🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bóng Ma Trong Điện Kremli
Ebooks
Nhóm Zalo
Bóng Ma Trong Điện Kremli
Gennadiy Gatsura
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách :
Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach
Cô đưa tay chạm vào mũi kiếm sắc, một giọt máu tươi ùa ra trên ngón tay. Marina thè lưỡi liếm vệt máu, và ngay tức thì một cơn run rẩy lạ lùng chạy xuyên khắp toàn thân. Một cảm giác không thể nào diễn tả nổi. Cú như thể trong vòng một vài phần nhỏ của giây mọi thứ trong con người cô đều đã biến đổi...
Bóng ma trong điện Kremli của Gennadty Gatsura là tấm gương phản chiếu đời sống ngầm của nước Nga thời hiện nại xen lẫn những huyền thoại hoang đường về lịch sử xa xưa của đô thành Matxcơva trong vòng xoáy khép lại dần ở tâm điểm Kremli với tham vọng thực hiện thánh lễ cuối cùng của kẻ sát nhân bí ẩn đang nhắm đến đỉnh cao quyền lực...
Một cầu chuyện phưc tạp với những vụ giết người có quy luật bí hiểm, để lại những vết rạch đẫm máu như dấu ấn của Quý, với cuộc chiến gian nan của lực lượng an ninh Nga song song cùng cuộc truy lùng báo thù đơn độc của một cô gái đẹp...
Gennadiy Gatsura là nhà văn, nhà biên kịch, nhà báo, thành viên Hiệp hội Nhà Văn và Nhà Báo Quốc tế APIA. Ông là tác giả của nhiều tiểu thuyết đề tài "nóng", tiểu thuyết trinh thám và truyện ngắn đã được dịch ra các thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Latvia, Litva...
Gennadiy Gatsura là một trong những tác giả đáng chú ý ở nước Nga thời hậu Xô Viết, với tài năng văn chương và sự dũng cảm của một nhà báo, ông đã xây dựng những cuốn sách của mình không chỉ bằng hư cấu, mà còn dựa trên những sự kiện có thật, làm hé lộ một phần của đời sống ngầm phức tạp ở nước Nga thời hiện đại.
Bóng ma trong Điện Kremli đã trở thành cuốn sách best-seller ở Nga năm 2001, lần đầu được dịch ra tiếng Việt.
Matxcơva tháng Sáu năm 1996.
Gã đàn ông chúc ngược cây thập ác, thắp ngọn nến đen cắm trong cây giá nến nặng trịch đặt trên sàn nhà, lột hết áo quần đang mặc trên người quăng vào lò sưởi đang cháy rừng rực. Trần truồng, gã vạch một vòng tròn bằng phấn cạnh bếp lò, sau đó vẽ thêm bên trong một hình vuông, còn bên trong hình vuông một vòng tròn nữa. Phía trước mỗi cạnh của hình vuông gã vạch một ngôi sao năm cánh và mấy chữ tượng hình kỳ quặc. Xong xuôi, gã đứng vào cái thau đồng và bắt đầu rưới lên mình chất dầu lỏng xanh nhạt từ cái chai lớn trông tựa như một bình cầu cỡ đại. Gã làm việc đó rất cẩn thận, vừa cố không bỏ sót một khoảnh thân thể nào vừa dùng lòng bàn tay xát mạnh dầu lên những chỗ da mọc rậm lông tóc nhất. Kết thúc thủ tục kỳ dị của mình, gã đàn ông gỡ trên giá xuống chiếc mặt nạ đầu dê có cặp sừng khổng lồ uốn cong vút, đeo nó và đứng vào tâm một vòng tròn bằng phấn vạch trên sàn nhà bên cạnh cửa lò há ngoác, bắt đầu chầm chậm xoay người, hướng các phần thân thể khác nhau của mình vào ngọn lửa.
Khắp gian phòng trống trải, chỉ được chiếu sáng bằng một cây nến và ánh lửa lò sưởi, với toàn bộ các bức tường treo rèm đen ngòm từ dưới sàn lên tận trần nhà, mùi chất lỏng ngây ngất bốc lên từ da gã đàn ông bắt đầu lan ra như những đợt sóng. Hoi bốc mạnh đến nỗi làm cay xè mắt, và gã thậm chí buộc phải nhắm chúng lại, tuy nhiên gã vẫn tiếp tục chậm rãi đổi chân, trong trạng thái như thể mộng du. Đó là một quang cảnh thú vị, với gã đàn ông người trần nồng nỗng mà tất thảy trang phục trên mình chỉ gồm một chiếc mặt nạ mõm dê kinh tởm có cặp sừng xoắn tít đang quay tròn bên lửa trong một vũ điệu lạ lùng chưa từng ai biết đến. Những lưỡi lửa nhảy nhót hoàn thiện nốt bức tranh, hắt lên tấm thân phết dầu lỏng của vị biếm thần vừa xuất hiện này những vệt sáng gãy khúc, khiến gã nom như một nhân vật trong các câu chuyện thần thoại hay truyền thuyết cổ xưa đã bị lãng quên nào đó.
Gian phòng mỗi lúc một thêm mù mịt làn sương xanh lơ kỳ dị, rồi từ trong đó dần hiện hình những bóng ma và ảo ảnh xanh xao. Cứ mỗi khoảnh khắc chúng lại trở nên rõ rệt hơn. Những khuôn mặt của chúng thật hãi hùng ! Chúng là ai ? Chúng cần gì ở nơi này ? Chúng tới đây làm gì ? Chúng đến với gã người đang nhảy múa bên ngọn lửa, hay chúng đến với những linh hồn tội lỗi của chúng ta ? Hay đó thảy chỉ là những nỗi hãi sợ, những phật lòng và ký ức thối tha của chúng ta đã bị xua đuổi sâu thật sâu vào trong tận cùng tiềm thức và mang những hình hài kỳ dị như vậy ? Ai sẽ nói ta hay, ai sẽ trả lời những câu hỏi có thể chẳng hề có lời giải đáp này ? Không ai trong số những kẻ phàm trần được ban quyền theo dõi toàn bộ hoạt động của cỗ máy tinh vi mang cái tên "tinh thần con người" ấy cả. Ranh giới giữa điều mà ta thấy và điều tồn tại chỉ nhờ vào óc tưởng tượng của chúng ta mới nhỏ nhoi làm sao.
Giữa bịa đặt và sự thật, giữa hiện thực và trí tưởng tượng của chúng ta, giữa điên rồ và thiên tài...
Trong khi ấy những bóng ma vây lấy gã đàn ông mồi lúc một gần sát hơn, và ta đã nhìn thấy tận mặt chính Velzevul (“Chúa Quỷ" trong tin ngưỡng tối cổ của người Sémite vùng Trung Đông, tiền thân của Satan trong Tân Uớc) đang ngự trên ngai, và ta tựa hồ như nghe thấy những tiếng gầm gào man dại bay ra từ hàng chục, hàng trăm chiếc mõm quái vật há ngoác ra:
"Hãy ngự trị, xin hãy ngự trị, thưa Satan !"
Tuy nhiên, khác với bạn đọc và tác giả, trong khoảnh khắc ấy gã đàn ông đã ở đâu đó rất xa tất cả những gì đang vây xung quanh và những gì mà trí tưởng tượng của chúng ta vẽ nên. Gã tự mình tự do chọn lựa điều gã muốn thấy. Người ta không vô cớ nói rằng mỗi người chỉ thấy
điều anh ta muốn thấy. Và điều này đã nói lên tất cả - Ta sẽ nhắm mắt lại cùng với gã...
***
Thằng bé lấy móng tay cấu một mẩu sáp mềm mại màu vàng bết trên mặt bàn bị cạo đến trắng bong, miết một hồi giữa những ngón tay, và hỏi:
- Bà ơi, bà à, nhưng bà cần sáp nến làm gì thế ?
- Để làm hình nhân.
- Nhưng đấy là cái gì kia ?
- Kiểu như búp bê ấy. Đây, cháu xem đi, - bà già lấy trên giá xuống một hình nhân nhỏ nặn bằng sáp vận chiếc áo váy màu thiên thanh và xuyên cây kim đan qua thân nó. - Cháu có biết chuyện gì sẽ xảy ra với kẻ có tóc hoặc móng tay giấu trong này không ?
- Không ạ, - thằng bé chừng mười tuổi lắc đầu.
- Bây giờ nó đang đau lắm. Đấy, đại khái thế, - nói đoạn bà già rút cây kim đan ra và dựng con búp bê sáp vào cùng một hàng với đám hình nhân mặc những bộ áo quần sặc sỡ cắt từ giẻ vụn còn lại.
Thằng bé không rời mắt khỏi con hình nhân bằng sáp bị đâm thủng. Nó được nặn cẩn thận và giống thật đến mức khuôn mặt trông như sắp khóc. Và điều chủ yếu nhất là thằng bé thấy con hình nhân và quần áo của nó rất giống một ai đó. Sau rốt thằng bé rời mắt khỏi con hình nhân và trỏ ngón tay vào một chiếc bình cổ cong to tướng ám bụi đựng thứ chất lỏng nhơn nhớt màu xanh:
- Thế đây là gì ạ ?
- Ở đây hội tụ toàn bộ sức mạnh hồi sinh của đất đai chúng ta. Đó là phương thuốc mà từ thời bà cố của ta và bà cố của bà cố ta đều đã dùng để chữa đủ thứ bệnh tật. Còn nếu ai mà xát nó lên người thì có thể bay được đấy.
- Thế cơ ạ ? - thằng bé lúc lắc đầu. - Cả bà cũng có thể ư ? Giống như mụ phù thủy Yaga ấy ạ ?
- Nếu như cần phải thế, nhưng... - bà già thở dài nặng nề, - bà đã già quá rồi, không thể chơi mấy trò ấy nữa. - Rồi, như thể sực nhớ ra điều gì, bà nói: - về đi, mẹ cháu hẳn lại đang đi tìm cháu rồi đấy. Sao cháu cứ lảng vảng ở đây mãi thế ?
- Có mà tìm. Chắc lại mò đến với bọn nhân tình nhân ngãi của bà ấy rồi thì có. Bà ấy chả yêu gì cháu đâu mà.
- Hừ, nói đến mẹ ruột đẻ ra mày như thế mà không ngượng hả ? - bà già vung vẩy hai tay. - Ai dạy mày những lời như thế hử ?
- Chả ai, - thằng bé dẩu mỏ.
- Ối chao, thế kia đấy ! Mày cứ liệu hồn với tao nhé, thằng đầu đường xó chợ kia, bước về mau !
- Thôi mà, bà, cháu chỉ ngó tí tẹo nữa rồi đi ngay.
- Mày có lấy con dao của bà không đấy ? Vừa biến đi đâu đằng nào rồi.
- Không, cháu chả động đến con dao của bà. Cháu cần nó làm quái gì ?
Thằng bé đã mò mẫm không biết bao nhiêu lần khắp căn phòng áp mái này của bà già. Ở đây chẳng thiếu thứ gì: chai lọ, hũ chậu đủ cỡ đủ kiểu, những chiếc cối bằng đồng, bằng gỗ và đá nặng trình trịch chất chồng chất đống, những cuốn sách cổ viết tay bìa nẹp sắt. Dọc tất cả các bức tường, và thậm chí trên trần nhà cũng treo hàng dãy bó cỏ, rễ cây, nội tạng sấy khô của đủ loại con vật. Trên bếp lò bắc một cái vạc bằng đồng to tướng, bên trong có thứ gì sôi lục bục suốt ngày. Thằng bé mó vào đấy, nhưng vội rụt phắt tay lại. Mặc dù bên dưới vạc không có lửa, nó vẫn cứ bỏng rẫy. Thằng bé lao bổ ra phòng ngoài, dúi những ngón tay bị bỏng vào gầu nước và nhảy từ cái chái thấp lè tè gần như chỉ cao ngang các ô cửa sổ xuống đất. Tiếng cười hiền từ của bà già vẳng sau lưng nó.
Đi hết mấy khoảnh vườn, thằng bé chui qua một lỗ hổng không lớn ở bờ dậu và lọt vào một cái sân bẩn thỉu, ba phía vây kín những lán bán hàng một tầng thâm thấp, có nhiều cửa nhà mở trông ra. Chính giữa sân chềnh ềnh một bộ sườn xe tải ZIS-5 cháy dở đổ nghiêng đổ vẹo, còn xung quanh, trên những dây phơi được chằng giữ bởi các cây cọc có đầu chạc, phất phơ những tấm khăn trải giường vá víu, quần dài và đồ lót đàn bà màu xanh nhạt giăng ra hong nắng.
Thằng bé ngoảnh cổ nhìn tứ phía. Không thấy bóng dáng những thằng lớn tướng đặc biệt hay chọc nó điên tiết lên. Nó thận trọng chui ra khỏi đống củi và đi về phía cửa nhà mình. Nhưng chưa kịp đi đến ba bước, thì một tiếng còi và tiếng huýt gió váng óc vang lên. Lần này bọn nhóc rình nó trên nóc nhà kho. Thằng bé rụt đầu rụt cổ, lao vọt qua bên cạnh các bà lão đang ngồi nhằn hạt hướng dương trên ghế băng, về phía cửa nhà nó. Gậy gộc, những cục bùn đất và tiếng la hét bay đuổi theo sau nó:
- Mẹ mày là con đĩ ! Mẹ mày là con đĩ !
Cách cánh cửa cứu nguy không xa, một thằng lớn tướng, cao nghệu cỡ mười bốn tuổi từ dưới đám khăn phơi chui ra chắn ngang đường. Nó đứng chống nạnh, cố nói thật to và hùng hổ, gầm gừ bằng cái giọng ồm ồm mới vỡ tiếng:
- Nào, thằng chó, mày vội đi đâu thế hử ?
Phía sau, từ trên nóc nhà kho lại vang lên tiếng còi và tiếng huýt sáo.
Nhận ra là mình không còn lùi đi đâu được, thằng bé giơ nắm đấm lao vào kẻ sỉ nhục lớn hơn nó bốn tuổi và cao hơn hai cái đầu. Trận chiến kéo dài không lâu, sau hai cái tát ra tát, kẻ tấn công đã lăn kềnh ra đất. Các bà lão ngồi trên ghế đá xua gã cò hương và gã liền lỉnh ra sau nhà kho.
Thằng bé đứng lên đi lại cái thùng phuy đựng nước đặt cạnh cửa nhà nó, rửa bụi bẩn, máu và nước mắt trên mặt. Chùi lại bằng mũ, rồi bằng vạt áo xong, nó bước vào nhà. Trong bếp không có ai, nhưng trong phòng vọng ra tiếng hát của mẹ, nghĩa là mẹ lại sửa soạn đi chơi. Thằng bé ngó vào cửa phòng.
- Con đấy à ? - giọng mẹ nó vang lên sau tấm ri đô ngăn khoảnh chính của căn phòng với "buồng ngủ".
- Vâng, - thằng bé khìn khịt cái mũi bầm dập, đáp.
- Lại đánh nhau với bọn trẻ con hả ?
- Không phải con đánh, tự chúng nó sấn vào con đấy chứ.
Gạt tấm ri đô, người mẹ từ "buồng ngủ" bước ra trong bộ váy diện sáng màu và lại gần cái tủ gương. Xoay một vòng trước gương xong, cô ta lấy trong ngăn tủ ra thỏi son màu đỏ rực và
tô lên môi.
Thằng bé ngắm mẹ mãi không chán mắt. Mẹ nó quả là một người đẹp thật sự. - Sao mấy thằng kia gọi mẹ là con đĩ ?
Người đàn bà cất thỏi son vào túi, quay lại vò vò mái tóc ngắn bù xù của con. - Chúng ghen tị với con chứ sao. Chẳng đứa nào có người mẹ đáng yêu thế này cả. Thôi, mẹ phải đi làm đây.
- Rồi lúc về mẹ lại say và kéo theo một chú nào đó chứ gì.
- Con hãy còn bé để nói với mẹ những chuyện như thế đấy, - người mẹ cho thằng bé một cái bợp vào gáy và thoăn thoắt bước ra khỏi nhà.
Qua ô cửa sổ có thể thấy rõ cô ta đi lướt qua khoảnh sân trong chiếc váy tung bay theo gió chỉ ngắn chưa chạm gối nom cao ráo và thon thả như thế nào. Các bà lão ngồi trên ghế băng đồng loạt ngoái đầu nhìn theo cô và sôi nổi bàn tán rì rầm những gì không rõ.
Thằng bé lấy tấm ảnh lồng khung trên mặt tủ xuống. Mẹ nó kể với tất cả những người theo đuổi rằng ảnh đó được chụp ở Matxcơva, ở chỗ người ta quay phim ấy. Trong ảnh mẹ hãy còn trẻ măng và đẹp hơn bây giờ rất nhiều so với bây giờ, nhưng bộ váy trên người thì vẫn cùng một kiểu. Thằng bé ngắm tấm ảnh một lúc, sau đó đặt lại nó lên tủ, thò tay xuống dưới giường và lôi từ đó ra một vật nhỏ thuôn dài bọc vải.
Sau khi mở cái gói, nó rút ra một con dao găm và giơ cao lên trên đầu. Lưỡi dao sáng loáng lóe lên như lửa, chỉ có ngôi sao tráng men đen khắc trên đó là hoàn toàn dửng dưng với trò chơi của ánh sáng. Sau khi ngắm nghía một hồi thứ ánh sáng kim loại của thứ vũ khí chắc hẳn là rất cổ xưa đó, thằng bé lại quấn nó vào mảnh giẻ, nhét vào túi quần, rồi kéo chiếc mũ lưỡi trai sùm sụp xuống đến tận mắt, nó vọt ra khỏi nhà theo sau người mẹ.
***
Gã đàn ông mờ mắt và sờ soạng thân mình. Dầu lỏng đã khô, để lại trên da một lớp xanh nhạt lăn tăn như bộ vảy cá. Gã cho củi vào bếp lò gần như đã tắt, ném thêm vào đó mấy thứ củ rễ hình thù kỳ dị khiến ngọn lửa đột ngột bùng lên mạnh hơn cả lúc trước, sau đó gã lại gần chiếc bàn nhỏ kê cạnh chiếc giá nến đứng dưới sàn và cây thập ác treo lộn ngược. Gỡ tấm khăn phủ bàn thêu những dấu hiệu thần bí mà thật ra là một tấm áo choàng, gã khoác nó lên vai.
Cây nến đen đã cháy hết, chỉ còn sót lại một mẩu bấc con con leo lét đốm lửa đỏ quạch trong bóng tối.
Gã đàn ông đeo mặt nạ mõm dê làm dấu thánh ba lần bằng tay trái lên hình phản chiếu của gã trong tấm gương dựng trên bàn và châm một ngọn nến mới trong giá nến đặt dưới sàn nhà. Sau đó gã mở bốn cái hộp đen xếp trên bàn, lấy ra một thân hình búp bê không đầu bằng sáp, từ một chiếc hộp khác - cái đầu của nó, và từ những chiếc hộp còn lại - một cái túi nhỏ bằng giấy quấn mấy vòng chỉ đen, bên trong thòi ra vài sợi tóc người, và hai chiếc nhẫn vàng đính những hạt đá rubi đỏ.
Dùng con dao dài mảnh, gã nạy những viên rubi khỏi chiếc nhẫn, đặt chúng vào hốc mắt trống của cái đầu sáp và vạch lên thân con búp bê một ngôi sao. Cũng ngôi sao y như thế, chỉ có điều là ở trong một vòng tròn, được khắc trên lưỡi dao găm của gã. Vạch xong trên lòng bàn tay trái năm vết cắt cũng hình ngôi sao, gã khum bàn tay thành lòng thuyền, lấy một cái túi
giấy trong hộp thấm máu rỉ từ vết thương và lẩm bẩm những câu thần chú gì không rõ, rồi lèn túi giấy vào cái rãnh khía ở phần thân trên con búp bê. Sau khi rỏ sáp đen từ cây nến đang cháy vào đúng chỗ đó, gã liếm phần máu còn lại trong lòng bàn tay và gắn cái đầu vào thân con búp bê.
Hình nhân đã sẵn sàng, chỉ còn việc trang điểm cho nó và niệm chú. Những việc gã đàn ông làm đều tuân theo đúng nghi thức của nhà thờ quỷ giáo kèm những lời nguyện và thần chú bằng thứ tiếng mà người ngoài cuộc không thể biết. Nhưng không, câu cuối gã đã nói bằng tiếng Nga:
“Và bị nguyền rủa bởi tên của kẻ thù không đội trời chung với ta, ngươi sẽ phải mù lòa và chịu khuất phục ta. - Nói tới đây gã thận trọng móc những viên rubi khỏi hốc mắt con búp bê bằng sáp và gắn chúng trở lại mấy chiếc nhẫn vàng.
Sau khi thực hiện xong hành động kỳ quặc đó, gã đeo nhẫn vào hai ngón trỏ ở bàn tay phải và trái. Bất chấp bề ngoài có vẽ rất đơn giản hình như các trò ảo thuật vừa được thực hiện đòi hỏi ở gã sự tiêu hao năng lượng thần kinh cực lớn. Dưới chiếc mặt nạ và khắp toàn thân gã mồ hôi túa ra như tắm. Nhưng bây giờ, rốt cuộc thì gã đã có thể thả lỏng và phấn chấn hơn.
Gã đàn ông đeo mặt nạ mõm dê xoay mặt đá của những chiếc nhẫn vừa đeo vào phía trong và khẽ búng móng tay vào một viên rubi.
Ngay lập tức ở đâu đó rất xa căn phòng tăm tối có chiếc lò sưởi đang cháy rừng rực này, một người ngồi sau tay lái chiếc xe hơi đang lao nhanh trên làn đường cao tốc thứ hai đột nhiên chộp tay lên con mắt trái. Chiếc xe của ông ta bất ngờ lạng đi, vọt sang làn đường ngược chiều, suýt thì đâm vào thành một chiếc xe tải.
- Cậu sao thế ? - vị hành khách đang ngồi ung dung ở ghế trước hoảng hốt hỏi người điều khiển xe.
- Có cái gì rơi vào mắt thì phải.
Gã đàn ông đeo mặt nạ siết những ngón tay lại thành nắm đắm, rồi nhắm mắt, bàn tay làm vài cử động như đang xiết vô lăng.
Chiểc xe ngoại nhập đang lao vùn vụt bỗng chuyển sang chạy ngoắt ngoéo rối loạn trên đường. Người lái xe xoay mạnh vô lăng, cố điều khiển chuyển động của nó một cách vô vọng. - Cậu làm cái quái gì thế ? người ngồi bên cạnh quát lên.
- Xe mất lái
- Giảm tốc độ, ép sát vệ đường và phanh lại.
- Tôi không thể !
Vị hành khách bèn nhào sang, một tay chộp vô lăng, cố giữ thăng bằng xe, tay kia vặn chìa khóa điện.
Chiếc xe trôi đi mấy trăm mét, trèo cả lên vỉa hè rồi dừng lại. Cả hai người ngồi bên trong thở hắt ra hú vía.
- Mê sảng thế nào ấy, - cuối cùng người lái xe thốt lên.
- Thế không còn là mê sảng nữa đâu. May trên đường không có thêm chiếc xe nào nữa. Mấy tháng gần đây cậu sút đi nhiều đấy. Đã đến lúc cậu nên nghỉ ngơi, - vị hành khách mở cửa xe. - Ra đi, để tôi lái.
- Anh có đem bằng lái theo không ?
- Đến đi ngủ tôi cũng không rời nó nữa là. Mà dù không có đi nữa, tôi cũng muốn còn được sống sót mà về đến nhà.
Gã đàn ông trong gian phòng tối nhếch mép cười tự mãn dưới chiếc mặt nạ và lại xoay nhẫn cho những viên rubi hướng ra ngoài. Màn thứ nhất đã hạ, và gã hài lòng với các kết quả của nó.
***
- Đây hả ? - người đàn bà bước ra khỏi xe và nhìn quanh. - Trên ghế đá ấy à ? Anh có phải loại đồi bại không đấy ? Không kiếm được cái gì tiện nghi hơn một chút sao ? Theo tôi thì thà cứ trên ghế sau còn hơn.
Quả thực, cái góc công viên nhỏ hoang phế này, được chiếu sáng bởi chiếc bóng đèn duy nhất còn sót lại tựa như có phép màu, gây nên cho người ta một cảm giác thật buồn thảm. Người đàn ông cũng ra khỏi xe. Hắn nắm hai vai người đàn bà, dẫn lại chiếc ghế đá rồi nói: - Ngồi xuống và nghe đây.
- Gì nữa thế ? - vị nữ đại diện cho cái nghề cổ xưa nhất của loài người nhún vai bực bội, nhưng cũng ngồi xuống.
- Nghe cho kỹ đây. Bây giờ thì bình tĩnh, tháo hết mấy thứ đồ vặt vãnh bằng vàng này ra và nộp cho tôi.
- Anh làm sao thế ? Cứ thế mà tôi sẽ đưa cho anh đấy chắc ! - người đàn bà lại nhún vai, sửa sang lại mớ dây chuyền vàng đeo trên cổ, và đưa mắt từ dưới lên trên nhìn kẻ đồng hành. - Có làm không thì bảo !
Cặp kính đen kếch sù ngự trên mặt gã đàn ông ngăn người ta nhìn thấy mắt gã, nhưng bộ dạng và hai bàn tay siết chặt thành nắm đấm trong đôi găng thì chứng tỏ trăm phần trăm gã ta không đùa.
Cô điếm bắt đầu chậm chạp gỡ những sợi dây chuyền và nhẫn vàng dày nặng trên người. Tên cướp móc trong túi áo bludông đen ra một cái túi nilông và chìa cho cô ta: - Bỏ vào đây.
- Đó là tất cả những gì tôi có đấy. Hay anh cho tôi giữ lại nhẫn cưới ?
- Nghề của cô không cần đến nó. Ít nhất, cô hãy biết rằng tất cả những thứ này được dùng cho những mục đích hợp ý Chúa.
- Của mẹ tôi đấy, - người đàn bà sụt sịt.
- Thôi, thì bỏ lại, - tên đàn ông giật cái túi từ tay người đàn bà và đi thẳng ra xe. Người đàn bà nức nở ngã sấp ngực xuống ghế rồi lập tức để cho mọi tình cảm cứ thế trào ra:
- Đồ đểu giả, đồ súc sinh ! Thế mà tôi đã tin hắn đấy !... Bọn cùng hội cùng thuyền ăn cướp chưa đủ hay sao, chả cho ai thở, lại còn cái quân này nữa !...
Cửa sập lại, và chiếc xe chạy mất hút.
Người đàn bà ngồi dậy tiếp tục nức nở.
- Đồ đểu, đểu đến thế là cùng !...
Có ai đó ghé ngồi xuống ghế bên cạnh cô ta.
Người đàn bà ngước lên, lau nước mắt và hỏi vẻ ngạc nhiên:
- Còn ông thì làm quái gì ở đây ? Ông đã thấy hắn đã làm gì tôi, mà không giúp à ? - Hắn đã làm gì cô ? - kẻ vừa ngồi xuống hỏi.
- Hắn cướp của của tôi ! Lấy hết cả vàng rồi, đồ súc sinh !
- Người ta đã bảo cô mãi là hiện nay làm việc một mình không ít nguy hiểm. - Phải rồi, còn ông thì cứ để mặc tôi... Ôi, - cô ta bỗng rùng mình toàn thân, rồi ngả người vào lưng tựa và từ từ trượt khỏi chiếc ghế đá, - vì sao...
- Cô sẽ không hiểu đâu, - kẻ đối thoại với cô ta cúi xuống và lau lưỡi dao vào cái áo măng tô nữ màu sáng. Sau khi đưa mắt nhìn quanh, hắn vơ cái túi xắc trên ghế, tóm hai chân người đàn bà và lôi vào khoảng tối giữa những lùm cây.
***
- Chị nhớ em quá.
- Em cũng thế. Chả nhẽ ở Paris mà chị vẫn khư khư được cái trinh trắng của mình cơ à ? Đàn ông Paris tuyệt lắm kia mà !
- Em biết là chị không ưa kiểu chuyện trò này thế nào chứ ?
Larixa xoay người nằm sấp và luồn tay xoa xoa ngực của cô bạn:
- Trời ơi, da chị mịn quá. Chẳng lẽ chị không bao giờ thích ngủ với một thằng đàn ông nào à ?
- Thôi, không nói chuyện ấy nữa. - Marina ngồi dậy - Tiện thể chị mang về cho em một món quà nhỏ đấy...
Cô lấy trong ngăn tủ đầu giường một gói nhỏ rất đẹp và đưa cho Larixa.
- Gì đấy ?
- Mở ra thì biết.
- Ái chà !... Em thử ngay được không ? Nhưng khoan nhìn đã nhé. Khi nào xong em sẽ bảo, - Larixa nhót khỏi giường và biến vào buồng tắm cùng với món quà.
Marina đan hai tay sau gáy và nhắm mắt lại. Trên gương mặt cô thấp thoáng nụ cười sung sướng.
Sau mấy phút Larixa xuất hiện ở cửa buồng tắm. Trên mình cô là bộ đồ lót tuyệt đẹp. - Nhìn được rồi. Này, chị thấy em thế nào ? - cô chạy lại trước cánh cửa tủ gắn gương và bắt đầu xoay tròn, săm soi ngắm nghía bản thân. - Chị nhìn em đi, còn khá đấy chứ nhỉ. - Em thích món quà của chị không ? - vẫn mủm mỉm cười, Marina hỏi. - Chị chọn được ở một cửa hàng trang phục lót nữ mốt nhất Paris đấy. Và còn đây nữa này, có chữ tên em đây. Cô chìa cho bạn gái chiếc hộp nhỏ.
- Nữa ư ? - Larixa ấn cái chốt xà cừ bé xíu. Và trước mắt cô là sợi dây chuyền vàng tuyệt đẹp gắn hình trái tim.
- Chị cũng có một sợi y như thế, - Marina nói. Giờ thì chúng mình giống hệt hai chị em rồi nhé.
- Hết ý ! Nhưng chắc là tốn cả đống tiền đấy chị nhỉ ! - Larixa nhào vào cô bạn gái đang nằm trên giường, hôn lia lịa lên mặt và ngực. Marina vuốt ve mái tóc vàng óng của Larixa, nhắm mắt, và từ ngực cô bật thoát ra một tiếng rên khoan khoái.
- Chúa ôi, em yêu chị biết bao ! - bạn gái của Marina tiếp tục vuốt ve cô.
Ngoài cửa sổ vọng vào ba hồi còi ôtô giục giã. Larixa bật dậy, bước đến bên cửa sổ và khẽ vén rèm cửa lên.
- Đón em đấy, - cô cài khóa sợi dây chuyền mặt trái tim đeo trên cổ và bắt đầu thoăn thoắt mặc quần áo.
Marina miễn cưỡng đứng dậy khoác lên mình cái áo choàng đỏ thêu hình rồng. Tờ báo mang dòng tít lớn "Giết hại thêm một gái điếm. Quỷ Râu Xanh dọn nhà đến Matxcơva" trên bàn phấn đập vào mắt cô. Marina lật úp nó xuống và quay lại phía Larixa đang đứng cạnh gương tỉa tót "dung nhan chiến đấu" của mình.
- Hãy nói thêm lần nữa rằng em yêu chị đi nào.
Larixa kéo gấu chiếc váy da ngắn cũn, bước đến cạnh Marina, âu yếm hôn vào môi cô rồi thốt lên:
- Chị yêu, em si mê chị.
- Sao em không bỏ cái nghề này của em đi ? Chả lẽ em không đọc báo à ? Hắn lại đã giết thêm một cô rồi đấy.
Larixa không nói gì đi ra, bật chốt và mở cửa.
- Tại sao ? - Marina lại hỏi.
Larixa đã ra đến chiếu nghỉ cầu thang, cô nhấn nút gọi thang máy và xoay người lại. - Cái gì cần phải tới thì không tránh được. Thôi chúng mình sẽ không trở lại với câu chuyện cũ này nữa nhé. Mọi sự không đơn giản thế đâu. Hơn nữa chị cũng biết là em không sợ đàn ông. Thôi nào, đừng đứng ngoài gió lùa nữa, - chị sẽ cảm lạnh mất.
Cửa thang máy bật mở.
- Chị có một chương trình mới. Em muốn đến không ?
- Cứ gọi điện cho em. Nếu đêm nay ít việc thì có thể em tranh thủ đến được, - Larixa cười gượng và bước vào thang máy.
Ra khỏi cửa khu nhà cô ngẩng đầu lên. Trên tầng áp chót, trong khung cửa sổ sáng đèn, bóng Marina nổi rõ thành một vệt đen. Larixa vẫy tay với cô và ngồi vào chiếc xe chờ sẵn. - Lúc nào cô cũng làm tất cả mọi người bị muộn. Hay cô bạn gái lại làm om sòm nhà cửa lên hả ? - tài xế làu bàu bực bội khi nổ máy.
- Chuyện gì đến anh ? Ganh tị hả ? - Larixa móc tấm gương nhỏ nhìn lại khuôn mặt son phấn của mình lần nữa.
- Lại không à, một cỗ máy như thế mà lại đang đình trệ. Cho nó làm việc thì hay biết mấy.
- Này, khua môi múa mép đủ rồi. Đi thôi, chính anh nói là chúng ta đang bị muộn kia mà. ***
Marina rời cửa sổ ngồi lại xuống giường. Mỗi lần khi Larixa ra đi như thế này, giữa đêm khuya, cô lại thấy trong lòng bất an. Đặc biệt vào thời gian gần đây. Tờ báo nằm trên bàn phấn với dòng tít đáng sợ về kẻ cuồng sát khó tóm, lại đập vào mắt Marina. Cầm lên, cô lướt mắt qua bài báo một lần nữa. Đã sang tháng thứ ba Matxcơva sống trong kinh hãi và căng thẳng. Tháng thứ ba, mỗi người trong chúng ta, khi buổi sáng giở báo ra, việc đầu tiên luôn là để mắt tới mục biến cố bất thường để xem liệu có xảy ra thêm tội ác đẫm máu nào của "Quỷ Râu Xanh mới" không. Và mặc dù chính quyền Matxcơva và các cơ quan tương ứng đã nhiều lần kêu gọi người dân và khách vãng lai của thủ đô tăng cường cảnh giác và thận trọng, đặc biệt vào các giờ tối và khuya, điều đó hiện thời chưa có hiệu quả gì. Hôm qua, trên một con đường của thành phố chúng ta, lại tiếp tục phát hiện thấy một xác phụ nữ bị giết bởi kẻ cuồng dâm không thể bị bắt. Và, như mọi khi, đó là đại diện của một trong những nghề cổ xưa nhất. Các tổ chức xã hội đã nhiều lần kêu gọi ông thị trưởng có những biện pháp khẩn cấp trong việc truy bắt tên giết người, nhưng vẫn chỉ là "nói đâu bỏ đó". Đang nhìn đi đâu hỡi sở cảnh sát Matxcơva, cơ quan đã nhiều lần tuyên bố rằng họ kiểm soát được mọi thứ và việc truy bắt tên cuồng sát chỉ là chuyện một sớm một chiều ? Người ta đưa ra cho chúng ta hàng lô giả thuyết, từ những hoạt động của một băng nhóm có tổ chức, đến một kẻ giết người mất trí trốn khỏi nhà thương điên, nhưng hình như chỉ là để trấn an phần nào người dân thành phố và lương tâm của chính mình. Và ai sẽ là nạn nhân tiếp theo đây ?"
***
Gã béo nằm trên tấm phản gỗ phủ vải ga vỗ vỗ vào hông, nói:
- Thấp xuống, thấp xuống tí nữa. Thế, đã quá. Cho tôi uống cùng với.
Larixa chìa cho gã ly sâm banh và tiếp tục matxa. Kề bên, quỳ gối cạnh các khách cặp của mình là hai cô nàng đang tươi cười nâng cốc trên tay. Tất cả đàn ông và đàn bà ở đây, trong phòng tắm hơi, đều say khướt và ở trong bộ dạng mẹ sinh ra. Ngoại lệ chỉ có anh chàng phục vụ, hắn là người duy nhất mặc quần áo và thậm chí còn thắt nơ ở cổ.
- Ôi, sao mà tôi mê cái trò này thế, - gã béo kêu ằng ặc dưới đôi tay matxa khéo léo và thạo nghề của Larixa.
Một tay bảo kê mặc đồng phục ngụy trang màu xanh lục ghé vào "phòng làm việc", gõ gõ ngón tay lên mặt kính đồng hồ đeo tay, nói:
- Các cô nàng ơi, đến lúc kết thúc rồi đấy. Khách hàng của các cô hết giờ rồi. Gã béo đột ngột nhổm bật dậy từ ghế nằm:
- Sao, đã hết giờ rồi cơ à ? Này cậu, khui cho bọn này thêm một chai sâm banh nữa. Uống chia tay.
***
Larixa là người đầu tiên bước ra bậc thềm, cả một đám người say rượu từ bể bơi ùa ra sau
lưng cô.
- Thôi chào, tớ đi đây.
- Đưa cô về nhé ? - gã bảo kê hỏi Larixa sau khi dìu tay mấy cô nàng say rượu cứ nhao lên hôn gã.
- Tự tôi về được, tốt nhất là anh lo cho hai con búp bê này đi.
- Cô lại đi kiếm thêm hả Larixa ? Ông chủ đã nói với cô bao nhiêu lần là đừng có loăng quăng chân trái rồi.
- Đừng thò mũi vào chuyện của người khác, - Larixa gạt đi. - Việc của anh có chút xíu là vặn vô lăng và nhắm mắt lại để bọn tôi, chừng nào có anh ở bên cạnh, không bị ai bắt nạt thôi. Tạm biệt nhé, các cô nàng.
Cô băng qua vườn hoa nhỏ, băng qua đường rồi dừng lại giơ tay lên. Mấy chiếc xe phóng vụt qua bên cạnh, xả khí thải vào người cô, nhưng có một chiếc, đã vọt quá một đoạn, hãm phanh và lùi lại chỗ cô. Cửa kính điều khiển tự động từ từ hạ xuống.
Larixa nghiêng mình nhìn vào khoang xe. Ngồi sau vô lăng là một người đàn ông phong độ đeo kính đen. Anh ta vỗ bàn tay đeo găng lái xe lên lớp da bọc tay lái và hỏi: - Vi vu chứ, người đẹp ?
- Tôi lấy đắt lắm, - Larixa mỉm cười sao cho trông có vẻ nhã nhặn nhất.
- Thật ư ? Thế cô có biết tại sao tôi cao thế này không ?
- Tại sao ?
- Tại vì tôi ngồi trên ví tiền. Cô vốn thích những khách hàng sộp mà.
- Ai mà chẳng thích họ, - Larixa nhếch mép cười rồi mở cửa xe chui vào ngồi cạnh người lái. - Đến nhà tôi đi, tới sáng hãy còn thời gian đấy.
***
Marina ngồi trước bàn phấn, đặt ống nghe điện thoại xuống và sửa lại mái tóc. Anh lái xe được cử đến đón cô hiện ra trên cửa, chắp hai tay vật nài:
- Chị Marina, chúng ta muộn rồi. Họ đuổi việc tôi mất thôi.
