🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bông Hồng Yểu Mệnh - Erin Kelly full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
BÔNG HỒNG YỂU MỆNH Tác giả: Erin Kelly
Người dịch: Đinh Trọng Nhân Phát hành: Phúc Minh
Nhà xuất bản Văn Học 08/2017 —★—
ebook©vctvegroup
Gửi bố tôi, người đã dạy tôi đọc sách!
Trái tim dẫu có tan vỡ vẫn còn hơn giết đi một mạng người. Giấc ngủ dài - Raymond Chandler
LỜI MỞ ĐẦU
Tháng Chín năm 2009
Ngay khi vừa thức dậy, Louisa đã biết, tối nay mình sẽ phải làm việc này. Cảm giác như có một cơn bão đang thành hình mà chỉ riêng cô cảm nhận được. Nó lơ lửng trong không trung suốt cả ngày. Các dấu hiệu cùng nhau xuất hiện: tiếng nhạc trở nên không thể chịu đựng nổi, những đoạn đối thoại vô thưởng vô phạt giờ đây cứ vang lên trong đầu cô như tiếng “tích tắc” từ một quả bom hẹn giờ, còn ký ức thì như những con bọ chét lẫn trong chăn đệm cắn cô vào ban đêm.
Và rồi, sáng hôm đó, cô đã gặp lại anh. Một đám mây mơ hồ mang bóng hình anh, trôi thấp đến mức cô tưởng như có thể chạm vào và kéo xuống. Nỗi sợ hãi xâm chiếm lấy cô cho đến khi hình bóng đó bị gió thổi tan đi. Kể từ lúc ấy, cô hoàn toàn lạc lối: cô nhìn thấy anh thay vì chính mình trong tất cả những vũng nước trên đường và trong các tấm kính. Trong tiếng nói cười của người qua kẻ lại trên đường, cô chỉ nghe âm vang giọng nói của anh. Mọi vật trong vườn như đang chuyển động và lớn lên để hình thành chữ cái trong tên anh: cái thang đang dựa vào tường tạo thành chữ A, những đường ngoằn ngoèo mà ai đó rạch ra trên nền sỏi của mảnh đất trồng hoa giống như chuỗi những chữ M vô tận. Riêng đống đổ nát trước mắt là không đổi dạng, ba ống khói còn lại chọc thẳng lên trời như những thân cây bị sét đánh trúng. Trưa đến, khi nắng chiếu qua những ô cửa sổ không kính, tạo thành những vạch chia giờ, nhìn như chiếc đồng hồ cổ khổng lồ. Louisa biết, điều gì sẽ xảy ra khi đêm xuống, nên cô muốn ngày sẽ kéo dài mãi mãi; nhưng tất cả những công việc và những cuộc trò chuyện trong ngày chỉ như một vệt nhòe và trôi qua quá nhanh.
Cô là người đến khu vườn đầu tiên và cũng là người cuối cùng rời đi. Cô kiểm tra xem cánh cửa vào nhà kính đã đóng chưa, nhanh chóng phân biệt từng chiếc chìa khóa giống hệt nhau trong chùm chìa, rồi khóa căn cabin lại. Cô lần theo đường cáp dày tìm công tắc ngoài trời, ấn nhẹ và cả không gian chìm trong bóng tối. Trăng còn sáng mờ mờ, cô thắp đuốc lên và men theo con đường chỉ mình cô biết. Cô băng qua khoảng đất đang phủ bạt. Khoảng đất này sẽ sớm trở thành bãi đỗ xe mới. Cô đi tiếp qua những bụi cây rậm rạp và cuối cùng đứng đối diện với bức tường. Cảm xúc đang dồn nén trong lòng khiến cô thấy nôn nao. Cô tự nhủ với bản thân rằng, đây sẽ là lần cuối cùng. Lần cuối của lần cuối cùng. Đã có quá nhiều lần cuối cùng rồi.
Khi vào bên trong, Louisa theo thói quen nhấn công tắc ấm đun nước, rồi lại tắt nó đi ngay trước khi nước kịp sôi: cô không định uống trà tối nay. Cô đang bận rộn với nghi lễ. Trước tiên phải thắp đèn, rồi sau đó là châm nến. Một vài chiếc nến lớn đã cháy đến gần bấc nên cô buộc phải thò tay vào trong ống đèn, ngọn lửa mới thắp liếm vào mu bàn tay khiến cô bỏng rát. Cô kiểm tra lại các cửa sổ thêm lần nữa, kéo tấm rèm cửa màu vàng xuống để không ai bên ngoài nhìn vào được. Dù sao thì ai đang theo dõi cô chứ?
Cô ngồi bên mép giường chừng một, hai phút, đợi lò sưởi làm căn phòng ấm lên, cho bản thân một cơ hội để rút lui. Nhưng rồi cô lại quỳ xuống, mò mẫm tìm chai rượu dưới gầm giường. Ngón tay cô run run chạm vào mặt thủy tinh mát lạnh, phần tiếp xúc với cổ chai và nút chai hơi dinh dính, gợn gợn một lớp bụi mỏng. Louisa nhíu mày. Đã bao lâu rồi cô mới làm việc này? Từ mùa xuân? Đúng, cô chợt nhận ra mình đã cố kháng cự nó trong suốt mùa hè. Thảo nào sự cám dỗ lại thôi thúc cô mãnh liệt đến vậy. Cô có thể quên anh trong suốt những tháng ngày công việc ngập đầu ngập cổ, khiến cô ngủ li bì hàng đêm do kiệt sức. Nhưng giờ là tháng Chín, thời điểm giao mùa trong năm, buổi đêm kéo đến nhanh hơn. Dù có dậy sớm hay làm việc chăm chỉ đến mức nào, cô cũng không thể trốn chạy sự thực rằng mình buộc phải ra về sớm hơn vào mỗi tối, và mỗi ngày qua đi lại mang đến thêm những phút giây yên lặng mơ
hồ. Khoảng thời gian trống rỗng đó cứ chồng chất lên nhau khi một tuần trôi qua. Và đối với cô, chỉ một giờ tĩnh lặng, tối tăm đã là quá đủ. Cô mở nút chai và tu một hơi, cảm nhận rõ cổ họng bỏng rát. Giờ thì nghi lễ trừ tà có thể bắt đầu.
Không còn nhiều vodka lắm, nhưng như vậy là đủ, nó tiếp thêm can đảm để cô uống whiskey. Chưa chi chân cô đã muốn không vững, cô leo lên giường và với tay lên cái tủ treo tường. Cánh tủ hẹp, giấu đi không gian sâu chừng hai, ba feet, cô thọc tay đến tận bả vai khi mò mẫm giữa những chồng túi và hộp được sắp xếp cẩn thận. Cuối cùng, cô cũng chạm tay vào đúng chiếc túi mình cần. Cô lôi nó ra mạnh đến mức ngã lăn ra giường, cái túi nylon đập lên bụng, một chai whiskey lăn ra. Cô dốc những thứ còn lại trong túi ra như thể một đứa trẻ đang dốc ngược chiếc tất Giáng sinh, dù cô biết sẽ không có bất ngờ nào. Cô trải đều mọi thứ lên giường, tự hỏi mình nên bắt đầu từ đâu, cô nhận thấy mạch ở cổ họng, cổ tay và lồng ngực đang tăng. Cô bắt đầu với chai nhỏ màu xanh tinh dầu hương cỏ, mở nắp và hít một hơi. Còn chừng một phần tư. Cứ mỗi năm trôi qua mùi hương lại nhạt dần, nhưng nó là của anh, anh đã dùng nó nên cô sẽ không bao giờ thay thế báu vật của mình bằng một lọ mới. Cô xức một chút lên phía sau mang tai, nhớ lại cách anh thoa chúng, anh lấy ngón cái ấn nhẹ lên cổ và cổ tay. Tinh dầu phản ứng khác nhau với mỗi người nên cô chẳng thể nào tái tạo lại chính xác mùi hương của anh, nhưng thế cũng tốt lắm rồi.
Chai whiskey này không phải của anh, nhưng đó là nhãn hiệu anh yêu thích, loại whiskey Ai-len cổ lỗ và không có tiếng tăm nên chẳng ai tầm tuổi anh biết tên, chứ đừng nói là uống. Nó rất khó kiếm ở London. Việc cô có được một chai rượu như vậy đơn giản chỉ là kết quả từ tình yêu còn lại. Khi ấn chai rượu vào miệng, cô cảm giác như đang hôn anh, cô nhắm mắt lại như thể anh đang ở đây. Cô uống nhiều hết mức có thể và run rẩy đặt chai rượu xuống cạnh ngọn nến, óng ánh lan tỏa ánh sáng màu hổ phách.
Mang theo chiếc gương duy nhất từ phòng tắm, Louisa cần trang điểm một chút, làm dịu làn da đã khô mỹ phẩm bằng vài giọt dầu ô-liu lấy từ một ngăn nhỏ. Chì kẻ mi của hãng
Blackpool, còn son là của Black Cherry, cả hai đều có màu đậm vốn chỉ hợp với làn da căng mịn, trẻ trung. Cô vén tóc sang một bên, dùng cặp tóc kẹp chặt một cách thô bạo, khiến cho một phần mặt của cô - chừng nửa inch - lộ ra. Giờ mặt cô đang nghiêng về một phía. Cô xõa tóc ra và hất về bên trái. Thế này sẽ tốt hơn. Cô giơ chiếc váy lên, nhìn nó lúc nào cũng nhỏ hơn so với trong trí nhớ của cô. Cô thực sự đã mặc thứ ngắn như vậy đi ra ngoài sao? Như mọi lần, cô nín thở khi mặc nó, sau đó lại thở phào nhẹ nhõm như thường lệ khi thấy mọi thứ vẫn ổn, có chăng hơi rộng do vải bị giãn. Phần vải nhung màu mâm xôi trước ngực rủ xuống, giờ ngực cô không còn căng như trước, nhưng bụng cô cũng không xệ ra. Cô vặn vẹo khuôn mặt, trong tấm kính mờ, hình dung bản thân thời son trẻ đang trề môi trêu chọc lại cô. Thật không công bằng, cô không thể ngừng suy nghĩ, anh sẽ luôn trẻ trung như vậy. Cô với tay lấy chai rượu và suýt làm đổ ra ga giường. Cô đang say, đang rất say, nhưng vẫn uống thêm chút nữa.
Louisa ngó quanh căn phòng tối. Trong giây lát, cô không hiểu chiếc ti vi đã biến đi đâu, rồi sau mới nhớ ra mình đã lấy nó làm bệ đỡ khi hong khô mấy chiếc đèn lồng Trung Hoa. Cô nhấc bình hoa và kéo tấm khăn phủ, để lộ một dàn máy tích hợp đầu phát video. Cả thứ này nữa cũng nhỏ hơn trong ký ức của cô. Nó là mẫu mới nhất lúc bố mẹ tặng cho cô. Giờ không có ăng-ten, còn điều khiển từ xa đã mất từ lâu. Liệu nó còn hoạt động không? Cô cảm thấy hơi sợ khi nhẩm tính lại quãng thời gian đã trôi qua kể từ lần cuối sử dụng. Cô cắm điện, cảm thấy nhẹ nhõm khi màn hình sáng lên.
Cuộn băng có tên Glasslake này, như cô biết, hiện không còn bản nào nữa. Cô nắm chặt, gần như thách thức mình bóp nát nó. Thật dễ dàng để móc ngón tay nhỏ bé của cô vào cuộn băng và moi ruột nó ra. Cô biết mình nên phá hủy nó. Mỗi mùa đi qua cô càng thêm tự tin rằng sẽ không ai phát hiện ra mình, nhưng nếu bị phát hiện và nếu mọi thứ phản pháo lại cô, thì việc sở hữu cuộn băng này sẽ là một thảm họa. Nhưng giờ đây cô không thể làm việc đó, bất lực ngăn cản bản thân nhét cuộn băng vào đầu máy và ấn nút Play.
Đoạn mở đầu chạy qua trước mắt cô theo một thứ tự quen thuộc: những hình ảnh quảng cáo thuốc lá và cà phê, đường dây 0898 dành cho những ai cô đơn đang cần khuây khỏa, đoạn mào đầu một chương trình xa xưa trên kênh 4 mà hẳn là nội dung ban đầu của cuộn băng này. Sau đó, đoạn hình ảnh phát sóng bị ghi đè lên bằng một đoạn ghi hình nghiệp dư. Khi máy quay rung rung tiến sát vào anh, ngay lập tức cô cảm thấy xao xuyến như lần đầu gặp gỡ. Anh đưa tay lên hất mái tóc khỏi mắt, cô sắp nhìn thấy vài sợi chỉ bị tưa nơi cổ tay của bộ áo liền quần màu đen anh đang mặc và cả lời hát được viết nguệch ngoạc ở mặt trong cánh tay anh. Sau này, khi đã quen nhau, anh nói với cô rằng, đôi khi những lúc lo lắng, anh sẽ quên bẵng mất những từ ngữ mình dành hàng giờ để viết. Tiếp theo là một vài đoạn ghi khác, ánh sáng mờ ảo, âm thanh méo mó, nhưng đây là phần Louisa thích nhất bởi cô đã ở đó. Cô ở đó trong khung hình đầu tiên với bộ váy xanh; rồi cô cũng xuất hiện trong cảnh thứ hai, đứng ngay trước máy quay nên có thể nhìn thấy đỉnh đầu của cô trong suốt cảnh quay. Có vẻ như anh đang hướng về phía ống kính và biểu diễn, mặc dù Louisa biết rõ tất cả những lời anh hát đều dành cho cô và hướng về cô. Đó là bằng chứng cho thấy, dù sau đó có chuyện gì xảy ra giữa hai người đi nữa, thì ngay lúc này đây anh vẫn khao khát cô nhiều như cô khao khát anh. Cô hiểu rằng, đó chính là lý do thực sự ngăn cản cô phá hủy cuốn băng này.
Adam đang nhìn vào ống kính giữa những tiếng la hét cuối buổi biểu diễn. Sau một hồi dò dẫm, Louisa cũng tìm được nút Pause và dừng cảnh phim lại. Anh đang nhìn cô với ánh mắt đắm say và cáo buộc. Sự hối tiếc dâng lên trong cô mạnh mẽ đến mức gần như trở nên ngọt ngào. Cô nhoài người về phía ti vi như muốn ôm lấy nó. Cô tin rằng khao khát trong cô đủ mạnh để kéo anh ra khỏi màn hình nơi anh đang đứng yên đó, để trở về với cuộc sống, nhưng những gì cô nhận được chỉ là một nụ hôn nóng bỏng qua màn hình.
CHƯƠNG 1
Tháng Chín năm 2009
Họ vẫn chưa buộc tội Paul. Đó là điếm quan trọng nhất. Chừng nào họ còn chưa buộc tội, cậu còn có thể tự nhủ rằng mình ở đây với vai trò là nhân chứng, chứ không phải tòng phạm. Cậu nhìn quanh phòng giam, ở đây không có cửa sổ, chỉ có một hàng kính vuông vắn phía trên cho những tia nắng hiếm hoi lọt vào nhắc cậu giờ là buổi sáng, nhưng những tia nắng ấy vẫn không đủ sưởi ấm buồng giam. Ngoài kia hẳn trời đang ấm, thậm chí là nóng nực, giống mấy hôm trước. Cậu còn nhớ mình đã đi qua những bậc thang ngắn để xuống một hành lang nhỏ lạnh lẽo có những cánh cửa nằm rải rác. Cậu thầm nghĩ phần này của tòa nhà chắc phải nằm dưới lòng đất. Paul cảm thấy lạnh khi sờ tay vào mặt tường nhẵn nhụi. Cậu cũng cảm nhận được sàn nhà mát mẻ và rắn chắc qua lớp tất. Mảnh chăn rách màu nâu không giúp ích nhiều, cả đêm qua Paul trằn trọc, khi lấy nó để gối đầu cho đỡ mỏi cổ, lúc lại lấy đắp lên người để khỏi rùng mình. Cậu chắc chắn đã ngủ được một chút, bởi những cơn ác mộng làm cậu tỉnh giấc, nhưng cậu cảm giác như thể mình đã không chợp mắt trong nhiều tuần liền. Cậu rất cần đi vệ sinh, bụng đau quặn lại mà bên cạnh bồn rửa nhỏ bằng thép không có giấy và cậu cũng không muốn kêu lên, nhưng ngộ nhỡ Daniel ở gần đó nghe thấy. Cậu ta có lẽ ở ngay phòng giam kế bên. Sự im lặng không nói lên gì cả.
Paul kiểm tra đầu ngón tay mình, tự hỏi sẽ mất bao lâu để màu mực xanh mờ đi hoàn toàn, đột ngột cánh cửa phòng giam mở toang, dội lại một tiếng nổ lớn. Rõ ràng âm thanh trong phòng giam này vẫn còn mới mẻ với Paul. Chúng thân thuộc hơn với Daniel, dĩ nhiên rồi, từ rất lâu trước khi bị tóm vào đây lần đầu tiên, cậu ta đã quá quen với những câu chuyện truyền
miệng về những cánh cửa nặng nề và hành lang lắp chuông báo động, cũng chính là người đã nói về tiếng bước chân rầm rập của cảnh sát cùng lũ rác rưởi. Paul luôn gọi họ là “cớm” một cách thiếu tôn trọng, giống những kẻ không bao giờ thực sự tin rằng họ sẽ phải trả giá cho những gì mình gây ra.
Một sỹ quan nhắc Paul đã đến giờ quay lại phòng thẩm vấn. Cậu tự hỏi, liệu hôm nay chúng sẽ ném những gì vào mặt cậu. Cuộc thẩm vấn hôm qua kéo dài hàng giờ, nhưng nhờ luyện tập từ trước cậu đã sống sót, nếu không muốn nói là chiến thắng. Daniel đã dặn, nếu bị bắt thì đừng bao giờ trả lời, đừng bao giờ giải thích. “Nếu mày không nói gì, chúng sẽ không lợi dụng được.” Tất nhiên cậu ta đã chuẩn bị cho Paul để tự vệ trước các cáo buộc tội trộm cắp, chứa chấp, tiêu thụ hàng gian hay xâm nhập gia cư bất hợp pháp, nhưng nguyên tắc trên cũng được áp dụng trong trường hợp này. Paul càng nghĩ càng tin chắc rằng bọn cớm sẽ không có cách nào chứng minh được cậu đã có mặt ở đó.
Bọn họ đi qua phòng vệ sinh ngoài hành lang, thấy Paul rên rỉ viên cảnh sát cũng mủi lòng, đứng đợi phía ngoài. Giống hệt khi thi, nếu muốn đi vệ sinh sẽ có giáo viên hộ tống và canh gác bên ngoài. Tiếng nói chuyện trong này rất vang. Paul thư giãn và ấn nút xả. Ở đây, phần tiếp giáp giữa tường và trần có nhiều gạch kính hơn nhưng vẫn không có bất kỳ cơ hội trốn thoát nào qua cửa sổ. Cậu thấy thật may vì không có gương phía trên bồn rửa. Phải đến vòi nước thứ ba cậu mới kiếm được chút xà phòng rửa tay, lớp bọt xà phòng nhìn thật mềm và xốp, nhưng khi xoa vào mặt, cảm giác da căng lên và đau rát như thể vừa vã thuốc tẩy lên mặt vậy. Cậu cố lấy một chút để rửa tay và đánh răng, nhưng không chịu nổi mùi vị quá khủng khiếp đó nên buộc phải nhổ đi.
Cậu bước vào một căn phòng khác giống hệt, hoàn toàn không có cửa sổ, tường sơn màu xanh thẫm khiến căn phòng lúc nào cũng tối mịt như nửa đêm. Chỉ có mấy viên gạch thoát khí ở cửa và ngang đầu gối mới giúp Paul tin rằng cả lũ sẽ không bị chết ngạt. Chiếc bàn formica đen mép được nẹp gỗ sơ sài, ghế của họ cũng bằng gỗ và chỗ ngồi bọc vinyl đen, riêng ghế của cậu có màu cam và bị vít chặt xuống sàn nhà. Một máy
ghi băng cối chiếm đến nửa cái bàn. vẫn là mấy vị thanh tra lần trước: một người đàn ông là thanh tra Woburn và một phụ nữ sau khi xưng chức vụ xong, ngay lập tức yêu cầu cậu gọi là Christine, kết quả là cậu đã quên béng mất cấp bậc cũng như họ của cô ta. Họ đều có vẻ khỏe khoắn và Paul nhận ra trong khi mình dành cả đêm trong nhà ngục thì họ được về nhà, tắm táp và ngủ trên giường. Woburn mới cạo râu, phần da trên cằm vẫn còn lưu những vết đỏ mờ. Paul vô tình đưa tay lên cằm và cố nhớ lại lần cuối cạo râu của mình. Cách đây bốn ngày? Hay năm? Nhưng cậu vẫn cần thêm nhiều ngày nữa để có một bộ râu quai nón.
Paul thấy khó mà tin được Christine đúng thực là một sỹ quan cảnh sát. Cô ta bôi son, đeo khuyên, mái tóc sành điệu, nhìn không khác mấy ả nhỏ thó ngồi chồm hỗm đã lấy đi thắt lưng, điện thoại, chìa khóa và giày của cậu hôm qua. Chỉ có duy nhất sỹ quan trực hôm đó, một người đàn ông chừng năm mươi tuổi tên Rob, có vẻ giống với những mô tả của Paul. Ông ta có đôi mắt lờ đờ, tóc bết, như thể vừa trải qua một ca làm đêm. Paul nhớ lại ngày hôm qua khi ông ta xuất hiện ở phòng giam trông cũng giống hệt như vậy, cộng thêm cái cà vạt nhàu nhĩ và đôi giày đã cũ sờn kia thì hẳn ngày nào bộ dạng của ông ta cũng vậy.
Woburn lườm Paul còn Christine thì mỉm cười rồi cụp mắt xuống. Cậu ước mình có thể đọc được suy nghĩ của họ. Daniel rất giỏi đọc ngôn ngữ cơ thể người khác, cậu ta có thể đọc suy nghĩ người khác giỏi hơn bất kỳ ai Paul từng gặp. Cậu ta luôn biết rõ người khác đang nghĩ gì. Đó là một trong những lý do Paul nói dối Daniel rất khó.
Máy ghi âm phát ra những tiếng động nhỏ và bắt đầu chạy. “Thẩm vấn Paul Seaforth tiếp tục vào lúc 9 giờ 20 phút, ngày 01 tháng Chín năm 2009.” Woburn nói, “Chúng ta đang nói đến sự kiện tối ngày 30 tháng Tám. Trong lúc cậu ngủ, chúng tôi đã có cuộc trao đổi nhỏ với Scatlock. Hắn đã khai ra nhiều điều.”
Paul rõ ràng không hề tin và cảm thấy bị xúc phạm. Woburn nghĩ Daniel là đồ ngốc? Daniel có thể làm bất kỳ thứ gì, nhưng không bao giờ làm kẻ chỉ điểm. Carl đã nói về cảnh sát và những trò tâm lý bọn chúng hay chơi, “Đó là một phần trong
nghiệp vụ của chúng, chúng sử dụng phương pháp đánh lạc hướng dựa trên cơ sở tâm lý để khiến cậu tin rằng chúng đang nói thật thay vì dối trá.” Ý nghĩa những lời của Woburn sẽ phụ thuộc vào phản ứng của cậu và cậu chỉ mở lời để cho bọn cớm thấy chiến thuật của chúng đã thất bại.
“Tôi không tin.”
“Được thôi.” Woburn nhún vai. Ông ta đang cầm một tấm ảnh. Trước khi Paul kịp quay sang hướng khác, cậu đã nhìn thấy cảnh tượng đã lặp đi lặp lại trong tâm trí cậu nhiều lần sau khi hai đứa bỏ trốn. Woburn chọc đầu bút chì vào phần tệ nhất trong bức ảnh. Paul cố dụi mắt, tấm ảnh vẫn ở đó. Cậu nắm tay lại và ấn mạnh vào tròng mắt, nhưng tấm ảnh chẳng những không biến mất mà còn khắc sâu hơn vào tâm trí cậu. “Có gì phải xấu hổ chứ”, Woburn nói, “cứ như lần đầu mày nhìn thấy nó vậy.”
