lại đau lòng! https://thuviensach.vn Đắp được chữ nổi, chữ nhiều bao nhiêu nét ông đều đắp được và rất đẹp, nhưng lại không đọc được. Một câu hát ví ở đâu đó đã lọt vào trí nhớ của ông lúc nào chẳng rõ nữa, thỉnh thoảng nó như mũi bay gí vào tim ông: "Thợ nề đắp chữ đẹp ghê - Mỗi lần cúng bố phải thuê thầy từ". Ông định bụng sẽ xóa nỗi đau mù chữ bằng hy vọng dành dụm để cho con ăn học. Tiếc thay, vợ ông đẻ ba lần đều con gái cả. Ông không trọng nam khinh nữ. Cho con gái đi học với một ông thầy đồ ở Hàng Bè. Nhưng không đứa con nào chịu học. Chúng sợ hết hồn hết vía vì cả xứ Huế này chẳng thấy ai trong đám dân nghèo có con gái đi học chữ ông Thánh cả, chỉ có nhà vua, nhà quan mới cho con gái đi học, hoặc nuôi thầy học trong nhà dạy riêng cho con cái. Ngày vợ ông chửa lần thứ tư, ông khấn lễ khắp các chùa, các đền, cầu một con trai. Ông đi tu sửa đền đài, chùa chiền lấy tiền công rất rẻ để Thần Phật phù hộ cho ông. Vợ ông đẻ một con trai mặt sáng như gương, tay chân bụ bẫm. Ông mừng suýt chết ngất. Những tháng ở cữ, ông không cho vợ đụng đến một việc gì trong nhà. Ông làm hết, làm quên cả ăn, cả ngủ. Những hôm đi làm thợ tận dưới Kim Bôi, dưới phá Tam Giang, ông vẫn lần về không ở lại đêm như trước. Nhưng, số phận nghiệt ngã với ông. Trong cái may đến ngay cái rủi: Con trai ông đang ăn chơi đẹp như đóa hoa thì bị một cơn sốt co giật. Ông chạy thầy, chạy thuốc không tính đến còn hay hết của trong nhà. Rốt cuộc đứa con vàng ngọc ấy chịu cái tật liệt hai chân! Vợ chồng ông khóc đêm, khóc ngày không biết làm cách nào để con có đôi chân cứng cáp mà đi học, đi làm thợ với ông... Cái tên bé Xển cả nhà ông gọi từ ngày ấy. Niềm hy vọng nuôi con ăn học vẫn le lói trong lòng ông. Năm bé Xển lên sáu tuổi, ông đi xin học với một thầy đồ. Ông dự tính hàng ngày sẽ cõng con đến nhà thầy, hết buổi học lại đến cõng con về. Những ngày ông đi làm xa, vợ ông hoặc ba đứa con gái thay phiên nhau cõng bé Xển. Ông đã nói hết mọi nhẽ với thầy mà vẫn không xin được cho con học. Cũng có thầy đồ nhận dạy cho Xển, nhưng lại ở tận Tiên Nộn, hàng ngày cõng đi cõng về không thể được. Gửi trọ học thì phải một chị gái của Xển đi theo nuôi em, tốn kém quá, không có tiền gạo https://thuviensach.vn chu cấp cho đủ được. Giá ông khá giả một chút có đôi ba gian nhà thì ông sẽ rước thầy về dạy cho con và rủ dăm ba nhà cho con đến học, đóng "đồng môn" nuôi thầy... Càng suy nghĩ ông càng thấy tuyệt vọng. Hồ Quang đã kể tất cả tình cảnh của nhà bé Xển cho Côn nghe. Côn theo Hồ Quang đến chơi nhà bé Xển. Thấy Xển khôi ngô, hai mắt sáng và to, môi đỏ như môi con gái, ăn nói lễ phép, Côn mến ngay. Thấy Xển không đứng lên được, phải bò hoặc lết bằng hai bàn tay chống xuống nền nhà, Côn nao nao lòng không dám nhìn kỹ. Côn thầm nghĩ: Giá mình như Xển liệu có giữ được mặt mũi, áo quần sạch sẽ như Xển? Liệu có khác tính khác nết đi không? Côn liền nói với Quang: - Anh mời bố của Xển ra cho mình gặp tí. Bố của Xển trạc gần bốn mươi, nhưng tóc đã lốm đốm bạc. Ông chắp tay trước ngực định nói thì Côn chạy tới xòe hai bàn tay nhỏ của mình ôm lấy hai bàn tay chai sạn, ngón tay to như trái chuối của ông Xển: - Thưa bác, cháu là hàng con cháu, bác đừng... xin bác đừng... Cháu là bạn của Quang, của Xển... - Không dám, thưa cậu ấm. - Ấy chết! Bác đừng thưa gửi cháu! - Tui được biết cậu là con trai thứ của thầy cử Nghệ. Chừ tui mới biết vì tui đi làm ăn kiếm sống từ lúc sương mai đến khi sương hôm mới về. Bé Xển của tôi nó khoe được cậu Côn đến cho nó đồ chơi, cho quà và vẽ hình người, vẽ hình lâu đài, hình núi, hình voi, ngựa, cá, chim cho nó. Cậu bắt được con chuồn chuồn sứ, con bươm bướm hoa cậu cũng gửi cho nó. Từ ngày có cậu và cháu Quang đến với nó, nó không thấy cô đơn què quặt la mấy nữa. Tui đi vắng đa đành, bà nhà tui cũng ở chợ từ mới sớm đến lúc gần đóng cửa Thanh mới về nên chưa gặp được cậu để đa tạ lòng nhân đức của cậu... - Bác ơi! Cháu có giúp được chi cho Xển đâu hở bác!... Cháu!... https://thuviensach.vn - Tui nói thiệt đó. Chỉ thấy việc cậu là con nhà khoa bảng, con nhà thầy, nhà quan mà đến nhà tui, phận bần hàn ni là rồng đến nhà tôm... - Chết... chết.. bác ơi!... Côn cười - Các bạn cháu biểu cháu cầm tinh con mèo. Mà bác lại nhận bác là tôm thì... Côn bật cười. Ông Xển cũng phì cười, bé Xển ngồi gần Quang cũng cười rộ lên, xóa hẳn cái không khí già cỗi. Côn nói rõ ý định của mình: - Cháu được nghe Quang kể về tình cảnh nhà bác, lại thấy Xển sang dạ, ước ao được học chữ. Được biết bữa nay bác ở nhà, cháu sang gặp bác, cháu sẽ bày cho Xển học, cháu học được tới đâu, cháu bày lại cho Xển tới đó. - Ôi! Thánh... Thần... Ông Xển đừng phắt dậy, hai tay chắp búp sen trước ngực - Tui lạy cấu mớ... bái... - Trời ơi! bác! cháu... cháu sợ quá! Sao bác lại... Côn giữ tay ông Xển. Giọng ông xúc động buông từng lời bồng bềnh: - Bụng tui như cái bánh gói thì tui bóc ra để cậu thấy rõ, tui đi khắp cửa chùa, cửa đền ở cái xứ ni, cầu Phật, xin các thánh thần phù hộ cho con trai tui thoát kiếp tàn tật. Nhưng thánh thần đều ngoảnh mặt cả. Đành... con tui đành chịu tàn tật thân xác, tui còn một mơ ước nho nhỏ là con tui có được dăm ba chữ Thánh hiền thì cũng