- Tôi ra ngay đây, Andriusa. Tôi không làm thế nào gọi được cho cô bạn. Tôi đã hứa mời cô ấy đến dự chương trình mới. - Marina đã bấm không biết bao nhiêu lần số điện thoại của Larixa.
Những tiếng tút dài.
Rồi không chờ nổi ai đó bước tới nhấc máy, Marina đứng lên.
- Thôi, ta đi vậy. Tôi sẽ gọi sau.
***
- Xem kìa, lại sán vào hôn thằng cha người Mỹ, - Sergei Nikolaev hất đầu về phía chiếc tivi treo phía trên quầy bar và huých khuỷu tay vào người ngồi cạnh mình, điều tra viên của Viện Công tố chuyên về những vụ án đặc biệt quan trọng - Konstantin Grigoriev. - Chính khách nước ta sao khoái chuyện đó đến thế !
- Kệ mẹ bọn họ với cái trò chính trị ấy đi, - anh chàng điều tra viên gạt phắt. - Tớ thấy giống những cái hôn của Juda. Ôm nhau, hôn hít nhau, nhưng thằng nào cũng thủ cục gạch dưới nách áo cả.
- Thế cậu có biết là trong lúc hôn hít có mười hai calo bị đốt cháy và người ta truyền cho bạn tình chừng hai trăm năm mươi vi trùng, virus các loại không ? Còn mỗi cái ôm thúc tim làm việc nhanh gấp đôi và rút ngắn cuộc sống đi mất ba phút ?
- Cậu đi kể cho họ thế đi, - Grigoriev trỏ ngón tay về phía chiếc tivi, - có thể bọn họ sẽ bớt cái trò đú đởn đó đấy. Cái tay Leonid Ilich kia kìa, khéo chỉ riêng hôn với hít đã thiêu mất cả chục năm cuộc đời rồi ấy chứ.
- Đích thị là thế, - anh chàng Sergei cười phá lên, - có lẽ phải cảnh báo cho các nhà dân chủ của chúng ta mới được.
- Mà dù họ có tự gọi bản thân là gì đi nữa: các nhà dân chủ, các nhà quân chủ hay cái quái quỷ gì không biết, - thì đằng nào cũng thế thôi. Vì chẳng có gì thay đổi hết. Họ tư hữu hóa nhà cửa, biệt thự nghỉ mát, cửa hàng cửa họ, xí nghiệp nhà nước, làm chúng tan hoang sẵn từ trước rồi mua rẻ mạt bằng những đồng tiền rốt cuộc cũng chỉ là ăn cắp của chúng ta bằng những âm mưu tài chính và cải tổ giả hiệu. Họ chẳng ghê tởm thứ gì, thậm chí cả những cuốn sổ tiết kiệm cuối cùng lẫn tiền lương hưu của các ông già bà cả, - Grigoriev uống nốt cà phê và đẩy cái tách sang một bên.
- Biết sao được, nếu nền dân chủ và tư bản chủ nghĩa ở nước chúng ta lại có cùng một bộ mặt như thế, - Nikolaev cười mỉa mai. - Nhưng, chính cậu hình như vẫn phục vụ trong chính thể của bọn có của, và đứng ra bảo vệ lợi ích của họ trước tiên, vậy mà lại nói những điều như thế về các ông chủ của mình sao ?
- Tớ không bảo vệ họ, tớ bảo vệ pháp luật và thể chế pháp lý. Tớ bảo vệ trước hết là những người thân thiết, ruột rà, tớ bảo vệ con cái tớ và tuổi già của tớ. Cậu cứ thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra trong mười năm nữa, nếu chúng ta để thả cửa cho tình trạng tội phạm trong nước nào ?
- Tớ thì tưởng tượng được, nhưng chỉ không hiểu nổi một điều, tại sao một chiến sĩ quyết liệt với tội phạm của nước Nga như thế mà không tài nào lần ra tên Quỷ Râu Xanh ? - Sao cậu cứ cà khịa tớ thế ? Nếu trong vụ này có ít ra một manh mối nghiêm chỉnh, có lẽ tớ tóm được hắn lâu rồi.
- Nhưng có thể vấn đề ở đây là ở chỗ khác chăng ? - Sergei Nikolaev dụi đầu mẩu thuốc vào gạt tàn và rút một điếu mới. - Có thể, một cách tiềm ẩn, không ý thức được, cậu mong hắn thủ tiêu sạch bọn đàn bà có hành vi phóng túng chăng ? Hoặc, cậu có một bi kịch riêng tư nào đó dính dáng đến bọn họ ? Cậu có khoái chuyện này không ?
- Nghe này, Xeriogia, cậu đến chỗ tớ và nói định viết một bài báo về vụ này, quỷ sứ nào... - Không phải bài báo, mà là truyện trinh thám, - Nikolaev ngắt lời điều tra viên. - Được, cứ cho là truyện trinh thám, cấp trên đã cho phép cậu, hiện giờ bọn họ đang ve vãn
các nhà hoạt động văn hóa bất kỳ loại nào mà. Vụ của tớ chỉ nhỏ thôi. Có điều, làm ơn đừng chọc ngoáy đời tư tớ với lão Freud của cậu. Nếu trước đây cậu chưa từng làm việc trong cái ngành này, thì tớ đã xua cậu đi cho khuất mắt từ lâu rồi. Không có chuyện này thì tớ cũng đã quá đủ: nào cấp trên, nào họ hàng người bị giết, cánh phóng viên. Giờ lại còn cậu cứ bám sát gót nữa... - Grigoriev bỏ lửng câu nói và phẩy tay. - ồ, mà nói với cậu làm gì.
- Thêm mỗi người tách cà phê nhé ? - Nikolaev hỏi. - Tớ trả tiền.
- Được. Ít ra cũng có tí ích lợi từ cậu chứ, được bữa cà phê miễn phí.
- Cô gái ơi, - Sergei gọi cô phục vụ đang lúi húi sau quầy bar. - Cho chúng tôi hai cà phê nữa. - Các anh gọi gì thêm nữa không ? Cô nhắc, vốt ca ?
- Không, cà phê và chỉ cà phê thôi.
- Hi ! Thế là xả láng rồi hả, các anh chàng, - cô gái quầy bar mỉm cười chế giễu nói. - Không, chúng tôi đang thử cố tăng cường hoạt động trí não. Hắc thuật khẳng định chả thứ gì có tác động kích thích lên hoạt động trí não như cà phê cả. - Nhưng hình như, - Nikolaev giật giật tóc mình, - nó không dọa được tớ thì phải.
- Thế cậu cần gì cái đó ? - Grigoriev hỏi.
- Cậu thử tưởng tượng xem, Konstantin Alekxandrovich, nếu may ra tớ phá được vụ án này trong truyện của mình sớm hơn so với cậu thì sao ?
- Ôi chà.
Phát thanh viên chương trình tin tức đã thế chỗ các chính khách đưa tiễn nhau trên màn hình tivi và thông báo về một vụ cướp máy bay kèm bắt cóc con tin vừa xảy ra. Lần này là các khách du lịch đến từ Tây Âu. Và đã là vụ khủng bố thứ hai trong tháng trên lãnh thổ Nga.
- Đấy nữa, một điều mà tớ không hiểu nổi, - Sergei lắc đầu, là đặc vụ của chúng ta, lẫn của nước ngoài nữa, đang để mắt đi đâu thế nhỉ ? Không lẽ nghĩ ra cái gì đó chống không tặc mà khó đến thế ư ?
- Cậu có gì đề xuất chăng ? - Grigoriev vừa hỏi vừa khuấy tan đường trong cốc cà phê cô phục vụ mới đem ra. - Chỉ đừng quên là chuyến bay thường ở độ cao chừng mười kilômét và bất cứ sự va chạm nào của viên đạn vào vỏ máy bay đều có thể dẫn đến không chỉ hở khoang, mà làm tiêu luôn chiếc máy bay cùng với hành khách nữa đấy.
- Cái đó thì không có cậu tớ cũng biết. Tớ có thể đề đạt một phương tiện cực kỳ giản tiện. Toàn bộ các máy bay phải được trang bị một hệ thống đặc biệt, trong trường hợp bị quân khủng bố cướp, nó sẽ kích hoạt và phun khí gas gây mê đầy trong khoang. Còn các phi công thì luôn phải có sẵn mặt nạ dưỡng khí. Cái chính là làm sao để mặt nạ phòng độc không ngăn được tác động của khí gas, nếu không bọn tội phạm có thể lợi dụng chúng, còn mang bình dưỡng khí lọt lên và tiến hành cướp máy bay thì không đơn giản. Cậu nghĩ xem, sau đó tỉnh lại hành khách có bị đau đầu đấy, nhưng bù lại họ vẫn sống. Đồng thời, có thể trang bị hệ thống này cả cho các nhà băng, cũng như trên xe buýt và những phương tiện giao thông khác mà bọn khủng bố thường thích yêu sách sau lúc bắt được con tin nữa. Cậu thấy hay không ?
Máy bộ đàm đeo ở thắt lưng Grigoriev kêu tít tít. Điều tra viên nhìn màn hình rồi đứng dậy: - Tớ phải gọi điện.
Mấy phút sau anh quay lại, uống một hơi cạn tách cà phê và nói:
- Có lệnh triệu tập. Vừa tìm thấy thêm một cô.
- Tớ đi với cậu, - Nikolaev nhảy phốc từ trên chiếc ghế cao xuống. - Hơn nữa, xe ôtô của tớ đỗ ngay đây.
- Cậu gọi cái đó là xe ôtô ư ?
- Cậu thì đến thế cũng chả có.
Họ ra khỏi quán cà phê và lại gần chiếc Jyguli cà tàng của Nikoiaev.
- Tớ không tài nào hiểu được cậu, sao cứ lẽo đẽo theo tớ suốt thế ? - Konstantin lắc đầu. - Giá cậu ra nhà nghỉ ngoại ô cùng các cô gái, nghỉ ngơi, nhâm nhi bia bọt thì hơn. - Cậu tưởng công việc của nhà văn trên đời này là thế à ? - Nikolaev nhếch mép cười mỉa trong khi mở cửa xe. Hay đấy. Thế thì theo ý cậu, nhà văn lấy ở đâu ra tư liệu của ông ấy nào ? Đôi khi cũng phải sục bới cả trong bùn đấy. Cậu nhớ một nhà thơ của chúng ta viết thế nào không: "Vâng, nếu người ta biết được, từ rác rưởi nào..." Hãy cứ coi tớ là Georges Simenon của cậu đi. Xem chừng có lúc tớ viết sách về cậu ấy chứ. Cậu sẽ thành thanh tra Maigret thứ hai. - Hừ, có mà đợi được cậu. Mà nếu cậu viết ra cái gì, thì rồi cũng đến phải tắm cả đời mất...
***
Một người nhỏ thó lúc lúc lại ngó đồng hồ và đưa tay lên ôm đầu.
- Thôi, xong ! Quân giết người không dao ! Mà ta thì đã tốn biết bao nhiêu là thì giờ với lại công sức để tổ chức buổi trình diễn này !
Cô chuyên gia hóa trang ngồi trong chiếc ghế bành trước gương bỏ tờ báo qua bên, thản nhiên nói:
- Ấy, đừng lo lắng quá ông Xtanixlav Xemenovich ạ, cô ta đến bây giờ thôi. - Không, không, Annuska, cô đừng an ủi tôi, thế là hết rồi. - Người đàn ông thọc cả hai tay vào chỗ còn lại của mái tóc vốn từng có lúc rậm rịt và bắt đầu vò bứt nó tứ phía. - Chấm hết, tôi sẽ không bao giờ thò chân vào cái trò kinh doanh nhạc nhẽo này nữa đâu ! Không rõ cảnh này có thể sẽ đi tới kết cục ra làm sao, nhưng liền đó cánh cửa phòng hóa trang mở ra rồi Marina bước vào, và bằng cách đó đã cứu cho ông Xtanixlav Xemenovich khỏi bị trọc lốc cả đầu.
- Thấy chưa, tôi đã bảo mà, - cô chuyên gia hóa trang đứng lên, nhường chiếc ghế bành cho Marina.
Người đàn ông vung tay lao bổ lại cô:
- Marinoska, không thể như thế được ! Cô làm tôi đến nhồi máu mất thôi, tôi đã tính hoãn phần đầu chương trình rồi đây.
- Xin ông đi ra ngoài cho, ông Xtanixlav Xemenovich, tôi cần trang điểm và thay quần áo đã, - Marina nói, ngồi xuống ghế bành.
- Phải đấy, phải đấy, - ông kia thụt lùi đi ra cửa, - chỉ có điều cô đừng phụ lòng tôi nhé. Anna bắt đầu làm tóc cho Marina.
- Em đọc chưa ? - cô hất đầu về phía tờ báo nằm trên bàn, - một phụ nữ nữa đã bị giết. Mặc dù trong đấy viết chúng chỉ săn đuổi gái điếm thôi, nhưng ai mà biết được trong đầu bọn tâm thần ấy có cái gì kia chứ. Tôi đã sợ phải một mình ra phố sau các buổi hòa nhạc rồi đấy. - Lấy hộ em cái điện thoại.
Anna nhấc máy từ bàn bên cạnh đặt sang trước mặt Marina. Cô lại quay số của bạn gái. Lần này điện thoại đáp lại bằng những tiếng tút ngắn. Marina đặt ống nói xuống, nhẹ người. Máy bận, nghĩa là Larixa đang ở nhà, và như mọi khi, cô đang nằm trên chiếc giường lộng lẫy, ngắm
nghía mình trong cái gương gắn trên trần nhà, và nói chuyện điện thoại với một trong vô số những khách hàng của mình. Sẽ phải gọi lại cho cô ấy lúc giải lao giữa các tiết mục vậy.
***
- Sao, Volodia, chữa được chưa ?
Anh chàng trẻ tuổi đặt ống nghe xuống, quay lại phía Grigoriev, nói:
- Vâng, xong cả rồi. Anh Konstantin Alekxandrovich, họ bảo không có xe. Phải hai tiếng nữa. - Hừ, nếu hứa hai tiếng nữa, thì bốn tiếng nữa họ mới tới đấy. Cậu đi đi và thẩm vấn hàng xóm với những người nuôi chó ấy. Tội ác xảy ra đâu khoảng lúc năm, sáu giờ sáng gì đó, không thể có chuyện không ai trông thấy gì cả. Ở góc phố có một cửa hàng, cậu ghé qua đó chưa ? - Vâng, nhưng nó đặt báo động. Tôi sẽ thử vào trạm cấp nước nóng bên kia đường, có thể trong đó có người trực hay gác đêm cũng nên.
- Được, hành động đi.
Volodia chỉ ngọn đèn bàn đang bật, dù ngoài trời đã sáng bảnh:
- Hay tắt đi ? Phí điện làm gì ?
- Kệ nó sáng, các giám định viên đã xem đến đâu.
Anh cảnh sát bước ra, còn điều tra viên Grigoriev trở lại cuộc chuyện trò với một bà đứng tuổi đang vần vò chiếc khăn mùi soa.
- Xin bà tiếp tục đi.
- Tôi ấy à... lúc ấy là buổi sáng, tôi đang trên đường đi làm thì lấy làm lạ vì thấy cửa mở he hé. Đến trưa tôi về nhà ăn cơm, cửa vẫn mở thế. Vậy là buổi chiều, tan giờ làm về, tôi quyết định bấm chuông ghé vào. Trong bụng nghĩ, thiếu gì chuyện có thể xảy ra kia chứ. Và cơ sự ra là thế đấy.
- Bà có thể kể gì về cô ấy không ?
- Ôi dào, có thể kể cái gì về bọn thanh niên thời buổi này kia chứ ? Họ sống chả theo ý Chúa tẹo nào sất. Lúc nào cũng tuyền là các ông các bà đủ hạng, diện ngất trời, cưỡi xe ngoại, cứ xoắn quanh cô ta. Còn cô ta thì cứ như thể con búp bê ấy, son phấn tô vẽ lòe loẹt. Thế nhưng tốt bụng ra phết nhé. Lão già nhà tôi ấy, thỉnh thoảng chữa hộ cô ấy cái vòi nước, hay treo giúp cái giá lên tường, thế là cô ấy cứ hễ gặp lại dúi cho ít tiền uống rượu. Anh bảo kể thêm gì nữa về cô ấy ư, tôi chả có thói thò mũi soi mói cuộc sống của cô ấy. Chúng tôi sống cũng như những người xóm giềng bình thường chung cầu thang máy, gặp nhau thì chào hỏi vậy thôi.
- Thế đêm qua bà không nghe thấy có tiếng lục đục hay vật lộn gì đó trong căn hộ của cô ấy sao ?
- Không, chả có gỉ hết.
- Hừ... hừm..., - Grigoriev đăm chiêu thờ dài, - không có dấu hiệu vật lộn, hình như là cô ta biết hắn và để cho vào nhà thì phải.
Anh chàng Sergei Nikolaev ngồi một bên, bị điều tra viẽn cấm ngặt không đi đi lại lại trong căn hộ và không sờ mó bất cứ vật gì, đưa mắt nhìn quanh một lần nữa căn phòng nơi họ đang ngồi. Nó được bày biện kiểu nhà giàu nhưng chẳng có chút gu thẩm mỹ nào. Trên tường treo
một bức tranh lòe loẹt lồng khung thép vàng đắt tiền, cạnh đó là những chiếc mặt nạ châu Phi, rồi một tấm hình khỏa thân lớn, có vẻ như vẽ chính chủ nhà. Một cái bình cổ đẹp lộng lẫy đứng cạnh chiếc đồng hồ khổng lồ kiêm chức năng lò sưởi, loại tự phát lửa, phong cách "Rococo hạng hai", cũng ngay tại đó lù lù một bộ dàn audio- video tối tân. Qua cánh cửa buồng ngủ để mở, nơi lúc này anh phó nháy đang chụp ảnh với đèn flash, trông rõ một chiếc giường lớn, phía trên gắn tấm gương sát lên đến trần nhà. Và thêm vào tất tật những thứ trên là lớp giấy bồi tường màu sắc sặc sỡ. Làm sao lại có thể sống ở đây được nhỉ ? Xét ở mọi phương diện, xem ra nữ chủ nhân của căn hộ này không hoàn toàn là một nhân cách ổn định, và cô ta cứ vớ lấy tuốt tuột, như một con cá mập, bất cứ thứ gì trông có vẻ hợp ý mình ở một thời điểm mà không đặc biệt lưu tâm xem món đồ có ăn nhập hay không với toàn bộ khung cảnh.
Một trợ lý bước lại gần điều tra viên.
- Anh Konstantin Alekxandrovich, đã tìm được hai chiếc cốc cao còn sót ít rượu. - Có dấu tay không ? - điều tra viên hỏi.
- Một chiếc có, bị bôi nhòe. Ai đó đã lau chúng.
- Cậu cầm theo nhé, có thể bên giám định sẽ phát hiện ra dấu vết nước bọt trên thành cốc. Theo đó ta sẽ xác định được nhóm máu.
Chiếc máy điện thoại trước đó vẫn yên lặng bất chợt réo chuông váng cả căn hộ. Mấy nhân viên cảnh sát có mặt trong phòng ngừng lục lọi tủ và hòm của người quá cố, nhất loạt đưa mắt nhìn Grigoriev.
- Oleg, - trưởng nhóm điều tra gật đầu về phía người cộng sự đứng gần cửa nhất, - cậu chạy nhanh qua hàng xóm, xem xem từ đâu gọi đến nhé.
- Rõ, - anh kia gật đầu và vọt ra khỏi phòng.
Điều tra viên thận trọng cầm ống nghe.
- Alô.
- Làm ơn gọi giúp Larixa, - giọng nữ đề nghị trong ống nói
- Thế ai hỏi cô ấy đấy ? - Grigoriev hỏi.
- Anh cứ bảo là Marina gọi.
- Chị là bạn cô ấy ?
- Vâng.
- Xin đợi cho một phút, - Grigoriev nói và đặt ngón tay lên môi.
Nhưng như vậy là thừa, vì không thế thì trong phòng đã lặng im phăng phắc rồi, thậm chí không ai có ý động đậy. Trên ngưỡng cửa xuất hiện anh chàng được phái sang hàng xóm, ngón cái chìa ra trỏ lên phía trên.
- Alô, chị đang nghe tôi đấy chứ ? Cô ấy không thể đến được. Chị có thể nói rõ họ tên được không ?
- Được thôi. Tôi là Fedorova Marina Mikhailovna. Có chuyện gì xảy ra rồi phải không ? - Chị có thể đến đây được không ?
- Thế ai đang nói với tôi đấy ?
- Tôi là Grigoriev. Cán bộ Viện Công tố. Chị hãy đến đây, việc này rất quan trọng.
***
Marina gác máy, gỡ chiếc măng tô trên mắc áo và choàng ra ngoài bộ váy áo biểu diễn. - Marina, cô đi đâu thế ? - Anna hỏi.
- Tôi phải đi gấp, - Marina ngoái lại khi đã ra sát cửa.
- Thế phần hai thì sao ? Tôi phải nói gì với ông Xtanixlav Xemenovich đây ? - Chị hãy tự nghĩ lấy, - Marina mở cửa và bước nhanh ra bên ngoài.
Anna sửng sốt nhìn theo sau cô và nhún vai.
Sau một phút cánh cửa lại bật tung và ông Xtanixlav Xemenovich chạy như bay vào phòng hóa trang.
- Cô ta đi đâu thế ? Lao vụt qua, tôi thậm chí không kịp ngăn lại.
- Tôi không biết, - Anna nhún vai. - Chỉ bảo là cần đi gấp thôi.
- Ô không, đích thị là bọn nghệ sĩ này dồn tôi xuống mồ mất rồi. - Ông Xtanixlav Xemenovich lại vung hai tay tóm lấy đầu.
***
Vladimir Koroviev đi vòng quanh nhà cấp nước nóng, mãi cuối cùng mới tìm thấy một cánh cửa sắt có ô kính bịt chấn song. Anh bấm chuông mấy lần và chờ. Sau chừng hai phút ô kính hé ra, một giọng thô lỗ, nồng nặc khói thuốc hỏi:
- Cần gì thế ?
- Chào bác, - Vladimir rút thẻ công vụ, - tôi muốn hỏi bác mấy câu.
Cánh cửa sắt liền mở rộng, trên ngưỡng cửa xuất hiện một người đàn ông đứng tuổi râu ria không cạo mặc áo gilê lông thú lấm lem dầu mỡ.
- Vâng, tôi nghe anh nói đây.
- Bác có thể cho biết đêm hôm nay ai trực được không ạ ?
- Hôm nay á ? - người đàn ông tung chiếc mỏ lết to tướng hết từ tay này sang tay kia. - Tôi. Chỗ chúng tôi ở đây ca trực ba ngày một. Hai tiếng nữa tôi được thay.
- Bác có nhận thấy trong khoảng thời gian trực đêm có gì đáng ngờ hay kỳ quặc xảy ra không ?
- Tôi không hiểu, - người đàn ông ngạc nhiên nhìn điều tra viên.
- Vấn đề là đêm vừa rồi trong ngôi nhà bên kia đã xảy ra một vụ giết người. Chúng tôi, để tìm kiếm nhân chứng, đang hỏi người dân sống ở mấy nhà xung quanh và những ai có thể nhìn thấy gì đó.
- Tôi hiểu rồi, - người trực trạm cấp nước nóng thoáng ngẫm nghĩ. - Có vẻ như chẳng có gì như vậy. Mặc dù...
- Nào, nào, - cảm thấy có dấu vết, Vladimir đứng sững, căng thẳng. - Bác nói tiếp đi. - Có thể chuyện này không liên quan gì đến vụ án của các anh, - ông ta cào sồn sột năm ngón
tay sau gáy, - Ban đêm tôi thường thích hút thuốc ngoài trời. Thế nên đêm qua tôi cũng đứng bên cạnh cửa, hút thuốc và ngắm sao. Sau đó có một chiếc xe xịch tới và dừng đối diện ngay chỗ tôi đang đứng. Từ trong xe bước ra một người đàn ông và một người đàn bà; họ băng qua đường về phía cổng số hai. Họ chưa kịp khuất vào cửa, thì tôi đã lại trông thấy chiếc xe thứ hai xuất hiện. Còn cách độ trăm mét lái xe tắt đèn pha, đi chậm đến gần cổng thứ nhất và dừng lại, nhưng không ra khỏi xe. Tôi còn nghĩ hay là ông chồng ghen tuông nào đó thuê người theo dõi vợ cũng nên.
Vladimir rút trong túi ra cuốn sổ và hỏi:
- Lúc đó là mấy giờ ?
- Tôi không nhìn đồng hồ. Trời hãy còn tối lắm.
- Thế tiếp sau đấy thì sao ?
- Ấm nước của tôi réo trên bếp, rồi tôi vào uống cà phê. Đến cả họ đi khỏi ra làm sao tôi cũng chẳng trông thấy.
- Bác có nhớ mặt những người đi trên chiếc xe đầu tiên không ?
- Sao nhớ được ? Còn tối mà.
- Thế trong chiếc xe thứ hai thì có mấy người ?
- Tôi không nhìn kỹ, nhưng tôi có cảm giác là ở ghế bên cạnh lái xe có ai đó quẹt diêm hoặc đánh bật lửa. Có thể, chỉ là cảm giác thôi.
- Thế xe mác gì ?
- Tôi không có xe nên không biết phân biệt. Nhưng chắc chắn không phải là xe Zaporojets đâu. Loại này thì tôi biết.
- Có thể, bác nhớ được biển số chăng ?
- Từ đây nhìn ban ngày còn chẳng trông rõ, huống chi lại còn ban đêm.
- Ít ra là màu xe thế nào chứ ?
- Màu cái gì, - cười nhếch mép, người đàn ông phẩy tay, - ban đêm mèo nào mà chả màu xám. Tuy vậy, cái xe đầu tiên màu sáng hơn, xe sau thì tối màu hơn.
- Vâng, cám ơn bác đã cung cấp thông tin. Bác nói giúp cho tên họ và địa chỉ, có thể chúng tôi sẽ lại phải phiền bác thêm lần nữa.
Vladimir ghi số liệu của nhân chứng và tiến lại gần hai phụ nữ đang dắt chó đi dạo trên bãi hoang trước nhà.
***
- Vâng, đó là cô ấy, - Marina gật đầu và ngoảnh đi. Grigoriev phủ tấm ga vấy máu lên thi thể Larixa nằm trên chiếc giường rộng, đỡ tay Marina và dẫn cô ra khỏi buồng ngủ. Tấm gương trên trần lặp lại tất cả những cử chỉ của anh.
Họ đi sang phòng khách, điều tra viên chỉ tay vào ghế bành mời Marina: - Chị ngồi đi. Tôi cần hỏi chị thêm vài câu nữa.
Marina ngồi xuống, đưa tay che kín mặt. Cô hãy còn chưa cởi cái măng tô gài kín khuy, vẫn
bị ám ảnh bởi ấn tượng của cảnh vừa nhìn, toàn thân cô run rẩy. Một cảnh tượng rất không dễ chịu ngay cả với một điều tra viên dày dạn, huống chi lại là với một người phụ nữ. Grigoriev đi tới đi lui mấy vòng quanh căn phòng, chờ cho Marina có thời gian trấn tĩnh, rồi nhấn nút máy ghi âm, tiếp tục cuộc thẩm vấn:
- Chị có giả thuyết nào đó về lý do án mạng không ?
- Không, nhưng tôi đã nói với cô ấy không chỉ một lần, rằng sớm hay muộn điều đó cũng sẽ kết thúc đại loại như thế rồi.
- "Điều đó" là gì ? - Grigoriev quay phắt lại phía Marina.
- Tôi không biết.
- Chị có quan hệ thế nào với người quá cố ?
- Tôi đã nói rồi, chúng tôi là bạn.
- Đây, thứ này chúng tôi tìm thấy trong tay cô ấy, - điều tra viên chìa cho cô một cái túi nilông nhỏ trong suốt đựng một đoạn dây chuyền vàng có mặt hình trái tim. - Chị đã thấy cô ấy đeo nó bao giờ chưa ?
- Có, tôi thấy rồi, - Marina gật đầu, - mà chưa lâu đâu, vì tôi vừa tặng nó cho cô ấy hôm qua. Tôi cũng có một cái y hệt thế, mua trong chuyến công diễn ở Paris. Tôi có thể lấy lại nó được không ? Để làm kỷ niệm ấy mà.
- Tạm thời chưa được, chỉ sau khi kết thúc cuộc điều tra kia, - Grigoriev lại cất cái túi đựng sợi dây chuyền vào cặp.
- Tôi rõ rồi, - Marina gật đầu.
- À, mà điều gì gắn bó các chị, những người thoạt nhìn khác nhau đến thế nhỉ ? - Điều tra viên móc bao thuốc lá trong túi, bóc ra và mời Marina, nhưng cô lắc đầu từ chối. - Theo tôi, chị phải hơn cô ấy chục tuổi ấy chứ ?
Marina nhún vai và hỏi ngược lại:
- Kẻ nào làm chuyện đó vậy ? Là tên cuồng mà người ta viết trên báo phải không ? - Có vẻ giống kiểu của hắn, nhưng hiện giờ chúng tôi chưa thể nói chính xác được. - Hắn làm chuyện đó vì mục đích gì ? Hắn là ai vậy ?
- Điều duy nhất chúng tôi biết, chị Marina ạ, là đầu óc hắn có vấn đề. Hắn tước các đồ trang sức kim hoàn của các nạn nhân, sau đó giết chết và hiếp họ.
- Có hay không, dù chỉ một quy luật nào đó trong các hành động của hắn ? - Hắn hành động ở trung tâm thành phố, đâu đó khoảng giữa mười hai giờ đêm đến năm giờ sáng, và các nạn nhân của hắn là những phụ nữ cô đơn nhẹ dạ. Nhưng than ôi, - Grigoriev dang hai tay, - thông tin này tạm thời hãy còn chưa đủ để phát hiện ra một tên tội phạm trong thành phố nhiều triệu dân này. Mà chúng ta làm sao có thể sắp xếp cho mỗi cô gái điếm một vệ sĩ được.
Marina cắn môi để khỏi bật khóc, rồi vẫn cúi gục đầu, cô đứng lên.
- Chị không được khỏe ?
Người đàn bà gật đầu.
- Được rồi, chị Marina ạ, chị có thể đi. Địa chỉ và số điện thoại của chị chúng tôi đã có đây,
có lẽ, chúng ta sẽ còn phải gặp nhau lần nữa đấy.
Marina lại gật đầu và đi ra cửa. Điều tra viên đưa mắt tiễn cô, tắt máy ghi âm và hỏi Nikolaev:
- Nào, cậu nói gì xem ?
- Một cô nàng tuyệt lắm.
- Và một cặp tuyệt diệu. Một cô đồng tính, còn cô thứ hai - lưỡng tính.
- Cậu nói gì ? - Nikolaev đang trầm ngâm, hỏi lại.
- À, là tớ nói một mình thế thôi mà. Cô nàng hư hỏng, chả nước non gì ở cô ta cả đâu, - Grigoriev đi lại cửa sổ và đẩy tấm rèm cửa. - Trời ơi, cảnh từ đây nhìn ra mới gớm làm sao, trông thẳng ra bãi rác.
Nikolaev đưa hai tay ra phía sau đầu, vươn người và nói:
- Tớ không làm sao hiểu được, hắn ta cần gì phải giật đứt dây điện thoại sau khi giết người nhỉ ?
- Nhưng có thể đó là hắn đã làm trước khi tấn công người đàn bà ?
- Không, ở đây có cái gì đó không như vậy, tự tớ không thể hiểu nổi. Cứ không ăn nhập thế nào ấy. Mọi chuyện chẳng có logic gì cả.
- Thế giết những người đàn bà này là logic hả ? - Grigoriev nhếch mép cười mỉa mai. - Hừm. Có một điều rõ ràng là nạn nhân và tên tội phạm quen biết nhau. - Không nhất thiết. Nhưng bất luận thế nào thì bây giờ chúng ta cũng buộc phải phân loại tất cả những người quen biết của cô ta.
***
Marina lái chiếc xe đời số 9 màu đỏ thẳng vào cổng một dinh cơ lộng lẫy, bên cạnh đậu mấy chiếc Limousin và xe ngoại nhập đắt tiền khác. Trên hầu như tất cả những chiếc xe đó ngồi lù lù những gã tài xế bò mộng, đang ngồi chờ các ông chủ, ve áo veston bên trái của chúng nổi cộm lên trông thấy. Ve áo veston bên trái lúc nào cũng nổi cộm lên, nếu trong nách người ta đeo một khẩu súng lục tự động. Marina ra khỏi xe và đi về phía cửa vào, trên tường bên cạnh đó gắn một tấm biển đồng thau "Hãng hôn nhân Venera". Không ai có thể ngờ rằng đằng sau tấm biển hiệu khiêm nhường ấy lại ẩn giấu một trong những "nhà thổ" lớn nhất và hảo hạng nhất của thành phố, và của cả nước Nga.
Tay vệ sĩ buông mấy tiếng vào máy bộ đàm rồi hơi nghiêng mình mở rộng cửa cho Marina. Cô đi qua một hành lang dài và đẩy cánh cửa đề dòng chữ tiếng Anh "Office". Một phụ nữ thanh lịch cao ráo ngồi trong phòng tiếp tân đứng lên đón cô và hỏi: - Cô cần gì ạ ?
Thậm chí không đưa mắt nhìn cô ta, Marina đi thẳng tới tấm cửa nặng trịch trang trí đầy các hình chạm trổ.
Cô thư ký từ sau chiếc bàn nhỏ vọt ra, lao mình chắn ngang mặt cô:
- Ngài Marcov bận. Đang có cuộc họp.
Marina im lặng gạt cô thư ký ra, mở cửa và bước vào văn phòng. Đó là một gian phòng rộng lớn, nội thất siêu hiện đại được trình bày chủ yếu trên các gam màu đen và hồng. Một cửa sổ mênh mông kín suốt cả bức tường hướng ra sân biệt thự, nơi có một khu vườn mùa hè. Ở đó, giữa những cây cọ và cây xương rồng khổng lồ là mấy con công đang đủng đỉnh đi tới đi lui. Trong góc xa của văn phòng, long trọng ngự sau chiếc bàn gỗ màu đen nặng nề chính là ngài Marcov, ông chủ của văn phòng hôn nhân và đồng thời là tay "trùm chứa ác liệt" số một của thành phố. Sau lưng lão béo nhỏ bé má hồng hào có vẻ hồn hậu này treo bức tranh lớn vẽ hình một gã trai lõa lồ nằm trong tư thế thần Vệ Nữ.
Trông thấy Marina mọc lên ở ngưỡng cửa văn phòng, Marcov vung vẩy hai tay, nở nụ cười và reo lên.
- Trời ơi, ai thế kia chứ !
- Ngài Marcov, cô ấy tự xông vào đấy ạ, - cô thư ký chạy vào theo sau vị khách bất ngờ, bắt đầu biện bạch.
- Cu-út ngay, - Marcov rít lên, thế là cô ta biến ngay trong tích tắc.
Marina tiến lại gần chiếc bàn và nhìn chằm chằm ông chủ văn phòng.
- Ông giết cô ấy !
Nụ cười vụt biến khỏi bộ mặt được chăm chút kỹ lưỡng của Marcov. Lão ném ánh nhìn sang một người trò chuyện đang ngồi phía đối diện. Ông kia, gầy khô và quắt queo, xếp nhanh mớ giấy tờ rải trên bàn vào cặp và nem nép sợ hãi chuồn ra khỏi phòng.
Marcov chồm mình ra trước, tì ngực vào cạnh bàn, rồi nói thì thào:
- Cô điên hả ? Ai chả biết, chứ với tôi thì cô ấy sống có lợi hơn. Đó là một cỗ máy thế nào kia chứ, tiền tươi cả đấy ! Tôi hy vọng là cô chưa hở ra với bọn cớm chứ ? Hai gã đã đến đây rồi. Tôi chỉ còn thiếu mỗi cái nước khó chịu vì cô nữa mà thôi.
- Vậy thì ai giết cô ấy ? - Marina hỏi khi đã ngồi vào chiếc ghế bành mà người đối thoại với Marcov vừa ngồi.
- Ai, ai, - ông chủ văn phòng trầm ngâm thốt ra, - tôi không biết. Nếu biết được ra, thì tự tay tôi phải xử lý hắn.
Ngả người lên lưng tựa ghế bành, lão xếp đôi bàn tay ngắn ngủn lên cái bụng béo, ngoáy ngoáy hai ngón tay cái vốn là hai ngón duy nhất không được trang sức bằng những chiếc nhẫn vàng đính kim cương.
Marina vớ lấy bao thuốc Davidoff người vừa nói chuyện với Marcov bỏ lại và dùng nó gõ khe khẽ xuống mặt bàn.
- Cô thôi đi, - Marcov chồm dậy và bắt đầu đi đi lại lại vẻ bồn chồn trước bức tranh quý hóa của mình. - Tôi đã bảo cô ấy chẳng biết bao nhiêu lần, là chớ có đi kiếm thêm bên ngoài. Chỗ tôi mọi thứ đều đâu ra đấy, toàn là những người đàng hoàng, rồi cả đội bảo vệ, còn cô ta thì tiền mấy cũng ít, chỉ nhăm nhăm đi lại với kẻ nào bắt gặp đầu tiên. Ấy thế cho nên mới vấp. Còn tôi thì lĩnh đủ. Giờ thì tôi biết ăn nói thế nào với các khách hàng của mình đây ?
Marina rút một điếu thuốc trong bao, lấy chiếc bật lửa vàng nằm trên bàn, châm hút và nhắc lại câu hỏi của mình, lần này có phần khác đi đôi chút:
- Có thể, nhưng dẫu sao vẫn là ông ? Cô ấy từ chối ông còn ông thì ra lệnh cho mấy thằng ranh của ông kết liễu cô ấy.
Lão béo chợt ngưng lại và nhìn Marina với vẻ ghê sợ không thể nào vờ vịt trên khuôn mặt. Cô mỉm cười, rít một hơi thật sâu và thả luồng khói về phía lão.
- Cô có hiểu cô đang nói gì không đấy ? Tự cô biết, các cô nàng không phải loại của tôi. Tôi hiểu, cô mất bạn gái của mình, nhưng tôi thì dính dáng gì ở đây chứ ?
- Ai biết được ông, - Marina dụi điếu thuốc vào gạt tàn, - biết đâu ông đã chuyển ngạch thì sao ?
Nét thành thực lại xuất hiện trên mặt lão béo, lần này là vẻ kinh tởm.
- Thôi được, - Marina đứng dậy. - Tôi đi đây, chứ trông cái mặt ông tôi chướng mắt lắm. - Ai nói được, - Marcov mỉa mai, ở đấy có thể là cô với thành tích của cô lắm chứ. Ghen tuông cô ta ngủ với đàn ông, rồi giết chết cô ta.
Marina đi ra cửa. Marcov ném cái nhìn đánh giá lên thân hình cô và hét với theo: - Thế cô có muốn làm việc cho tôi không ? Chỗ tôi kiếm tiền khá hơn nhiều so với cái trò kinh doanh nhạc nhẽo của các cô đấy. - Mấy lời cuối lão nói ra khi cửa đã đóng lại sau lưng Marina.
