🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bốn Mùa - Lịch Thiên Nhiên - Mikhail Prisvin full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mikhail Prisvin
Bốn mùa
Lịch thiên nhiên
Nhà xuất bản tiến bộ Matxcơva.
Người dịch: Trường Sơn.
Minh họa ngoài bìa: V. Favoocxki.
Trình bày mỹ thuật: V. Đôbe.
Cám ơn sách scan từ bạn Tudonald78.
Cám ơn ảnh chụp trang bị thiếu từ bạn LN (287).
Ebook do nhóm không chuyên gồm: Gin (Nguyễn Tâm Anh) và Vic (Trần Mỹ Quân) làm phi lợi nhuận vì yêu thích tác giả.
P/S: vì không chuyên nên nếu có sai sót mong các bạn góp ý nhẹ nhàng, thanks. LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Mikhail Mikhailôvich Prisvin (1873—1954), nhà văn Liên—xô nổi tiếng, sinh tại thị trấn Eletxơ cổ kính của nước Nga. Ông đã sống nửa đời người trong điều kiện của nước Nga Sa hoàng cũ. Những tác phẩm đầu tay của ông thuộc vào thời kỳ này — ông bắt đầu viết từ năm 1906. Nhưng thời kỳ hưng thịnh sức sáng tác của nhà văn đã diễn ra trong những năm chính quyền xô—viết, trong một nước đang được cuộc cách mạng tái sinh.
Prisvin là một người có số phận phức tạp và thú vị. Là tổ viên của những tiểu tổ cách mạng đầu tiên trong nước Nga chuyên chế, nhà nông học về mặt học vấn, hội viên Hội địa lý toàn Nga, nhà nhân chủng học, nhà vật hậu học, người đi săn say sưa và nhà du lịch, ông đã trở thành nhà văn nổi tiếng, đã viết được vài chục cuốn sách đủ loại (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện cổ tích, truyện ký, ký sự, v. v.). Prisvin đã nồng nhiệt đáp lại những giọng nói muôn hình vạn trạng của cuộc sống. Dường như nhà văn muốn được tham gia vào tất cả những công việc đang tiến hành trong Tổ quốc thân yêu, và không chỉ là tham gia, mà còn muốn với đôi chân của mình đi qua khắp hàng nghìn cây số đường sá, rừng núi và cánh đồng của Tổ quốc, với đôi tay của mình sờ mó, vuốt ve những cành lá mềm mại cả của cây bạch dương vùng trung bộ nước Nga lẫn của cây bá hương vùng Xibêri. Nhưng đời sống con người quá ngắn ngủi, dù số phận có hào hiệp, rộng lòng kéo dài ra chăng nữa, như đối với Prisvin — nhà văn từ trần hưởng thọ trên tám mươi mốt tuổi. Đời sống của con người quá ngắn ngủi, và vì thế mỗi người sinh ra trên đời này phải chọn cho mình cái gì là chủ yếu nhất.
Đối với Prisvin cái chủ yếu nhất là Thơ. Ông không bao giờ làm thơ. Trái lại, tất cả những cái gì ông đã viết ra, thì đó là văn xuôi «thông thường› nhất. Ông rất thích sự chính xác. Ông không bao giờ bị cám dỗ bởi sự bịa đặt, mà muốn kể lại cho bạn đọc của mình sự thật rất bình dị. Nhưng «sự thật rất bình dị› ấy trong các tác phẩm của Prisvin thực ra hết sức tinh vi, rất phức tạp và nên thơ cao độ, vì Prisvin viết về một trong những mặt phức tạp nhất và nên thơ nhất của cuộc sống — viết về thiên nhiên.
Prisvin đã dành trên năm mươi năm hoạt động sáng tác của ông vào việc nghiên cứu, mô tả và ca ngợi thiên nhiên. Là một người biết rất rõ về phong cảnh miền bắc nước Nga, Prisvin đã viết nhiều sách, và mỗi cuốn dường như là bài ca hùng tráng về đất đai Nga thân yêu của ông. Cả Lịch thiên nhiên, cả Nước nhỏ giọt trong rừng, cả Kho mặt trời, Nhân sâm, Bốn mùa,
Rừng thông cao vút, và cả những sách khác của nhà văn đều như thế cả. Những tác phẩm của Prisvin được xuất bản hàng triệu bản, cho đến nay đã và đang được nổi tiếng rất rộng rãi. Bạn đọc của Prisvin rất đông đảo và đa dạng. Những người thuộc các nghề nghiệp, các khuynh hướng, các trạc tuổi rất khác nhau đã đánh giá Prisvin là một nhà thơ chân chính của đất nước mình.
Trong cuốn sách này, chúng tôi giới thiệu với bạn đọc Việt Nam hai tác phẩm trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của Prisvin— Bốn mùa và Lịch thiên nhiên. Hai tác phẩm ấy là một loạt chuyện kể về thiên nhiên Nga, không có một chủ đề nhất định. Đúng hơn đó là những nét phác họa diễn đạt rất hình ảnh, những bức tranh truyền cảm, có khi là những cảnh rất nhỏ — chỉ trong vài câu, — những quan sát trực tiếp của nhà vật hậu học nghiệp dư, của nhà tự nhiên. Mùa xuân, Mùa hè, Mùa thu, Mùa đông — nhà văn đã gọi tên các chương trong hai tác phẩm của mình như thế.
Không ai có thể kể lại như Prisvin về vẻ đẹp tuyệt vời của ngày hè nóng bức, về tiếng reo vui tươi của con suối rừng, về câu chuyện bí ẩn của đàn gà lôi non, về những mạng nhện hạ xuống trên cánh đồng, những lá vàng mùa thu kêu sột soạt dưới chân người đi săn, những giọt mưa lấp lánh sa xuống đất. Vẻ hùng vĩ của rừng núi Nga mùa thu, những đường viền đăng ten của nàng mỹ nữ mùa đông, vẻ kiều diễm của đất đai đã thức dậy trong mùa xuân, vẻ tươi sáng trang trọng của bầu trời hè trong vắt — đây chính là Thơ ca chân chính rất gần gũi và dễ hiểu đối với trái tim của nhà văn. Bí mật của sức hấp dẫn lạ thường của Prisvin chính là ở cái nhìn tinh vi của ông, ở niềm vui không bờ bến của những phát hiện thường xuyên của ông. Trong mỗi chi tiết nhỏ nhặt, Prisvin tìm thấy được điều thú vị và quan trọng. Trong mỗi ngọn cỏ, trong mỗi lá cây, nhà văn thấy được nội dung sâu sắc của cuộc sống trên trái đất, và kể lại một cách rất hay đến nỗi bạn đọc cảm
thấy thế giới quen thuộc của thiên nhiên chung quanh dường như sống lại và tràn đầy âm thanh.
Ngôn ngữ của Prisvin rất bình dân. Nhưng chính trong tính chất bình dân đó có cả một sự chính xác kỳ lạ lẫn tính muôn màu muôn vẻ. Thật đúng là Prisvin đã dùng ngôn ngữ để vẽ, chẳng khác gì họa sĩ sử dụng cây bút lông. Văn xuôi của ông lấp lánh muôn nghìn màu sắc của chính thiên nhiên, chan chứa thanh tươi và ánh sáng. Prisvin trân trọng quý báu vốn tiếng Nga nhịp nhàng, du dương, như trân trọng quý báu tính chất nên thơ của đất đai Nga thân yêu của ông.
Những tác phẩm Bốn mùa và Lịch thiên nhiên của Prisvin đều chứa đựng một tinh thần yêu nước sâu sắc.
Những sách ấy giáo dục tình yêu vô hạn đối với đất nước, thiên nhiên và những con người của đất nước. Những con người trong hai tác phẩm ấy của Prisvin là những chủ nhân chân chính của đất nước mình. Trong đó bạn đọc sẽ thấy cả những nhà khảo cổ học, cả những nông dân ở các làng lân cận, cả những cậu bé hiếu học, cả những người đi săn say mê. Và đối với tất cả những người đó, cũng như đối với bản thân tác giả, tài nguyên thiên nhiên của đất nước họ thật là vô cùng quý báu.
Đất đai cho con người để mà sống — đó chính là tư tưởng chủ yếu của Prisvin. Một nhà văn Liên—xô nổi tiếng khác, người đồng thời của chúng ta vừa mới từ trần, Cônxtantin Pauxtôpxki, đã nói về điều đó một cách rất đúng và rất hay: Nếu như thiên nhiên có thể cảm thấy lòng biết ơn đối với con người, vì con người đã đi sâu được vào bí mật cuộc sống của nó và đã ca ngợi vẻ đẹp của nó, thì lòng biết ơn ấy trước hết phải dành cho nhà văn Mikhain Mikhailôvich Prisvin.
LỊCH THIÊN NHIÊN
MÙA XUÂN
MÙA XUÂN ÁNH SÁNG VÀ NƯỚC NÔI
LẦN ĐẦU TIÊN NƯỚC NHỎ GIỌT
Đối với chúng tôi, những nhà vật hậu học* quan sát sự thay đổi những hiện tượng thiên nhiên từ ngày này qua ngày khác, thì mùa xuân bắt đầu bằng sự tăng thêm ánh sáng, khi trong dân gian người ta nói rằng dường như gấu ở trong hang đang quay trở mình; khi đó mặt trời cũng quay trở lại theo mùa hè, và mặc dầu mùa đông càng rét hơn, thế mà «người Digan vẫn bán áo lông của mình», như tục ngữ vẫn thường nói Tháng giêng ở miền Trung nước Nga: những tiếng kêu rộn ràng đầu xuân của đàn quạ xám, những trận đá nhau của chim sẻ quanh nhà, chó cái bắt đầu động đực và quạ đen bắt đầu những trận nô đùa hôn phối.
Tháng hai: lần đầu tiên nước nhỏ giọt từ mái nhà phía có mặt trời, những tiếng hót của chim vành khuyên lớn, chim sẻ quanh nhà làm tổ và chim gõ kiến rúc lên những hồi dài đầu tiên.
Tháng giêng, tháng hai, đầu tháng ba đều là những tháng của mùa xuân ánh sáng. Trên trời một đám mây trắng tựa hồ dòng băng trôi, trông rõ nhất trong thành phố lớn giữa những khối đồ sộ của các ngôi nhà bằng đá. Trong thời gian này, ở thành phố, tôi làm việc nhiều đến nỗi không kịp thở, kiếm nhặt từng đồng bạc như một kẻ hà tiện, và sau khi đã cãi nhau đủ với mọi người vì tiền, cuối cùng tôi có thể được lên đường đi đến nơi kia, ở đây tôi
không thể kiếm ra tiền, thì lúc đó tôi trở thành một con người tự do và sung sướng. Phải rồi, người sung sướng chính là người có thể gặp được đầu mùa xuân ánh sáng trong thành phố và sau đó đón được mùa xuân nước nôi, cỏ cây, rừng núi và có thể cả mùa xuân con người nữa ở gần đất đai.
Sau mùa đông đầy tuyết, khi mùa xuân ánh sáng rực rỡ lên, thì mọi người gần đất đều hồi hộp, xúc động, và mỗi người đều tự hỏi không biết mùa xuân năm nay sẽ như thế nào, — và mỗi năm mùa xuân đến không giống năm ngoái, và không bao giờ mùa xuân này lại giống hệt mùa xuân kia cả.
Năm nay, mùa xuân ánh sáng đã kéo dài quá, và mắt hầu như không chịu nổi sự phát quang chói lòa của tuyết trắng, nên khắp nơi người ta đều nói: — Sẽ hết rất nhanh! Khi ngồi trên xe trượt lên đường đi xa, người ta sợ là sẽ phải vứt xe trượt ở đâu đấy và cầm dây cương dắt ngựa trở về. Phải rồi, không bao giờ mùa xuân mới lại như mùa xuân cũ và do đó sống thích biết bao, vì sống với niềm xúc động và nỗi mong chờ một cái gì mới trong năm nay.
Bà con nông dân chúng ta khi gặp nhau chỉ nói về mùa xuân mà thôi: — Sắp kết thúc rồi!
— Sẽ hết rất nhanh!
* Còn gọi là sinh vật khí hậu học, môn học nghiên cứu đời sống thực vật và động vật tùy theo sự thay đổi của thời tiết. ND
NHỮNG ĐÁM MÂY TÍCH ĐẦU TIÊN XUẤT HIỆN
Trước nhà chúng tôi, gió dồn lại một đống tuyết lớn, và nó nằm ngoài nắng, sáng lên giống như ngực trinh bạch của thiên nga. Khó khăn lắm tôi mới
mở được cánh cửa lấp đầy tuyết rơi đêm qua, và khi lấy xẻng đào một đường hào, tôi hắt cả tuyết xốp mịn màng và trắng tinh đã rơi xuống đêm qua và đào cả những lớp tuyết cứng rắn và nặng nề bên dưới.
Tôi không tiếc đống tuyết. Kia kìa, trên trời tràn ngập màu tuyết, một đám mây to lớn, tươi màu; trong mùa đông chẳng hề có những đám mây như thế, và đám mây này cũng giống như ngực trinh bạch của thiên nga. Cùng với mùa xuân, ở khắp nơi dưới đất cũng như trên trời, lại hiện ra điều ước mơ tuyệt vời của tôi, và giờ đây tôi đón nó mà không lo âu dữ dội và tiễn nó mà không thất vọng tràn đầy: điều ước mơ đó, cũng như mùa xuân, đến rồi lại đi và, chừng nào tôi còn sống, thì nhất định nó sẽ trở lại. Thế thì tôi buồn làm chi? Giờ đây tôi không còn là trẻ con, mà đã là người bố và chủ nhân mọi ước mơ của tôi rồi.
Gần năm mươi tuổi rồi — chẳng phải là ít! Hãy nhớ rằng trong một cuốn sách cổ xưa* đã nói đến điều đó: sáu năm bạn hãy cày bừa đất đai, còn năm thứ bảy, cứ để cho đất đai nghỉ ngơi, và khi thực hiện được bảy lần bảy năm như thế, thì đó sẽ là năm thứ năm mươi của cuộc đời bạn, và bạn hãy cầm lấy kèn mà thổi lên đi, vì đó sẽ là lễ mừng ngũ tuần của bạn.
* Tác giả muốn nói đến kinh thánh. — ND.
— Nào, các con ơi, — tôi gọi to, — dậy nhanh lên đi, đến giúp bố một tay với nào, sắp đến lễ mừng ngũ tuần của bố rồi.
Tên của chúng là Liôva và Pêcha, cả hai đứa đều say mê đi săn trong rừng. Tôi đã giáo dục một cách có suy nghĩ sự ham thích ấy của mình cho chúng: nếu chỉ vì để trổ tài bắn giỏi thôi thì các con tôi không bao giờ giết hại chim muông, chúng chỉ bắn để chúng tôi ăn thịt hoặc để giữ cho bảo tàng mà thôi. Sau Tết và trước lúc đầu xuân, khi chưa đến mùa săn bắn, có khi chúng đi khiêu vũ ở thị trấn và rất khuya mới trở về chỗ tôi ở làng quê, và cái đó chúng cũng gọi là đi bắn. Ở mặt Liôva sớm nhú ra những sợi ria, và
nó đã bí mật lấy dao cạo của tôi để cao sạch và vì thế bây giờ ria của nó mọc thật sự rồi. Còn em nó, mép mồm vẫn trơ trụi.