gọi là người sáng mắt, đỡ tủi cái phận què chân. Tui đi lạy các thầy đồ quanh đây, nỏ thầy mô nhận dạy chữ cho nó cả. Chừ! chừ đây cậu tự đến, đem chữ đến chia sớt cho con trai tui!... Ông khóc nghẹn - Rứa là nhà tui còn phúc được Thánh thần xui khiến cậu đến nhà ban phúc cho... Côn lại bối rối: - Bác... ơi... cháu xin bác đừng gọi cháu bất kể một thứ danh hiệu nào khác với cái tên cha mẹ cháu đã đặt cho. Cha cháu hồi bé mồ côi, ham học, cũng được ông ngoại cháu đón về nuôi dạy cho đến ngày đậu cử nhân. Đến lượt cháu chia chữ cho Xển là việc bình thường bác ơi. Cha mẹ cháu thường nói: "Ăn quả phải biết gieo hạt" bác ạ. https://thuviensach.vn Ông đứng ngẩn người ngắm Nguyễn Sinh Côn với con mắt đã từng ngắm những hàng chữ nổi do bàn tay ông tạo nên với lòng thành kính - "Lời của Thánh hiền dạy". Tiếng nói của ông đang oang oang bỗng trầm hẳn xuống: - Cậu đã nói vậy là thể tình với tui. Tui và cả nhà tui biết ơn cậu lắm lắm. Côn nói ngay vào việc: - Bác sắm giấy, bút, mực để cháu bày cho Xển học sớm, bác ạ. Hai mắt ông bừng sáng, cười hà hà: - Thưa cậu, có đủ cả rồi. Tui sắm cho nó từ hồi năm ngoái đâu dè xin học không nổi. Ông chạy vào buồng bê ra một chồng vở giấy bản tốt, bút lông thỏ, thoi mực, nghiên sành... - Tui mua cho nó đủ ba loại bút, cả ống đựng bút, mua cả tờ nòng kẻ để nó tập viết thẳng hàng. Đây nữa, tui nhờ mua bộ "Nhất Tự Kinh", "Tam Tự Kinh", "Ngũ Tự Kinh". Tui làm thợ trong các nhà quan, các nhà hào phú, để ý việc con cháu họ học, tui về sắm cho bé Xển đủ những thứ con cháu họ, chứ kém chi cậu!... - Được giấy này, bút này, mực này chỉ cần sáng dạ và ham mê học thì nhất định Xển của bác sẽ có chữ trong mắt như hai bác ước mơ. Giờ bác đi nghỉ hay làm việc của bác kẻo mất công mất việc của bác. Cháu và Quang giúp ngay việc học cho Xển. - Ố... ố... Cậu dạy ngay chữ cho nó à! Cậu cho tui được nhìn con tui đón nhận vô mắt cái chữ đầu tiên của Thánh hiền. - Dạ, vậy mời bác ngồi đợi cháu và Quang mài mực đã ạ. - Không. Để tui. Phần tui được mài mực. Cậu ngồi nghỉ. Cậu là người thầy học đầu tiên của con tui, tức thị là thầy học của gia đình tui... Côn chưa kịp nói với ông thì ông cầm thỏi mực và cái nghiên chạy vội vào phía trong lấy nước lã để mài. Hồ Quang cũng đang mài son, thử bút. https://thuviensach.vn Côn và Quang giúp cho bé Xển ngồi vào ghế, hai cái chân teo để thõng xuống lúc la lúc lắc như cái dây thừng. Côn nói: - Chân Xển yếu không thể xếp bằng trên phản được, cũng không thể ngồi khom người để viết như người khác mà nên ngồi ghế, tựa bàn mà học, mà viết ít bị mỏi. Ở nhà Côn cũng ngồi ghế tựa bàn, không ngồi lom khom như các nho sinh khác. - Anh lót thêm hộ cái áo cũ của cha em vì mông em nỏ có thịt, ngôi lên đau lắm anh ạ - Xển nói với Quang. Quang với lấy cái áo treo trên móc gấp lại, lót cho Xển ngồi thử. Côn nói: - Xển ngồi tạm ít hôm nhé, Côn về xin mẹ Côn mấy miếng vải đầu tấm dệt bị lỗi cắt ra, sẽ can lại may thành cái gối lót cho Xển ngồi học. Bé Xển ngồi ngay ngắn, hai cánh tay đặt trên bàn, mặt bồi hồi sung sướng như lúc được mẹ về chợ cho quà, vuốt ve âu yếm. Côn ngồi bên cạnh, để cuốn vở giấy trắng tinh trước mặt bé Xển. Ông Xển và Quang đưa nghiên mực mài và bút lông thỏ lên, đặt ở bên. Côn đỡ lấy bút, nói với bé Xển những lời ân cần: - Hôm nay là buổi học khai bút, khai tâm đầu tiên cho Xển. Côn viết vào vở tập "bộ nét" để Xển tập viết và nhớ thật kỹ từng nét thì sau này mới biết được chữ. Còn khai tâm, Côn viết cho Xển bài học đầu tiên bằng năm chữ, mỗi chữ từ hai đến bốn nét để dễ nhớ. Mắt bé Xển, mắt ông Xển và cả Hồ Quang nữa như hút theo ngọn bút của Côn đưa trên mặt tờ giấy tinh khôi. Côn vừa viết vừa xương lên cho Xển đọc theo: "Nét chấm... nét ngang... nét ngang dài; nét ngang ngắn; nét sổ... nét sổ thẳng; nét sổ có gạch dưới bên tả, nét sổ có gạch dưới bên hữu;... Nét phẩy xuống,... nét phẩy hất lên,... nét phẩy khép,... nét mác,... khung;... nét móc..." Côn viết tiếp vào vở học cho Xển: - Xển chú ý cách viết của năm chữ khai tâm đây - Côn đọc lên - Nhân: bốn nét, gọi là nhân đứng ( ) ghép với chư nhị ( ). Nhân: hai nét. Hựu: hai https://thuviensach.vn nét; Đại: ba nét; Nhân: Xển chú ý chữ nhân trước viết khác và nghĩa cũng khác hai chữ nhân đứng sau. Côn đọc lại: - Nhân nhân hựu đại nhân. Bé Xển đọc theo. Và, Côn bịt chữ trước hỏi chữ sau lại bịt cả năm chữ hỏi một chữ. Bé Xển nhớ ngay mặt chữ. Côn giảng nghĩa từng chữ và Côn dặn thêm: - Chữ nhân bốn nét là lòng thương người chứ không phải nhân là người viết hai nét. Đột nhiên Côn quay ra ông Xển: - Thưa bác, bác nên đặt cho Xển một cái tên khác, đừng gọi bằng Xển nghe tủi lắm ạ. Ông Xển thở dài: - Cậu chu đáo quá. Cậu đã thương em nó rứa là tận nguồn đến ngọn rồi. Quả thiệt tui đã đặt tên cho nó là Văn. Tui họ Bùi, lót Hải. Tức thị: Bùi Hải Văn. Đặt tên như rứa là cái bụng của tui ước ao lớn lên nó sẽ được tắm trong cái bể học, bể hiểu biết để làm người, cậu ạ. - Bác đặt tên cho Xển vừa đẹp vừa có ý nghĩa hay. Bác ơi, từ nay không gọi cái tên tủi thân ấy mà gọi Văn đúng cái tên lót ổ ạ. Bé Văn cười sung sướng, má đỏ hây. Ông bố cũng phấn chấn ôm chầm lấy nó nâng bổng lên chạy tâng tâng khắp