Sau khi nhìn, không hiểu để làm gì, vào con mắt nhỏ của chiếc camera tí xíu gắn trong bộ đèn chùm lớn cực kỳ hiện đại treo chính giữa phòng, Marcov ngồi xuống chiếc ghế bành của mình và ngoắc hai tay đặt lên bụng. Mọi nét biểu lộ trượt hết khỏi mặt lão, và chỉ còn cặp mắt cháy rực một ngọn lửa kỳ dị nào đó sau cặp kính, thêm hai ngón tay cái ngọ nguậy quanh nhau một cách bấn loạn nói lên rằng lão đang bận rộn với một quá trình tư duy phức tạp nào đó. Lúc này ngài Marcov trông đặc biệt giống Beria, về điều này bạn bè của lão đã nói với lão nhiều lần, chỉ có điều ở người kia mắt kính lắp gọng tròn, còn ở lão là gọng vuông hẹp mà thôi.
- Thưa ngài, - giọng cô thư ký vang lên trong thiết bị đàm thoại gắn vào mặt bàn dày, - có người gọi ngài theo đường dây số hai ạ.
Ngài Marcov ấn vào một trong vô số nút chuông khắc vào đáy mặt bàn, nói: - Nối máy, - rồi ngài nhấc ống nghe từ chiếc điện thoại ở gần nhất. - Tôi nghe. - Anh, cái đồ giẻ rách kia, anh đã làm cái gì vậy ? - Màng ống nghe rung lên vì sự điên giận, -
giết người không dao hả ? Chính anh đã nói rằng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa kia mà ! - Cô ta lại gọi à ? - Marcov rướn người ngồi thẳng lên trong ghế bành.
- Phải đấy, đồ bị thịt đần độn !
- Ông có thể không chửi được không, bọn trẻ có thể nghe thấy chúng ta.
- Ta sẽ cho bọn trẻ của anh biết tay ! Hôm nay ta đi nhà hát, vậy ta đợi anh ở nhà sau mười một giờ. Và đừng có mà chường mặt ra đấy. Im lìm mà đến. Hiểu chưa ?
- Hay là, ông đến chỗ tôi thì hơn chăng ?
- Anh dám đùa đấy hử ?
- Tôi thì dính dáng gì ? Chính ông chẳng đã thử qua không biết bao nhiêu, đến nỗi tôi suýt chả còn gì trong tay. Nếu như ông mà thích mấy thằng trai nhóc, thì đã chẳng có vấn đề gì. - Thôi nói bậy nói bạ đi. Ta chờ đấy, - trong ông nghe vang lên những tiếng tút ngắn. Marcov gác máy và lại ấn nút thiết bị đàm thoại.
- Gọi từ số nào đến thế ?
- Không xác định ạ, - đáp lời lần này là một giọng đàn ông, - xem ra, e là từ máy đi động. - Thằng cha dâm đãng bẩn thỉu ! - Marcov rủa. - Mày trông thấy ả đàn bà vừa ra khỏi đây không ?
- Có ạ.
- Biết cô ta chứ ?
- Vâng.
- Gosa đã đi chưa ?
- Chưa ạ.
- Để hắn theo dõi cô ta vài ngày. Báo cáo trực tiếp với ta. Hiểu chứ ?
- Vâng.
- Làm việc đi, - Marcov quẳng ống nói, và ngả người lên lưng ghế bành, nhắm mắt lại. Rồi, như mọi khi, lúc lão ở trong tình trạng cô đơn, cái mặt nạ lãnh đạm, nói chính xác hơn là khinh thị thờ ơ đối với tất thảy thế giới xung quanh, lại chụp xuống khuôn mặt của lão.
***
Thằng bé vọt ra sân và nghiêng ngó tứ phía. Không thấy bóng dáng bọn nhóc đâu cả. Bên ngoài cổng thấp thoáng cái váy màu xanh lơ của mẹ. Thằng bé chui lủi giữa đám vải đang phơi, vòng qua bộ khung chiếc ZIS-5 cháy nham nhở và chui qua lỗ hổng hàng rào ra đường.
Trên mặt đường mấp mô đá cuội, một cái xe kéo lạch xạch chạy qua. Nhìn thấy mẹ, thằng bé áp người vào hàng rào, cố không để lọt vào tầm mắt của cô ta và bám theo sau. Nhưng người đàn bà không hề nghĩ đến chuyện ngoái lại, cô ta bước đi, đầu ngẩng cao, về phía trung tâm thị trấn, trên con đường quen thuộc của mình. Người mẹ đã vượt qua hàng rào nghĩa địa, sau đó đi ngang một vùng đổ nát còn sót lại từ thời chiến tranh. Những người ngoài đường có thái độ rất khác nhau khi trông thấy cô - bọn đàn bà khịt mũi khinh bỉ và quay đi, bọn đàn ông thì ngoái lại nhìn, một số thậm chí còn lúc lắc đầu và cười ghẹo. Cô ta đi qua một khoảng đất trống nhỏ và hướng về phía ngôi nhà một tầng, trên tường phô ra tấm biển xệch xẹo "Nhà hàng Sóng". Một tấm biển hiệu quá hay ho cho một quán nhậu loại đó. Người đàn bà bước lên một hàng hiên thấp và biến mất sau cánh cửa cũ kỹ của quán nhậu.
Thằng bé cực kỳ thận trọng đi vòng quanh ngôi nhà. Khi đã ở trong cái sân bẩn thỉu, nó trèo lên một chiếc hòm gỗ kê sát tường và áp lòng bàn tay lên tấm kính, nhòm vào cửa sổ "nhà hàng". Xem ra anh chàng thám tử nhóc này chẳng phải mới một lần đã làm chuyện tương tự.
Mụ chú quán lật mặt không biết đã đến lần thứ mấy cái đĩa hát cũ rích, nhàm tai với hai ca khúc thịnh hành tư đầu thập kỷ 1960, cho máy hát quay và đưa ánh mắt buồn chán lướt quanh gian phòng. Dân tình tụ tập ở đây là những người bình thường. Phần lớn khách quen ngồi sau những cái bàn phủ khăn dơ dáy ăn mặc theo mốt tận những năm 1950, một số lớn tuổi hơn mặc áo va-rơi không cầu vai, giặt nhiều quá đã mòn xơ xác. Hai gã chạy bàn ngái ngủ đeo những chiếc tạp dề lem luốc đang bò lồm cồm dưới chân các thực khách để thu dọn những cái chai rỗng.
Người mẹ ngồi với hai gã đàn ông cạnh quầy. Trên có đặt một chai vang và hai chai vốt ca. Một trong hai kẻ theo đuổi đế theo mỗi ly rượu được nốc cạn một câu chuyện tiếu lâm tục tĩu
làm cho hai bạn rượu của gã ta cười hô hố một cách ngu xuẩn. Gã đàn ông thứ hai không quên liên tục rót rượu vang pha lẫn vốt ca cho người đàn bà.
Uống xong chai rượu, hai gã đàn ông liếc nhau, đứng lên và nói gì đó với mẹ. Cô ta cười phá lên có vẻ say, chệnh choạng đứng dậy và đi cùng họ ra cửa.
Thằng bé đã thấm mệt vì chờ đợi, nó nhảy xuống khỏi cái hòm gỗ, vòng ra góc nhà và nấp sau một cái thùng rỗng. Người mẹ cùng hai gã đàn ông đi qua bãi đất trống trước nhà hàng rồi xuôi phố đi về phía bãi tha ma cũ. Thằng bé, vẫn rất thận trọng, bám theo họ.
Bộ ba vui vẻ đi lại phía bờ rào khu nghĩa địa và chui vào, người này nối đuôi người kia, qua cái lỗ thủng hàng rào. Thằng bé chờ một lát rồi chui theo họ. Khi đã lọt vào nghĩa địa, nhìn quanh. Chỉ có những cây thập tự xiêu vẹo và đám dã anh mọc trên các ngôi mộ hoang tàn vây quanh nó. Chằng thấy họ đâu cả. Nó chầm chậm đi theo lối mòn ngoắt ngoéo giữa các ngôi mộ. Chưa quá mười bước thì nó trông thấy loáng thoáng chiếc váy xanh sáng của mẹ giữa đám cành lá. Thằng bé rời con đường mòn, len lén tiến lại gần hơn và thận trọng nhòm ra từ sau một phần mộ.
Người mẹ ngồi trên một thân cây bị cơn bão năm ngoái quật đổ và đã thôi không còn cười nữa. Một trong hai người kia siết chặt nắm đấm, đứng trước mặt cô ta và nói cái gì đó vẻ dữ tợn, tên thứ hai đứng xa xa, thọc tay vào túi quần, thờ ơ nhìn. Người mẹ lặng lẽ lắc đầu. Tên đàn ông vung tay và đánh vào mặt cô ta. Một lần, sau đó lần thứ hai. Người đàn bà giật nảy lên né qua, cố lấy tay che mặt rồi ngã xuống đất. Tên đàn ông dùng mũi giày đá vào hông cô ta, quay lưng và bỏ đi thẳng ra ngoài nghĩa địa. Gã thứ hai nhổ nước bọt qua kẽ răng và đi theo hắn ta.
Thằng bé chờ cho đến khi chúng khuất hẳn mới từ trong bụi cây bước ra và lại gần mẹ. Cô ta nằm, mặt úp trong lòng bàn tay, đôi vai run rẩy.
- Mẹ, mẹ có đau không ?
Người đàn bà ngẩng đầu. Mực đen trên mắt cô ta chảy nhem nhuốc, còn son môi nhoe nhoét lẫn với máu chảy từ miệng ra.
- Mày cần gì ở đây ? Theo dõi tao hả ? - cô ta hỏi cục cằn. - Mày cũng như thằng bố mày ấy, yếu ớt lắm. Đến thương hại tao đấy à ? Tốt nhất hãy giúp con mẹ lầm lạc của mày đứng lên đi, người đàn bà chìa tay ra và đôi môi cô ta cong lên trong nụ cười say xỉn gượng gạo, gớm ghiếc.
Thằng bé lùi lại một bước, thọc tay vào túi mò mẫm cái bọc vải thuôn dài. Chuôi con dao găm đã tự động nằm trong lòng bàn tay nó.
- Chính mẹ bảo ông ấy là anh hùng, là phi công kia mà.
- Từng là phi công, nhưng hỏng hẳn rồi, - cô ta nhếch rộng hơn cặp môi rách nát. - Phi công - một thằng kẻ cướp. Đấy là tao làm cho hắn ta thành ra thế đấy. Chứ hắn ta thậm chí không thể kiếm nổi tiền cho bộ quần áo mới của tao.
- Nhưng mà mẹ... - cơn uất ức trồi lên trong cổ họng ngăn không cho nó thốt nên lời. Nó chỉ bóp chặt hơn chuôi con dao găm.
- Thiếu gì thứ tao nói lúc say kia chứ, người mẹ cố tự mình đứng lên, nhưng cánh tay cô ta đã bị trật khớp, và rồi cô ta lại ngã ụp mặt xuống đám cỏ.
Thằng bé bước dấn tới và vung tay. Điều cuối cùng mà người đàn bà nhìn thấy trong cuộc đời này là lưỡi dao thép lóe lên trên đầu cô ta cùng với một ngôi sao khắc trên đó.
***
Chừng mươi người, chủ yếu là phụ nữ, choàng khăn đen, im lìm dõi theo cỗ áo quan từ từ hạ huyệt.
Bà già đứng cạnh thằng bé ghì sát nó vào người mình, vuốt tóc nó rồi bảo: - Thế là hết, thằng cháu mồ côi mồ cút của ta. Nó bỏ con lại cho ai kia chứ ? - Thế còn bà ? - thằng bé ngẩng đầu.
- Bà chẳng còn sống được mấy nỗi nữa đâu. Ta sắp chết rồi. Họ sẽ đưa cháu vào trại mồ côi mất. Nhưng không sao con ạ, cả ở đấy người ta vẫn sống đấy thôi.
Trong đám đông sau lưng đám phụ nữ thấp thoáng bộ mặt của một trong hai gã đàn ông mà mẹ thằng bé đã uống cùng vào lần cuối. Nó nhận ra gã và chỉ ngón tay vào gã, hét to: - Hắn kìa ! Đó là hắn giết mẹ tôi !
Tên đàn ông bước tránh sang một bên, đi ngoắt ngoéo giữa những cây thập ác và mộ chí rồi vụt biến mất khỏi nghĩa địa. Thằng bé lên cơn kích động, nó cố sức giằng khỏi vòng ôm của bà già, nhưng bà chỉ càng ghì chặt nó vào váy mình hơn.
- Đừng con ạ. Đằng nào thì Chúa cũng sẽ trừng phạt tất cả người ta vì tội lỗi. - Chính hắn giết mẹ cháu. Đó là hắn, - thằng bé tiếp tục nức nở. Đây là lần đầu tiên nó bật khóc kể từ khi nỗi bất hạnh ụp xuống đầu.
- Phải, - bà già vuốt ve mái tóc nó, - khóc đi, hãy khóc đi một chút, cháu bé ạ, rồi con sẽ nhẹ nhõm hơn ngay đấy. Chúa nhìn thấu hết, ta không muốn chuyện này, chỉ định dọa dẫm cô ta chút thôi...
***
Marina thực hiện nốt mấy đòn chuyển tiếp, sau đó làm động tác nhử, tung một cú đá giật vào mặt đối thủ tưởng tượng. Cúi chào bóng mình trong gương xong, cô đi vào buồng tắm. Quăng tấm áo kimônô sũng mồ hôi xuống ngay sàn nhà, Marina luồn vào dưới vòi sen. Việc xối mình đầu tiên bằng nuớc nóng, sau đến nước lạnh luôn đem lại cho cô khoái cảm thực sự sau những buổi tập luyện như vậy. Cô hiểu, đối với các buổi tập của mình thì nói thế nghe quá to tát, nhưng xưa kia mười năm về trước, quả là Marina đã dành nhiều thì giờ hơn cho thể thao, còn bây giờ chỉ là những buổi tập định kỳ giúp cô giải tỏa stress hoặc tập trung sức lực trước buổi trình diễn nặng nhọc tiếp theo trên sân khấu.
Sau khi lau khô mình mẩy, Marina mặc tấm áo choàng thêu hình những con rồng Trung Hoa và đi sang phòng khách. Chính giữa phòng trải rộng một tấm bản đồ Matxcơva lớn. Marina quỳ xuống bên cạnh nó trên tấm thảm, lấy trên chiếc bàn nhỏ một xấp mẩu báo cắt từ báo cũ rồi bắt tay sắp xếp chúng theo thứ tự ngày tháng. Trong số các dòng tít đáng sợ có vài cái đặc biệt nổi bật lên như "Vụ sát hại một gái điếm cao cấp nổi tiếng", "Thêm một tội ác của Quỷ Râu Xanh Matxcơva", "Chuỗi tội ác vẫn tiếp tục", "Tại sao cảnh sát bất động ?". Marina quên không còn nhớ mình đã làm việc này tới lần thứ bao nhiêu rồi. Cô ghi vào sổ tay các ngày xảy ra vụ giết người, vạch biểu đồ và vẽ lên bản đồ thành phố tuyến đường phỏng đoán của kẻ giết người, cố tìm ra ít nhất một quy luật nào đó trong các hành động của hắn, nhưng tạm thời cô
chưa đạt được gì. Mọi thứ đều vô vọng.
Marina đứng lên, nhấc ấm pha cà phê đặt trên chiếc bàn nhỏ thấp rót cho mình một tách và bước tới bên khung cửa sổ mở rộng. Trước mắt cô thành phố đang say ngủ trải rộng, chỉ vài chục ô cửa sổ của những con "cú đêm" như cô đèn còn sáng. Đôi lúc những chiếc xe lao qua trên đường, chiếu đèn pha lóa mắt lên các khách qua đường muộn màng. Và bên trên toàn bộ cảnh vật đó treo lơ lửng một mặt trăng khổng lồ tròn đầy. Vậy nếu mọi chuyện nằm ở các chu kỳ mặt trăng thì sao ?
Về sự lệ thuộc kiểu đó của một số tên tội phạm, các nhà tâm lý đã nói nhiều lần, và các tác giả truyện trinh thám cũng từng nhắc đến trong tác phẩm của mình.
Marina đặt tách cà phê lên bệ cửa sổ, gỡ tấm lịch lớn trên tường xuống và lại ngồi lên thảm, bắt đầu khoanh tròn các ngày tháng có vụ giết người. Kết thúc công việc của mình, cô ngẫm nghĩ rất lâu, sau đó hất tấm lịch đi. Chẳng quy luật nào cả. Nhưng nhất định phải có nó ! Mười một người bị giết mỗi tháng ! Phải có cái gì đó buộc tên cuồng bước ra đường và dùng lưỡi dao vạch hình ngôi sao lên thi thể những người chết. Cô không tin nổi rằng đó là chuyện của những người cộng sản cũ đang đau lòng về cái biểu tượng cũ. Có thể, là một dấu hiệu gì đó chăng ? Của hội Tam Điểm hay...
Marina chồm dậy, lấy từ trên giá xuống cuốn sách Lược sử nhà thờ Quỷ giáo dày cộp mà cô mua được tại một chợ đồ cũ ở Frankfurt vào một trong những chuyến công diễn đầu tiên sang Đức của mình. Lúc ấy Marina đã bị thuyết phục bởi giá cuốn sách và vô số phiên bản tranh khắc cổ bên trong nó. Và dù đọc tiếng Đức rất tồi, cô đã quyết định mua, thêm nữa chủ nhân của cuốn sách lại chỉ đòi mỗi năm mác Đức, bằng giá tiền của một bao thuốc lá, cho cuốn sách dày cộp, đầy tranh minh họa như thế. Marina lật lật mấy trang. Là nó đây rồi, ngôi sao năm cánh, trông như nét vẽ nguệch ngoạc thường thấy của bọn học trò, tuy nhiên ở đây nó được vẽ trong một vòng tròn bên trong có khắc những chữ tượng hình nào đó. Ở mức độ mà Marina có thể hiểu được từ mẩu văn bản đề bên dưới, thì đó là một trong những biểu trưng của một giáo phái Quỷ giáo cổ xưa nhất, hoặc của chính Quỷ sứ. Nhưng nó có liên quan gì không với những vụ giết người ngày nay ? Có thể, đó là một nghi lễ ? Hoặc tại Matxcơva đã xuất hiện một giáo phái mới nào đó hoặc một môn đệ của giáo thuyết Satan, quyết bằng cách này ghi dấu quyền tồn tại của mình ? Không, quá nhiều câu hỏi và không một lời giải đáp. Cô chỉ quan tâm mỗi một điều - có tồn tại hay không một quy luật nào đó trong những cái chết của các phụ nữ ấy ? Đó là cái gì, khi có lúc mấy vụ phạm tội diễn ra liên tiếp, có lúc lại ngắt quãng cả tuần lễ. Lý giải điều đó làm sao đây ?
Cô đặt cuốn sách về chỗ cũ, lại ném ánh mắt lên tấm lịch nằm lăn lóc cạnh ghế bành và liền đó trong đầu thoáng nảy ra một ý nghĩ. Cô vớ cây bút dạ và bắt đầu nối các vòng tròn vừa khoanh những ngày có án mạng lại với nhau. Một chuỗi các dấu hiệu vô nghĩa. Marina đứng lên đi ra bếp, gỡ trên tường thêm một tấm lịch nữa, ở đây các ngày trong tuần được sắp xếp theo kiểu khác, rồi cô quay vào phòng khách và lặp lại thao tác.
Ôi, có thế chứ ! Thành công rồi ! Các ngày diễn ra án mạng được khoanh tròn và nối với nhau đã làm thành hai số sáu trọn vẹn trên tấm lịch, số sáu thứ ba giờ mới chỉ có hai vòng tròn nối vào nhau. Marina đánh dấu chữ thập vào các ngày còn thiếu của những vụ giết người dự đoán, vẽ các đoạn liên kết chúng với nhau, rồi dựa tấm lịch vào chân bàn, ngắm nghía chiến tích của bản thân. Trong con số sáu cuối có chín dấu chữ thập, và phải làm mọi cách có thể, để chúng đừng biến thành các vòng tròn. Hừ, vậy mà có kẻ thông thái nào từng phán rằng đánh cờ
ca rô chỉ là trò chơi của con trẻ kia đấy !
***
Marcov được vệ sĩ tháp tùng từ cửa hàng hôn lễ có hai ngọn đèn màu hồng chiếu sáng bước ra, đủng đỉnh đi lại chiếc xe to lớn màu trắng. Người lái xe đã mở cửa chờ sẵn. - Má ơi, thế còn con ? - một gã trai trẻ với cử chỉ hết sức yểu điệu chạy ra theo sau lão trùm chứa hỏi. - Lần trước cậu xử sự tồi, vì thế cậu ở lại nhà.
- Phù, tệ bạc quá. Chả chơi với má nữa. Cạch đấy.
- Tốt nhất cậu hãy đi về nhà và chuẩn bị bồn tắm và giường đi. Nhưng không được lục lọi đồ đạc của ta nữa đâu đấy, - Marcov ra lệnh cho gã sủng thần của mình và sập cửa xe lại. - Phù, sao mà lỗ mãng thế, - gã trai trẻ ngoáy mông ngúng nguẩy, - cứ tưởng người ta cần lắm đấy. Nếu đã thế, thì người ta ra ngoài kia tung tẩy còn hơn. Biết đâu lại vớ được... - Sẽ có lúc lộ tẩy cho mà xem, - một tay trong số bọn vệ sĩ còn ở lại cười đểu. - Hễ thấy mày láng cháng đằng ấy, chúng nó sẽ tâu với sếp ngay.
- Phù, tao lại sợ quá đấy, - gã trai lại ngúng nguẩy, lần này bằng hai vai. - Mày bảo chúng nó đưa chiếc Mercedes đen ra cổng chính. Sau năm phút nữa tao ra ngoài.
- "Ông" muốn sao được vậy ạ. Việc của tôi là cảnh báo, việc của "ông" là từ chối - tên vệ sĩ nói, nhưng gã sủng thần của Marcov đã khuất trong cửa văn phòng hôn lễ.
***
- Nối máy cho tôi theo tuyến '"nhà" với thuê bao số tám, - Marcov bảo tên vệ sĩ ngồi cạnh tài xế ở ghế trước.
Sau mấy giây tên kia quay lại và chìa ống nói điện thoại vô tuyến cho ông chủ: - Có liên lạc rồi ạ.
Sau hai hay ba tiếng tút tút, ống nghe được nhấc lên đầu đằng kia, và một giọng đàn ông vang lên:
- Chúng tôi xin nghe.
- Không, Valet, là tôi nghe anh đây. Ta đã làm ăn với nhau bao nhiêu lâu rồi hả ? - A, cái gì nữa vậy ?
- Quỷ tha ma bắt làm sao anh lại đi chẹt ông kế toán trưởng của tôi hả ? Chính anh cũng biết là ông già chỉ chuyên lập quyết toán chính thức và không nhúng vào cái gì khác nữa kia mà. - Anh béo ạ, anh đừng phật ý, đành thế, tôi nói với anh như với anh trai ruột đây nhé. Chính là ông chủ của anh đã ra lệnh cho tôi làm đấy, để anh đừng có cảm thấy cuộc đời là mật ngọt. - Ông ta không phải ông chủ của tôi.
- Thì là cái "mái nhà" của anh vậy. Anh đã làm ông ấy phật ý chuyện gì đó. Còn đừng thù tôi làm gì, tôi chỉ là một kẻ bé mọn thôi. Hơn nữa, chẳng xảy ra chuyện gì với ông kế toán của anh cả, họ chỉ giữ có vài giờ và đã thả ra rồi.
- Vâng, vâng, tất nhiên rồi, thế mà ông ta đến chỗ tôi với cả vốc validol và be bét đầy quần
ra. Làm thối inh cả văn phòng.
Phía đầu dây kia vang lên tiếng cười khì khì tự đắc, sau đó tới câu hỏi:
- Đơn giản. Ông ta chuyên làm việc với số má, nên nhớ được số giấy phép dán trên kính trước xe, còn lại chỉ là kỹ thuật thôi.
- Sẽ phải bảo với mấy thằng nhà mình không được để có những sơ suất kiểu thế nữa. Anh còn gì hỏi tôi nữa không ? Kẻo mọi người ở đây đã tụ tập cả rồi, phải nói chuyện với họ tí đã, - trong ống nghe lại vọng tới tiếng cười khì khì.
- Chào, - Marcov bỏ ống nghe xuống và dán mắt đăm đăm vào ô cửa sổ mà nhìn những con phố đêm sáng rực dưới ánh đèn đường và các tấm biển quảng cáo.
- Ông ta nói gì ạ ? - tay vệ sĩ hỏi.
- Quái vật, lão có thể nói gì với ta kia chứ ? Lão đã bắt đầu làm ta khó chịu rồi đấy. Chính hắn đã khiêu khích ta. Đi tìm Nghệ sĩ đi, bảo hắn thu xếp ngay khi cái con dê này chưa quá quắt hẳn và làm hỏng bét mọi sự của ta.
- Giờ tìm Nghệ sĩ không đơn giản chút nào. Thiên hạ đồn là hắn thịt lão chủ ngân hàng. Mà dịch vụ của hắn giá cũng bộn đấy.
- Mặc kệ ! Bù lại được cái sạch sẽ !
***
Trong tòa nhà thượng lưu nằm trên một con ngõ thuộc phố cổ Arbat này, người ta biết rõ Marcov, thành thử lão đi ngang qua hai gã vệ sĩ hộ pháp ở cửa mà không bị hỏi han gì và lọt vào tiền sảnh trải thảm. Một phụ nữ trung tuổi ngồi bên chiếc bàn nhỏ có ánh mắt sắc lạnh, riết róng, có lẽ đã học được cái thói nghề ấy ở Dân ủy Nội vụ dưới thời Beria, nở ra một nụ cười, chào hỏi lão như với người nhà và nói:
- Họ từ nhà hát về rồi và đang chờ anh đấy. Đã lâu không thấy anh ghé qua chỗ chúng tôi. Thậm chí không thèm đưa mắt qua người đàn bà canh cổng, Marcov đi đến thang máy. Ngài Vlad, hay như vẫn được gọi là cái "mái nhà" của lão trùm chứa có cỡ nhất thủ đô, và không chỉ của mình lão, chiếm cả một tầng trong tòa nhà, vì thế Marcov buộc phải dùng điện thoại vô tuyến nội bộ gắn trong cabin thang máy. Chỉ khi người trên tầng ba chắc chắn đó chính là kẻ mà chủ nhân của họ đang đợi, thì khoang thang máy mới chuyển động. Việc bảo vệ tại đây được huấn luyện kỹ càng ở đẳng cấp hàng đầu thế giới. Điều đó cũng dễ hiểu: người mà Marcov đang đến gặp, được đánh giá, theo các nguồn tin không chính thống, là một trong những người giàu nhất nước Nga, vừa là nghị sĩ vừa là thành viên của vô số những ủy ban quốc gia, hãng, đảng phái, quỹ xã hội và quỹ quốc tế cùng những doanh nghiệp bộn tiền khác. Ông ta cũng được xem là chủ tịch không chính thức của một số nghiệp đoàn và công ty quốc tế. Nói chung đây là một ngài cỡ bự.
Thang máy dừng lại ở tầng ba, và Marcov lọt vào một đại sảnh, quanh tường ốp gỗ tấm được đưa về từ một lâu đài cổ nào đó tận nước Anh, ở giữa bày biện những bộ sa lông êm ái sang trọng và những cái bàn nhỏ mạ vàng theo phong cách Louis XVI.
- Ngài chờ ông trong phòng khách xanh ở cánh trái, - người gác cổng đến gần nói và nhận từ tay Marcov chiếc mũ phớt màu trắng và cây can có tay cầm bằng vàng, tác phẩm của một trong số các nghệ nhân của Charles Faberge. Marcov biết cần xuất hiện dưới hình thức nào khi đến
chỗ những loại người tương tự. Liếc vào tấm gương lớn, lão chỉnh lại cái nơ đeo ở cổ áo và theo sau người canh cửa đi qua những dãy phòng thông nhau.
Chủ nhà ngồi trong bóng tối và trong nỗi cô đơn ngạo nghễ, thụt sâu vào chiếc ghế bành bọc da trước một ô cửa sổ lớn.
- Bật đèn chứ ạ ? - Marcov hỏi khi bước vào phòng khách.
- Không. Đã đem tới chưa ?
- Vâng, - Marcov lôi từ túi ra và đặt lên chiếc bàn lùn tè một cái gói dày dặn. - Ngồi đi,- đến cả không thèm quay về phía người bước vào, người đàn ông nói. - Con chó cái bị nhốt chặt trong dãy phòng cuối xa kia rồi. Đầu óc mẹ khọm yêu tinh loạn mất. Rút từ tài khoản của tôi chẳng hỏi han gì một trăm sáu mươi nghìn đô để lận lưng. Chắc lại tậu xe cho thằng khốn nhân tình mới, hay là sắm căn hộ để lén lút hẹn hò đây mà. Còn chưa hóa rồ đấy. Marcov khó lắm mới nhịn được cười. Lão biết tỏng ngài Vlad chi phí cho các "mèo con" của mình tốn kém gấp nhiều lần cho phu nhân, và vừa trở về, chưa hề lâu la gì, từ một phòng khám cực đắt nào đó bên Thụy Sĩ, nơi ông ta đến để làm trẻ hóa cơ thể cho mình, cải thiện chức năng sinh sản. Ông ta không sao tặng được cho cô bồ nhí của mình một cái bụng bầu. - Hay là, ông có muốn dọa cho bà ấy sợ không ? - Marcov hỏi. - Ông cứ đi đâu đó với bạn gái đi, còn trong thời gian ấy tôi sẽ tổ chức mọi thứ một cách rất chất lượng. Thậm chí có thể mai táng vắng ông, để khỏi làm tổn thương cô bạn gái mới tâm tính dịu dàng của ông. Theo đẳng cấp cao nhất, như với các gia đình số một của London, New York và Paris ! Ngài Vlad xoay lại nhìn lão Marcov chòng chọc, như xoáy vào cặp mắt trông có vẻ càng bé hơn qua đôi kính dày cộp của lão.
- Anh nói cái gì thế ? Anh có hiểu anh đang nói gì và nói với ai điều đó không ? Mụ ta là vợ tôi, là mẹ của các con gái tôi !
- Ấy là tôi chỉ muốn sao cho tốt hơn, - lão trùm chứa bối rối nhún vai.
- Cho tốt hơn ! Chẳng còn gì thiêng liêng nữa sất. Ta buộc phải làm việc với cái hạng gì nữa đây ! Mà này, anh không thuổng cái lược của ta đây chứ ? - người nói chuyện với Marcov xoay xoay đầu. - Ta vừa chải xong và đặt nó xuống đây.
- Tất nhiên là không. Tôi cần quái gì nó ?
- Vô lý thật. Lúc nào cũng thế, cứ dính đến anh là... Nói chung, với ta thế là đủ lắm rồi ! - tự dưng ngài Vlad nổi đóa. - Anh phải khắc cốt ghi xương rằng, đó là ta đã làm anh nên người, cho anh một "mái nhà", lúc nào cũng che chở và ta không chịu được mấy con ranh của anh dọa dẫm ta !
- Tôi hiểu.
- Nếu anh chắc chắn đó là cô ả, phải lập tức kiểm tra tất cả các mối liên hệ của cô ả và phản đòn đi.
- Tôi đã hiểu cả ạ, - Marcov nhắc lại một lần nữa sao cho mềm mỏng hơn, - và lúc nào cũng nói mọi thứ nhơ nhuốc đều từ bọn đàn bà mà ra. Bọn họ được tạo nên giống như là cái ác, như một thứ gì đó đối lập lại con người, đối lập lại đàn ông. Đàn bà nói chung đều là hiện thân của tất cả những gì tồi tệ nhất, gớm ghiếc nhất. Đó là tội lỗi, là xảo trá và là thói phản phúc. Cái hình tượng yếu ớt, dễ tổn thương mà bọn thi sĩ bịa ra chỉ lừa nổi những thằng ngu mà thôi. Ngay cả trong Kinh thánh, đoạn nói về tội tổ tông ấy, thì ai là kẻ cám dỗ nào ? Quỷ sứ, rắn và đàn bà.
Mặc dầu, theo ý tôi, thì Quỷ với rắn ta chả nên nói đến cho phí lời, ấy là chuyện xa xôi không ích lợi gì. Mà rồi Thượng đế đã phạt kẻ nào vì cái tội đó nào, Quỷ sứ hay rắn ? Không ! - Ngài đã chọn phạt con đàn bà kia, khi ban cho ả những kỳ kinh dơ dáy. Đúng đấy, hết thảy cái gì nhơ nhuốc trên mặt đất đều từ bọn họ, chỉ cần giở sách giáo khoa lịch sử ra là đủ biết.
- Anh lái đi đâu thế hả, đồ đĩ đực già ? Anh muốn ta chuyển ngạch sang cái lũ nhóc đồng cô nhà anh hử ?
- Ấy, sao phải thô lỗ thế, thưa ông Vlad ? Ông hẵng cứ thử xem, biết đâu lại thích. - Thôi, đủ rồi đấy ! Anh làm ta đau hết cả đầu. Đầu tiên là bọn diễn viên nhà hát nói nhăng nói cuội, còn bây giờ đến lượt anh ! Biến đi !
Marcov nhếch hai khóe mép mỉm cười, cầu trời sao cho đừng xúc phạm đến ông chủ quá ư là nhạy cảm của mình, rồi lão gật đầu và lui ra cửa.
- Khoan, - ngài Vlad chợt ngăn lại.
Lão trùm chứa ngoái lui.
- Ta sẽ suy nghĩ đến đề nghị của anh về chuyện đám tang. Nhưng hẵng tạm phác qua cho ta một bản kế hoạch nho nhỏ, xem anh tưởng tượng nó ra sao đã. Xong, giờ thì anh có thể biến khỏi đây. Và nhanh nhanh cho !
Marcov không nói không rằng cúi mình chào ông chủ và lui ra.
- Đấy, nuôi lớn đồ giẻ rách, đâu cần cho ăn bánh mì, cứ sai đi khử một kẻ nào đó là được. Đến mẹ đẻ nó còn không thương, - ngài Vlad lầu bầu, tuy nhiên với một vẻ khá khoan dung, khi lại còn một mình trong gian phòng khách màu xanh rộng mênh mông.
Ngồi trên xe, Marcov rút trong túi ra chiếc lược ngà viền vàng gói trong khăn mùi soa và giơ nó ra chỗ sáng mà ngắm nghía không hiểu để làm gì.
- Hừ, hết chịu nổi, - lão nói thành tiếng, rồi hạ kính cửa sổ, quẳng chiếc lược cùng mảnh khăn xuống đường.
***
Grigoriev khoanh thêm một ngày, ngày thứ ba trong tháng, và nhìn đờ đẫn vào tấm lịch vẽ trên giấy Whatman(1). Mồng sáu tháng Sáu năm một nghìn chín trăm chín mươi sáu. Ngu ngốc, tất cả đều ngu ngốc. Họ thậm chí đã biết ngày và thời gian áng chừng sẽ xảy ra của mỗi vụ phạm tội tiếp theo, nhưng vẫn không sao lần ra được dấu vết của tên giết người. Cần có những giả thuyết khác, mọi giả thuyết trước đây đều đã thất bại ráo cả. Đã tốn bao nhiêu là thời gian, đã kiểm tra bao nhiêu là người, những chiếc Computer nóng ran vì khối lượng thông tin họ buộc phải xử lý trong hai tháng vừa rồi, nhưng vụ án vẫn không hề xê xích khỏi điểm chết. Mặc dầu, lẽ đương nhiên là họ cũng nhặt nhạnh được tí chút gì đó, nhưng thảy chỉ là vụn vặt. Không có lẽ tên tội phạm không để lại thêm một dấu vết gì. Làm gì có những vụ phạm tội hoàn hảo. Dù sao cùng phải có sơ suất gì đó chứ. Cần phải kiểm tra lại một lần nữa tất cả bè bạn, người quen và các mối quan hệ của những người quá cố. Nhất định phải thu thập sổ tay của những người bị sát hại, nạp toàn bộ dữ liệu vào máy tính và kiểm tra xem có các địa chỉ và số điện thoại giống nhau hay không.
- Konstantin, có người ở tổ chức hữu nghị gặp anh đây này. Thiếu tá Kocarev Mikhail
Ivanovich.
Trưởng nhóm điều tra ngẩng đầu và nhìn người đàn ông to cao, vai rộng đang tiến lại gần bàn anh từ dưới lên trên.
- Chào anh, - người kia lên tiếng và chìa cho Grigoriev mấy tờ giấy. - Đây là bản photocopy truyện ngắn mà các anh yêu cầu tìm.
Grigoriev lật lật mấy trang giấy và nói:
- Ngắn thế !
- Đúng vậy, nhưng có thể nó đã gây nên những chuyện mà đến tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của Tolstoy mơ cũng không thấy.
- Tuyến số sáu trăm sáu mươi sáu, - Grigoriev đọc to tên truyện và nhìn viên thiếu tá. - Anh có thời gian không ? Tôi muốn xem qua một chút, ngộ nhỡ trong lúc đọc có thể nảy ra những câu hỏi nào đó chăng.
Kocarev liếc đồng hồ và gật đầu:
- Có chừng hai chục phút. Anh kịp không ?
- Tất nhiên, - Grigoriev gật đầu khẳng định và bắt đầu đọc truyện ngắn.
"Người trẻ tuổi vận chiếc áo khoác vạt dài màu xanh lấy một cốc vại có lớp bọt trắng muốt đầy tới ngọn và, sau khi nhìn xung quanh, anh ta lại gần cái bàn có một ông mặc đồ xám đang đứng nhâm nhi từng ngụm bia nhỏ và chăm chú đọc tờ báo trải trước mặt.
- Ông cho phép ? Tôi không làm phiền chứ ạ ? Người đàn ông gật đầu, không hạ cố nhãng ra thậm chí chỉ tích tắc cái việc đọc đang hứng thú của mình. Kìm một lát, kẻ mới đến lên tiếng hỏi han:
- Ông đọc gì thế ? Xem tử vi à ?
Cuối cùng người đàn ông rời mắt khỏi tờ báo, liếc sang người đứng cạnh và đáp: - Phải, tôi quan tâm xem ngày mai đang chuẩn bị dành cho tôi cái gì đây.
- Rồisao ?
- Hôm nay là một ngày may mắn hiếm có dành cho tôi. Trong này nói rằng tất cả các đầu tư và các phi vụ làm ăn của tôi sẽ đem lại thu nhập tối đa, còn người đàn bà mà hôm nay tôi sẽ gặp, sẽ đưa tới hạnh phúc cho suốt phần đời còn lại của tôi kia đấy.
- Vậy thì tôi xin chúc cho tất cả mọisự đó nơi ông đều thành sự thật.
- Cám ơn. Còn anh thì có tin tử vi, khoa thần bí và sự tiền định của số mệnh không ? - Biết nói thế nào với ông nhỉ, - chàng trai nhún vai, - vừa có lại vừa không. - Như thế là nghĩa làm sao ? - khẽ nghiêng đầu sang vai phải, người đàn ông hỏi. - Tiện thể giới thiệu, tôi tên là Vladimir, còn quý danh của anh thế nào ?