Bắt đầu từ lễ Bốn Mươi*, khi đàn quạ nhỏ, chim sơn ca và các loài chim nhỏ bay đến, thì chúng không còn nghĩ đến việc khiêu vũ nữa và trong những lúc rỗi rãi chúng bắt đầu chuẩn bị đón lúc chim chóc say nhau nên rất dạn, lúc gà rừng và gà lôi gọi nhau tìm mái. Còn khi bắt đầu mùa săn bắn, buổi tối đi xem chim muông say nhau trở về, đôi khi chúng ngạc nhiên nhớ lại những buổi khiêu vũ, thì chúng bảo là vì trước đây chẳng có việc gì làm. Rồi chúng lại bắt đầu dùng sai các từ và nói là bọn con gái, chứ không phải các cô gái, như tôi đã dặn chúng. Và giờ đây chẳng hiểu vì sao tôi không sửa cho chúng nữa.
— Nào, các con, — tôi nói với chúng, — các con có cảm thấy hôm nay ngày đẹp làm sao! Mùa xuân ánh sáng đang giữa kỳ sôi nổi nhất. Chẳng bao lâu, nước sẽ tràn xuống hầm nhà. Làm nhanh, làm nhanh lên, các con ơi!
Chúng tôi làm cần cù, và do công việc đó mà tâm hồn sảng khoái tràn đầy.
Tôi đứng, chống xẻng thọc vào tuyết và không thể hiểu được tôi yêu con gì mãnh liệt như thế.
Trên dải rừng tim tím, hai con quạ nô đùa nhau, nhào lộn trong không. Đấy, chính là con gì mà tôi yêu — con chim kia!
Trong những ngày đông lạnh lẽo khủng khiếp, khi do băng giá ác liệt mà mặt trời dường như bị treo trên những cột ánh sáng, mọi vật đều bị tuyết phủ, con người ẩn kín trong nhà, muông thú giấu mình trong chỗ kín, chim chóc bình thường đang bay rơi xuống chết cóng, thế mà chỉ một mình tôi —
một con người sống — đi mà không chắc có đến nhà được không, — thì lúc đó chính con quạ đen ấy vẫn bay cao tít trên lớp tuyết trắng tinh, vỗ phành phạch những lông cánh lạnh cứng.
Còn giờ đây, loài quạ đang giữa mùa yêu đương sôi nổi: con bay dưới vút lên, chạm vào con bay trên và bay lên cao hơn nữa, còn con bị chạm cũng làm như vậy; và cứ thế lần lượt nhau, chúng bay mỗi lúc một cao hơn, cao hơn mãi, và bỗng, quác lên một tiếng, chúng lao xuống thấp và ngay lập tức lại vút lên cao.
Những con quạ nhào lộn trong không — hay quá!
Trong tâm hồn tôi, những âm thanh ngân vang, và thay cho lời đáp lại tôi là cả bầu trời xanh lam, và trên khoảng mênh mông tràn đầy ánh sáng, đám mây tươi màu lững lờ trôi, giống như một con chim trắng to lớn đang ưỡn cao bộ ngực thiên nga không bị ai làm ố bẩn.
*Lễ tôn giáo về bốn mươi người tử vì đạo. — ND.
ĐẤT ĐÃ LỘ RA RỒI
Ba ngày rồi không có băng giá, và sương mù dần dần tác động đến tuyết. Pêcha nói rằng:
— Bố ơi, đi ra đây mà nhìn và nghe đàn chim sơn tước hót hay làm sao! Tôi đi ra và lắng nghe.
Đúng, hót hay thật, và cơn gió nhẹ mơn man âu yếm vô cùng. Con đường trở thành đỏ choạch và mấp mô. Cảm thấy dường như có ai đấy chạy theo nàng xuân rất lâu, cố đuổi theo và cuối cùng đụng được nàng; còn nàng xuân thì dừng lại và trầm ngâm.
Những con gà trống bắt đầu gáy vang khắp tứ phía. Từ trong đám sương mù dần dần hiện ra dải rừng xanh lam.
Pêcha chăm chú lặng nhìn đám sương mù đang tan dần và sau khi nhận thấy cái gì đấy đen đen trên cánh đồng, liền thốt lên:
— Bố xem kìa, đất đã lộ ra rồi!
Nó chạy vào nhà, và tôi nghe rõ tiếng nó kêu trong đó:
— Liôva, đi ra nhanh mà xem, đất đã lộ ra rồi!
Cả mẹ chúng cũng không chịu được nữa, vội vã bước ra ngoài, lấy bàn tay che mắt cho khỏi chói, và nhìn xa:
— Đất đã lộ ra ở đâu?
Pêcha đứng phía trước, đưa tay chỉ ra khoảng rộng xa xăm phủ đầy tuyết, giống như Côlôm* khi ở giữa biển, và nhắc lại:
— Đất, đất!
*Crixtôp Côlôm (1451—1506) — nhà hàng hải nổi tiếng, người Ý, đã thực hiện những cuộc viễn du lớn vào thế kỷ XV và XVI.— ND.
SƯƠNG MÙ
Đến bữa ăn trưa thì bầu trời quang mây, và dải rừng trở nên xanh lam mỗi lúc một đậm hơn cho đến khi trở thành tím hẳn.
Liôva đi về báo một tin quan trọng:
— Ở hạ lưu, nước đang dâng lên!
Pêcha nhận xét rằng những con gà lôi đậu trên cây và tìm chỗ gọi mái. — Hay là chỉ để kiếm ăn thôi? — tôi hỏi.
— Không, — nó đáp, — chúng đậu rất thấp trên vỏ gốc cây, ở đấy thì có gì mà ăn.
Theo con đường mới đào lên, tôi đi vào làng để mua thức ăn. Bên cạnh, những chiếc xe ngựa tải đi đến chợ theo con đường cũ. Ở con đường cao
mà tôi đi, tuyết đã tan nhiều và nước róc rách chảy trong rãnh, còn ở con đường cũ thì tuyết rắn chắc và phủ bên trên một lớp phân ngựa, cứng như thép. Nó sẽ còn nằm ở đây lâu nữa, và những người đàn ông vẫn sẽ còn đánh ngựa kéo xe ra chợ trên con đường cũ khá lâu nữa; chỉ có con đường cũ này bây giờ nối liền tất cả các đường làng thành một lối duy nhất mà thôi.
Sương mù vẫn chưa tan hẳn, và không trông thấy làng. Nhưng tôi đã nghe tiếng gà gáy trong đó. Tôi càng đi đến gần, thì tiếng gà gáy càng rộn ràng, mạnh mẽ, thậm chí không còn là tiếng gáy nữa mà là tiếng gà trống rống lên, cả làng quê rộn rã tiếng gà. Như thế thì chẳng mấy chốc đàn quạ nhỏ sẽ quang quác kêu lên trên tổ để đuổi những con quạ xám đi, rồi đến ngày lễ thánh Êgo thì bò và cuối cùng thì bọn con gái sẽ bắt đầu kêu lên.
BÀI HÁT ĐẦU TIÊN CỦA NƯỚC
Gần tối, chúng tôi ra đi để xem những con đa đa có chạy đến, khi nghe tiếng còi mồi gạ chúng hay không. Mùa xuân chúng tôi không bắn chúng, nhưng đùa nghịch với chúng; thật rất thích khi thấy chúng vừa chạy trên mặt lớp tuyết cứng, vừa đứng lại lắng tai nghe, và có khi chúng chạy đến rất gần hầu như có thể với tay bắt được.
Khi đi trở về thì chúng tôi gặp khó khăn hơn: cơn băng giá buổi tối đến, lớp tuyết cứng bên trên còn chưa chịu được dưới sức nặng của đôi chân nên tụt xuống, và thật là khó rút chân ra. Ráng chiều ửng đỏ màu da cam, trông nghiêm nghị và lạnh lùng, những vũng nước nhỏ trên đầm lầy đỏ rực lên vì phản chiếu nó, giống như mặt kính cửa sổ. Chúng tôi rất cần biết: có thật con gà lôi đang lầu bầu kêu hay là chúng tôi tưởng như thế thôi. Cả ba chúng tôi bò lên mô đất lớn nổi lên trên tuyết và lắng tai nghe.
Lúc đó, tôi phì khói từ tẩu thuốc lá, thì té ra khói hơi bay về phía nam.
Chúng tôi bèn lắng tai về phía bắc và bỗng hiểu tất cả: ở dưới thấp, rất gần chúng tôi, nước đang dâng lên ép vào cái cầu con, chảy tràn qua và róc rách kêu lên tựa hồ như tiếng gà lôi.
GÀ RỪNG GỌI NHAU TÌM MÁI
Sau một đêm rất nhiều sao, trong phòng trở nên mát lạnh, — tôi đi ra ngoài xem ở sân như thế nào.
Đúng lúc đó cả ông láng giềng của tôi, một ông cụ nông dân, cũng ra để đi ngoài.
— Trời băng giá, — tôi nói.
Ông ta không trả lời ngay, mà nhìn quanh mình — tuyết, bầu trời đầy sao —, lấy chân gạt tuyết và nói về băng giá:
— Ông đi rồi, bây giờ chỉ có cháu thôi!
Tôi thử đi trên mặt tuyết — tuyết không sụt.
— Cháu tốt thật, — tôi nói với ông cụ và đi vào đánh thức các con.
Tôi bảo cho chúng có thể đây là lớp tuyết cứng bên trên cuối cùng và chúng tôi nhất định phải đến Vôrôgôt để xem gà rừng gọi nhau tìm mái, và thậm chí nếu không nghe chúng gáy tè te đi nữa, thì cũng sẽ được thấy dấu cánh của chúng trên mặt tuyết.
— Bố ạ, bố cừ thật, — Liôva vui vẻ nói và lắc Pêcha dậy.
Mọi vật đều đóng băng lại và thậm chí bên trên mặt còn phủ một lớp tuyết bụi mịn màng. Có thể đi dễ dàng và vui vẻ ở khắp nơi mà không cần đường
sá gì cả. Chúng tôi đã từng đi khắp hàng chục cây số qua rừng và đầm lầy, chạy cùng với những con chó săn nòi, và chúng tôi đã đặt tên cho tất cả những hòn đảo nhỏ, những miền đất thấp, những mô đất nhỏ: chúng tôi có “Quãng Trống Tươi Sáng”* với ba cây thông cao, dưới gốc cây thỏ rừng bao giờ cũng đi qua, có một chỗ khô ráo giữa hai đầm lầy lớn gọi là “Chỗ Nghỉ Chân”, có “Nội Cỏ Vàng”, còn cách chỗ chúng tôi chừng tám cây số, giữa những đầm lầy có khi hầu như không đi qua được, một chỗ rừng thông nổi lên cao, từ xa đã trông thấy, dân địa phương gọi một cách đơn giản là Chỏm Tóc, còn chúng tôi thì đặt lên là "Đồi Alaun”. Với sức lực còn hăng, chúng tôi đã vượt rất nhanh tất cả tám cây số đó qua mặt lớp tuyết cứng bên trên phủ tuyết bụi mịn màng đến tận Chỏm Tóc, và lúc đó ngay trên cao điểm ấy, má của tôi đón được sự chuyển động đầu tiên của ngọn gió nam.
Lúc đó tôi sực nhớ là mọi người đã nói về mùa xuân — <>, và tôi bắt đầu lo lắng: <> Trong lúc đợi trời sáng tinh mơ, chúng tôi dựa lưng vào cây và lắng nghe. Quả thật: suốt đời đi trong rừng, hầu như đã biết hết, đã thuộc hết, thế mà cũng có khi xảy ra cái gì mà mình không thể nào hiểu được. Chúng tôi nghe tiếng kêu răng rắc ở dưới thấp trên đầm lầy, tiếng kêu mạnh lắm đến nỗi băng vỡ ra bay lên, như thủy tinh, và những mảnh băng thủy tinh này rơi xuống cũng âm vang. Con quái vật đang làm vỡ băng trên đầm lầy, chuyển động rất nhanh về phía chúng tôi, và cả ba chúng tôi nín thở, tay đặt lên cò súng đã lên đạn sẵn sàng, chờ đợi nó trong bóng tối. Nhưng nó đi đến gần hòn đảo của chúng tôi thì quay trở lại và đi xa, xa mãi trong đầm lầy. Ở trên chỗ khô ráo kia mà chúng tôi gọi là <>, tiếng kêu răng rắc ngừng lại một lúc, rồi lại bắt đầu làm vỡ băng và cứ nghe mãi như thế, và chắc là chỉ vì đoán nên nghe tiếng mà thôi. Sau đó, khi ở phía bên kia, bình minh đỏ thắm đã bắt đầu rực cháy thì Pêcha đã nghe
được từ phía ấy tiếng gáy rất mong đợi, rồi đến Liôva cũng nghe. Chắc là tiếng đó xa lắm, tôi không nghe được, vì trong tai tôi ù lên như tiếng dế kêu, và vì đoán nên tôi cho rằng vẫn như trước con nai đang làm vỡ, làm vỡ mãi băng thủy tinh trên đầm lầy. Các con tôi đã nghe đầu tiên, thì giờ đây cứ để chúng phóng nhanh xuống dưới và sau đó chạy trên mặt đầm lầy đóng băng mà rất dễ làm cho chim bay mất.
Còn đối với tôi thì ánh bình minh tuyệt đẹp kia lẫn cơn gió nam nhẹ nhàng âu yếm kia đã đủ lắm rồi. Tôi đứng trên mỏm đồi và nhìn xuống dưới thấp đằng kia, trên đầm lầy có những cây thông già sẫm màu mọc lưa thưa.
Tôi đã đứng như thế bao nhiêu lâu? Hàng thế kỷ đỏ rực đã trôi qua theo ánh bình mình, và bỗng nhiên, ở đằng kia, ở chỗ các con tôi, một phát súng nỗ vang: chúng bắn được thì tốt hơn tôi bắn. Chẳng hiểu vì sao lại thành ra thế này: thắng lợi của các con làm tôi vui mừng hơn là của chính bản thân. Nhưng cả tôi cũng phải chạy một ít. Chạy được ba bước, tôi nghe một tiếng đặc biệt, không thể nào tả được, tiếng những cánh to vỗ mạnh; tôi nhanh chóng quay lại, và trên nền đỏ của ánh bình minh, giữa các ngọn cây, tôi bắt gặp một vệt đen to và tôi bắn vào đấy như vào bức tường. Còn con gà rừng kia mà tôi đã chạy đến thì vụt bay đi. Thôi mặc kệ nó, tôi chẳng cần nữa. Nó rơi trên mô kiến đất dưới những cây thông; và ngay trên mô ấy kiến còn chưa sống lại, tôi ngồi xuống, quay mặt về phía bình mình.
Ở chỗ các con tôi lại còn thêm một phát súng nữa, nhưng tôi hầu như không để ý đến nó, vì rằng khi mặt trời mọc, cạnh mô kiến đất cả một thế giới huyền bí đã mở ra mà tôi cố suy nghĩ nát óc để bắt đầu đoán ra những điều huyền bí đó. Ở đây, có một rãnh nhỏ trong vũng nước dưới lớp băng, và theo rãnh đó nước chảy ra thành một tia nhỏ. Do đâu mà có rãnh nhỏ này? Tôi đoán là: khi tuyết chỉ mới bắt đầu tan, một con chuột đã chạy qua và làm lún tuyết, rồi trời băng giá, và khi tuyết lại bắt đầu tan thì chỗ bị con
chuột làm lún xuống không thể như tuyết nhanh chóng biến thành nước được, và khi ở bên trên lại đóng băng một lẫn nữa thì ở dưới lớp băng, nước theo con đường chuột chạy mà chảy ra.