Paul đang tự hỏi sao họ không nhắc đến tên người đàn ông đó, đồng thời cầu mong họ cứ tiếp tục không đụng đến cái tên đó như thế này. Ken Hillyard, Ken Hillyard, Ken Hillyard - cái tên đó đang quay mòng mòng trong đầu và cậu sợ nếu bất kỳ ai gọi to nó ra, thì nó sẽ như mật khẩu vậy, toàn bộ quyết tâm của cậu sẽ vỡ vụn. Cậu chăm chú nhìn xuống bàn. Lớp véc-ni trên mép nẹp gỗ đã tróc. Cậu cố cạy một mảng lên, nhưng những ngón tay tội lỗi khác đã miết nhẵn nó. Rob kéo ghế đến cạnh tường và tựa vào đó, đầu bên trái tì vào lớp thạch cao.
“Cái này có lẽ hơi khó xem”, Woburn nói vẻ hồ hởi, “chắc mày sẽ thích món này hơn.” Ông ta rút một bức ảnh khác từ hộp đen nhỏ. Paul phải mất mấy giây mới hiểu được mình đang quan sát cái gì. Khi nhận ra bộ phận định vị vệ tinh, cậu cảm thấy như toàn bộ lông tóc trên người đang dựng đứng lên. Trong bức ảnh thứ hai là con đường quê ngoằn ngoèo dẫn đến một ngôi làng mà sau này, ít nhất là ngay lúc này, sẽ trở thành tên của một vụ án đặc biệt nghiêm trọng.
“Một món đồ chơi đáng tiền.” Woburn mỉa mai, “Đó là loại xịn nhất đấy! Nó sẽ ghi lại hết dù mày có đi bất kỳ đâu. Dấu vết để lại ngay trên áo mày, tất nhiên rồi.” Bức hình thứ ba cho thấy hai đứa vào làng lúc 11 giờ 20 tối, hai tiếng trước khi chuyện đó xảy
ra. Tim Paul đập dữ dội khi cậu cố gắng đoán xem tất cả những chuyện này có ý nghĩa gì. “Nhìn đi! Đây này! Bọn tao biết cả hai đứa mày đều ở đó. Một trong hai đứa đã gây chuyện. Tao biết đấy là ai. Mày cũng biết. Cô ấy cũng biết.” Ông ta hất đầu về phía Christine. Cô ta vẫn giữ nguyên vẻ mặt khó hiểu như vậy, đôi mắt buồn, cười mỉm. “Đến cả những bộ lạc tiền sử vùng Amazon chưa được phát hiện ra cũng biết. Ở đây không có giả định gì hết, vấn đề là khi nào?” Paul lắc đầu, cảm thấy bộ não mình đang va “boong boong” vào vách hộp sọ. Cậu cần phải suy nghĩ, thật nhanh, nhưng Woburn tiếp tục nói, “Đây là những điều sẽ xảy ra nếu mày từ chối nói chuyện với tao. Trường hợp nhẹ nhất mày sẽ bị buộc tội đồng lõa và bao che tội phạm. Còn trường hợp xấu nhất, Scatlock đổ tội cho mày, tất cả đống hỗn độn này sẽ được đưa ra trước tòa, lời khai của mày ngược với hắn và tất cả chúng ta đều biết mày sẽ bị buộc một tội mà mày không làm.”
Christine chồm tới trước như để tiết lộ một điều bí mật, “Chúng tôi biết đó là Daniel. Tất nhiên chúng tôi biết. Tôi nghĩ cậu không dính quá sâu vào vụ này, đúng không? Tôi không trách cậu vì đã im lặng. Nhưng cậu chắc chắn đã ở đó và đó là chứng cứ duy nhất chúng tôi có được trước khi tiếp tục điều tra sâu hơn và chắc chắn khi đó sẽ còn tìm được nhiều thứ hơn nữa. Nhìn tôi đi, tôi biết cậu sợ hắn ta.” Trông Paul như người đang bị một cục đá to tướng vướng nơi cổ họng và khuôn mặt của Christine bắt đầu nhòa đi. Nếu cậu nháy mắt chỉ một lần thôi cậu sẽ gặp rắc rối ngay lập tức: sự thông cảm của cô ta không bù đắp được sự khinh thường của Woburn. “Tôi biết cậu đang sợ những gì hắn sẽ gây ra cho cậu. Nhưng đó chính là mong muốn của tôi: cậu càng nói với chúng tôi chi tiết những gì Daniel đã làm, lời buộc tội lên hắn sẽ càng mạnh mẽ và hắn sẽ phải ngồi tù lâu hơn.”
“Cô thì biết gì về những chuyện sẽ xảy ra nếu tôi làm như vậy?” Cậu đột ngột nói, “Cô không biết gì về cậu ta.” Chỉ đến khi thấy Rob ngồi thẳng người lại trên ghế, Paul mới nhận ra cậu vừa chính thức thừa nhận mình có tội.
“Ngược lại, tao biết rõ Daniel Scatlock là người như thế nào” Woburn nói, “Tao đã theo dõi ông già nó từ hồi còn là lính mới.
Hồ sơ thanh thiếu niên của thằng oắt con khi đó đã dày cả xấp. Tao đã đợi từ lâu ngày nó đến tuổi trưởng thành.” Có phải bọn họ đang thực sự ra giá không, về một tương lai không có Daniel? Paul đã nghĩ rằng đó có thể là kết quả của những lần cầu nguyện, nhưng giờ vẫn chẳng có gì chắc chắn. Cậu muốn trốn thoát, nhưng không phải theo cách này, nhờ mạng sống của một người và phải hy sinh tự do một người khác. Dù cậu đã lập sẵn kế hoạch đời mình, nhưng giờ lại thấy bối rối khi không biết phải đối mặt thế nào với cuộc sống không có Daniel, sao có thể...
Tiếng động duy nhất trong phòng giam là tiếng lách cách đều đặn của máy ghi băng và tiếng thở rít lên từng hồi của Rob. “Tôi cần được bảo vệ, như trong Safe house chẳng hạn.” Paul nói như thể cậu mới nhảy xuống từ bậc cao nhất ở bể bơi : mới đầu không thật quyết tâm, rồi vài giây sau khi nhún chân trên mép ván, nước đã lao đến đâm sầm vào người. “Safe house?” Woburn hừ giọng. “Mày biết nó đắt đỏ thế nào không? Chỉ dành cho những vụ án đặc biệt nghiêm trọng.” “Nghiêm trọng đến mức nào?” Paul vặn lại.
“Ý thanh tra Woburn là một căn nhà an toàn sẽ tốn rất nhiều công sức và chúng dành cho những đối tượng và gia đình không có khả năng tự vệ, những đối tượng có thể gặp nhiều nguy hiểm nơi công cộng.”
Christine giải thích, “Tôi sợ rằng CPS sẽ không xem vụ của cậu là một vụ án đặc biệt nghiêm trọng, hay coi cậu là đối tượng gặp nguy hiểm đặc biệt đâu. Ra làm chứng chống lại bạn bè là chuyện bình thường. Nhưng chúng tôi có thể đáp ứng cho cậu theo chương trình bảo vệ nhân chứng trong chừng mực nào đó và...” Sau đó là sự im lặng khi cô ta đang cố ngó nghiêng tìm lời lẽ phù hợp. Khi tiếp tục, giọng cô ta trở nên lào phào, “Tôi nghĩ đã đến giờ uống trà.”
“Cái gì?” Woburn gần như hét lên.
“Buổi thẩm vấn tạm dừng lúc 9 giờ 31.” Christine nói và ấn nút tạm dừng.
Woburn lườm cô ta nhưng không tranh cãi gì thêm. Paul đột ngột hiểu ra chính cô ta mới là sếp của Woburn. Nếu là Daniel
thì cậu ta đã nhận ra ngay từ đầu rồi. Hai thanh tra cùng đứng dậy và rời khỏi phòng. Giọng nói của họ, sự thô lỗ của ông ta, sự mềm mỏng của Christine, tất cả đều mờ nhạt khi họ rời đi. Viên cảnh sát áp giải cậu từ phòng giam quay lại đứng đợi ngoài cửa.
Rob thả lỏng người, cúi gằm xuống, giống tư thế ngồi quen thuộc của mấy người vô gia cư ở ghế đá công viên. “Hừm, mọi thứ có vẻ khác thường đây.” Ông ta lẩm bẩm, “Đến lúc nghỉ ngơi làm điếu thuốc rồi.”
Paul ngồi một mình với viên cảnh sát, quan sát máy ghi băng cối, hai cuộn băng, một bên dán nhãn da cam, một bên màu trắng, đang chuyển động chậm chạp theo quán tính trước khi dừng hẳn như thể đang thư giãn. Woburn và Christine trở lại sau năm phút hay một giờ gì đó, Paul không chắc nữa, họ mang trà cho cả năm người. Trà được rót vào cốc nhựa, mỗi cốc chồng thêm một cái nữa để tránh bỏng tay. Cho đến ngày hôm qua, cậu mới lần đầu tiên uống trà trong cốc dùng một lần. Kể cả ở chỗ Daniel, trà vẫn được rót vào cốc tử tế. Lúc đầu mùi nhựa hơi khó chịu, nhưng khi đã quen thì mùi vị cũng không tệ lắm. Người pha ấm trà này đã nêm thật vừa đường. Cậu đoán rằng họ đang đợi Rob quay lại, rồi mới bật máy ghi âm. Christine nói trước.
“Chúng ta sẽ tìm một cách khác. Giờ cậu cũng dính máu rồi, ẩn dụ thôi, nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta, ừm, nếu chúng ta dàn dựng lại vụ này, để cậu là nhân chứng thì có thể buộc tội Daniel mà không liên quan gì đến cậu.”
“Ý cô là sao?” Paul hỏi. Nhớ lời Carl luôn nói, không tồn tại thứ gọi là vé-ra-tù-miễn-phí.
“Tôi sẽ trao đổi với một người bạn cũ đang điều hành các dự án cộng đồng. Trước đây làm cùng với tôi, cô ấy làm các dự án thanh thiếu niên, giúp đỡ các bị can trẻ tuổi và, ừm... những người không có khả năng tự vệ.” Trong lòng Paul nảy ra ý phản đối trước từ “bị can”, bất chấp quá khứ của mình, nhưng lại chẳng tỏ vẻ gì với từ “bị tổn thương”. Cậu cảm giác mình như một con cua không mai. “Cô ấy sẽ sắp xếp cho cậu một công việc, một nơi để sống, tất nhiên không phải là một safe house,
nhưng hiện cô ấy đang làm việc tận Warwickshire, đủ xa để cậu có một khởi đầu mới. Một công việc liên quan đến vườn tược, tôi nghĩ vậy. Có lẽ hơi vất vả một chút, nhưng nó sẽ tách cậu khỏi Daniel.”
Paul gần như bật thành tiếng rằng cậu sẵn sàng hạnh phúc mà “hót phân” cả đời nếu có thể thoát khỏi đống rắc rối này và tránh xa Daniel. Một phần nào đó trong cậu như rời khỏi cơ thể và đang lượn lờ quanh phòng, như thể minh họa cho cậu thấy sự tự do trong tầm với. Nhưng cậu cần chắc chắn hiểu rõ những gì họ đang nói. Cậu đã gặp quá nhiều chuyện không rõ ràng, cậu cần họ nói toạc ra mọi thứ.
“Nhưng với một điều kiện...”
“Cậu nói cho chúng tôi chính xác Daniel đã làm gì.” “Thế còn vai trò của tôi trong vụ đó?”
“Vai trò nào? Cậu là nhân chứng.” Woburn nói.
“Nhưng tôi...”, rồi cậu hiểu ra. Christine ngồi im lặng trong khi Woburn cố gắng kìm chế bản thân dưới vẻ mặt bình tĩnh. Christine đặt tay lên bàn, những ngón tay chỉ cách Paul vài inch, nó khiến cậu phải vật lộn với ham muốn nắm tay cô ta ngay lập tức.
“Vậy cậu nghĩ sao, Paul?”
CHƯƠNG 2
Tháng Tư năm 1989
Phòng ngủ của Louisa nằm ở gian phía sau tầng trệt nhà bố mẹ cô, giữa ga-ra và một con ngõ nhỏ. Cánh cửa kính mở ra một khoảng sân nhỏ, đem lại cảm giác thoáng đãng cho cả căn phòng.
“Chị không hiểu sao em có thể ngủ được ở đó.” Miranda nói, phòng cô ấy ở ngay trước cửa phòng bố mẹ. “Căn phòng đó thật tách biệt.”
“Chính xác.” Louisa đáp lời.
Đúng là trong trường hợp kẻ đột nhập trèo qua hàng rào sắt, tắt chuông báo động và bẻ khóa cửa thép đằng trước thì cô sẽ là người đầu tiên bị hắn xiên cho một nhát vào sọ, nhưng cô sẵn sàng chấp nhận rủi ro để được tự do chơi nhạc và có một phòng tắm riêng dưới tầng hầm. Phòng ngủ phía dưới có riêng một hệ thống báo động, giúp cô có đủ thời gian để tránh mặt các vị khách khi nghe thấy tiếng cổng kéo lê, xe lui vào ga-ra và chìa khóa tra vào ổ khóa cửa trước. Làn mi dày, tô đậm đầy khêu gợi của cô khiến bao chàng trai trước ngưỡng trưởng thành phải siêu lòng. Đã bao nhiêu anh chàng đi chân trần, nhón gót nhòm vào từ con ngõ trải sỏi rồi? Ở đây cô cũng có thể lẻn đi dự tiệc thâu đêm mà không sợ bị ai phát hiện. Bố mẹ Louisa rất hài lòng với các chuẩn mực mình đặt ra, khiến cô phải cố gắng giữ gìn bằng cách chỉ phô bày những tư tưởng nổi loạn nhẹ nhàng nhất và che giấu những ý tưởng cô biết chắc bố mẹ sẽ để ý. Bí quyết là phải tự xác định được ranh giới, rồi quăng vào đó một thứ chắc chắn sẽ đẩy ranh giới đó ra xa hơn và theo thời gian, ta sẽ bị đẩy lùi lại một điểm đúng vị trí ta muốn ban đầu.
Cô vẫn còn rùng mình khi hồi tưởng lại mối đe dọa liên quan “lãnh địa” của cô xảy ra cách đây vài tháng, vào khoảng sinh nhật thứ mười tám, khi bố cô ngẫu hứng muốn biến phòng ngủ dưới hầm thành phòng tập thể dục và để Louisa ngủ trong phòng dành cho khách. Viễn cảnh phải chuyển về phía trung tâm ngôi nhà làm cô căng thẳng kinh khủng và nó ảnh hưởng tồi tệ đến giấc ngủ trong giai đoạn cô đang tập trung ôn thi A level. Sau nhiều tháng lo lắng vô ích, bố cô - ông Nick Trevelyan đã đầu tư tiền vào hệ thống giải trí âm thanh vòm mới của Bang & Olufsen. Ông và mẹ cô - bà Leah - quyết định sẽ ghi danh ở một phòng gym tư nhân gần Olympia, ở đó có huấn luyện viên và bể bơi nước mặn khép kín. Cả hai mua thẻ thành viên dành cho gia đình, nghĩa là các cô con gái của họ cũng được sử dụng phòng tập tùy ý. Miranda luôn nghe theo bố mẹ trong mọi chuyện, dù là theo dõi tin tức về thuốc trên kênh UCL hay đọc bản tin Guardian vào bữa sáng, ngay lập tức thấy thích thú. Cô gọi lịch tập của mình là “một khóa huấn luyện”, như thế chuẩn bị tham gia Olympic Barcelona đến nơi. Louisa không muốn tham gia cùng mọi người, dù cô biết kết quả sẽ rất tuyệt: nhìn Miranda mà xem - như thể có ai đó nhét cô nàng vào một chiếc corset và qua mỗi tuần lại kéo sợi dây eo chặt thêm một chút. Không phải Louisa phản đối việc tập luyện, chỉ là cảm thấy việc chạy tại chỗ trên một cỗ máy thật tẻ nhạt và thiếu tự nhiên.
Bữa sáng của ba người họ là suất ngũ cốc tổng hợp đã được cân đo đong đếm cẩn thận. Louisa cảm thấy mọi ánh mắt của họ đang nhìn chằm chằm vào lưng mình khi cô làm món trứng chiên bơ. Ba người ăn mặc giống nhau, đều là áo thun màu ghi xám có logo phòng gym sau lưng. Bộ đồng phục đó cực kỳ ăn khớp với gam màu chủ đạo của ngôi nhà, từ cửa trước đến phòng làm việc của bố cô ở hiên: những mảng tường trắng và thảm trải sàn có họa tiết sơn dầu. Cô cảm giác như mình đang sống trong một bức ảnh sáng quá mức, còn cô trong bộ đồ đen, đỏ và tím, cảm thấy mình thật kỳ dị, như thể một trò chơi khăm của bóng tối.
Cô muốn sơn phòng ngủ của mình. Trên đường Portobello, cô đã mua một thùng sơn đen đầy ắp, một vài lá trang trí mạ vàng và hai cuộn giấy dán tường màu mận chín rất đẹp và dày
dặn. Chúng vẫn còn nằm trong ngăn kéo giường cùng bộ đồ chưng cất, những ống nghiệm và chai đủ loại, những cuốn sách và cả mấy món đồ chơi “người lớn”. Nếu cô sơn lại tường và dán giấy khi mọi người đi tập gym thì không biết bao giờ họ sẽ phát hiện ra? Không một ai, ngoại trừ những vị khách cô “mời” đến - tất nhiên rồi, dám vượt qua những giới hạn cô đặt ra.
Làm việc này cùng mẹ là tốt nhất nhưng cô không muốn nhờ, vì trước đây đã từng quá mệt mỏi để thuyết phục mọi người tin rằng nhận công việc ở chợ Kensington là một quyết định đúng đắn. Bố mẹ cô, khi biết tin con mình đã thất bại trong việc giành lấy chỗ đứng trong trường đại học sau kỳ thi A-level, vẫn còn đang “giả vờ hiểu hết mọi chuyện”, khiến cuộc nói chuyện không mấy thoải mái, nhạt nhẽo. Có lần, Louisa cũng thử kiểm tra lại ranh giới không dễ lay chuyển đó, nhưng kết quả gần như cô dự liệu, mọi chuyện đi từ sự không thấu hiểu đến những lời móc máy chỉ trong hai phút.
“Làm việc ở khu chợ?” Mẹ cô hỏi.
“Nhưng mẹ cũng nói rằng con phải có trách nhiệm với cuộc đời mình.”
“Thứ gì đó xứng đáng cơ. Chúng ta hy vọng con sẽ đi học hoặc tối thiểu là đi du lịch. Cho đến giờ có vẻ phần lớn tiền tiêu vặt của con dùng để say xỉn.”
“Con học đủ rồi. Cái con cần là kinh nghiệm thực tế. Con không thích học như mẹ hay chị Miranda. Con chỉ muốn... ôi, con không biết.” Louisa ngó quanh phòng tìm đồng minh. Miranda đang ngồi thu lu trên ghế cùng một cuốn sách khổng lồ trên laptop. Tiếng tre kêu kẽo kẹt khi cô ấy quay đầu qua góp chuyện, “Mẹ, hồi mười tám tuổi con cũng có một công việc vào thứ Bảy hàng tuần, làm ở một hãng dược, mẹ nhớ chứ?”
“Chuyện đó khác”, mẹ cô nói, “nhưng có liên quan đấy.” Bố cô nói, “Nhưng làm gì có khu chợ nào ở Kensington nhỉ? Hình như có một cái trong quảng trường.”
“Đó là một khu chợ trong nhà.” Miranda nói. “Tòa nhà đó nằm ở góc phố đối diện Bakers.”
“Bố chưa bao giờ để ý thấy. Ở đó bán gì thế, rau củ và hoa quả à?”
Ở
“Không đâu bố. Ở đó bán những thứ như quần áo, đĩa nhạc và trang sức.”
“Ồ.” Ông quay qua Louisa, “Thế con sẽ bán gì?”
“Tinh dầu.”
“Dầu á? Kiểu dầu ô-liu ấy hả?” Bố cô nói. “Nhưng bố tưởng con nói đó không phải chợ thực phẩm.”
“Tinh dầuuuuuu, không phải dầu ăn.” Cô nhấn mạnh từng chữ một.
“Nhưng con yêu, con đâu biết vẽ.” Mẹ cô nói.
Đến đây thì Louisa thấy khó chịu thực sự, cô vẫn hay nghĩ mình như một sinh vật siêu cấp ngoài không gian đang tìm kiếm một bản thể trái đất. “Tinh dầu”, cô nói rõ từng từ một, “tinh dầu trị liệu. Đó là tinh chất thực vật có thể chữa bệnh. Mẹ biết đó, mùi oải hương làm ta thư giãn, mùi xô thơm thì có tác dụng kích thích...”
“Ồ, để chữa bệnh.” Nick nói, “Giống như kiểu mấy viên pha lê.” Mọi người cười ồ lên. Louisa cảm thấy cơn giận sôi sục. Cô ước mình chưa bao giờ nói với mọi người về pha lê. Ngày ấy suy nghĩ của cô thật ngớ ngẩn, nhưng khi đó cô mới mười bốn tuổi và thật không công bằng khi mọi người lại lôi chuyện cách đây bốn năm ra nói. Đây không phải lần đầu tiên, cô ước gia đình mình sẽ lao vào đấm nhau thay vì cứ lôi cô ra làm trò hề, đó là điều duy nhất cô không chịu được.
“Ôi, tha cho con bé đi ạ!” Miranda nói. “Con nghĩ ý tưởng đó khá hay. Tốt hơn nhiều so với điều hòa không khí và cũng thân thiện hơn với tầng ozone.”
“Nhưng vấn đề nằm ở chỗ”, Louisa nói, “nó không chỉ thơm mà còn có những bằng chứng xác thực...” Cô cắn lưỡi, tự nhủ lẽ ra mình không nên dùng từ chuyên môn.
“Hẳn bố đã quên một số nào đó của tờ Lancet rồi.” Nick nói, “Hay nó xuất bản ở mục người dùng đánh giá trên một tạp chí khoa học khác mà bố không đăng ký nhỉ?” Louisa nghĩ, trước khi cuộc nói chuyện đi xa đến mức có người dùng từ “thực nghiệm” thì cô đã mất bình tĩnh rồi. “Louisa, chúng ta đều biết về nó. Trừ khi có một nghiên cứu ʼthực nghiệm’ ủng hộ các giả
thuyết đó, không thì tất cả chỉ như mấy thứ thần dược vớ vẩn thôi.”
“Bố đang phủ định mọi thứ quá nhanh đó...”
“Những thứ đó được gọi là thuốc bổ sung và thay thế vì chúng có tác dụng thay thế cho thuốc. Nếu có hiệu quả, bố hứa sẽ kê đơn ngay. Bố nghiêm túc đó, Louisa. Bố đã gặp quá nhiều bệnh nhân đưa toàn bộ số tiền tiết kiệm cả đời cho mấy tay lừa đảo hứa hẹn sẽ giúp họ trường sinh bằng mùi hương và mấy quả chuông.”
“Ôi!” Louisa gào lên và lao ra khỏi phòng, ước gì có một cánh cửa để đạp thật mạnh, bực tức vì họ buộc cô phải tự chà đạp lên lập luận của mình.
“Đây chỉ là một giai đoạn thôi, giống như Homeopathy* hay đạo Phật ấy.” Mẹ cô nói.
Bố “hừ” một tiếng, “Bắt tay vào làm sẽ khiến ý tưởng này tiêu tan sớm thôi. Anh chắc rằng việc phải dậy sớm đi làm mỗi sáng sẽ là một cú sốc đối với những ý tưởng sáng tạo của con bé.”
Đó là một chiến thắng kiểu Pyrros*, lòng tự tôn của cô đã bị tổn thương. Cô lủi thủi bước xuống thang một cách nhẹ nhàng nhất có thể, rồi đi bộ cả dặm đến khu chợ gặp Elvira, như kế hoạch, nói rằng cô sẽ bắt đầu đi làm từ ngày mai.