- Tôi là Roman. Vấn đề ở chổ là những điều mà người ta đăng tải trên báo chí của chúng ta chẳng là cái quái gì hơn một cơn mê sảng của tay nhà báo quá chén nào đó, vốn chẳng biết làm gì hơn trong lúc trực đêm, ngoài chuyện vừa cười đến chảy cả nước mắt ra vừa viết những của nợ cặn bã tương tự cho các bạn đọc cả tin của hắn.
- Ái chà, - Vladimir lắc đầu, ông ta phải hơn người cùng trò chuyện đến chục tuổi. - Anh nặng lời quá đấy. Nhưng câu trả lời chưa được đầy đủ.
- Tôi tin ma thuật. Nhưng là ma thuật đích thực kia, - đôi mắt Roman trong lúc nói ra những lời ấy bỗng dưng tóe lửa. Có lẽ đó chỉ là trò đùa của một tia nắng mùa xuân chói lọi hắt lên từ đường viền dày dặn, bóng loáng ở miệng chiếc cốc vại bằng thủy tinh chiếu vào đôi mắt, nhưng trong cái tích tắc đó, người đang nói chuyện với anh ta chợt cảm thấy bồn chồn. - Điều khiến tôi quan tâm chỉ là cái gì mà bản thân tôi tin tưởng chắc chắn rằng nó có tồn tại mà thôi. Ma thuật thực hành cho phép tôi có niềm tin này.
- Có lẽ tôi không bao giờ nghĩ được rằng các đại diện của giới trẻ hiện đại lại quan tâm đến những thứ tương tự.
Tiếp theo, một cách tự nhiên, câu chuyện đẩy tới những phép thuật phù thủy, các khoa học thần bí, sự huyền bí, ma thuật của những con số, và như thể tự thân, nó chuyển thành cuộc trò chuyện về các loạisách theo chủ đề này, bao gồm cả văn chương nghệ thuật.
- Thật đáng tiếc là hiện nay thể loại văn học này đã bị người đời lãng quên một cách oan uổng, - Roman nói, - mà tôi rất muốn được đọc một cái gì đó viết về đề tài này, và anh biết không, phải là dựa trên những câu chuyện của nước Nga chúng ta kia.
- Anh nói vậy thật chẳng đâu vào đâu, anh bạn ạ - Vladimir mỉm cười. - Mới rồi tôi vớ được tập truyện của một tay nhà văn. Trong đó, theo ý tôi, đúng là có một vài thứ rất hay ho. Đây, chẳng hạn như tôi còn nhớ, là một truyện ngắn về tuyến xe buýt số sáu trăm sáu mươisáu.
- Về số sáu trăm sáu mươi sáu ư ? - trên mặt chàng trai bất thần xuất hiện một vẻ phiêu lãng nào đó, anh ta chậm chạp đưa tay lên chạm vào cà vạt và nhẹ nới cái nút thắt. - Phải đấy, anh cứ thử tưởng tượng mà xem, có lẽ chỉ ở chỗ chúng ta, Matxcơva, tại một thủ đô duy nhất trên thế giới là có tuyến đường như vậy thôi. Cái ông tác giả ấy thậm chí còn đùa rằng, đã điều khiển thành phố này, mà có lẽ là cả đất nước này, suốt mấy chục năm gần đây là những lực lượng ma quỷ gì đó. Điều ấy thể hiện đặc biệt rõ ràng qua các con đường và số tuyến giao thông của chúng ta. Tôi thích cái truyện ngắn, và nhớ nó khá rõ. Nếu như anh không vội vàng đi đâu, thì tôi có thể kể lại cho anh nghe.
- Cảm ơn ông, tôi sẽ sẵn lòng lắng nghe. Chỉ có điều, ông biết không, ta nên kiếm mỗi người một chai bia và ra chỗ công viên mát mẻ ngoài trời kia. Ở đây đang thành ra ngột ngạt, khói um hết cả lên, mà tôi lại không chịu được khói thuốc lá, - người trẻ tuổi lại mạnh tay nới lỏng thêm cà vạt và cởi một chiếc nút ở cổ áo sơ mi.
- Thì anh bỏ áo khoác ra.
- Tốt nhất là không nên, kẻo tôi lại bỏ quên nó ở đâu đó mất, trong túi còn có bằng lái. Ông cũng biết là bây giờ làm bằng mới khó khăn ra làm sao rồi đấy.
Vladimir nốc một hơi cạn nốt chỗ bia còn lại trong cốc và nói:
- Thôi được, anh nói đúng, ta làm mỗi người một chai và ra chỗ nào ngoài nắng ngồi vậy. - Ông chớ quên tờ báo với cái mục tử vi đó nhé.
- May là anh đã nhắc. Tôi còn muốn đưa nó cho một anh bạn của tôi đọc mà. Họ mua bia, đi từ quán cafe sang khu công viên vắng vẻ, mặc dù đang là một ngày mùa xuân rạng rỡ. Thảng hoặc lắm mới thấy những chiếc xe nôi con trẻ màu sắc sặc sỡ của các cô nhũ mẫu, các bà mẹ trẻ thấp thoáng trên những lối đi giữa hàng cây của khu công viên. - Ta hãy đi sâu thêm chút nữa vào công viên nhé, - Roman gợi ý. - Tôi biết một chỗ khá là hay, lúc nào cũng có nắng, và cảnh sát khu vực sẽ không tới quấy rầy mình.
Họ đi dọc con đường nhỏ hẹp tới một góc xa tít cuối khu công viên, rồi ngồi xuống chiếc ghế băng trắng mớisơn nhưng đã kịp khô.
- Ông định kể câu chuyện về tuyến xe buýt, - nhấp miệng chai làm một ngụm, người trẻ tuổi nhắc Vladimir.
- Phải rồi, tôi đâu có quên, chẳng qua là đang nhớ lại cốt truyện cho tỉ mỉ hơn. Cái truyện ngắn, thoạt xem qua thì khởi đầu cũng tầm thường thôi: có một anh chàng trẻ tuổi tới xin được thu xếp thế vào chỗ của người tài xế xe buýt đã mất tích không để lại dấu vết gì. Anh ta được người ta tiếp nhận và bố trí vào làm việc tại tuyến sáu trăm sáu mươi sáu. Ngay từ lúc ban đầu cánh lái cựu đã tỏ ra nghi hoặc và xa lánh anh ta. Đêm đêm luôn có cùng một cơn ác mộng cứ ám ảnh cậu lái xe trẻ tuổi. Trong cơn ác mộng, anh ta đã giết chết một cách man rợ một người đàn ông ngủ quên khi xe đến bến cuối. Máu tưới đẫm lên cửa kính và ghế ngồi của chiếc xe buýt. Dần dần người trẻ tuổi bắt đầu phát điên và một đêm trời tuyệt đẹp nọ, đến cuối ca trực, anh ta đã giết một người trên xe, sau đó dùng vòi phun nước rửa sạch máu bắn tung tóe khắp cả khoang xe. Giấc mơ giống như một điềm báo của biến cố trong đời thực. Gã lái xe không dừng tay ở đó. về sau lại còn khiếp hơn. Gã ta không chỉ còn giới hạn ở những vụ giết người ban đêm nữa mà gây tội ác ngay giữa ban ngày, dùng giờ nghỉ ăn trưa để làm việc đó. Hành khách bắt đầu than phiền sàn xe bị tưới thứ nước gì sền sệt, dính nhớp nháp, còn gã lái xe buýt thì tùy tiện thay đổi tuyến đường và thôi không dừng xe khi đến bến nữa. Gã trẻ tuổi cũng bắt đầu tự nhận thấy những điều kỳ quặc ở bản thân. Tuy nhiên mọi chuyện lại được sắp đặt khiến gã lẫn lộn không còn biết đâu là thực đâu là mơ. Mọi người tránh bắt gặp cái nhìn của gã. Cô vợ thì ôm con bỏ đi. Chuyện đó không làm gã bận lòng, mặc dầu trước đấy gã yêu đứa con gái đến mê mẩn. Trên ngực gã hiện lên và bắt đầu cháy như lửa con số "666". Gã thôi không đến nhà tắm hơi nữa, để không ai nhận thấy dấu ấn của quỷ Satan trên thân thể mình.
Roman so vai và quấn áo choàng bó chặt hơn quanh thân mình.
- Anh vẫn chưa chán câu chuyện của tôi đấy chứ ? - Vladimir hỏi.
- Không, hay lắm, có điều tôi hơi ớn lạnh. Lẽ ra phải mặc áo lót bên trong sơ mi, trời cũng chưa ấm hẳn, cứ thế này chẳng may lại đâm ra cảm lạnh mất, - anh ta rút trong túi áo ra đôi găng tay và xỏ vào. - Ông kể tiếp đi, tôi đang nghe chăm chú đây.
Vladimir thấm cổ họng khô khốc bằng ngụm bia và tiếp tục câu chuyện:
- Gã trẻ tuổi còn nhận thấy cứ sau mỗi vụ giết người, gã bắt đầu vô cớ phóng xe lồng lên trên phố. Gã kiếm được một tấm bản đồ và dùng nó để theo dõi các lộ trình của mình. Té ra bao giờ cũng là một ngôi sao, nhưng chưa hoàn chỉnh, và lần nào nó cũng tiến gần sát đến một nhà thờ, một bức tường tu viện hoặc một con sông. Cứ như thể có một sức mạnh nào đó không cho phép vạch lên khuôn mặt Matxcava dâu ấn của một con quỷ đang xoa tay hy vọng đày được xuống địa ngục linh hồn tất cả thị dân của cái đô thị khổng lồ khá tội lỗi này. Một truyền thuyết kể rằng xưa kia có một gã đánh xe sa dọa nào đó từng điều khiển cổ xe của hắn để vẽ hình những ngôi sao, hình như ở Sodom, hay Gomora gì đó (hai thành phố được miêu tả trong Cựu ước, nơi dân chúng bị vấy bẩn bởi tội lỗi và hư hỏng, vì thế bị thiêu ra tro bằng lửa từ trên trời giáng xuống) , sau đó "Chúa đã trút diêm sinh và lửa từ trời xuống các đô thành này". Nhưng câu chuyện không làm gã thanh niên hoảng sợ. Hơn thế nữa, gã lại càng không từ bỏ nỗ lực vẽ ngôi sao của quỷ dữ sau mỗi vụ giết người thường lệ của mình, cứ như thể đang thực hiện một sứ mệnh định sẵn bởi một đấng từ trời cao. Sau khi đành thất bại ở phố cổ, gã lồng lên lùng sục khắp các khu phố mới, nhưng cả ở đó cũng đều có, khi thì những ngôi nhà thờ nhỏ kiểu làng quê, khi thì những nhà nguyện nửa tan hoang với các cây thập giá đứng xiêu
vẹo trên nóc, lúc lại là một dòng sông chắn ngang đường, không cho gã hoàn tất công việc hắc ám của mình. Nhưng ông chủ của gã lái xe khát máu ấy vẫn còn cảm thấy có quá ít sinh linh bị mang hiến tế cho y mỗi ngày, y cần cả đô thành kia. Và gã lái xe mua mỗi lúc một nhiều thêm những tấm bản đồ mới, vạch chi chít lên đó các tuyến đường dự định cho chiếc xe buýt của gã, sát hại thêm những người tiếp theo và cứ lang thang, lang thang khắp trong thành phố.
Vladimir im bặt và lại kề miệng vào cái chai bia.
- Hết rồi à ? - Roman hỏi.
- Phải. Anh thấy sao, có hay không ?
- Tàm tạm. Nhưng có lẽ tôisẽ thay đổi đôi chút trong câu chuyện đó của ông. Chẳng hạn gã lái xe phát hiện ra trên tấm bản đồ, rằng tuyến xe buýt của địa ngục có lẽ phải được kết thúc, một cách lý tưởng, chính ở trong điện Kremli Matxcơva. Và gã lái chiếc xe cùng đám hành khách của mình lao thẳng vào cổng Xpaxxkoe. Khi ấy thì truyện ngắn này mới có chiều sâu đáng kể, chứ thế kia thì cũng chỉ là một mẩu truyện nhỏ hơi kinh dị thôi.
- Ồ, cuộc sống thế nào thì các tác phẩm của những nhà văn chúng ta thế ấy thôi. Giờ đây đến cả việc bước ra đường cũng đã trở nên đáng sợ rồi. Còn thiếu điều gì chúng ta không được nghe đến phát ngán ở sở làm và không xem phát chán trên tivi mỗi buổi chiều tối kia chứ ? Chỉ một chuyện những quân kẻ cướp rót thêm clophelin vào vốt ca hay bia cho khách hàng của mình đã thấy sợ. Bây giờ thì đến cả đứng chốc lát bên chiếc bàn nhỏ ở quầy bia mà trò chuyện dăm câu với một người không quen về sự đời cũng thật đáng sợ.
- Phải, cái đó chính xác, - Roman gật đầu.
- Tôi hy vọng là anh không đem theo thuốc tra mắt đấy chứ ? - Vladimir hỏi và cười phá lên. - Không, cả mắt lẫn đầu tôi có lẽ đều ổn. Cứ thế tôi vẫn kiếm ra tiền được đấy thôi. - Vậy chứ anh kiếm tiền ra sao ở cái thời buổi nhiễu nhương này của chúng ta nhỉ ? Nếu không phải là bí mật...
- Tôi có một doanh nghiệp chung với ông anh trai. Nói đúng hơn thì anh ấy là chủ một hãng bán xe hơi theo hợp đồng trả góp, còn tôi chỉ là thừa hành, - nói đoạn Roman nốc một hơi cạn chai bia, đứng lên và mang thả vào thùng rác đặt cách chiếc ghế băng dăm bước.
- Thế thì đúng hôm nay tôi đã sử dụng dịch vụ của một hãng kiểu đó đấy. Chi ra năm nghìn rúp, và sau một vài tháng thì được nhận một chiếc xe mới. Rất tiện lợi, lại tiết kiệm cả đống tiền. - Hừ, chỗ chúng tôi không hoàn toàn như ông nghĩ đâu, - đã quay lại ghế băng nhưng không ngồi xuống, gã thanh niên nói với một vẻ đăm chiêu trên gương mặt.
- Tôi không hiểu...
- Nói thế nào với ông nhỉ... Tôi là em trai kẻ làm chủ hãng mà ông vừa mang tiền đi nộp cho đây. Nhưng hắn ta thì chẳng khi nào có ý định giao xe cho ai tuốt, lại càng không thích phải trả nợ. Thật đơn giản, một phần tiền khách hàng đã nộp sẽ được chi cho tên giết mướn. Tương tự như khách hàng tự bỏ tiền túi ra chi cho việc thi hành bản án tử hình của chính mình ấy. Đối với ông anh trai tôi đó là một chuyện làm ăn rất hời, còn tôi - cũng là món kiếm thêm kha khá kèm vào đồng lương lái xe.
- Như thế là sao ? - Vladimir suýt sặc bia. Ông ta đẩy cái chai sang một bên, và kinh ngạc nhìn gã thanh niên. Tên này đứng xoay lưng về phía mặt trời, hắt cái bóng hắc ám của gã lên người đối thoại, cho nên người này không tức thời nhận ra một nòng súng lục đen ngòm to tướng đang
chĩa thẳng vào ngực mình.
- Ông thứ lỗi cho, nhưng đây là công việc của tôi. Tôi lấy làm thích thú được quen biết với con người thông minh, đọc rộng hiểu nhiều như ông, và thật sự rất hối tiếc vì chúng ta buộc phải gặp gỡ nhau trong tình cảnh như thế này, - với vẻ hối tiếc thành thực Roman thốt lên và lên đạn. - Lời khuyên của tôi đây, cho tương lai nhé: Đừng bao giờ tin cậy giao tiền của mình cho bất cứ ai, điều đó đối với ông có thể đáng giá cả mạng sống đấy.
- Hẵng khoan, tôi những muốn anh làm ơn cho một chuyện... Nhưng mà thôi, - Vladimir phẩy tay, - quả tình, thế là tôi đã trì hoãn anh với cái chuyện kể về "tuyến sáu trăm sáu mươisáu" rồi. - Xin ông nhắc thêm cho tôi lần nửa tên tác giả cái truyện ngắn. Tôi muốn được tự mình đọc truyện ngắn của ông ta.
Vladimir ngả người ra lưng chiếc ghế băng, nhoẻn rộng miệng nở ra một nụ cười, như chẳng hề có khẩu súng lục đang chĩa vào mình, và gọi tên ông nhà văn ra.
Những vị khách lơ thơ viếng thăm công viên không để ý gì đến tiếng súng nổ khô khốc, duy chỉ có đám con quạ vỗ cánh bay lên từ cành các cây đứng cạnh đó, uể oải liệng vòng quanh bên trên những lối đi vắng vẻ, rồi lại đáp xuống chỗ cũ.
Gã thanh niên quăng khẩu súng vào một lùm cây, dựng lại cái chai đổ còn sót ít bia chưa uống hết, sửa sang ngay ngắn tờ báo nằm trên đầu gối người chết, rồi không ngoái lại, ung dung đi về phía lối ra công viên. Chưa đến cổng, chợt gã đứng sững lại như trời trồng. Bên cạnh đài phun nước đã từ lâu không phun ra nước nữa lù lù một người đàn ông vung vẩy chiếc dù, đồng thời là can chống. Nhưng nói cho đúng, thì không phải là ông ta thu hút sự chú ý của Roman. Đằng sau lưng người đang đứng trông rõ một mẩu đuôi đen ngoe nguẩy. Cảm thấy cái nhìn chòng chọc vào mình, người đàn ông thôi vung vẩy cây dù, rời khỏi đài phun nước bước về phía những chiếc ghế đá đặt gần đó. Trên rìa đài phun còn lại một con mèo đen đang sưởi nắng, cái đuôi của nó vẫn tiếp tục ngoe nguẩy ngoắc lên ngoắc xuống như cũ.
Roman thở phào nhẹ người, lau mồ hôi túa ra trên trán và đi tiếp. Đi qua cái cổng đá trang trí đầy các phù điêu "kiểu Stalin", gã lại gần chiếc xe buýt treo biển "Nghỉ trưa" trên kính trước thay cho số tuyến đường đang đỗ trên bến. Gã mở cửa xe, ngồi vào ghế tài xế và vặn chìa khởi động.
"Lúc ở đó lão ta bảo tên tác giả của truyện ngắn là thế nào nhỉ ? Nhất định phải đọc ông ta mới được." - Gã lầm rầm trong miệng, và trong lúc chờ nóng máy, mấy lần nhắc lại tên họ ông nhà văn.
Đợi đến cuối cùng, khi động cơ nổ đã êm hơn, Roman đột ngột ngoặt tay lái, suýt đâm ba-đờ sóc vào thanh chắn bến xe và lao đi. Một tia sáng sượt qua mặt kính hậu, và ở trên tấm biển ghi số tuyến đường, ba con số sáu bùng lên ngọn lửa báo điềm dữ. Chiếc xe buýt phụt ra lần cuối cùng những luồng khói đen nồng nặc mùi lưu huỳnh rồi lăn bánh lên con đường thành phố đang sôi động và lẫn vào trong dòng xe cộ".
***
- Sao, truyện thế nào ? - thấy Grigoriev đã đọc xong, viên thiếu tá vẫn ngồi ở mép bàn và quan sát anh bèn hỏi.
- À... ừm... Nhưng tại sao các anh để ý đến nó ? - điều tra viên hỏi lại.
- Tại sao là thế nào ? Chúng ta có những con số sáu trên lịch và những số sáu trong cái
truyện ngắn. Và cả ở đó lẫn ở đây đều là những vụ giết người thoạt nhìn hoàn toàn không có lý do. Sao lại không để ý được chứ ?
- Trong đó còn viết về điện Kremli nữa.
- Sẽ cần đấy, ta sẽ nối kết nó vào với vụ án.
- Hừ, - Grigoriev lại thốt lên đăm chiêu và hỏi: - Anh bảo tên ông tác giả này là gì nhỉ ? - Gherman Hara. Truyện đã nằm lăn lóc chừng hai năm trên giá tòa soạn và được đăng tháng rưỡi trước khi xảy ra vụ giết người đầu tiên.
- Các anh đã kiểm tra ông ta sống ở đâu, giao du với những ai chưa ?
- Đương nhiên, đó là việc đầu tiên mà. Bốn mươi tám tuổi, thấp nhỏ, đầu hói, để râu và đeo kính, bụng phệ. Sống chủ yếu ở ngoại ô Matxcơva, trông coi các nhà nghỉ của văn sĩ ở Peredelkino. Nghiện nặng, mười tám lần vào trại cai rượu, hám gái, máu me cờ bạc và thô tục kinh khủng. Thích đi mò gái hoặc leo lên diễn đàn phát biểu diễn văn chính trị. Tuy vậy, theo tôi thì ông ta chơi tuốt chớ kể gì dân chủ hay cộng sản. Thích đàm luận về sự kết thúc của thế kỷ và về chuyện ở nước Nga, nói đúng hơn là về chuyện ở Matxcơva chẳng mấy nữa sẽ xuất hiện tên nô bộc nào đó của Chúa tể Bóng tối, đang mưu toan đẩy cả đất nước xuống vực thẳm không đáy. Và rằng tên nô bộc này có thể mang hình dáng hoặc hóa thân thành bất kỳ người nào trong đám chinh khách của chúng ta. Vân vân và vân vân... Một kiểu hoang tưởng của người điên. Thường đến quán cà phê Hội Nhà văn Trung ương và Hội Nhà báo. Chỉ giao du với các nhà văn. Không bị lôi kéo vào chuyện gì khác đáng chê trách. Tóm lại, đúng kiểu một nhà văn Nga.
- Tôi thì muốn mang cái bọn nhà văn gieo rắc những thứ kinh dị ấy ra Quảng trường Đỏ mà nện cho một trận. Một gã tâm thần nhạy cảm nào đó sẽ đọc đồ rác rưởi đó, thế rồi chúng ta lại tha hồ mà bận rộn.
- Hiện giờ chúng tôi đang xem xét giả thuyết tài xế giao thông công cộng. Nhưng tuyến "666" chạy qua quận Tây Nam, còn các vụ phạm tội của ta đều xảy ra ở khu trung tâm. - Chúng tôi đang kiểm tra tất cả các tài xế xe buýt, tàu điện, ôtô điện. Chúng tôi sẽ rà soát toàn bộ các tuyến và những ngày xảy ra tội ác. Việc kiểm tra các tài xế lái taxi sắp xong rồi. Toàn bộ đều qua hệ thống máy tính. Bảng danh sách đã lên tới gần ba nghìn người. - Kinh khủng, - Grigoriev ôm đầu, - rồi còn thêm những người chỗ chúng tôi nữa chứ. - Dĩ nhiên, chúng tôi sẽ còn điều chỉnh bảng danh sách. Số liệu tiếp nhận được chúng tôi sẽ chuyển cho các anh. Còn các anh hãy đối chiếu với những gì các anh có. Hy vọng là nếu có gì mới bên các anh cũng sẽ nhanh chóng báo tin cho chúng tôi.
- Vâng, tất nhiên rồi, - thở dài nặng nề, Grigoriev nói. - Ôi cái tay nhà văn với tên Quỷ Râu Xanh này bày việc cho chúng ta quá.
***
Marina chờ cho xe cộ qua hết, rồi băng ngang đường và bước lên những bậc cấp ghếp bằng đá cẩm thạch xám. Cô vừa chìa tay chạm được vào tay nắm thì cánh cửa đã bung ra, rồi hai cảnh sát viên lôi xềnh xệch một thanh niên gầy gò tay tra còng, đẩy ngược ra ngoài. - Sao các anh lại nghe nó, tôi có đánh nó đâu, không đánh mà ! - gã hét toáng lên.
Anh chàng cảnh sát lực lưỡng quá ngán kẻ vi phạm gào thét và bướng bỉnh, liền tóm gáy gã bằng bàn tay hộ pháp nhấc bổng lên lẳng thẳng cổ vào chiếc xe thùng đen trũi mở sẵn cửa đang đỗ sát bậc thềm.
Marina lắc đầu bước vào đồn và ngăn anh cảnh sát mà cô bắt gặp đầu tiên lại. - Anh làm ơn chỉ giúp, tôi có thể tìm trưởng nhóm điều tra Viện Công tố Grigoriev ở đâu. Người ta bảo với tôi là anh ấy ở đây.
- Chị xem ở phòng trực ấy, - anh ta chỉ ngón tay về phía vách ngăn bằng kính có mấy người đang trò chuyện bên trong.
Marina gõ cộc cộc rồi mở cửa hỏi:
- Chào các anh, tôi vào được chứ ? - Không, tôi tìm anh Grigoriev, - cô chỉ trưởng nhóm điều tra lúc ấy đang đứng xoay lưng lại nói chuyện với Sergei Nikolaev. Chỉ hai người bọn họ mặc lối dân sự ở đây, mấy người còn lại đều mặc quân phục cảnh sát.
Grigoriev quay ra, không hề ngạc nhiên khi thấy Marirta, nói:
- Chào chị. Tôi nghe đây.
- Anh Konstantin Grigoriev, tôi đã gọi vào số máy cơ quan của anh, họ bảo tôi anh ở đây. Anh còn nhớ tôi không ?
- Có, tất nhiên rồi, chị Fedorova Marina Mikhailovna, - điều tra viên gật đầu. - Chị nhớ ra được chuyện gì đó à ?
- Không, tôi đến không hẳn vì lý do ấy, - Marina ngắc ngứ. - Có lẽ chúng ta ra chỗ nào nói chuyện thì hơn.
- Chị cứ nói đi, ở đây toàn người nhà cả.
- Tôi muốn nói với anh là tôi biết phải bắt tên tội phạm bằng cách nào.
- Chị định nói đến kẻ giết hại cô bạn gái chị ? - Grigoriev hỏi.
- Vâng, - Marina rút túi lấy tấm lịch treo tường gấp làm mấy lượt và mở tung ra. - vấn đề ở chỗ là tôi đã phát hiện ra trong hành động của tên giết người hoặc là những tên giết người này một quy luật xác định.
Mấy kẻ lang thang vô gia cư mặt mũi nhàu nhĩ ngồi trên chiếc ghế băng đối diện phòng trực háo hức há mồm theo dõi qua vách kính ngăn lớp kịch câm đang diễn ra trước mắt. Một cô gái tóc vàng xinh đẹp, đứng giữa vòng vây cảnh sát, đang hoa chân múa tay giải thích gì đó với người đàn ông người đen sạm và lực lưỡng. Đáp lại người kia chỉ nhoẻn rộng miệng cười và lắc đầu không tán thành. Người phụ nữ vẫn không thôi hy vọng, lại chỉ tay vào tấm lịch treo tường màu sắc sặc sỡ, cố gắng giảng giải điều gì đó cho người kia. Cảnh đó diễn ra chừng mười phút. Cuối cùng, điều tra viên chỉ vào đồng hồ và dang hai tay. Cô gái tóc vàng, trông có vẻ bực bội ra mặt, dúi tấm lịch vào túi và bay ra khỏi phòng kính như người phải bỏng.
- Đồ gã tây tự cao tự đại ! - cô bật rủa thầm tức tối khi đóng sập cửa phòng trực ban. Một ả say rượu mặc áo choàng mùa đông, chân xỏ giày thể thao không tất, có một vết tím bầm dưới mắt, ngồi cùng ghế đám lang thang vô gia cư, bất thần cười ré lên, ngoáy ngoáy ngón tay vào thái dương và lè lưỡi theo sau Marina. Quả thực Marina, trong bộ đồ của Anh đắt tiền đỏ rực đẹp tuyệt trên người, và đôi giày cao gót cùng tông màu, nom khá kỳ quặc ở đây, giữa đám cảnh sát và một bọn lang thang rách rưới bẩn thỉu.
***
Sau khi Marina dập cửa lao ra khỏi phòng trực ban, Nikolaev hỏi Grigoriev: - Sao cậu nghe cô ấy nói không nghiêm túc gì cả thế, thậm chí không chịu nghe cho hết ? - Đó là các vị làm chuyện vớ vẩn, đi giải đoán ô chữ văn chương, chứ tớ không có thời gian
nghe hết tất cả những lời mê sảng đó. Tớ còn cả đống án chưa phá xong treo trên đầu kia kìa, điều tra viên bực dọc nói.
- Theo tớ, cô ấy nói chuyện công việc đấy chứ. Giả thuyết của cô ấy rất đáng chú ý. - Cậu đi làm việc của cậu đi và đừng có sán vào tớ mà khuyên với nhủ. Tớ đi đây. Cậu đi hay ở lại nào ?
- Tớ đi, tớ đi, - Nikolaev vớ lấy túi đựng máy ghi âm và sổ ghi rồi vội vàng chạy theo Grigoriev.
- Nếu muốn, cậu có thể quẳng tớ xuống chỗ Hội Nhà báo, - Grigoriev nói khi bước ra từ đồn cảnh sát.
- Cậu có việc gì đằng ấy thế ? - Nikolaev quan tâm.
- Một cuộc gặp với người cung cấp tin, nếu cậu rất quan tâm, - trưởng nhóm điều tra nhếch mép cười. - Vậy cậu cho đi nhờ hay không đây ?
- Tất nhiên, chứ còn sao nữa. Nhân tiện tớ sẽ làm cốc cà phê, không thì từ sáng đến giờ chưa được bi nào vào mồm cả. Nhưng dọc đường ta ghé qua bưu điện một lát. Tớ đang ngờ đám hàng xóm trong chung cư chẳng những không chuyển tin điện thoại cho tớ, mà còn ăn cắp thư tín, bưu phẩm nữa. Thế cho nên tớ đã thuê một hòm thư ở gần đây. Lâu rồi chưa ghé qua, thế nào cũng phải ngó một cái, chắc chắn là có thư của tòa soạn báo và cái gì đó từ Baltic gửi đến.
Nikolaev ngoặt vào một ngõ nhỏ, dừng đối diện bưu điện và vọt ra khỏi xe. Sau mấy phút anh quay lại, vác theo một bọc nặng.
- Cái gì thế ? Bưu phẩm đến hả ?
- Không, - Nikolaev phẩy tay bất bình, - từ tòa soạn. Lúc nào tớ cũng bảo rằng trong trường hợp này họ nhất thiết phải có các mẫu in đặc biệt kèm câu trả lời soạn sẵn. Đại loại như:"Thưa ông bạn quý hóa và ông đồng nghiệp quá ư là kiên trì, tòa soạn tạp chí chúng tôi một lần nữa nhắc nhở ông rằng ở chổ chúng tôi bản thảo gửi đến đều không được đọc, không được duyệt và không được in (mà nếu có được in, thì là của tổng biên tập và bạn bè ông ấy, mà ông thì không được ghi danh vào danh sách đó). Đề nghị các tác giả trẻ gửi bản thảo đến thì đóng gói cẩn thận thành từng bọc hai mươi kilogam (để tòa soạn hoàn thành kế hoạch nộp giấy loại), trọng lượng không đủ có thể bổ sung báo cũ. Chào thân ái, gác cổng tòa soạn, chú Vaxia".
- Hừ, nếu cậu biết hết cả thế thì gửi các thứ cậu viết ra cho bọn họ làm gì ? - Tớ đói ăn quá, vả lại tớ chưa mất hy vọng rằng một lúc nào đó sẽ bắt gặp một tổng biên tập chân chính biết đọc sách vở, chứ không phải một gã viết lách chả ra gì. - Thôi nào, cậu đã hứa đưa tớ đến Hội Nhà báo, mà tớ đã trễ giờ rồi đấy.
***
Marina ra khỏi đồn cảnh sát trong tâm trạng hết sức cáu kỉnh. Hẳn phải là loại thần kinh quái gở, như tay điều tra viên ấy, mới không hiểu nổi là cô đã mang cho họ một thông tin quý giá đến nhường nào.
Cô lại băng qua đường sang phía để xe. Ngồi sau tay lái trong một tâm trạng thế này thật không chịu nổi, vì thế cô quay lại vườn hoa nhỏ và buông mình xuống chiếc ghế đá trống đầu tiên bắt gặp. Ngay lập tức có một gã người phương Nam râu ria lởm chởm không cạo sà xuống bên cạnh. Cô thậm chí không trông thấy gã từ đâu hiện ra. Gã ta diện trên đầu chiếc mũ cát két có cái lưỡi trai to tướng. Marina nghĩ rằng những kiểu người như vậy chỉ có thể bắt gặp trong những bộ phim Gruzia cũ kỹ mà thôi.
- Ê ê, người đẹp ơi, sự quan tâm của cô em giá bao nhiêu ? - gã đàn ông mà cô thầm gọi bằng biệt danh "thằng cha Gruzia", mặc dù gã ta hoàn toàn có thể là một anh chàng Thổ Nhĩ Kì hay Chechnia, quay sang Marina hỏi.
Nói đến người Chechnia, do những sự kiện xảy ra thời gian gần đây ở đó, tất cả dân Matxcơva, thậm chí cả gái làm tiền, đều khá e ngại. Tin đồn về các vụ khủng bố quy mô đang được chuẩn bị lan đi khắp thủ đô, rồi thì các sự kiện ở Pervomaisk và Budenovsk, những vụ nổ trong xe điện ngầm, trên ôtô buýt và xe điện bánh hơi hãy còn tươi nguyên trong tâm trí mọi người.
- Ê ê, em đừng có ngó tôi như dzậy, tôi có tiền, - gã đàn ông vẫn lải nhải mặc dù đã thấy Marina quay lưng lại để tỏ thái độ. - Nhều tiền lắm.
Marina ném cho hắn một cái nhìn bất bình, đứng dậy và ngồi sang chiếc ghế khác. "Thằng cha Gruzia" thất vọng phẩy tay phía sau cô rồi liền ngay đó chuyển ánh mắt sang hai cô điếm trẻ son phấn lòe loẹt ních váy da ngắn cũn cỡn đang đi ngang qua, rõ là mấy cô ả từ ngoại ô Matxcơva lên vỉa hè thủ đô kiếm chác. Marina cũng đưa mắt theo họ, sau đó đứng dậy và đi ra cổng vườn hoa. Bây giờ thì cô đã biết phải làm gì rồi, cô đã tìm được cách làm sao tự mình lần ra kẻ giết Larixa. Hôm nay, trong đêm thứ Năm rạng ngày thứ Sáu, sẽ phải diễn ra tội ác tiếp theo, và cô sẽ tóm cổ tên khốn bằng bất cứ giá nào, khỏi cần ai giúp đỡ. Cứ để cho sau đấy anh chàng gã tây điều tra viên ngu ngốc kia phải tức nổ ruột ra.
- Ấy, ấy, đứng lại đã, em ơi, - "thằng cha Gruzia" cố vẫy tay lần nữa để thu hút sự chú ý của Marina, nhưng thấy rằng thế chỉ vô ích, gã thở dài tiếc rẻ, dúi hai bàn tay vào nách, và ủ rũ như một con cú, cứ thế ngồi trơ ra, người hơi lắc lư trên ghế.
***
Marina để xe lại cách không xa một ngôi nhà thờ nhỏ. Thời gian gần đây, những nhà thờ như thế được xây mới khá nhiều ở thủ đô. Đột nhiên, có một xung động nào đó bên trong đẩy cô bước tới trước cửa ngôi thánh đường đang mở rộng. Sau khi cho hai người ăn mày bên thềm mấy tờ tiền lẻ, cô đi vào bên trong. Đứng bên phải chiếc quầy gỗ là một bà trùm khăn. Marina tiến lại gần bà ta rồi chìa mười nghìn rúp mua hai cây nến.
- Rõ dơ, ít ra cũng phải trùm cái đầu lại chứ, - người đàn bà sau quầy lẩm bẩm. - Để làm gì kia ? - Marina hỏi.
- Quy định thế.
- Thế tại sao đàn ông cởi mũ, còn chúng ta nhất thiết phải trùm khăn ?
- Cô phải đọc Phúc âm, trong đó có nói cả đấy.
- Thế thì, nếu bà đã đọc và biết rồi, hãy giải thích cho tôi tại sao lại thế.
Người đàn bà cau mặt, rồi ngoắt đi, bắt đầu xoay ra bới một mớ giấy má gì đấy, cố làm ra vẻ đang rất bận, nhưng trông qua toàn bộ dáng dấp bà ta, thậm chí chỉ nhìn từ lưng cũng đoán được rằng bản thân bà ta đang lấy làm lạ rằng mình chẳng biết lời đáp cho câu hỏi đó.
Một thầy trợ tế trẻ tuổi mặc áo chùng đen dài lượt thượt đi lại gần quầy. - Xin lỗi, cha có thể nói giúp con, - Marina quay sang anh ta, - tại sao trong nhà thờ chính giáo đàn bà lại phải che đầu không ạ ?
Viên trợ tế ngạc nhiên nhìn cô, sau đó nhíu mày, cố nói bằng một giọng trầm không thích hợp chút nào với khuôn mặt còn non choẹt lún phún những sợi lông măng ngăn ngắn: - Đã ấn định thế rồi. Ở người Hồi giáo và Do Thái thì ngược lại, đàn bà để tóc trần, còn đàn ông thì dù là bằng một mảnh báo con thôi, nhưng cũng phải che đầu lại. Nhưng nói chung ở đây tôi là người mới, cô hãy đi hỏi cha linh mục ấy.
- Cha đang bận và còn lâu mới rảnh, - người đàn bà sau quầy nhấm nhẳn rồi đặt trước mặt Marina tiền thừa, đôi nến và tấm khăn. - Này, cô đội lên đi. Khi về chớ có quên giả tôi đấy. Marina lặng lẽ buộc khăn, cầm mấy cây nến và bước đến trước bàn thờ.
Giọng nói của vị thầy tu thấu đến tận đáy lòng, khơi lên một cảm giác nhẫn nhịn lạ lùng mà từ trước đến nay cô chưa hề biết tới. Còn bức tranh khắc tường mạ vàng lấp lánh, những bức phù điêu, tượng thánh, những bộ đèn chùm khổng lồ từ trần buông xuống, những cây giá nến được cọ sạch sáng choang, những ngọn đèn thắp sáng bên các tượng thánh, thì bổ sung cho giọng nói đó và cùng nhau tạo ra cho mỗi con người, mà đặc biệt là những kẻ lần đầu tiên bước chân qua ngưỡng cửa nhà thờ, một ấn tượng không thể phai mờ.
Một cụ già bé nhỏ đáng kính, đầu bạc trắng, đứng cạnh và quan sát Marina đang ngắm những tượng thánh mạ vàng, nói khe khẽ:
- Sau vỏ bọc không thấy được cái cốt yếu. Nó khiến ta xao lãng sự tiếp xúc với Đấng Sáng thế. Con người phải đến đây chỉ để tiếp xúc với Chúa mà thôi, về điểm này tôi thích nhà thờ Thiên Chúa giáo hơn. Họ nghiêm khắc hơn. Và nói chung, cần tìm Chúa không phải trong Đền Thờ, mà là ở trong trái tim mình kia. Ngài phải luôn ở đó chừng nào trái tim còn đập. Không phải vô cớ mà người ta bảo người chết là "hồn lìa khỏi xác" đâu con ạ. Lạy Cha, Con và, - cụ già dừng lại một lát, - Thánh thần. Đó là cái gắn ta với Chúa đấy.
- Cụ giảng giải rành rẽ lắm, - Marina mỉm cười với ông lão. - Vậy có thể là cụ biết, tại sao trong nhà thờ đàn bà phải che đầu chứ ạ ?