Có lẽ, tôi đã ngủ thiếp đi rồi, nhưng khi ngủ ngoài trời thì cả những cảm giác lẫn những ý nghĩ của tôi vẫn tiếp tục hoạt động, chỉ có thời gian trôi qua mà tôi không biết được thôi. Đánh thức tôi là một cành cây đã bị tuyết đè nặng uốn cong, đọt của nó đã bị đóng băng và nhúng vào chính vũng nước kia, nơi nước theo con đường chuột chạy mà chảy ra. Chính cành cây đó bỗng nhiên nhảy bật lên và đứng sừng sững trước mặt tôi thành một cây con. Tôi giật mình, đứng lên và thấy cái gì từ chỗ này mà chúng tôi gọi là Đồi Alaun: chung quanh toàn là nước, nước một màu xanh lam! Tôi không nghĩ đến điều là lúc này chúng tôi đã bị tách rời ở trên hòn đảo. Chẳng sao đâu, bằng cách nào đấy chúng tôi cũng sẽ trở về được kia mà. Thật là hạnh phúc vô bờ được thấy lại một lần nữa mùa xuân ánh sáng và nước nôi. Trong nháy mắt tôi sực nhớ lại điều đã viết trong cuốn sách cổ xưa: sáu năm bạn hãy cày bừa đất đai, còn năm thứ bảy cứ để cho đất đai nghỉ ngơi, và khi thực hiện được bảy lần bảy năm như thế, thì bạn hãy cầm lấy kèn và thổi lên đi, vì đó sẽ là lễ mừng ngũ tuần của bạn.
Tôi tháo nòng súng và cố hết sức thổi.
Các con tôi lo lắng chạy đến.
Tôi bảo chúng cũng tháo nòng súng và nói:
— Các con ơi, hãy thổi lên, vì hôm nay là lễ mừng ngũ tuần của bố! *Tên địa phương, nơi nhà văn Nga nổi tiếng Lep Tônxtôi đã sống. — ND.
MÙA XUÂN NƯỚC NÔI
Trong năm nay, chính là năm mà đất đai của tôi được nghỉ ngơi, thì tôi sẽ không tìm tòi, nghĩ ngợi gì: tôi sẽ viết, mà thậm chí không đổi cả tên nhân vật theo ý thích của mình, và nhận xét từng ngày một của mùa xuân; cứ để cho chính bản thân đất đai sẽ trở thành nhân vật chính trong truyện của tôi.
Nhu cầu ghi chép lại mọi hiện tượng thiên nhiên xuất hiện trong người tôi, khi tôi bắt đầu nén mình không du hành xa xôi trong mùa xuân nữa; và khi tôi đã đứng lại thì thế giới chung quanh lại chuyển động. Trong năm nay, tôi đã kiếm được một bản chương trình vật hậu học và tôi ghi chép đúng theo yêu cầu của khoa học; nhưng trong cuốn vở nháp, tôi cũng ghi ngay ở đấy cả những sự kiện đời tư của mình, những gặp gỡ, những ý định, và như thế là toàn bộ cuộc đời tôi trong mùa xuân này được xếp đặt theo vật hậu học.
Đúng vào ngày mà tôi ghi: sự ghép đôi của chim vành khuyên đuôi dài, thì ở trường trung học người ta nói với Pêcha rằng cấp hai của chúng sẽ cải tổ thành hệ thống bảy năm và nó đã được cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp rồi, còn nếu muốn học tiếp nữa thì phải chuyển đến thành phố khác. Mà trước đây, chúng tôi cũng đã nghĩ là làm sao đi đến được chỗ nào đấy gần nước và đã viết thư đến thành phố Pêrêxlap — Zaletxki, ở đấy có hồ Plêsêêvô tuyệt đẹp. Chuyện xảy ra thế này: đúng vào ngày tôi ghi về chim vành khuyên đuôi dài và Pêcha nghe nói về hệ thống bảy năm, chúng tôi nhận được thư trả lời của người phụ trách nhà bảo tàng Pêrêxlap. Trong thư cho biết rằng trường Pêrêxlap không tồi, và bọn trẻ có thể nghiên cứu về mọi mặt của địa phương ở nhà bảo tàng; rằng chim chóc ở đấy thì nhiều vô kể, còn đi sâu hơn một ít vào trong rừng thì còn có nai, linh miêu và gấu; rằng cách thành phố ba cây số, trên bờ cao của hồ Plêsêêvô có một dinh cơ lịch sử, ở đấy còn giữ lại được chiếc xuồng con của Piôt Đệ nhất*, và ở đấy có một lâu đài bỏ trống trong đó định đặt trạm nghiên cứu sinh vật học, và nếu
tôi bắt đầu làm việc quan sát vật hậu học, thì tôi có thể nhận được bất cứ căn nhà nào trong lâu đài này.
*Piôt Đệ nhất (1672—1725) — Sa hoàng có nhiều cố gắng để đưa nước Nga theo con đường phát triển chủ nghĩa tư bản. — ND.
Sau đó, trong thư còn chỉ rõ cặn kẽ đường đi xe ngựa thẳng hoặc vòng qua Matxcơva, theo đường sắt đến ga Bêrenđêêvô.
Có những tên lạ thường làm sao! Và chúng tác động đến tôi biết bao: tôi tưởng tượng lâu đài kia là một lâu đài kỳ diệu tại vương quốc của nhà vua Bêrenđây trong truyện cổ tích. Và cứ nghĩ như thế, nghĩ như thế mãi.
«Nào, Bêrenđây, — tôi tự nhủ mình như thế, — chẳng cần suy nghĩ gì nữa».
Cảm tình nồng nàn đối với thiên nhiên hoàn toàn không ngăn trở tôi yêu những thành phố to lớn, đẹp đẽ và cuộc đời phức tạp của chúng: ở trong thành phố khi tôi muốn ra nơi khoáng đãng, thì tôi lên tàu điện ngồi, và cứ thế chừng hai mươi phút sau tôi lại ở trên cánh đồng rồi. Tôi chắc là một người tự đo. Tôi sống hằng năm trong những túp lều của dân đánh cá, của dân đi săn, của dân cày, tôi yêu những người lao động, tôi thấy lạnh lùng và vụng về ở chỗ những người trọc phú, nhưng điều đó không ngăn trở tôi yêu thành phố và lâu đài. Mẹ kiếp! Cái lều này của tôi! Cái lều mà khi mưa to thì chỉ ở trong lò sưởi mới khô ráo mà thôi, còn mùa đông thì lạnh buốt chẳng có thể cởi áo lông cộc ra được.
Rèn sắt, khi sắt còn nóng*. Búa ơi, hãy nện nhanh hơn trên mặt hòm! Dây ơi, hãy thắt chặt hơn! — Liôva, — tôi bảo, — lấy đầu gối mà ấn, ấn mạnh, để dọc đường không bị bung ra. Pêcha hãy lau chùi thật kỹ và bôi mỡ cẩn thận các khẩu súng của chúng ta, con đã nghe rồi đấy: có cả linh miêu và gấu nữa.
Để các con ở lại thi, chúng tôi lên đường, và trên đầu chúng tôi đàn ngỗng trời bay về phương bắc, có thể là cũng bay đến hồ Plêsêêvô.
*Tục ngữ Nga, ý nói làm việc gì cũng phải kịp thời. — ND.
ĐÀN SẾU BAY ĐẾN
Chúng tôi ở trong hàng giậu của Tu Viện Trên Núi. Khu đất trong hàng giậu lớn, có thể chứa hàng nghìn người dân thành phố, nằm theo hình chữ thập trên đôi bờ sông Tơrubêjơ và hồ Plêsêêvô. Và có thể là trước đây cũng đã có thời như thế, khi người ta rút về đây để tránh quân thù.
Giờ đây, ở trong bốn bức thành trống trải, một vài cái chuông đã bị lấy mất lưỡi và cạnh cái ao của giáo chủ, — ao làm theo đúng từng ly từng tí kích thước của chiếc tàu Nôê*, — chỉ có hai con dê đi lang thang và cô bé Galia chạy theo chúng. Hai con dê này của ông phụ trách nhà bảo tàng, nhà sử học địa phương, còn Galia là con gái của người phó phụ trách, nhà động vật học.
*Theo kinh thánh, chiếc tàu của Nôê đóng để tránh nạn đại hồng thủy. — ND. Từ trên lầu chuông nhỏ trông rõ toàn bộ cuộc sống ở ngoài bốn bức thành: rất nhiều tu viện và nhà thờ của thành phố cổ, ở giữa những tu viện và nhà thờ là một dòng người nông thôn đi đến chợ. Cứ như thế mọi vật ở đây, ở trong thành phố bảo tàng này, đều đảo lộn cả: nhà tu cổ kính, nơi đặt nhà bảo tàng của chúng tôi, tên là Nữ Đồng Trinh Trên Núi, còn chỗ đất có nhà tu Nữ Đồng Trinh thì gọi là Núi Rận, và trên Núi Rận thì có đường Huýt Gió, bây giờ đã đổi tên thành đường Vôlôđacxki*, rồi đến đường Chim Ưng, nơi xưa kia những người nuôi chim ưng cho Ivan Hung dữ** đã từng ở đấy. Ở dưới thấp là vô vàn nhà thờ đứng dày, chỉ còn lối đi qua mà thôi. Trong số đó, một ngôi nhà thờ — Bốn Mươi Vị Tuẫn Giáo — đứng ngay ở
cửa sông Tơrubêjơ đổ vào hồ, và cái tên đó để tưởng nhớ đến bốn mươi vị tuẫn giáo đã bị dìm chết trong một hồ nào đấy; một ngôi nhà thờ khác — vừa vặn đối diện ngôi nhà thờ trên, cũng ở trên bờ sông Tơrubêjơ và hồ Plêsêêvô, có tên là Mở Đầu, vì theo những dân đánh cá nói rằng từ chỗ ấy mở đầu cho việc đánh cá mòi nổi tiếng ở Pêrêxlap, còn xa hơn nữa lại đến cao điểm, và trên đó là thánh đường — nhà thờ Fêôđo Trên Núi. Lạ thay, trong vùng đầm lầy rải rác nhiều dòng sông con, chúng tôi đã được gặp mùa xuân nước nôi, còn hồ Plêsêêvô vẫn nằm đấy, phủ đầy tuyết, như giữa cánh đồng mùa đông, chỉ có theo mép rìa hình răng cưa của rừng mà mắt khó nhận ra, thì mới có thể đoán được rằng toàn bộ cánh đồng lớn lao trắng xóa ấy là cái hố.
*Vôlôđacxki (1891—1918) — nhà cách mạng Nga. — ND.
** Ivan Hung dữ (1530—1584) — Sa hoàng. — ND.
Bên trái của Tu Viện Trên Núi, trên hồ ấy trông rõ một cao điểm cùng với một lâu dài màu trắng để tưởng nhớ Piôt Đệ nhất và nơi khai sinh của hạm đội Nga, ở phía khác là cao điểm của núi Alêcxăng có một tu viện rất cổ ở ngầm dưới đất, và núi đó tên là núi Alêcxăng chính là để tưởng nhớ Alêcxăng Nepxki*, vị hoàng tử của Pêrêxlap, còn trong dân gian người ta gọi là Đầu Hói của Iarilô**.
*Alêcxăng Nepxki (1218—1263) — hoàng tử Nôpgôrôt đã đánh tan bọn xâm lược nước Nga những năm 1240—1242. — ND.
**Iarilô là tên vị thần của người cổ Xlavơ. — ND.
Tất cả những điều đó tôi được nhà sử học địa phương cho biết ngay. Ông ta đã cống hiến suốt đời mình cho việc nghiên cứu công quốc Pêrêxlap quê hương và là người vẫn giữ được thổ âm Vlađimia thuần túy, khi nói thì nhấn mạnh chữ ô.
— Tôi là người thứ bảy ở Tu Viện Trên Núi, — ông nói theo thổ âm Vlađimia, — người đầu tiên là một người hề: do đó mà có tên là Rừng Hề, Mương xói Hề, và thậm chí một trong những cái tháp của chúng tôi còn gọi là Tháp Hề.
Người hề, rồi đến các tu sĩ Phần Lan, rồi đến người nào đấy nữa, rồi cuối cùng là giáo chủ. Tôi nhớ rất rõ về người hề và cứ nghĩ đến ông ta, khi nhà sử học kể về một làng nào đấy tên là Phục Sinh, trong dân gian gọi là Làng Quỷ.
<>.
Tất cả các tu viện, tất cả các nhà thờ có giá trị nghệ thuật, cả chiếc xuồng con của Piôt Đệ nhất, cả Đầu Hói của Iarilô, — tất cả đều thuộc về nhà bảo tàng.
— Nhà bảo tàng tuyệt thật! — tôi nói, — từ thần Iarilô cho đến Piôt Đệ nhất.
— Và sau Piôt nữa, — nhà sử học đáp lại, — nếu các bạn muốn thì tôi sẽ đưa xem Êcatêrina, Êlizaveta*.
* Tên các nữ Sa hoàng. — ND.
Và lúc đó những người tham quan nhà bảo tàng đi đến, tất cả chúng tôi cùng đi xem Nhà thờ Đức Mẹ Qua Đời.
Nhà sử học ấy là một vị chủ nhân rất tốt và là một nhà sưu tầm về lịch sử đất đai ở Pêrêxlap, mà cái chính là một người Đại Nga: ông ta có thể trình
bày toàn bộ hoàn cảnh đất nước cả trong phạm vi rộng lớn lẫn khi cần, có thể quay lại theo lối mòn nhỏ hẹp của địa phương.
Sau khi nhận thấy rằng không phải mọi người đều thích nghe kể về bức thánh tượng bình của Êcatêrina và kiểu thức kiến trúc cầu kỳ của Êlizaveta, và nhiều người hững hờ đưa mắt nhìn lơ đễnh trên vòm mái xanh lam, thì ông bắt đầu kể về giáo chủ Gênnađi Crôtinxki đã chết vì bệnh dịch tả và an táng dưới ngôi đền này. Chỗ nấm mộ trên sàn đền được vây trong mạng lưới mắt cáo và trong đó có một mô con gì đấy đậy lại. Trước đây, người tu sĩ thò tay vào dưới tấm khăn đậy và lấy cát ở đấy phân phát cho tín đồ, và những người này nghĩ rằng dường như đất đó từ dưới vòm chui qua các đá ong, đá tảng xây móng và gỗ ở sàn nhà và thòi ra bên trên. Còn bây giờ thì người nào cũng có thể lấy tay dỡ tấm khăn đậy và thấy rõ cát được đỗ vào một cái hộp sắt tây trước đây dùng để đựng kẹo và thậm chí người ta chẳng chịu chùi sạch cái nhãn hiệu: «Âynem* — Hỗn hợp».
* Tên một hiệu sản xuất kẹo trước đây. —ND.
Trong số những người tham quan có một anh chẳng để ý gì đến nghệ thuật thời Êcatêrina và Êlizaveta và cũng không cười khi thấy cái nhãn hiệu «Âynem — Hỗn hợp». Mikhain Ivanôvich chỉ cho anh thanh niên rầu rĩ ấy bức bích họa «Người giàu và thánh Laza» và nói:
— Đó là giai cấp tư sản bị đốt trên lửa, còn giai cấp vô sản, anh hãy xem kìa, được nâng lên núi trong lòng của Avraam!
Anh thanh niên vui lên và nói:
— Đấy, bà con có thấy không, từ đời nảo đời nao mà cái đó đã tồn tại rồi. — Ông bạn trẻ ạ,— nhà sử học đáp, — cái đó quả thật đã có từ rất lâu rồi.