Louisa yêu nơi cô sống, những con phố trên đường Gloucester nơi những khu nhà kiểu Edward xen kẽ những ban công xinh xắn. Khi còn nhỏ, cô luôn hình dung con phố như một chiếc bánh gato kem nhiều màu hấp dẫn; phần bóng xám tương phản của những bức tường màu sữa và sô-cô-la trắng, còn những phù điêu cuộn phức tạp bằng đá giống như các ống băng. Các khu nhà lụp xụp và chuồng trại ở chân đồi được sơn màu sặc sỡ như các cửa hàng bánh kẹo. Đi qua khu phố khiến cô cảm thấy thèm đồ ngọt kinh khủng.
Chợ Kensington là một mê cung kỳ quái cao năm tầng gồm những hành lang ngoằn ngoèo, những quầy hàng sơn đen, nửa giống hang động nửa như sàn nhảy. Đi vào đây như thể đang đi xuống địa ngục, theo nghĩa tích cực. Quầy của Elvira nằm trên
tầng lửng giữa tiệm xăm và một cửa hàng bán quần áo vintage. Ở cuối hành lang, gần cửa thoát hiểm, là một bức tranh tường màu vàng sáng hình một chàng da đen trong bộ vest kiểu gangster đang bỏ một ván bài để đi nhảy; khi nhìn vào đó, bạn tưởng như nghe được cả tiếng nhạc jazz.
Elvira học cùng khóa với Miranda, hồi đó tên cô ấy là Eleanor, nhưng cô ấy và Louisa không thân nhau. Khi cô ấy ra trường được hai năm còn Louisa học đến lớp Upper Sixth* thì cả hai mới gặp nhau nhiều hơn ở quán rượu và hộp đêm. Elvira luôn nổi bật dù có ở giữa một đám những tên kỳ quái, nhờ bộ tóc được nối dài đến ngực, đeo khuyên mũi, đeo mạng che mặt; mỗi ngày cô ấy đều vẽ một mạng nhện dọc qua mắt và mũi cùng màu với đôi mắt tròn kiểu Anh trang điểm thành đôi mắt bồ câu Ai Cập. Cô ấy quản lý ba quầy hàng trong khu chợ, quầy mà Louisa sẽ trông coi có tên là Tinh dầu vui vẻ. Nó được trang trí giống một quầy bán lá thuốc ở Đại lục: một vài gói thuốc nhuộm Henna và hương nén được đặt trên một cái bàn nhỏ phía trước, còn tinh dầu được xếp trên một giá cao, chật chội dọc tường, để khách hàng nhanh chóng lựa được thứ họ muốn. Những thứ gần tầm với nhất là những món bán chạy, loại tinh dầu thứ phẩm dễ bay hơi làm từ hạt nho. Hàng cao cấp thực sự nằm ở giá trên cùng, loại tinh dầu hữu cơ hiếm và đắt đựng trong những lọ thủy tinh xanh lục lấp lánh như đá sapphire. Chỉ trong một tuần cô đã có thể phân biệt được tất cả dù có nhắm mắt lại. Cứ hai tuần, cô lại pha một hỗn hợp tinh dầu gồm oải hương, dầu hoa cam và hoắc hương, nó khiến cô ngủ ngon đến mức cô đã đi làm muộn hai hôm. Phần lớn khách hàng của tiệm là dân du lịch. Louisa tò mò liệu tinh dầu họ mua có bị bỏ mốc meo trong ba lô hay bị vứt lại khách sạn không, dù có thể trong nhiều năm sau, mỗi lần ngửi thấy mùi hương phảng phất của nhựa cây hay hoa hồng dại, những vị khách ấy sẽ nhớ lại chuyến đi đến Anh của mình. Cô thấy mình gần giống một tín đồ cuồng tín khi cố thuyết phục khách hàng rằng nên tiêu nhiều tiền hơn dự tính vào tinh dầu hoa hồng nguyên chất hay tinh dầu tía tô đất (bạc hà chanh). Cô muốn bán cho họ những đèn xông tinh dầu bằng gốm và chỉ cho họ cách nhỏ một vài giọt tinh
dầu lên bề mặt nước ấm để đèn tinh dầu âm ỉ tỏa hương mà không bị cạn.
“Em làm việc rất có trách nhiệm.” Elvira nói, khi nhận thấy cô đang đọc cuốn Từ điển thảo dược của Bartram. Louisa gần như xấu hổ khi để Elvira biết cô coi trọng công việc đến mức nào.
“Đây chỉ là việc để giết thời gian khi không có khách hàng thôi chị.” Cô nói.
“Chị không chê trách gì em cả. Em đã bán được đến ba trăm bảng riêng Chủ nhật vừa rồi.”
Louisa thấy yêu mỗi ngày của mình hơn, những giờ yên tĩnh đầu buổi sáng trước khi khách hàng xuất hiện, những ly rượu táo sau giờ làm với những người trông coi khác ở Milk Bar hay quán Henry Afrika. Cô đặc biệt coi trọng giờ nghỉ trưa. Đó là khi cô dành hàng giờ ngồi một mình trên khu vườn gác mái, phía trên tiệm tạp hóa lâu đời của Derry và Toms. Phải đến khi bạn leo lên thật cao trên nóc thành phố, qua khỏi những đám mây ô nhiễm và nhìn xuống, bạn mới nhận ra con người hiếm khi ngước lên đến mức nào. Có ba khu vườn riêng biệt trên đây. Một số hiếm hơi du khách tìm lên đây đều nán lại ở vị trí nổi bật nhất: khu vườn Tây Ban Nha có một hàng cọ trên bức tường màu hồng với họa tiết trang trí kiểu Hồi giáo, hay khu vườn Anh quốc có mấy cái ao nhỏ và chim. Phần lớn họ sẽ bỏ qua khu vườn kiểu Tudor và tiến đến ban công, từ đó nhìn thẳng ra nhà thờ Brompton và những đoàn tàu đang nối đuôi nhau bò qua một ngách nhỏ gần đường Circle ở ga High Street Kensington nối với trạm điện Battersea. Nhưng đối với Louisa, đây là khu vườn tuyệt vời nhất. Tất nhiên có thể nó không còn nguyên sơ, đặt ngay trên nóc một tòa nhà được trang trí đầy nghệ thuật, nhưng những mảng tường rạn nứt đó lưu giữ đầy đủ mùi oải hương đang âm thầm mọc nơi mép tường và những lớp đá xếp hình chữ “chi” dưới chân cô như gợi về một không gian và thời gian rất khác. Cô bảo vệ lãnh thổ của mình quyết liệt như loài mèo, chuồn xuống phố Derry mà không nói với bất kỳ ai. Cô luôn sống trong nỗi lo thường nhật sẽ gặp người trông cửa hàng khác hay cầu trời đừng xảy ra, một trong những gánh hát một đêm sẽ khiến cô phải nói “không” để trả lời và luôn cố bám
trụ quanh khu chợ cả ngày. Cô thấy ngại ngùng khi phải thừa nhận rằng họ chỉ thu hút được những người lạ mặt. Cô luôn nói với họ những điều này từ đầu, nhưng có vẻ họ chẳng bao giờ hiểu.
Với niềm hứng thú của một nhà nhân chủng học, Louisa quan sát mối quan hệ đang nảy mầm giữa gã thợ xăm mình Matty và Roberta, một fan rock đang làm việc ở tiệm cà phê. Louisa sẵn sàng trông cửa hàng cho anh ta để anh ta kịp qua bên đó uống nước. Và để trả ơn lòng tốt của cô một cách xứng đáng, anh ta xỏ lên tai phải của cô rất nhiều vòng bạc nhỏ xinh, trong giới hạn cô có thể chịu được.
Bố mẹ cô rõ ràng không hài lòng về những cái khuyên đó; về cái áo nịt ngực, mái tóc màu xanh và vòng cổ bằng da màu đen xâu một biểu tượng bằng bạc tượng trưng cho tín ngưỡng phồn thực, cũng không khiến họ lưu tâm. Chỉ sau khi quần áo cô phai màu, da cô được chà sạch và mái tóc trở lại màu nâu tự nhiên thì họ mới có lý do để quan tâm đến vẻ ngoài của con gái mình. Đó là mặt khác của tình yêu, cũng là mặt khác của cái chết, và khi ấy chẳng có điều gì mà họ hay ai khác còn có thể làm cho cô.
CHƯƠNG 3
Tháng Chín năm 2009
Paul bắt tàu nhanh đến phố Fenchurch và từ đó đi bộ một đoạn ngắn đến ga tàu điện ngầm Tower Hill, băng qua tháp London, xung quanh mọi người trong bộ đồ công sở đang vội vã lao đi như thể đây chỉ là một khu văn phòng thông thường. Cậu bắt hai chuyến tàu qua thành phố, bối rối vì khả năng thương lượng của mình trong vụ trao đổi khá khó khăn ở phố Baker, nhưng chỉ hai tiếng sau đó, cậu rời khỏi nơi mà cậu sẽ không bao giờ coi đó là nhà nữa, để đến Marylebone. Lúc đó là 11 giờ sáng, sân ga rộng rãi, im ắng hầu như không một bóng người. Cậu mua một chiếc sandwich Ploughman từ tiệm Mark & Spencer và ngồi ăn trên ghế băng, vừa nhồm nhoàm nhai nuốt vừa ngoái cổ ra sau. Cậu thích ngồi băng ghế quay lưng vào tường hơn, nhưng đây là dạng ghế sáu cạnh đặt ở chính giữa sảnh, nên dù có ngồi ở vị trí nào thì cũng luôn có một điểm mù không quan sát được. Cậu không thể không tin rằng ai đó - một trong những thân tín của Carl hoặc chính lão - đang theo dõi cậu. Cậu chạm tay vào chiếc điện thoại di động trong túi áo, phân vân không biết mình có đủ can đảm bật nó lên không. Đã cả chục lần ngón tay cậu chạm vào nút nguồn nhưng cả chục lần cậu đều rút tay lại. Cậu rất muốn nói chuyện với mẹ nhưng không thể làm vậy cho đến khi tin chắc mình đã an toàn. Cuộc nói chuyện cuối cùng của hai người là qua điện thoại ở đồn cảnh sát; cậu nói với bà một cách hết sức mơ hồ rằng mình đang gặp rắc rối và khăng khăng bà nên ở yên một chỗ. Mẹ cậu muốn biết tại sao cậu không đến thăm bà, nhưng cậu không tìm được lý do thỏa đáng nào để không làm bà kinh sợ, nên cậu đã hứa bừa rằng mọi thứ rồi sẽ ổn và cúp máy.
Paul đổi khoang hai lần dù trên tàu hầu như trống không. Cuối cùng cậu chọn một chỗ gần nhà vệ sinh bởi ở đây cậu có một nơi để nấp và có thể quan sát dọc chiều dài cả hai khoang tàu. Ngang đầu gối cậu là một thùng rác đầy ắp ly cà phê giấy, mép thùng rác là những vết cà phê dây ra cả năm rồi. Phía trên đầu cậu là bản đồ đường ray tàu hỏa. Những thị trấn xa lạ và những thành phố nổi tiếng được nối bởi những vạch và chấm chỉ đường chạy lên phía Bắc và hơi cong sang phía Tây. Paul băn khoăn Daniel đang ở đâu và chuyện gì đang xảy ra với cậu ta.
Woburn đã đưa Paul về Grays Reach trong một chiếc xe bí mật và đợi bên ngoài trong khi cậu vào nhà Scatlock. Xe của Carl đã đi khỏi nhưng cậu vẫn nghe thấy tiếng chó sủa ngoài vườn, cậu thận trọng hết sức chạy nhanh lên lầu và nhặt lấy một túi xách lớn cậu đã thu xếp nhiều ngày trước đó cho hành trình hết sức khó khăn này. Trên đường trở ra, cậu tóm lấy bản đồ cũ của Carl, nhét vào trong áo jacket. Woburn đã hứa - một cái giá xứng đáng - rằng Daniel sẽ bị buộc tội và bị giam cho đến ngày xét xử, hãy còn nhiều tháng nữa. Paul cảm thấy tội lỗi, nếu Daniel phải nói lời tuyên thệ, vậy thì, ai sẽ là người đọc lại nó cho cậu ta nghe.
Cửa sổ bên phải hướng ra phía mấy bụi cây trơ trọi bên bờ sông, còn bên trái là những sườn đồi thoai thoải có màu nâu, xanh và xám. Cậu không biết mình đang đi đến đâu. Hertforshire? Bedforshire? Không phải Warwickshire, vẫn chưa đến nơi. Cậu rút điện thoại ra lần nữa, nhưng thay vì bật lên, cậu gỡ lớp vỏ ngoài và bỏ thẻ SIM ra. Cậu băng qua phần phân cách giữa hai khoang và nhận thấy mình có thể mở hé cửa sổ. Paul luồn tay và ném thẻ SIM ra ngoài. Cảm thấy nhẹ nhõm hơn, cậu buông thõng đôi vai căng cứng xuống.
Đoàn tàu chậm dần: cảnh quan vùng thôn quê bên ngoài cửa sổ dường như hơi rung rinh khi toa tàu dừng lại. Người soát vé nói với cậu rằng đoàn tàu đang đến Leamington (anh ta đã không gọi là Leamington Spa, như đã ghi trên tấm bản đồ) khoảng mười phút so với lịch trình. Anh ta lẩm bẩm điều gì đó về sự phá hoại trên đường ray, khiến Paul lập tức cảm thấy hơi tội lỗi. Cậu kiểm tra đích đến của mình trên bản đồ. Làng
Kelstice không lớn lắm nên không có trạm tàu riêng: làng nằm giữa Coventry và Leamington, cậu chỉ biết tên chứ chưa bao giờ đến những nơi này. Ngôi làng có diện tích khoảng một phần tư diện tích của Grays Reach Estate. Nó có thể ở khá xa, nhưng không phải một nơi đủ lớn để lẩn trốn.
Tại trạm Leamington, hành khách tản ra, vào các xe ô tô đang đợi ngoài cửa hoặc đơn thuần sải bước tiến vào thị trấn xa lạ này. Khi mọi người đã đi hết, chỉ còn duy nhất một cậu trai ở lại sân ga, trạc tuổi Paul, mặc quần jean, ống quần nhét vào đôi ủng công nghiệp và mặc một chiếc áo khoác da cậu khá thích. Cả hai nhìn vào mắt nhau trong khoảnh khắc và cậu ta nở một nụ cười.
“Cậu là Paul Seraforth?” Cậu ta hỏi, giọng Scotland hơi nhỏ, “Tôi là Ross. Dematra báo tôi đến đây đón cậu. Chị ấy rất tiếc, một đứa nhỏ bị ốm nên chị ấy không thể bỏ nó mà đi được. Tôi mang đến đây chìa khóa và gói quà chào mừng dành cho cậu.” Cậu ta phe phẩy một nắm tờ rơi, lắc lắc chiếc chìa khóa đang móc vào một sợi dây chun xanh. “Chúng ta ở không xa đây đâu.”
Nhà ga phía sau nhìn khá rộng lớn và trống trải, nhưng phía đối diện bãi đậu xe chỉ là một dãy pano và vài tòa nhà nằm rải rác đã mờ sơn, tường bong tróc. Cả hai bước vào thành phố dọc theo đường ray xe lửa, phía dưới những trụ sắt. Có một siêu thị, một cửa hàng rượu nhỏ, hai cửa tiệm bán sari và một vài văn phòng môi giới bất động sản xập xệ. Ở khoảng giữa cây cầu và mặt sau trụ sở một tổ chức từ thiện là một con hẻm chỉ đủ một người bước qua. Đường ray xe lửa cao đến bốn mươi feet trên đầu họ, cỏ dại mọc dày đặc nhìn như một dung dịch đen ngòm. Một dãy cánh cổng dẫn thẳng ra khoảng sân sau.
“Đây là chỗ của cậu.” Ross ngập ngừng nói.
“Tôi không ở Kelstice à?”
“Ồ, không ai trong chúng ta đủ điều kiện sống ở Kelstice. Họ cũng không ưa chúng ta. Nơi đó có tỷ lệ triệu phú trên mỗi dặm vuông cao nhất trong quận. Cậu sẽ thấy vào thứ Hai khi cậu đến đó. Hầu hết mọi người đều sống cách xa một chút về phía
đường Coventry. Thú thực tôi không biết tại sao Demetra muốn cậu ở đây.”
“Mọi thứ được quyết định hết sức nhanh chóng.” Paul nói. “Tất nhiên. Xin lỗi.” Paul tự hỏi liệu cậu ta biết những gì. “Tin tốt là, ở Leamington, phần đẹp đẽ của thành phố nằm ở phía Bắc của tuyến đường sắt. Theo lý thuyết, cậu đang ở phía Bắc - lệch chừng sáu feet -nhưng vẫn là phía Bắc”
Ross kiểm tra chùm chìa khóa và dừng lại ở một cánh cửa đánh dấu 45B. Thấy hơi nước bốc lên từ hai cửa hàng bên dưới, Paul đoán căn hộ của mình ở trên một tiệm giặt là hoặc một nhà hàng Ấn Độ. Khi cậu bước về phía cánh cửa căn hộ, có hàng chục thùng rỗng từng chứa sữa bò, to như cái trống, xếp dọc trên lối đi. Cửa trước làm từ đá phiến đỏ đồng, cửa sổ một căn phòng có những chấn song màu trắng, hóa ra là một căn bếp nhỏ, tối om, lộn xộn. Một cặp xe đạp treo trên móc tường và có một chiếc sofa hai chỗ, trên đó hãy còn mấy tờ rơi quảng cáo đồ ăn nhanh.
“Có người đang sống ở đây à?” Paul hỏi. Cậu chưa bao giờ bước vào trong, chứ đừng nói là ở một mình, trong một ngôi nhà không phải nhà của mình.
“Hai cậu chàng Ba Lan làm việc trên các xe tải”, Ross trả lời, “nhưng tôi nghĩ cậu hầu như không gặp họ đâu, sẽ chẳng khác gì một nơi riêng tư cả.”
Ánh sáng không chiếu đến được phần cầu thang họ leo lên và phần hành lang tầng đầu tiên hoàn toàn tối om. Nếu chỉ có dải sáng mảnh mai qua khe cửa, Paul nghĩ, nó chắc hẳn dẫn tới trước phòng ngủ; phòng duy nhất đang mở cửa ở mấy tầng trên nữa, phòng trên cùng ở phía trước, hẳn là của mình. Phòng khá rộng rãi, một tủ quần áo giá rẻ chiếm trọn một bức tường, có nhiều chỗ đến mức không ai, dù là một cô gái, có thể dùng hết. Chiếc giường nép mình vào cửa sổ trên mái nhà, khung cửa phủ bụi dày. Nó lớn hơn tấm nệm cậu dùng ở nhà Daniel, nhưng nhỏ hơn chiếc giường đôi ở nhà mẹ cậu. Paul để ý thấy nó được phủ lên bằng mấy tấm vải, màu be và nâu trơn, có những họa tiết phức tạp được gấp một cách vội vã. Cậu sẽ phải mua chăn bông.
Ross đưa mấy tờ rơi cho Paul. Trên cùng là một lịch trình xe buýt.
“Chuyến KI2 sẽ đưa cậu đến thẳng nơi đó.” Cậu ta nói, “Nơi của cậu là một điểm dừng ngay phía sau làng. Chỉ cần không để ý là cậu sẽ lỡ đấy.”
“Trạm xe buýt à?”
“Không, ngôi làng. Tôi cảm thấy thật tệ vì để cậu lại thế này.” Ross nói. “Tôi muốn ở lại và đưa cậu đi giới thiệu một vòng nhưng tôi phải quay về vì có một cuộc hẹn với cô hầu bàn ở Kelstice Arms. Thứ Hai, sau giờ làm nhé? Chúng ta sẽ đi uống mấy ly bia?”
“Được thôi.” Paul nói.
Cậu đứng trên giường và nhìn xuống phố. Ross bước ra từ con hẻm, tiến về phía trạm xe buýt ngay dưới cửa sổ phòng ngủ của cậu, đang nhắn tin liên tục.
Paul tự hỏi liệu cậu ta đã lấy số của mình chưa, rồi sau đó chợt nhớ ra là mình không có điện thoại. Trái tim cậu chùng xuống khi nhận ra mình đã vứt bỏ số của Emily và cậu cũng chưa bao giờ cố gắng ghi nhớ nó, vì có thay đổi được gì đâu khi cô ấy không còn muốn hay tin về cậu, đặc biệt vào lúc này.
Cậu không mất nhiều thời gian để kiểm tra phần còn lại của căn hộ. Không phòng khách và không ti vi, chỉ có căn bếp, một phòng tắm và ba phòng ngủ. Phòng tắm dựa vào khung sắt đường ray. Một tấm màn rách là tất cả những gì ngăn cách cuộc sống tồi tàn của cậu với các hành khách.
Paul lên kế hoạch khám phá Leamington. Hầu hết các quán rượu ở cuối thị trấn đã mở cửa nhưng các cửa sổ đều đóng. Cậu rẽ phải, cuối phố High có một công viên và một số tòa nhà khá dễ nhìn, hơi giống các tòa cao ốc văn phòng, sau đó là con phố đã được đổi tên thành The Parade, kiến trúc ở đó cũng được sửa lại đẹp hơn. The Parade gồm hai dãy nhà thời Nhiếp Chính chạy dài, đối xứng nhau thoai thoải trên sườn đồi, như thể cả con phố được khắc lên ngọn đồi đá phấn. Các cửa hàng và nhà hàng chiếm tầng trệt. Paul dừng lại khi bước đến cửa tiệm Wetherspoon. Sau một vài lon bia cậu đã đủ tự tin để bước vào căn nhà Balti bên dưới căn hộ của mình. Món cà ri gà được
đựng trong bát nhỏ bằng bạc là thứ đầu tiên cậu ăn từ sau món bánh sandwich ở London, nó đốt cháy cổ họng và lồng ngực cậu như một thứ a-xít. Khi trở lại căn hộ, không hề có dấu hiệu mấy cậu bạn chung nhà người Ba Lan đã trở về.
Paul đi ngủ vào khoảng 10 giờ và nửa đêm bị đánh thức bởi vô số tiếng la hét, ói mửa và đánh nhau khi nhà hàng đến giờ đóng cửa. Vài giờ tiếp theo cậu thấy hết sức căng thẳng. Không lâu sau 5 giờ sáng, khi cậu nghĩ mọi rắc rối của buổi đêm đã kết thúc thì đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh, khiến ngôi nhà lắc lư từ trên xuống dưới. Đến khoảng 8 giờ, âm thanh dần chuyển thành tiếng ồn trắng và sau đó, cậu chìm vào giấc ngủ sâu.
Cậu bắt đầu ngày thứ Bảy với mục tiêu rõ ràng, nhưng sau khi mua thẻ SIM mới và vài tấm ga phù hợp, mục tiêu ngày hôm đó trở nên trống rỗng. Paul bắt đầu lo lắng. Trước đây, ngày và đêm của cậu đã được lập trình bởi Daniel, nên giờ việc phải tự chủ động giờ giấc khiến cậu thấy lúng túng. Ngày Chủ nhật, cậu quyết định thử đi chuyến xe đến nơi làm việc. Bảng giờ tàu ghi xe buýt K12 chạy một tiếng một chuyến vào ngày Chủ nhật và cậu đến đúng giờ.
Trong vòng vài phút tàu đã đến vùng nông thôn. Những con đường không vạch kẻ và những ngôi nhà nằm rải rác cùng một màu gạch hồng nâu đồng nhất.
Một số còn lợp cả mái tranh. Con đường lượn về bên phải, cho phép cậu nhìn thấy một trụ cầu làm từ thứ đá màu đỏ tương tự. Khung cảnh trông giống hệt một tấm bưu thiếp nếu hai bên không có biển hiệu: Hãy giảm tốc độ! vả 12 vụ tai nạn chết người ở đây trong năm 2008. Bác tài chạy tới cây cầu và bẻ lái nhanh đến mức xe gần như chạy bằng hai bánh. Phải đến khi Paul thấy một tấm biển quảng cáo bằng bảng đen Bữa trưa Chủ nhật tại Kelstice Arms, cậu mới biết mình đang ở đúng nơi. Nắm chặt tay vịn, gồng người lên giữ thăng bằng, cậu nhấn chuông. Nơi đây là một điểm dừng xe buýt sao? Nó trông giống một khu vườn đổ nát hơn, thiếu mỗi bức tường phía trước.