nhà... https://thuviensach.vn 5. Côn hý hoái chọn những mảnh vải đầu thừa đuôi thẹo của mẹ cắt xén từ trong các tấm vải dệt xong. Côn đã xin phép mẹ khâu vá cho bé Văn một cái lót ghế ngồi. Côn mô tả với mẹ về tình cảnh tàn tật của nó. Chị cử Sắc đưa cả bọc mụn vải cho Côn lựa chọn và chị hứa sẽ khâu gối cho nó. Nhưng Côn chưa dám thổ lộ với mẹ việc Côn dạy chữ cho nó học. Côn muốn im lặng, khi nào nó học kha khá sẽ thưa với cha mẹ. Côn dặn kỹ Quang và cả Khiêm, Tuấn nữa, giữ kín, coi như cả nhóm cùng giúp đỡ cho bé Văn học được kết quả. Khiêm đi chợ về, ngồi sà xuống bên Côn kể một thôi dài: -... Em biết không. Anh mần theo lời mẹ dặn, anh em mình khi ra chợ mua món chi, con trai không quen giá cả thì đợi các bà, các chị người ta mua xong, nhờ mua giúp cho luôn thì nỏ bị hớ. Anh đang đứng trước hàng tôm đợi có người mua để nhờ, mẹ của Quang ngồi bán cá nhìn ra anh. Bà gọi, mời anh rối rít: - Ôi! Anh có nói đi mua cá mua tôm chi không? - Côn hỏi Khiêm vẻ lo ngại. - Em coi anh như người khờ ấy! Này nhá: Quang là học trò của cha, anh với em chơi thân với Quang. Anh gặp mẹ Quang đang ngồi bán cá thì có khác chi bọn thuế, bọn lính cẩm đến các nhà bán hàng gợi ý: nhà chúng sắp có giỗ, hoặc bảo ở nhà có người ốm chưa có chi ăn! Côn cười giòn: - Em cứ lo anh buột miệng nói mẹ sai anh ra chợ mua thức ăn thì khó xử lắm đó. - Anh chỉ mới nói mẹ ta đi chợ Nam Phổ bán vải và mua sợi. Rứa là bà ấy lấy lạc định xâu cá cho anh mang về. Anh phải giữ lấy tay bà. Nhưng bà cứ biểu: "Thím đi chợ Nam Phổ ngái lắm, lại cách đò cách giang phải gần tối mới về được.. Cậu đưa cá về nấu cho thầy ăn. Tui mà biết thím đi vắng https://thuviensach.vn tui đã sai thằng Quang đem cá lên cậu rồi". Anh vẫn nằng nặc không nhận và đành phải nói dối với bà là đã ăn cơm rồi để cha đến Giám. - Cha đi đến nhà quan đốc Đặng gặp chú Tú San chứ anh? - Thì đã biểu bí quá anh phải nói dối cho qua m...à... - Rồi anh có mua được tôm không? - Có, anh nói với bà là con mèo ốm, chỉ ăn tôm, nó nỏ ăn cá, ăn mỡ chi cả. - Anh lại phải nói dối vậy nữa? - Anh có mua tôm thiệt chứ? Chỉ nói tránh mua cho mèo thì nỏ hết mấy để bà khỏi ép nhận cá biếu của bà. Nhưng vui nhất là chuyện các bà bạn hàng của bà Quang nhìn chăm chú rồi khen với nhau: Nhà ai có được người con đẹp như người trong tranh? Anh ngượng chín cả mặt muốn chạy liền thì bà Quang cứ giữ lại khoe ríu rít: "Con thầy cử Sắc đó. Bé Quang nhà tui được thầy cử thương tình cho vào học trường của thầy. Thầy rất đẹp. Thím rất đẹp. Cho nên con cũng rất đẹp. Cậu cả đây đẹp, nhưng so với cậu em lại chưa thấm chi mô". Bà lại còn kể về em tỉ mỉ như người tạc tượng: "Cậu ấy người thanh mảnh, mười ngón tay thon dài như mười búp măng, da trắng như trứng gà bóc, mặt vuông tượng, hai con mắt sáng như hai ông sao, lông mày dài hơn mắt, đúng là mày ngài mắt phượng, trán trượng phu. Môi lại đỏ chon chót như nhuộm phẩm điều, mũi cao thon thon, nhưng không nhọn, không quắm như mũi đám Tây đoan mô..." Côn chạy vào giường mẹ cầm ra chiếc gương con gà, vừa soi vừa hỏi Khiêm: - Mặt em có như bà Quang nói không anh? - Chứ còn chi nữa! Ngày ở nhà quê bà ngoại mình cũng biểu em đẹp giống bà nội. Sáng dạ như bà nội. Bà nội hồi còn con gái được học chữ với thầy Hồ Sỹ Tạo ngồi dạy ngay trong nhà. Bà ngoại còn biểu: "Cha rất giống bà nội, ít giống ông nội, cho nên dạ cha sáng như đèn. Còn bác Nguyễn Sinh Thuyết thì tối dạ. Bác học năm năm mà không nhớ được đủ https://thuviensach.vn chữ để đọc các tờ văn cúng ngày giỗ, tết. Bà nhủ: Bác Thuyết rất thương cha mình nhưng bác sợ bác gái một phép". Côn vừa cười vừa nói vui: - Bác trai nể bác gái mà ngỡ bác sợ vợ đó. Tôn Thất Tuấn gọi to từ trước ngõ chạy vội vào: - Đắm đò... đắm đò ngoài bến Tràng Tiền... Cậu Khiêm ơi... Cậu Côn ơi... Côn vứt vội nắm vải vụn xuống đất, đứng phắt dậy. Khiêm cũng tái mét mặt, nhưng bình tĩnh hơn. Côn giục: - Chạy ra coi ... m...ẹ có về chuyến đò này không? - Thím cử đi mô mà phải sang đò?- Tuấn hỏi. - Mẹ tôi đi chợ Nam Phổ! - Ta chạy ra ... đi! Khiêm giục và cả ba cậu học trò chạy một mạch ra đến đò Tràng Tiền. Bến sông trước cửa Nhà Tiền người đứng như nêm củi, Khiêm đi ra trước lách lối cho Côn và Tuấn chen vào theo. Ai cũng muốn vào sát bến sông để tìm xem người nhà mình có trong chuyến đò bị đắm này không. Khiêm, Côn, Tuân cứ túm lấy gấu áo của nhau mà chen vào. Cả ba cái đầu trẻ nít mướt mồ hôi mới lấn bước vào được trong bến. Côn lo cho mẹ cháy ruột cháy gan mà vẫn nói pha trò được: - Anh em mình nhỏ đầu nên dễ chui, hai anh nhể? Tuấn "Ừ" với Côn. Khiêm nhắc Côn: - Nín lặng nghe coi họ đang nói chi ở dưới bến nước! - ... Cứu cấp!... Cứu cấp!... người còn nóng... Còn nóng... vác ngược chân nạn nhân lên mà chạy cho nước trong bụng ộc ra... Có cả những tiếng noi của người già: - ... Thổi... thổi chuyền hơi vô miệng nữa... Côn chạy vượt thẳng đến nơi đang có tiếng người kêu cứu. Khiêm, Tuấn cũng bám sát được Côn. Ba cặp https://thuviensach.vn mắt thơ ngây bỗng lạc thần, mặt không còn sắc máu nhìn chằm chằm vào mấy người phụ nữ đã nhợt nhạt nằm như ngủ trên tấm liếp trải. Những nạn nhân được vớt lên ngay đang được nhiều người xum lại dìu vào các nhà gần nhất. Một