Khi chúng tôi đi ra khỏi nhà thờ và từ bức thành nhìn ra hồ thì mọi người thấy là hôm nay, trong ngày rất ấm, cái dải hẹp màu xanh lam của nước
băng tan ven bờ đã lộ rõ và trong không trung ở trên cao đàn sếu vừa chậm rãi bay, vừa kêu quang quác.
CHIM CÁT BAY ĐẾN
Ánh nắng sưởi ấm rất dễ chịu ở ngoài sân nhà bảo tàng. Những con bướm đen chập chờn bay.
Nhà động vật học Xecgây Xecgâyich nhận xét một sự kiện lớn trong ngày: những con bọ rầy — giống này rất hại cho nhà bảo tàng — đã bò vào những bức tường bên trong. Ông ta nhặt rất nhiều lá khô cho vào một cái bao, rồi bỏ vào cái rây và lắc. Và chúng tôi nhìn hồi lâu trong kính lúp xem những con bọ rầy—rác ấy tính lại.
— Xecgây Xecgâyich, — tôi hỏi, — trong số sáu nghìn con bọ rầy mà bác đã thu thập được, chắc là, có con nào bác thích nhất, từ nó mà bắt đầu tất cả?
Ông ta không hiểu tôi, nên tôi nhắc lại:
— Có con bọ rầy nào bác thích nhất?
Ông trầm ngâm suy nghĩ.
— Có con bọ rầy cá biệt nào đấy? — tôi nói lầu bầu.
— Có, — ông nói nhanh nhảu, — nhưng đó không phải là một con bọ rầy cá biệt, mà là một loài bọ rầy.
Thế thì. loài vậy. Tôi đã hỏi như thế chính là để từ loài mà tìm đến một con bọ rầy cá biệt nào đấy mà, có thể là trong phút thất vọng cuối cùng của Xecgây Xecgâyich, nó biểu hiện toàn bộ vẻ đẹp của thế giới và cứu cuộc đời của ông ta. Nhưng nếu thích cả một loài.
— Dù loài cũng được, — tôi nói, — nhưng loài nào ?
Nhà khoa học có năng khiếu, Xecgây Xecgâyich, to béo, râu ria xồm xoàm, giống như một côn trùng to lớn, mặt tươi rói lên và nói:
— Con bọ rùa!
Sau đó chúng tôi vào phòng làm việc và xem những con bọ rùa — vài nghìn con dưới mặt kính, vài nghìn con trên bông, và con nào cũng có phiếu ghi, có thể kèm theo.
Tôi nghe kể về những con bọ rùa và tôi rất muốn hỏi về con bọ rùa đầu tiên mà ông đã gặp được, và muốn biết tình hình cá biệt rất tỉ mỉ đã gắn bó Xecgây Xecgâyich vào công việc đính những con bọ rùa yêu thích vào kim găm.
Suốt đời, tôi mong ước tìm cho mình một đề tài khoa học nào đấy, như con bọ rùa, và nghiên cứu suốt đời mình chỉ một con đó thôi, và nhiều lần thậm chí tôi đã bắt tay vào việc rồi, nhưng tôi nhanh chóng hưởng thụ hết những vui thú trong công việc và nó trở thành rỗng tuếch, không có hứng thú, không có kết quả. Như vậy tôi không thể chuyên môn hóa được, nếu không coi tài khéo léo trong việc ghi chép các hiện tượng của đời sống là một chuyên môn.
Trong khoảng chừng một giờ thôi, tôi đã rút được toàn bộ cái gì đáng chú ý nhất trong những bộ sưu tập của Xecgây Xecgâyich và bây giờ tôi lại đưa mắt lang thang tìm cái mới và tôi để ý thấy trong không trung một con chim cắt đang rung động và dải nước băng tan ven bờ xanh lam mỗi lúc một tăng thêm. Người ta nói rằng nêu băng cứ tiếp tục tan như thế này, thì một tuần nữa sẽ bắt đầu mùa đâm cá măng trên hồ Pêrêxlap. Tôi áp dụng những biện pháp cương quyết để có thể được gần thiên nhiên hơn, tôi đã triệu tập hội đồng bảo tàng và đọc báo cáo về vấn đề nghiên cứu địa phương.
Tôi có kinh nghiệm trong việc nghiên cứu địa phương, và trong óc tôi đang hình thành một cái gì đấy đại loại như là phương pháp. Bản chất của phương pháp nghiên cứu địa phương ấy là: muốn hiểu được bộ mặt của địa phương thì phải dùng cái cảm tình đồng hương thông thường đối với địa phương, trong đó có cả cảm tình đối với thiên nhiên, và không nghi ngờ gì nữa, ngay cả phép tổng hợp của nghệ thuật, ít nhất cũng bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học thông thường. Tôi cho rằng một người tìm hiểu thiên nhiên giỏi xuất thân từ bình dân bằng một hay thậm chí hai nhà khoa học giỏi.
Vài lần, khi nói chuyện với các nhà khoa học giỏi nhất, tôi đã trình bày những ý đó thì hóa ra, những con người tài ba kia cũng làm việc hoàn toàn giống như chúng tôi những người tìm hiểu thiên nhiên bình thường nhất của cuộc sống. Còn khi tôi nói cũng về những điều ấy với các nhà khoa học giỏi bình thường, thì họ nhìn tôi với vẻ mặt tự cao tự đại và nghe một cách lơ đễnh. Chính vì thế tôi nghĩ rằng: chắc là tôi chưa biết cách thuyết phục họ bằng những ý kiến của tôi, cho nên tôi lặng thinh về điều ấy, mà chỉ báo cáo về công việc trạm nghiên cứu sinh vật học của các nhà vạn vật thiếu niên ở Xôcônhiki mà thôi và tôi đề nghị lập một trạm như thế ở Pêrêxlap.
— Nhưng ở đấy, — tôi nói, — ở Xôcônhiki, ngoại ô Matxcơva*, tương đối ít tài liệu, vì đặc điểm chung của nghiên cứu có thể gọi là vi — đặc điểm: vi — khí hậu, vi — khu bảo tồn và những tác phầm nghiên cứu tốt nhất đã làm được là về con muỗi.
Còn ở chỗ chúng ta thì toàn bộ hoàn cảnh thiên nhiên đòi hỏi phải lấy đại — đặc điểm: hồ rộng mênh mông, rừng dài vô tận. Ở địa phương chúng ta giá tổ chức trạm nghiên cứu sinh vật học có bộ môn địa lý và hợp tác chặt chẽ với trạm ở Xôcônhiki thì rất tốt: cứ để cho họ là vi, còn chúng ta là đại.
*Ngày nay ở trong thành phố Matxcơva. — ND.
Xecgây Xecgâyich bắt đầu lo lắng, ông nghĩ là tôi muốn tránh sự lao động tất yếu, tránh công việc tỉ mỉ và buồn chán, mà công việc ây lại chính là để giáo dục thiếu nhi.
Tôi hoàn toàn không muốn nói về điều ấy, nhưng tôi sẵn sàng tranh luận là không phải bản thân vi — lao động giáo dục thiếu nhi, mà chính là sự hào hứng cơ bản, vì nó người ta phải chịu sự buồn chán và nhờ nó công việc gì cũng trở thành dễ dàng.
Ý kiến bất đồng nhau: đứng về phe đại có tôi và nhà sử học, và thêm vào đó có cả người đại diện của hội đồng giáo khoa; đứng về phía Xecgây Xecgâyich thì có trưởng ban giáo dục nhân dân. Nhà khí tượng học, gầy còm, một con người bệnh hoạn, thì do dự, dao động.
Trước khi cuộc tranh luận kết thúc và biểu quyết, tôi nói:
— Các anh nên chú ý rằng những định luật dao động trong cốc nước trà và trong hồ Plêsêêvô cũng giống nhau, nhưng bão táp trong cốc nước trà và trong hồ Plêsêêvô thì khác nhau.
Lúc đó, Xecgây Xecgâyich, chắc là muốn phản đối điều gì đấy, vung tay lên và làm đổ cốc nước trà nóng lên đầu gối nhà khí tượng học. Ông này nhảy lên và chạy ra ngoài.
Một lúc sau, ông trở vào, và mọi người lo lắng hỏi ông:
— Thế nào?
— Chẳng sao, — nhà khí tượng học thản nhiên trả lời, — các anh người đại, kẻ vi, còn tôi thì chẳng vi, chẳng đại, mà bị vãi nước ướt cả quần.
Hội đồng quyết định:
1) Để tìm hiểu rõ hơn vấn đề về phương hướng hoạt động của trạm nghiên cứu sinh vật học, cần mời các phái viên của trạm Xôcônhiki đến trong vụ
nghỉ đông;
2) Giao cho người quan trắc vật hậu học một căn nhà bốn phòng ở trong lâu đài tại Chiếc Xuồng Con.
ĐÀN THIÊN NGA BAY QUA
Từ sáng, ngày quang đãng, băng giá ban mai tan nhanh, và đến gần trưa mặc áo bành tô đi thì vất vả lắm. Chim mòng bay đến sớm hơn tôi và bây giờ đang kêu vang trên các ao tu viện bị cỏ mọc lấp đầy.
Tôi đi theo bờ hồ để thu xếp căn nhà của mình ở trong lâu đài tại Chiếc Xuồng Con. Hồ này có hai bờ: một bờ cổ xưa, cao và bị những mương xói và dòng nước chảy cắt ra; một bờ khác, thấp, ở gần nước lầy lội, còn trong nước thì cát. Mương xói ở đây người ta gọi là khe: cái đầu tiên cách Tu Viện Trên Núi là khe Hề, một sông con rất nhỏ cạnh làng Vetxcôvô với núi Mêmêca, sau khe Vetxcôvô là khe Phục — Sinh với núi Hoàng Tử Nhỏ, và ở đây cạnh núi Ầm Vang với nguồn nước Ầm Vang. Chính ở trên núi Ầm Vang này đã bảo tồn, như báu vật, chiếc xuồng con của Piôt Đệ nhất, và vì thế nên cả dinh cơ này tên là Chiếc Xuồng Con.
Tôi chưa kịp leo lên núi Ầm Vang để nhìn, thì Nađejơđa Paplôpna, vợ của người gác cổng Chiếc Xuồng Con, đã kể cho tôi nghe về hoàng đế Piôt.
Bà nói rằng ngày trước hoàng đế rất thích nước, và có một bận, từ xa nhìn thấy hồ Plêsêêvô, hoàng đế quay ngựa lại và cứ thế cho ngựa phi thẳng qua cánh đồng lúa chín để đến gần nước. Còn ở làng Vetxcôvô, có một bà đang gặt lúa mạch đen; khi bà ta trông thấy một kỵ sĩ nào đấy đang giẫm trên lúa chín, bà liền hết lời thóa mạ, chửi rủa. Người ta nói rằng dường như việc đó làm hoàng đế Piôt rất hài lòng, hoàng đế đã ban thưởng rất hậu cho các ông
ở làng Vetxcôvô và thậm chí còn mời một số người vào cung tham gia hội đồng đuma bàn định việc nước. Từ đó trong làng này xuất hiện họ Đumnôp, và ông gác công Ivan Akimưt cũng họ Đumnôp, như thế tức là tổ tiên của ông ta nhất định đã có người tham gia hội đồng đuma cùng Piôt Đệ nhất bàn định việc nước.
Tôi đã xem kỹ ngôi nhà nhỏ, nơi bảo tồn chiếc xuồng con có đáy bị mục, chiếc duy nhất còn nguyên vẹn trong toàn bộ đoàn thuyền lớn xưa kia là đồ chơi tiêu khiển của Piôt Đại đế. Tôi nhớ lại trong sử đã chép rằng ba mươi năm sau, khi Piôt Đệ nhất đi đến đây, hoàng đế rất phẫn nộ vì sự bảo tồn không chu đáo những di vật của đoàn chiến thuyền và ngay lúc đó bèn viết một chiếu chỉ nghiêm khắc cho các nhà đương cục ở Pêrêxlap. Tất nhiên, lúc đầu việc đó có làm cho các nhà đương cục lo lắng sửa chữa, nhưng rồi đâu lại vào đấy, đoàn chiến thuyền lại tiếp tục mục nát, cho đến khi tất cả các chiến thuyền đều hư hỏng, chỉ còn lại một chiếc xuồng con duy nhất mà thôi.
Chiếc xuồng này chuyền tay từ người chủ này đến người chủ khác nắm quyền sở hữu dinh cơ này. Cuối cùng, Sa hoàng Nicôlai I bắt ép những nhà quý tộc ở Viađimia mua chiếc xuồng con, xây dựng ở đây một lâu đài không lớn, một khải hoàn môn và một bia cẩm thạch có những dòng chữ trích ở chiếu chỉ hoàng đế Piôt:
«Trẫm hạ chiếu cho các ngươi, những nhà đương cục ở Pêrêxlap, phải bảo tồn những di vật của các chiến thuyền, thuyền buồm và thuyền chèo, nhược bằng các ngươi không làm đúng lời Trẫm dặn thì các ngươi và con cháu của các ngươi sẽ bị trừng phạt, vì đã dám coi thường chiếu chỉ này».
Xúc động vì những lời của Piôt Đệ nhất, tôi đi đến gần dốc đứng của núi Ầm Vang và nhìn ra hồ, nơi chôn nhau cắt rốn của hạm đội: nước Nga. Qua một ngày, vòng nước băng tan ven bờ lại càng rõ hơn và trở thành đỏ rực vì
phản chiếu ánh mặt trời tà to lớn, đỏ rực, đang lặn. Theo những tiếng đập cánh đều đặn như một khúc hòa âm bay đến tai tôi, tôi biết rằng đàn thiên nga đang bay qua cao tít trên trời.
Chúng tôi tìm được trong nhà những cái giá, những tấm ván và dùng làm bàn, giường. Vừa dọn dẹp tất cả, vừa khoái trá thưởng thức tiếng gầm gừ của một cây trong rừng: tiếng kêu đó thường chỉ nghe được trong các mương xói hẻo lánh, nhưng chúng tôi đã nghe được từ trong lâu đài có cửa số to rộng. Chỉ tiếc một điều không ở đâu có một lỗ nhỏ để đặt ống khói ấm đun nước xamôva, và đành phải đặt ấm ngoài bậc thềm. Thế nhưng, sau khi tôi đặt ấm xong, thì bỗng tôi nghe được tiếng gà lôi đang gọi mái cách bậc thềm chừng vài trăm bước, còn khi tôi đi xuống hầm nhà để lấy đóm nhen lửa thì một con thỏ rừng to, do tôi làm nó hoảng sợ, đã phóc qua cửa sổ.
Chúng tôi uống trà và khoái trá nghe tiếng gầm gừ của một cây. BỤI HỒ ĐÀO RA HOA
Trong rừng, màu trắng và màu đen tương phản, không đồng màu, trong mương xói nước chảy rộn rã, còn trên mặt nước thì cây hồ đào được ánh nắng sưởi ấm, buông xuống những bông hoa dài, vàng đẹp như những chiếc hoa tai. Con chó Iaric nghe tiếng và lần đầu tiên nó đứng lại rình mồi, báo hiệu cho chủ. Nó tưởng gà lôi đang gọi mái, nhưng té ra đó là nước róc rách chảy, giống tiếng gà lôi, gần như ngay dưới chân nó. Còn gà lôi gọi mái thì ở đằng xa kia. Chúng tôi làm con gà trống đang kêu bay lên, cùng với nó có bốn con mái. Cây của chúng tôi vẫn cứ gầm gừ, ban ngày và ngay cả ban đêm vẫn nghe được dù cửa sổ đóng kín. Tôi yêu cây đó, nó trở thành ruột thịt của tôi: cả ở trong tâm hồn tôi vào mùa xuân cũng có cái gì đây gầm gừ, nhưng chỉ vì tôi không thích nói ra điều đó mà thôi.