- Để bày tỏ sự tuân phục và thừa nhận địa vị hàng đầu của đàn ông, của người chồng. Và thứ nữa, vào thời xa xưa, đàn bà để tóc trần bị coi là biểu trưng của hạng gái sa đọa và tất cả những thứ xấu xa gắn liền với đó.
Marina chìa cho ông già hai cây nến vừa mua và nói:
- Xin cụ hãy thắp giùm cho con và cho con chiên Larixa đã qua đời. Mong cho cô ấy được an nghỉ đời đời.
- Cô gái, ta không nghe thấy trong giọng con tiếng nói của sự bằng an và tuân phục. Hãy cứ để mọi sự như vốn thế, hãy cứ để gì của Chúa trả cho Chúa, gì của Xêda trả lại Xêda. Hãy tha thứ cho tất cả bởi vì đa số người ta đều mù lòa, câm điếc và thậm chí không biết nổi họ đang gây
nên cái gì. Vả lại, tất cả chúng ta cũng như thế thôi,
- Không, con không thể, - Marina ngoảnh đi và bước ra cửa. Cạnh quầy gỗ cô đứng lại, giật vuông khán trùm khỏi đaቹu, đặt xuoቷng trước mặt người đàn bà và ra khỏi nhàthờ. Cụ già nhỏ bé nhìn theo sau cô, không nói năng gì, chỉ khẽ lắc đầu.
***
Nikolaev cùng điều tra viên Grigoriev im lặng đến Hội Nhà báo. Nikolaev xuống tầng hầm vào quán cà phê, còn Grigoriev dừng ở tiền sảnh, chờ "khách hàng" của mình. Tiếp xúc với người cung cấp tin là công việc khá đặc thù và không cần đến những tai mắt thừa, nên Nikolaev cũng không cố ý nài được có mặt ở cuộc gặp đó. Anh mua hai ổ bánh mì kẹp thịt và một tách cà phê rồi ngồi đợi. Grigoriev đã hứa sẽ xuống dưới sau khi xong "hẹn hò".
- A, Nikolaev ! Chào, - ngồi phịch xuống chiếc ghế đối diện với Nikolaev là một trong số những người quen cũ của anh. Loại người kiểu này lúc nào người ta cũng có thể bắt gặp ở các câu lạc bộ lẫn những trụ sở khác nhau của giới sáng tác. Họ luôn luôn biết tất cả mọi người và với ai cũng xưng hô "cậu cậu tớ tớ" được. Kẻ vừa ngồi xuống cạnh bàn chính là một tay trong đám ấy. - Không ngờ lại gặp được cậu ở chỗ chúng tớ. Tớ cứ nghĩ cậu hay ngồi ở trụ sở Hội Nhà văn chứ.
- Chào cậu, Gienia, - Nikolaev gật đầu với anh ta.
- Uống cà phê hả. Gọi cho tớ một tách nhé ? - Gienia nói ngay. - Con mẹ nhà tớ vét hết sạch tiền túi của tớ rồi, chả để lại lấy một xu. Cổ khô khốc cả ra mà đến cốc nước cũng không mua nổi. Mai tớ trả.
Gienia đang diễn vở của gã. Nikolaev quá hiểu rằng anh không thể sống được đến cái "ngày mai" tuyệt diệu nọ, nhưng dẫu thế anh vẫn móc túi lấy ra ba nghìn và để xuống trước mặt người đối thoại. Tiền chưa chạm bàn, Gienia đã kịp chộp lấy rồi trỏ ngón tay xương xẩu vàng ệch khói thuốc vào chiếc cặp của gã mà bảo:
- Trông hộ nhé, tớ về ngay.
Mấy tích tắc sau gã ta đã quay lại với một ly vốt ca.
- Cậu bảo là muốn uống cà phê cơ mà.
- Thôi nào, cậu đến đây có phải để đếm ly hộ tớ đâu, - người trò chuyện với Nikolaev gầm gừ vặc lại với một vẻ không có gì là tức giận. - Tốt nhất hãy kể xem cậu có chuyện gì mới không. Đã viết được gì, in ra chưa ?
- Đang viết, - Nikolaev thở dài nặng nề, - còn chuyện in ấn, thì hiện giờ chính cậu cũng biết thế nào rồi còn gì.
- Đúng thế. Cuốn sách của tớ đã bốn năm nay rồi chả thể ấn được vào một nhà xuất bản nào. Cái bọn vét đĩa ấy in đủ thứ vớ vẩn của nước ngoài, còn văn học nước nhà thì chúng nó sổ toẹt. Cầu cho chúng chết rấp cả đi ! - Gienia làm một tợp nốc sạch ly rượu và nhăn nhúm hết cả mặt mày.
- Cậu nên nhắm với chút gì, chứ thế thì chóng toi đấy, - Nikolaev khuyên. - Đây, để tớ chén nốt cái bánh của cậu nhé.
Nikolaev tiếc rẻ dõi theo những miếng cuối cùng của bữa sáng, bữa trưa, và có thể là cả bữa tối của anh biến mất vào mồm gã Gienia. Tiền trong túi chỉ còn đủ cho một lần đổ xăng xe, mà các nhà xuất bản thì vẫn nói không có tiền, dăm ba tháng nữa cũng chưa hòng mong gì. Cần phải tiết kiệm. Có điều lấy gì mà tiết kiệm chứ ?
- Bọn đểu, chúng nó không muốn chi một xu nào, - hình như đoán được luồng suy nghĩ của Nikolaev, người trò chuyện với anh nói. - Với bọn đấy thì chả có Ziuganov, Jirinovxki hay Lebed gì sất. Giá mà các ông ấy cho bọn chúng biết tay được !
Đó cũng là đề tài yêu thích của Gienia, cứ sau ly thứ ba hay thứ tư là gã bắt đầu lảm nhảm chuyện chính trị. Giữa ly thứ sáu và thứ bảy thì anh chàng hoài tưởng đến Stalin, đến kỷ luật sắt và ông cụ thân sinh của mình đã bị ông đại nguyên soái bắn bỏ do tội biển thủ công quỹ số lượng đặc biệt lơn. Sau ly thứ chín thường thường gã ngủ lịm đi. Và, bất kể là ở chỗ nào, trên bàn, trên ghế hay dưới gầm bàn đều như nhau tuốt.
Vậy là do đã biết rõ từ đầu đến cuối mọi trò vè của người đối thoại với mình, vả chăng anh ta cũng chẳng cần có những thính giả thực sự theo đúng nghĩa, nên Nikolaev có thể thư giãn và điềm tĩnh suy nghĩ chuyện của mình. Giả thuyết do Marina, bạn gái của cô Larixa Kozlova quá cố đưa ra về các ngày xảy ra án mạng không để cho anh được yên. Theo ước đoán của cô ta, tối nay Quỷ Râu Xanh ắt phải gây thêm một tội ác nữa. Nếu cô ta đúng, thì sáng ngày mai báo chí và các kênh truyền hình sẽ loan cái tin này đi khắp nước. Thật là hết sức vô lý, nếu cứ phải ngồi một chỗ chờ đợi, và hiểu rằng mình sẽ chẳng làm được gì để chặn đứng vụ tàn sát kinh hoàng và đẫm máu này. Hàng chục nữ cảnh sát cải trang đang túc trực đêm đêm trong các nhà hàng, quán bar, lượn lờ bên các khách sạn và các điểm buôn bán hàng sống nhộn nhịp. Hàng trăm toán cảnh sát vẫn đang chong chong theo dõi từng người đi đường ban đêm và kiểm tra từng chiếc xe chở các vị hành khách khuya khoắt nào đó lọt vào tầm quan sát. Vô ích hết cả lượt. Chăng hề có chút dấu vết gì, ngoài nhóm máu được xác định từ tinh dịch của tên sát nhân, các phỏng đoán về chuyện hắn ta đi xe mác ngoại, và những mô tả hết sức mù mờ về kẻ bị trông thấy khi đang đi cùng với một trong số các nạn nhân. Thêm nữa, chuyện nhóm máu cũng có thể không chắc chắn, vì trước đây đã từng xảy ra chuyện nhóm máu của tên cuồng Chicatillo không trùng với kết quả xét nghiệm tinh dịch. Chính thế nên người ta mới không thể lần ra được y lâu đến vậy. Nhưng có thể Grigoriev hãy còn điều gì đó chưa nói hết với anh chăng ? Vì nếu là anh buộc phải làm vụ này, anh cũng sẽ không tiết lộ quá kỹ mọi chi tiết của cuộc điều tra.
- Còn chỗ trống cạnh các anh, tôi ngồi được chứ ? - một người đàn ông bước lại gần bàn hỏi. - A, Leonid, cậu ngồi đi, -- Gienia tạm ngừng màn độc thoại của anh ta về phẩm chất cá nhân của các chính khách Nga hiện thời, - có điều là hãy mua cho tớ với Sergei mỗi người một tách cà phê và trăm gram vốt ca nhé, chúng tớ hôm nay nhẵn cả túi mất rồi.
- Thôi đi, túi anh bao giờ chả sạch, - người đàn ông đặt lên bàn một ly cô nhắc, tách cà phê
rồi ngồi xuống.
- Leonid, cậu quen anh bạn này không ? - Gienia hỏi, tay chỉ vào Nikolaev. - Đây là anh Sergei Nikitin. Một nhà báo, nhà văn rất khá.
- Không phải Nikitin, mà là Nikolaev, - Leonid chỉnh lại gã. - Chúng tôi quen nhau rồi. Chào anh.
Sergei gật đầu đáp lại.
- À phải ! - Gienia vỗ bộp tay lên trán. - Borca của chúng tớ mới là Nikitin, còn cậu thì đích thị là Nikolaev rồi. Có nghe nói ba tháng trước Borca bị bẻ mất ba rẻ sườn không ? - Là chúng nó làm đúng đấy, - nhấp một ngụm nhỏ cô nhắc, Leonid nói. - Người ta đã cảnh cáo từ lâu, mà anh ta vẫn không chịu yên đi cho.
- Các anh nói về ai thế ? - Sergei quan tâm, - anh chàng nhà thơ, nhà văn trào phúng đả kích, nhà chép sử cuộc đời các văn sĩ hiện đại của chúng ta hả ?
- Về anh ta đấy, - Leonid lắc đầu ra vẻ quan trọng rồi quay sang Nikolaev. - Còn công việc của cậu thế nào ? vẫn loay hoay với mấy cái truyện trinh thám ấy à ? Kiếm khá nhờ chúng chứ ? - Tầm tầm thôi. Tớ vừa xong một truyện vừa, tạp chí hứa trả bảy trăm.
- Ha ha, - Leonid cười nhạo, - quảng cáo ngầm trong một bài báo hay một buổi truyền tin tớ kiếm còn bộn hơn thế nhiều. Nhưng thôi, chả cần nói, trông cậu cũng đủ biết là chẳng phất được.
- Bù lại trong đám ta thì cậu lúc nào cũng phất và thơm tho còn gì, - Gienia chen vào. - Cái đó thì chính xác. Phải biết thích ứng với hoàn cảnh chứ. Thời cộng sản tớ viết về các ông bí thư, thời chống nạn say xỉn thì về mối nguy hại của đám trồng nho, còn bây giờ tớ viết về mấy ông dân chủ tử tế. Cần phải mềm dẻo, mềm dẻo hơn mới được. Không vô cớ mà dân Trung Quốc bảo khi nào cây sậy mất đi sự mềm dẻo, nó sẽ gãy đâu nhé. Thời cơ đến, tớ là người đầu tiên đặt tấm thẻ đảng xuống bàn, và bây giờ thì tớ thành kẻ có công với Tổ quốc rồi đấy. Mọi chuyện phải làm vào đúng thời điểm của nó chứ.
- Tất cả những cái đó không họp với tôi, - Nikolaev lắc đầu.
- Chà, - Leonid nhếch mép, với cái lối nhìn đời như thế thì là thời buổi nào cậu cũng sẽ luôn thiếu công ăn việc làm và tiền bạc thôi. Cả cuộc đời chín chắn với cái tính nguyên tắc đó cậu nhận được cái gì nào ? Một cái xe tà với một căn phòng tập thể ? Còn tớ thì cưỡi xe BMW mới toanh đi đây đi đó, vừa rồi nhận căn hộ bốn buồng. Cậu hãy hiểu, rằng chẳng có thay đổi quái gì, vẫn là những người đó, những kẻ từng nắm quyền lực, lại thành người lèo lái thôi, ấy là chưa nói bọn họ còn leo cao hơn nữa với một cục tài sản quốc gia ngon lành của thời trước. Bọn họ đã chia chác nước Nga như là chia chác một tảng mỡ muối và bây giờ thì mỗi kẻ trong số đó đang trị vì lãnh địa của hắn như một bậc tiểu vương. Có thể, nếu cứ thế mà tiếp tục, chẳng mấy nỗi nữa nước Nga sẽ tan rã thành các công quốc riêng rẽ như trước thời bị Mông cổ xâm lăng. Cậu sẽ chẳng đạt được gì, nếu cứ lội ngược dòng, chỉ vơ về cả đống những chuyện khó chịu mà thôi.
- Cách đây chưa lâu tôi đã được nghe những chuyện đại loại như vậy. Điều đáng sợ nhất là anh hiểu rõ và lại còn làm việc phục vụ cho bọn họ.
- Bởi vì tớ là người khôn ngoan và tớ hiểu quyền lực cùng với tiền bạc nằm trong tay bọn họ. Cậu nghĩ là tớ yêu bọn họ sao ? Không, đương nhiên là không rồi, chỉ cần bọn họ mất đi
mảnh đất đặt chân, chỉ cần có kẻ nào đó mạnh hơn xuất hiện, tớ sẽ là người đầu tiên ném đá vào bọn họ ngay.
Gienia rút một điếu từ bao thuốc của Nikolaev nằm trên bàn, dùng bật lửa của Lconid châm và nói:
- Nhục thay cho lũ buôn lậu văn chương và báo chí. Cút xéo đi khỏi các hội sáng tác của chúng ta những thằng nhà báo bất tài và buôn lậu quảng cáo ngầm.
- Cậu cứ đùa với mọi chuyện, - Leonid quay lại Gienia, - cậu xem, tớ sống như thế nào. Đây này, cậu thấy không, - Leonid vén măng séc áo lên, - đồng hồ nhé. Giá nghìn đô đấy. Cứ tính đi, năm triệu rúp. Sơ mi - một trăm. Cà vạt cũng thế. Bộ vét và giày từ chính cái kho đồ Tổng thống vẫn mặc. Đấy, cần sống thế đấy.
- Thế cơ á ? - Gienia gục gặc đầu. - Đồng hồ của tớ ba lăm nghìn rúp. Quần bò mua mất năm đô hàng thanh lý. Đôi giày cũ còn từ thời trước khi Liên Xô tan rã năm chục rúp. Áo khoác và sơ mi, cũ trơ ra rồi, hàng Đức sang, "second hand" - như thiên hạ vẫn gọi ấy, ở quỹ trợ giúp xã hội, tớ mua sáu nghìn một ký. Một cái quần đùi trong cửa hàng bình thường tớ đã mua mất bốn nghìn rồi. Và cậu nghĩ, cậu hạnh phúc hơn tôi hả ?
- Cậu hiểu quái gì, cần phải sống đẹp.
- Ấy là thế nào ? Liếm đít cho cả bàn dân thiên hạ hả ? Cái tội đó trước tôi đã chả mắc, sao giờ lại phải mắc kia chứ ?
- Cậu ý nói là cậu già rồi ấy à ? Tớ đây mới là lão già, chỉ còn ba năm nữa là hưu. Dạy lại tớ bây giờ đã là khí muộn.
- Cậu chả phải là lão già, mà là con voi mamút. Một nhà báo đáng kính đầy mình kinh nghiệm trong cái nghề bất lương cổ xưa nhất này. Còn về chuyện học lại thì chẳng bao giờ muộn đâu. Và nữa, nhà kinh điển yêu dấu nhất một thời của cậu từng nói mãi là cần phải học, học nữa và học mãi đấy còn gì.
- Nói gì với các cậu đây, mấy anh chàng ngớ ngẩn, các cậu chả hiểu gì ở đời sất. Ta sống có một lần ! Và phải sống sao cho về sau không bị dằn vặt đớn đau vì những năm tháng đã sống hoài sống phí chứ. - Leonid uống cạn ly cô nhắc và đứng lên. - Thôi, tớ đi đây, một giờ nữa tớ có cảnh quay ở đài truyền hình. Chào nhé, các chàng ngốc !
- Chúng ta sẽ gặp nhau trên chiến lũy thì có ấy - Gie hét theo sau anh ta. Grigoriev đi lại gần bàn.
- Sao, cậu gặp "bạn" chưa ? - Nikolaev hỏi anh.
- Biết được cái gì hay ho không ?
- Không có thông tin. Cho tớ đi nhờ về văn phòng đi, nếu cậu có thể.
- Thế cũng gọi là bạn, - Sergei nhếch mép ngoa ngoắt.
- Thôi đi, cậu đừng ép tớ phải thương hại nữa. Mà tớ với cậu hình như còn là đối thủ cạnh tranh đấy. Từ lâu cậu đã chẳng dọa sẽ tìm ra tên tội phạm trong tác phẩm văn chương của cậu, mà tiện thể vạch mặt luôn cả tớ còn gì.
- Các cậu nói chuyện gì đấy ? - Gienia hỏi.
- Nói thế, - Nikolaev phẩy tay rời bàn đứng lên, - ai nói chuyện người ấy. Đi thôi. Chỉ có điều phải đổ xăng, không thì chả lết được về đến nhà đâu.
***
Marina gạt những mẩu báo cắt các bài đã đọc không biết bao lần về kẻ giết người không thể sa lưới qua một bên và ngồi thừ ra ngẫm nghĩ. Không có lấy một thông tin thực sự nào, toàn những chuyện dối trá, ngu ngốc của đám nhà báo, chẳng tìm kiếm được gì từ đấy cả. Qua chúng thậm chí không thể dựng lên được chân dung phỏng đoán của tên tội phạm, dù chỉ là tuổi tác và quy luật của hắn. Thông tin đăng tải trong mấy bài báo từ các nguồn hình như là nặc danh nói chung không có gì đáng tin cậy, và chắc chắn là chuyện bịa đặt của đám tác giả viết lách chỉ nhằm kích thích trí tưởng tượng của những bà nội trợ cả tin và các cô nữ sinh viên dễ kích động.
Còn mỗi một cách là nhờ cậy đến anh bạn Eduard thân thiết. Marina kéo máy điện thoại lại gần và bấm theo trí nhớ số điện thoại nhà của anh ta. Thật lạ, nhưng ống nghe lập tức được nhấc lên ngay.
- Tôi nghe đây.
- Chào anh Eduard, Marina đây.
- Chào người đẹp. Lâu lắm không được nghe được thấy cô.
- Anh là ông tu kín, nhà không có tivi, không có đài, có gì đáng ngạc nhiên ở đây đâu cơ chứ. - Công việc của tôi nó thế. Mà cả ở nhà tôi cũng hiếm khi có mặt. Cô ngẫu nhiên gặp được tôi đấy.
- Anh vẫn chưa bỏ thú tiêu khiển của mình chứ ?
- Thú gì ?
- Lập chân dung tâm lý ấy.
- Thỉnh thoảng vẫn nghịch đấy.
- Anh có nghe nói đến "Quỷ Râu Xanh" mới xuất hiện ở Matxcơva không ? - Chà, cô cứ làm như tôi là anh chàng mù tịt thông tin ấy. Ở phòng thí nghiệm chỗ chúng tôi các bà chỉ rặt nói chuyện hắn ta. Họ bắt tôi đọc hết các bài báo viết về hắn nữa. - Nghĩa là anh nắm được tình hình. Tôi muốn giá mà anh vẽ giúp cho tôi chân dung tâm lý của hắn.
- Cô cần cái đó làm gì ? Định viết tiểu thuyết chắc ?
- Cần.
- Thôi được. Nhất thiết phải viết ra hay qua điện thoại cũng được đây ? Nhưng cô để ý nhé, hai mươi ba phút nữa người ta sẽ ghé lại đón tôi rồi.
- Qua điện thoại đi. Nhưng anh đợi chút, giờ tôi bật ghi âm đã. - Marina tua lại băng trong máy trả lời tự động rồi nhấn nút ghi. - Xong, anh bắt đầu được rồi.
- Có gì mà phải bắt đầu đâu, một bệnh khoa điển hình, hết sức đầy đủ dành cho sinh viên năm thứ nhất ban tâm thần học. Có thể nói cái gì ngay lập tức ấy à ? Một cái gì đó về bề ngoài hả ? Hắn là đàn ông hoặc tự coi mình là thế. Chính cô cũng biết rằng không được loại trừ đám chuyển đổi giới tính, vì không hiếm gặp những trường hợp một kẻ nào đó sinh ra trên đời này với trạng thái tâm thần của giới tính đối lập. Lớn lên thiếu cha và từ hồi còn rất nhỏ đã là nhân
chứng một vụ bạo lực nào đó gây chấn động lớn. Cả lối bạo dâm mà hắn thực hiện cùng với các tội ác cũng chứng tỏ chuyện này. Tiến triển bệnh tâm thần do trải qua cú sốc đã có thể ngừng lại, ít ra là bề ngoài, vì có vẻ như trong khi sử dụng cơ chế ngụy trang chắc hẳn khá phát triển nơi hắn, bằng chứng là cho đến giờ hắn vẫn chưa bị tóm, thì kẻ sát nhân không có gì khác biệt với mọi người khác. Rất có thể, khả năng dễ thích ứng này thậm chí còn giúp con đường thăng tiến của khách hàng chúng ta và hắn chiếm giữ một nấc thang khá là cao trong xã hội. Điều thứ hai, toàn bộ chuyện này bằng cách nào đó có liên quan đến bà mẹ. Việc lựa chọn nạn nhân cho thấy như thế. Có thể hắn mồ côi, nhưng lỗi do bà ta. Còn có một khả năng thế này nữa là hắn ta có quan hệ tệ hại với bà mẹ, bà ta đánh đập hắn, rẻ rúng hắn.
Đây tất nhiên chỉ là bức vẽ tương đối, có thể nói là một bức phác họa, nhưng tôi không nghĩ nó khác xa với nguyên bản.
Xin lỗi vì những phân tích hơi ngắc ngứ và thiếu tuần tự nhé, nhưng cô không cho tôi thậm chí thời gian để chuẩn bị.
- Thế là đã cảm ơn anh lắm rồi. Anh đúng là bạn ruột của tôi, - Marina nói và tắt máy ghi âm. - Nghĩa là, anh cho rằng, vấn đề ở đây có sự xung khắc của hắn với bà mẹ ? - Chắc chắn, về nguyên tắc, như tôi đã nói rồi, có hai khả năng. Thứ nhất - bà ấy đã chết một cái chết kinh khủng ngay trước mắt hắn, và hắn, như kiểu trẻ con, không có ý thức, đang trả thù tất cả những phụ nữ còn lại trên đời vì bà ấy đã bỏ hắn lại một mình. Ở đây là một chuỗi xích rất phức tạp không thể giải thích ngay lập tức một lúc trên điện thoại được. Và khả năng thứ hai, nhưng không phải là khả năng chính - bà ấy còn sống và tiếp tục rẻ rúng hắn, còn tên sát nhân chuyển toàn bộ mối thù hằn tức tối đối với bà ấy sang các nạn nhân của mình. Có khả năng hắn không có năng lực hành vi với đàn bà - một gã bất lực. Cũng có thể là tác động đồng thời của tất cả các khả năng. Trong bất kỳ trường hợp nào, nếu là cảnh sát thì tôi sẽ tìm kiếm tên tội phạm trong số những đàn ông lớn lên thiếu cha. Bởi trong trường hợp này thói độc đoán và libido (khả năng tình dục) không được thỏa mãn của các bà mẹ cô đơn đạt đỉnh điểm, họ trút nỗi tức giận về tình cảnh thiếu thốn của mình lên con cái, và đến lượt mình điều này lại dẫn con trẻ đến suy đồi tâm lý nhân cách cục bộ hoặc hoàn toàn.
- Nhưng tại sao lại chỉ với các bà mẹ cô đơn mà thôi ?
- Bởi vì tôi chưa từng gặp những sự lệch lạc tương tự ở các trẻ lớn lên trong gia đình không trọn vẹn với chỉ một ông bố.
- Thế mà tôi cũng lớn lên trong gia đình không có bố đấy, mẹ tôi đã rời bỏ ông ấy hồi tôi mới lên ba.
- Cô vốn biết là tôi không bao giờ nói về những người đang có mặt cả mà. Và cô là một ngoại lệ chứng thực cho nguyên tắc ấy, Xin lỗi nhé, người ta đã đến đón tôi rồi. Tạm biệt ! Dầu thật là kỳ quặc, nhưng Eduard là người đàn ông duy nhất mà cô tin cậy hoàn toàn, có thể vì anh ta cũng giống như cô, thuộc về nhóm tình dục thiểu số, tuy nhiên khác với cô, anh ta không hề che giấu gì chuyện đó cả. Nhưng điều căn bản nhất là gần như trăm phần trăm những chẩn đoán của anh ta, ngay cả những chẩn đoán được lập không có mặt con bệnh, lại trùng khớp với các nghiên cứu bệnh lý được tiến hành về sau tại những trung tâm y khoa tiếng tăm nhất. Thiên hạ đổ xô nhau tìm đến với anh ta. Và nếu anh ta đã tuyên bố rằng vấn đề ở đây nằm ở bà mẹ của kẻ sát nhân-bạo dâm, thì ắt phải là như vậy. Cần phải tìm một gã đàn ông hoặc kẻ chuyển đổi giới tính đã lớn lên thiếu cha, mà có khả năng là thiếu cả mẹ nữa, một kẻ cực kỳ dễ
thích ứng trong bất cứ nhóm xã hội nào. Hình như Eduard đã nói như vậy. Trong buồng ngủ của Marina đang ngự trị một cảnh cục kỳ hỗn độn. Tất cả các cửa tủ quần áo mở tung, trên ngồn ngộn những đống váy áo và đồ lót đàn bà. Nữ chủ nhân căn hộ mặc độc quần lót chạy đi chạy lại giữa chiếc tủ tấm gương và cái giường, khi thì ướm thử, khi lại quẳng sang bên những áo, váy và các phụ tùng linh tinh khác của mình. Sau khi đã ướm hết theo lối đó toàn bộ những thứ treo trong tủ, cô mệt lử gieo mình nằm xuống cạnh giường. Đôi tay buông thõng giữa hai chân để xoạc ra. Mọi chuyện, nếu nói theo giọng Larixa thì quả là "ông chẳng bà chuộc chả ra sao". Ít nhất, Marina có cảm tưởng rằng những toan tính của cô cho "cuộc săn đêm" xem ra không đâu vào đâu cả.
Cô nhắm mắt lại và nằm ngửa trên cái giường rộng.
Có tiếng nhạc khe khẽ, ánh sáng dìu dịu, mùi hương thanh khiết của thứ nước hoa đem từ Paris về nhân sinh nhật của Larixa và giọng cô:
"Thân mình chị tuyệt quá, đôi tay và bờ môi này sao mà êm ái đến vậy. Ôi, em yêu chị biết nhường nào !"
"Và em sẽ không bỏ tôi để đến với bọn khách hàng nữa chứ ?"
"Không bao giờ. Giờ em sẽ vĩnh viễn ở lại với chị. Chỉ có chị với em thôi' - Larixa bắt đầu phủ những cái hôn lên thân thể Marina...
Chiếc đồng hồ báo thức trên tủ bỗng réo lên chói tai, rồi ngọn đèn chùm treo trên đầu bật sáng bừng.
Marina mở mắt và ngồi bật dậy trên giường, trong khi vẫn còn thở nặng nhọc. Mười rưỡi đêm.
Cô nhìn đống quần áo quăng bừa bãi, sau đó vớ tấm váy nằm bên trên, là thứ cuối cùng trong số cô đã ướm thử, nhặt chiếc kéo thợ may lăn lóc dưới sàn và lẹ làng, gần như chỉ bằng một động tác, xén nó ngắn gần phân nửa. Phủi qua mép váy bị cắt, Marina tròng vào rồi bước tới trước tấm gương.
Nhìn mình, cô thở dài, đây không phải là phương án tốt nhất, nhưng không có gì hơn thì đành phải dùng thứ ở trong tầm tay vậy. Marina sửa lại dây váy và đi vào buồng tắm. Sau mấy phút cô bước ra trong bộ đồ hết sức khiêu khích. Son môi rục rỡ, những vệt bóng đậm dưới mắt, phấn hồng giồi bự lại còn thêm cặp kính đen với mái tóc giả màu vàng hoe khiến cô có cảm tưởng không còn nhận ra được mình nữa. Marina ngắm lại mình trong gương, sửa món tóc trước trán, cầm chiếc xắc trên bàn, thả vào đó hộp xịt hơi cay, một gói bao cao su rồi, sau khi ném thêm một cái nhìn phê phán vào bản thân, cô bước ra khỏi nhà.
***
Marina lái xe chạy chậm, đưa mắt nhìn khắp phía và tính toán xem sẽ bắt đầu cuộc săn lùng kẻ giết cô bạn gái của mình từ đâu. Những biển quảng cáo lấp lánh muôn màu của các hãng nước ngoài và những quầy hàng được chiếu sáng rực rỡ của các cửa hàng đắt tiền phản chiếu lên mắt kính và các chi tiết bóng loáng của chiếc xe, làm lóa mắt và cản trở Marina nhìn rõ địa bàn hoạt động mới về đêm của mình. Cô chậm rãi chạy xe ngang qua một khách sạn du lịch nước ngoài, rẽ vào một ngõ tối và dừng lại. Khóa xe xong, cô bước ra đường phố sáng đèn.
Trước cửa một nhà hàng đêm và lối vào khách sạn đứng lô nhô hàng chục cô nàng ăn mặc
và trang điểm khiến người ta phải chắc mười mươi về nghề nghiệp và các thuộc tính “bướm đêm". Bên cạnh lởn vởn mấy gã trai trẻ lực lưỡng và gái làng chơi đã về vườn vồn vã chào mời hộ bọn gái. Liên tục xịch tới cửa khách sạn những chiếc xe cực kỳ choáng lộn chở các gã trẻ tuổi đầu húi trọc, và đám cò mồi dắt gái lại buộc phải xoắn xuýt không ngơi tay ngơi chân, ra sức tán tụng món hàng sống của mình. Tuy nhiên đám khách cũng chẳng để ý cò kè quá lắm mà vội quăng cho bọn chúng đôi trăm giắt lưng, kéo các cô ả lên ghế sau xe rồi lập tức rú ga vọt đi. Thời gian là tiền bạc, và cho đến lúc tàn đêm phải làm sao vắt cho kiệt từ những món đồ mới sở hữu đó toàn bộ những gì chúng có chứ. Và thậm chí hơn nữa...
Chỉ đến bây giờ Marina mói hiểu ra, cô đã chất lên mình cái nhiệm vụ thực sự khó hoàn thành đến chừng nào, nhưng cô đã thề trên di ảnh Larixa là sẽ tìm ra hắn. Thêm nữa hắn chỉ săn đuổi những gái làm tiền đơn độc mà thôi.
Marina tránh sang một bên và đứng cạnh một cột đèn. Lập tức nhao đến một gã đàn ông tuổi tầm năm mươi và thấp hơn cô gần một cái đầu. Liếc Marina bằng con mắt đánh giá xong, lão rút trong túi ra cuốn sách hội thoại và nói với cô bằng cái món hổ lốn tiếng Đức lẫn tiếng Nga trọ trẹ:
- Entusulidigung fray, cô có thể qua đêm với tôi được không ?
Marina lắc đầu từ chối và quay đi. Gã đàn ông bỏ đi nhưng vẫn tiếp tục ngoái nhìn cô. Từ cửa khách sạn ào ra hai anh chàng to lớn mặc áo sơ mi ngắn tay, cúc mở phanh đến tận rốn. Trông dáng rõ là đã ngấm men. Họ cười và líu lô cái gì đó bằng tiếng của mình, có lẽ là tiếng Phần Lan hay Thụy Điển, nghênh ngó xung quanh rồi tiến thẳng đến chỗ Marina. Một trong hai anh chàng nói với cô bằng tiếng Pháp:
- Madam, vous êtes libré ?
- Excusez-moi, je suis occupéé - Marina cũng đáp lại họ bằng thứ tiếng ấy. Cô không cần các du khách nước ngoài đến Nga một tuần, cô đi tìm tên sát nhân, còn hắn thì đã sang tháng thứ ba viết lên lịch "con số quỷ dữ" bằng cái chết của những cô gái điếm. Và để chắc chắn nhất, cần phải tìm hắn trong số những kẻ nói tiếng Nga lưu loát kia.
Mấy gã trai trẻ nhún vai, lại gần đám đàn bà bắt gặp đầu tiên, lập tức vớ hai ả điếm và biến đi cùng họ vào bên trong cửa khách sạn.
Thêm hai người nước ngoài nữa lần lượt lại chỗ Marina nhưng đều bị cô từ chối. Một ả trong đám đang đứng cùng mấy gã thanh niên chỉ tay về phía Marina. Từ nhóm tách ra một tên, và vừa khoe gân bắp hắn vừa tiến lại gần Marina.
- Nghe đây, tốt nhất là hãy biến đi. Bằng không chúng ông cho đi đời cái face đấy. Marina nhìn con bò mộng mập ú, cái hàm dưới to tướng và hai con mắt bé sâu hoắm của hắn, im lặng quay lưng bước dọc theo con phố.
- Cái bọn quê này toàn phá giá, - quay lại chỗ bọn đồng nghiệp, gã dắt gái nói. - Khi cần thì chẳng có thằng "cớm" nào bên cạnh cả. Bọn ta trả tiền vì cái gì nhỉ ?
Hai ả điếm đứng cạnh gã nhất loạt phá lên cười.
Từ trong cửa nhà hàng lắc lư bước ra một người đàn ông và dừng lại cạnh một bà ăn xin muộn mằn đang ngồi cách cửa không xa. Ông ta đếm loẹt xoẹt mãi cả một tệp tiền, cuối cùng tìm được tờ nhỏ nhất 50 đô, dúi nó cho bà ăn xin rồi lê tiếp bằng cái dáng đi xiêu vẹo chập choạng, dọc theo dãy quầy hàng được chiếu sáng rực rỡ.
- Úi chà, - một ả điếm thúc khuỷu tay sang cô bạn và hất đầu về phía bà ăn mày, - mụ kia chỉ một phút đã kiếm được nhiều hơn so với tao cả giờ.
- Đúng là thằng ngu, giá mà hắn mướn tao có tốt hơn không !
Gã bảo kê cũng ngoái lại, nhìn bộ đồ rách rưới của bà ăn xin, nhe răng ra bảo: - Bộ cánh của mụ ấy thế mà độc. Với những thứ của các cô có nhẽ mụ ấy cũng chả kiếm được khá hơn.
- Nhưng mà em toàn trần truồng làm việc đấy chứ.
- Hay lắm, - một gái điếm hất đầu về phía người đàn ông say đang chệnh choạng bước xa dần, - chả biết lão ấy có đi xa nổi với đống tiền như vậy không nhỉ ?
Và như đáp lại lời của ả, từ nhà hàng vọt ra bốn tên trẻ tuổi, ngó ngó nghiêng nghiêng có vẻ băn khoăn. Một tên trong số chúng đã nhìn thấy cái bóng đang xa dần, hắn giơ ngón tay lên chỉ vào nó và lao ra xe. Hai thằng khác vội vàng bước lẹ theo người đàn ông. Tên thứ tư, mặc trang phục phụ trách hầu bàn hoặc chính là hầu bàn, phóng ánh nhìn gian giảo ra các phía rồi lại khuất vào sau cánh cửa kính.
- Chà, - ả điếm thốt ra vẻ tiếc rẻ, - thà lão ấy mướn tao còn hơn, tao nhất định sẽ phục vụ lão ấy đến nơi đến chốn.
- Rồi mày khoắng sạch túi người ta, - ả thứ hai đế vào và bắt đầu đọc một bản kinh cầu hồn xuyên tạc bằng cái giọng mũi nghèn nghẹt: - chúng tôi tiếc thương kẻ nô lệ tội lỗi hãy để lòng đất...
- Câm đi, đồ ngu, - gã bảo kê quát ả, - nếu mày không muốn phải đi theo thằng cha ấy. Ả điếm cau mặt không vừa lòng và ngoảnh đi.
***
Marina đi thong thả, chiếc túi xách khẽ vung vẩy trong tay, qua những quầy kính cửa hàng rực rỡ ánh đèn. Cứ sau mỗi mươi, mười lăm bước cô dừng lại ngắm nghía các thứ hàng hóa trưng bày bên trong đó. Thỉnh thoảng cô bắt gặp những khách bộ hành đơn độc đi ngược chiều. Cánh đàn ông ném lên cô ánh nhìn đánh giá, nhưng không ai bước lại gần. E rằng có cái gì đó không ổn lắm trong bộ cánh giả điếm của cô. Không phải tự dưng mà mấy cô nàng đứng gần khách sạn gọi cô là đồ tỉnh lẻ và nhà quê. Cần phải xem kỹ hơn lối ăn mặc của bọn họ để lần sau không sơ hở như thế nữa.
Trong cửa hàng đêm bước ra một ông say rượu ôm hai chai vốt ca. Ông ta dừng bước cạnh Marina và nhìn cô chằm chặp.
- Ông cần gì ? - cô hỏi.
- Này, cô biết không, cô rất giống với một ca sĩ. Tôi thích cô ta ghê gớm.
- Ông anh, tỉnh lại đi, - cố ý đổi giọng, Marina cất tiếng khàn khàn nói. - Mà nếu có là ca sĩ, tôi lại loanh quanh ở đây chắc ? Lúc ấy hẳn tôi đã kiếm cho mình một ông mông bự ních đầy đô-la và cưỡi chiếc "Merc" kia kìa, - cô hất đầu về phía chiếc Mercedes thể thao mở toang cửa đỗ đối diện cửa hàng đêm.
- Ai biết được, - ông say lắc lư đầu, - những con đường của Chúa là vô định. Đấy, như tôi giờ
đang làm gì ở đây ? Tôi có đủ thứ: vợ đẹp con khôn, xe xịn, việc làm tử tế, nhà nghỉ ngoại ô, tiền bạc. Nhưng vẫn thiếu một cái gì đó... Cô biết không, hồi ở Afganistan tôi còn hạnh phúc hơn. Còn bây giờ... Chẳng có gì giúp ích được. Ngày nào tôi cũng uống bét nhè ra rồi phóng xe trên những phố đêm. Ôi, nói làm gì, - ông ta phẩy tay và liêu xiêu đến gần chiếc xe hơi đỗ trên vỉa hè.
- Có lẽ ông không nên lái xe trong bộ dạng đó đâu, - Marina hét theo sau, nhưng ông ta không nghe thấy hoặc không muốn nghe cô.
Cửa sập lại, và chiếc Mercedes rú ga vọt đi. Marina đưa mắt theo chiếc xe với gã lái xe tự sát và lại tiếp tục chuyến chơi đêm dọc theo các quầy hàng sáng rực rỡ để chờ vị khách hàng duy nhất của mình.