số nạn nhân còn thoi thóp thì đang được cấp cứu tại chỗ. Hai anh em Côn và Tuấn lần lượt nhìn kỹ từng người... Tiếng khóc của những người thân các nạn nhân nhức nhối lòng người vọng dài theo dòng sông. Tuy chưa gặp mẹ ở đây, Côn nhìn cảnh chết chóc nước mắt trào ra. Khiêm và Tuấn cũng không cầm được lệ. Có tiếng gọi: - Cậu Côn... ơi, cậu Côn!... Côn nhìn sang bên kia đám người, thấy bố bé Xển Văn, Côn gọi: - Anh Khiêm, cậu Tuấn, bác Văn gọi ta. Ông Xển Văn lướt đến rất mau, đứng ngay trước mặt ba cậu nho sinh. - Ồ! Cả cậu Tuấn có ở đây nữa. Tui với chú phó Tràng cùng xuống bến trong chuyến đò ni. Nhưng tụi tui lên một đo thì không hề chi, còn một đò thì đắm. Tui với chú phó Tràng ra về có gặp bà cử đang ở chợ. Bà cử nỏ có trong chuyến đò ni mô. Ba cặp mắt thỏ con đang hốt hoảng đã dịu hẳn lại. Nhưng cả ba cậu bé nho sinh mừng như mở cờ trong bụng mà không ai thốt ra lời. Tiếng mấy em nhỏ mất mẹ, những người lớn mất người thân ruột thịt đang khóc ai oán bên sông Hương. Côn tin ngay lời ông Xển Văn. Nhưng Khiêm thì vẫn hỏi thêm: - Bác nhìn đúng là mẹ cháu còn ở chợ, hả bác? - Tui với chú phó Tràng còn chào bà cử rồi mới đi ra cổng chợ, mà cậu. - Chú phó Tràng về rồi, hả bác? Tuấn hỏi. - Chú... Chú kia đằng kia - ông chỉ tay về một đám đông đang cứu người bị nạn. Chú lại hung (khỏe) lắm. Một mình chú nớ vớt được sáu người lên bờ đó. - Bác ơi - Côn nói - chúng cháu đến chỗ chú phó Tràng đây. https://thuviensach.vn - Thôi - giọng ông buồn trĩu xuống - Các cậu đi về nhà được rồi. Mọi người đang về cả đó. Chết mất bốn người! Còn lại thì cứu sống được cả. - Dạ, chúng cháu ở đây đợi mẹ cháu một thể, bác ạ - Khiêm nói. - Rứa thì... thì các cậu đi lên cửa Nhà Tiền mà đợi, đừng đứng chỗ ni ồn ào, nhức đầu. Tui phải về kẻo bé Xển... à à... quên... các cậu thứ lỗi cho tui cứ quen mồm gọi con cái tên khổ sở nớ! Thôi, tui về kẻo bé Văn nó nghe tin đắm đò nó lo... - Cháu chào bác ạ, bác nhắc Văn nó chép cho xong để mai cháu đến lấy quyển về, bác nhé - Côn dặn với theo sau tiếng chào của Tuấn và Khiêm. Ông Xển Văn chắp tay xá xá rồi bước đi. * Khiêm đi trước, theo sau là Côn, Tuấn, lên tới con đường đá, Tuấn nói: - Biết chắc thím không về trong chuyến đò đắm. Yên cái bụng rồi. Hai cậu ở lại đợi thím, mình về nghe. Mình nghe tin đắm đò, chạy ngay ra báo với hai cậu, nỏ kịp xin phép mẹ. Côn giục Tuấn: - Cậu Tuấn về kẻo bác lo chẳng rõ đi đâu. - Tụi mình cảm tạ cậu Tuấn nhá. - Trời ơi! Câu Khiêm lai đi cảm tạ tôi chuyện ni hỉ! Khiêm cười trừ. Tuấn phát vào vai Khiêm một cái rồi chạy vù trên con đường nắng xiên khoai. Côn nhìn theo Tôn Thất Tuấn đang xa dần trong bóng ô; bóng non nhấp nhô trên con đường, nói với anh: - Em đói bụng lắm anh ạ. - Anh cũng thấy đói cồn cào từ nãy. Giá nỏ có chuyện đắm đò thì ăn cơm xong anh em mình đi đón mẹ là vừa. - Em thương con mèo cũng bị đói quá bữa như anh em mình. - Người chưa được no thì lại còn lo cho mèo đói! https://thuviensach.vn - Người có óc nghĩ, đói bụng thì nghĩ sang chuyện khác quên được đói. Con mèo nó chả biết nghĩ nên bụng đói thì mồm kêu meo meo, càng kêu càng đói chứ anh? - Em về mà hỏi mèo ấy. Anh mô phải con mèo mà hỏi anh. Côn thấy anh nói dỗi, mặt tiu nghỉu. Đứng im giây lát, Côn lại hỏi anh giọng buồn buồn: - Bốn người chết đắm đò, em thấy thương quá, tội nhất là mấy đứa nhỏ lên hai lên ba mà đã mồ côi cha mẹ. Em thấy hai đứa cứ trườn ra khỏi tay bế đòi xuống với mẹ. Chúng nó chưa biết mẹ đã chết nằm đó. - Ừ, anh nỏ dám nhìn. Thương lắm. Chúng sẽ phải chịu phận: "mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ vét lá đầu đường!". - Câu ấy em cũng đã nghe bà ngoại, cả mẹ nữa thường nói. Nghĩa của câu ca dao ấy là sao anh? - Là... là mẹ chết, bố còn trẻ không thể ở vậy nuôi con được, phải lấy người vợ khác. Người vợ mới của bố sẽ là mẹ ghẻ của con. Đã là mẹ ghẻ thì ghét con chồng, đày đọa con chồng. Khổ quá, không ở được với mẹ ghẻ, con phải ra đứng đường vét lá bánh, lá gói của người ta vứt ra... Cũng như câu: "Bao giờ bánh đúc có xương, bao giờ mẹ ghẻ lại thương con chồng?!!" Côn im lăng. Nhìn đăm đăm ra dòng sông Hương loang loang nắng chiều. - Vậy ra - Côn hỏi anh - Bố chết trẻ, mẹ đi lấy chồng khác thì con không khổ hả anh? - Ít khổ hơn. - Sao em lại nghe cha nói: "Còn cha gót đỏ như son, đến khi cha thác gót con đen sì". - Anh chưa hiểu hết cái nghĩa của câu ấy. Anh cứ cho là, cha chết, con ở với mẹ vẫn sướng hơn chết mẹ. Vì, dầu mẹ có đi lấy chồng khác thì người bố dượng bao giờ cũng rộng bụng hơn là người dì nghẻ. https://thuviensach.vn - Hứ... chưa chắc đâu anh ạ. Anh đã quên rồi à? Chú đội khố vàng ở bên cạnh nhà mình, chết vợ lấy cô bán chè gánh. Cô ấy góa chồng, có một đứa con gái với chồng trước. Vài ngày chú đội lại đánh cô ấy một trận, đánh cả đứa con gái nữa. Hôm kia chú đội đánh đuổi cả con gái. Nó phải về bên bà nội của nó! Cô ấy dắt con gái vừa đi vừa khóc. Mẹ mình biếu mẹ con cô ấy ba quan tiền với mười vuông vải mộc đó. Côn ngẫm nghĩ để hỏi anh thêm. Nhưng Khiêm vẻ khó chịu: - Em hay hỏi. Cái chi cũng đặt thành việc để hỏi... Trả lời với em không đầy đủ thì em lại hỏi vặn. Mệt đầu lắm. Anh nỏ nói chuyện với em nữa mô. Côn vẫn dịu