Mép băng trên hồ đối diện Chiếc Xuồng Con được phủ một lớp băng cứng, nhưng theo rãnh nước ở dưới lớp băng, cá măng vẫn có thể bơi ra đến gần bờ. Ông gác cổng Đumnôp của chúng tôi đứng cầm cái đinh ba, như thần Neptuyn, còn xa hơn là những người đâm cá nổi tiếng, hai anh em Cômitxarôp, sau họ đến cha trợ tế — và cứ như thế trên khắp mép băng quanh bờ từ phía Vetxcôvô của chúng tôi đến Thượng Thành, từ phía Ôna đến Ngoại Hồ — chung quanh chỉ toàn những thần Neptuyn.
Người ta nói với tôi rằng cá măng thường bơi ra từ sáng tinh mơ đến khi mặt trời mọc, lúc chín giờ sáng, lúc buổi trưa, lúc năm giờ chiều và trước khi hoàng hôn. Tôi kể cho họ nghe rằng khi vét những ao đầm ở Xarixưn đã bắt được một con cá măng nặng bốn mươi tám cân có chiếc nhẫn vàng của Bôric Gôđunôp*, và tôi hỏi họ ở hồ Plêsêêvô có thể có con cá măng như thế không.
*Bôric Gôđunôp (1552—I605) — Sa hoàng. — ND.
— Có, — họ nói, — chỉ có điều là hồ sâu lắm, và con cá măng ấy từ dưới sâu không bơi lên. Còn với nhẫn vàng thì trong hồ có con cá gáy do Piôt Đệ nhất thả.
— Trong mấy ngày nay đã có ai đâm được con cá măng nào chưa? — tôi hỏi,
— Cá măng cái còn chưa ra, — họ trả lời, — nhưng đâm được cá măng đực rồi.
Cá măng đực nhỏ hơn cả măng cái.
Anh thợ xay lúa mì đến gọi tôi đi săn với vịt mồi. Chẳng hiểu vì sao tôi không tin con vịt của anh ta sẽ kêu, nên tôi từ chối. Cả người anh lấm đầy đất sét. Tôi nói với anh: người quý tộc cũ mà đi ra ngoài bẩn như thế là không tốt.
— Việc của tôi nó như thế, — anh đáp.
— Thế vì sao người công nhân kia, — tôi chỉ vào người thợ cả của anh, — lại sạch?
Anh bối rối và, không làm thế nào được, đành phải thú nhận là hôm nay anh đến Ủy ban hành chính, và khi nào anh đến đấy thì không bao giờ anh rửa ráy và thậm chí còn cố ý làm bẩn mình: phải leo được lên bước thang danh vọng của giai cấp công nhân.
Buổi tối, trời muốn mưa.
Do những khung cửa sổ đơn và rừng ở sát cạnh nhà, nên khi bắt đầu ngủ, tôi cảm thấy như nằm ở trong lều giữa rừng, và giấc ngủ phản ánh thế giới bên ngoài như một chiếc gương. Cây gầm gừ ảnh hưởng đến giấc mơ của tôi và như vậy dường như chính bản thân tôi cũng ở trong mương xói, như cây kia. Và bỗng nhiên, tiếng kêu the thé của con vịt mái, và không có một quá trình chuyển tiếp nào từ giấc mơ đến thực tế cả, tôi đoán ngay đó là con vịt mồi của anh thợ xay đang kêu. Sau đó vang lên những tiếng “cạc, cạc!” inh ỏi — đó là nó đã thấy con vịt đực. Tôi đứng phắt lên, rời khỏi giường, và khi tôi chạy đến cửa ra, thì chắc là con vịt đực đã bơi đến gần con vịt mái, và khi tôi vừa mới đưa tay cầm quả nắm, thì một phát súng vang lên. Trời còn mờ mờ tối, nên từ trên núi Ầm Vang tôi không thể trông rõ con vịt mồi được, mà chỉ thấy cái lều thôi.
Trong khi tôi đun ấm xamôva, anh thợ xay còn bắn được thêm hai con vịt đực nữa.
Sau khi uống trà xong, tôi cho rằng cuộc săn vịt chắc là kết thúc rồi, tôi bèn xuống núi đến cối xay. Và khi tôi thấy chỗ ở của anh ta, thì từ giờ phút này tôi bắt đầu gọi anh thợ xay là Rôbinsơn*, vì trong túp nhà gỗ nhỏ bẩn thỉu, gãy nát, lộn xộn, qua trần nhà trông rõ nền trời. Còn bản thân Rôbinsơn thì
ngồi cạnh bếp lò bằng sắt nóng đỏ, đang vặt lông vịt, và những người đi săn cũng ngồi ở đây gọt khoai tây. Iôjơca, một người đi săn cừ nhất trong bọn, kể chuyện rất nhiều về gà lôi, nói rằng có giống gà lôi xanh hơn một ít, cũng có giống vàng hơn một ít, và có loại chim dẽ giun hơi to hơn, cũng có loại hơi nhỏ hơn, còn vịt mái thì khác nhau rất rõ rệt, thậm chí có thể nói rằng không một con vịt mái nào giống con vịt mái nào cả, hoàn toàn cũng như người và thỏ nữa.
* Tên nhân vật chính cuốn tiểu thuyết Rôbinsơn Cruzôê của nhà văn Đanien Đêfôê, xuất bản năm 1719. — ND.
Những người này là ai? Những viên chức nhỏ, những kỹ thuật viên nào đấy mà trong thị trấn người ta coi như những người bán hoang dại, nhưng họ là những người bẩm sinh tìm hiểu thiên nhiên—nghiên cứu địa phương, là những nhà vật hậu học, và cảm tình chân chính của họ đối với thiên nhiên — chứ không phải là cảm tình theo lối đa sầu đa cảm nhỏ nhen, không phải là cảm tình theo lối sách vở, không phải là cảm tình của Rutxô* và Tônxtôi**, — còn được bảo tồn hầu như chỉ trong họ mà thôi. Đấy, cần phải tìm những cộng tác viên để nghiên cứu địa phương trong số những người ấy. Tôi nói cho họ nghe về tất cả, và chúng tôi đồng ý hợp tác với nhau trong việc quan trắc vật hậu học và thỏa thuận với nhau không bắn chim đang làm tổ ở gần dinh cơ Chiếc Xuồng Con, và cố gắng không bắn cả thỏ rừng nữa.
* Jăn ]ăc Rutxô ( 1712 —— 1778) — nhà văn và nhà khai sáng Pháp. — ND. **Lep Tônxtôi (1828—1910) — nhà văn hào Nga. —ND.
Khi nói chuyện về thỏ rừng, tôi kể với họ rằng ở Chiếc Xuồng Con, một con thỏ rừng đã phóc từ hầm nhà ra.
— Thỏ rừng à? — Iôjơca hỏi.
Và khi biết là thỏ rừng thì anh nói:
— Thỏ rừng thường bao giờ cũng nằm ở Chiếc Xuồng Con, có vài con còn nằm ngay cả trong thị trấn Pêrêxlap nữa. Anh có biết nhà K. không? Không biết à? Thế nhà M.? Cũng không biết à, thế thì anh biết cái gì?
Tôi nói là tôi biết Pêrêxlap cổ kính, nhà thờ thế kỷ XII, di tích của cối xay, pháo đài, chỗ lấy đất sét, nơi mà bây giờ là tu viện Đanhila, cột trụ Tôkhơtômưt.
— Anh biết cột trụ Tôkhơtômưt, thế thì vừa vặn đối điện là cái nhà gỗ nhỏ có vườn rau lớn và có một con thỏ rừng sống ở vườn rau ấy, gặm bắp cải. Khi đợt tuyết bột đầu tiên vừa xuống thì chúng tôi thả chó đuổi thỏ.
Iôjơca kể rất tỉ mỉ con thỏ rừng đã chạy thế nào qua các địa điểm lịch sử: từ thị trấn đến Chiếc Xuồng Con và qua hồ Pêrêxlap đến núi Alêcxăng nổi tiếng, nơi nhờ khai quật đã phát hiện được ngôi đền đa thần giáo của dân tộc Xlavơ, sau đó nó lại chạy vào thị trấn trên đường phố Xô—viết và chạy qua pháo đài, va con mắt phải vào một cái chấn song sắt ở đâu đấy, bọn trẻ con làm tình làm tội nó và khi thoát được khỏi tay bọn trẻ, nó chạy phóng vào cánh cửa mở của đồn công an. Trong lúc đó, những người đi săn, sau khi mất con thỏ, bèn gọi chó quay trở lại, buộc chó và đi về nhà, thì bỗng thấy dấu chân thỏ còn mới trên đường phố Xô—viết, họ đi vòng quanh dấu chân đó và thả chó ra. Chó chẳng phải chạy lâu, dấu chân dẫn vào đồn công an, thế là cả đàn chó vừa sủa vang, vừa xông vào cơ quan và theo sau chúng những người đi săn thình thịch chạy vào. Trong thời gian đó, những người công an không những đã bắt được con thỏ rừng, mà còn rút thăm xong để quyết định con thỏ rừng thuộc về ai.
Về nhà, tôi định viết lại câu chuyện đó, nó lý thú vì trong đời tôi chưa bao giờ dồn đuổi thú trong thị trấn cả, và đặc biệt là con thỏ chạy qua các di tích lịch sử. Nhưng tiếc rằng tôi quên tên của nơi con thỏ rừng va vào cái chấn
song sắt, và để hỏi lại, tôi phải xuống núi đến chỗ cối xay. Ở đấy chỉ còn lại một mình Rôbinsơn thôi.
— Anh có nhớ, — tôi hỏi, — con thỏ rừng va con mắt phải vào cái chấn song sắt ở chỗ nào không?
Rôbinsơn đáp:
— Khi chạy qua bãi sân nhà thờ Thiên Thần, nơi đó có rào chấn song sắt. TÌNH YÊU NHANH CHÓNG
Mẹ con vịt mồi của tôi chỉ là một con vịt mái Nga, vịt nhà, nhưng con vịt trời đực đã đạp nó vài lần, và những con con của nó giống vịt trời như đúc. Trong số đó, tôi chọn con nào kêu khỏe nhất và dùng nó làm mồi dử những con vịt trời đực đến gần lều của tôi. Vô số những con vịt trời đực, lông lá đẹp đẽ như mặc áo cưới, đã bị cái giọng sát phu của con vịt mái mồi này gạ đến. Trái tim của người đi săn thật là tàn nhẫn, nhưng có một trường hợp thế này: con vịt trời đực đạp con vịt mái của tôi, mà tôi không dám bắn nó.
Việc đó xảy ra vào lúc hoàng hôn. Tôi đi ra gần đến rừng và tới bãi bồi. Tôi lấy con vịt mái mồi từ trong bu ra, buộc vào chân nó một sợi dây dài ở đầu dây có quả cân nhỏ, tôi vứt quả cân, thả con vịt ra chỗ nước sâu, còn tôi thì ngồi trong lều đối diện và bắt đầu nhìn qua khe hở ra ngoài bãi bồi.
Một đôi vịt bay qua: một con vịt mái lông xám bay trước, theo sau là một con vịt đực lông lá đẹp đẽ, như mặc áo cưới. Bỗng từ đâu đấy, một đôi khác bay lại về phía đôi đầu tiên. Khi hai đôi sắp gặp nhau thì bất thình lình một con diều lao xuống con vịt mái ở đôi thứ hai, và mọi việc bị đảo lộn tất cả. Con diều bắt trượt. Con vịt mái lao nhanh xuống dưới và lẩn trốn trong những bụi cây. Con diều bàng hoàng, sửng sốt, từ từ bay lên dưới đám mây
đen màu xanh. Còn con: vịt đực lẻ bạn, sau khi hoàn hồn, nó liệng một vòng nhỏ: trong không trung chẳng đâu có con mái của nó cả. Ở đằng xa đôi vịt đầu tiên vẫn tiếp tục bay. Con vịt đực lẻ bạn tưởng rằng một con vịt đực khác đang đuổi theo con mái của nó đã lạc mất, thế là nó bay về phía ấy và ra sức đuổi theo.
Con vịt mái lạc đôi chẳng mấy chốc hoàn hồn sau trận bị con diều bắt hụt, nó bơi ra khỏi bụi đến chỗ nước sâu và bắt đầu kêu. Một con vịt đực đơn độc bay đến. Giữa con vịt trời mái và con vịt mồi của tôi diễn ra một trận đấu khẩu. Con vịt mái của tôi hết sức kêu to, nhưng con vịt trời mái vẫn kêu khỏe hơn nó. Con vịt đực chọn con vịt trời mái và đạp nó.
Sau khi đã bay một vòng rộng lớn, đôi đầu tiên quay trở về, và theo sau chúng là con vịt đực đã lạc mất con mái, vì con diều xông đến tấn công, nó đang hết sức lao nhanh. Phải chăng nó vẫn tưởng con vịt mái ấy là con của nó đang bay mà một con vịt đực khác đang đuổi theo? Con vịt mái thật của nó, thỏa thích, hài lòng, rỉa lông ở chỗ nước sâu và lặng thinh. Thế nhưng con vịt mồi của tôi bắt đầu kêu một mình, không còn đối thủ nữa, để gọi con vịt đực. Và con này đã nghe tiếng con vịt mồi. Có phải là trong tình yêu của chúng, con vịt mái nào cũng thế thôi, miễn là có con vịt mái! Hay có thể là thời gian của chúng qua nhanh hơn nhiều so với thời gian của chúng ta, và một phút phân ly với con vịt mái yêu quý bằng mười năm mối tình tuyệt vọng của chúng ta? Có thể là trong sự theo đuổi vô hy vọng sau một con vịt mái tưởng tượng, nó nghe ở bên dưới tiếng kêu nồi bật của một con vịt mái tự nhiên, nhận ra trong tiếng kêu đó giọng quen thuộc của con mái đã mất, thì lúc đó, đối với nó cả bãi bồi đã trở thành con vịt mái yêu quý chăng? Nó lao tới con vịt mái của tôi nhanh đến nỗi tôi không kịp bắn: nó đã đạp con vịt mái. Sau đó, nó bắt đầu lội quanh con vịt mái một vòng, như các con vịt đực vẫn thường làm để cảm tạ con mái. Lúc này thì tôi có thể bình tĩnh ngắm bắn, nhưng bỗng sực nhớ lại thời niên thiếu nồng nhiệt của
tôi, khi toàn thế giới đối với tôi đã trở thành như người yêu, và tôi không nỡ bắn con vịt đực ấy.
DỊCH BẮT ĐẦU DI CHUYỂN TRONG CÂY BẠCH DƯƠNG
Tôi cắt một nhánh con rất nhỏ của cây bạch dương để thông cái tẩu thuốc lá. Ở chỗ cắt, đọng lại một hạt dịch bạch dương và lấp lánh ngoài ánh nắng. Trong rừng lốm đốm nhiều màu: vừa tuyết trắng, vừa vũng nước màu lam, giữa ngày ấm áp. Sau khi đã nhìn kỹ chung quanh, tôi cho rằng hôm nay chim dẽ giun sẽ bắt đầu gọi mái ; và trước khi trời tối, tôi đi đến Xôlômiđinô, đến nhà người đi săn già tên là Mikhain Ivanôvich Minêep, để nhờ ông ta chỉ cho tôi chỗ săn chim dẽ giun trong mùa gọi mái. Bề ngoài không ai nghĩ rằng cụ Mikhain này đã là ông nội của đàn cháu nhỏ, dù rằng cụ còn nhớ Sa hoàng Alêcxăng II*, và cháu trai của cụ, một xã viên, vừa có đứa con mới ra đời không lâu. Tìm được cụ Mikhain thật là không dễ, vì cụ có bốn người con trai, và khi nào ông lão cũng vắng nhà cả, — cụ, ông vua Lia nông thôn ấy, sống khi với người con này, khi với người con khác: với hai người, cụ đã cãi nhau cạn tàu ráo máng rồi, bây giờ cụ đến ở với người con thứ ba.