Mưa bắt đầu rơi lâm thâm. Bầu trời phía Đông hửng lên và nhuốm màu đỏ phớt. Marina liếc đồng hồ. 4 giờ 15 phút. Có vẻ như tên sát nhân của Larixa hôm nay gặp may. "Đêm săn" thứ nhất đã trôi qua cực kỳ thiếu may mắn đối với Marina, nhưng dẫu sao cô cũng đã rút ra được một cái gì đó. Cần chú ý hơn đến trang phục và gắng làm sao cho những trường hợp nhận ra tương tự ngoài phố như với ông say vừa rồi không lặp lại nữa.
Marina lấy chiếc ô gấp trong túi ra, giương lên và đi về phía chiếc xe của mình, kéo lệt xệt đôi giày gót nhọn mới chốc lát đã kịp sũng nước trên nền đường nhựa ướt loáng in bóng những biển hiệu quảng cáo nê ông của các cửa hàng.
***
Nikolaev mở rộng tờ báo. Hôm nay, mồng 7 tháng Sáu, trên trang nhất là những thông tin về tiến trình vận động tranh cử và vụ đàn áp một chủ nhà băng tiếp theo. Dân chúng thì đã quá quen với các tai họa loại này, đến mức thậm chí còn ngạc nhiên không hiểu tại sao những sự kiện kiểu đó trong cuộc sống thường nhật của chúng ta luôn cố nhoi lên những trang đầu mặt báo mà không được in bằng một cỡ chữ nhỏ ở trang cuối cùng với bản tin dự báo thời tiết.
"Thế đấy, - Nikolaev nhếch mép, - cuối cùng thì rốt cuộc các ông chủ nhà băng bốc đồng của chúng ta đã phải nếm quả đẫm máu do thói ưa ba hoa về những món tích lũy tư bản phạm tội ban đầu của mình rồi. Đúng là một lũ ngu, thay vì rước lấy một ông nhà văn kha khá, chi ra một khoản tương xứng và nài nỉ ông ta viết cho cái truyện dài về một chủ nhà băng trung hậu, mướt mồ hôi mới kiếm nổi cho mình ổ bánh mì đen, họ lại đi ưỡn ngực trên màn hình tivi trước dân chúng đang đói khát để nói về thu nhập của mình và những thứ mỹ miều của chế độ tư bản. Thiên hạ nói không sai, để đổi lấy tiền, quỷ sứ tước đi ở con người không chỉ tâm hồn mà cả lý trí. Và trước những bản mặt được chăm chút, nâng niu bự mỡ của đám người ấy thì cánh tay bất cứ người Nga nào cũng chỉ muốn vớ lấy một chiếc rìu, để dẫu là bằng cách thức đó lập tức chấm dứt tất cả mọi vấn đề tài chính của bản thân và với một chiếc thìa to tướng trong tay được ghé xuống dự phần cùng những cái miệng háu ăn đang quây quần quanh chiếc chảo tội phạm khổng lồ. Thêm nữa, cách thức làm giàu kiểu đó thậm chí còn được khuyến khích qua sự đồng tình im lặng từ phía các nhà cầm quyền của cái thiên đường tư bản chủ nghĩa mới ra lò của chúng ta nữa. Và a lê hấp, tiến tới thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản ! Xin lỗi, phải nói cho đúng hơn, - tới thắng lợi của chủ nghĩa tư bản tội phạm Nga tại một đất nước tách biệt và trên toàn thế giới chứ ! Hoan hô !"
Mẩu tin "Thêm một nạn nhân của tên bạo dâm ở Matxcơva" được đặt "cuối" trang nhất
cùng bản tin vắn về các biến cố trong ngày. Nhiều khả năng là có kẻ nào đó ở trên đã mạnh tay ép tổng biên tập tờ báo. Những bản tin kiểu đó không sao ăn khớp được với những lời tán tụng công khai và giả dối dành cho những nhà quản lý đất nước đang xuất hiện ngày càng thường xuyên hơn trên báo chí vì lý do rằng sự sung túc của dân chúng nước Nga dường như đang tăng lên mỗi ngày cùng với sự xích lại gần của kỳ hạn bầu cử.
Nikolaev chăm chú đọc mẩu tin về vụ giết hại cô gái điếm. Phải, Marina đã đúng khi tuyên bố với Grigoriev vào ngày hôm qua rằng cô đã tìm ra sơ đồ diễn tiến của các vụ giết người. Thật thú vị, không biết hôm nay anh chàng Grigoriev sẽ nói gì nhỉ ? Phải gọi điện cho anh ta và hỏi chuyện này mới được.
Nikolaev đi ra căn bếp chung lấy máy mang về phòng mình và quay số điện thoại cơ quan của trưởng nhóm điều tra. Ông nghe được nhấc ngay sau tiếng chuông đầu tiên. - Xin chào, tôi gặp anh Grigoriev được không ?
- Tôi nghe.
- Nikolaev đây mà.
- Ừ, tớ nghe đây, - Grigoriev thốt lên giọng mệt mỏi.
- Này, bây giờ cậu nói gì về giả thuyết của Marina nào ? Hóa ra cô ta là đúng, và lời tiên đoán đã thành sự thật rồi đấy.
- Vẫn như lần trước thời, tớ không rỗi để đi nghe hết những chuyện vô lý của các vị. Chẳng thế tớ đây cũng đã bận rã rời.
- Cậu cho đó là trùng hợp ngẫu nhiên ?
- Tớ chẳng cho là gì hết. Xin lỗi cậu, tớ bị sếp gọi rồi, - Grigoriev nói và bỏ máy. - Có gì mới không, anh Grigoriev ? - Koroviev ngồi cạnh bàn hỏi trưởng nhóm điều tra. - Không, cậu nhà báo gọi ấy mà. Trong câu chuyện với những con số kiểu này tôi chỉ còn thiếu mỗi ông nhà văn nữa.
- Phải sửa cho lão nhà văn viết cái truyện ngắn về tuyến 666 một trận đến nơi đến chốn chứ, quỷ tha ma bắt lão ta, viết những chuyện kinh dị thế kia, lại còn đăng trước kỳ bầu cử. Không có thế, thì với những vụ chưa phá xong bọn mình đã nếm đủ với các ông ứng cử viên Tổng thống rồi, mà nay lại lòi ra thêm gã cuồng này nữa. Trước đây thế mà hay, kiểm duyệt không cho lọt lên báo những thứ nhảm nhí, vớ vẩn. Một nửa dân chúng đã đủ bấn loạn với cuộc sống thời buổi này của chúng ta rồi còn đọc xong những cái truyện ngắn kiểu kia thì các công dân bảy mươi năm sống dưới chính quyền Xô viết chỉ quen với văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa và các loại chuyện kinh dị có chừng mực quả đúng là có thể tự mình gây ra một thứ gì đó đại loại.
- Cậu nghĩ xấu về nhân dân mình đấy, - nhíu mày, Grigoriev gõ gõ lên bàn. - Thì chính anh, Grigoriev, anh đã nói là...
- Thiếu gì cái tôi đã nói, - trưởng nhóm điều tra cắt ngang. - Nhiệm vụ nhận rồi, cậu đi làm việc đi chứ. À, tiện thể, cậu đã thu thập hết sổ ghi chép của những người chết chưa đấy ? - Rồi ạ, giờ này thông tin đang được nạp vào máy tính. Một vài cô điếm trong đám ấy chữ xấu y như mấy ông nhà văn, đến mức chẳng hiểu được gì cả.
- Cái chính nhất là số điện thoại. Nhớ nhắc lập trình viên là một số người trong đám đó có
thói quen thay đổi những số đầu và cuối trong số điện thoại hoặc là thêm vào một số nào đó đấy nhé. Để anh ta kiểm tra luôn cả các phương án đó.
- Sẽ làm ạ, thưa anh Grigoriev. Nhưng tôi nghĩ, không có chúng ta, anh ấy cũng đã biết. - Đi làm việc đi, cứ lý sự mãi ! Và khắc vào cái đầu cậu đây: đừng có giơ những lý thuyết này nọ ra với tôi, việc của cậu là thực hiện và theo dõi để mệnh lệnh của tôi được thực hiện chính xác và đúng thời hạn. Hết, thôi biến đi ! - Grigoriev ngả người ra lưng ghế, khoanh tay sau đầu và ngẫm nghĩ.
Họ đã bỏ sót ở đâu đó, một cái gì đó. Có thể cần phải gặp tay tác giả cái truyện ngắn về tuyến 666 này. Hoàn toàn có khả năng là ông ta nghe được đâu đó, từ một ai đó câu chuyện này, và điều đó sẽ dẫn chúng ta đến dấu vết mới chăng ? Không, toàn bộ điều đó là vớ vẩn, nói đúng hơn đó là việc của một tên trốn nhà thương điên nào đó. Hiện nay trên lãnh thổ của Liên bang cũ có vô số nhà thương điên và bệnh viện tâm thần bị vỡ. Vậy là hắn trốn từ một trong số các nhà thương, bệnh viện đó. Hắn đã tới Matxcova, rồi một ả điếm làm hắn phật ý, vậy là hắn lao vào diệt họ chẳng kén chọn gì, còn chúng ta lại đi tìm kiếm một logic nào đó trong các hành động của hắn. Thế nhưng làm sao lý giải được chuyện ba con số sáu và chiếc xe mà hắn đang đi ? Không, tất cả thật là hoang đường. Cứ thế này thì đến mình cũng có thể hóa điên lên mất.
***
Chiếc máy điện thoại im lặng suốt ngày cuối cùng cũng phát ra những dấu hiệu của sự sống. Marina đặt cuốn sách sang một bên và nhấc ống nghe.
Đó là Xemenovich, ông ta hỏi thăm sức khỏe của cô và quan tâm liệu cô có thể có mặt tại buổi biểu diễn ngày hôm nay không.
- Tôi cảm thấy đã khá hơn... Không, không, sẽ không lặp lại như thế nữa đâu... Được rồi, ông cứ cho người đón tôi lúc sáu giờ... Đúng, như mọi khi.
Marina đặt ống nghe và lại gần tấm lịch treo tường với các ngày đã xảy ra hoặc dự đoán sẽ xảy ra vụ giết người được khoanh tròn hoặc đánh dấu chữ thập tạo thành bức tranh ba con số sáu. Bên cạnh, trong một chiếc khung đen, treo bức ảnh Larixa. Cô lấy ngón tay khoanh tròn con số của ngày hôm nay. Hôm nay, sau buổi biểu diễn cô lại có thêm một đêm săn con quái vật đội lốt người này.
Nhưng tại sao cô nghĩ hắn thực hiện những vụ giết người của hắn dưới lốt người nhỉ ? Nhỡ đó là một con ma sói nào thì sao ? Hay một linh hồn sa đọa chui vào thân thể một gã thị dân bình thường dâm đãng ? Mà có thể, đó chính là Satan ? Một con người, trong lúc không hề ngờ quỷ sứ ngự trong mình, đã rước lấy một ả điếm, dẫn ả ta đến một nơi vắng vẻ, và rồi tại đây đích thân Satan xuất hiện ? Phải, tại sao cô lại nghĩ Satan tự mình không thể chài đàn bà mà phải cần đến một tên cò mồi kia chứ ? Chính trong Kinh Thánh, một nhà tiên tri chẳng đã phán rằng nó đẹp tuyệt và gần như là đứa con được yêu thương nhất của Chúa đấy thôi ?
Cô lại đi văng, cầm cuốn sách Con người và ác quỷ mà hôm nay cô đã ra sức nghiền ngẫm để hiểu sự khác nhau giữa thiên thần với những linh hồn sa ngã, mở trang cần đọc, và không biết đã là lần thứ mấy trong ngày, lại đọc lời của một trong các đấng tiên tri đã viết khúc ai ca về Satan:
"Ngươi là dấu ấn của toàn hảo, là toàn vẹn của thông thái và vòng miện của sắc đẹp. Ngươi
ở Địa đàng, trong vườn Chúa... Ngươi đã toàn hảo trong những con đường của ngươi, chừng nào nơi ngươi chưa có sự phạm luật... Bởi sắc đẹp của ngươi mà trái tim ngươi thành kiêu ngạo, bởi thói hiếu danh của ngươi, ngươi hủy diệt sự thông tuệ của ngươi; nên ta đày ngươi xuống hạ giới".
Nói tóm lại, Chúa và Satan đã chia rẽ vì các động cơ chính trị.
Marina gấp sách, cần phải chấm dứt những chuyện tưởng tượng hoang đường này. Xem nhiều phim kinh dị nước ngoài quá, nên bây giờ cái vớ vẩn gì cũng chen vào đầu được. Nhưng cây thánh giá nhỏ bằng bạc thì cô nhất thiết sẽ mang theo mình. Quỷ sứ có chừa ai ra không đùa đâu cơ chứ.
Cô để cuốn sách lên bàn, co chân ngồi xuống đi văng và ôm hai vai. Từ sáng sớm ngày hôm nay cô đã thấy hơi run. Cảm giác này gợi cô nhớ lại những cơn run trước mỗi lần xuất phát quan trọng hồi còn là vận động viên thể thao trước đây.
Thậm chí đêm qua, lần đầu tiên Marina trang bị đầy đủ để bước vào "cuộc chiến", cô cũng chưa hề cảm thấy nó. Không đó không phải là run sợ, mà là một cơn điên giận. Một con điên giận tột độ và nỗi khát khao trả thù đến mức Marina cảm thấy sợ chính mình.
Chúa ơi, cô sẽ làm gì với tên súc sinh đó ? Chỉ cần hắn lọt vào tay cô, cô sẽ dứt khoát không gọi cảnh sát. Cô sẽ phụt vào mặt đồ quái thai đó một luồng hơi cay, dứt tận rễ món hạ bộ của hắn rồi nhét lại vào mồm hắn và để lại cho đám điều tra viên ngu ngốc mẩu giấy:"Hãy nhận lấy tên Quỷ Râu Xanh của các anh đi !". Nhưng thế này thì hơn: "Bây giờ hắn sẽ không giết thêm được ai nừa". Không, cũng không phải thế. Một âm thanh cản Marina tập trung suy nghĩ. Mãi một lúc cô mới hiểu ra là tiếng chuông điện thoại.
Marina nhấc ống nghe.
- Chào chị, tôi là Nikolaev. Có lẽ tên của tôi không nói được gì với chị, nhưng chúng ta đã gặp nhau ở căn hộ cô bạn gái của chị và ở đồn cảnh sát rồi. Tôi ở đó cùng điều tra viên Grigoriev. Chị đã nói về ba con số sáu ở trên tờ lịch. Tôi rất muốn được trò chuyện với chị về chúng, vấn đề ở chỗ tôi là một nhà văn và nhà báo, đang thu thập tư liệu cho cuốn truyện dài của mình, và kế hoạch săn lùng tên tội phạm của chi làm tôi hết sức quan tâm.
- Sao tôi không nhớ gì về anh nhỉ ?
- A, lúc đó tôi là anh đàn ông dáng cao, cân đối, tóc màu hạt dẻ, đeo kính râm và mặc áo khoác vải bò ấy.
- Thế bây giờ thì anh là thế nào đấy ?
- Bây giờ ấy à ? - người đối thoại với Marina ở đầu dây bên kia ngẫm nghĩ mấy tích tắc. - Bây giờ tôi là một anh chàng tóc đen bé tí teo, có bộ râu xanh lè, mặc áo lính thủy và váy Scotland. Chị đồng ý nhanh nhanh lên chứ, kẻo người ta đang chỉ trỏ tôi, ngỡ tôi là một món đồ chơi đây này. Vả lại đứng nhón chân trên thùng giấy các tông ở trong buồng điện thoại nhọc lắm. Mà cả cái ống nghe quỷ sứ này nữa, nó cứ chực tuột khỏi mấy ngón tay bé tí xíu của tôi thôi.
- Tôi nhớ ra anh rồi. Có mấy lần anh định nói chêm vào thì bị ông điều tra viên nhìn trừng trừng dữ tợn nên quyết định làm thinh là hơn. Được, tôi còn một ít thời gian rỗi. Anh biết địa chỉ chứ ?
- Vâng, tôi đã ghi phòng xa hôm chị đến nhận dạng tử thi.
- Cổng số hai, tầng tám. Tôi chờ, - Marina nói và gác máy.
***
Nikolaev đi thang máy lên tầng tám, liếc lại một lần nữa vào quyển sổ, rồi sau khi chắc chắn không có gì nhầm lẫn, anh nhấn nút chuông. Bên trong cửa vang lên một hồi chuông du dương, sau đó có tiếng bước chân, tiếng lách cách ổ khóa và trên ngưỡng cửa xuất hiện Marina. Cô mặc quần bò màu xanh nhạt và một chiếc sơ mi kẻ cùng tông màu.
"Rất dân chủ", - Nikolaev thầm nghĩ, nhưng trước mắt anh vẫn hiện lên hình ảnh người phụ nữ kia, ở đồn cảnh sát, trong bộ áo váy đắt tiền sang trọng.
- Thế đấy, - Nikolaev mỉm cười, - dù báo chí có cảnh báo các vị bao nhiêu đi chăng nữa, rằng trước khi mở cửa ít ra cũng phải quan tâm xem là ai đang đứng bên ngoài, thì cùng chẳng ai chịu lắng nghe lời khuyên bảo cả. Ấy thế mà tên cuồng sát lại đang dạo chơi ngoài phố đấy.
- Hắn đi dạo ban đêm, mà tôi thì không đọc báo và không nghe lời khuyên của người khác. Mời anh vào.
Nikolaev cởi giày để ở phòng ngoài rồi theo sau chủ nhà đi vào phòng khách. Trên chiếc bàn nhỏ ngồn ngộn một chồng báo và những mẩu báo cắt.
- Một đống giấy thế này không thể bảo rằng chị không quan tâm đến báo chí. - Chỉ về tên cuồng này thôi. Và anh biết vì sao rồi. Mời anh ngồi, - Marina chỉ vào chiếc ghế bành, còn chính mình thì co chân ngồi lên đi văng.
Nikolaev ngồi xuống đưa mắt ngắm nghía phòng khách. Bài trí và giấy bồi ở đây không khác mấy so với lối sắp đặt trong căn hộ của cô Larixa quá cố, nhưng toàn bộ đồ đạc ở đây đều cao cấp hơn và được chọn lựa với khiếu thẩm mỹ cao. Dường như người quá cố, do chẳng có chút thẩm mỹ sơ đẳng nào, chỉ cố để bắt chước cho giống người bạn gái của mình.
- Vậy anh muốn nói với tôi về chuyện gì ? - Marina lên tiếng trước, phá vỡ sự im lặng. - Xin lỗi chị, tôi mải nghĩ quá. Thực sự là tôi muốn hỏi, làm sao mà chị đi tới được kết luận rằng tên cuồng sát viết các "con số quỷ" bằng những vụ giết người ?
- Sao ư ? - Marina trầm ngâm giây lát. - Đơn giản là khác với ông điều tra viên bạn của anh, tôi hiểu rằng tên tội phạm ấy gán cho tất cả các vụ giết người và những ngôi sao trên thi thể người chết một ý nghĩa ma thuật nào đó. Tôi đã thử cố tìm một lời giải, một chiếc chìa khóa, một lối mòn, anh có thể gọi thế nào thì tùy anh, có thể dẫn dắt tôi đến với tên giết người, buộc tôi hiểu được hệ động cơ trong các hành động của hắn. Tôi giải thích có rõ không ?
- Vâng rất tốt. - Nikolaov gật đầu. Chị nói tiếp đi, tôi đang rất thú vị với dòng ý tưởng của chị.
- Tất cả chỉ thế thôi.
- Sao, chị chỉ khoanh tròn ngày tháng, nối lại và có ngay được ba con số sáu ? - Tất nhiên là không rồi. Ban đầu tôi có cảm tưởng rằng vấn đề là ở chỗ tìm chúng ở đâu, sau đó thoáng nghĩ rằng chuyện này có vẻ liên quan đến các tuần trăng. Nói đúng hơn là với thời điểm trăng tròn, khi một số người bệnh tâm thần trở nên đặc biệt kích động. Sau vài lần thất bại tôi đã xác định được lịch biểu của con số này. Này, nói chung chỉ có thế thôi. - Là tôi chắc chẳng bao giờ đoán nổi, mặc dù theo cách của riêng mình tôi cũng đang săn tìm hung thủ.
- Anh làm báo à ?
- Không, hiện giờ tôi là nhà văn hơn là nhà báo, và tôi muốn trên tư liệu này viết một truyện trinh thám về hoạt động của các cơ quan báo vệ pháp luật. Theo tôi, trong các cuộc điều tra như thế này mọi khiếm khuyết trong công tác của các cơ cấu nhà nước ta lộ ra rất rõ. Nhiều người đã không còn nghi ngờ chút nào về hoạt động kém hiệu quả của chúng trong tình hình phát triển xã hội hiện nay và đang đòi hỏi một cuộc cải cách tận gốc rễ tất cả các cơ quan.
- Thế thì cái anh muốn viết không đơn thuần là một cuốn tiểu thuyết trinh thám, mà là một cuốn truyện phê phán hoạt động các cơ quan của chúng tôi phải không ? Và sau đó họ vẫn cho anh gặp mặt trong các vụ điều tra và nhúng mũi anh vào khắp mọi nơi sao ? Tôi xin lỗi nếu anh nghe không được lọt tai, nhưng tôi nghĩ, nói như thế mới truyền đạt được hết ý nghĩa câu hỏi của mình,
- Không sao. Còn nói họ cho thò mũi vào khắp nơi thì quả là phóng đại. Chính chị đã chứng kiến rồi đấy. Tôi cũng phải tỏ ra có độc lập trong hoạt động và một sự tò mò không lành mạnh lắm, như trong trường hợp này ấy. Bởi thực ra tôi không viết một bài báo bình thường chỉ trích các cơ quan của chúng ta, mà là một tác phẩm nghệ thuật.
- Hiểu rồi. Thế anh còn làm gì, viết gì nữa, ngoài chuyện săn da đầu Quỷ Râu Xanh không ? - Ồ, tôi không gọi nó như thế. Mà nói chung, bây giờ tôi đang "đào" dưới điện Kremli kia. - Thế là thế nào ?
- Tôi đang viết truyện dài về một trong những bí mật khủng khiếp nhất của điện Kremli. Các sự kiện phát triển trong một không gian trải từ nước Nga sang tận Italia. Câu chuyện khá hấp dẫn và bí ẩn. Nó thậm chí có những điểm gặp gỡ với câu chuyện hiện thời về tên cuồng sát. Ít nhất là ở đây và ở đó đều có nhắc đến "con số quỷ". Nếu chị thích thú và có thì giờ, tôi có thể kể chị nghe tóm lược cốt truyện của nó.
- Tôi rất sẵn lòng.
Nikolaev xoay người ngồi thoải mái hơn trong ghế bành và bắt đầu câu chuyện của anh: - Có thể nói không hề phóng đại rằng, khởi đầu cho câu chuyện này, chính xác hơn, cốt truyện cho cuốn truyện mới này của tôi là chuyện kể của một anh lính bộ binh người Latvia và một món đồ lạ lùng mà tôi đã mua được. Tuy nhiên, chúng ta sẽ bắt đầu tất cả một cách tuần tự. Hồi đó, khi tôi hãy còn sống ở vùng Pribaltich... À, còn chuyện tôi có mặt ở Matxcơva hoàn toàn ngẫu nhiên, do một vụ trao đổi và do là tôi bị người ta đuổi cổ, như một "tên Nga chiếm đóng", khỏi xứ Latvia, nơi tôi đã trót bất cẩn mà ra đời. Vậy là ở đó tôi may mắn quen một ông hồng quân người Latvia từng phục vụ ở điện Kremli, trong đội cảnh vệ riêng của Lenin. Khi đó tại Pribaltich người ta đang phá hết các tượng đài của ông ấy. Nhưng chính ra là nhờ có Lênin và "hòa ước Brest" mà Latvia, Litva và cả Estonia nữa, mới có thể giành được độc lập sau cách mạng năm mười bảy chứ. Quả là một sự vô ơn bạc bẽo ! Còn ở Phần Lan, dân chúng lại hết sức hân hoan dựng tượng đài vị ân nhân đã giải phóng họ khỏi "ách nô lệ Nga". Thôi, đấy là một câu chuyện riêng, cũng như chuyện các hồng quân người Latvia sau Cách mạng tháng Mười đã tiêu diệt bằng ấy trí thức Nga ấy, cho đến bây giờ những người biết chuyện tóc gáy vẫn còn dựng ngược cả lên. Con số lên đến hàng triệu kia. Cho đến tận lúc chết, mỗi khi nhắc tên cái ông chính ủy thanh liêm Berzinis đã tự tay bắn chết các sĩ quan và đám "tư sản", kể cả trẻ con ở Petérburg, bà nội tôi vẫn còn phải dùng tới validon mới ngủ được. Vậy thì ai phải tính sổ và tính sổ với ai, là chúng ta với người Latvia hay là họ với chúng ta nào ?
- Anh nhận xét họ có vẻ độc địa.
- Không hề, phần lớn người quen biết và bạn bè của tôi ở đó toàn là người Latvia. Chỉ không phải là các ông bí thư đảng đã tức tốc nhuộm lại màu từ các nhà quốc tế chủ nghĩa sang các nhà dân tộc chủ nghĩa nghiệt ngã, mà là những người lao động bình thường. Và nói về họ, như là về những con người và những nhà chuyên môn, tôi không thể nói gì khác ngoài những điều tốt đẹp. Đơn giản tôi không thích, khi mà dưới sự che đậy của những khẩu hiệu cao cả về độc lập, mà chuyện này xảy ra không chỉ ở Latvia, một dân tộc tìm cách tồn tại dựa trên áp bức hay tước đoạt những quyền nào đó của các nhóm cư dân khác.
- Có thể anh đúng và hiểu rõ hơn tôi về vấn đề này.
- Thôi vậy, - Nikolaev phẩy tay, - sao tôi lại lan man thế nhỉ ? Tôi định kể với chị về một bí mật của Kremli bị người ta ra sức che giấu đã nhiều thế kỷ kia mà. Vấn đề là... Đúng lúc đó có tiếng chuông vang lên ở phòng ngoài.
- Xin lỗi, - Marina rời đi văng đứng lên và đi ra mở cửa.
- Xin chào, - giọng Grigoriev vang lên, và sau một giây đúng là anh mọc lên trên ngưỡng cửa phòng khách.
- Chào, - Nikolaev gật đầu với anh.
- Ấy, tớ đi ngang qua, thấy chiếc xe cà khổ của cậu đang đỗ, thế là nghĩ bụng, ờ ghé qua một tí vậy. Có thể là cậu đã tìm kiếm được chuyện gì đó mới. Tôi không quấy rối cuộc đàm đạo của các vị chứ ? - Grigoriev hỏi nữ chủ nhà, mặc dù xem ra thì dù người ta có bảo là quấy rầy, chắc chắn anh ta cũng sẽ không bỏ đi đâu hết.
- Không, - Marina lại ngồi lên đi văng. - Mời anh ngồi. Bạn của anh đang kể tôi nghe cốt truyện tác phẩm mới của anh ấy.
- Thật ư ? Thú vị quá, - ngồi giạng chân xuống chiếc ghế bành, Grigoriev nói. - Vừa may tôi có nửa giờ rỗi đây, rất hứng thú được nghe.
Nikolaev bực bội lườm Grigoriev. Kể câu chuyện gì đó cho một phụ nữ xinh đẹp là một chuyện, nhưng cho một anh chàng điều tra viên cả nghi thì lại là chuyện hoàn toàn khác. Nhưng rút lui đã muộn, nên anh tiếp tục:
- Vậy là, như tôi đã nói, trong truyện của mình tôi rất muốn kể về một bí mật của điện Kremli Matxcơva đã bị che giấu nhiều thế kỷ. Tôi đã được nghe kể về nó, đây là tôi nhắc lại cho những người mới đến, - Nikolaev lại lần nữa, và rất không niềm nở đưa mắt nhìn Grigoriev, nhưng anh kia làm ra vẻ đang ngắm nghía đôi mũi giày lấm bụi của mình, - bởi một người lính cựu hồng quân Latvia. Còn câu chuyện kể của người lính lại do một cụ già xưa kia kể cho ông ấy. Người Latvia bắt gặp cụ già ấy một cách hoàn toàn ngẫu nhiên trong một lần đi tuần quanh Kremli. Theo như tôi hiểu qua câu chuyện thì ông lão đã rất ốm yếu và sống dưới một trai phòng hết sức khuất nẻo trong cái mê cung rộng lớn gồm những căn phòng ngầm của một trong những đại giáo đường Kremli. Trên thực tế, ông lão không hề rời nơi trú ngụ của mình để lên mặt đất, và cả những người đàm đạo lẫn bạn hữu duy nhất của cụ chỉ là những núi sách cổ chất ngất trong cái hành lang lõng bõng nước sát cạnh nơi ở của cụ. Chúng bị mang xuống đây và quăng cho mục nát theo lệnh của một tay quản trị hành chính nhanh nhảu nào đó đã được giao nhiệm vụ khẩn cấp dọn sạch mọi phòng ốc trong Kremli để đón chính phủ mới của nước Cộng hòa Xô viết từ Peterburg chuyển về Matxcơva vào tháng Ba năm 1918. Anh lính người Latvia đã không đuổi cụ già đi theo cách người ta vẫn hay làm vào thời kỳ đó, mà đối xử rất ân
cần, thậm chí còn tiếp tế thêm thức ăn cho cụ. Để cảm tạ cụ già đã kể cho anh ta câu chuyện này.
- Đoạn mở đầu dài quá, nhưng nhiều hứa hẹn, - Marina mỉm cười và nhìn trộm đồng hồ đặt trên bàn.
- Đi... đích xác thế, - Grigoriev hùa theo bằng giọng châm chọc.
- Vậy là câu chuyện này bắt đầu ở đâu đó từ thời rất xưa còn trước cả khi xuất hiện nhà nước Nga, sau đó dường như nó đã phát triển theo một hướng mới vào nửa sau của thế kỷ 15, nhưng vẫn không hề đánh mất tính thời sự của mình vào thời đại của chúng ta. Theo các truyền thuyết xa xưa, từ rất lâu trước khi xuất hiện Matxcơva, trên vị trí của Kremli từng tọa lạc một ngôi đền ngẫu tượng giáo cổ hoặc nhà thờ ngẫu tượng giáo gì đó. Bên cạnh là một nghĩa địa còn cổ xưa hơn nữa, nơi các pháp sư, các thầy phù thủy và thầy mo thời đó đã tìm được, hay nói đúng hơn, là không tìm được sự an nghỉ của họ. Chính ở đây đã diễn ra tất cả các lễ hội ngẫu tượng giáo của những bộ lạc sống trong vùng. Đó là các cuộc quần hội của quỷ sứ với nghi thức hiến sinh người sống cho những vị thần ngẫu tượng giáo. Điều thú vị nhất là ngay cả những cư dân đến thế chỗ các bộ lạc kia và dừng chân an cư lạc nghiệp bên dòng sông thời ấy hãy còn chưa được gọi tên là sông Matxcơva, mà là Xmolodinka, lại vẫn tiếp tục truyền thống hiến tế ngẫu tượng giáo và những lễ hội ma quỷ trên đồi Vedmaal. Những lễ hội vào dịp hạ chí có tên gọi là lễ hội Ivan Kupala diễn ra đều đặn hàng năm, suốt hàng thế kỷ, mà cũng có thể là hàng thiên niên kỷ. Hình như bản thân cái địa điểm này khích động con người phải thực hiện những hoạt động kiểu đó thì phải. Các vị hãy thử tưởng tượng mà xem, có bao nhiêu là âm khí đã tích tụ ở đây ? Thậm chí có thể phỏng đoán rằng trên chỗ bệ thờ ngẫu tượng giáo có thể đã thản nhiên mọc ra một lỗ thủng đâm thẳng xuống địa ngục. Người ta nói rằng các vị quý tộc của dòng họ Cutscov sống tại đây trước khi công tước Iuri Dolgoruki tới, cũng thờ phụng trên đồi một chúa quỷ nào đó. Bây giờ, ở xung quanh ban thờ ngẫu tượng giáo đó, các chiến binh của công tước Dolgoruki đã tìm thấy hàng trăm xác người bị đốt cháy và vô khối đầu lâu của những kẻ bị hiến tế cắm trên các cọc nhọn. Thêm nữa, câu chuyện của cụ già còn kể rằng, chính vì việc các nhà quý tộc Cutscov thờ phụng quỷ dữ mà vị trưởng tộc phải chịu một cái chết đau đớn và tàn khốc, nhưng ông ta kịp giáng xuống các lãnh địa cũ của mình một lời nguyền cho nhiều thế kỷ. Và thực tế, quả là dù người ta có xây dựng cái gì trên mảnh đất mà ông ta bị hành hình thì chỉ sau một thời gian ngắn nhất nó cũng đều gặp hỏa hoạn và bị hủy diệt. Chính các vị cũng biết đấy, không biết đã bao nhiêu lần trong những thế kỷ ấy Matxcơva bị cháy và bao nhiêu lần Kremli bị phá hủy rồi, vậy nên dù muốn hay không, cũng đành phải tin vào sự tồn tại của một lời nguyền ma quỷ nào đó đè nặng trên ngọn đồi Vedma cũ, về sau này mới có tên là đồi Borovitski. Và, bổ sung vào bức tranh đáng sợ này, cách đây không lâu chính tại đây người ta đã phát hiện ra một vết nứt gãy kiến tạo ở trong vỏ địa cầu. Cho nên vào một ngày đẹp trời nào đó, Kremli cùng toàn bộ những người sống bên trong nó có thể sẽ nhẹ nhàng rơi thẳng xuống địa ngục cũng chẳng biết chừng.
- Khủng khiếp quá nhỉ ! - Grigoriev chêm vào, không che giấu tâm trạng hoài nghi của mình, - cứ hệt như là Nostradamus ấy.
- Đó mới chỉ là phần thứ nhất trong câu chuyện của cụ già và đoạn mở đầu cho cuốn truyện của tôi thôi, - Nikolaev tiếp tục làm ra vẻ không mảy may để ý đến câu vuốt đuôi đầy ngụ ý của Grigoriev. - Sau đó chúng ta chuyển qua thế kỷ 15, đến những năm 6980, theo niên lịch Slave cổ.
- Sao con số lại lớn đến thế ? - Marina hỏi.
- À, lịch Slave cổ hay lịch nhà thờ không bắt đầu từ ngày Giáng sinh của Christ, mà từ ngày Sáng thế và lệch so với lịch Grigorian 5580 năm. Chị hiểu chưa ?
- Vâng, tôi hiểu rồi, - Marina gật.
- Vậy là vào năm 1472, cô cháu gái của hoàng đế Byzance là công chúa Sophia Paleolog, được mai mối cho Đại Công tước Ioann III, cùng với đoàn tùy tùng của bà đã đến Moxco, người nước ngoài xưa kia gọi Matxcơrva như thế. Hôn lễ được cử hành một cách chóng vánh, và cô dâu mới, người vốn nổi bật không chỉ bởi sự phốp pháp của mình mà còn được tiếng vào thời ấy là một phụ nữ khá có học vấn, tuyên bố với chồng rằng một vị sa hoàng Nga vĩ đại không thể sống như một kẻ man di, trong những túp lều bằng gỗ, mà ngài, cũng như các quốc vương châu Âu khác, cần phải có những cung điện, đại giáo đường và pháo đài bằng đá để bảo vệ. Các thợ xây bậc thầy người Nga được mời về đã không thể thực hiện nổi nhiệm vụ Sa hoàng giao phó là xây dựng tại Kremli Matxcơva một đại giáo đường bằng đá kỳ vĩ hơn tòa giáo đường ở Vladimir. Ngôi giáo đường đã đổ ụp xuống ngay từ lúc họ mới xây các bức tường vây. Trong chuyện này cũng có thể thấy tác động của lời nguyền đè nặng trên ngọn đồi Borovitski. Người ta đã thử mời các kiến trúc sư nước ngoài, nhưng không ai nhận lời đi đến nơi khỉ ho cò gáy như thế cả. Những người này, thêm nữa còn lo ngại sẽ bị người Litva, vốn vẫn luôn ở thế đối nghịch với công quốc Matxcơva, hãm hại. Người duy nhất chấp thuận lời mời của Đại Công tước Nga và sứ thần Xemion Tolbuzin của ngài ở Italia là kiến trúc sư nổi tiếng xứ Bologne Aristotel di Fioravanti. Thiên hạ đồn đại nhiều về ông, rằng ông không chỉ là kiến trúc sư, kỹ sư, nhà xây dựng, công trình sư quân sự, nhà cơ học và thợ đúc danh tiếng, mà còn dính dáng đến hắc ma thuật. Có tin đồn rằng ông ta đồng ý đến công quốc Matxcơva chỉ vì muốn trốn tránh sự truy đuổi của tòa án giáo hội. Tiện đây tôi cũng xin nói thêm rằng ông Aristotel này là một con người khá là thú vị. Về cuộc đời ông ta và những gì mà ông ta đã xây dựng trước chuyến đi đến nước Nga có thể viết được cả một cuốn sách. Theo cách riêng của mình, ông ta cũng nổi tiếng chẳng kém gì Leonardo da Vinci. Và có một số công trình hiện nay trong giới sử học Italia người ta vẫn còn tranh cãi về chuyện ai là người đã xây nên chúng - Leonardo huyền thoại hay Aristotel ở Bologne.
- Lạ thật, - Marina lắc đầu, - thế mà tôi lại không đoán ra có các bậc thầy nổi tiếng người nước ngoài tham gia xây dựng Kremli. Người ta đã khiến chúng tôi quen với ý nghĩ rằng cả đầu máy hơi nước, điện thoại, và tất tật mọi thứ còn lại đều do những nông nô Nga nào đó xuất thân từ nhân dân không mấy được thế giới biết đến tạo ra. Và chỉ mãi sau này người nước ngoài mới nhận vơ các sáng chế đó làm của mình. Do vậy là chúng tôi không đặc biệt quan tâm tới chuyện ai đã xây dựng kênh đào Belomor, một giáo đường nào đó hay nhà máy thủy điện trên sông Dnepr. Mọi sự đã rõ, đúng là chẳng bao giờ biết được sự thật cả.