Cậu nhìn quanh và nhận ra mình đang ở Toytown. Những ngôi nhà đã cũ nhưng sạch sẽ, các khu vườn được tỉa tót hoàn hảo, vài chiếc xe bóng loáng đậu song song với lề đường.
Kelstice Arms, một quán rượu cổ điển với những bức tường màu ngà, nằm trên một gò đất nhỏ giữa làng. Nó cũng có cửa sổ kính mờ, nhưng những mảnh thủy tinh hình kim cương nhỏ xíu đó như chào đón, chúng phản xạ tia sáng ở một góc độ khác nhau. Ngoài ra, không có gì khác. Không một nhà thờ, không một cửa hàng, không có gì. Chắc chắn là không có ai để cậu hỏi đường đến lâu đài. Cậu trèo lên đỉnh đồi nhỏ nhằm tìm kiếm một manh mối, nhưng địa hình mấp mô của miền quê Warwickshire giúp cậu nhìn được cánh đồng và ngọn cây đang vẫy tay chào đón cũng sẽ đồng nghĩa với việc xác định chính xác các vùng lân cận càng khó khăn hơn.
Cuối cùng cậu cũng tìm thấy, cuối con đường một chiều là biển hiệu cắm trên một cọc gỗ, gần giống biển báo của một đại lý bất động sản, công bố rằng một tổ chức bí ẩn tên Veriditas sẽ chịu trách nhiệm cho sự phục hồi của Kelstice Lodge Gardens. Một biển báo khác tiếp tục thông báo rằng dự án sẽ được hoàn thành vào mùa xuân năm 2012. Các biển báo gần như che khuất ngôi nhà nhỏ, làm từ đá màu hồng giống như cảnh vật xung quanh, có những mảng tường đổ sụp gợi cho Paul ấn tượng về một lâu đài cát. Những viên gạch cao nhất cũng chỉ ngang khuỷu tay cậu. Một vài loại dây leo cuốn trên cao. Một lon Coca đã ngả màu hồng nhạt, nằm trên sàn nhà cạnh một lon bia đã bị giẫm bẹp sáng bóng như một món trang sức Giáng sinh và mấy gói thuốc đã bắt đầu mục nát. Rõ ràng đây từng là cổng một ngôi nhà, có lẽ đó là lý do tại sao nó khá nhỏ, một người đàn ông không thể nằm trong đó và ngủ được.
Con đường dần chuyển sang đường đất, ở cuối là nhiều cabin có kích thước và hình dạng của thùng chở hàng. Có các sợi cáp nối chúng, nhưng không có đèn chiếu sáng từ bên trong và mọi cánh cửa đều đã bị đóng. Qua một khe hở giữa hai khoang, như thể nhìn qua tường thành, cậu thoáng thấy ngôi nhà lần đầu tiên.
Kelstice Lodge nằm trên triền một ngọn đồi nhỏ. Giống như cánh cổng, đây là một đống đổ nát, một tàn tích. Không có mái nhà và chỉ có hai cửa sổ còn sót lại, khung đá mong manh treo trên bức tường đổ nát trông như một tấm ren rách nát. Ba ống khói vẫn còn. Thứ kiến trúc đặc biệt nào đã giúp chúng vượt
qua những cơn bão hoặc các cuộc tấn công hoặc trong nhiều năm chỉ đánh sập những phần khác? Phần dưới của tòa nhà nhuộm màu tối, ẩm ướt, đầy rêu, như một sinh vật sống hút nước từ mặt đất.
Paul đến bên sườn dốc để ước lượng diện tích. Khi tiến vào trong đống đổ nát, cậu nghển cổ nhìn lên. Nửa còn lại của bức tường là một lớp đá dày, hẳn trước đây là sàn nhà và một vòm gạch có vẻ là tàn tích sót lại của một lò sưởi lớn. Một cầu thang xoắn ốc đổ nát kết thúc đột ngột trong không trung. Cây dại mọc tràn lan trong các kẽ nứt. Cậu đi quanh đống đổ nát, khảo sát bên dưới. Không thể xác định được địa giới rõ ràng giữa Kelstice Lodge và phần đất trồng trọt xung quanh. Bắt đầu từ đây, mọi thứ có vẻ khá trật tự; những khoảng đất chữ nhật được phát quang và các con đường được kẻ vạch, nhưng phần lớn khoảng đất vẫn là cây đổ và bụi rậm không thể đi qua. Ráng trời tím ngắt, những đám mây đen kịt lơ lửng trên đầu cậu, như đang đe dọa thứ gì đó tệ hơn cả cơn mưa: cậu sẽ không quá ngạc nhiên khi thấy đám mây rẽ đôi lộ ra một quầng sáng khổng lồ. Kelstice Lodge sống lại trong cậu những ký ức chôn chặt từ lâu về các trò chơi thời thơ ấu, những trận chiến tưởng tượng giữa những chiến binh và các vị vua. Paul siết chặt hai tay vào nhau, đặt chân lên một hòn đá nhô ra và giả vờ đang rút ra một thanh kiếm cắm sâu trong đá. Cậu nắm chặt vũ khí của mình, chĩa mũi kiếm vào một kẻ thù tưởng tượng và thấy vui vì mình có thể nghe thấy tiếng lưỡi kiếm rít trong gió khi vung lên không trung. Chừng một hay hai phút, cậu hoàn toàn chìm đắm trong những điều kỳ diệu ngây thơ, để trí tưởng tượng của mình tự do dạo chơi như một đứa trẻ. Đó chính là con người cậu trước khi gặp Daniel và khi bố cậu còn sống.
CHƯƠNG 4
Tháng Sáu năm 2002
Vào buổi sáng ngày mình chết, Liam Seaforth đã quan hệ tình dục với vợ. Quan hệ tình dục là thuật ngữ chính thức của “chịch”, lớp Paul mới làm thí nghiệm đó trong một buổi thực nghiệm khoa học đặc biệt vào tuần trước. Cậu đã phải vật lộn kết hợp những mô tả sinh học khô khan từ sách giáo khoa với những hình ảnh mà cậu nhìn thấy trên laptop của bố Jake, chứ đừng nói đến những tiếng cười khúc khích và rên rỉ từ phòng ngủ của bố mẹ. Bố đánh răng trước, sau đó hát bài hát của “họ” khi tắm, bài gì mà có câu “làm điều gì đó cho tôi” với “treo trên một sợi dây”. Mẹ thì ở lì trong phòng ngủ đóng kín cửa.
Paul xem truyền hình và ăn món ngũ cốc lúc 8 giờ 30. Trái tim cậu nhảy cẫng lên khi nghe tiếng bước chân của bố xuống cầu thang, nhưng ngay lập tức lại chùng xuống khi thấy ông mặc bộ áo liền quần màu xanh, điều đó có nghĩa là ông sẽ làm việc trong nhà kho.
“Buổi sáng tốt lành, Pablo!” Ông nói và hôn lên đầu Paul, rồi đặt ấm đun dưới vòi nước. Pablo là tên tiếng Tây Ban Nha của Paul. Mẹ luôn nói rằng, lý do họ đặt tên Paul vì không thể rút ngắn được cái tên này, và giờ đây bố đang chế giễu nó bằng cách thêm vào đó một âm tiết. Bố nói cậu thực sự đã được đặt tên theo Paul Weller, nhưng đây là một bí mật.
“Bố vẫn đang làm mấy cái kệ đó à?” Paul hỏi. Bố cậu không thích đọc bất cứ thứ gì ngoài các ghi chú trên tay áo, từ lâu ông luôn băn khoăn về sự hứng thú đối với sách của con mình. “Nó hẳn là di truyền từ em”, ông nói với Natalie, “như thể đó là một căn bệnh di truyền vậy.” Ai cũng bảo đống sách vở vứt đầy sàn phòng ngủ của cậu giống như hậu quả của một cuộc thí nghiệm lật đổ những quân cờ domino, là không chấp nhận được. Vì thế,
bố cậu đã thiết kế và đang lắp ráp một hệ thống kệ phù hợp với các góc tường trong phòng của Paul.
“Chắc chắn rồi, Pablo.” Bố cậu nói. “Bố đã chuẩn bị xong xuôi. Bí quyết là gì nào?”
“Đo hai lần, cắt một lần.” Paul nói. “Con có thể giúp bố không?”
Cậu biết bố sẽ nói, “Sức khỏe và an toàn không cho phép con làm việc ấy.” Đó là phản ứng bình thường của ông đối với những yêu cầu kiểu này. Thật không công bằng và trịnh thượng! Lần cuối cùng cậu nhìn thấy là khi tất cả các dụng cụ của bố đã xếp sẵn trên tường thành hàng gọn gàng và ngăn nắp như một cửa hàng thực thụ, có đầy đủ những dụng cụ đắc lực. Nhưng Paul không đòi hỏi bố phải cho mình sử dụng cưa máy, cậu chỉ muốn được ở đó, giúp vài việc lặt vặt như vặn vài con ốc chẳng hạn. Đôi khi Paul nghĩ, bố cậu cư xử như thể không muốn cho bất kỳ ai làm cùng mình trong nhà kho. “Bố thấy không có lý do nào để từ chối cả”, lần này bố cậu nói khác, “dù sao con cũng sắp mười một tuổi rồi.”
“Bố nói nghiêm túc chứ?” Paul không thể tin được vận may của mình.
“Tuy nhiên, con chưa nên đụng đến các món đồ vội. Bố sẽ giới thiệu với con lý thuyết trước khi bắt đầu thực hành.” Cả hai uống trà bên ngoài. Trên đầu họ, hai máy bay bay chéo nhau tạo nên một dấu X trên bầu trời xanh không một gợn mây. Paul nổi giận với dự đoán của chính mình. Cho đến giờ, lần gần nhất cậu giúp đỡ bố, chỉ là chuyển một đoạn ống màu vàng luồn lách như một con rắn cho nước chảy qua. Bố mở khóa nhà kho. “Bố phải vứt mấy thứ này đi.” Ông nói và chỉ về mấy tấm kính lởm chởm, đó là tất cả những gì còn sót lại từ nhà vườn cũ của gia đình. Chúng được đặt dựa vào tường nhà kho thành một chồng dày đặc màu xanh lá cây. Ông chỉ cho Paul cách nối dài dây và kéo dây qua cửa sổ nhà bếp để họ có thể chạy các thiết bị bằng nguồn điện từ khu nhà. “Dù con định làm gì thì cũng phải nhớ đừng rút phích cắm lò vi sóng, mẹ sẽ nổi điên đấy.” Bố chỉ cho cậu ánh sáng màu đỏ nghĩa là nguồn điện sẽ tự động ngắt nếu xảy ra hiện tượng
chập điện. “Nếu chuyện đó xảy ra, con phải nói ngay.” Paul không hiểu rõ chập điện là thế nào nhưng cậu cảm thấy thật thú vị. Nó khiến cậu nghĩ đến tập thể hình và nâng tạ. Cậu lấy ra một cuộn dây điện màu cam và kéo nó ra khắp khu vườn. Có một số đoạn hơi lòng thòng do ông ước lượng sai khoảng cách giữa ngôi nhà và nhà kho, vì vậy cậu cuốn đoạn đó lại và đặt ngay cửa, hầu như không dám chớp mắt vì chỉ sợ ánh sáng đỏ sẽ nháy lên trong giây lát và cậu sẽ bỏ lỡ nó.
“Quy tắc vàng là gì?” Bố hỏi trước khi bắt đầu.
“Quan sát nhưng không chạm vào.” Paul nói. Cậu ngồi bắt tréo chân trên bàn patio, vị trí đó có chiều cao hoàn hảo để quan sát. Bố có một thước dây thép sẽ lập tức cuộn vào vỏ của nó nếu không nhanh chóng khóa lại ngay khi lấy được số đo; ông làm việc đó như một chuyên gia. Khi cưa điện bật lên, cậu không thể nghe được suy nghĩ của chính mình và cơn mưa bụi bay xung quanh bố, cuối cùng lắng xuống, ông hiện ra trong tư thế quen thuộc, người cúi xuống bàn làm việc, làm động tác hàm dưới đang nhai nhai môi trên. Ông ngước lên, nháy mắt, giả vờ ngã một cú vụng về khiến Paul cười khúc khích. Sau đó, ông trượt chân thật.
Trong những giây sau đó, tất cả các giác quan như tạm thời bỏ rơi Paul. Cứ như thể một người nào đó đã vặn nhỏ lại toàn bộ âm thanh trên thế giới. Bố nghiêng về phía trước, đánh rơi cưa, tay vẫy điên cuồng tìm kiếm thứ gì đó để bám vào. Ông trượt khỏi bàn làm việc và chuyển động đó làm bật ra lớp kính trên cùng đang dựa vào cửa sổ, chầm chậm văng ra khỏi tường khi ông ngã xuống. Các mảnh vỡ lởm chởm cắm vào cổ ông. Máu chảy qua vết cắt đầu tiên chậm chạp và từ tốn, sau đó chảy nhanh hơn và mạnh hơn nữa cho đến khi phun thành dòng. Dường như máu không muốn ở lại nữa, như thể nó đã chu du vòng quanh cơ thể bố trong nhiều năm, bị mắc kẹt trong tĩnh mạch và bây giờ có cơ hội tìm kiếm tự do. Paul ngồi ngây ra trên bàn, như thể đây là một hòn đảo và bãi cỏ là mặt biển đầy cá mập; cậu tê dại nhìn trong nỗi kinh hoàng khi tất cả động tác hoảng loạn của bố dần thay thế bằng một loạt các cơn co giật nhỏ. Sợi dây buộc gọn gàng cuộn ở cửa nhà kho đã bắt đầu trông giống như mì spaghetti sốt cà. Chỉ khi “dòng sông
máu” ấy bắt đầu chảy về phía mình, Paul mới nhảy dựng lên khỏi chỗ ngồi, xuống khỏi bàn và chạy trở lại nhà. Cậu nhìn thấy bóng của mình phản chiếu trên cửa kính khi chạy qua vườn: quần jean, áo thun, vẻ mặt. Môi cậu mấp máy từ “mẹ” nhưng không một âm thanh nào được phát ra, như thể chính cậu mới là người bị cứa cổ.
Liam được mặc bộ Ben Sherman yêu thích của mình, bộ ông đã mặc trong lễ cưới. Một lá cờ được quấn quanh quan tài. Bài hát chết tiệt của Paul Weller cất lên khi tấm vải phủ trùm lấy quan tài, còn tro của ông được rải ở cửa sông Thames, dưới bóng cây cầu treo ông đã góp tay xây dựng. Phải đến hai tuần sau tang lễ, Paul mới lấy lại giọng. Cậu vẫn được nghỉ học nhưng vì cả bà nội và bà ngoại đã về rồi nên cậu thà chết chứ không chịu về nhà vì muốn tránh mặt mẹ. Mẹ bật ti vi suốt ngày, đêm cũng ngủ trên sofa trước màn hình. Bà không thể chịu nổi sự im lặng và nói rằng mình không phải suy nghĩ khi ti vi đang bật. Mặt ti vi quá nóng để chạm vào nhưng Paul vẫn giữ ngón tay trên đó, sợ rằng nó sẽ phát nổ. Bố sẽ không bao giờ để chuyện này xảy ra. Ông luôn rút ổ cắm vào ban đêm.
Cậu nghe thấy tiếng hét khi mẹ cậu đang ở trong nhà tắm và ti vi đang chiếu đoạn quảng cáo xen giữa hai chương trình GMTV vàThis Morning. Đó là tiếng kêu chói tai do sốc và kinh hoàng tột cùng, hoàn toàn khác với những lúc bà khóc thầm, ngày nào cũng xảy ra từ sau vụ tai nạn. Cậu chạy hai bước một lên cầu thang và mở toang cánh cửa mà không gõ. Mẹ đang ngồi trên nền nhà vệ sinh. Trong tay bà là đống giấy vệ sinh lộn xộn toàn máu. Paul cũng bắt đầu la hét, bằng một giọng còn to và cao hơn, cầu xin mẹ đừng chết. Bà lóng ngóng với chiếc quần bò và đống giấy, rồi hét vào mặt cậu, đuổi cậu đi, nhưng cậu không nhấc nổi chân. Chuyện kết thúc bằng một cái tát, sau đó cậu chạy về phòng mình. Cậu cố nhắm mắt thật chặt, nhưng thứ màu đỏ đó không biến mất.
Một lúc sau, bà đến ngồi bên đầu giường cậu. Bà mặc bộ quần áo khác. “Mẹ xin lỗi, con yêu! Mẹ không nên hét lên như thế, thật không công bằng với con. Mẹ đã nghĩ rằng mình có thai. Mẹ đã từng nghĩ thế, nhưng giờ thì không. Con hiểu những chuyện này chứ, đúng không?” Cậu biết, cậu phải biết vì ở lớp
cậu đã tìm hiểu về kinh nguyệt và tất cả những thứ khác về giới tính trước khi học đến những bài về quan hệ tình dục. Nhưng khi nhìn thấy máu, thứ màu kinh khủng đó, đã xóa đi mọi thứ khỏi tâm trí cậu trừ những ký ức kinh hoàng về bố. “Chỉ là... nếu mẹ có em bé... cả hai chúng ta đều rất khao khát và đó sẽ là chỗ dựa để nhớ về bố con...”
Paul ghen tị với người em chưa từng sinh ra này. Nó sẽ không bao giờ biết về cha, dễ chịu hơn nhiều so với nỗi đau đến từ ký ức và nhung nhớ. Bà kéo cậu vào lòng. Lúc đầu cậu chống cự lại, sau mới chịu ngồi yên trong lòng mẹ. Dù cậu vẫn còn nhỏ và nhẹ, nhưng cậu đã biết đặt đầu ngón chân của mình trên sàn nhà để giảm bớt trọng lượng. Cậu ước mình có thể trở lại thành em bé. “Mẹ vẫn còn có con.” Cậu nói và tự hỏi mình có thể làm được gì để bù đắp cho mẹ.
CHƯƠNG 5
Tháng Chín năm 2009
“Ở đây, Paul à, không phải một buổi phỏng vấn” Demetra nói. Họ đang ở trong cabin được bố trí như một căng tin. Nhìn từ bên ngoài, những túp lều này trông giống các thùng chứa hàng nhưng bên trong được trang trí cẩn thận, tốt hơn một số các nhà máy sản xuất khác mà trước đây cậu từng lẻn vào ban đêm. Ở đây, có một văn phòng, một vài gian hàng, nhà ăn, một phòng vệ sinh xối nước và cả một căn phòng có tủ khóa, bồn rửa và vòi sen. Cậu nhấp một ngụm trà không rót ra từ một ấm đun mà từ một bình chứa bằng bạc khổng lồ, Demetra gọi là cái ấm. Chị ta uống trà hoa cúc La Mã. Paul ghét trà thảo dược. Nó nhắc cậu nhớ đến mẹ, người đã từng nghĩ rằng các loại trà làm từ các loại cỏ cây Trung Quốc rất có lợi cho sức khỏe, do vậy ngôi nhà đã chất đầy bùn, rễ đắng và lá trong nhiều tuần.
“Đây chỉ là một cuộc trò chuyện để chúng ta hiểu nhau hơn. Tôi không hứng thú với thứ này!” Demetra vung vẩy một xấp hồ sơ mà Paul đoán đó là các ghi chép về vụ án của mình. Tập trung một lúc, cậu đã giải mã các chữ và số viết ngược ghi phía trên cùng. Tên của mẹ cậu xuất hiện ngay sau tên cậu, các chữ cái hiện lên hết sức quen thuộc và rõ ràng dù đang viết lộn ngược và được đặt ở một góc kỳ cục; bên cạnh đó, cậu nhìn thấy dòng chữ “liên lạc trong trường hợp khẩn cấp”. Tờ giấy viết danh sách tất cả những người có liên quan đến vụ án, các sỹ quan cảnh sát và luật sư của cậu, bên cạnh thông tin liên lạc của họ được in nhỏ và tên của Daniel ngay dưới chữ “bị cáo”; không có thông tin cạnh tên của Daniel nhưng có tên và địa chỉ của Carl tiếp ngay sau đó. Hồ sơ này kết nối cậu với tất cả những người cậu đã cố gắng để thoát ra, giống như một sợi thép mảnh, dai chắc kéo mạnh cậu trở lại Essex ngay lúc này
hoặc dẫn chúng đến với cậu. Demetra thấy cậu đang ngó vào thì gập xấp hồ sơ lại và đặt nó vào lòng.
“Đừng lo lắng về điều này, chỉ để phòng khi có trường hợp khẩn cấp thôi. Mọi thứ đều được cất vào tủ có khóa.” Chị ta nói. Cậu thả lỏng một chút. “Và như tôi đã nói, tôi không quan tâm đến những gì trong hồ sơ ghi về cậu mà tôi muốn biết cậu thực sự là ai.”
“Tôi thực sự là ai ư?” Paul nghĩ. Đó là một câu hỏi khó. Một đứa con vô trách nhiệm? Cậu bạn trai giả tạo? Một người bạn đã phản bội? Một kẻ khiến người khác mất mạng? Demetra tiếp tục khi nhận thấy sự dè dặt của cậu.
“Tốt thôi! Tôi nghĩ chúng ta sẽ tìm ra khi biết nhau lâu hơn.” Demetra rạng rỡ nói. “Tôi sẽ cho cậu biết một chút về chúng tôi trước, nhé? Như cậu đã biết, đây là Kelstice Lodge. Ingram là chồng tôi, cậu sẽ gặp anh ấy ngay thôi. Chúng tôi đã mua khu đất này cách đây vài năm, với mong muốn khôi phục lại khu vườn về thời kỳ hoàng kim dưới thời Elizabeth. Vì vậy, chúng tôi đã lập quỹ từ thiện, mang tên Veriditas. Năm ngoái, người làm vườn tuyệt vời của chúng tôi, Louisa, đã khai quật được một tấm thảm tái hiện lại khu đất hệt như năm 1563. Tôi nghĩ cậu cũng đọc tin này rồi? Tin tức xuất hiện trên tất cả các mặt báo, nhưng cô ấy đã để cho chúng tôi nhận toàn bộ công lao. Chúa ban phước cho cô ấy!” Khi người nghệ sỹ hào hứng nói, họ quên mất không phải ai cũng am tường vấn đề được như họ. Những điều Demetra nói đều hết sức mới mẻ với Paul và cậu không biết phản ứng như thế nào. “Sao cũng được. Chúng tôi làm đủ các công việc ở đây, nhưng Louisa mới là thợ làm vườn chính, thực hiện tất cả các nghiên cứu về cây cối, Nathaniel cũng là thợ làm vườn, Ingram chịu trách nhiệm gây quỹ, còn tôi là... người làm từ thiện, nếu cậu muốn tìm một cái tên cho tôi. Về cơ bản, chúng tôi muốn dự án sẽ được nhiều hơn là một nơi phục hồi giá trị văn hóa, chúng tôi thực sự muốn đền đáp lại thứ gì đó cho cộng đồng. Vào thời điểm này, bởi đang là mùa thu nên chỉ có bốn người trẻ tuổi làm việc với chúng tôi, bao gồm cả cậu. Giờ cậu có tất cả, bởi cậu đã vượt qua tất cả các thử thách và các cậu đã được giới thiệu riêng với tôi. ừm, còn gì nữa nhỉ? Cho đến nay, chúng tôi tự chi trả cho phần lớn công việc, nhưng
chúng tôi đang trong quá trình nhận một khoản trợ cấp lớn, chắc chắn sẽ thay đổi hoàn toàn cách chúng tôi làm việc ở đây. Hiện giờ chúng tôi đang kêu gọi mọi người trợ giúp và hoạt động tình nguyện.” Cơ bản là, Paul nghĩ Demetra đang muốn tìm lao động rẻ mạt để làm những công việc bẩn thỉu của mình. “Nhưng cậu không nên nghĩ, dù chỉ một phút, rằng mình là lao động giá rẻ làm những công việc bẩn thỉu.” Demetra nói. “Những bạn trẻ đã tham gia vào chương trình đều nói rằng làm việc tại Kelstice đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của họ. Tôi tin rằng, chúng tôi tin rằng”, chị ta hơi cúi người về phía trước, khuỷu tay chống trên đầu gối, khiến Paul ngồi co lại vào ghế, “làm việc trong một khu vườn sẽ là một cách cải tạo khá độc đáo và rất thành công. Sự cứu rỗi thực sự đơn giản, được tìm thấy thông qua làm việc vất vả hay trông nom mùa màng.”