dàng với anh: - Không biết em mới hỏi. Đã hỏi thì hỏi đến nơi đến chốn, chứ anh. Vả lại, đang lúc đói bụng, nói chuyện cho quên đói, chẳng lẽ em cứ kêu đói bụng... đói... bụng như con mèo kêu meo meo à? - Anh đã nhủ: Nói chuyện với em mệt đầu mệt óc mà, càng nói càng thêm đói bụng. Khiêm toan bỏ đi ra xa thì Côn đã nhìn thấy hai ba chiếc đò cập bến: - Ta xuống đón mẹ, anh ơi! Khiêm hớn hở ngay: - Ồ. Có khi mẹ về chuyến đò ni em à. Hai anh em vội chạy xuống bến đò. Nắng vắt lên vương thành như tấm vóc. Mặt sông Hương phơn phớt tím. Những dãy nhà Tây ngạo nghễ dưới bóng cờ ba sắc kiêu mạn giữa cảnh trí Hương Bình. Gió hiu hiu, mây vờn vợn trôi, trời lẳng lặng u hoài!. Chị cử Sắc lên bờ, bước chầm chậm, hai đầu gánh nhún nhảy theo nhịp chân. Chị nhìn quanh bến sông vẻ mặt buồn, thầm nghĩ về số phận của những người bị đắm đò chuyến trước! Chị thở dài. Gió bay nhè nhẹ cái nón quai thao hơi trùng triềng. Chị nghiêng mái nón về tây. Bước vội. Sợi dây xà tích bạc, dây lưng xanh lượn uyển chuyển quanh ống quần lụa thâm. Chị vào đất kinh đô đã hơn hai năm mà vẫn còn ngường ngượng về cái quần hai ống mặc trong người. Ở Nghệ An quê chị chưa có một người con gái nào dám mặc quần, tất cả đều mặc váy. Nhiều bà, nhiều chị quanh năm chỉ mặc https://thuviensach.vn váy vành cối xay xắn quai cồng, không dám mặc váy dựng đứng thành theo chiều dọc của vải của lụa. Vì việc đèn sách của chồng, của các con, chị phải thay đổi một phần nếp ăn mặc của mình mà cũng là của quê cha đất tổ. Song, chị cũng nhận ra, mặc quần tiện lợi, gọn gàng hơn. Nhiều bạn gái nhận xét chị mặc quần còn duyên dáng và trẻ ra nữa. - Mẹ! mẹ! Chị cử Sắc nhận ra các con cùng lúc các con nhận ra chị và chúng đã gọi mẹ trước. Côn ríu rít một bên tay mẹ. Khiêm bịn rịn đằng sau mẹ. - Nghe đắm đò, chúng con hoảng quá vội chạy ra bến tìm mẹ - Khiêm nói - Côn tiếp lời anh: - Nhờ có cậu Tuấn chạy đến nhà tin cho chúng con, mẹ ạ. - Cậu Tuấn tốt bụng quá. Các con đợi mẹ từ lúc nớ à? - Dà ạ - Khiêm đáp... - Các con ăn cơm trưa rồi mới ra đón mẹ chứ? - Chẳng kịp ăn mẹ ạ - Côn trả lời gọn lỏn. - Các con ăn uống trễ nãi rứa, mẹ nỏ vui mô... Cha các con chưa về à? - Cha vẫn chưa về, mẹ ạ - Khiêm đáp. Ba mẹ con chị cử Sắc bước vội trên con đường nghiêng nghiêng nắng chiều. Anh cử Sắc như từ trong nắng chiều hiện ra. Anh đi sải dài bước về phía Nhà Tiền. Côn nhận ra dáng cha đang đi... - Ồ! Cha! Cha đi đón, mẹ ơi! Côn chạy về phía cha. Khiêm cũng bước nhanh vượt lên trước mẹ: - Con đoán cha về nhà nghe tin đắm đò thế nào cũng ra bến tìm mẹ. Y như rằng. - Giá các con về trước để cha khỏi phải mất công đi ra bến nữa. Anh Sắc sập cái ô xuống: https://thuviensach.vn - Tôi về nghe hàng xóm nói, biết là nhà không có trong chuyến đò đắm. Nhưng không thấy bé Khiêm, bé Côn ở nhà tôi lại băn khoăn... - Đã biết không có chuyện dữ, nhà còn đi ra bến. Quá cẩn thận. - Chị Sắc nói. Côn nói như than thở với cha mẹ: - Con nhìn thấy mấy người bị nạn, bụng căng tròn nước sông. Chú phó Tràng cùng với những ông lực lưỡng vác ngược chân họ lên chạy lúp xúp vòng quanh, nước trong mồm người bị nạn chạy ra ộc ộc... Anh cử Sắc thở dài: - Người ta nói đắm đò mới lo bắc cầu. Đằng này, chưa biết bao giờ mơi có được cái cầu qua khúc sông giữa chốn kinh đô? Chị cử Sắc hỏi chồng: - Nhà đến đằng quan đốc Đặng có gặp được anh nho San (Phan Bội Châu) không? - Có. Anh nho sửa soạn đến chỗ ta thì tôi đến. - Giỗ cha sắp tới. Nhà có mời anh nho không? - Có chứ. Anh nho còn nhắc anh: "Sắp đến giỗ thầy Hoàng Xuân Đường rồi". Tôi muốn mời cả anh đốc Đặng. Nhưng ngày đó anh đốc lại bận đi hành hạt ra mấy phủ huyện phía ngoài giáp Quảng Trị. - Khoa thi vừa rồi anh nho có... - Chị cử Sắc đang lưỡng lự thì anh cử Sắc đã thở dài, đáp: - Anh nho thi Hương kỳ mới rồi bị cái án "Hòa hiệp văn tự, chung thân bất đắc ứng thí". Chị cử Sắc lặng người. Chân mỏi rũ, vai nặng trĩu, bước từng bước uể oải. Vợ chồng anh cử Sắc và cả hai con im lặng đi về tận nhà! https://thuviensach.vn 6. Từ ngày vào kinh đô Huế ở, lần đầu tiên cậu bé Nguyễn Sinh Côn thấy cha mẹ làm mâm cỗ khá to cúng giỗ ông ngoại. Buổi tối ngồi học bài, Côn nghe lõm bõm cha mẹ bàn bạc: - Mình nhớ công ơn cha từ nghĩa cả: Sinh thành và dưỡng dục. Với tôi, cha là người nuôi dưỡng, người tạo dựng cơ đồ cho, người thầy học dạy tôi từ lúc còn bập bẹ cho đến ngày tôi đứng vào hàng lều chõng. Côn cảm thấy vui vui nghe mẹ cười nói với cha: - Nhà lại phạm vào cái sách "trọng nam khinh nữ". Tôi là học trò của cha mà nhà lại chỉ nhận cho riêng mình được nhớ ơn nghĩa thầy là cái lý chi? - Ờ nhỉ! Xin lỗi mình nhá. Mình là học trò của cha cho đến ngày có mang bé Thanh mới xếp bút nghiên. Vậy mà tôi đinh ninh chỉ có riêng tôi là thờ nhạc phụ với nghĩa thờ thầy nữa! - Đàn bà... là đàn bà, dầu giỏi chữ mấy vẫn là phận đàn bà. Ở quê mình biết bao bà mẹ giỏi chữ, có công dạy cho con học từ sách "Đồng Ấu Ngũ ngôn thi" cho tới Tứ Thư rồi mới đi học tiếp với các thầy khác. Nhưng chẳng ai nhắc đến công người mẹ dạy chữ mà có nhắc đến thì cũng chỉ nhắc lấy lệ như sách Chinh Phụ Ngâm: "Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân". Rất may cho bà Đoàn Thị Điểm dịch sách của