- Cũng không hẳn là như thể. Mặc dù quả thực là không có nhiều các sử gia, cả chính thống trước cách mạng lâm thời kỳ Xô viết kể về Aristotel. cho nên tôi đã buộc phải lục lọi khá kỹ các kho lưu trữ và thư viện, qua những đoạn tư liệu rời rạc từ các nguồn khác nhau để cố thu lượm thật nhiều thông tin về cuộc đời ông ta. Angtotel sinh năm 1416 tại Bologne, trong một dòng họ kiến trúc sư truyền đời. Từ hồi trẻ ông ta đã tinh thông những kiến thúc căn bản của các ngành kiến trúc, nghệ thuật công binh, xây dựng công sự, cơ khí ứng dụng, đúc dập. Ngoài ra người ta bảo ông ấy còn dành nhiều thì giờ nghiên cứu hắc ma thuật và thuật giả kim và vượt xa các bậc thầy của mình ở nhiêu phương diện. Một trong những việc đầu tiên của Aristotel là đúc và nâng chiếc chuông của thành phố lên tháp Aringo ở Boiogne. Trước năm 1447 ông làm
việc cùng cha ở công quốc Milan, nhưng sau khi người cha qua đời thì ông chuyển sang làm nghề xây dựng cùng người chú Bartolomeo và bắt đầu có tiếng tăm. Những người biết Aristotel thời đó miêu tả ông là một người đàn ông tuổi chừng ba mươi, tầm vóc trung bình, ít nói, ăn mặc tươm tất và nổi bật bởi sự khéo léo trong ứng xử với giới cung đình. Đầu những năm 1450 tại Rome, theo ủy thác của Giáo hoàng Nicholas V, ông đã đào và di chuyển các cây cột đúc đơn của đền Minerva cổ đại. Năm 1453 tại thành phố Bologne, ông đúc một quả chuông mới cỡ lớn hơn và dựng một hệ thống tời đặc biệt để nâng quả chuông ấy, khiến nhiều bậc thầy cơ khí đương thời hết sức kinh ngạc bởi cách xử trí thông minh của mình. Cũng tại đây, vào năm 1455, Angtotel đã di chuyển nguyên cả một tòa tháp chuông với toàn bộ các quả chuông bên trong nó. Và cùng năm đó, tại thị trấn Cento, ông nắn thẳng tháp chuông Thánh Blasius. Aristotel toan lặp lại chính điều ấy, nhưng một ngôi tháp lại đổ ụp sau hai ngày, đè chết mất mấy người. Mọi chuyện xảy ra là do nền đất yếu của Venice, nhưng chính quyền đổ hết tội cho Aristotel và ông buộc phải lén trốn khỏi thành phố. Năm 1456, ông ta gia nhập hội Tam Điểm và trong thời gian ở đó đã hai lần giữ chức trưởng phường xây. Sau một năm Aristotel được vua Hungary mời đến để xây dựng các công trình phòng thủ chống Thổ Nhì Kì trên sông Dunai. Nhưng người ta bảo rằng trong thời gian ở đó công việc chủ yếu của ông ta không phải là xây dựng mà là những thí nghiệm giả kim thuật đủ loại, trong đó có cả việc chế tạo vàng. Năm 1473, Aristotel đã bị bắt giữ do bị kết tội tiêu thụ tiền giả ở Rome, nơi ông ta đến theo lời mời của Giáo hoàng Sixtus VI. Người ta tước bỏ mọi khoản chu cấp của Giáo hoàng dành cho ông ta và trục xuất khỏi thành phố. Nhưng Aristotel đã thoát thân một cách khá dễ dàng, khả năng là do có những người bảo trợ hết sức thế lực. Người ta biết khá chính xác có thời gian ông ta đã ẩn náu ở chỗ công tước Galeazzo Maria Sforza của xứ Milan để tránh sự săn đuổi của các pháp quan Tòa án Giáo hội vốn biết rất rõ niềm say mê phép phù thủy và ma thuật của ông ta. Galeazzo Maria Sforza là người hết sức mê giả kim thuật, ưa khuyến khích thử nghiệm tìm kiếm các loại thần dược tăng tiềm năng và kéo dài cuộc sống của con người. Năm 1474, Aristotel nhận được lời mời của Mahomet II, nhưng ông ta đã từ chối vì nghe có lời đồn đại rằng vị sultan Thổ Nhĩ Kì này rất tàn độc. Và cũng vào khoảng thời gian ấy, sứ thần của Đại Công tước Matxcơva Ioann III là Xemion Tolbuzin đến tìm gặp Aristotel. Ông này được ủy thác mời một thợ xây lành nghề cho công trình xây dựng một đại giáo đường tại Matxcava.
- Anh nói "thợ xây" à ? - Marina hỏi lại.
- Đúng thế, hồi thế kỷ 15 người Nga gọi kiến trúc sư như thế. Aristotel đã cho Tolbuzin, người vốn được nghe kể rất nhiều về tài nghệ của ông trong nghề xây và cơ khí, xem một vài phép thuật giả kim, khiến vị sứ thần Nga bị mê hoặc hoàn toàn. Khi đó Aristotel đã vào khoảng lục tuần, nhưng trông ông ta trẻ hơn nhiều, lại tràn trề sức lực, nhiệt tình và những ý tưởng lớn lao. Trở về Matxcơva, Xemion Tolbuzin tâu lên Sa hoàng câu chuyện về Aristotel xứ Bologne, và trong những lời tường thuật ngây thơ của ông này Aristotel mang diện mạo của một vị đại pháp sư tài năng. Ioann III chấp thuận tất cả những điều kiện mà nghệ nhân người Italia đưa ra. Vậy là vào năm 1475, Aristotel đem theo cậu con trai Andrei và người phụ tá Peter, cùng Tolbuzin sang nước Nga. Cuộc hành trình kéo dài chừng ba tháng, và đến chính lễ Phục sinh 26 tháng Ba họ đã tới Matxcơva. Aristotel đi thị sát ngôi giáo đường Matxcơva đổ nát, rồi đến Vladimir đo đạc ngôi giáo đường định lấy làm mẫu tại đó. Trở về, ông lao vào lập kế hoạch làm việc và đến giữa tháng Tư, nhờ những máy móc chuyên dụng giống như những thứ được sử dụng khi công hãm các pháo đài, họ bắt đầu đập phá những bức tường sót lại của ngôi nhà thờ xây dở. Đầu tháng Sáu, trong khi đào hố móng cho ngôi giáo đường và đóng xuống đó những
cây cọc chống bằng gỗ sồi, những người công nhân đã bắt gặp vô số xương cốt và ngẫu tượng bằng đá giống với những ngẫu tượng mà hồi đó người ta vẫn thường thấy trong những cánh rừng heo hút, dưới những bệ thờ trong các nghĩa trang ngẫu tượng giáo và trong chính các đền miếu. Khi xây dựng con đường bí mật, Aristotel đã đích thân tham dự vào việc khai quật và đưa lên mặt đất một bức ngẫu tượng khổng lồ bằng đá, có lẽ là do ông ấy hãy còn hoài nhớ đến những chuyến thăm dò khảo cổ của mình tại Italia. Sau khi biết tin này, Sa hoàng Ioann III, người vẫn luôn luôn theo dõi sát sao tiến trình xâv dựng, đã ra lệnh đập nát vụn bức ngẫu tượng rồi quăng xuống sông Matxcơva. Còn nghệ nhân thì ngài cấm tiệt không cho phép mang bêu riếu những câu chuyện hiểm hoi kiểu này cho dân chúng biết.
- Nhưng Ioann III là ai nhỉ ? Sao tôi lại không được biết có một vị Sa hoàng như thế ? Và ông ấy đã nói đúng với cái ông người Itaiia là "không được bêu riếu" ư ? - Grigoriev chế giễu. - Ioann, hay còn gọi là Ivan III - đó là ông nội của Ivan Hung đế, - Nikolaev quay lại phía anh ta. - Nhân đây tôi cũng xin lưu ý, nếu cậu không thích nghe thì cứ thoải mái bỏ đi. Tớ không phật ý đâu. Vậy là, cùng lúc với xây dựng giáo đường, khi ở Matxcơva, Aristotel còn đúc cả đại bác và chuông, vẽ sơ đồ Kremli mới với những lối ngầm, các phòng và kho sách bí mật để cất giữ các bản thảo vô giá mà Sa hậu Xophia đã mang theo từ Rome tới... về sau này, cái thư viện vốn được hình thành ban đầu từ những cuốn sách quý hiếm nhất, những thủ bản, những cuốn sách viết trên giây da dê cuộn mà Sa hậu đã lấy từ bộ sưu tập của các hoàng đế Byzance để mang về, sẽ được gọi là Liberia Ivan Hung đế. Nhân đây xin nhắc thêm là cho đến giờ người ta vẫn đang tìm kiếm cái thư viện ấy mà chẳng thể nào phát hiện nổi vị trí của nó. Có lẽ Aristotel quả đúng thật là một bậc thầy có hạng trong nghề, nếu như ông ta biết cách giấu nó kỹ đến thế. - Tôi có đọc về cái thư viện này ở một tờ báo hay tạp chí gì đó rồi, - Marina gật đầu nói, - câu chuyện khá là hấp dẫn.
- Câu chuyện của tôi cũng không kém thú vị đâu. Vậy là ở Matxcơva, Aristotel đã không từ bỏ niềm say mê thuật giả kim, vẫn làm đủ loại thí nghiệm như trước đây và mê mải với chuyện tìm kiếm viên đá triết học.
- Ông ấy lại còn say mê cả triết học nữa ? - chủ nhà ngạc nhiên.
- Không phải thế. Đó là tên mà các nhà giả kim gọi loại đá có khả năng biến bất cứ kim loại nào thành vàng.
- Có lẽ tôi cũng chẳng từ chối một viên đá như thế, - Grigoriev khịt mũi từ trong chiếc ghế bành đang ngồi.
- Mặc dù Aristotel tiến hành các cuộc thí nghiệm của mình một cách hết sức bí mật trong một xưởng trang bị đặc biệt, nhưng chẳng mấy chốc khắp Matxcơva đã bắt đầu thấy lan đi những tin đồn về chuyện ông ta tiếp xúc với quỷ, trên ngực trái có dấu nung ba con số sáu và người ông ta toát ra mùi lưu huỳnh. Sa hoàng đã sai người triệu nghệ nhân đến để tra khảo. Còn ông này thì khai đang tìm kiếm thành phần mới cho thuốc nhồi đại bác và hỏa khí Hy Lạp, vốn đã được sử dụng từ những thời xa xưa trong phòng thủ và các cuộc công thành. Sa hoàng bèn ân chuẩn cho phép ông ta tiếp tục những cuộc kiếm tìm đó, chỉ cốt sao không gây hại gì cho công việc chính là xây dựng ngôi đại giáo đường. Để việc xây dựng thêm nhanh chóng, Aristotel chế ra những cỗ máy nâng đặc biệt có thể đưa thẳng gạch đá lên các tầng cao của ngôi giáo đường, đến tận tay những người thợ. Sang mùa hè thứ tư, tòa giáo đường lừng danh đã được hoàn tất về đại thể, và Aristotel còn xây dựng trong đỉnh trung tâm của nhà thờ một ngân khố bí mật và “kho dự phòng nguy cấp".
- Đó lại là cái gì nữa vậy ? - Grigoriev hỏi.
- Trong văn bản viết như thế. Chắc là một nơi ẩn náu bí mật và kho cất các báu vật của công tước hoặc của nhà thờ. Năm 1479, sang mùa hè thứ năm, công việc xây dựng giáo đường đã kết thúc trọn vẹn. Ngày 12 tháng Tám, nó được Đại Giáo chủ Geronti (Đại Giáo chủ Matxcơva Geronti (mất năm 1489) nhà văn và nhà hoạt động tôn giáo Nga; nhiều lần xung đột với Ivan III về vấn đề chính sách đối nội của nhà thờ) và đức Tổng Giám mục Roxtov Vixxarion trọng thể ban phép thánh. Một niềm hân hoan khôn xiết bao trùm toàn bộ Matxcơva. Đại Công tước chỉ dụ phát chẩn cho toàn thành phố. Cũng vào lúc kết thúc công trình xây dựng ở Matxcơva, sau khi được tin rằng quê nhà Italia không còn mối nguy nào, đồng thời nhận được một lời mời bí mật từ quốc vương Litva, Aristotel bèn xin Sa hoàng cho phép ông được trở về. Nhưng qua mật báo, Sa hoàng Ioann đã biết đến những thí nghiệm tìm đá tạo vàng cũng như lời mời của người Litva. Ta cũng nên biết rằng vào thời đó ở nước Nga khắp nơi nhan nhản những chuyện cáo giác, tra tấn, không tin tưởng và nghi ngờ đặc biệt là đối với những người ngoại quốc. Quả là một sự phát cuồng đến mức kỳ lạ đối với hoạt động gián điệp, tuy nhiên không phải lúc nào cũng vô căn cứ cả. Nhân thể nói thêm, thông qua các tay thương lái Aristotel cũng trao đổi thư từ bí mật và cung cấp thông tin cho các sứ thần và các vị hoàng thân của ông ta. Một trong những bức thư của ông ta gửi cho công tước xứ Milan Galeazzo Maria Sforza mà người ta giữ được có thể xác nhận điều này. Viện cớ ở Matxcơva không có ai đủ khả năng xây dựng nổi một tòa tháp canh mới dựa trên những bản vẽ của Aristotel, Ioann đã từ chối lời khẩn cầu, lệnh cho ông ta phải chờ những nhà xây dựng mới từ Italia sang và đích thân trao các bản vẽ cho họ. Sa hoàng quá biết rằng, chỉ cần Aristotel rơi vào tay người Litva thì ngay lập tức mọi bí mật về các kho tàng và hệ thống phòng thủ của Kremli Matxcơva sẽ bị lộ tẩy. Ông ta tặng các khoản cấp phí cho nghệ nhân và tìm mọi cách thâm nhập vào bí mật của việc tạo ra viên đá triết học. Sa hoàng vốn tham lam đến mức quái đản, những vàng bạc châu báu cất giấu đầy trong các hầm ngầm đối với ông vẫn còn là quá ít, và ông ta luôn thèm khát có được nhiều hơn, thêm vào đó những cuộc chiến tranh liên miên với các lân bang cũng đòi hỏi những chi phí khổng lồ cho việc nuôi dưỡng quân đội và duy trì những pháo đài ở vùng biên ải. Năm 1484, Aristotel rắp tâm rời Matxcơva một cách bí mật. Ý đồ này nảy ra sau vụ Sa hoàng ra lệnh giết một vị thầy thuốc ngoại bang vì không chữa khỏi bệnh cho Công tước Karakutsu xứ Tatar. Vị thầy thuốc bị kết tội đầu độc con bệnh, bị đem ra tra khảo triền miên và tàn bạo rồi phanh thây trên sông Matxcơva. Biết tin Aristotel âm mưu bỏ trốn, Sa hoàng ban lệnh "bắt lấy hắn, lột sạch, tống giam vào cung Ontonov đằng sau tu viện Sairtt Lazori cho ta !" Sử ký thời đó đã chép lại sự kiện này như vậy.
- Vâng, quả là những tập quán không kém mấy so với các thời đại về sau của ta, - Marina mỉm cười.
- Đúng đấy, phải gông cổ hết đám ngoại bang ấy lại, - Grigoriev lại chêm vào, giọng châm chọc, - Bọn họ làm quái gì ở đây, trên đất đai Nga này mới được kia chứ, các vị quên rồi sao ? - Nhưng các nghệ nhân Italia thời đó đến Matxcơva để xây dựng tòa tháp đá đầu tiên ở Kremli, về sau này có tên là Tháp Tainiska (Mật Tháp) vì các lối đi và hầm ngầm bí mật được bố trí bên trong nó theo bản đồ án thiết kế của Aristotel, đã bắt đầu ta thán về việc người đồng hương, đồng nghiệp của họ bị giam cầm. Sa hoàng Ioann III bèn trả tự do cho Aristotel Fioravanti, hoàn trả lại mọi tài sản và đề nghị ông ta lần cuối cùng, trước khi lên đường trở về cố quốc, đảm trách việc chỉ huy chuẩn bị đội pháo binh cho cuộc hành binh đến Tver. Có một giả thuyết nói rằng sau cuộc hành binh đến Tver nghệ nhân đã lâm bệnh và qua đời, nên không thể trở về quê nhà Italia của mình được, về sau không thấy người ta nhắc nhở thêm gì về vị
kiến trúc sư người Italia trong các tài liệu chính thống nữa.
- Chuyện thế là hết rồi à ? - Grigoriev thốt lên có vẻ khiêu khích.
- Không, chưa hết hẳn. Đó là phần thứ hai trong câu chuyện của cụ già mà anh lính cựu bộ binh người Latvia kể lại cho tôi. Nó gần như trùng lặp hoàn toàn với những chuyện mà các vị có thể tìm đọc về lịch sử xây dựng Kremli. Sau đó bắt đầu phần thứ ba, mới là phần bí mật và huyền bí nhất của câu chuyện. Chúng ta đang dừng lại ở đoạn Sa hoàng thả Aristotel khỏi nhà ngục và đề nghị ông ta giúp chỉ huy việc chuẩn bị đội pháo binh cho cuộc hành binh đến Tver nhỉ. Vậy là trấn an xong các nghệ nhân người nước ngoài bằng cách đó, Sa hoàng liền tổ chức tiễn đưa Aristotel hết sức linh đình, thưởng công hậu hĩnh và ban cho một đoàn tùy tùng đông đảo để hộ tống bình an trở về. Nhưng nghệ nhân đi quá Matxcơva chưa đầy vài dặm đã bị bắt trở lại giam biệt vào một nơi. Sau hai tuần người ta bí mật mang ông về Kremli, để gần với Sa hoàng hơn, và nhốt cùng với các thứ đồ lề giả kim thuật ở một trong những nhà ngục ngầm dưới lòng đất do chính ông xây dựng nên. Sa hoàng đòi Aristotel tiết lộ bí mật chế tạo viên đá triết học, nhưng nghệ nhân Italia dứt khoát từ chối và bắt đầu cầu viện đến ma quỷ, nguyền rủa Sa hoàng, con cái của ngài, dòng họ của ngài cũng như tất cả nhừng kẻ sẽ trị vì nước Nga ngự trong điện Kremli. Điên tiết vì thái độ bất phục tùng đó, Sa hoàng lệnh cho người táng sống nghệ nhân vào hầm ngục cùng với những cuốn sách hắc thuật và đồ lề giả kim thuật của ông. Theo truyền thuyết, Sa hoàng đã nói những lời cuối cùng như sau với nghệ nhân: ''Hãy tự thoát ra, nếu như ngươi quả đúng là một đại pháp sư". Vào chính đêm hôm đó, một trong những lời nguyền của nghệ nhân thành hiện thực - sét đã đánh xuống đỉnh mái vòm ngôi giáo đường do ông ta xây dựng, và cả tòa giáo đường bốc cháy. Khó khăn lắm người ta mới dập tắt được lửa. Sau đó mọi chuyện trở nên càng thêm tồi tệ. Hỏa hoạn và các tai ương khác lần lượt xảy ra ở Kremli. Sa hoàng cũng bắt đầu gặp những chuyện chắng lành. Ngài bị những cơn ác mộng hãi hùng hành hạ. Và gần như ở mọi ngóc ngách ngài đều trông thấy bóng dáng vị nghệ nhân đã bị nhốt trong hầm ngục bít kín. Các vị thầy thuốc và thầy bói được mời về cung đều khuyên Sa hoàng nên mở cửa ngục, dứt trái tim ra khỏi thi thể Aristotel (bởi không một ai mảy may nghi ngờ chuyện ông ta đã chết rũ ở trong đó), mang xiên cọc nhọn bằng gỗ cây dương liễu và thiêu cho ra tro bụi, những gì còn lại từ thân xác kẻ phù thủy ngoại bang thì đem chôn xuống đất cùng với những lời kinh cầu, "bằng không sẽ chẳng bao giờ được yên với hắn". Sa hoàng bèn ra lệnh phá mảng tường bít cửa ngục, nhưng bên trong không còn dù chỉ một chút dấu tích gì của nghệ nhân. Ông ta đã biến mất. Từ đó trở đi, đặc biệt là trước mỗi một sự kiện quan trọng nào đó hoặc trước khi một người trị vì kế tiếp của nước Nga qua đời, người ta nói lại có một bóng ma rùng rợn lang thang đây đó khắp các căn phòng trong điện Kremli và dưới những lối đi ngầm, những mật đạo và ngục thất tăm tối trong lòng đất nơi đó, đe dọa các Sa hoàng, những tên bạo chúa, và cả nước Nga bằng sự trừng trị khủng khiếp khiến cho ai nấy đều kinh hãi. Và chừng nào các vị chủ nhân của chúng ta còn sống trong điện Kremli thì cả họ lẫn chúng ta đều không được yên ổn. Không ở một đất nước nào trên thế giới những bậc trị vì lại bị ngăn cách với nhân dân của mình trong những bức tường như thế cả. Họ sợ hãi dân chúng, họ chỉ ngồi sau những thành lũy pháo đài, cảm thấy mình an toàn mà không hiểu rằng hiểm họa lớn nhất đối với họ lại tiềm ẩn liền kề và xuất phát từ chính những bức tường Kremli. Tiện đây tôi cũng nói thêm là Pier Đại Đế cũng biết câu chuyện này, chính vì vậy mà ông ấy đã cho dời thủ đô về Peterburg. Nhìn chung thì câu chuyện của anh lính cựu bộ binh người Latvia đến đây là kết thúc. Một câu chuyện hay ho đấy chứ ?
- Đúng vậy, - Marina thốt lên vẻ đăm chiêu. - Tôi chưa từng được nghe thứ gì đại loại như
thế, mà lại còn về Kremli nữa chứ.
- Tôi đã rất muốn tìm được một bằng chứng gì đó có thể xác nhận câu chuyện của ông cụ, thế rồi cách đây không lâu, trong một lần lượn quanh khu chợ trời bán sách cũ ở khu Izmailovo, tôi bất ngờ vớ được một cuốn sách nhỏ kỳ lạ bọc bìa da có hai chiếc khóa móc bằng đồng. Mới giở ra tôi đã suýt nghẹt thở. Ngay ở trang đầu tiên đã thấy một bức tranh khắc gỗ nhỏ thuộc giai đoạn cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, vẽ những người xây dựng tường thành Kremli. Một phần trong sách và trang bìa của nó đã bị xé, nhưng không cần thế cũng rõ nó viết về lịch sử Matxcơva và Kremli. Tôi vừa run vừa hỏi anh thanh niên, chủ nhân cuốn sách, xem nó đáng giá bao nhiêu. Tay kia đưa ánh mắt đánh giá nhìn tôi rồi vẹo mồm, cứ như thể bị đau răng, - đến đây Nikolaev mỉm cười, - có vẻ như anh ta cho rằng tôi không thể nào giống một người ngoại quốc hay một ông khách sộp, cau có đáp: "Hai chục đô". Tôi liền hỏi liệu anh ta có thể nhận tiền rúp được không. Người bán nhún vai bảo với cái món đồ cũ này thì anh ta có thể nhận thậm chí cả nhân dân tệ Trung Hoa cũng chả sao. Tôi bèn nhẩm tính xem sẽ tốn khoảng bao nhiêu, và rất lấy làm hoan hỉ bởi vì trong túi mình có đủ món tiền. Thực tình thì tôi sẽ phải chịu sống không thuốc lá cho đến cuối tháng, nhưng bằng cách nào đó cũng có thể xoay xở để vượt qua chuyện ấy. Sau khi mặc cả qua loa cho phải phép, tôi mua cuốn sách đúng giá rồi nhét vào nách áo, chỉ sợ anh chàng kia nghĩ lại, và đi thẳng một mạch về nhà. Dẹp gọn đống bản thảo trên một góc bàn, tôi ngồi xuống ngâm cứu món đồ mới sở hữu của mình. Chỉ cần đọc lướt qua dăm trang sách bằng tiếng Slave cổ tôi đã biết mình không nhầm. Cuốn sách này không chỉ xác nhận đúng từng chữ một câu chuyện mà anh lính bộ binh người Latvia kể lại, mà còn bổ sung thêm khá nhiều. Đây, báu vật ấy đây này, - Nikolaev lấy trong túi ra chiếc cặp đựng tài tỉệu màu đỏ, mở nút dây buộc rồi giơ cho Grigoriev và Marina xem một cuốn sách cổ không lớn lắm bọc ni lông. Thiên hạ nói quả là chẳng sai chút nào, ai chịu khó đi tìm người đó ắt sẽ thấy. Thế mà một anh bạn quen của tôi làm thủ thư lại cứ nhất định bảo đó là một trường hợp cá biệt khẳng định cái lý thuyết về sự tồn tại của "mê lộ thông tin" gì gì đó.
Nikolaev lấy cuốn sách trong bọc ni lông ra. Bìa ngoài của nó được làm bằng những sợi da heo thuộc bện nổi, với hai móc khóa xưa kia từng được mạ vàng và chìa cho Marina. - Một thứ giá trị thế này mà anh mang theo mình sao ? - Marina vừa giở sách vừa kinh ngạc hỏi.
- Giá trị ấy à ? Với đa số mọi người thì nó chỉ là một quyển sách cũ rích. Chỉ một số ít chuyên gia ngành hẹp nào đó có thể đánh giá được giá trị đích thực của những thông tin chứa đựng bên trong nó mà thôi.
- Thế trong này viết gì ?
- Nội dung của cuốn sách gồm có hai phần. Phần đầu bằng tiếng La tinh, thực hiện bằng phương pháp ấn loát mô tả chuyến đi tới Moxcovia, còn phần hai là những thủ bản tiếng Slave cổ. Qua nét viết một số chữ cái và lối trình bày thì phần văn bản tiếng Slave cổ này chắc chắn thuộc thời kỳ đầu thế kỷ XVIII, mặc dù có một đôi chỗ lối diễn đạt khiến người ta có cảm tưởng rằng người kể chuyện phải tiếp thu học vấn của mình từ nửa đầu thế kỷ XVII - đó là ý kiến mà sau này các chuyên gia nói với tôi. Có thể vấn đề ở đây là phần lớn sách đã được chép lại từ một thủ bản cổ hơn. Nhưng có lẽ tôi mào đầu hơi dài dòng, thôi, bây giờ ta sẽ chuyển sang phần chính yếu nhé, - nói rồi Nikolaev lấy trong cặp ra mấy trang giấy đánh máy.
Grigoriev nhỏm người nhìn rồi bắt đầu cựa quậy không yên trong ghế bành. Rõ ràng anh chàng không định nấn ná lại đến chừng ấy thời gian nhưng có chuyện gì đó đã níu anh ta lại.
Bây giờ đến lượt Nikolaev châm chọc nhìn điều tra viên, rồi sau khi hình dung chuyện gì sẽ xảy ra với anh ta nếu kéo dài câu chuyện thêm một tiếng, tiếng rưỡi đồng hồ nữa, anh tiếp tục: - Tôi đã dịch phần bằng tiếng Latinh sang tiếng Nga, đã đem so với các sử ký cổ và hiệu chỉnh. Cho đến thời điểm này tôi thu thập được khá nhiều sách và tài liệu lưu trữ chọn lọc về lịch sử Kremli. Còn lúc này thì tôi đang làm việc với một văn bản bằng tiếng Slave cổ, cố gắng làm cho nó dễ đọc hơn, vì đối với một bạn đọc quá được nuông chiều bởi tác phẩm của những tác giả hiện đại thì ngôn ngữ trong đó có thể hơi nặng. Thỉnh thoảng lại có những đoạn kỳ quặc mà tôi cũng không hiểu hết được. Có thể là ký hiệu mật mã gì đó.
- Anh tự dịch toàn bộ cái này sao ? - chăm chú xem đoạn chữ viết tay, Marina ngạc nhiên hỏi.
- Tiếng Latinh thì người ta giúp tôi, còn tiếng Slave cổ thì tôi biết từ hồi nhỏ. Bà tôi có rất nhiều sách đạo, nên tôi học đọc trong đó còn trước cả khi học tiếng Nga – thấy Marina mở to mắt ngạc nhiên, anh vội nói: - Tôi đùa đấy. Nào, các vị đã sẵn sàng nghe chưa ?
- Vâng tất nhiên rồi - Marina gật đầu và lén đưa mắt nhìn đồng hồ đặt trên chiếc bàn con. Hai tiếng nữa có người đến đón còn cô cũng cần sửa soạn. - Chúng ta sẽ bắt đầu từ phần văn bản bằng tiếng Latinh nhé – Nikolaev lấy tờ giấy đầu tiên từ xấp giấy. – Phần lớn đoạn mô tả thiên nhiên và các phong tục tập quán cổ của Nga tôi bỏ qua. Tôi cũng không đưa vào đây cả những đoạn tả về đời sống của các nghệ nhân Italia khác làm việc ở Matxcơva hồi cuối thế kỷ XV, vì tôi chỉ quan tâm đến những gì liên quan đến Aristotel xứ Bologne thôi. Tên gọi của tác phẩm cổ này cũng hợp với thời đại của nó là: "Truyện kể lịch sử về cuộc du hành tới xứ Moxcovia, miêu tả thiên nhiên, các khoảng cách, các vị trí, tôn giáo, thiết chế nhà nước và các hàng hóa của đất nước này, cũng như về các nghệ nhân ngoại quốc làm việc tại Moxco, về quốc vương hùng mạnh và lãnh chúa Moxcovia Ioann III, được soạn và đọc để ghi bởi Contarini Ambrogio, cựu sứ thần Venezia thuộc vương triều sakhơ (quốc vương) Ba Tư Usun Hasan, trước khi ông qua đời vào mùa hạ năm 1499". - Nikolaev ngừng đọc. Chỗ này tôi bỏ một đoạn về việc sửa soạn cho chuyến đi của vị cựu sứ thần Venezia cùng với những kiến giải và các cuộc tìm kiếm khác vì chúng không có liên quan gì đến câu chuyện của tôi. Tôi xin chuyển luôn sang phần chính yếu.
Marina nhìn chồng giấy chưa đọc dày cộp để trước mặt Nikolaev, đến đây chợt trong óc cô hiện ra cảnh trong một câu chuyện của Sekhov, về người đàn bà đọc vở kịch của cô ta cho một nhà soạn kịch, và suýt nữa thì cô phá lên cười. Thực ra, ở đây mọi chuyện hoàn toàn ngược lại.
Hình như cảm thấy tâm trạng của Marina, Nikolaev để tờ giấy vừa cầm lên qua một bên, nói:
- Ồi, tôi lại còn định đọc những gì nữa đây kia chứ ! Chị đã nói qua điện thoại hồi nãy là không có nhiều thời gian, thế mà tôi lại ngồi đây sang tiếng đồng hồ thứ hai rồi. Đúng là tôi lạm dụng tiêu chuẩn của mình hơi quá.
Từ miệng Grigoriev bật ra một tiếng thở phào không giấu giếm. Nikolaev ném cho anh một cái nhìn châm chọc rồi nói tiếp:
- Có lẽ tôi để lại cho chị tập bản thảo là hay nhất, chị Marina ạ. Tôi có hai bản mà. Như thế chị có thể đọc nó lúc nào rỗi rãi. Xong rồi chị nhớ nói cho tôi biết suy nghĩ của mình. Đoạn dịch tiếng Slave cổ của tôi chưa hoàn chỉnh, hãy còn một đôi chỗ không nhiều tôi chưa giải mã được, nhưng tôi nghĩ mình sẽ giải quyết chóng thôi. Vả lại chúng cũng không quan trọng lắm đối với cuốn truyện của tôi. Thực ra cũng còn chưa được trau chuốt, phương án ban đầu mà,
còn phải sửa chữa và thay đổi nữa. Tạm thời nó còn giống với một phụ lục cho bài viết trình bày nguyên tắc làm việc của một nhà văn phiêu lưu và giải thích vài động cơ sáng tác của anh ta, nhưng những thông tin chứa đựng ở trong này thì thực sự là vô giá đây, và chị sẽ không thể tìm thấy được ở đâu khác cả. - Nikolaev để trang giấy vào cùng xấp và đưa cho Marina.
Cô đón lấy chúng, lật lật vài trang rồi đặt xuống bàn, nói:
- Cám ơn anh. Tôi không hứa có thể đọc ngay trong mấy ngày tới nhưng nhất định tôi sẽ đọc và phát biểu cảm nghĩ của mình. Tập tư liệu thực sự thú vị và sau rốt lại còn lý giải tại sao một vận mệnh như thế lại giáng xuống nước Nga. Tại sao chúng ta không thể nào xây dựng được một nhà nước bình thường, tại sao chúng ta lại cứ thường xuyên gặp phải những vấn đề này nọ. Hóa ra toàn bộ sự thể đều nằm trong những lời nguyền của ông quý tộc Cutscov và một nhà xây dựng người Italia bị lừa dối.
- Tôi xin tiếp thu sự mỉa mai của chị, - Nikolaev bật cười, đáp.
- Nhưng có cái gì ép buộc anh chọn một đề tài nào đó không ? Làm sao mà anh cảm thấy được là đề tài này có thể hấp dẫn và chứa đựng một điều bí ẩn ?
- Khó giải thích lắm. Cái đó nó như thể là một cuộc lang thang mò mẫm trong mê cung mênh mông tối đen đầy ắp những thông tin cần và không cần ấy. Chị tự mình xua mình tới đó, rồi phải cố mà tìm cách thoát ra. Đột nhiên chị cảm nhận được một hơi gió nhẹ hoặc trông thấy một khe sáng rồi từ từ, từ từ, vừa sờ soạng, chị vừa lần đến được lối thoát. Điều chính yếu nhất ở đây là không đâm đầu vào ngõ cụt, mà phải tách bạch được cái gì mình cần bây giờ hoặc có thể cần đến sau này cho công việc. Giải thích thành lời không dễ chút nào, nhưng nó giống như là một cuộc tìm kiếm con mèo đen tưởng tượng trong căn phòng tối om ấy. Điều đáng kinh ngạc hơn cả trong toàn bộ chuyện này là vào một lúc hoàn toàn bất ngờ nhất đối với chính mình thì những cuộc tìm kiếm lại đạt được kết quả.
- Xin lỗi cậu, Nikolaev, - Grigoriev chen vào, - nhưng tôi không sao hiểu nổi ý nghĩa tác phẩm mới này của cậu nằm ở đâu cả. Cậu định chứng minh điều gì với nó thế ? Cái gì mà cần phá bức tường Kremli như là san bằng ngục Bastille để xóa bỏ một lời nguyền vậy ?
- Đó là một phương án, nhưng thuộc số những phương án tối ưu. Vấn đề thứ hai là phải tìm cho ra và cải táng nghệ nhân.
- Ấy ấy ! Chuyện này từa tựa như vấn đề Lênin, có phải không ?
- Lênin thì liên quan gì đến đây nào ? - Nikolaev nhún vai.
- Bản thân ông ấy, cũng như Stalin và các nhà cầm quyền khác đã từng sống và làm việc ở trong Kremli, đã trở thành nạn nhân của một lời nguyền mà thôi.
- Thế anh có tưởng tượng được cuộc tìm kiếm nhà giả kim đó sẽ như thế nào không ? Nếu mà chính anh đã tự bảo rằng ông ta không ở yên một chỗ và thường xuyên lang thang dưới các mật đạo, hầm ngầm và mê cung đó ?
- Tôi nghĩ rằng cần phải trao lại Kremli cho các nhà sử học. Phải thành lập một viện bảo tàng lịch sử của Matxcơva hoặc viện bảo tàng lịch sử Nga thật lớn. Còn bóng ma của nghệ nhân người Italia sẽ đóng vai trò của một hiện vật bảo tàng luôn luôn hoạt động. Những nhà cầm quyền của chúng ta nên tìm kiếm cho mình một nơi an toàn hơn hoặc lại chuyển về Piter (tên gọi tắt của Saint Peterburg). Mặc dù, như tôi đã nói rồi, chưa chắc họ đã rời bỏ Kremli, bởi hy vọng rằng bức tường Kremli cao vòi vọi đó có thể bảo vệ họ khi cơn giận dữ của nhân dân bùng nổ.
- Mà họ có thể trốn đâu khỏi chúng ta được, - Grigoriev nói thêm, vẫn với vẻ châm chọc, -
chỉ cần mỗi một người trong cái đám dân chúng bất mãn với cuộc sống hiện thời của chúng ta mang tới bên chân điện Kremli một mẩu cành con và châm lửa đốt thì cái đống củi chất ngất sẽ cao gấp ba lần bất kỳ ngôi tháp canh cao nhất nào đó thì Kremli cũng sẽ chỉ còn trơ lại tro than và những bức tường đá mà thôi. Chẳng có một chính phủ nào, một ông phù thủy - nhà xây dựng nào của cậu còn nguyên lành được hết. Và cũng chẳng cần đến một cuộc nội chiến.
- Ơn Trời sao cho chuyện đó đừng xảy ra. Nikolaev nói.
- Mặc dù về mặt lý thuyết thì đằng nào Kremli cũng chẳng thoát. Sớm muộn gì nó cũng sẽ sụp xuống địa ngục thôi, bởi như tôi đã nói rồi đấy, nó nằm đúng ngay trên một vết nứt của vỏ trái đất. Có khả năng chính nó đã tự đóng một vai trò không hề nhỏ trong việc tạo ra cái vết nứt đó. Có khả năng hành tinh chúng ta cũng dự phần vào việc tự làm sạch mình khỏi những hình thái mới được tạo nên bởi những sức mạnh hắc ám kiểu đó. Vấn đề là như thế đấy. Thêm nữa là bản thân vị trí đó cũng tác động ghê gớm đến thần kinh con người, làm cho nó thay đổi theo những chiều hướng không tốt lành gì. Tiếc rằng cho đến nay chúng ta hãy còn chưa có bất kỳ một nghiên cứu nào của các nhà tâm lý học về đề tài này. Mặc dầu người ta bảo rằng từ hồi Lênin và Stalin còn sống đã từng có ai đó toan đề cập đến chuyện này, thậm chí nói rõ về căn bệnh tinh thần của các vị đó nhưng ông ta đã bị biến mất một cách hết sức mau lẹ.
- Các nghệ nhân Italia, hắc thuật, những bóng ma - đó chỉ là những con ngoáo ộp và trò bịa đặt của văn chương thôi, - Grigoriev phẩy tay. - Chúng tồn tại chỉ trong tưởng tượng bệnh hoạn của một đôi ông nhà văn.
- Vladimir Ilich cũng từng nói thế... Mặc dầu có thể là cậu nói đúng, nhưng mà không có những chuyện đó thì các vị, tức là những người đọc ấy, sẽ phải sống khá là buồn chán. - Này, cậu có tình cờ biết đến một ông nhà văn đương đại nào tên là Ghemian Hara không ? - Grigoriev hỏi.
- Không, - Nikolaev nhún vai.
- Vấn đề là ông ta có một cái truyện ngắn về đề tài tương tự đấy.
- Thế thì cũng không có gì là lạ - bây giờ là cuối thế kỷ mà. Thậm chí còn hơn thế nữa ấy chứ - cuối thiên niên kỷ rồi. Trong những thời kỳ như thế này những tâm trạng huyền bí đặc biệt thường hay ghé thăm xã hội lắm.
- Ông ta cũng nói đại loại thế trong truyện của mình.
- Nhưng cái truyện ngắn kể về cái gì vậy ?
- Thôi để khi khác tớ sẽ kể, - Grigoriev khoát tay gạt đi. – Cậu có đi không ? - Có, tớ xong ngay đấy - Nikolaev cất lại cuốn sách cổ vào túi và thoáng ngẫm nghĩ: Cớ sao Grigoriev lại đột nhiên quan tâm đến một tay nhà văn đương đại đâu đâu thế nhỉ ? Anh ta chẳng làm chuyện gì không đâu vào đâu đâu. Mình phải hỏi cánh văn sĩ quen biết về tay Hara này mới được".
- Hay là các anh dùng cà phê nhé ? - Marina hỏi, rõ ràng là để tỏ vẻ cũng tuân thủ phép tắc lịch sự.
- Không, xin cám ơn chị. Thế này là chúng tôi đã làm chị tốn khối thời giờ roi, - Grigoriev vội đáp thay cho cả hai người.