Paul muốn hét vào mặt Demetra rằng cậu không phải là loại người cần cải tạo, rằng cách ly cậu khỏi Daniel là sự cứu rỗi duy nhất cậu cần và rằng cậu sẽ chuồn khỏi đây ngay khi phiên tòa kết thúc, nhưng cậu chỉ trả lời, “Rất hay.”
“Thật tuyệt!” Demetra nói. “Thế cậu đã chuẩn bị đồ đạc ra sao rồi?”
Paul hơi bối rối. Không ai nói gì về việc chuẩn bị đồ nghề. “Tôi không có cái gì.” Paul nói. “Tôi chỉ có những gì mình đang mặc đây, tôi xin lỗi.”
“Ý tôi là phòng của cậu. Chỗ ở của cậu thì sao? Ổn chứ?” “Ồ!” Paul nói, cảm thấy mình thật ngốc. “Vâng. Cảm ơn! Ổn cả.”
“Tôi xin lỗi không thể để cậu ở chung với những người khác bây giờ, dù có thể có thay đổi ở những giây cuối cùng. Khả năng nhà Coventry sẽ có phòng trống. Không phải tất cả đều sẵn sàng với các thử thách.” Demetra tỏ vẻ chán nản, như thể chị ta luôn quan tâm đến từng thất bại của mọi người. Nhìn chị ta có vẻ ngây thơ, đức tính sẵn sàng hy sinh vì người khác khiến cậu nhớ đến mẹ mình và bỗng nhiên một mong muốn kỳ lạ trỗi dậy là muốn làm chị ta hài lòng. “Tôi chắc chắn cậu sẽ không làm tôi thất vọng, Paul. Tôi có ấn tượng rất tốt về cậu.”
Demetra rửa chén của mình dưới vòi nước và Paul bắt chước theo. “Cậu đã biết nhiều về công việc làm vườn chưa?” Paul hồi tưởng lại khu vườn của mình ở Grays Reach, chừng mười feet vuông trên ván và gỗ lát sàn. Troy, bố dượng cậu, chắc sẽ lót ván cả khu đất - toàn bộ vùng Essex - nếu chỉ có dù là một nửa cơ hội. Troy đã giúp mẹ cậu làm màng ngăn và đặt những tấm ván. “Tôi có biết chút ít về xử lý cảnh quan.” Cậu mạo hiểm.
“Thật xuất sắc!” Demetra nói, như thể cậu mới tiết lộ rằng mình có một năm kinh nghiệm làm việc ở Kew. “Thành thật mà nói, chúng tôi cần cậu “phá hủy” trước khi dạy cậu cách chăm sóc hoa màu. Công việc bây giờ chỉ là phát quang đất. Chúng tôi có chừng hai mươi mẫu đất với bụi gai mọc dày đặc chưa được xử lý. Ôi đừng nhắc với tôi về mấy cây chút chít Nhật Bản* nhé, thật kinh khủng! Chúng ta vẫn còn nhiều tháng nghỉ ngơi trước khi bắt đầu trồng trọt. Hãy đợi mùa xuân đến, khi đó mọi chuyện thú vị sẽ bắt đầu.”
“Tuyệt!!!” Paul thốt lên nhưng trong lòng tự hỏi ai có thể phấn khích với mấy cái ý tưởng đào xới cỏ dại và quan sát chúng phát triển được cơ chứ! Đây hẳn là một mùa thu dài!
CHƯƠNG 6
Những lần say xỉn của Louisa càng thưa hơn thì nó càng kéo dài hơn trước. Cô đã thực hiện nghi lễ của mình vào đêm thứ Sáu và những hiệu ứng của nó đã kéo dài đến hết ngày thứ Bảy, sang Chủ nhật cũng không thấy khá hơn mấy. Và giờ đã là sáng thứ Hai, nhưng cô vẫn thấy mệt mỏi. Những mệt mỏi về thể xác khiến cô yếu đi, nhưng chính những đau đớn về tinh thần mới là không thể chịu đựng nổi. Chẳng khác nào hành xác khi cô nhớ lại toàn bộ quá trình, từ ngụm vodka đầu tiên đến việc ôm lấy ti vi, khóc, quỳ, thật không thể chấp nhận được. Nhưng nó đã có tác dụng, điều đó mới quan trọng. Khi bước đến văn phòng cô cảm thấy nhẹ nhõm, không phải vì cô đã ăn uống không điều độ suốt cuối tuần. Cô thường cảm thấy sạch sẽ và thanh thản sau mỗi lần như vậy, nhưng giờ đây là một cảm giác dứt khoát, một niềm tin rằng con quỷ cuối cùng đã bị đuổi đi. Hơn nữa, cô cảm thấy mình được bảo vệ, mặc dù lớp vỏ cô tạo nên trong những năm qua đã dày hơn và trở nên bất khả xâm phạm.
Cô vừa kịp đến chỗ làm việc, nhưng so với mọi ngày, cô đã đến trễ một cách bất thường. Những người khác đều đã ở đó. Mưa phùn nhè nhẹ rơi, bầu trời như một bức màn màu xám dự báo một ngày làm việc vất vả. Nhưng cô thấy ổn vì ngày hôm nay cô sẽ gọi điện và làm việc trong nhà. Ross bước ra khỏi phòng, được gọi là phòng khởi động, khi cô bước hai bước đến văn phòng.
“Chào buổi sáng, Ross!” Cô nói, nhận ra cậu ta là người cuối cùng cô nói chuyện cuối tuần trước và cũng là người đầu tiên cô gặp mặt đầu tuần này.
“Chào buổi sáng. Ôi trời, tóc của tôi!” Ross nói, quay về phía mưa và vuốt phần tóc mái của mình xuống. Louisa bối rối. Cô
đã luôn nghĩ rằng tóc của Ross là một thất bại của ngành công nghệ tóc. Ross hất một phần tóc qua bên tai, như cách một ông hói chải chuốt, mặc dù cậu ta còn trẻ và tóc khá dày. Việc có một người cố tình để kiểu tóc như vậy khiến cô thấy bối rối và sự bối rối ấy làm cô phát hoảng. Đó cũng là bản năng khiến cô muốn đến gần Dilan và kéo cao cạp quần cậu ta lên để che đi chiếc quần lót. Cô đã là một phụ nữ trung tuổi nên luôn thấy bối rối trước thời trang của giới trẻ. Nó sẽ xảy ra với tất cả mọi người, cô nghĩ, nhưng chắc không phải ở cái tuổi ba mươi chín này chứ?
Liếc qua Ingram, anh ta đang cắm cúi phía sau bàn làm việc của mình, điều đó khiến cô thấy vui. Anh ta làm quản lý cho cô được hai năm nhưng đối với cô, anh ta luôn giống như một cô gái hai mươi mốt tuổi. Mái tóc dày được buộc lên gọn gàng, kiểu đuôi ngựa thời trung cổ. Hoàn toàn phù hợp với đôi lông mày trên cặp kính vuông. Hôm nay, anh ta không để ý đến quần áo lắm, anh ta mặc một chiếc áo len đan tay với những họa tiết cành cây nằm chéo qua ngực. Louisa nửa tin nửa ngờ rằng sẽ có một con thỏ biết nói hoặc một con kỳ lân nào đó nhảy ra khỏi nách anh ta và bắt đầu chạy xung quanh cổ áo.
“Có một bài viết về cô trên tạp chí cuối tuần này.” Anh ta nói với Louisa. Cảm giác bình yên ngay lập tức được thay thế bởi nỗi hoảng sợ quen thuộc. Cô cảm thấy hụt hơi, như thể một kẻ vô hình đấm mạnh vào bụng, khiến lưng cô cong lại.
“Có vấn đề gì thế?” Ingram hỏi.
“Tôi bị đầy bụng.” Cô trả lời khi dạ dày trống rỗng của mình đang sôi sục a-xít. Cô thấy choáng váng khi nỗi sợ hãi trỗi dậy quá nhanh và cô chợt hiểu ra cảm giác bình yên của mình đã dựa vào không gì hơn ngoài sự mê tín rằng cô đã, đáng lẽ phải, trưởng thành nhanh hơn. Anh ta ra dấu bằng cách gật đầu về phía một tờ báo đặt trên bàn. Cô kéo lê bàn chân nặng như chì qua phòng, nhận thấy anh ta đã cắt và đánh dấu một bài viết có tên Luddite thế hệ mới*, về một thế hệ những con người từ chối công nghệ có lợi mà lựa chọn phong cách sống và làm việc truyền thống. Cô thở phào nhẹ nhõm.
“Chà, dữ dội nhỉ!” Cô nói. “Tôi biết, tôi đang lãng phí cuộc sống của mình, một thợ làm vườn cắm cúi trong khu vườn cả ngày thay vì nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính. Thật kỳ lạ, phải không? Bất cứ ai cũng sẽ nghĩ tôi thực sự thích công việc của mình.”
“Việc của tôi không phải in các email ra cho cô.” Ingram sẽ tiếp tục tranh luận cả ngày nếu có cho phép.
“Vậy thì đừng!” Cô nói, “Để họ gọi cho tôi. Để họ viết thư cho tôi. Để tôi đến với họ.”
Một tiếng bíp khác vang lên trên máy tính, anh ta báo với Louisa rằng một tin nhắn khác mới nháy lên trên màn hình. Anh ta nhăn mặt khi đọc nó.
“Bắt đầu từ hôm nay chúng ta sẽ có một kẻ vô vọng nữa từ Demetra. Tôi nghĩ là cô đã biết rồi?” Ingram tỏ vẻ khó chịu. Giờ cô đã nhớ ra: Demetra đã nói với cô vào cuối tuần trước khi sự khó chịu về Adam đã trở nên quá tải và cô đã quên khuấy mất.
“Giới trẻ, Ingram.” Họ đã thử cả triệu lần mới tìm được một cụm từ ngắn gọn, phù hợp để tóm tắt tất cả những lý do phức tạp khiến những đứa trẻ đó kết thúc tại Kelstice. Những kẻ có tiền án, những người dễ bị tổn thương, những người nghiện, đang phục hồi nhân phẩm, thanh niên... cuối cùng, tất cả được gói gọn là Giới trẻ.
Ingram khịt mũi, “Cậu này đã làm gì nhỉ, cô nghĩ sao?” “Chẳng phải quan trọng nhất là chúng ta không nên hỏi bọn họ đã làm gì ư?” Louisa hỏi. “Chúng ta phải đối xử với bọn họ như không có gì xảy ra chứ?” Cô luôn rất nghiêm túc về điều đó, về cơ hội thứ hai, bản tính có thể thay đổi. “Không phải tất cả đều là kẻ cướp hay những tên hiếp dâm. Hãy nhìn Ross xem. Chúng ta đã làm những điều kỳ diệu cho cậu ta. Cậu ta sẽ học đại học trong năm tới.”
“Ồ, tôi biết. Tôi đã phải viết thư giới thiệu tới một trường kỹ nghệ trá hình trường đại học. Đại học William Shakespeare, nếu cô không thấy phiền. Cậu ta đang học cử nhân ngành quản lý di sản. Thứ đó có ý nghĩa quái gì? Ở thời của tôi, chúng tôi xác định cứ có bằng cử nhân lịch sử cái đã, tốt nghiệp xong chúng tôi mới bắt đầu suy nghĩ về nghề nghiệp tương lai...”
Louisa lờ anh ta đi và quay lại bàn của mình. Cô đang trả giá cho sự bỏ bẵng của tuần trước bằng một tuần mới phải làm việc đến tận khuya và không có thời gian nghỉ trưa. Các email được in ra chất thành chồng cao và có hàng chục nhà máy cô còn chưa theo dõi, chứ đừng nói là đặt hàng. Trong sổ ghi chép của cô là một danh sách viết nguệch ngoạc những người cô đang kiếm đủ mọi cách để nhận được sự ủng hộ, với các ô trống cô sẽ đánh dấu vào sau mỗi cuộc điện thoại. Tất cả đều trống. Các đơn xin trợ cấp được đánh dấu nham nhở đang trễ hai tuần; các mẫu đơn vẫn còn trong phong bì. Bỏ bê công việc là không thể tha thứ. Cô lật một trang giấy, đập vào mắt là hình ảnh phác họa chân dung của Adam cô vẽ lúc nào không hay. Cô nhặt lấy bút và gạch chéo lên bức vẽ cho đến khi nó hoàn toàn bị che khuất, sau đó xé tờ giấy và ném nó vào thùng rác tái chế.
Cô xoay ghế ngồi quan sát tấm thảm, việc cô vẫn thường làm khi tìm cảm hứng. Đó không phải hàng thật, tất nhiên vì ngay cả chiếc điện thoại cũng không thể để hớ hênh tại nơi này, chứ đừng nói một món đồ vô giá. Tấm thảm có những họa tiết được thêu từ nhiều thế kỷ trước và có kích thước bằng đồ thật với độ phân giải cao nhất. Trên đó là một cặp đôi thời Elizabeth, cô gái trong bộ váy bồng từ thế kỷ XVI còn chàng trai trong bộ trang phục cùng niên đại, họ đứng trước một khu vườn rộng lớn, rậm rạp đầy các loại thảo mộc, dây leo, bờ rào và những lối mòn; có một đài phun nước bằng đá ở trung tâm; vườn cây ăn quả và những cánh đồng ẩn hiện phía xa xa. Phong cách thêu phẳng của những thợ thêu thời Tudor tạo nên một cảm giác hai chiều hoàn hảo cho mục đích nghiên cứu và thiết kế của cô. Cô chú ý đến đường viền tinh xảo, với vô số những cành lá và hoa cuộn vào nhau. Nhờ những hình ảnh đó cô có thể tái tạo lại hình ảnh khu vườn một cách chân thực. Cô nhìn không chớp vào một đóa hoa hồng trắng khiến cô bối rối trong nhiều tuần. Đó là hoa dã tường vi hay chỉ là một bông tầm xuân? Người khác nếu đã nghĩ đó là hoa dã tường vi thì sẽ không suy nghĩ nữa. Nhưng cô không gọi bừa tên một loài cây cho đến khi cô hoàn toàn chắc chắn, đó là việc Ingram thực sự trả tiền cho cô. Cô có thể bỏ ra hàng giờ nhìn chằm chằm vào một cánh hoa duy nhất. Công
việc là nơi trú ẩn duy nhất của cô. Cho dù cô có săn lùng một loài cây hay chăm sóc nó, cô đã luôn luôn theo đuổi những khoảnh khắc khi quá khứ và tính cách của cô không còn quan trọng và tất cả trong cô chỉ là những kỹ năng đó. Cô lật trở lại trang giấy gồm đầy tên và các Con số, mỗi con số tượng trưng một bước tiến gần hơn đến sự hoàn thành của khu vườn. Cô thấy nhẹ nhõm và vui thích khi cảm thấy niềm đam mê và sự khả thi đang khuấy động bên trong cô. Cuộc gọi đầu tiên thậm chí được trả lời gần như trước khi đổ chuông.
“Chào Tim!” Cô nói. “Louisa, Louisa Trevelyan đây. Bây giờ, nghe này, điều này là rất táo bạo nhưng tôi vẫn hỏi vì nếu không, tôi sẽ không bao giờ có được. Hiện tại tôi đang làm việc cho một chương trình cộng đồng tuyệt vời, khôi phục khu vườn Tudor ở Warwickshire và tôi đang tìm nhà tài trợ.” .
“Sao tôi thấy vụ này có vẻ không hay ho cho lắm?” Tim nói. “Cô đang tìm cách moi tiền tôi hả?”
“Anh gọi nó thế nào cũng được, chà, tôi sẽ không đưa ra bình luận gì. Nhưng nếu anh cho chúng tôi mượn một cái máy đào đất hoặc hai cái, miễn phí, trong khoảng sáu tuần, anh sẽ có logo công ty trên tất cả các chương trình, tên đơn vị của anh trên tất cả các giấy tờ, mọi thứ. Giờ anh sẽ nói sao đây?”
Tim giả vờ phản kháng, Louisa lại giả vờ thuyết phục. Họ đã đồng ý nói chuyện thêm vào ngày mai khi anh có thời gian kiểm tra lại các con số. Cô đánh dấu vào ô trống cạnh tên anh.
Cô ăn trưa - món mì ngay tại bàn mình. Sau đó cô đi dạo trong vườn. Hơn bao giờ hết, cô cảm thấy phấn chấn khi bước ra khỏi “ánh nắng” giả tạo từ những chiếc đèn huỳnh quang ra ngoài trời, dù ánh nắng thực có yếu ớt như hôm nay. Cơn mưa phùn lúc này đã tạnh nhưng mặt đất đủ độ ẩm để đào xới và cũng đủ khô để đôi bốt của cô bám lấy mặt đất. Bước bốn bước dài qua gò đất, cô đi ra vòng ngoài đống đổ nát, quan sát xung quanh Kelstice. Nhìn vào khu đất bây giờ, sẽ không ai tin rằng chỉ trong hai năm nữa thôi nó sẽ hồi phục lại sự huy hoàng như trong bức tranh được thêu trên tấm thảm.
Chỉ có một mẫu đất bắt đầu được cải tạo, vườn cây của Nathaniel được đào hai lần từ bờ này sang bờ kia, được cắm
cọc và đánh dấu vị trí của các cây với một sự tỉ mỉ đặc trưng. (Nathaniel giống như một anh hùng kiểu Thomas Hardy - với đôi má ửng hồng, mái tóc xoăn màu nâu đỏ và sự im lặng ẩn ý mà ban đầu Louisa cứ nghĩ đó là một bí ẩn - và cô đã rung động bất ngờ trước anh ta. Nhưng rồi cô thấy vừa thất vọng vừa nhẹ nhõm khi biết rằng anh ta đang sống hạnh phúc ở Stratford upon-Avon với một người buôn đồ cổ tên Ian.) Những phần khác của khu vườn không thuộc thẩm quyền của Nathaniel vẫn là một mớ hỗn độn. Nhà kính hãy còn trống đến nửa, màu xanh sáng của đám cỏ dại vẫn sừng sững bất khả chiến bại. Ở bên phải của Lodge, đám bụi cây mọc hoang vẫn dày đặc như ngày đầu tiên cô nhìn thấy nó. Rõ ràng cái máy đào nên xuất hiện càng sớm càng tốt. Trong khi chờ đợi, bọn trẻ sẽ phải oằn lưng đào đất, hì hục làm những công việc lẽ ra một cỗ máy có thể làm mà không tốn nhiều công sức. Ingram phản đối ý tưởng máy đào đất, bề ngoài anh ta nói là do vấn đề kinh phí nhưng thực tế thì, Louisa ngờ rằng, anh ta nghĩ lao động nặng nhọc là cần thiết để làm cạn bớt năng lượng của bọn trẻ thay vì dùng vào những hành vi nổi loạn bạo lực. Nếu làm theo cách của anh ta thì toàn bộ dự án sẽ được hoàn thành với lưỡi hái và cuốc xẻng. Cuối cùng, cô nhìn ra bức tường ở rìa xa nhất. Giờ lá đã mỏng bớt nên có thể nhìn thấy mặt nhôm sáng lấp lánh nhưng tất nhiên phải chú tâm tìm kiếm mới nhìn thấy được và ở vị trí đó chắc chắn người nhìn sẽ nhầm sang một xe công nông hoặc một nơi động vật trú ẩn.
Louisa chuyển sự chú ý của mình trở lại đống đổ nát. Dù có nhìn nó bao nhiêu lần thì cô vẫn không thể ghi nhớ toàn bộ các hoa văn đá vào bộ nhớ. Cô lần bàn tay dọc theo bức tường ẩm ướt, ngón tay miết dọc theo những hình vẽ cổ xưa đã mờ nhạt thành những ký tự không thể đọc được, tự hỏi liệu đã có ai đứng ở đây trước cô, họ đã thấy những gì và liệu cô có thể tái tạo lại tất cả chân thực đến mức nào. Công việc của cô hẳn sẽ nhẹ nhàng đi nhiều nếu bức vách có cả miệng lẫn tai, nếu những viên đá cũ có thể hướng dẫn cô trong suốt dự án.
Cô không nghĩ sẽ có ai khác bước lên gò và rẽ vào một góc khuất mà không nhìn, đập đầu vào bộ ngực của cô. Cô lùi lại một bước và người đó cũng vậy, lời “xin lỗi” tự động thốt ra
khiến cô chú ý. Louisa ngước lên nhìn. Lời xin lỗi chết cứng trên mỗi khi cô nhìn vào khuôn mặt của Adam Glasslake. Từng ngụm không khí trôi vào phổi như nước đá, như thể cô đang chạy trong một ngày đông. Suy nghĩ đầu tiên xuất hiện trong cô hẳn là, nhờ sức mạnh từ nỗi khao khát cháy bỏng cuối cùng đã gọi anh trở về, rằng cô đã gặp được linh hồn anh. Đây hẳn là một bóng ma: Adam chưa hề già đi chút nào. Cô đột ngột đưa tay lên vuốt má mình đầy thương tâm, khi nhận thức được cô đã thay đổi ra sao trong mắt anh sau bao năm tháng trôi qua. Nhưng hơi thở của anh cũng mờ đi trong không khí như cô và ngực của anh chạm vào trán cô đầy ấm áp. Không có khuôn mặt nào hiện ra trong các đám mây, đây không phải một bóng ma. Cảm thấy bối rối, sợ hãi, cô dán lưng vào bức tường không bằng phẳng phía sau, những ngón tay bám vào vách đá. Adam có vẻ như đang hoảng sợ hơn cô.
“Cô có sao không?” Người đó hỏi. “Tôi làm cô bị thương ở đâu à? Tôi thật sự xin lỗi!”
“Không, tôi xin lỗi!” Cô thì thầm. “Ôi lạy Chúa, tôi rất... rất xin lỗi!” Cô gần như trượt khỏi dốc với mong muốn chạy đi càng nhanh càng tốt, chạy qua vườn cây chưa trồng, đạp phải các vệt đánh dấu và giẫm lên các luống đất. Cô sẵn sàng đập tan các bức tường kính để tránh mặt anh. Cô thậm chí còn sẵn sàng chui sâu vào lòng đất.
CHƯƠNG 7
Tháng Tư năm 1989
“Em không thể tin là đã bị chị thuyết phục đi vào khu West End vì cái thứ chết tiệt này.” Cô nói với Elvira. Họ đang ở trong một tầng hầm sàn dính nhớp nháp trong một con hẻm cách xa đường phố nằm ở cuối Oxford. Địa điểm tổ chức là một nơi lai tạp không rõ ràng giữa một quán rượu theo chủ đề và một hộp đêm: các thanh ngang ở hai bên cánh gà được bọc gỗ, nhưng trần nhà khá lộn xộn với đường ống mở ra. Họ chỉ đến đây vì Elvira là bạn bè với Trina - cô gái đứng ở cửa và hứa sẽ cho họ đồ uống miễn phí nếu họ đã trả tiền vé vào.
“Chị biết, chị xin lỗi.” Elvira nói. “Chúng ta chỉ ở lại nghe vài bài hát rồi đi luôn.”
Họ đã chờ đợi đến nửa giờ cho đến khi ban nhạc bắt đầu chơi. Có ba người, hai chàng trai và một cô gái, đang sắp xếp, kiểm tra lại hệ thống dây điện và âm thanh. Louisa đếm được hai cái guitar và ít nhất bốn cây đàn synth, mặc dù cô không hoàn toàn chắc chắn lắm vì họ cứ liên tục sắp xếp lại chúng, nối dây điện và dẫn dây đến khi toàn bộ sân khấu nhìn bừa bộn không khác gì ổ chuột. Từ Glasslake được xăm trên da của chiếc trống bass.
Khi nhìn quanh chỗ khán giả ít ỏi, cô đã thấy một anh chàng khá hứa hẹn đeo kính John Lennon, buộc tóc đuôi ngựa và mặc áo gi-lê thêu. Khi hai mắt chạm nhau, cô cụp mắt xuống, đếm đến hai và ngẩng lên nhìn lại. Anh ta vẫn đang nhìn cô. Cô mỉm cười, đếm đến hai lần nữa, sau đó quay sang Elvira, cô biết chắc chắn anh ta sẽ qua. Mọi thứ dễ dàng không có nghĩa là không thú vị.