Đặng Trần Côn, bà huyện Thanh Quan có thơ đèo Ngang, bà Hồ Xuân Hương có thơ nhạo đời mới biết các bà là những đàn bà biết chữ, đàn bà có học!... Anh cử Sắc vừa cười vừa nói: - Chà! Mình bữa nay "luận tội" sự bất công ở đời khiến tôi cũng chột dạ đó. Chị cử Sắc cười tủm tỉm. Rồi chị bàn bạc cụ thể với chồng việc cúng giỗ cha ngày mai. Côn đến trước cha mẹ khoanh tay: - Thưa cha mẹ, con đã học xong bài. Anh cử Sắc gật đầu nói: https://thuviensach.vn - Cha mẹ cho phép con được đi ngủ. Khiêm vẫn ngồi học cho tới lúc cha mẹ bàn xong việc giỗ chạp mới thuộc hết bài. * Vừa tảng sáng, chú phó Tràng đã oang oang từ ngoài ngõ vào sân nhà: - Em cứ ngỡ đến sớm ri bác cử chưa dậy. Té ra, em lại là người "trời sáng tưởng trăng mai". - Mẹ con tôi cũng vừa mới dậy, chưa mần chi mô, chú ạ - Chị cử Sắc đáp. - Bác đã có nước sôi chưa để em cắt huyết gà? - Chưa chú ạ. Chú lên nhà uống trà với nhà tôi đã. Anh cử Sắc ở nhà trên nói vọng ra: - Mời chú vô đây uống trà nóng. - Em tạ thầy cử - phó Tràng vừa sải mấy bước chân đã thấy bé Côn từ trong nhà chạy ra đon đả: - Cha cháu mời chú vô uống nước. Mời chú vô nhà đi... Cha cháu đang đợi chú... Vì tối qua học bài khuya Khiêm còn ngái ngủ đã chạy vội xuống bếp với mẹ. Anh cử Sắc rót ba chén nước. Anh đưa Côn một chén: - Con bưng xuống mời mẹ - Anh bưng tiếp chén nước thứ hai mời phó Tràng - Chú uống trà ạ. - Thưa thầy cử - phó Tràng đón chén trà trên tay anh cử Sắc - Đời thợ của em ăn cơm uống nước từ trong cung cấm ra tới chủ tiệm tạp hóa chợ Đông Ba. Tay thợ em đóng ngai vàng, đóng ngăn, đóng hộp cho hàng xén, đóng cả cái ghế cho bà bán nước chè tươi ở quán bên đường. Nhưng em vẫn như một con chim bay sắp rã cánh mà chưa tìm được đất lành để đậu. Lòng người bạc lắm. Sự đời lắt léo quá. Đường đời hiểm hóc và chông gai không một ai lường hết được - Chú uống nước kẻo nguội - Anh cử Sắc mời https://thuviensach.vn - Phó Tràng ngấp từng ngụm nhỏ như uống rượu. Anh vẫn giữ cái chén trong lòng bàn tay. Anh cử Sắc nâng cái ấm sành lên, phó Tràng liền chìa chiếc chén màu da lươn đón dòng nước tỏa hương chè sen thơm ngon. Phó Tràng nhấp trà, nói một giọng trầm trầm khác hẳn thường ngày: Tui nói ra, có điều chi sai, xin thầy xá quở cho. - Đâu dám. Chú cứ tự nhiên - Anh cử Sắc đỡ lời. - Từ ngay gia đình thầy cử vô đây, tui đươc làm người láng giềng, chạy đi chạy lại với ông bà, với hai cậu nhỏ, chừ lại được phép gọi các cậu là cháu, thân mật hiếm có lắm. Hiếm có thiệt tình. Có người biểu với tui: Thầy cử là người Nghệ nên nhiều chữ và giàu nhân đức. Tui không hoàn toàn tin theo các quan niệm ấy. Tui hỏi họ rằng: Ở trong triều hiện còn có ông cử nhân người Nghệ lên đến chức Phụ chánh đại thần, Duyên Mậu quận công, suýt nữa là được phó vương trấn ở Bắc Kỳ do có công trung thành với Tây, giết dân chúng, đàn áp quân khởi nghĩa của quan Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật. Tui là người đất Thần kinh ni, đã nhìn thấy rõ mặt những ông quan, ông vua. Thật hay giả, thiện hay ác. Tui ra đời lúc Tây đánh chiếm cửa Hàn (Đà Nẵng). Ngày kinh đô thất thủ tui đã hăm sáu hăm bảy tuổi rồi. Gốc tổ của tôi ở Đà Nẵng, thầy cử ạ. Anh cử Sắc đỡ lời ngay: - Chúng tôi biết chữ, lẽ ra chúng tôi và hai cháu phải gọi chú bằng bác mới phải đạo. - Không hề chi việc gọi chú hay bác, thưa thầy. Điều cốt tủy là cách đối xử giữa người với người, thầy cử ạ. Như tui vừa thưa chuyện với thầy đó. Lòng người bạc lắm, hiểm lắm. Tui đã thấy, mắt tui đã nhìn rõ giữa thanh thiên bạch nhật chứ nỏ phải nghe ai kể. Đúng cái buổi sáng 23 tháng 5 năm Ất Dậu, quan tướng thân thần hộ giá Vua Hàm Nghi ra khỏi hoàng cung. Kinh đô chìm ngập trong khói lửa. Tui cũng chạy loạn như mọi người. Nhưng trong khi chạy, có những tiếng kêu cứu thất thanh giữa đám cháy. Có người nhảy vô lửa cứu người. Tui không thể chạy dài thoát thân được đã nối gót những người đang cứu người bị nạn, tui lao qua một đống lửa, https://thuviensach.vn chui vô ngôi nhà đang cháy dở, cõng được một em bé gái, xốc nách kéo lê được một cụ già gần bảy mươi tuổi ra khỏi đám cháy. Bọn tui chạy ra khỏi cửa Thành. Trời vừa sáng bảnh, tui chợt nhìn ở đầu góc đường Hàng Bè có một người con trai trạc tuổi tui đang quỳ lạy một tên giơ gươm chém. Tui nép vô sát hè phố. Nghe rất rõ lời nạn nhân van xin: "Mình với ông là bạn thân, là Phấn Nghĩa quân của quan tướng! chớ giết mình! Mình đang còn một vợ, hai con. Ông về đầu thú Tây thì mặc. Mình nỏ khai ông với Tây mô. Mình mần ăn để nuôi con thôi"... Nhưng tên kia vẫn đâm, chém hàng chục nhát rồi bỏ chạy. Hắn chạy ngay qua mặt tui. Đến chừ tui vẫn còn nhận được mặt tên giết người ngày ấy. Tui nỏ dám vạch mặt hắn vì hiện chừ hắn đóng lon đội khố xanh giữ cửa cho sứ Tây bên tê sông. Người ta quen gọi hắn là đội Xuân! Tên đội Xuân thường dắt Tây về các làng, các chợ nhà quê vây ráp, ức hiếp dân chúng. Người ta còn đồn rằng, hắn và một số tên nữa định cướp tài sản của ai liền ném bả rượu vô vườn người đó rồi đưa Tây về bắt "quả tang". Rứa là sạt nghiệp với hắn. Anh cử Sắc ấp cái ấm trà nong nóng vào lòng bàn tay, mắt nhìn vào khoảng trống. Bé Côn đang quét dọn bàn thờ cũng dừng tay lại. Anh cử Sắc để cái ấm xuống, hai