*Alêcxăng II (1818—1881) — Sa hoàng. — ND.
Người ta kể cho tôi nghe nhiều về chuyện đó, khi tôi đi tìm nhà; sau đó, khi ngồi trong nhà đợi trời tối, chính ông lão cũng đã kể cho tôi nghe nhiều. Và khi câu chuyện kể còn tiếp tục mãi cả trên đường đi đến chỗ rình săn, thì tôi không nghe nữa và nghĩ thầm làm sao chóng thoát khỏi ông lão này được. Thế nhưng những lời của cụ vẫn đến tai tôi, và tôi vì lịch sự mà cứ đáp lại một cách hú họa.
— Và tòa án xử cho chúng một con bò—ò.
— Một con bò cơ à? — tôi nói.
— Thật đấy, nói có trời có đất: một con bò.
Ông lão đứng trước mặt tôi, cầm tay áo của tôi, không cho tôi đi lên trước, nói huyên thiên không ngớt và đợi ý kiến của tôi. Tôi làm thế nào đây? Tôi buột miệng nói:
— Thế rồi sao?
Cụ bỏ tay áo tôi, đi lên trước và nói:
— Thế là lão bỏ thằng con ấy, như bỏ tay áo của bác và đến ở nhà thằng khác.
Lúc đó, trên đầu chúng tôi vang lên tiếng vịt kêu bình thường vít—vít, nhưng vì câu chuyện cà kê dê ngỗng của ông lão nên tôi không kịp bắn.
— Trong nhà cụ, — tôi nói, — ấm xamôva đã đặt rồi kìa, đi vào mà uống trà đi.
— Phải rồi, — cụ nói, — phải đi, nhưng lão không uống trà. Trà! Trong đó phiến gỗ, phải vào giúp đưa các phiến gỗ lên. — Thế thì cụ đi vào đi.
— Thế mà bác lại bảo trà; phiến gỗ—ỗ—õ đấy.
Ông lão bật cười, đi một quãng ngắn, không nhịn được, đứng dừng và nhắc lại:
— Phiến gỗ—ỗ—ỗ! Lúc đó tôi nghĩ rằng chắc bây giờ các con của ông lão này vất vả lắm đây, phải chịu bao nhiêu lo lắng nhọc nhằn để kiếm sống, còn ông lão này dù sao vẫn có thì giờ đi săn bắn và vui mừng vì sự tái sinh của thiên nhiên và gặp người mới!
Tôi nói:
— Mà cụ thì mánh khóe lắm!
Ông lão vui mừng ra mặt, lại bước đến gần tôi, vui vẻ nháy mắt:
— Đúng thế, chính là thuế lương thực người ta không thu của lão, mà thu của chúng, ngoài ra còn đóng quỹ bảo hiểm, ngoài ra còn.
Và trong nháy mắt đó, tôi không ngắm mà cứ bắn vào con bay sau trong số hai con chim gì đấy đang vút qua thật nhanh. Té ra đó là một con vịt trời đực to phóng theo con vịt mái trên không. Nó giãy giụa trên cây bạch dương và rơi xuống tấm thảm tuyết còn sót lại dưới gốc cây.
— Thôi, cụ đi đi, đi đi nhé, — tôi nói với ông lão, — đi uống trà đi.
— Và lão sẽ uống trà nữa, — cụ đáp, — và đi săn nữa, và không lo nghĩ gì cả: lão sẽ đi, sẽ đi, còn chúng thì cứ nói mãi về thuế lương thực và quỹ bảo hiểm.
Trái hẳn với mọi sự chờ đợi và kinh nghiệm cũ của tôi, sự yên lặng có được sau khi ông lão đi, không phải là sự yên lặng sâu sắc kia, tràn đầy sức sống mới, mà là sự yên lặng như tờ và không sinh khí.
Chỉ có một con chim sáo đầu tiên đơn độc hót trong rừng, và giọt dịch bạch dương từ cành con bị cắt óng ánh và rơi xuống đụng vào cái gì đấy trầm lặng vang lên. Tôi không chịu nổi sự yên lặng này, dường như sự cân đối đã mất, và rừng trở nên dễ sợ vô cùng khi đủ mọi điều bịa đặt có thể đến trong trí óc những người mê tín, — đối với tôi nữa, trong những phút ấy rừng cũng rất dễ sợ, vì rằng tôi mất cảm giác và muốn thét lên thật to hoặc bắn bừa vào cây.
Và bỗng nhiên, tôi nghe tiếng nói ồn, tiếng cãi nhau, tiếng kêu to của những người đi trên đường đẵn cây trong rừng, và khi họ đến gần thì tôi nhận ra
giọng nói của Rôbinsơn, Iôjơca và biết rằng đó là những người đi săn buổi sáng sớm đang trở về sau buổi săn.
— Các anh cãi nhau gì thế? — tôi hỏi khi họ đã đến
— Chúng tôi cãi, — Iôjơca đáp, — vì cậu Rôbinsơn kia nói dối, buổi sáng nó nói dối với bác đấy.
— Tôi chẳng nói dối gì hết, — Rôbinsơn nói, — con thỏ rừng hoàn toàn có thể va vào chấn song sắt của nhà thờ Thiên Thần.
— Thế cậu có ở đấy đâu: ở đấy thì mỗi thanh chấn song to bằng ngón tay, còn nó bị lồi mắt ra chỉ vì dây thép gai mà thôi.
Ý kiến của những người đi săn về chim dẽ giun khác hẳn nhau: một số thì bảo là còn sớm; một số khác lại nói là chim dẽ giun ở đây rồi, nhưng bình minh còn lạnh lắm, nên chúng chưa gọi mái; một số thứ ba thì cho rằng chúng bị lạnh ở miền nam và hoàn toàn sẽ không gọi mái.
— Còn chim mỏ nhác bà chưa gọi mái à? — tôi hỏi.
— Chim mỏ nhác bà đã bay đến rồi.
— Có nghe chim mỏ nhác không?
— Đang kêu.
— Lạ thật, chim dẽ giun không có!
— Chắc là chúng bị lạnh.
CON CÁ MĂNG GIÀ
Có một bận đêm khuya, từ thị trấn tôi đi bộ trở về nhà ở làng. Thường thì trong những trường hợp như vậy, những người chở củi trở về làng cho tôi đi
nhờ xe. Và hôm nay cũng thế. Một thanh niên đánh xe ngựa, đã uống rượu hơi say sau một ngày làm việc vất vả, đuổi kịp tôi và mời tôi lên xe. Theo phép lịch sự tôi từ chối, nhưng anh cố mời. Tôi ngồi vào xe trượt. Anh đánh xe tự giới thiệu là lvan Bazunôp quê ở Vêxlêvô.
Tôi đã từng nghe cái tên đó.
— Người đâm cá măng nổi tiếng có phải không? — tôi hỏi.
— Tôi vốn là chuyên môn, — Bazunôp trả lời. — Xin phép hỏi quý danh? Tôi nói tên họ của mình.
— Mikhain Mikhailôvich ạ,—anh nói, — trong lòng bác có bị lây hạnh phúc gì không?
— Thường xuyên, anh Bazunôp thân mến ạ. Lẽ nào anh không nghe nói tôi là người đi săn à?
— Ồ, chính là bác à! — anh ngạc nhiên khi được biết tôi. — Sao lại không biết. Rất mừng được gặp bác! Người đi săn chính cống! Còn tôi thì đâm cá măng, việc này tôi đã tốt nghiệp đại học rồi. Tôi nói danh từ ấy có đúng không?
— Đúng.
— Rất thích. Bây giờ tôi giải thích cho bác cách đâm cá, thì bác khắc hiểu. Tất nhiên, tôi là người đâm cá măng và trong việc đó tôi có bị lây hạnh phúc. Cá măng là mục tiêu của tôi, nhưng giả dụ như con người chẳng hạn. Có người nào đấy giữa ban ngày ban mặt mà lại muốn lấy nhau với người yêu của mình, cái đó thì không thể được, sợ người ta thấy, không thể nào được. Mikhain Mikhailôvich, bác đã gặp trường hợp như thế không?
— Ai mà lại không gặp!
— Nghĩa là về người, bác đồng ý. Thế thì tôi sẽ nói cho bác nghe. Cả sinh vật cũng như thế. Con cá măng cái nó cũng muốn lấy nhau, vì trong bụng đầy trứng rồi, nhưng mà không thế nào được, Giống như con người ban đêm là lúc thuận tiện, thì con cá măng cũng thế, nó có thời gian để làm cái việc yêu đương.
— Cái đó thì tôi biết, — tôi nói — Cá măng đẻ trứng thường vào con nước đầu.
— Hoàn toàn đúng thế. Khi những dòng nước đầu tiên chảy và đổ vào hồ, thì cá măng cái bơi ngược dòng, và lúc đó thì tôi bỏ hết công việc và ra đứng ở dòng nước. — Bazunôp kể cho tôi nghe hồi lâu về việc anh ta đấu tranh với vợ như thế nào để thực hiện hạnh phúc ấy của mình, về việc anh đối xử thế nào với vợ và cuối cùng vợ phải để cho anh đi đâm cá măng. Cứ như thế chúng tôi đã đi đến chỗ rẽ ngoặt, nhưng Bazunôp vẫn chưa chịu cho tôi xuống xe và yêu cầu tôi nghe hết câu chuyện của anh.
— Khi mặt trời sưởi ấm, — anh nói tiếp, — thì con người muốn lập gia đình, cả con cá măng cũng thế, vì bụng trứng của nó làm tình làm tội. Con cá măng cái bơi đên chỗ nông, chỗ có ít nước, nằm ép mình sát đáy, cố ép trứng, còn những con cá măng đực thì phủ tinh màu trắng cho nó. Thường có đến bảy con đực cứ quay cuồng trên một con cá cái to, con này bao giờ cũng nắm dưới, và lúc đó, — nếu ai không thạo — đâm thì nhất định trúng vào những con đực, còn con cái, con to nhất, thì bơi đi mất. Nhưng tôi biết, phải đâm thế nào và tôi đâm đinh ba dưới những con đực, vì tôi vốn là chuyên môn.
Nghe anh nói xong, đến lượt mình, tôi kể một trường hợp mà chính tôi không hiểu: có một bận, hồi tháng bảy lúc nhá nhem tối, tôi thấy ở trên mặt hồ dường như có một cánh tay đen sẫm của người nhô lên, rồi khuất hẳn, sau đó lại nhô lên. Thật là giống như sóng đẩy một cái xác chết trôi giạt.
Theo bãi nông tôi đi đến gần, và đó không phải là cánh tay người, mà là một con cá măng cái rất to. Tôi dùng súng săn bắn nó. Thịt cá hóa ra lại cứng: con cá măng già.
— Thế mà sao anh lại bảo, — tôi hỏi, — là cá măng cũng như người biết thời gian của mình và bơi lên đẻ trứng vào đầu xuân, trong khi đó việc tôi vừa kể lại xảy ra cuối hè. Vì sao thế?
— Tôi sẽ trả lời bác,— Bazunôp nói. — Trong hững ngày hè nóng nực cũng có khi cá măng bơi đến gần bờ, vì ở nó, cũng như ở con người, còn lại những hồi ức. Tôi nói với bác rất đúng, vì tôi vốn là chuyên môn. Có khi một ả già lại làm bậy hơn một ả trẻ, vì ở ả ta còn lại hồi ức yêu đương của những ngày son trẻ.
ĐÂM CÁ MĂNG
Thời tiết đã như thế này: ban ngày ấm, gần như nóng, còn ban đêm thì có trăng và băng giá rất dữ đến nỗi dải nước băng tan ven bờ đã đông lại dày gần bằng một ngón tay. Mà những dải nước băng tan ven bờ ấy giờ đây giống như một dòng sông xanh lam rộng. Băng chỉ còn lại như những mũi nhọn mà thôi. Nhưng từ Diêm Thôn đến Pêrêxlap, trong những phiên chợ, bà con vẫn đi xe trượt qua mặt hồ như trước.
Mùa đâm cá măng đã bắt đầu. Những người đâm cá chỉ mất có buổi sáng không đâm được thôi vì ban đêm nước đông lại, và nếu có cá măng lội ra ở đâu nữa, thì không thể cầm đinh ba đến gần nó được, vì có tiếng động. Thế nhưng những người đâm cá từ sáng sớm đã chiếm chỗ và từng người một cầm đinh ba đứng bất động để chờ. Tôi đến khắp nơi trên bờ hồ đều có ánh lửa: người ta canh cá, cầm đuốc lội trong nước ngập đầu gối giữa bờ và băng, một người cầm đóm soi, hai người khác cầm đinh ba. Người ta chờ
những con cá măng lớn nhất sắp bơi ra. Tôi thử đến gần những người đâm cá và nói chuyện với họ. Chẳng ai ưa gì cái đó cả, và khi họ thấy tôi đến gần, thậm chí họ lảng tránh đi. Tôi thử cầm súng đứng một mình, nhưng thế thì chán không chịu được, tôi không hiểu vì sao mà họ kiên nhẫn đến như thế được. Tuy nhiên, sau khi quan sát rất lâu thì tôi hiểu ra: khi có người nào đấy nhận thấy có: cá măng, tay giơ cao cái đinh ba lên và bắt đầu len lén, nhẹ nhàng đi đến gần nó, thì mọi người hồi hộp theo dõi anh ta: chắc là lòng kiên nhẫn của họ không chỉ do hy vọng đâm được cá, mà còn do sự ham mê nữa.
Khi trời xẩm tối, người ta bắt đầu tập hợp lại, chuẩn bị đi soi cá, thì trên khắp bờ hồ từ người đánh cá này đến người đánh cá kia truyền cho nhau những tin tức trong ngày.
Hôm nay có tin lạ: ở cửa sông TơrubêJơ đã đâm được một con cá măng nặng trên mười bảy cân. Một người đâm cá ngồi trên một cái cột đóng dưới nước thấy một con cá rất lớn và đâm nó, và giống con diều hâu: đâm nhưng không giết được nó, mà chỉ thọc được đinh ba vào thân nó, như những vuốt chân của con diều hâu mà thôi. Con cá măng quẫy mạnh, người đánh cá ngã xuống nước băng giá, nhưng không buông cái đinh ba khỏi tay, anh ta lặn xuống nước, nhô đầu lên cạnh băng, bò lên bờ và kéo theo con cả măng đã kiệt sức.
Người ta nói rằng ở ngay trong thị trấn có người nào đấy từ cầu phóng cái đinh ba vào một con cá măng to, trúng đích và đang lúc hăng tiết nhảy ầm xuống nước, nhưng con cá măng đã bơi đi, mang theo cả cái đinh ba.
Trong bóng tối mờ mờ, Đumnôp, một trong những người «đã tham gia hội đồng đuma cùng Piôt bàn định việc nước›, tách ra khỏi những người khác ở một chỗ nông, đang kéo một cái cột to, bắc ngang từ nước lên mép băng và
leo qua trên băng. Ông nhận thấy từ dưới băng thỉnh thoảng một cái đầu kỳ quái nhô lên.