Sau một tiếng rít vọng ra từ loa điện, cả câu lạc bộ đã chìm vào bóng tối. Chỉ có biển báo thoát hiểm sáng xanh và ngọn
đèn phía sau quầy bar là phát sáng. Trong bóng tối, Louisa cực kỳ mẫn cảm với những cơ thể đứng xung quanh mình: Elvira ở bên trái, cao lớn; phía trước là một cô gái gầy gò với tóc mái chải hất lên cứ rủ xuống cù vào mũi cô và những cơ thể ấm nóng, mềm mại phía bên phải và đằng sau cô không biết là đàn ông hay phụ nữ. Cô cảm thấy hơi thở ai đó phải vào gáy mình. Khi đèn sân khấu bật sáng, thật khó để tin rằng trên đó vẫn là ban nhạc lúc nãy. Những máy móc và nhạc công ẩn trong bóng tối, chỉ có chiếc gậy để micro được quấn quanh với hoa hồng đỏ và dây thép gai là được ánh đèn sân khấu chiếu vào. Phía sau là thành viên thứ tư của ban nhạc, một anh chàng đẹp trai “dữ dội” với chiếc guitar bass bên hông. Anh ta đẹp đến độ Louisa cảm thấy ngộp thở, như thể có một hợp âm đẹp đẽ kỳ lạ mới vang lên.Dàn nhạc vô hình bắt đầu chơi, mỗi thanh âm mang theo một tầng âm thanh mới cho đến khi mọi dự đoán của cô đều trở nên vô nghĩa. Rồi cuối cùng anh chàng đẹp trai đó cũng hát, giọng vừa mang âm hưởng rock vừa có tính opera, khi trầm khi bổng. Louisa đứng chết trân. Người đàn ông tóc đuôi ngựa tiến đến và cô thực sự đã xua anh ta ra như một con ruồi, nhẫn trên tay cô đập vào mắt kính anh ta. Cô còn chẳng để tâm đến câu chửi anh ta ném lại “Đồ chó cái”, chứ đừng nói là xin lỗi.
Anh chàng ca sỹ này có vẻ ngoài thu hút đến kỳ lạ, gương mặt đặc sệt phong cách Xla-vơ với đôi môi đầy đặn, làn da ô liu có đôi chút ửng hồng. Một lúc sau, cô đảo mắt về phía ngôi sao chính của buổi biểu diễn. Đó là một người đàn ông mang đậm vẻ thu hút của tuổi trưởng thành và hẳn các cô gái sẽ xúm lấy nếu không có chiếc cằm nhô ra phá nét. Anh ta có hai cây đàn synth hai bên và hình như đang chơi cả hai cùng một lúc. Tay guitar là một cậu bé gầy gò, kẻ mắt, đội một chiếc mũ cao và một cô gái đứng đằng sau bộ trống, với chiếc micro treo lơ lửng trên đầu. Louisa nghĩ đó là vị trí tuyệt nhất cho cô ta rồi. Sở hữu vóc dáng thô kệch và mái tóc khô cứng, dường như vẻ ngoài của cô ta không thể cải thiện được nữa.
“Chị không thể hiểu cái thứ âm nhạc này đang đi sau thời đại hay đi trước nữa.” Elvira hét lên, gí sát miệng vào tai Louisa khiến cô cảm thấy một cái gì đó sâu dưới cổ cô vừa vỡ ra.
“Ý chị là gì?”
“Thứ âm nhạc này là gì chứ? Không phải rock, chẳng phải rave, giả kiểu nhạc cổ, tất cả là một mớ hỗn độn chết tiệt!” Gu nhạc của Elvira không thuộc số đông: những tiếng cổ vũ khi họ rời đi, việc cả bốn đã biến mất sau các tấm màu đen ra khu vực hậu trường bí mật, bốn người không nhằm gì so với đám đông. Nhạc sống nhường chỗ cho các bản thu và sàn nhảy lại trở thành trung tâm của căn phòng. Louisa đang tìm kiếm chàng ca sỹ, cơ mắt cô đau nhức do phải căng ra tập trung giữa làn khói. Cuối cùng khi cô tìm được anh, niềm hưng phấn mới chớm ngay lập tức bị dập tắt bởi sự thất vọng cùng cực. Anh đang nói chuyện với một cô gái có mái tóc đỏ xõa ngang lưng. Cô ta là bạn gái hay một người hâm mộ? Trán hai người chạm nhau khi nói chuyện, dáng vẻ không quá gần gũi nhưng cũng không giống như hai người xa lạ. Cặp đôi thực sự đã va vào cô trên đường ra khỏi câu lạc bộ. Louisa ở đủ gần để nhìn thấy cả những sợi lông trên cổ tay anh và cô nhận thấy cô gái kia có hàng mi cong rất đẹp ở đuôi mắt - chỗ không một phép màu nào từ cây chải mascara có thể chạm đến. Khi nhìn họ biến mất qua cửa tò vò dẫn đến cầu thang, cô cảm thấy sự thất bại vụn vỡ trong lòng.
Louisa không ngại giật một anh chàng khỏi bạn gái anh ta, nhưng cô không giỏi làm việc đó cho lắm.
“Hãy tìm hiểu về buổi biểu diễn tiếp theo.” Cô nói với Elvira. “Gì cơ? Một lần là quá đủ rồi!”
“Làm ơn đi!”
Khi Elvira nói chuyện với Trina và cô gái chơi trống, Louisa nghịch một tờ rơi, gấp đôi nó thành nhiều lần nhất có thể, sau đó đục các lỗ nhỏ trên những tờ giấy có màu đỏ và đen để khi mở ra sẽ tạo thành một bông tuyết. Bộ phim đó tên là gì nhỉ, có một người đàn ông để lại những con thú gấp Origami ở khắp nơi ông ta đi qua, như một dạng danh thiếp? Có lẽ cô sẽ trở thành một người giống như thế với những bông tuyết giấy. Một thứ gì đó để người ta nhớ về cô. Một luồng không khí mát mẻ xộc vào câu lạc bộ khi cánh cửa được mở ra và ban nhạc phía sau bắt đầu đẩy những món đồ khổng lồ vào một chiếc xe tải
đang đợi. Khoang xe được chất đầy nhanh hết sức, ba người chuyền tay liên tục mà không nói câu nào. Những cánh cửa đóng sầm lại, phép màu đến đây là kết thúc. Sân khấu chỉ còn là một khối gỗ lớn, sơn đen và được dán băng dính.
Trên đường phố, tai của Louisa bị ù đi, như thể mới hoàn thành một cuốn sách hay bước ra khỏi rạp chiếu phim vào ban ngày, thế giới thực luôn có vẻ ít thực hơn thế giới cô đã bỏ lại phía sau.
“Họ sẽ chơi ở hộp đêm 100 Club vào thứ Năm tới.” Elvira nói. “Chúng ta có tên trong danh sách khách mời. Trừ khi chị nhận được một lời mời tốt hơn.” Cả hai rẽ vào đường Charing Cross và bị nhấn chìm trong một đám đông tràn ra từ Astoria.
CHƯƠNG 8
Có những trường năng lượng hoạt động ngoài tầm hiểu biết và kiểm soát của con người, đó là phận, khí, nghiệp, những chòm sao và mệnh. Chúng là những tên khác nhau cho cùng một thứ, một lực lượng thần bí đã dẫn dắt mỗi người vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời. Liệu có giải thích nào hợp lý hơn không, cho sự thật rằng anh đang đứng đây, ngay trước mắt Louisa, ngay tại khu chợ? Hẳn một điều gì đó đã mang Adam đến với cô. Anh ăn mặc như thể sắp bước lên sân khấu, dù bây giờ mới là 11 giờ trưa. Anh mặc áo vải denim đen và đồ da, quần jean xắn vào trong ủng cao đến nửa ống chân. Cô chưa bao giờ biết rằng màu đen lại long lanh đến thế.
“Cô là Elvira?” Adam hỏi. Elvira đang làm việc quầy hàng bạc tầng dưới, hôm nay cô ấy mặc một chiếc váy được thiết kế giống như ba miếng che mắt nhỏ xíu ghép khéo léo bằng len móc, nên chẳng đời nào Louisa để Adam đến gần cô ấy.
“Tôi xin lỗi, cô ấy không có ở đây. Tôi có thể giúp gì cho anh?”
“Cô ấy đã nói với tay guitar của chúng tôi rằng chúng tôi có thể để những thứ này ở đây.” Anh đang cầm một đống tờ rơi giống hệt cái cô đã nghịch và chọc rách vào đêm trước, logo có chữ Glasslake bị in lem nhem, màu đen trên nền đỏ, các ngón tay anh lấm chấm vết mực lem ra. Giọng anh đều đều và không cảm xúc, che giấu hoàn toàn nội lực của anh.
“Đêm trước anh được đấy.” Cô nói.
“Tôi xin lỗi, tôi không biết mình có vinh hạnh đó.” Anh nhướn mày và cô cảm thấy, thật quái quỷ thay, sự xấu hổ lan dần lên từ ngực và làm má cô đỏ ửng.
“Ý tôi là buổi diễn. Tôi đã thấy anh ở Borderline.”
“Thật sao? Tôi không chắc lắm, chúng tôi dường như không nhận được nhiều ủng hộ.”
“Không, thật đấy.” Louisa nói, “Rất thật là đằng khác.” Thứ ngôn ngữ tán tỉnh thông thường có vẻ vượt quá khả năng của cô.
“Tôi đã có những khoảnh khắc hoảng sợ tồi tệ nhất trên sân khấu. Cô sẽ không tin tôi đã lo lắng đến mức nào đâu. Chỉ riêng việc đứng trên đó cũng làm tôi phát rồ.” Anh mỉm cười, hai lúm đồng tiền nhỏ, như hình lưỡi liềm, hiện trên hai má. “Tôi phải đi bây giờ, tốt nhất nên để lại chút bí ẩn”
Anh nhặt một lọ nhỏ màu xanh lá cây và lăn nó giữa hai ngón tay.
“Đó là có hương bài. Nó có những phản ứng khác nhau trên da của từng người, vì vậy cần có những kỹ năng nhất định để chọn ra mùi hương phù hợp cho từng người.”
Anh kẹp lọ giữa hai ngón tay và đưa lên mũi. “Tôi thích mùi này.” Anh nói. “Nhưng không biết nó có thích tôi không?” Anh chấm tinh dầu lên cổ. Như bao người không quen dùng tinh dầu khác, anh cũng đổ quá nhiều, khiến tinh dầu chảy cả xuống cổ áo. Anh sà vào gian hàng của Louisa và đưa cổ mình về phía cô như thể một nạn nhân đang chào mời một con ma cà rồng. Chiếc bông tai bằng bạc đã xỉn màu của anh áp vào má cô ấm áp.
“Một lựa chọn hoàn hảo.” Cô nói. “Chọn nó đi.”
“Tuyệt vời, tôi sẽ lấy nó.” Anh nói. “Nhưng bây giờ tôi phải đi đây.”
Cô đang chờ đợi một lời mời như lẽ tất nhiên. Trước sự ngạc nhiên và một chút rùng mình của cô, lời mời đi uống nước hay hẹn gặp ở một hộp đêm đã không xuất hiện. Anh ném một đống tờ rơi lên quầy và đi ra mà không hề nói rằng muốn gặp lại cô lần nữa. Cô nghiến răng, cô đã tưởng mình rất chắc chắn về những diễn biến tiếp theo. Cô sắp xếp lại mấy tờ rơi để trên quầy.
Khi cô rời khỏi nơi làm việc, anh đang đợi cô bên ngoài. Anh mang theo máy nghe nhạc Walkman nhưng không nghe, chiếc tai nghe màu hải quân đeo trên cổ. Sự vui mừng vì mình đã
đúng ngay lập tức bị thay thế bằng sự tức giận khi nhận ra anh đang trêu chọc cô.
“Tôi nhớ ra là mình còn chưa biết tên nhau.” Anh nói. “Tôi là Adam Glasslake.”
“Louisa Trevelyan."
“Louisa Trevelyan... Nghe thật du dương. Louisa Trevelyan, Louisa Trevelyan. Nghe như một câu thơ ngắn, như một đoạn kinh cầu. Thật đẹp. Thật vừa vặn. Cô muốn đi dạo chút không?”
Mọi chuyện tiếp theo đến hết sức tự nhiên. Cả hai lang thang lên phía vườn cung điện Kensington có các tòa đại sứ đặt ở một khoảng cách an toàn với con đường. Các nhân viên bảo an mặc đồng phục đang khom khom cạnh mấy chiếc Bentley và Rolls-Royces, kiểm tra mặt dưới của xe. Nỗi sợ đánh bom vẫn hiện hữu trong nhiều tuần liền ở khu vực này của London.
“Anh học hát như vậy ở đâu thế?” Cô hỏi.
“Hồi bé tôi từng là thành viên trong dàn hợp xướng nhà thờ.” Anh nói. “Cha tôi là mục sư.”
“Thật sao?” Louisa nói. Mẹ cô theo đạo Do Thái, còn cha cô theo Công giáo, nên họ coi sự vô thần của con gái họ là một lẽ tất nhiên. Hệ quả là, Louisa nhận thấy mọi nhà thờ đều chung một vẻ quyến rũ đau đớn.
Hai người băng qua Hyde Park và sau đó, khi trời đã tối và cổng đã đóng lại nhốt họ bên ngoài, dọc theo đường Kensington Gore, giữa lâu đài hoàng gia Albert và đài tưởng niệm Albert, hai công trình tình yêu vĩnh cửu. Hoa anh đào đang rơi lả tả - khung cảnh lãng mạn khiến cô thấy xấu hổ. Louisa chợt nghĩ, tất cả những ai đóng góp vào kiến trúc của điện Kensington, từ thời Nữ hoàng Victoria trở đi, đều đã sắp đặt các đường phố thành một địa điểm hoàn hảo cho nụ hôn đầu.
Nhưng Adam không hôn cô, anh chỉ nói chuyện. Anh nói với cô rằng ban nhạc từng có tên là Void Void và đóng góp quan trọng đầu tiên của anh đối với lịch sử ban nhạc chính là đổi tên cho nó, để thoát khỏi lãnh địa dành cho những ban nhạc có cái tên tồi tệ nhất trong lịch sử âm nhạc, rằng anh là đứa con cầu tự của một cặp vợ chồng cao tuổi đã hạ sinh sau tận hai mươi năm kết hôn. “Họ nghĩ tôi là một phép màu.” Anh nói, “Đến giờ
mẹ tôi vẫn nghĩ vậy. Vấn đề cũng nằm ở đó, bà luôn nghĩ tôi mới bảy tuổi. Bà vẫn sẽ ẵm tôi về giường nếu tôi đồng ý. Tôi phải rời nhà đi chỉ để trốn chạy bà.”
“Còn bố anh?”
“Ông thấy vui khi tôi bỏ đi. Ông căm thù tôi từ ngày tôi thấy chán nản và rời dàn hợp xướng. Đến giờ ông vẫn không hiểu lý do tại sao ông không thể tạo ra một bản sao của chính mình, một nhà thần học khác, bởi tôi ghét những tôn giáo có tổ chức. Có những lời ông nói nhân danh Chúa nhưng lại chứa đầy hận thù.”
“Như nào cơ?”
“Chúng ta có thể nói sang chủ đề khác không?”
“Ồ được thôi...” Cô nói, dù đang rất miễn cưỡng bỏ mạch chuyện này và tự nhủ sẽ lại câu chuyện trở lại ngay khi có thể. “Vậy thì, trong máy nghe nhạc của anh có gì thế?”.
Âm nhạc có ảnh hưởng đến anh bao gồm cả những ban nhạc nổi tiếng như The Smiths và The Cure, ngoài ra còn có cả Wagner, Britten và Tallis. Cô còn biết rằng anh không biết lái xe; rằng một ngày nào đó anh muốn sống ở Đức; rằng anh nghĩ chiêm tinh chỉ là những trò nhảm nhí và phần lớn những người thuộc cung Bọ cạp đều nghĩ vậy, rằng anh tự cắt tóc; rằng anh sống cùng với những thành viên khác trong ban nhạc tại một ngôi nhà chung ở Shepherd's Bush và anh cảm thấy hối hận vì chuyện đó, rằng anh chỉ cảm thấy mình sống thực sự khi đứng trên sân khấu (Chúng ta sẽ sớm biết điều đó có đúng hay không, Louisa nghĩ.); rằng anh đã đổi trường học đến bảy lần từ sinh nhật thứ năm đến sinh nhật thứ mười sáu và rằng anh có chỉ số IQ là 172 nhưng không có bằng cấp gì vì anh nghĩ đã có một thứ gì đó để dựa dẫm vào, giống như mình đã thừa nhận thất bại trong sự nghiệp âm nhạc của mình trước khi nó kịp bắt đầu. Đó cũng là lý do anh không kiếm được công việc. Hai lý do sau cùng này chỉ là một phần trong vô số lý do khiến anh không gặp bố mẹ mình trong hơn bốn năm qua.
“Anh có nhớ họ không?”
“Tôi nhớ mẹ, tôi nghĩ vậy”, anh nói, “hoặc tôi chỉ tưởng tượng thế thôi: tôi nói chuyện với bà, rồi bà nức nở đủ thứ và giờ tôi sẽ
không lỡ một giây phút nào để thoát khỏi bà nữa. Dù sao, bố tôi nói rất rõ ràng rằng tôi không được chào đón cho đến khi tôi hối cải về những việc mình đã làm và người duy nhất bà tôn thờ hơn tôi là ông, vì vậy...”
Louisa tự hỏi anh đã làm những chuyện tệ hại gì và hy vọng cô sẽ không bị phớt lờ đi lâu hơn nữa.
“Bốn năm là một quãng thời gian dài. Tôi vẫn gặp mẹ hàng ngày, tôi vẫn sống với bà.”
“Vậy tôi không thể đưa cô về nhà sao?” Anh hỏi. Đây là chủ đề duy nhất cô muốn đổi sang. Cô cảm thấy hình như mình đang ra dấu chiến thắng.
“Có chứ, mọi người thoải mái thôi.” Cô lần mò chiếc vòng trên cổ tay, tìm mặt đồng hồ. Giờ là 11 giờ 30. “Dù sao, nếu chúng ta đi ngay bây giờ, mọi người thậm chí sẽ không biết anh đã đến.”
Không còn ai trên đường. Sau 10 giờ, đường phố vắng tanh như khu ngoại thành. Mặc dù cô mới là người biết đường, nhưng cô cảm giác như anh đang dẫn đường cho cô. Khi cô mở cổng, anh còn huýt sáo.
“Tôi nghĩ mình đang dần quen rồi.” Cô nói.
Việc dọn dẹp hàng ngày đã xong xuôi, trên giường cô là một tấm ga trắng tinh như một tấm vải trắng. Đèn vẫn bật. Cả hai nhập cuộc luôn, bỏ qua khúc dạo đầu. Cô cũng không thấy bất tiện gì. Cô để ý anh đeo một chiếc nhẫn bạc trên ngón cái tay trái, mặt nhẫn hình lập thể, có bốn mảnh. Anh nhận ra cô đang nhìn vào nó.
“Tôi chỉ tháo nhẫn ra khi lên giường.” Anh nói. Chiếc nhẫn rơi đánh “coong” xuống bàn bên cạnh. Cô nhìn thấy ngón cái anh trần trụi còn kích thích hơn nhìn anh khỏa thân. Đột nhiên, cô cảm thấy lo lắng không đâu.
“Tôi đã nhìn thấy chiếc nhẫn loại này trước đây, Elvira bán. Đó là nhẫn cưới Thổ Nhĩ Kỳ. Nếu tháo ra, nó sẽ rời nhau và phải biết cách mới ráp chúng lại được, vì vậy những đức ông chồng sẽ biết ngay nếu vợ mình không chung thủy khi họ vắng nhà, bởi các bà vợ không đeo nhẫn lại được nữa.” Cô đang huyên thuyên và anh chưa cưới cô nhưng anh sẽ bật cười nếu cô tiếp tục. “Nỗi sợ khi lên sân khấu.” Cô thừa nhận. Cô vặn vẹo
tay, ước mình cũng có một chiếc nhẫn. Adam lui lại và ngồi trên mép giường.
“Louisa, tôi không biết." Anh nói. “Ôi Chúa ơi, tôi rất xin lỗi, tôi nghĩ cô đã làm chuyện này trước đây rồi.”
Cô cười lớn, phá vỡ bầu không khí đang đông đặc lại và tiến về phía anh, “Ồ, chừng một hay hai lần gì đấy.”
Mọi chuyện diễn ra giống như đang đổ dầu vào lửa. Trong mười giây đầu tiên cả hai cố gắng gỡ chăn ra và quăng nó lên đầu bình nước cách giường chừng hai feet. Mặt trời vừa mọc khi anh bắt đầu lăn ra khỏi cô, van xin cô tha anh và xin được ngủ. Cô không cho anh cả hai thứ.
“Nghe này, hôm đó... tại Borderline, anh ở cùng một cô gái khác.”
Anh đang mơ màng. “Ừm...”
“Cô ta là ai? Tên là gì?”
“Không ai cả.”
“Bởi vì em chỉ muốn cho anh biết... em sẽ không trở thành một cô...” Cô đang tìm kiếm từ ngữ thích hợp để không làm mọi chuyện trở nên quá nghiêm trọng, “nhân tình” nghe có vẻ nghiêm túc quá, còn “nàng thơ” nghe lại hơi sến súa. “Em không phải loại con gái muốn là người-tình-suốt-đời.” Ngay lập tức cô ước gì mình có thể rút lại những lời đó. Lẽ ra cô nên mỉa mai nhưng giờ những lời đó nghe như một sự tuyệt vọng.
“Cô ta là quá khứ rồi.” Adam nói. Điều đó có nghĩa là anh đã chấm dứt một mối quan hệ hay là anh sẽ không bao giờ có ý định gặp các cô nàng khác nữa? Dù sao thì cô cũng đã thắng. Cảm giác chiến thắng lan khắp cơ thể, gạt đi nỗi bứt rứt, lo lắng rằng anh là một người đàn ông có thể bỏ bất kỳ người phụ nữ nào một cách lạnh lùng.
Trong khi Adam ngủ, cô ngửi phần da săn chắc, nhờn nhờn giữa xương bả vai anh, nơi mùi cơ thể chân thực nhất. Nếu có thể chưng cất và đóng chai tinh chất một con người, nếu có thể đè bẹp nghiền nát da người như cánh hoa thì cô sẽ làm điều đó với Adam Glasslake. Hương thơm của cô đã nhạt đi, nhưng đến giờ trên cổ anh hãy còn những dấu vết nhìn thấy được của tinh dầu anh xức khi trước. Đó là một màu xanh đen nhạt. Dưới
nó, phía trên xương đòn, cô đã đánh một dấu riêng lên cơ thể anh, một vòng tròn màu đỏ sống động, nửa cắn, nửa hôn. Cô cảm thấy cực kỳ mạnh mẽ và nữ tính, như một phù thủy trung cổ.
CHƯƠNG 9
Tháng Bảy năm 2002
Mọi người không thể ở lại nhà nữa. Bảo hiểm nhân thọ của bố không hợp lệ vì mẹ đã giấu bố ngừng đóng bảo hiểm chỉ sáu tuần trước khi ông qua đời, cùng với đó là thẻ trượt tuyết, câu lạc bộ Giáng sinh, thẻ tập thể hình và tất cả các tạp chí. Bà đang tiết kiệm tiền để điều trị bệnh vô sinh. Không ai nói với Paul chuyện này, cậu tình cờ biết được khi nghe lén ở cửa ra vào khi bà đang nói chuyện điện thoại, bà tưởng là cậu đang ngủ. “Tôi không thể chi trả cho khoản thế chấp này”, bà nói với bạn, “từ những gì tôi kiếm được sao? Cô đang cười tôi đó hả? Nếu tôi bán chỗ này đi và thuê một nơi nhỏ hơn thì ít nhất tôi có thể sống nhờ vào giá trị tài sản cầm cố đến khi Paul học xong. Tôi thực sự đầu có nhiều lựa chọn?” Paul không hiểu hết lời mẹ nên đã định tra nghĩa trên Internet, nhưng cuối cùng lại thôi.