bàn tay anh đặt lên hai vai phó Tràng: - Cùng một buổi sáng chạy loạn, một tên thì: sát bằng hữu thoát thân. Còn chú thì lại: Sát thân thành nhân. - Thầy cử ạ. Tui nghe tởm lòng dạ con người từ cái ngày đó. Tui lại trộm nghĩ: Cái hạng con tốt đen mà lòng nham hiểm đáng kinh tởm. Còn kinh tởm hơn là kẻ có tâm địa đen tối mà lại ngự trên ngôi thiên tử, hay ngồi trên ghế quan triều thì khổ cho muôn dân! Tui - anh đặt tay vào ngực mình - Chính tui nghiệm thấy cái điều đó. Cha tui cùng với tui vô Nội, đục, đẽo, bào, gọt, chạm trổ ra cái ngai. Cái ngai bằng gỗ trăm phần trăm. Rồi mấy ông thợ sơn, phết sơn son lên, thếp vàng lên. Người ta phong cho nó cái tên: "Ngai vàng của Thiên tử". Rứa là cả trăm họ cúi đầu trước cái giá gỗ do tay cha con tui đóng. Cái tuồng đời phải vậy thì cứ coi là được đi. Vì người ngự trên cái ngai gỗ ấy là một hiền tài thật sự, dân đỡ khổ. Đằng ni, https://thuviensach.vn một tên vô lại được mang danh: hoàng tử lên ngôi do một tên ở Cơ mật viện sắp xếp thì là một đại họa cho giang sơn, cho nòi giống. Tui là người thợ mộc, tui có cách suy nghĩ của tui chứ. Ưng Lịch lên ngự trên cái giá của cha con tui đóng, xưng: Hoàng đế Hàm Nghi. Tui chưa vội nhận là đấng minh quân. Phải đợi cái đức sáng của Vua qua việc làm trước muôn dân, không thể tin ở các tờ dụ, tờ chiếu của Vua được. Đến lúc Vua Hàm Nghi cùng với quan thân thần, với các anh hùng hào kiệt và dân chúng cả nước quyết kháng chiến đuổi giặc Tây thì cái bụng tui sung sướng vô cùng. Cho đến lúc Vua bị bắt đày đi biệt xứ, tui vẫn thờ Vua Hàm Nghi trong bụng của tui chứ đâu chỉ thờ Vua ở trên cái ngai gỗ tui đã đóng ra! Tui lại buồn tủi cho cái ngai của tui là Ưng Đăng lên ngôi hoàng đế Đồng Khánh. Nếu cái ngai nó cũng nghe được như tui thì nó càng đau lòng khi ông chủ trị vị thiên hạ cầm bút "ngự phê những lời vàng sang nước mẹ Đại Pháp". Và ông ta từ trên cái ngai này ban xuống:"Muôn dân hãy tin ở Trẫm. Trẫm sẽ ban những ân thưởng cho trăm họ. Trăm họ sẽ yên vui tọa lạc dưới bóng cây đại lộc của trẫm." Hỡi ôi! Ông vua nói khoác đã chết. Cái ngai tui đóng còn đó. Lời nói khoác và văn tự bán nước của vua sẽ còn lưu lại với hậu thế! - Trong lịch sử có nhiều vua đã chết ngay khi đương kim hoàng đế. Lúc "băng hà" chẳng qua là để vùi cái xác vô đất mà thôi. Cho nên, những ông vua nói khoác chết cùng lúc với lời khoác lác khi đã lọt vao tai dân chúng. Câu chuyện chú nói sáng nay, tôi càng yêu quý chú nhiều. Tôi chỉ dặn chú một điều nhỏ: nên giữ miệng. "Cảm nộ bất cảm ngôn" chú ạ. Bé Khiêm từ dưới bếp chạy lên: - Thưa chú, xôi chín rồi. Đã có nước sôi làm gà chú ạ. - Rứa à cháu. Chú xuống ngay đây - Anh phó Tràng đứng lên xoa xoa hai bàn tay: Xin cáo lỗi thầy. Tui xuống nhà dưới đã ạ. - Vợ chồng tôi vô đây nhờ cậy chú nhiều lắm. - Ấy! Có đáng chi mô thầy. Tui được làm người thân tín của gia đình thầy mà cứ ngỡ mình nằm mơ vậy!... https://thuviensach.vn Anh cử Sắc toan nói thêm một điều gì đó với phó Tràng, nhưng anh ta đã sải bước ra sân, khuất sau cánh cửa. Côn quét dọn bàn thờ xong, xuống bếp. Thấy mẹ đang chăm chú dỡ xôi ra rá, hơi từ nồi chõ bốc mù mịt qua đầu mẹ. Côn đi rón rén đến sau lưng mẹ, hai bàn tay nhè nhẹ bịt mắt mẹ. Chị cử Sắc nhoẻn cười: - Côn, con tưởng mẹ nỏ nhận ra con à? Mẹ bận tối mắt, con còn bịt mắt mẹ cho tối thêm hả! Côn cười trừ: - Sao mẹ lại không nghĩ là anh Khiêm quấy rầy mà mẹ lại đoán ra con, hả mẹ? - Làm mẹ thì phải biết tính biết nết từng đứa con chứ. Đang hồn nhiên chơi trò "bịt mắt đố mẹ", Côn đột ngột gọi mẹ giọng buồn buồn: - Mẹ ơi! - Chi đó con? - Hôm nay giỗ ông ngoại. Cha mẹ, anh Khiêm và con ở cả đây. Bà ngoại ở ngoài quê chỉ có dì An, chị Thanh, bà buồn nhớ lắm đó. Lúc ngủ dậy con nghĩ vậy, mẹ ạ. - Ừ - Chị cử Sắc cũng đượm vẻ bâng khuâng - Bà ngoại của các con khi mô cũng nhớ con nhớ cháu cả. Những ngày giỗ chạp thì bà càng nhớ các con cháu đi xa vắng nhà. - Ước chi con "hóa phép" một cái là bay về quê ở với bà, với dì và chị Thanh vài hôm; con lại hóa phép bay trở vô đây, mẹ nhể? Chị cử Sắc cười: - Con chưa hóa được phép để về thăm bà ngoại, thăm dì và chị Thanh của con mà biết nhớ đến là đáng khen rồi. - Con hỏi mẹ một chuyện nhá! https://thuviensach.vn - Con ra sau hè bê thêm củi vô cho mẹ rồi con hãy hỏi nhá. Côn vác hai chuyến củi đã chẻ nhỏ đặt cạnh bếp đun cho mẹ. Côn định ngồi vào chỗ cũ, chị cử Sắc lại sai tiếp con: - Côn ra múc một thau ni nước, bê vô đây cho mẹ đã. Côn nhìn mẹ cười: - Mẹ biểu con bê củi vô thì được hỏi chuyện mẹ kia mà. - Chưa hết việc thì con còn phải giúp mẹ một tay đã chứ. Côn cầm thau chạy ra vại nước. Chiếc thau đồng to, Côn phải khuỳnh hai cánh tay bưng khệ nệ vào đặt cạnh mẹ, vừa thở vừa hỏi. - Còn việc chi nữa mẹ biểu con làm nốt để con ngồi bên mẹ được lâu, mẹ ạ. - Còn nhiều việc nữa con ạ. Nhưng chưa cần làm ngay. Con định hỏi mẹ chuyện chi nào? - Con... - Côn chớp chớp mắt - Con hỏi mẹ là: Ông ngoại lúc còn sống đã có lần nào vào kinh đô chưa, hả mẹ? - Ông ngoại của các con mơ ước được trẩy Kinh một chuyến mà nỏ thành. Vì ông thi Hương hai lần không đỗ được cử nhân. - Vậy ông có biết đường vào đây ăn cỗ cúng của con cháu không hả mẹ? - Con có nhớ thương