Người ta thấy Đumnôp giơ cao cái đinh ba nhằm đúng đích, nhưng cứ đứng như thế. Thì ra ông không dám đâm, sợ con cá măng có thể lôi ông xuống dưới băng.
Ở trên bờ, người thì chửi rủa, kẻ lại cười vang, còn Đumnôp đòi uống rượu ngang, nóc một hơi hết sạch chai và đợi.
Và bỗng mọi nghi ngờ về con cá măng của Đumnôp bị tiêu tan: mọi người đã thấy rõ một cái đầu to tướng từ dưới băng nhô lên và lại tụt xuống. Đumnôp xin thêm một chai rượu thứ hai.
Sau khi ông uống chai thứ hai, cái đầu kỳ quái lại nhô lên. Đumnôp đâm mạnh — trúng đích: găm con cá măng vào đáy. Nhưng phải làm thế nào bây giờ? Cái đinh ba dài chỉ còn lại một đoạn cuối rất nhỏ trên mặt nước mà thôi. Con cá măng to lớn như thế thì không thể nhấc đinh ba lên mà lấy được, còn tay thì chẳng với tới được, thế thì làm sao đây? Đumnôp uống hết hai chai rượu ngang thật là đúng, bây giờ ông chẳng sợ gì cả: ông lội xuống nước băng, đứng chân lên con cá, lặn hẳn xuống nước, móc ngón tay vào mắt cá, và từ dưới nước lại ngoi đầu lên, kéo theo con cá đâm được. Mọi người trông thấy: một cá măng cái to tướng và cùng với nó là một con cá đực nặng chừng bốn cân.
Đumnôp vứt con cá vào cái hồ, ở đây nó bỗng tỉnh lại, và nó khỏe đến thế này: nó quẫy đuôi một cái, và con cá đực nặng chừng bốn cân bắn xa nó chừng năm mươi bước.
Đumnôp lấy thắt lưng xâu vào mang cá, vác con cá để đầu nó ngang với gáy ông ta, mà đuôi cá vẫn lòng thòng kéo lê dưới đất. Ông đi về làng, các
bà tụ tập lại, cả làng chạy ra, và khắp nơi đều có tiếng đồn: Đumnôp đâm được con cá măng và khó khăn lắm mới vác nổi.
Và tiếng đồn truyền quanh cả cái hồ từ Vecxcôvô đến Thượng Thành, từ Thượng Thành đến Ngoại Hồ ở phía Ôna, qua Cửa Sông đến Diêm Thôn, — khắp nơi đều có tiếng đồn: Đumnôp ở làng Vecxcôvô đã đâm được con cá măng cái, nặng trên hai mươi bốn cân và cùng với nó cả con cá đực nặng chừng bốn cân.
ẾCH NHÁI SỐNG LẠI
Ban đêm, chúng tôi ngồi trong lều với con vịt mồi. Lúc bình minh, trời băng giá, nước đông lại, tôi bị lạnh buốt. Và suốt ngày tôi thấy khó chịu trong người, đến tối thì lên cơn sốt. Và tôi nằm liệt giường thêm một ngày, hình như tôi không còn tồn tại nữa và thả mình cho cuộc đấu tranh giữa cái sống và cái chết. Đến rạng đông ngày thứ ba, tôi nằm mơ thấy bờ như đường ren của hồ Plêsêêvô và cạnh các mũi băng dày đặc trên mặt nước xanh lam có rất nhiều chim mòng trắng phau. Cả trong cuộc sống thường cũng giống như trong giấc mơ. Và những con mòng trắng phau kia đẹp biết bao trên mặt nước xanh lam và tương lai sẽ còn có nhiều cái đẹp vô cùng: tôi sẽ còn được thấy toàn bộ cái hồ đã tan hết băng, mặt đất sẽ phủ đầy cỏ xanh non mơn mởn, những cây bạch dương ra lá tốt tươi, và sẽ được nghe những âm thanh đầu tiên của đám lá xanh rờn.
Chẳng hiểu vì sao cây đã thôi gầm gừ. Vì sao cây ấy không gầm gừ nữa? Thay vào đấy có con gì hót thật hay.
— Hình như đó là chim mai hoa? Người ta trả lời cho tôi rằng từ hôm qua trời trở ấm và đã nghe tiếng sấm ầm ì nhè nhẹ ở rất xa.
Bị yếu đi bởi cuộc đấu tranh cho sự sống, nhưng sung sướng vì thắng lợi, tôi đứng dậy khỏi giường và qua cửa sổ nom thấy cả thảm cỏ trước mặt nhà đều phủ kín đủ loài chim nhỏ: chim mai hoa rất nhiều, đủ loại chim sáo hay hót, sáo xám, sáo đen, sáo sậu, sáo đá, — tất cả những con chim đều chạy nhảy trên thảm cỏ rất đông, chập chờn bay từng đoạn ngắn, tắm trong vũng nước to. Những chim hay hót đã bay đến rất nhiều rồi.
Những con chó của chúng tôi, buộc vào gốc cây, chẳng hiểu vì sao bỗng sủa vang và nhìn xuống đất một cách ngây dại thế nào ấy.
— Xem kìa, sấm đã làm cái gì, — Đumnôp nói và chỉ cho chúng tôi chỗ những con chó đang nhìn.
Một con nhái lấp lánh cái lưng ướt, nhảy thẳng đến chỗ những con chó, và khi chúng sắp vồ được, thì nó quay trở lại và nhảy đến vũng nước to.
Ếch nhái đã sống lại, và dường như cái đó do sấm làm ra: cuộc sống của loài ếch nhái quan hệ mật thiết với tiếng sấm, — sấm động thì ếch nhái sống lại, cùng nhau giao phối, nhảy từng đôi từng cặp, làm lấp lánh cái lưng ướt dưới ánh nắng, và tất cả bọn chúng đều tìm đến vũng nước to kia. Tôi đi đến gần chúng, tất cả đều thò đầu lên khỏi mặt nước nhìn tôi: thật là thú vị vô cùng! Ở chỗ nắng, rất nhiều côn trùng bay, và ở thảm cỏ thì có vô số chim chóc. Nhưng hôm nay, sau khi mới dậy khỏi giường, tôi không muốn nhớ đến tên của chúng. Hôm nay, tôi cảm thấy cuộc sống của thiên nhiên một cách toàn bộ, và tôi không cần những tên riêng lẻ. Tôi cảm thấy rằng toàn bộ loài vật bay được, bơi được, chạy được ấy có một quan hệ họ hàng với tôi, và mỗi một loài vật ấy đều có một hình tượng lưu niệm, bây giờ hiện ra trong dòng máu của tôi qua hàng triệu năm: tất cả cái đó đã từng có trong tôi, bây giờ chỉ cần xem và nhớ lại.
Xuất phát từ cảm giác về sự sống, hôm nay những ý nghĩ của tôi được sắp xếp một cách giản đơn: trong một thời gian ngắn, vì ốm mà tôi phải tạm xa
cuộc sống, tôi đã mất cái gì đây và bây giờ tôi đang phục hồi lại. Hàng triệu năm trước đây chúng ta đã bị mất cánh, những cánh cũng đẹp như của chim mòng, nhưng vì việc ấy xảy ra từ ngày xửa ngày xưa, lâu lắm rồi, nên bây giờ chúng ta ngắm nhìn những cánh chim một cách say sưa đến thế.
Chúng ta đã mất khả năng biết bơi như cá, và không còn đu đưa được trên cuống lá dính vào một thân cây to lớn, và không còn bay được từ miền này đến miền khác như những quả cánh. Chúng ta thích tất cả những cái đó, chính vì tất cả những cái đó là của chúng ta, chỉ có điều là cách đây rất lâu, từ xửa từ xưa mà thôi.
Hôm nay, tôi nghỉ vì bị ốm, tôi không làm việc được. Thì sao tôi không thể tự cho phép mình bỏ phí chút ít thì giờ vào việc triết lý thô thiển này? Con người sáng tạo ra thế giới theo hình tượng của mình và tương tự như mình; trong nhận xét đó có sự thật thô lỗ. Nhưng tất nhiên là thế giới tồn tại cả khi không có con người. Hơn ai cả, nhà nghệ sĩ phải biết điều đó, và một điều kiện nhất quyết phải có của sự sáng tác nghệ thuật là phải tự quên mình đến mức tin được vào sự tồn tại của những vật hữu sinh và vô sinh mà không có bản thân mình. Tôi nghĩ rằng khoa học chỉ làm nốt cái hình tượng đã mất mà bản thân nhà nghệ sĩ đã phục hồi lại. Chẳng hạn, nếu nhà nghệ sĩ hòa mình với chim chóc, để cho các mơ ước của mình chắp cánh bay lên — và chúng ta cùng với chim chóc bay bổng một cách tưởng tượng, thì chẳng bao lâu nhà khoa học xuất hiện với những tính toán của mình — và chúng ta sẽ bay trên những cánh cơ khí. Nghệ thuật và khoa học, gộp chung lại, là những lực lượng phục hồi lại quan hệ họ hàng đã mất.
Gần trưa, khi có tiếng sấm xa xa như hôm qua, thì một cơn mưa ấm trút xuống. Trong một giờ, băng trên hồ từ trắng xóa đã trở thành trong vắt và màu xanh của bầu trời thâm nhập vào nó, như nước băng tan ven bờ, làm cho tất cả giống như một cái hồ nguyên vẹn.
Sau hoàng hôn, một lớp sương mù bốc lên trên các đường trong rừng, và cứ đi chừng mươi bước thì lại gặp một đôi đa đa bay lên. Gà lôi cố hết sức kêu lầu bầu, và cả rừng cũng kêu lầu bầu và xào xạc rít lên. Cả những chim dẽ giun cũng bắt đầu gọi mái.
Trong bóng tối, ở phía thị trấn có ba thứ ánh sáng: ở bên trên là những ngôi sao xanh lam, trên chân trời là những ngọn đèn màu vàng, to hơn, trong các nhà ở thị trấn và ở trên hồ là những ngọn đuốc to, gần như màu đỏ rực, của những người đánh cá. Khi một vài ngọn đuốc ấy đến gần bờ chúng tôi thì trông rõ cả khói, cả người cầm đinh ba, làm nhớ lại những hình người với rồng trên các bình lọ Ôlivia và Panticapê.
À, tôi quên ghi điều quan trọng nhất: sau những cố gắng tìm tòi, cuối cùng chúng tôi đã tìm ra cây gầm gừ. Đó là một cây bạch dương đã cọ mình với cây hoàn diệp liễu mỗi khi có cơn gió nhẹ; bây giờ trên thân cây bạch dương, ở chỗ bị cọ xát, dịch chảy ra nhiều và vì thế cây không gầm gừ nữa.
MÙA XUÂN CỎ XANH
CHIM MAI HOA BAY ĐẾN
Kể từ khi chim mai hoa bay đến cho tới khi có chim tu hú, thì toàn bộ vẻ đẹp mùa xuân được phô bày, vẻ đẹp ấy rất tinh tế và phức tạp, như những cành bạch dương chưa ra lá đan lẫn nhau một cách kỳ lạ.
Trong thời gian đó, tuyết tan, nước chảy, đất xanh um và phủ đầy những bông hoa đầu tiên mà chúng ta rất quý, những mầm non căng nhựa nở ra trên các cây dương, những lá non xanh mơn mởn dinh dính, thơm thơm, và
khi đó thì chím tu hú bay đến. Chỉ sau khi tất cả những cái tuyệt đẹp đã qua rồi, thì người ta sẽ nói: “Mùa xuân đã bắt đầu rồi! Ôi, đẹp biết bao!”
Còn đối với chúng tôi, những người đi săn, khi chim tu hú bay đến là mùa xuân đã hết rồi. Còn gì là mùa xuân nữa, khi chim chóc đã ấp trứng và chúng đã bắt đầu thời gian căng thẳng! Khi chim tu hú bay đến thì nhiều người vào rừng. Phát súng của một tên vô lại nào đấy làm cho luồng ý nghĩ bị gián đoạn và tôi cố chạy thật xa để khỏi phải nghe một phát súng khác nữa. Cũng giống như một buổi sáng tinh mơ, đi đâu đấy trên cỏ đầy sương và bỗng theo dấu vết trên cỏ đoán được rằng đã có một người nào đấy đi trước rồi. Thường lập tức rẽ ngay về phía khác, thay đổi toàn bộ dự định của mình chỉ vì đã thấy dấu chân của ai đấy trên cỏ. Có khi, tôi đi vào chỗ thật hẻo lánh, ngồi nghĩ trên gốc cây và suy nghĩ: “Dù sao thì rừng cũng lớn lắm, và chắc là trong rừng có chỗ nào đấy, dù chỉ một thước đất thôi, ở đấy bàn chân con người chưa giẫm đến, và cả trên gốc cây này rất có thể là chưa hề có người nào ngồi cả.” Còn mắt thì nhìn quanh và thấy bên cạnh gốc cây một cái vỏ trứng.
Tôi thường nghe nói dường như nấm ngừng mọc, khi có mắt người nhìn thấy chúng; nhưng nhiều lần tôi đã kiểm tra thì nấm vẫn mọc. Thậm chí tôi đã nghe nói là chim chuyển trứng đến chỗ khác khi có mắt người nhìn thấy; nhưng tôi đã kiểm tra thì chim cả tin một cách ngây thơ.
Trong thời gian từ khi chim hoa mai bay đến, khi trong rừng tuyết còn chưa bắt đầu tan, tôi rất thích đi trên dải núi thấp và chờ đợi một cái gì đấy. Rất hiếm khi được hoàn toàn tốt, bao giờ cũng thấy thiếu cái gì đấy, — khi thì lạnh quá, khi thì mưa lất phất, khi thì gió rít lên trên những cây còn chưa ra lá như trong mùa thu vậy.
Nhưng cuối cùng, một buổi chiều đã đến, khi cây liễu đã mở lá ra sớm hơn cả, khi phảng phất mùi thơm của cỏ xanh, khi cây ngọc trâm hoa từ dưới đất
đâm lên. Lúc đó, tôi nhìn lại thời gian qua, nhớ lại bao nhiêu buổi hoàng hôn tôi đã chờ đợi, bao nhiêu lần tôi đã hồi hộp, xúc động, để gặp được buổi chiều tuyệt đẹp ấy.
Lúc đó cảm thấy dường như tôi đã tham gia vào công cuộc sáng tạo ấy cùng với mặt trời, với gió lộng, với mây đen, và vì thế trong buổi chiều hôm ấy tôi đã nhận được câu trả lời của chúng:
— Bạn đã không uổng công chờ đợi!
DÒNG NƯỚC
Sau khi nhận thấy những chim mai hoa đã bay đến rất nhiều, tôi nhớ cánh đồng Cha Đạo có những cây ngấy lam vây quanh và đi xem có phải những chim bay đến đang nghỉ ở đấy không. Tôi không nhầm: cả bìa rừng đầy chim nhỏ, trong không trung khắp nơi đều có chim, có những chỗ dày đặc như phủ đầy hạt anh túc. Từ cánh đồng rất nhiều cu cườm bay lên, và một con đã bị diều ăn thịt. Một con ó đang liệng, thì bỗng con quạ từ đâu bay đến, quấy rầy nó. Hai đôi sếu gặp nhau và cùng bay với nhau. Tiếp đến cả một đàn sếu bay qua theo hình tam giác đều góc. Thỉnh thoảng thấy một con chim gì có hình dáng lạ lùng, và khi nhìn trong ống nhòm, té ra là con quạ hay là con quạ khoang đang tha rác làm tổ. Nhưng có một con chim tôi nhìn hồi lâu mà không thể xác định được, con chim trắng xóa và rất to. May thay, con chim bí ẩn ấy bay gần lại, và cuối cùng tôi nhận ra được: đó là con quạ tha một tờ báo; vì tờ báo che lấp, nó không thấy được tôi, và khi nó bay đến chỗ tôi thì tôi thét to lên, nó buông tờ báo rơi xuống dưới chân đồi.