“Con chắc chắn không sao khi chuyển nhà chứ?” Bà hỏi cậu khi đóng gói đồ đạc trong phòng. Những cuốn sách đã không bao giờ được đặt lên kệ nữa.
“Con hứa là con sẽ không buồn.” Dù cậu có cảm thấy thế nào cậu vẫn phải nói như vậy vì cậu biết bà không còn lựa chọn nào khác, nhưng đây không phải là lời nói dối. Thực sự, cậu đã muốn đi khỏi nơi này ngay lập tức. Cửa sổ phòng ngủ cậu nhìn ra ngoài vườn và cậu liên tục gặp những cơn ác mộng, những sợi dây điện đẫm máu đập vào cửa kính như thể các xúc tu của một con bạch tuộc kinh khủng ngoài hành tinh.
Mẹ đã luôn coi thường Grays Reach, dù bố lớn lên ở đó và bà cũng không được sinh ra từ một ngôi nhà hoành tráng gì cho lắm. Khi cãi nhau, ông hay gọi bà là đồ hợm hĩnh hay đồ đồng bóng. Grays Reach thực tế là một khu đất đang chìm, các tòa nhà màu xám nằm rải rác như phần cặn trong phần thung lũng
nồng của một mỏ đá cũ nơi cửa sông chỗ các đường hầm và cầu treo lỏng lẻo nối Essex tới Kent và nơi sông bắt đầu đổ ra biển. Những người quy hoạch thị trấn từ khoảng giữa của thế kỷ trước gần như đã tiên đoán được một cách kỳ diệu và đầy cảm thông cho yêu cầu từ các tay bán ma túy cò con ở thế kỷ XXI; hầu như cả khu là đường đi bộ, không có những con đường thông thường mà những cụm nhà đó mặt sau đều có khoảng sân nhỏ và lần lượt nối với nhau bằng các đường mòn và ngõ hẻm. Một nhánh nhỏ cao tốc A13 chia Grays Reach thành hai khu Grays và Tilbury, một đường hầm chạy dưới các tuyến đường sắt, trong đó là các chuyến tàu nối London với Southend đến các trường trung học và các khu mua sắm. Quán rượu duy nhất của khu đất, Warrant Officer, nằm giữa hai bức tường cửa hàng cháy nham nhở. Nhà mới của Paul nằm ở trung tâm khu đất, mảnh sân cuối cùng trong dãy sân so le nhau và tựa vào một mảng sân bê tông. Ngày họ chuyển đến đó, Natalie tự nói với mình, “Giờ thì kẻ mạnh đã ngã xuống” và bà nhìn ra ngoài cửa sổ đối diện với bức tường gạch. Bà cư xử như thể họ đang sống ở một thị trấn tồi tàn.
Paul trải qua mùa hè đầu tiên ở Grays Reach và cậu khá thích nơi này. Cách xa cả dặm khỏi con đường chính nên mẹ hoàn toàn thoải mái cho phép cậu dành cả ngày trên chiếc xe đạp của mình, để cậu tự do khám phá vùng đất. Có rất nhiều khu đất, đất hoang và những nơi hoang vu để khám phá. Không giống như hầu hết những khu đất cửa sông đã bị nhập vào các thị trấn xung quanh, Grays Reach vẫn được bao quanh bởi một vành đai xanh, như một đứa trẻ ở trường không thể rũ khỏi những tin đồn luôn bám lấy nó như lũ bọ chét và cũng chẳng ai muốn đến đủ gần để chạm vào nó. Mặc dù ngôi nhà mới chỉ cách nhà cũ có năm dặm nhưng đây là một khu vực khác hoàn toàn, tức là cậu sẽ không học ở St Neot nữa mà phải học ở trường trung học Grays Reach. Mẹ lo rằng cậu sẽ không quen ai ở đây. Nhưng thực ra Paul không quan tâm nhiều lắm, cậu thấy ổn cả. Cậu đã chán đóng vai một chú bé có cha mất sớm; chán với những cái nhìn chằm chằm; chán cách bạn bè luôn đối xử tử tế với cậu trước mặt thầy cô nhưng không thèm chơi với cậu trong giờ nghỉ vì cậu hay dừng lại đột ngột không báo
trước, nhìn chăm chăm vào khoảng không, mặc kệ trái bóng bay qua đầu và đột ngột òa khóc.
Ngày đầu đến trường, cậu mặc một bộ vest suông hơi có nếp nhăn ở phần khuỷu tay. Dáng người nhỏ thó trong bộ áo rộng thùng thình khiến cậu cảm tưởng mình đang khoác lên người một bộ áo giáp khổng lồ. Nhưng khi đến cổng trường trung học Grays Reach, có máy dò kim loại và được trông coi bởi bộ phận dân phòng, cậu bắt đầu tự hỏi một bộ áo giáp liệu có thực sự cần thiết không? Cậu chưa bao giờ thấy nhiều người đến thế tập trung ở cùng một nơi. Trong giây phút bối rối cậu đã nghĩ rằng giáo viên ở đây cũng mặc đồng phục và rồi khi thấy một trong những “giáo viên” đó thổi bóng bằng kẹo cao su và quăng một cái cặp sách qua vai, cậu mới nhận ra những sinh vật cao sáu feet đó, những người đó, cũng là học sinh như cậu.
Mối quan tâm lớn nhất của những học sinh lớp bảy như Paul, chủ yếu là làm quen với thời khóa biểu và việc chuyển phòng học liên tục, nhưng Paul có một nỗi sợ khác lớn hơn trong tâm trí. Trong suốt tuần đầu tiên, có một sự thật kinh khủng tại Grays Reach rằng bất kỳ nơi đâu cũng có nguy cơ xảy ra các vụ đổ máu.
Trường cũ của cậu không cho phép bất cứ thứ gì có khả năng sát thương nhiều hơn những cây kéo nhựa cắt giấy, còn ngôi trường này là một nơi tiềm ẩn những nguy cơ thương tổn khổng lồ. Trường học biết bọn trẻ mang theo dao và mọi thứ sẽ không qua khỏi máy dò, nhưng việc tịch thu những lưỡi dao đó không có nghĩa là cậu sẽ được an toàn. Trong lớp thiết kế và lớp công nghệ, có những lưỡi dao khắc và máy tiện; lớp công nghệ thực phẩm có những lưỡi dao thép lớn và phòng thí nghiệm đầy những bình thủy tinh và ống nghiệm, bất kỳ thứ gì cũng có thể vỡ vụn thành ngàn mảnh sắc nguy hiểm. Chiếc la bàn trong bộ dụng cụ học tập của môn hình đủ sắc để làm đứt tay và nếu chụp lấy một cái thước đo độ hoặc thước vuông và bẻ làm đôi, sẽ có ngay một lưỡi sắc lởm chởm như lưỡi kính.
Paul biết cậu chỉ có học lực trung bình - cậu phải cố hết sức mới đạt được điểm B - nhưng ở Grays Reach cậu trở thành một trong những học sinh thông minh nhất. Tuy nhiên, không có nhiều bạn bè giống cậu. Không ai trong số họ có chung niềm
đam mê đọc truyện viễn tưởng, rõ ràng cậu không thể có được mọi thứ. Cậu có bạn đồng hành về nhà và bạn cùng ăn trưa và cuối cùng cậu cũng sẽ tìm thấy một tâm hồn đồng cảm (như trong sách nói, cuối cùng ta sẽ luôn tìm thấy một tâm hồn đồng điệu với mình sau một thời gian dài và một cuộc hành trình gian khổ).
Một lần, cậu đến một buổi họp câu lạc bộ cờ vua vào bữa trưa với hy vọng sẽ tìm thấy một số người cùng “chí hướng” - cậu không biết chơi, nhưng thích ý tưởng về trò chơi cùng sự cổ xưa và bí ẩn của nó - nhưng chỉ có mình cậu và thầy Bradley dạy môn lịch sử ở đó. Mặt thầy Bradley lộ vẻ thất vọng, nhưng thầy vẫn dạy Paul những nước đi cơ bản. Sau ba tuần, thầy Bradley không chịu nổi nữa, còn cậu đã bắt đầu nắm được luật chơi, cậu cảm thấy tốt hơn mình nên giải thoát cho thầy khỏi sự trói buộc này.
Cậu trải qua năm đầu tiên một cách trọn vẹn và sau đó, khi bắt đầu kỳ học hè, cậu học di truyền học trong sinh học. Tất cả đều lè lưỡi ra, cố gắng cuốn nó thành hình cái tẩu. Cô Grewal, luôn luôn mặc chiếc áo khoác màu trắng giống như bác sỹ, không làm được. Paul có thể làm điều đó. Cậu bạn kế bên thậm chí còn uốn được đến hai lần, tạo ra một dạng hoa văn lượn sóng như chữ W mà không ai khác trong lớp làm được. Cô Grewal giải thích rằng khả năng này được di truyền từ cha mẹ: nếu cả cha và mẹ cậu đều không thể làm điều đó thì cậu sẽ không bao giờ có thể, dù nỗ lực đến đâu, còn nếu cả hai đều có thể, mọi thứ sẽ trở nên hết sức dễ dàng. Nếu một người làm được con người kia không, thì xác suất làm được của cậu sẽ là 50 - 50. Bài tập về nhà là tìm ra có bao nhiêu thành viên trong gia đình có thể uốn lưỡi và vẽ lại một sơ đồ cây, rồi tìm ra quy luật.
“Thật phân biệt đối xử, thưa cô”, một cậu bạn tên Curtis Goddard lên tiếng, cậu ta luôn quan tâm đến các vấn đề nhân quyền, “không phải tất cả bọn em đều biết về bố.”
Paul nghĩ rằng cậu sẽ không bao giờ biết liệu bố mình có thể uốn lưỡi hay không, mặc dù đã cố gắng hồi tưởng lại gương mặt ông và có nhớ xem ông có bao giờ làm vậy chưa thì cậu vẫn không thể. Trong thực tế, hình ảnh bố cậu hiện lên trong
tâm trí như một bức ảnh mờ. Hình ảnh duy nhất sống động trong cậu là khi cổ ông bị cứa đứt và máu đang trào ra. Nước mắt đến từ đâu không biết và trước khi cậu hiểu chuyện gì đang xảy ra, cậu đã chạy ra khỏi lớp học, nước mắt giàn giụa.
Cô Grewal tìm thấy cậu ở hành lang, cậu cố tìm một lời giải thích. Giáo viên không nhất thiết phải chạm vào học sinh, nhưng cô đã ôm nhẹ cậu. Khi cô buông tay, cậu bèn trở lại lớp học, một vài cậu bạn phía cuối lớp huýt sáo như tiếng sói tru, ngay lập tức bị kỷ luật và sau đó cả bọn nhìn Paul như thể đó là lỗi của cậu.
“Mít ướt quá đấy, Seaforth ạ!” Curtis nói. Tất cả bạn bè có vẻ xa cách cậu buổi trưa hôm đó, nhưng có lẽ cậu đã có thể bình thường trở lại nếu vài ngày sau đó không xảy ra vụ Abigail Burden. Giáo viên tiếng Pháp phát cho cả lớp sách giáo khoa mới tinh với các trang giấy sắc như dao cạo. Abigail bị giấy cắt vào ngón tay, một vết sâu và dài, miệng vết thương mở toác ra. Dòng máu đỏ tươi chảy ra quá lớn so với độ rộng của vết thương. Paul cảm giác như có đai sắt đang thắt chặt ngực mình. Sau đó cậu không còn nhớ gì khác ngoài việc mình đã nằm trên sàn với vô số tiếng ồn ào vang lên bên tai. Mọi người nói rằng cậu đã sợ hãi kêu tên bố mình. Kể từ đó, cậu lại cô độc.
Grays Reach trở nên nguy hiểm nếu không có bạn bè bảo vệ. Đi bộ ở các hành lang thì ổn, cậu có thể trà trộn vào bất kỳ nhóm con trai ngẫu nhiên nào đó bằng cách tiến lại đủ gần, nhưng đi bộ đến trường và từ trường về là một quãng đường đầy những kẻ bắt nạt ẩn mình. Dù cậu có đi từ sớm vào buổi sáng hoặc về muộn đến thế nào vào cuối buổi chiều, chúng vẫn luôn tìm được cậu. Nếu chúng không tìm thấy cậu trong đường hầm thì chúng sẽ tìm cậu trên những con đường nhỏ. Vào một ngày đẹp trời, cậu sẽ chỉ bị đặt những cái tên ngớ ngẩn, bị đe dọa và phải nghe chúng bịa ra đủ các kiểu quan hệ bậy bạ với mẹ cậu, mà qua lời chúng nói thì bà là một kẻ bệnh hoạn, đặc biệt thích những kiểu kỳ dị. Còn trong một ngày xấu trời, cậu sẽ bị nện một trận. Chẳng có gì để chúng cướp, cậu tự làm sandwich để không phải mang theo tiền ăn trưa, nhưng chừng đó không đủ ngăn chúng giật ba lô khỏi vai cậu và đổ mọi thứ
xuống cổng. Sau đó, chúng bắt đầu tấn công cậu. Cậu ngạc nhiên khi nhận thấy mình không để tâm lắm nếu đó là máu của chính mình, khi cậu bị rách da, một cảm giác hoàn toàn trái ngược với sự hoảng loạn dâng lên trong cậu. Cậu phải dậy vào nửa đêm để giặt quần áo đi học. Trong khi đợi quần áo khô, cậu đọc truyện, chìm đắm xa hơn và sâu hơn vào thế giới tưởng tượng, nơi tình bạn quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác và lời thề danh dự là không thể phá vỡ.
Cậu ước ao có một người bạn, cậu đã luôn cầu nguyện để có một người bạn. Để rồi, năm cậu mười ba tuổi, Daniel đã đến.
CHƯƠNG 10
Tháng Chín năm 2009
Tất nhiên chàng trai đó thực ra không phải là anh, Louisa phải nhận ra ngay lập tức thay vì cứ quanh quẩn trong mơ tưởng tượng và mê tín. Sau lần đó, khi cô gặp lại cậu trong căng tin, cô đã sẵn sàng, cô đã bình tĩnh trở lại, để thấy rằng đây chỉ là hình bóng của anh, giống anh một cách kỳ lạ. Nhưng những khác biệt ngày càng trở nên rõ nét hơn, giống như một bức ảnh đang bị soi gần hơn, giống như một đôi mắt đang dần quen hơn với cường độ sáng tối thay đổi. Cậu cao to hơn Adam, xương gò má mảnh hơn và đôi mắt màu xanh lá cây, không phải màu xanh da trời. Nhưng mái tóc thì giống hệt, sợi nào ra sợi đấy, giống từng lọn xoăn và đôi môi thì không lệch đi đâu được, dù nụ cười có vẻ rụt rè và ngượng ngập, chứ không ngang tàng như khi Adam nhếch môi cười. Đôi mắt cô nhìn cậu như muốn ăn tươi nuốt sống. Đôi khi cô cảm thấy như vậy là quá sức chịu đựng, nhưng không thể tự mình quay đi.
Louisa mặc kệ bài nghiên cứu của mình khi cô mải dõi theo cậu gần khu vườn, đẩy một chiếc xe cút kít vào nơi cậu hay đến. Cô nhìn thấy những đường nét cơ thể cậu hằn lên qua lớp áo phông và quần jean, một hình tam giác ngược hoàn hảo, cặp đùi rắn chắc, bụng và lưng phẳng lì. Cô thấy cậu ở một mình, đang mò mẫm trong mảnh vườn mới được phát quang, cuốc đất và chọn ra vài hạt giống ngô đồng rải rác trên khu đất. Đó là một công việc chân tay, nhàm chán, chắc chắn do Ross giao cho, một công việc “kinh điển” cho người mới. Chừng một hay hai lần cô thấy cậu nhặt một hạt ngô đồng lên chỉ để thả nó xoay như chong chóng xuống đất. Rõ là cậu còn rất trẻ.
Cậu mười tám tuổi, đó là một trong những điều cô lượm lặt được từ các cuộc trò chuyện ở căng tin. Cô từng tin vào luân
hồi và lần này ngày tháng có vẻ chuẩn: lần cuối cô gặp Adam đã hai mươi năm trước, một khoảng thời gian phù hợp cho một linh hồn lang thang tìm kiếm một thân xác mới, nhưng phải chừng một, hai tuần sau đó cô mới thấy sự khả dĩ tâm linh của khoảng thời gian có vẻ trùng hợp này. Cô đang trong nhà kính, lau kệ bằng thuốc diệt nấm hữu cơ, thì ý nghĩ Adam đã có con với một người phụ nữ khác ập đến. Nỗi đau của sự phản bội, trong tưởng tượng, cũng đau đớn như ngày đó. Xác định được chính xác ngày sinh của Paul sẽ làm rõ mọi chuyện. Nhưng cô tìm nó bằng cách nào đây? Demetra sẽ không để cô ngó qua tập hồ sơ xin việc ngay cả khi cô tìm được một lý do chính đáng. Demetra bảo vệ bí mật thông tin cá nhân hết sức quyết liệt.
Louisa bị giày vò bởi sự gần gũi với Paul và ý nghĩa của nó. Không có nghi lễ trừ tà nào để xua đuổi linh hồn sống này, không có thứ nước thánh nào dìm chết được linh hồn ấy. Nếu Paul là con trai của Adam, cậu ta đang làm gì ở đây? Và nếu không phải, cậu ta ở đây làm gì? Liệu có ai khác nữa nhảy ra từ quá khứ của cô để tấn công cô ở hiện tại không? Là người đó hay nhân chứng hay một người đã chết sẽ xuất hiện tiếp theo? Những thành viên khác trong ban nhạc có đến tìm cô không? Có phải tất cả bọn họ đều đang ủ mưu, rắp tâm chờ đến khi cô nghĩ mình đã an toàn? Các khả năng xoay mòng mòng trong đầu cô, các mối đe dọa hiện hữu và những điềm báo kinh hoàng. Giờ thì cô cũng không chắc cái nào đáng sợ hơn.
Quanh cô mỗi ngày đều có rất nhiều người nhưng ngay khi người cuối cùng rời khỏi khu đất thì sự cô đơn lại bao trùm lấy cô như một màn sương lạnh giá. Tối đến, cô sẽ ngồi trong văn phòng, nhìn chằm chằm vào khoảng không, tuyệt vọng chờ đợi một ai đó hiện hữu có thể ôm lấy cô và tâm sự. Cho đến giờ, người duy nhất có thể coi là gần gũi với cô là Miranda, dù một năm hai người chỉ gặp nhau chừng ba, bốn lần. Đã từng có thời gian, sáu hoặc bảy năm sau khi chuyện đó xảy ra, vào ngày sinh nhật con trai Miranda, cô đến nhà Miranda chơi để có cơ hội trò chuyện với chị gái. Sau bữa tiệc, bọn trẻ khiến cha mẹ chúng khản cả giọng, họ bắt một chiếc taxi trở về Kensington, còn Dev thì kiệt sức vì phải lo liệu mọi thứ, nên đã ngủ một
mạch. Hai chị em ở lại trong bếp dọn dẹp bớt đống lộn xộn, nhưng rồi cả hai đã uống hết một chai rượu vang, họ còn tính mở thêm chai khác. Miranda một tay lóng ngóng cố lau sạch mặt bếp và cho bát vào máy rửa, tay kia đong đưa ly rượu.
“Có bao giờ chị ngồi yên một chỗ không?” Louisa hỏi. “Cuộc sống của chị nhìn thật vất vả!” .
“À, nhưng nó cũng xứng đáng.”Miranda nói. “Rồi một ngày, khi gặp một người đàn ông phù hợp, em sẽ nhận ra.” Louisa với lấy chai rượu khi chị gái mình tiếp tục nói, “Đã bao giờ em gặp ai đó khiến mình thực sự muốn kết hôn chưa?” Câu hỏi đưa ra hết sức tự nhiên nhưng với cô, câu trả lời lại đầy chi tiết và nặng nề, đang gầm lên từ hư không. Cô chuẩn bị trả lời, đã lấy một hơi dài rồi, nhưng đột nhiên cô cháu gái đang nằm nôi khóc ré lên đòi mẹ khiến mọi nỗ lực của cô thành công cốc. Miranda chạy qua dỗ dành, vội đến mức làm vỡ một ly rượu trên đường đi ra khỏi nhà bếp, đồng thời cũng làm tan vỡ quyết tâm chia sẻ của Louisa. Trong khi Miranda xuống cầu thang, nhà bếp đã được dọn sạch và Louisa đang pha cà phê, cô vẫn còn rùng mình khi nhận ra mình suýt chút nữa đã nói ra tất cả.
Bốn năm sau sự kiện trong căn bếp của Miranda, cô đã gặp Laurence - người đàn ông duy nhất sau Adam mà cô có thể nhớ ra mặt và dáng người. Nhiều năm trôi qua cô không thể đếm nổi số người tình của mình nữa, chủ yếu là tình một đêm và một số ít mối quan hệ hời hợt mà cô chủ động chấm dứt. Laurence là khác biệt duy nhất cho đến nay. Anh ta quản lý một cửa hàng rượu vang nhỏ ở thị trấn Hampshire, nơi cô là thợ làm vườn tự do ngắn hạn cho một dinh thự tư lớn. Anh ta đưa cô đến một nhà hàng rồi quay lại căn hộ của mình. Anh ta không đem lại cho cô bất kỳ cảm giác nào giống với những cảm xúc cô dành cho Adam, cô rất biết ơn vì điều đó, nhưng anh ta luôn tỏ ra tốt bụng và dịu dàng khiến cô cảm nhận một cảm xúc mềm mại tương tự đang nảy nở trong cô. Chỉ sau vài ba lần bên anh ta, cô đã bắt đầu suy nghĩ về anh ta như Dev, một người đàn ông chín chắn, tử tế có thể khiến cô trở thành một người phụ nữ cũng chín chắn, tử tế. Nhưng cô lại phạm sai lầm khi trở nên quá buông thả, một lần nữa say xỉn và mời anh nán lại phòng ngủ bé nhỏ không trang trí ở nhà cô. Sau khi Laurence thiếp
ngủ, Louisa mới nhận ra sai lầm của mình và nằm đó thao thức, nhìn chằm chằm vào sự lạnh lẽo của căn phòng, những móc quần áo bằng kim loại đang va vào nhau inh ỏi và những hộp carton lộ liễu hãy còn lưu trữ ký ức của cô. Cô cất giấu mọi thứ vừa vặn trong không gian nhỏ bé của căn phòng, trong chiếc tủ bếp nhỏ cùng với dao kéo bếp núc. Cô cố gắng giữ mình tỉnh táo nhưng cuối cùng đã chìm vào giấc ngủ sâu đến mức, khi thức dậy, Laurence đã pha sẵn ly trà. Anh ta đang ngồi cuối giường, lật giở sổ lưu niệm của cô. Cô đã quát vào mặt anh ta đừng có táy máy vào đồ đạc của cô và đuổi anh ta cút ngay khỏi đây, hùng hục đẩy anh ta ra cầu thang. Hôm sau anh ta quay lại, gửi lời xin lỗi đầy lo lắng trong thư, nhưng cô vẫn ở trên giường, cuốn sổ lưu niệm ôm chặt trong tay, cảm thấy bị tổn thương sâu sắc. Cô khóc thương không chỉ cho mất mát của Adam, mà còn cho cái chết của một con người trong cô đã từng muốn sống yên ổn, tìm kiếm tình yêu, tạo lập gia đình, sống một cuộc sống tốt đẹp.
Louisa không bao giờ quay lại dinh thự ấy làm việc nữa và những tuần sau đó là chuỗi ngày đen tối nhất trong trí nhớ của cô: không nghề nghiệp, không một ai kề bên và có những đêm, sự cô độc tận cùng đã đẩy cô đến ý nghĩ tìm đến cái chết như sự giải thoát cuối cùng. Dù suy nghĩ ấy chỉ là thoáng qua, một ý tưởng làm cô sợ hãi, nhưng cô thực sự đã từng cân nhắc đến điều đó.