***
Ra khỏi cửa nhà Marina, Nikolaev quay sang hỏi:
- Cậu ba hoa về cái xe quái nào trước cửa nhà cô ấy thế ? Hôm nay tớ có đi xe đâu ? Grigoriev trả lời anh bằng một câu hỏi:
- Hav ta qua đại lộ Bulvar một lát ?
Nikolaev nhún vai.
- Đi thì đi.
- Cậu đem kể cho cô ta câu chuyện về Kremli để làm gì ? Grigoriev hỏi.
- À, trước hết là nó cũng liên quan đến thần bí giáo và ba con số sáu. Thứ nữa, tớ có dự cảm, hoặc ngờ rằng, cậu muốn gọi cái đó là gì thì tùy cậu, rằng chuyện này bằng cách nào đó có liên quan đến cuộc điều tra của cậu.
- Hoang tưởng. Vụ án của tớ chẳng có can hệ gì đến Điện Kremli và không thể nào có được. Tớ hiểu là nhà văn lúc nào cũng giàu tưởng tượng, nhưng cũng cần phải biết mức độ chứ. - Không, dù cậu có nói gì đi nữa, thì vẫn cứ phải có một mối liên hệ nào đấy. Chẳng hạn như là mấy ngôi sao trên đỉnh tháp Kremli và những ngôi sao mà tên cuồng vạch trên thân thể các nạn nhân của hắn ấy. Lạ thật, chẳng biết lúc ban ngày thì đồ quái thai đó lẩn vào đâu nhỉ ? - Dưới mặt nạ của một công dân lương thiện, có thể là của một tay phóng viên - kiêm nhà văn, chẳng hạn.
- Thôi, thôi với những thói quen như thế ấy à ? Cậu không thể cho hắn một cái gì đó dị thường được sao ? Ít nhất là một cái gì đó có thể đập vào mắt ấy chứ.
- Như thế thì chỉ có trong mớ sách của các vị, các nhà văn học, viết ra thôi, - Grigoriev nhếch mép cười châm biếm.
- Thế thì làm sao mà cậu lại phải xuất hiện và ngồi mãi ở đấy ? Cậu làm hỏng hết cả buổi chuyện trò với người đẹp của tớ.
- Hình như cậu quên rằng người đẹp ấy đang là nhân chứng trong hồ sơ vụ án giết người của tôi. Đáng lý ra tôi phải đề nghị cậu từ rày về sau đừng có đi tham quan kiểu như thế mà không được tôi đồng ý mới phải.
- Thôi nào, - Nikolaev gạt di, - giả sử như cậu ghé qua một cô nàng...
- Tôi nói với cậu chuyện này hoàn toàn nghiêm túc đấy. Nhân đây tôi cũng nhắc luôn, chẳng phải là hồi còn làm trong ngành cảnh sát cậu chẳng đã bị bắn ba lần là gì ? - Bị bắn thì nhiều hơn nhưng bị bắn trúng thì ba.
- Và một đồng nghiệp đã chết vì cậu ?
Nikolaev dừng phắt lại, và tóm lấy vạt áo Grigoriev lôi anh ta sát vào mình: - Cậu đúng là chó ! Tôi để xem cậu thế nào khi thi hành... Anh ấy đã cứu sống tôi. Đã hứng viên đạn thay cho tôi. Và tôi nhân đây cũng nói thêm, là sau cái tháng đó có tung tẩy ở Bahamas (quốc đảo Bahamas ở Tây Ấn, một nơi nghỉ mát nổi tiếng) đâu, mà nằm sống dở chết dở đấy chứ. - Rõ rồi, - Grigoriev càu nhàu, giật vạt áo ra.
- Nói thế quái nào với cậu được, - Nikolaev bực mình quay người đi thẳng.
- Thế nào cậu cũng gọi điện trước cho mà xem, - Grigoriev hét đuổi theo anh. ***
Nikolaev ngẩng đầu. Hai chân tự dẫn anh đến Hội Nhà văn Trung ương. Anh đẩy cánh cửa gỗ sồi bước vào. Trong sảnh láo nháo chạy tới chạy lui một đám các cô nàng ăn diện ngất trời, tương phản gay gắt với các văn sĩ bơ phờ, trông như đàn ruồi uể oải. Chẳng dưới một chính thể nào chu trình lao động của những người này trùng hợp được với giờ giấc sinh hoạt của một tiểu thị dân bình thường. Một trong những anh chàng suốt ngày lượn lờ ở Hội Nhà văn Trung ương lao ra thông báo với Nikolaev rằng mọi người đang ngồi cả trong quán cà phê bên dưới, còn anh ta được phái đi mua vốt ca vì dưới đó bọn họ sắp hết rượu; nói rồi anh chàng lập tức biến đi. Lại một vấn đề muôn thuở vốn vẫn hành hạ nhà văn Nga, ấy là nạn thiếu rượu và tiền kinh niên. Tình trạng này có thể thấy rõ hơn đặc biệt sau khi các cơ quan thương mại đuổi các nhà văn Matxcơva ra khỏi câu lạc bộ nhà nghề riêng của họ, đoạt lấy nhà hàng và "gian giao lưu", rồi đẩy họ xuống một tầng hầm ngột ngạt, trong đó mọi thứ đều được bán với giá gấp đôi so với những nơi tương tự. Mà ngay cả ở đây người ta cũng đang lăm lăm đuổi. Nhưng cánh nhà văn ta ở đâu chả tìm ra được lối thoát, và thay vì mua đồ uống trong quán cà phê, họ bèn kiếm ở những cửa hàng mọc lên nhan nhản quanh đó, vậy là quán cà phê trong Hội Nhà văn Trung ương càng ngày càng ế ẩm, sa sút. Thay vì hạ giá và để cho các chủ thể sáng tạo được kể cả trong bầu không khí thân thuộc của họ, ban quản lý lại tăng giá không phải hàng ngày mà là hàng giờ. Nikolaev đang thú vị theo dõi xem liệu trò tống cổ các nhà văn ra khỏi ngôi nhà thân thuộc của họ kéo dài có lâu không và cuộc đối đầu đó rồi sẽ kết thúc ra làm sao.
Một nhà văn anh có quen đang bán tập truyện ngắn trào phúng tự bỏ tiền ra in của anh ta ở sảnh ngoài. Nikolaev lại gần:
- Sao, đủ ăn chứ anh bạn ?
- Đủ ăn là thế nào, còn đi nghỉ mát Capri ấy chứ. Cậu biết đấy, tớ lúc nào cũng muốn được cùng với nhà kinh điển của chúng ta lang thang trên đảo thôi.
- Với Lênin ấy à, phải không ?
- Lạy Chúa tha tội, - anh chàng nhà văn đang toan tính một mình kiêm cả tác giả, nhà xuất bản và nhà buôn vội làm dấu thánh. - Tớ thì chỉ cần với Macxim Gorki, một con người và một con tàu là đủ.
- Hay đấy. Có lẽ là tớ cũng chẳng từ chối tham dự một phi vụ đại loại đâu. Cậu mướn tớ bằng lát bánh mì kẹp được chứ ?
- Thế là sao ?
- Cậu viết đủ loại chuyện bông phèng hay ho, mà không biết cái truyện khôi hài đó à ? - Thế là thế nào, cậu nói thử tớ nghe xem.
- Lần sau đi. Ở đây đang có trò gì vậy ? Sao lắm các quý bà dễ kích động thế ? - À, có một hãng nào đó đang tiến hành chiến dịch quảng cáo chế phẩm giảm béo mới đấy mà. Cậu trông, họ trưng ra cả lô người mẫu để khoe món hàng thế kia !
- Mấy cái món "Herbalile" đó, theo tớ, đã ứ hết trong gan mọi người rồi. Không lẽ vẫn có người tin rằng mua một gói thức ăn ủ men nhập ngoại thì có thể không cần rời cái tivi và không nhấc đít khỏi chiếc ghế bành êm ái mà trở nên thon thả mình dây giống các cô nàng này hay sao ? (những năm 1990, công ty bán hàng đa cấp Herbalile quảng cáo các chế phẩm chức năng (giảm béo, tăng cân, giữ nguyên trọng lượng) ở Nga rất
rầm rộ)
- Cậu thấy đấy, nếu không phải thế thì chúng nó đã phá sản và chẳng trả cho ông giám đốc Hội Nhà văn Trung ương cả đống tiền để thuê đại sảnh.
- Thôi, - Nikolaev phẩy tay, - ai cũng có việc này việc nọ, mỗi tớ lông bông. Tốt nhất là tớ đi làm cốc cà phê đây.
Nikolaev đi xuống quán cà phê. Trong hầm mù mịt khói. Quạt lại hỏng. Thật lạ, nhưng tất cả các bàn đều kín.
- Sergei, lại đây, - Boris Nikitin vẫy tay gọi anh từ tít trong góc.
Niikolaev nhập hội, bắt tay chào hỏi cả đám văn sĩ đông đúc và lố nhố đang ngồi quanh bàn. - Cậu uống chứ ? Boris vừa hỏi vừa rót vốt ca vào các cốc.
- Một ít thì được, - Nikolaev cầm cốc vốt ca, thò tay cắp một quả dưa chuột muối nhạt trong cái lọ ba cân để trên bàn, tặc lưỡi làm một ngụm. - Ngon đấy ! Các cậu mua ở đâu, ngoài cửa hàng à ?
- Ở quán lão Gruzia. Lão ấy bán rẻ hơn.
- Thế nào cũng ngộ độc.
- Tránh sao được, - nhà viết kịch ngồi cạnh Nikolaev hùa theo rồi tiếp tục vừa thở phì phì vừa cắp một quả dưa chuột to bằng hai ngón tay ở trong lọ. - Xerioja, cậu đã hứa mang cho tôi cái truyện ngắn cho tờ "Phòng gửi áo Hội Nhà văn Trung Ương" của tôi kia mà. Nó đâu rồi ? - Nikitin hỏi.
- Tôi có đi từ nhà đâu. Tự nhiên rẽ qua thôi. Nhất định lần sau nhé.
Boris có thú sưu tầm các loại chuyện bịa đặt về các nhà văn đã quá cố lẫn đang được tung hô, cũng như tất tật những chuyện xì căng đan liên quan đến Hội Nhà văn Trung ương. Một cô nàng trẻ trung son phấn khá thô thiển, thêm phục sức cũng đáng phàn nàn tiến lại bàn họ.
- Tôi ngồi được chứ ? - cô ta hỏi, rồi không chờ người ta đáp, ngồi phịch xuống cái ghế trống, - Thằng ngốc này đã kịp nốc bí tỉ ra và làm tôi chán quá. Đến uốn lưỡi cũng không xong.
- Phải, thằng cha ấy vẫn thế, - nhà viết kịch mỉa mai. - Chỉ có điều tôi không hiểu sao cái lưỡi của hắn lại làm cô lo lắng thế ? Cô có cần cái đó của hắn đâu, mà cần uống chùa của hắn đấy chứ. Hay là hắn cạn túi rồi ?
- Biến đi - cô nàng quay sang anh ta – Bây giờ tôi gọi cho Klavka của anh, bảo anh lại láng cháng ở đây thì anh sẽ biết ai đang cần được uống chùa đấy !
Nhà viết kịch bèn dí quả dưa chuột vừa cắn dở vào cái gạt tàn như thể đó là cái đầu mẩu thuốc lá, rồi đứng dậy:
- Tôi với mụ này không chỉ nói chuyện mà đến ngồi cùng cũng không chịu được, - anh ta nói, vơ lấy túi xách, khẽ lắc đầu đi ra.
- Còn tôi thì với những quái thai đó, - quí cô ném theo - cái loại đến cà vạt đeo vào áo cũng chả biết đường chọn, cũng chẳng muốn dây vào. Tôi quen biết những loại người khác kìa. Và ăn tối hàng ngày ở các salon nhất hạng của Matxcơva ấy chứ !
- Thôi nào, cô bình tĩnh, Anh Sergei, xin giới thiệu, Nikitin gật đầu về phía người đàn bà –
được biết đến một cách rộng rãi trong cái giới nhỏ hẹp các thành viên của chúng ta… - đến đây, anh ta ngừng một lát nhiều hàm ý và đảo mắt – các thành viên Hội Nhà văn, - lại ngừng, … nữ phóng viên… Cô là gì ấy nhỉ ?
- Irina, - người ngồi cạnh Boris nhắc
- Anh làm sao đấy Nikitin ? Quên hay giả vờ thế ? cong đôi môi quét son đỏ chói, người đàn bà hỏi.
- Giả vờ. Cô uống chứ ? Boris lôi cái chai vốtca uống dở giấu trong túi để tránh cặp mắt cú vọ của tay quản lý nhà hàng.
- Xin phép, - cô ta nói, làm ra vẻ vô tâm và bằng một cử chỉ kiểu cách mà gượng gạo, lấy bao Malboro từ trong chiếc túi xách rẻ tiền, bóng loáng đến nỗi Nikolaev lập tức nghĩ tới một món đồ chơi trẻ con óng ánh, lòe loẹt.
Anh bật diêm, nhưng quí cô nhìn cây diêm đang cháy của anh với vẻ miệt thị, và quyết định sử dụng chiếc bật lửa Tàu rẻ tiền giả hiệu "Rolston" vàng chóe của mình. Mọi cử động của cô nàng phóng viên "trăm đô-la" này đều có vẻ điệu đàng một cách có chủ ý. Cô ta đang cố hết sức để nhấn mạnh rằng đã ngẫu nhiên sà xuống ngang đàn với đám văn sĩ quèn này, chứ thực ra cô ta là một nàng chim có tông có giống khác kia. Và cô ta được đăng hầu như là hàng tuần, chứ đâu phải như mấy gã này, với những cuốn tiểu thuyết, sách, kịch và thơ thẩn của các gã...
Đã đến lúc phải đặt ả thộn cứ phô ra trước tất cả mọi người cái bản chất của một cô nàng phóng đãng làm báo về đúng chỗ. Nikolaev cảm thấy đơn giản, mặc dầu về bản tính tự nhiên anh không phải là kẻ ác độc gì, rằng anh không thể từ chối bản thân một sự thỏa thuê nho nhỏ là được dồn cô nàng rẻ tiền này, kẻ vừa xúc phạm đến hai đồng nghiệp văn bút của anh, một trận ra trò. Dù vậy, nói cho cùng thì nguyên do là từ cơn cáu giận hãy còn âm ỉ trong lòng anh sau trận cãi vã với Grigoriev kia, và còn ở chỗ là bản thân anh đã có vài năm làm báo và không thể nào kiên nhẫn nổi với những cô nàng "phóng viên mặc váy'. Phần lớn những cô nàng quá sức tự tin này đều lao vào những đề tài mà bọn họ không chỉ không hiểu gì, mà còn do lười nhác hoặc ngu ngốc, thậm chí không thèm tranh thủ thời giờ rảnh rỗi để đọc thêm đôi chút. Tuy nhiên cũng có những tạo vật khá là cần cù, trông mong không riêng chỉ vào những cái mông đít trẻ trung và lớp son phấn Pháp trét dày đến hai lóng tay trên bộ mặt xinh xẻo của mình, nhưng đấy là những trường hợp ngoại lệ.
- Tôi nhận ra ngay lập tức cô là một phụ nữ không xoàng và ở cô có cái gì đó. Chỉ có điều không hiểu tại sao một quý cô thanh lịch như thế này - Nikolaev mào đầu 'nhẹ nhàng", và chọn, không theo lối cầu kỳ, để làm nền cho trò đùa của mình một câu chuyện khôi hài cũ rích, - mà lại hút thuốc của đám chăn gia súc thế ? Hay đó là quan niệm riêng chăng ?
- Anh nói gì ? - cô nàng phóng viên giật điếu thuốc khỏi miệng và săm soi nhìn nó từ đủ mọi phía. - Tại sao lại là chăn gia súc ? Thuốc lá MỸ đấy.
- Ở Mỹ chỉ những dân chăn gia súc mới hút Marlboro - dân cao bồi ấy. Người bình thường trong xã hội thì chuộng hút thứ gì đó lịch sự hơn một chút. Marlboro đối với họ cũng đại loại như ‘Trima" và "Re lamor kana'' của ta vậy. Không hiểu sao cứ nhìn nó ở giữa hai hàm răng tôi lại thấy sao mà thô lỗ, ám mồ hôi và bụi bặm của bọn đàn ông chăn bò lang bạt trên các đồng cỏ MỸ đến thế. Mùi mồ hôi ngựa, mùi khét và cả mùi phân bò nữa. Hồi nhỏ có lần tôi từng ở làng quê, - Nikolaev chun mũi điệu bộ, - đúng là một cảm giác không thể nào quên. Mặc dầu có đôi người lại thích mùi mồ hôi ngựa kia đấy.
- Ờ, tôi có trông thấy quảng cáo họ cưỡi ngựa, - quý cô đăm chiêu thốt lên, ngắm nghía chăm chú điếu thuốc thêm lần nữa, rồi thả nó vào chiếc gạt tàn. Có thể cái đầu lọc màu vàng gợi cho cô ta nhớ đến bãi phân bò.
- Xin phép mời cô một thứ mà cô sẽ không phải kinh tởm, trong lúc chưa bỏ thuốc lá, loại đầu bảng của Anh đấy, - Nikolaev chìa cho ả đàn bà điếu thuốc nhàu nát vừa mua ở một quầy bán thuốc lá rẻ tiền bên ngoài. Nó chỉ khác những thứ khác ở chỗ có in hình chiếc vương miện trên vỏ bao, còn thì cũng vớ vẩn tuốt.
Cô nàng Ira đảo cặp mắt ti hí kẻ chì đậm nhìn quanh, dụi thật nhanh điếu thuốc trong chiếc gạt tàn như thể sợ bị thiên hạ nghi ngờ có liên quan đến dân chăn gia súc bẩn thỉu, rồi rút một điếu từ cái gói nhàu nát viền vàng mà Nikolaev đang chìa ra, lại bật chiếc bật lửa của mình và rít một hơi vẻ thèm khát.
- Phải, - cô ả cong môi làm bộ mỉa mai kẻ cả, rồi ngả người lên lưng tựa ghế, tay cầm điếu thuốc thõng một bên, - không tồi, nhưng còn lâu mới bằng thứ mà tôi được hút trong buổi chiêu đãi ở sứ quán Pháp vừa đây.
Nikolaev nén cười một cách khó khăn, nhận ra dưới nách áo cô ta đường may bằng chỉ đen thô thiển đang chực bục ra đến nơi.
- Dĩ nhiên rồi, tôi hiểu chứ, nhưng chúng tôi có đi đâu mà gặp các nhà ngoại giao của họ được, - Nikolaev nói, xoay xoay hộp diêm trong tay. Anh đã quyết phải hạ cho bằng được ả đàn bà vô tích sự, rỗng tuếch và trơ tráo này. - Chúng tôi thì đi trên mặt đất tội lỗi, đó là quý cô mới được lui tới giao du các chốn thượng lưu thôi.
- Chỉ ở đấy thôi. Tôi vốn không thú vị với những kẻ ăn no vác nặng, thợ thuyền, mà cũng chẳng có gì chung với bọn họ.
- Tôi nghe người ta bảo là bây giờ ở các phòng khách thủ đô tất cả phụ nữ đều dùng bốt dài và hút xì gã điếu dài, có phải không ?
- Họ hút cái gì kia ? - nữ phóng viên hỏi lại, dướn thẳng người trên ghế và để phòng xa, cô ta đưa ánh mắt ngờ vực nhìn điếu thuốc của mình.
Nikolaev làm ra vẻ không trông thấy sự ngờ nghệch của người nói chuyện, vẫn tiếp tục: - Tôi hiểu là ở chỗ các vị, những người thượng lưu, đấy là sự quay trở về đầu thế kỷ, với mô đéc. Mà tôi còn nghe nói rằng bây giờ nói về văn chương và các tác giả mới là lỗi mốt rồi. Thậm chí còn hơn thế, phải khăng khăng là mình chả bao giờ đọc cái gì, đến viết cũng không biết, chỉ biết xem tranh ảnh trong các tạp chí thời trang thì mới là mốt kia.
- Anh biết đấy, tôi cũng không đọc gì cả đã từ lâu rồi, - cô ta chêm vào, hoang mang đưa mắt nhìn khắp phòng kiếm chỗ bấu víu, vì có vẻ như với anh chàng này thì cô ta sẽ chẳng được cơm cháo gì, ngoại trừ những câu chuyện rỗng tuếch.
- Mà sao cô không kể cho tôi nghe, với tư cách là một nhà văn, vốn chưa được đặt chân đến những chốn giao du đó, các ấn tượng của mình về lối sống thịnh hành trong giới tinh hoa ấy nhỉ ? Tôi hết sức thích thú. Cô biết không, tôi hiện đang thu lượm từng tí một tư liệu cho cuốn sách viết về đời sống và các lề thói của những người Nga mới của mình đấy. Hẳn đương nhiên là cô đã được đặt chân vào tất cả những salon thượng lưu ấy của họ rồi nhỉ ?
Cô nàng có vẻ như cụt hứng với những hồi tưởng về đám người Nga mới và các salon thượng lưu, chẳng hiểu sao cứ ngọ nguậy không yên trên ghế, có lẽ là những hồi ức của cô ta liên quan đến họ không dễ chịu chút nào. Mà nói chung là những căn vặn từ miệng anh chàng Nikolaev khiến cô ta cảm thấy chừng như bất tiện nếu cứ ngồi mãi ở đây.
- Nói cho đúng ra, - Nikolaev vẫn tiếp tục dồn, - là tôi hết sức mong muốn được cô kể cho nghe về cái salon thời thượng nhất hiện giờ, thưa quý cô...
- Xin lỗi anh, tôi bận quá, có câu chuyện cần trao đổi với một doanh nhân rất nổi tiếng, - cô nàng phóng viên bật dậy, tớp cạn vôt ca trong chiếc ly mài cạnh rồi đảo cặp mắt kẻ sậm khắp các bàn. Đúng là như trêu ngươi, không có ai trong đám khách sộp ở đây sẵn lòng đãi quý cô một chầu. Ira chạy lại một bàn ngồi cùng mấy vị khách đã xỉn tợn, nhưng liền đó nhận ra một nhà thơ nổi tiếng thời gian gần đây có ảnh thi thoảng thấp thoáng trên bìa các tạp chí, đang bước vào. Trong giới văn chương có chuyện đồn rằng ông ta vừa nhận được khoản nhuận bút kếch sù nhờ tập tiểu luận in ở nước ngoài. Cô bạn chuyện của Nikolaev liền lao bổ tới chỗ ông ta, cứ như thể gặp cứu tinh.
- Ôi, vừa đúng lúc tôi đang đi tìm ông. Tôi đang rất muốn viết bài về tập thơ mới của ông đây.
- Tập thơ nào ? - còn váng vất vì trận say ngày hôm trước, nhà thơ cố hiểu một cách khó khăn.
- Cuốn sách ra cách đây chưa lâu ở Anh ấy.
- Ở Anh ư ? - nhà thơ nghiêng mình lách tới quầy bar, và cô gái bán bar, bằng một cái liếc xéo đã thấy bộ dạng khổ sở trên khuôn mặt nhà kinh điển thời hiện đại của nước Nga, vội rót òng ọc vào chiếc cốc vại một trăm gram vốt ca. Đó là khẩu phần bình thường mà từ đó ông ta bắt đầu một ngày lao động muộn của mình. Nhà thơ vồ lấy chiếc cốc vại chứa thứ cồn bốn mươi độ bằng bàn tay run run, rồi nheo mắt chỉ cho Ira chỗ định ngồi. Sau mấy giây, ông ta mở cặp mắt đã lấy lại được vẻ tinh anh, nói với cô bán bar:
- Làm ơn thêm lần nữa. Và cốc nước ép cà chua.
- Vậy, còn cuộc phỏng vấn ạ, - cô nàng phóng viên hiểu rằng phải lấy lòng chừng nào ông ta còn chưa rời quầy bar và có thể gọi cho cô ta ít ra là một ly vang. - Ông có thể chia sẻ nửa giờ thời gian của mình cho cuộc phỏng vấn về cuốn thơ ra ở Anh cách đây chưa lâu không ạ ?
- Tôi có cuốn thơ ra ở Anh ư ? Lạ nhỉ, nhưng tôi chẳng biết gì về chuyện này cả. - Sao lại thế, ông còn phát biểu nhân dịp nó được in ra ở trên truyền hình nữa mà. - Tôi phát biểu trên truyền hình ? - nhà thơ càng ngạc nhiên hơn. - Nhân dịp cuốn thơ của
tôi được in ra ? Kỳ cục. Khi nào thế ? Thế thì hôm qua nhất định phải uống say đã đời một trận rồi chứ.
- Đó là vào thứ Bảy trước.
- Thứ Bảy trước ? Ồ, ra cô nói tới tập sách đó. Nó được in ở Tây Ban Nha đấy chứ. Và là tập tiểu luận, chả có lấy dòng thơ nào. Nhan đề là Không một gram thơ, - nhà thơ vừa nói vừa trả tiền, không hề tỏ ý định gọi cái gì đó cho "quý cô".
Cô nàng Ira không chùn bước. Cô ta ngồi xuống với nhà thơ bên chiếc bàn con cạnh quầy bar và rút trong túi ra cuốn sổ kèm cây bút.
Quỷ thần ơi ! Nikolaev dám cá trăm phần trăm đấy chính là cây Parker ngòi vàng của anh, mắt anh chưa hề trông thấy ở đâu còn có cây thứ hai. Quà của Sveta nhân ngày sinh nhật của anh. Cây Parker biến mất cùng chiếc túi xách của anh trong buổi mừng năm mới ở Hội Nhà báo. Quả thực hôm đó anh cùng anh bạn Igor đã uống đến say mèm. Và anh cũng đã nhớ ra ả đàn bà, cô ta và ả bạn gái đã ngồi cùng một bàn với họ và uống cô nhắc của họ. Đúng vậy, khi anh và Igor quay lại bàn thì cả chiếc túi xách bằng da đẹp đẽ lẫn mấy cô nàng đều mất dạng. Nhưng cứ thử chứng minh đó là do các ả đi !
- Vậy là, ông vừa nói, cuốn sách mới của ông được in ra ở đâu ạ ? - quý cô hỏi lại. Nhà thơ im lặng uống cạn nửa vại vốt ca, chiêu ngụm nước ép cà chua, và chăm chú nhìn cô nàng phóng viên.
- Thì ra là cô năm ngoái đã phỏng vấn tôi. Đến tận giờ tôi vẫn còn ngượng người khi nhớ lại cô viết cái gì trong đó đấy. Làm sao mà cô, một đồ vô tích sự thế kia, lại dám viết bài về thơ, nếu chẳng hiểu quái gì về thơ hử ? Đến cả chép lại lời tôi cho đúng còn chưa thể ! Có quỷ biết cô lẫn lộn cái gì với cái gì, tại sao Makovski lại thành Maiakovski hả ? Cút ngay, sao cho đừng có hơi hướng gì của cô ở đây cả ! - nhà thơ chỉ thẳng tay ra cửa.
Ả đàn bà đứng dậy cười mát.
- Ông tưởng mình là ứng cử viên giải Nobel xuất hiện đấy chắc. Tôi cũng chưa từng thấy đồ quái thai nào như ông đâu. Cứ đợi số sau tôi sẽ trát cả phân vào mặt cho xem. - nói xong ả nguẩy mông ra chỗ một đám say và đã bắt đầu hát hò ầm ĩ.
"Phải rồi, - Nikolaev thở dài nặng nề sau lúc quan sát xong cảnh tượng đó, - sự trơ trẽn và ngu đần của những hạng người đó cứu giúp chúng không chỉ khỏi nỗi xấu hổ mà còn làm chúng tuyệt đối không bị tổn thương trước sự trào phúng tinh tế và những lối châm chích của đám trí thức. Thời buổi này đã đẻ ra một hạng người mới dai như đỉa và thích ứng dễ dàng hơn với những điều kiện sống hiện tại. Trước đây có lẽ người ta đã gọi chúng là lũ quái thai đạo đức. Mặc dù, nói cho cùng thì chính chúng lại coi chúng ta là những đồ quái thai. Một nhà thông thái đã nói đúng: biết ít quên ít, còn quên ít thì biết nhiều. Thực thế, học mà làm gì, phí hoài tháng năm mà làm gì trong các thư viện, có tìm một ngôi sao mới hay thử lý giải ý nghĩa của cuộc sống mà làm gì, khi sẽ đến thay thế cho anh, với răng giả bằng vàng hay bằng sứ sáng lóe, là những hạng người thế đấy, những kẻ chẳng cần đến cái gì ? Hơn thế nữa, chúng thậm chí còn không thể hình dung nổi có những người quan tâm đến một cái gì đó khác hơn so với những chuyên giành giật, trộm cắp, hoặc có khi còn là giết người của chúng, nhưng chỉ có điều họ ăn mặc xấu xí hơn cô ả kia hoặc là một gã đàn ông trên trang bìa một cuốn tạp chí nước ngoài. Mà thôi, mặc xác bọn chúng, không hơi đâu nghĩ ngợi làm gì".
Nikolaev quay lại phía Boris, hỏi:
- Này, cậu tình cờ có biết Gherman Hara không ?
- Gherman ấy à ? Ông ta kia kìa. - Nikitin trỏ tay về phía một người nhỏ bé, tuổi độ bốn mươi lăm, râu ria nhẵn nhụi đang ngồi trong góc.
- Ông ta là người thế nào ? - Nikolaev quan tâm.
- Với nghĩa thế nào chứ ? Như một con người hay một nhà văn ? - Boris vừa hỏi vừa rót thêm vốt ca vào các ly.
- Cả thế này, cả thế kia.
- Cậu ra đấy mà tìm hiểu. Một con kỳ nhông. Lão ấy có vẻ ngây ngây khùng khùng thế nào ấy, sống ở các nhà nghỉ ngoại ô khu Peredelkino và luôn tiên đoán trước các loại tai ương. A, mà làm sao cậu lại để ý đến cái lão lông bông ấy ?
- Tự tớ cũng chẳng biết. Một thằng ngốc làm tớ phát rồ.
- Đấy là Sanyts, có phải không ?
- Ấy không, không phải hắn, - Nikolaev đứng lên, cầm theo ly rượu và tiến đến chiếc bàn nơi Gherman Hara đang ngồi. - Tôi ngồi được chứ ?
- Ngồi đi, - nhà văn phẩy tay và ngay lập tức quay sang Nikolaev hỏi: - Anh có biết tại sao nhân dân Nga lại hay nốc rượu không ? Bởi vì mọi chuyện đều vô nghĩa lý hết, phía trước chẳng có chút ánh sáng hy vọng nào. Quần chúng dẫu cố ngu nhưng bằng trái tim họ vẫn cảm nhận được điều đó. Thế còn trí thức Nga tại sao lại nốc ? Bởi vì họ biết và hiểu bằng cái đầu rằng càng đi xa càng tồi tệ. Điều khủng khiếp nhất là nốc nhiều hơn hết thảy chính là những kẻ hiểu rõ nhất chuyện này. Những kẻ khác mà không hiểu thì vùng vẫy, cố để làm được một điều gì đó. Nhưng thảy đều vô ích cả thôi: nước Nga tất chết. Tên phản Chúa đã ở Matxcơva rồi !
- Theo tôi, một nhà kinh điển của chúng ta đã phát biểu tư tưởng này khác đôi chút, -
Nikolaev nói.
- Chính xác ! - Gherman giơ ngón tay trỏ lên dọa dẫm một kẻ vô hình nào đó. - Năm 1874, Dostoyevski đã nói: "Họ thậm chí không ngờ rằng đã sắp tới chung cuộc cho toàn thể, cho tất cả các tiến bộ lẫn những thứ ba hoa rỗng tuếch của họ ! Họ thậm chí không hình dung nổi rằng tên phản Chúa đã được sinh ra và đang bước đi !" Ông ấy đã nói vậy đấy ! Và ông ấy nghìn lần đúng !
- Ông tiếc không ? - Nikolaev nhếch mép hỏi.
- Anh đừng có khích, tôi là nhà văn. Tôi quan sát, tôi phân tích các sự kiện và rút ra kết luận. Chỉ có nhà văn với nỗi đau thường trực của anh ta trong tâm hồn là biết được điều gì đang diễn ra trên thế giới này. Tất cả những kẻ còn lại thì nhổ toẹt vào cái đó. Họ chỉ sống bằng một ngày, như một lũ phù du. Và lần nữa, thay cho Dostoyevski và cùng với ông, tôi nhắc lại rằng tên phản Chúa đã ở Matxcơva ! Và tai họa cho tất cả những kẻ nào hãy còn chưa hồi tỉnh ! - Đến đây, ngón tay trỏ của Gherman Hara lại lần nữa chọc thẳng lên trần nhà.
- Thì trong Nghệ nhân và Margarite, Bulgacov cũng đã tiên đoán sự xuất hiện của quỷ Satan ở Matxcova đó thôi.
- Không phải, ông ấy chỉ nói đến sụ xuất hiện của một trong các tùy tòng và tổng thiên sứ của Chúa tể Bóng tối mà thôi.
- Đó là ai ? Stalin hay Beria ?
Người đối thoại với Nikolaev lần lượt đưa mắt nhìn mấy chiếc ly để trên mặt bàn, nhưng tất cả chúng đều rỗng không.
Ông ta ngước mắt nhìn Nikolaev, rồi sau khi dán mắt chòng chọc vào một điểm đâu đó nhích lên phía trên gốc mũi của anh một chút, thốt lên:
- Satan, cũng giống như Chúa, có nhiều diện mạo và có vô số danh xưng, vô số hóa thân và những kẻ tùy tòng. Ngài ở khắp mọi nơi. Và xuất hiện với mỗi người, Ngài sẽ mang hình dáng mà kẻ đó mong muốn thấy. Nếu như vứt bỏ quan niệm luân lý thì Ngài mới chính là toàn hảo. Nikolaev nhếch môi cười vẻ châm biếm, đoạn nói:
- Tôi có nhớ Yezekiil nói về Satan, rằng hắn hết sức hoàn hảo, không kẻ nào sánh nổi. - Đúng vậy đấy. Những kẻ bảo vệ tư tưởng giáo hội tiếp cận dường như không muốn ta có một hình dung gớm ghiếc và thô lậu về Ngài, cũng như không miêu tả các tội lỗi của Ngài trước Chúa, nhưng sự thực là Ngài đẹp tuyệt. Nhưng cũng như Juda xứ Iscariot, chẳng hề có lỗi. Nói cho cùng, Ngài cũng chỉ là một công cụ trong tay Đấng Toàn Năng và chúng ta, và theo cách của mình, tẩy uế mặt đất khỏi những điều tồi tệ mà thôi. - Ánh nhìn của nhà văn bất thình lình chuyển sang hoàn toàn ngây dại, mặc dù lời lẽ vẫn rành rọt như thể có kẻ nào đó khác đang nói qua miệng ông ta. - Bất luận thế nào, nếu chúng không hồi tâm, mặt đất sẽ nứt ra và cả cái đô thành chìm đắm trong sa đọa và tội ác này sẽ sụp đổ vào địa ngục. Ngài đã tiến tới gần Tổng thống và những kẻ thân cận của ông ta. Ta cảm thấy Ngài ! Ngài đã ở kề bên rồi đó ! Đó, ta đang nhìn thấy Ngài ! - Gherman bật dậy, vội vã làm dấu thánh, rồi bắt đầu khua tay, như đang xua đuổi một cái bóng không ai trong số những người đang có mặt nhìn thấy được. Sau mấy phút một đám bảo vệ do ai đó gọi đến ập vào dẫn nhà tiên tri ra bên ngoài. Nikolaev quay trở lại bàn Nikitin.
- Về ngủ đi, anh bạn ạ, - Nikitin vừa nói vừa rót rượu vốt ca trong cái chai mới mua về từ
một cửa hàng gần đó vào các cốc.
- Họ dẫn ông ta đi đâu được nhỉ ?
- Sang nhà tỉnh rượu (nơi cảnh sát Nga giữ những người say rượu quá mức ở nơi công cộng, đến lúc họ tỉnh rượu thì thả về) gần đây chứ đâu. Đó với ông ta hầu như đã là nhà rồi ấy mà, ngủ một giấc, rồi sáng ra lại về Peredelkino. Cậu thích bài diễn thuyết của ông ta không ? Kỳ cục, nhưng ông ta cứ luôn thấy đủ thứ quỷ sứ thế đấy.
- Có thể là ông ta đúng chăng ? Người say thường xâm nhập vào tầng thông tin tồn tại phía trên hành tinh của chúng ta dễ dàng hơn. Thời gian gần đây tớ phải nghe những chuyện đại loại như thế nhiều quá.
- Cậu cứ uống như lão ấy thì rồi ngày nào cũng được giáp mặt với chính quỷ Mephistophel cho xem. Thôi, ta hãy cứ quất trăm phần trăm cho Gherman ngủ say hơn trong nhà tỉnh rượu cái đã, cầu cho ban đêm lão ấy bớt bị ác mộng giày vò.
***
Đang ngồi đăm chiêu ở ghế sau chiếc xe Volga, Marina chợt nghiêng mình tới phía trước, gõ vào vai anh tài xế do Xtanixlav Xemenovich cử đến đón và nói:
- Andrius, anh phanh lại gần sạp báo hộ, tôi cần mua mấy tờ.
- Có ngay, - anh ta ngoặt luôn, tay lái đánh mạnh đột ngột sang bên phải rồi lao thẳng lên vỉa hè, đỗ sát bên quầy bán báo.
- Bao nhiêu lần anh đã bị phạt vì tội đỗ xe kiểu này rồi mà vẫn cứ làm theo ý mình thế, - Marina cằn nhằn trong lúc chui ra khỏi xe.
- Chị yên tâm, giờ này cảnh sát giao thông đang đổi ca. Marina mua hẳn cả xấp báo Matxcơva rồi quay lại xe và lập tức giở ngay một tờ ra xem.
- Có viết cái gì mới không ? - Andrei hỏi, lại tạt ngang liền trước mũi một chiếc xe mác ngoại rồi hòa vào dòng xe bất tận tên đường. - Hừ, bóp còi cái gì ? Không phải há mồm ra thế... Cái tì vi ở nhà bị hỏng nên tôi thậm chí chẳng biết thế giới đang có chuyện gì xảy ra hết cả.
- Tạm chưa có gì hay ho, - Marina đáp trong lúc đưa mắt liếc nhanh các tít báo. - Chị Marina này, chị có nghe nói gì về tên giết người không thể sa lưới không ? Về chuyện hắn đi săn gái điếm ấy ?
- Có sơ sơ.
- Là thế này, anh chàng lái taxi hàng xóm nhà tôi, thạo tin lắm, bảo chính là cảnh sát khử đấy.
- Cảnh sát làm cái gì ? - Marina hỏi lại, tay để tờ báo xuống và cầm một tờ khác lên. - Khử. Giết ấy.
- Nhưng để làm gì ?
- Bọn đó sinh sôi tràn lan quá, không giải quyết hết, chẳng biết làm thế nào để chóng, thế là khử. Cùng với bọn "mèo" nữa. Tức là bọn trùm chứa ấy. Để săn lùng các loại đĩ điếm và maphia, cảnh sát đã lập ra cả một biệt đội bí mật đấy. Họ biết thừa đằng nào thì các cơ quan tư pháp nhân đạo của nước ta sẽ biện bạch cho bất kỳ tên tội phạm nào vì tiền hoặc là thả liền tay ngay.