ông ngoại không? - Con rất thương nhớ ông, mẹ ạ. - Con rất thương nhớ ông. Anh Khiêm của con rất thương nhớ ông. Cha mẹ của các con đều rất thương nhớ ông, đó là con đường ông ngoại vô Kinh, con ạ. - À!... giờ con mới hiểu ra những lần bà ngoại thường nói, mẹ ạ. - Bà ngoại nói mần răng? - Bà biểu, con cái ở đâu vong linh ông bà, tổ tiên ở đó. - Rứa là con đã hiểu được đôi chút về đường liên lạc giữa người sống vơi người đã khuất. Giờ mẹ hỏi con nhá? https://thuviensach.vn - Dạ, mẹ đố con à? - Gọi là đố cũng được. Mẹ đố con là ông ngoại mất năm mô? Côn nghiêng nghiêng đầu, mắt chớp chớp: - Dạ... ông ngoại mất năm - Côn tính trên đốt ngón tay - năm Tỵ mẹ ạ. - Giỏi, nhưng là chi Tỵ? - Dạ, năm Quý Ty ạ. - Con mẹ giỏi lắm. Con thử tính coi năm Quý Tỵ là niên hiệu chi? Côn lại nghiêng nghiêng đầu, mắt chớp liên miên: - Có phải... như cha con kể Vua Thành Thái lên ngôi năm Kỷ Sửu (1) không hả mẹ? - Phải đó con. - Vậy thì - Côn tính trên các đốt ngón tay - Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ... Vậy là Thành Thái ngũ niên, phải không hả mẹ? - Phải rồi. Ở ngoài quê ta, con biết không, các bà, các ông chẳng mấy người biết chữ. Rứa mà họ nhớ rành rọt ngày giỗ của hàng chục người thân. Họ nhớ giờ sinh tháng đẻ của từng đứa con. Đến như loài chim còn biết nhớ đàn, nhớ tổ. Là người thì lẽ nào lại quên cả tổ tông, ông bà của mình? Các con thường nghe cha nhắc về họ Hồng Bàng, về mười tám đời Hùng Vương, là nhắc các con phải biết nguồn gốc người mình, nước mình. Nòi giống ta là Tiên Rồng chứ mô phải từ cục đất, hòn đá hở con. - Vậy giỗ các Vua Hùng ngày mồng Mười tháng Ba cả nước cúng, hả mẹ? - Cả nước ai cũng nhớ ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Ai có lòng, thuận tiện việc đi lại, có tiền lưng gạo bị thì trẩy hội về đền Hùng. "Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba". Ông cha đã đặt thành câu ca ấy để mọi người dễ nhớ, con ạ. - Cha biểu đền Hùng ở đất Phong Châu, ngoài Bắc Kỳ, chắc là xa lắm lắm, mẹ nhể? - Mẹ cũng chưa được đi tới đó con ạ! Chắc đường đất xa xôi lắm. https://thuviensach.vn - Cha nói có người đến chùa lễ Phật, người đi đạo Công giáo đến nhà thờ cầu Chúa, mà ở nhà họ lại chẳng có bàn thờ cúng giỗ ông bà, cha mẹ. Cha biểu những người đó chẳng khác chi những kẻ miệng nói thương nòi giống, thương dân chúng cần lao đến cắt ruột, ăn không ngon, ngủ không yên, nhưng họ lai đuổi bố mẹ già ra ở xó bếp, chuồng trâu để họ ngủ trên sập chân quỳ, đệm gấm được ngon giấc. Chị cử Sắc hơi đâm chiêu, giọng nặng trĩu: - Những kẻ ăn ở không có đạo lý với cả người ruột thịt khi còn sống cũng như lúc hóa người thiên cổ rứa là họ đã suy, đã hư từ gốc con ạ. Phụ bất từ, thì tử bất hiếu; tử bất hiếu, tôn ắt vô luân, thôi con! Phó Tràng từ nãy ngồi làm thịt gà với Khiêm, nhưng chăm chú nghe hai mẹ con chị cử Sắc trò chuyện. Tính phó Tràng nhạy như lửa. Chuyện gì bắt bén tình cảm liền cháy bùng: - Bác cử ạ. - Chú phó hỏi tôi hả? - Dà...ạ. - Việc chi rứa chú? - Cái phận của tui là tay đục tay cưa nên chi "dùi đục chấm nước mắm" bác xá cho. - Mô dám - Có chuyện chi vậy chú? - Từ nãy tới chừ, tai nghe bác nói với cháu Côn mà ngẫm học được vô vàn điều hay, lẽ phải. - Chú quá khen đó nghe. Mẹ con tôi nói với nhau chuyện vặt vãnh ấy mà chú. - Thiệt tình. Tui nói thiệt tình. Trăm lần thiệt cả trăm. Tui được đi lại nhà hai bác và các cháu là coi như được đi đến trường học. Nếu hai bác là người bá hộ thì tôi nỏ bén chân tới cổng mô. Hai bác giàu chữ lại giàu cả nhân đức nữa. Khối chi nhà nhiều chữ, sách chất cao quá đầu, hàng kho như đụn thóc mà lại nghèo nhân đức, thiếu cả nhân cách. Nói bác tha lỗi https://thuviensach.vn cho - "Nỏ dám" - chị cử Sắc đỡ lời - Đã học mót lại hay nói chữ. Thánh hiền dạy chí phải: "Triêu văn đạo, tịch tử khả hy" (buổi sáng được nghe điều sáng tỏ đạo lý, chiều có phải chết cũng thấy thỏa). - Mọi sự phải lấy đạo làm gốc, chú ạ. - Chính rứa đó bác. Hôm nọ tôi sang sửa lại cái cọc xà quay sợi, nghe thầy cử giảng cho các nho sinh lớp lớn tuổi, tui thuộc được hai câu, đêm đêm đặt tay lên trán ngẫm nghĩ, thấm thía lắm bác cử ạ. - Hai câu ở sách chi, hả chú? - Tui nỏ nhớ sách. Tui chỉ biết thầy cử Sắc giảng là nghe lọt vô tận tâm can. - Chú đọc cho nghe, chú. - Câu thứ nhất: Quân chi thị thần như khuyển mã, tắc thần thị quân như khấu thù. Ở trong câu ni tui muốn thay một chữ bác cử ạ. - Chú nói thử nghe coi chú. - Thay chữ "dân" thì rộng ý nghĩa hơn là để chữ "thần". Này nhá: Nếu vua coi dân như chó ngựa thì dân ắt phải đối với vua như giặc thù. Bác nghe có ổn không? - Được chú ạ. Thần tức là những bầy tôi của vua trong đó bao gồm cả muôn dân. Vua đã coi thần như chó ngựa thì vua còn coi dân ra cái giống chi nữa? - Cháu Khiêm, cháu Côn, nghe chú nói rứa liệu có được không? - Phó Tràng hỏi. Khiêm nhìn chú phó Tràng cười, đáp gọn một tiếng: "Được, chú ạ". Côn thì gật đầu nói: - Thưa chú, cháu còn nhớ một câu cha cháu giảng là: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Rõ ràng dân là quý hàng đầu rồi mới đến quốc gia, còn vua thì không đáng kể. Vậy mà vua lại coi dân như chó ngựa thì dân phải trừ khử ngay cái thứ vua đó, chú ạ. https://thuviensach.vn