Làm quảng cáo cho một tạp chí thương mại ở Kelstice đã cứu rỗi cuộc đời cô. Khả năng cao là do mức lương họ đưa ra không tương xứng với yêu cầu về kinh nghiệm nên cô mới là ứng viên duy nhất đến ứng tuyển, cô đoán vậy. Ở nơi này, trong văn phòng lụp xụp, làm việc giữa những con người xa lạ, cuối cùng cô cũng tìm thấy một nơi để có thể quên đi chính mình. Trong những tháng đầu tiên, cô ở trọ cùng với một bà già trên đường Leamington và mọi người vẫn tin rằng cô đang ở đó, mặc dù cô đã sắp xếp để số thư ít ỏi của mình được chuyển đến hòm thư khi cô đã mua chiếc caravan. Khi định cư trong căn hộ bốn bánh của mình, cô sợ người khác sẽ nhận ra xe cô thường đậu một chỗ khi hết ngày, nhận ra cô luôn là người đầu tiên đi làm và là người cuối cùng rời đi, nhưng cô đã đánh giá
quá cao sự tò mò của họ. Demetra là kiểu người luôn tin rằng con người ta sẽ nói thực, cho dù hàng ngày phải làm việc với đủ loại thanh thiếu niên khác nhau. Các bạn trẻ đều sống ở hướng ngược lại của khu Coventry, thậm chí còn ít tò mò hơn về cuộc sống riêng tư của cô. Họ thực sự chỉ nhìn lướt qua nhau, điều đó khiến cô phải tự hỏi liệu cô có như vậy khi còn trẻ hay không. Để làm dày hơn lớp vỏ ngụy trang của mình, cô nhận thêm vị trí lái xe (bởi cô không còn dám uống rượu nơi công cộng nữa). Cô luôn mời Ingram, Demetra và thậm chí cả Nathaniel, chở họ về tận nhà khi cần, thả họ ở ngay cửa và lái xe theo một con đường quê ngoằn ngoèo quay lại Kelstice - một bến cảng không chính thức, một căn cứ bí mật. Hàng đêm, cô đều khóa cửa văn phòng và đứng dưới bóng trăng ở Lodge. Nếu trăng thanh gió mát, cô sẽ đi bộ về nhà, dẫu biết rằng nơi đó không có ai đứng đợi.
CHƯƠNG 11
Tháng Mười năm 2009
Paul nhận thấy có một ngôn ngữ khác được sử dụng ở Kelstice, có tuổi đời cả trăm năm. Phần lớn các thuật ngữ họ sử dụng đều liên quan đến loài ngựa: những con đường cắt qua New Wood là ngựa phi nước đại, còn con đường cỏ mọc hoang dẫn vào ngôi nhà là đường ngựa chạy thay vì đường xe chạy. Đằng sau khu nhà là một vũng nước tù đọng khổng lồ có tên Mere, luôn sộc lên mùi rất kinh khủng, nếu bạn đen đủi đứng xuôi chiều gió thì bắt buộc phải thở bằng miệng. Mọi người muốn dọn dẹp và khôi phục nó thành một hồ ngắm cảnh, công việc cậu không hề muốn tham gia chút nào. Mere một phía giáp với khu vườn non trẻ của Nathaniel và phía khác, gần tường bao, là lãnh địa của những loài cây thân gỗ - hoàn toàn trái ngược với bụi gai, hoa hồng dại và cỏ dại - được gọi tên New Wood, mặc dù trông cổ xưa như bản thân Lodge.
Paul không có nhiều việc để làm, cậu nghĩ rằng mình có thể dành cả ngày để đi lang thang quanh khu đất, nhưng cậu không muốn gặp rắc rối và bị ném ra khỏi dự án, do đó bất cứ khi nào có thời gian rảnh hoặc trời mưa cậu lại trở về cabin để được hướng dẫn.
Một chiều mưa và sự uể oải đã kéo chân Paul đến văn phòng. Cậu nghe thấy tiếng Louisa và Ingram đang tranh cãi nảy lửa về một số băng ghế Ingram đặt mua, rõ ràng điều đó khiến Louisa không hài lòng chút nào. Cả hai đang quay lưng vào cửa cùng với tiếng mưa lộp độp trên mái nhà nên họ không nghe thấy cậu bước vào. Sau khi đứng ở cửa chừng một phút, những giọt mưa lạnh bắt đầu rỏ xuống mặt sau áo khoác, cậu quyết định ngồi đợi cho đến khi họ tranh cãi xong.
Trên bàn làm việc bày rải rác sổ sách, không cuốn nào còn mới, một số có phần gáy sờn mòn đến mức có thể sẽ gãy làm đôi nếu mở không cẩn thận hoặc có thể vụn ra trong tay cậu bất cứ lúc nào. Một cuốn sách về vườn tược trong lâu đài trước đây nằm ở thư viện, dấu trên sách tiết lộ rằng chỉ có duy nhất một người mượn đọc vào năm 1972. Kẹp giữa các trang là một tấm bản đồ của Kelstice trong những năm 1850, thể hiện phần đất chật hẹp và những tòa nhà rải rác nay đã không còn.
Giọng Louisa đột nhiên đanh và sắc, “Ingram, nếu anh muốn xây dựng một khu vườn bình thường thì anh thích thế nào tôi cũng chấp nhận, nhưng anh đã thuê tôi để tái tạo chính xác khu vườn Tudor thì anh không thể đi loanh quanh phá hoại thiết kế của tôi như thế này.”
“Du khách phải có chỗ ngồi chứ." Ingram nói.
“Đúng, nhưng trên những thứ này sao? Nhìn giống hệt mấy cái hàng hiến chết tiệt ở Essex!” Paul nhận thấy mình hơi phẫn nộ khi mảnh đất quê hương bị mạt sát. “Chúng sẽ thành trò cười.”
“Nhưng tôi đã mua chúng rồi.” Ingram nói, đẩy cho cô một danh mục dán đầy giấy nhớ.
“Bao nhiêu?” Louisa như hét lên khi giờ đến đúng trang. “Đây là lần cuối cùng tôi cho phép anh chỉ đạo về ngân sách. Tôi không dành cả đời trong nhà kính trồng trọt chăm sóc mọi thứ để tiết kiệm tiền, rồi để anh thổi bay tất cả vào đống đồ nội thất ngoài hiên!” Ingram chuồn vội về bàn của mình và trốn đằng sau màn hình máy tính, mái tóc rũ rượi.“Tôi không muốn chúng xuất hiện trong khu vườn của tôi.” Louisa hét về phía anh, sau đó quay lưng lại. Khi nhìn thấy Paul ngồi chờ, cô thở hổn hển như thể phát hiện cậu đang phục kích mình, đặt tay lên ngực và bước lùi lại một bước.
“Xin lỗi!” Paul nói, không phải vì cậu đã làm gì sai mà vì cậu nghĩ mình đã khiến cô giật mình trong lần đầu hai người gặp nhau. “Em không biết làm gì bây giờ.” Cậu tiếp tục, giải thích cho sự có mặt của mình. Cô ngồi xuống ghế, đỏ mặt và im lặng.
“Cậu có thể thử sắp xếp lại cái bàn đó.” Ingram nói. “Thật vô lễ! Mấy cuốn sách đó đã đình bản, rất hiếm, cậu thậm chí không
biết nên đối xử với chúng như thế nào.”
Một bầu không khí căng thẳng bao trùm khắp văn phòng, Ingram ngầm phẫn nộ từ phía sau màn hình máy tính, còn Louisa hết lườm Ingram lại nhìn sang Paul. Khi sắp xếp những cuốn sách trên bàn làm việc, Paul ước rằng mình đang mắc kẹt trong cơn mưa ngoài kia. Cậu cố gắng phá vỡ sự căng thẳng bằng một câu hỏi.
“Tại sao nơi đó được gọi là New Wood?” Cậu hỏi. “À, nó đã từng rất mới.” Louisa, giờ cảm xúc đã trở lại bình thường, “Nó được trồng ngay sau chiến tranh.”
“Thật điên rồ, giờ nó trở nên hoang phế như vậy, sau một khoảng thời gian chừng...”, cậu nhẩm tính,"... gần bảy mươi năm à?”
“Từ nội chiến” Louisa nói. Cô khép khóe mắt nàng Mona Lisa của mình xuống và mỉm cười. Trong khoảnh khắc ấy, dáng vẻ một nữ sinh trung học tinh nghịch hiện lên trong cô đã khiến cậu liên tưởng đến một ai đó và cậu phải mất một lúc để nhận ra đó chính là Emily.
Trong tuần đầu tiên của tháng Mười, gió thổi điên cuồng và mùa đông bất ngờ tràn đến như xé đi một tờ lịch. Paul đi từ nhà đến Kelstice vào tối thứ Sáu, mặc áo phông dài tay, nhưng sang sáng thứ Hai cậu đã phải mặc thêm một chiếc áo lông cừu trong áo gió màu xanh hải quân với logo Veriditas thêu trên ngực, gần như là đồng phục ở đây. Cây cối đã trút hết lá, chỉ trong một ngày cuối tuần, con đường đi làm tràn ngập sắc vàng nay đã trở nên trơ trọi. Loài cây duy nhất đủ kiên cường giữ lại là chính là loại thực vật đang mọc đầy khu đất này, một loại cỏ dại mọc tràn lan mà Louisa và Nathaniel gọi là hoa lông cừu, những người khác thì gọi là cây chút chít Nhật Bản và tất cả mọi người đều coi đây là một loài cây khổng lồ sinh trưởng trong môi trường phóng xạ. Nó mọc trên đầu Paul và trong mắt cậu, nó đẹp một cách hoang dại, kiểu rừng rậm, có những chùm hoa trắng nhỏ treo cạnh những tán lá phẳng, sống động. Nhưng là một loài cỏ dại, nguy hiểm như rác thải độc hại vậy. Không thể ủ chúng từng phần nhỏ của cây, từ lá đến gốc, phải đốt cháy trong lò than khổng lồ đặt tại trung tâm Lodge, vì vậy đôi lúc
như thể những ống khói đổ nát hoạt động trở lại. Người ta phải chặt và loại bỏ phần rễ của nó giống như vật lộn với một con gấu khổng lồ. Cậu không còn coi cơn đau thường trực ở cơ bắp của mình là một hình phạt nữa mà bắt đầu xem nó như là phần thưởng.
Cảm giác tự hào mới mẻ và sự hài lòng sau một ngày lao động vất vả khiến cậu thiếp ngủ nhanh hơn vào ban đêm. Còn những ngày cậu phải làm việc trong văn phòng, ngồi trên một chiếc ghế xoay, trả lời điện thoại và cố gắng giải mã hệ thống quản lý tài liệu bề bộn của Ingram và Demetra, bộ não của cậu luôn làm việc quá tải bù đắp cho sự thiếu hụt hoạt động thể chất. Đó luôn là những đêm cậu thấy khó ngủ, bị tra tấn bởi những suy nghĩ về Daniel. Cậu sẽ thò đầu ra ngoài cửa sổ phòng ngủ và nhìn xuống những kẻ lang thang ban đêm từ trên cao, cảm thấy tội lỗi rằng Daniel sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có một quang cảnh nhỏ bé như này.
Công việc tiến triển ổn định nhưng chậm chạp. Khi những cành cây trơ trụi cậu có thể quan sát kỹ hơn: những bụi gai mọc dày đặc ngang tầm mắt cá như những cái bẫy,hãy còn nhiều đoạn đường cần dọn quang. Cậu đang làm việc một mình khi tìm sợi cáp, dọn dẹp khu đất xung quanh cabin. Điện dùng cho cả khu đất đều từ một nguồn, nối đến cabin bằng những sợi cáp dày màu xanh lá. Chỉ có sáu cabin nhưng lại đến bảy dây cáp, một trong số đó đột ngột biến mất dưới lòng đất. Cảm thấy tò mò, Paul lần theo. Cậu gần như mất dấu vài lần - dù ai đã chôn nó xuống, thì họ cũng đã khá cẩn thận. Nó chạy dọc theo cạnh bãi đỗ xe trong khuôn viên, giờ hãy còn là một mớ ngổn ngang đất sét và đá, bám theo tường bao rồi đột ngột trồi lên cùng hàng gạch ngăn Kelstice khỏi phần đất nông nghiệp bao quanh như những mảnh ghép hình. Paul không biết liệu bức tường có lâu đời như Lodge hay không, nhưng nó ít bị phong hóa hơn, gần như hoàn toàn nguyên vẹn. Ở một số phần đất bị lấn sang, chủ đất bên cạnh đã dựng lên một hàng dây thép gai cao đến thắt lưng. Paul nhòm qua một lỗ hổng, cậu giật mình khi suýt chạm vào bức tượng đất nung một con bò đang gặm cỏ, nó có màu sẫm giống màu đá vùng này. Bức tường càng kéo dài, cậu
càng tự hỏi liệu cậu có thể đi xung quanh một vòng tròn lớn được không, để quay lại nơi đã bắt đầu.
Paul biết rõ câu trả lời ngay khi sợi cáp biến mất dưới một cánh cổng. Dù không cần sợi cáp dẫn đường, cậu sẽ nhớ đến cái cổng kỳ lạ này, khung gạch đổ nát và làm từ gỗ mục sơn màu xanh lá cây. Những bu lông sắt và bản lề trông thật lỏng lẻo. Cậu huých nhẹ vào cửa. Nó gần như bung ra, nhưng cậu thấy lo về dây thép gai hay những thứ tồi tệ hơn ở phía bên kia và quyết định không đẩy cửa. Thay vào đó cậu đạp một cú vào tường. Nó có vẻ khá chắc chắn, bám vào những phần nhô ra bằng cả chân và tay, cậu trèo lên. Cậu thấy mình đang nhòm vào phần mái màu bạc xỉn của một chiếc caravan. Phần mui xe thò ra, lớp sơn đang ngả màu và những mảng rêu màu vàng chanh mọc quanh cửa và khung cửa sổ bằng nhôm được cắt tỉa cẩn thận. Rõ ràng ai đó đã lái xe đến đây, cũng lâu rồi, không có vết lốp, lốp đã mòn và cỏ mọc đầy giữa các nan hoa bánh xe. Cửa sổ chất đầy sách báo đến tận nóc. Bên ngoài là một khoảnh đất vuông vắn, giâm mấy que khẳng khiu đã ra chồi non mơn mởn, đây là một mô hình thu nhỏ của khu vườn lớn mọi người đang canh tác phía bên kia bức tường. Những bình ống gas xếp thành hàng như lính canh và những bụi nhỏ oải hương chen chúc nhau trong những chậu đầy bùn, đang tỏa ra mùi hương ngòn ngọt.
Paul nhảy xuống bên kia bức tường, có chân lại để giảm bớt trọng lực cơ thể như Daniel đã dạy cậu, nhưng cú nhảy của cậu vướng vào một bụi gai trên vách; quần jean của cậu bị rách và cánh tay như bị một chiếc kim nóng bỏng cào qua. Cậu thấy mình nằm trên mặt đất giữa một mớ dây leo và cành gãy, những bông hoa màu trắng mập mạp xung quanh mình và cậu nhận ra mình mới giật tung đám dây leo khỏi bức tường chúng đang bám vào và đã làm chúng “bị thương” đến tận gần gốc. Da tay cậu, khi cậu xắn ống tay áo lên, trông như đang đeo những hạt hồng ngọc. Cậu gài những dây hoa hồng bung ra vào tường. Trong đôi mắt nghề nghiệp còn non nớt, mọi thứ vậy là ổn. Đột nhiên, cậu muốn rời khỏi đây ngay lập tức. Cậu thậm chí còn không biết liệu khu đất này có thuộc Kelstice không,
nhưng cậu thấy cực kỳ xấu hổ vì sự xâm nhập này, giống như một kẻ lang thang.
Tên câu trộm điện rõ ràng không muốn bị phát hiện và hơn hắn phải có cả tá lý do để biện minh cho điều đó. Cậu dễ dàng bước qua cổng ra ngoài, phải mở vài chốt cổng đơn giản, rồi lui bước về phía khu để xe. Cuộc hành trình lần này có vẻ ngắn hơn, giống chiều về của mọi chuyến đi.
Không có gì nhiều để dọn dẹp. Cậu vẫn còn ngại ngần khi phải đụng đến thảm thực vật, sợ rằng sau khi đã dọn dẹp sạch sẽ một đám “cỏ dại” thì kết quả là cậu mới phá hủy một giống cây quý. Tất cả các cabin đều trống rỗng. Cậu bước xung quanh khu đất tìm xem có ai đó yêu cầu cậu làm gì không, nhưng không tìm thấy một ai. Trong giờ nghỉ, cậu gọi điện cho mẹ. Điện thoại của bà kêu những tiếng bíp dài thông báo thuê bao không liên lạc được khiến cậu bối rối hết sức. Khi điện thoại của Troy cũng vang lên những âm thanh tương tự, Paul lập tức thấy hoảng. Nhiều năm trước đây, Daniel đã đe dọa rằng nếu Paul phản lại cậu ta thì mẹ cậu sẽ là mục tiêu. Lo sợ vì suy nghĩ đó, lần đầu tiên cậu gọi vào số cố định. Giọng bà vang lên khiến cậu nhẹ nhõm.“Chào con yêu!” Natalie nói, “Khi nào con xuống thăm mẹ thế?”
“Nhanh thôi, khi con thu xếp mọi thứ ổn thỏa.”
“Mẹ không chịu nổi suy nghĩ rằng con phải trải qua mọi chuyện một mình, sống ở một nơi đồng không mông quạnh như thế. Mẹ không nên để con lại với những người đó, mẹ luôn tự trách mình...”
“Mẹ đừng nghĩ lung tung.” Paul nói, “Ở đây ổn cả, con có thêm bạn bè. Có vấn đề gì với điện thoại của mẹ thế?” “Nó bị mất trộm trên xe khi mẹ quay lại Grays Reach." “Mẹ! Mẹ quay lại đó á? Để làm quái gì thế?”
“Mẹ phải quay lại gặp nha sĩ. Mẹ không kiếm được một nha sỹ NHS ở đây, dù họ sẽ phải xuống đây nếu mẹ có thai và khi đó mẹ sẽ được chữa miễn phí.”
“Mẹ mất trí rồi hả? Carl có thể thấy mẹ hoặc tệ hơn!”. “Ổn thôi, Troy ở với mẹ.” Paul phải cố giấu tiếng khịt mũi. “Mấy thằng nhãi đã chôm túi xách, ví, chỗ thuốc trị giá cả trăm
bảng và..” Giọng bà lạc đi, “Chúng lấy mất bức ảnh chụp mẹ, con và bố ngày con chào đời. Đó là cái duy nhất.” Paul biết bà đang nói đến bức ảnh nào. Đó là bức chụp khoảnh khắc chào mừng một thành viên mới ở bệnh viện. Bức ảnh bà đã lồng trong một khung da. Cậu không biết bà vẫn mang nó theo người. Điều này
khiến cậu thấy ấm áp, như thể đang cuộn tròn trong lòng mẹ, cho đến khi cậu nghe thấy tiếng bà khóc. Troy giật lấy ống nghe.
“Xin lỗi, Paul.” Ông nói, “Mẹ con rất quý bức ảnh. Mẹ nhớ con rất nhiều và... mẹ con cảm giác như mình mới mất bố con lần nữa.” Ông nói không chút oán giận hay ghen tuông. “Ta phải đi bây giờ để chăm sóc mẹ con, chúng ta sẽ gọi lại cho con sau.” Paul cho Troy số điện thoại mới của mình, cậu lặp lại hai lần, không hỏi thêm câu nào nữa.
“Được rồi, giờ tốt hơn ta nên quay lại bên mẹ con. Cẩn thận!” Troy nói. Paul càng suy nghĩ về bố dượng, cậu càng thấy ông giống một vị thánh. Nếu là cậu, cậu sẽ không thể nào chấp nhận việc trở thành vật thay thế cho tình yêu đích thực của một ai đó.
CHƯƠNG 12
Tháng Tư năm 1989
Trong hai mươi ba đêm trôi qua, Louisa và Adam đã ở bên nhau đến mười chín đêm. Lần đầu tiên việc hai người nằm bên nhau, quyến rũ và đón nhận những khoái cảm là không đủ. Adam muốn có một mối quan hệ được xây dựng từ cả hai phía.
“Anh nhận ra em ngay từ lần đầu nhìn thấy.” Anh nói, dùng tay ghì cô lên giường. “Chúng ta giống như được sinh ra cho nhau, anh và em. Em có biết rằng điều đó hiếm đến mức nào không? Đôi lúc nó khiến anh thấy sợ hãi.”
“Em cũng vậy.” Cô thầm thì vào miệng anh.
“Anh thích điều này.” Anh nói, siết chặt khuỷu tay cô, chặt đến mức khiến cô rên lên. “Thích chết đi được! Nó nhắc anh rằng anh đang còn sống.”.
Những thứ lập dị nhất của anh khiến cô kích thích. Tiếng leng keng của chiếc nhẫn khi anh đặt nó vào trong cốc thủy tinh cạnh bàn. Cảm giác khung xương của anh được tạo ra là để hòa quyện với cô. Đôi lúc cô nhìn xuống bộ ngực của mình ao ước được nhìn thấy một trái tim đang nhảy múa như trong phim hoạt hình mà cô phải cố nhét nó lại lồng ngực.
Adam muốn không ai trong thế giới của anh biết về cô và cũng không muốn người quen nào của cô biết về anh. “Khi anh ở bên em, không một ai khác còn tồn tại nữa.” Anh nói.
“Thật tiếc là cảm xúc đó không thể kéo dài được mãi mãi.” Louisa đáp.
“Không thể ư?”
“Hiện thực sẽ có lúc chen vào. Anh sẽ gặp bố mẹ em, em cũng sẽ gặp nhóm nhạc của anh.”
“Anh sẽ không gặp bố mẹ em.” Adam nói vẻ cương quyết khiến cô giật mình. “Anh không quan tâm đến gia đình.” “Vâng, nhưng ít nhất em cũng hy vọng có cơ hội được gặp nhóm nhạc của anh.”
“Anh ghét phức tạp hóa vấn đề. Như hiện tại em và anh giống hai người duy nhất trên hành tinh này. Chẳng lẽ em không hiểu điều đó có ý nghĩa gì sao? Nếu anh là Adam, em chắc chắn chính là Eve.”
“Ôi lạy Chúa, điều đó thật tồi tệ! Anh có thể làm tốt hơn thế.” “Tại sao? Anh thích thế! Đó sẽ là cái tên mới anh đặt cho em, Eve.”
“Em cá là anh nói thế với tất cả các cô gái.”
“Em là tất cả những cô gái của anh rồi.”
Adam phải diễn tập ba buổi chiều và hai đêm mỗi tuần. Vào những đêm đó anh không đến gặp cô. Nếu có thể, anh chỉ kịp gọi điện thoại rất muộn chúc ngủ ngon. Anh thậm chí còn không có chiếc điện thoại di động lẫn điện thoại bàn nào đặt gần giường ngủ. Thay vào đó là một chiếc máy nhắn tin. Bố mẹ Louisa cũng dùng máy nhắn tin, có điều họ gọi là máy tít tít. Mỗi khi có tin nhắn đến, họ đem nó đi khắp nơi, kể cả lên giường ngủ, và khi tiếng tít tít vang lên, họ bỏ qua tất cả mọi thứ. Còn với Adam Glasslake, tất nhiên đừng có hy vọng anh sẽ xông ngay đến cứu. Thật may là Louisa đã nhanh chóng hiểu ra khoảng thời gian giữa việc gửi một tin nhắn và nhận hồi âm của anh có thể là hàng tiếng đồng hồ. Anh nói, hầu hết tất cả các bốt điện thoại trên phố Stepherd's Bush nơi anh đã bị hỏng, đôi lúc anh phải đi bộ hàng cây số chỉ để tìm một trạm điện thoại sử dụng được, ngoài ra ban nhạc còn có quy định khi đang diễn tập không ai được ra ngoài. Cô đang lần lữa không muốn rời phòng cho đến khi anh gọi, cô đã kéo dây điện thoại vào gần giường hơn để không bỏ lỡ một giây nào khi chuông điện thoại reo vang. Cuộc điện thoại được mong chờ này ẩn chứa sự nguy hiểm đối với cô nếu không phải là anh, cho dù anh đang nói với cô những lời tốt đẹp thì cô vẫn mường tượng cảnh nghe thấy tiếng khúc khích của phụ nữ khác đằng sau. Cô cảm thấy