Ngay sau buổi rạng đông, một đám mây đen bay đến và cơn mưa ngắn ngủi trút xuống, rồi mặt trời bắt đầu sưởi nóng thì nước tăng thêm. Cánh đồng đã trở nên lốm đốm rồi. Trên đường đi, lớp băng vẫn đóng dày cao đến một
thước rưỡi, nhưng ở nhiều chỗ băng tan và đường đã lộ ra. Cụ già ở làng Điatcôvô đánh xe chở cỏ khô ra thị trấn. Qua ống nhòm tôi nhận thấy cụ rất rõ — chính là cụ già mà trong chiến tranh tất cả các con trai đều bị giết sạch, và bây giờ cụ ở với vợ của các con trong một túp nhà xiêu vẹo. Chắc cụ đã cố giữ cỏ chờ đến lúc giá cao nhất mới đưa đi bán. Tôi rất muốn cụ được gặp may mắn trong việc đó, nên tôi hồi hộp chờ đợi cụ đến gần và sẽ thấy hố đường ngập nước. Hình như ở bên trên — từ đó mà nước chảy trên đường — ít nước, còn ở bên dưới, ở phía này thì có bùn và cả một dòng sông đầy nước. Nhưng chẳng biết vì sao cụ già cứ cho ngựa chạy trong nước, tất nhiên cụ bị vướng. Sau khi cố gắng một ít, cụ đã vượt qua được và đánh ngựa đi tiếp.
Sau Cụ già chẳng bao lâu, một thanh niên đánh xe đi đến, cũng chở cỏ khô. Chẳng suy nghĩ gì cả, anh ta cứ đánh xe chạy phía bên kia đường, nơi từ đó nước dâng lên. Nhưng anh chỉ vừa cho xe chạy đến đấy thì con ngựa bị ngập, và trên tuyết nước chỉ còn trông rõ cái đầu của nó mà thôi. Anh thanh niên lội xuống nước đến thắt lưng, vừa tháo ngựa, vừa chửi rủa. Những người đi bộ tụ tập lại, và mọi người, cả đàn bà nữa, xúm lại kéo giúp chiếc xe ra. Hình như họ dùng càng xe làm như là đòn bẩy, đàn bà cầm ở đầu xe, đàn ông đứng ở phía sau, và cứ như thế dần dần họ kéo xe ra để trên đường. Khi đó anh thanh niên thắng xe lại và đánh xe trở về.
Khi chia tay có người nào đấy nói to với anh: «May đấy! Chỗ này năm ngoái, một ông đã chết đuối rồi cơ đấy.»
Quay mặt về phía nam, tôi nhận thấy những con gà lôi mái đang bay vào mương xói Nham Lê Đỏ. Tôi bắt đầu gọi chúng; chúng đáp lại và chạy về phía tôi qua cánh đồng Cha Đạo, giống như những con gà nhà. Một con diều mướp bay qua trên cánh đồng. Một con ó đậu trên cây thông con. Một đàn cu cườm đang ăn. Chắc là con diều đã làm chúng sợ. Khi tôi đưa mắt
theo dõi chúng và ngoái cổ lại thì tôi thấy: anh thanh niên suýt nữa bị chết đuối kia lại đánh xe chở cỏ khô quay trở lại. Tôi nghĩ là anh này từ sáng đã có ý định bán cỏ khô và đánh chén ở thị trấn nên đã không thể kiên nhẫn được và quay trở lại cố thử một lần nữa; mà cũng có thể là ai đấy đã nói với anh là cụ già đã đi qua được và anh biết được phải đi thế nào rồi: không phải theo phía trên, mà đi phía dưới. Bây giờ anh không suy nghĩ gì nữa, cứ việc cho ngựa theo lối đi của cụ già, vượt qua mà không phải dừng lại và cho ngựa phóng nước kiệu.
Dòng nước chảy ầm ĩ vào hồ, tràn ra ở các rìa. Một con diều hâu bay qua, những con quạ khoang đuổi theo nó. Những con sáo hay hót đã bay đến, trong số đó có một con tuyệt đẹp tách riêng ra, đó là một con sáo đen, rất mảnh dẻ, có cái mỏ vàng tươi. Dưới đáy mương xói, dòng nước ầm ĩ, cuồn cuộn chảy; trên bờ tôi ngồi huýt còi gọi chim đa đa đến; trên cây cây bạch dương mảnh khảnh, một con gà lôi cô đơn đang gọi mái, còn ở đâu đấy con cu cườm đang gù. Chưa bao giờ tôi được nghe và thấy nhiều chim nhỏ đến thế! Đó là cả một cơn lốc: bất thình lình chúng bốc lên rất nhiều, như muỗi, chúng chạy, rúc vào trong đám lúa mì non, giao phối nhau trong không trung, bay cả đám đông đến bìa rừng và tất cả các con đều hót vang. Tiếng hót của chim chóc hòa lẫn với tiếng hát của nước nôi, tiếng lầu bầu của gà lôi, tiếng gù của bồ câu rừng, tiếng kêu của đàn sếu, gợi lại cho con người những ý nghĩ sâu sắc nhất ẩn náu dưới đáy tâm hồn.
Tôi tìm được lối mòn đi xuống dưới, tìm được thanh gỗ bắc ngang làm cầu, lấy rìu đẵn một cây sào dài; và chông sào, tôi đi qua phía bên kia dòng nước rồi để cây sào ở chỗ dễ thấy, hy vọng rằng nó còn có thể giúp đỡ cho ai đấy đi qua dòng nước cuồn cuộn chảy xiết.
Bây giờ tôi đi mò trong rừng, tôi cần phải đoán xem những chim dẽ giun sẽ gọi mái ở đâu. Ở đây, các quãng trống giữa rừng đều đẹp, nhưng bây giờ
đang còn thì giờ thì tôi tìm quãng trống tốt nhất. Và cuối cùng một quãng trống đã giữ chân tôi tại chỗ. Ở đây, phía bên phải của tôi, trong nước đầm lầy cạnh suối có một dải bạch dương; đằng sau chúng, trông rõ rừng thông đen thẫm, còn bên trái nỗi lên khu đất cao ráo mọc đầy những bụi cây con. Tôi dừng lại đợi chim dẽ giun sẽ bay từ ranh giới khu đất cao ráo và khu rừng đầm lầy.
Ở quãng trống của tôi, rải rác những bụi đỗ tùng, giữa những bụi đỗ tùng ấy có một cây thông rất cao vươn lên, còn trên ngọn thông, trên đọt của nó giống như một ngón tay, có một con sáo đậu và thỉnh thoảng hót vang, dường như nó đang điều khiển muôn nghìn âm thanh của rừng núi lúc hoàng hôn đang xuống.
Tôi không tin lắm rằng hoàng hôn sẽ kéo dài và tôi có thể ngồi đợi rạng đông ngay ở đây dưới bụi cây. Cho nên khi trời chưa tối hẳn, thì tôi nhìn lối mòn quen thuộc trong rừng dẫn đến nhà hầm, nơi trước đây người ta đã nấu rượu. Ở đấy, tôi hì hục làm hồi lâu, chặt những cành thông lòa xòa trải xuống đất để nằm và nhen đống lửa. Tôi ngủ cạnh đống lửa, tôi nghe rõ tiếng ngáy của tôi và tôi biết rõ khi nào cần thôi ngáy và bỏ thêm củi vào đống lửa.
Tôi thức giấc khi băng giá ban mai đã biến thành sương, và những hạt sương treo đầu ngọn cây, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Muôn nghìn chim chóc (chúng nhiều như thế chỉ trong mấy ngày chim di cư), hót vang quanh tôi, ca ngợi mặt trời và đất đai đã phủ đầy cỏ non xanh mơn mởn. Tôi lắng tai nghe hồi lâu và khi nào tôi muốn thì chiếc ống nhòm lăng kính tuyệt vời của tôi sẽ đưa con sáo đang hót đến tận mắt tôi, rõ đến nỗi tôi có thể ngắm nhìn từng sợi lông của nó. Chiếc ống nhòm của tôi chuyển hình ảnh của ca sĩ ấy từ lăng kính này đến lăng kính khác, từ mặt kính này đến mặt kính
khác, chọn từ trong mớ hỗn độn một hình dáng. Bản thân nó đã là một họa sĩ ưu tú rồi, còn tôi thì thêm vào đấy sự thụ cảm của mình mà thôi.
Sau đó, tôi đi ra bìa rừng và nhìn qua ống nhòm thấy một cô gái mặc chiếc váy màu da cam vắt ngược lên vai, đang đi trên đường đồng, mỗi lúc một đến gần con suối, nơi tôi đã để lại cây sào bằng gỗ trăn khi đi qua dòng nước. Trong tay cô gái là đôi giày cao su mới bóng loáng mà cô chỉ dùng để đi trong nhà thờ và một cái ô che mưa rất hiếm khi chống lên; chỉ ở chỗ đông người và trong ngày nắng ráo, trời tốt nhất cô mới dùng đến mà thôi.
Tôi rất mừng là cây sào của tôi giúp cô đi qua được phía bên kia dòng nước, nhưng tôi đau lòng khi thấy cô giấu nó trong bụi và phủ kín lá bên trên.
Thế nhưng ở phía bên kia, có người nào đây theo dõi cô và khi cô vừa mới đi xa thì anh ta tìm cây sào, mang đi, giấu ở một chỗ khác và ngồi đợi trong bụi cây. Tôi hiểu là chẳng bao lâu cô sẽ quay trở lại và tôi ngồi trên gốc cây, chờ xem bao giờ cây sào của tôi được trở lại phía bên này.
Như một cơn lốc, đàn chim mai hoa bay vụt từ bìa rừng lên trên các cây, chúng đuổi theo nhau trong cuộc bay hôn phối, rơi xuống đất, giao hợp nhau và quay trở lại, hót vang bìa rừng.
Rồi tôi thấy cô gái mặc váy màu da cam quay trở lại, đi đến gần con suối, tìm cây sào, chạy lui, chạy tới ở đấy, chạy từ chỗ này đến chỗ kia.
Tôi đặt ống nhòm xuống. Mắt thường tôi cũng thấy được một anh chàng từ trong bụi chui ra, lấy cây sào và giúp cô đi qua phía bên kia dòng nước.
ĐỀ TÀI
Tại một làng chài sống cực khổ và chật chội, tôi thấy đàn mòng đậu ở trên những cột và cũng ngay ở đấy bọn trẻ nô đùa, chạy nhảy, nhưng không làm
chúng sợ. Biết rõ các con của mình, những đứa trẻ có văn hóa hơn, tôi bỗng nhớ là phải tốn bao nhiêu công sức mới làm cho bọn trẻ mất cái thói độc ác được và tôi nghĩ thầm: «Đã phải trải qua bao nhiêu thế hệ, dân chài truyền tụng cho nhau lời khuyên răn bảo vệ những con chim tuyệt đẹp và hình như vô dụng, để bọn trẻ không ném đá vào chúng, và những cái mà một số người biết được do tiếp xúc với Đức Mẹ của Rafaen *, thì những người nghèo này biết được nhờ đàn chim mòng›.
* Xanti Rafaen (1483—1520) — họa sĩ thiên tài người Ý, đã để lại nhiều bức tranh nổi tiếng. — ND.
Hôm nay, Pêcha và Liôva đến, hai đứa chạy ùa đến đàn chim mòng và ngạc nhiên ngắm nhìn chúng. Đàn chim bị bọn trẻ làm hoảng sợ ở các nơi làm tổ, bỗng nhiên, tất cả đều cất cánh bay tung lên, che khuất cả bầu trời và cánh đồng, rồi hạ xuống, giống như tuyết rơi, và khi chúng đậu trên cỏ xanh thì cả cánh đồng xanh đã trở thành trắng xóa. Chúng tôi biết là nhân dân bảo vệ chim mòng, người ta cấm bắn chúng và trong dân gian cho đến bây giờ một số vẫn gọi chúng là những con vật bay.
Tình hình của bọn trẻ thì khá tốt: hai con của Mikhain Ivanôvich là Xônha và Xêva, sắp tốt nghiệp cấp hai, con của Xecgây Xecgâyich là Galia và ba cậu con trai, sinh viên, mới đến và các con tôi cũng mặc diện nhân ngày lễ. Tất cả bọn chúng nhân ngày lễ đều uống rượu gọi nhau bằng bạn và bắt đầu chơi ở trên sân nhà bảo tàng.
Và bỗng, hoàn toàn bất ngờ, có ba đại biểu các nhà vạn vật trẻ tuổi của trạm sinh vật học Xôcônhiki đến, mà không báo trước gì cả. Một cậu mặc áo ca —pốt lính Áo, cậu thứ hai — áo ca—pốt lính Anh, cậu thứ ba — áo ca— pốt lính Nga, còn khi các cậu cởi áo ca—pốt thì tệ hơn: quần ngắn cũn cỡn,
Các cậu đều có túi dệt, túi lưới và ở thắt lưng đeo súng lục. Các nhà vạn vật gặp nhau với thanh niên ăn mặc diện của chúng tôi, giống như những người ở các thế giới khác nhau, làm quen nhau và chia tay, mà không thích nhau.
Thậm chí cả Liôva tiên tiến nhất cũng diện nhân ngày lễ, và khi nó đưa các cậu thanh niên đến chỗ tôi ở Chiếc Xuồng Con thì nó báo cáo:
— Có những cậu nào đấy từ Xôcônhiki đến gặp bố.
Chúng tôi chào hỏi nhau. Các cậu biết tôi và tỏ ra rất kính trọng tôi. Xúc động vì sự thông cảm, tôi như được gãi đúng chỗ ngứa, nói với các cậu rằng: tôi muốn tổ chức trạm sinh vật học với khuynh hướng nghiên cứu mọi mặt của địa phương và bản thân tôi muốn hoạt động để khoa học và nghệ thuật được gần nhau hơn.
— Phần lớn động vật và thực vật, — tôi nói, — gắn bó mật thiết với cuộc sống con người, nhưng cho đến nay khoa học còn nghiên cứu rất ít về mối quan hệ ấy và có lẽ, ở đây nghệ thuật phải giúp đỡ cho khoa học. Hãy lấy ví dụ như con chim mòng và người dân chài, các anh hãy xem đấy; cuộc sống của những người nghèo khổ kia kết hợp một cách lạ lùng với con chim tuyệt đẹp ấy.
Cậu lớn tuổi hơn cả trong số các nhà vạn vật nói:
— Đấy là đề tài! Và cậu ghi vào sổ tay.
Hai cậu kia nói khẽ:
— Hôm nay, ngay sau cuộc họp, chúng ta sẽ bàn vấn đề đó. — Các anh bàn tất cả các vấn đề à? — tôi nói.
— Vâng, — cậu lớn tuổi đáp, — chúng tôi bàn với nhau mọi vấn đề, sau đó chúng tôi cùng hành động tập thể, và như thế chúng tôi không bỏ phí một phút nào.
— Thế là các anh đến đây với tôi không phải chỉ để nói chuyện thôi à? — Chúng tôi đến đây để nghiên cứu khả năng thực tế của đồng chí.
— Thế thì các anh thấy thế nào, cái đó không bí mật chứ?
— Chúng tôi thấy rằng đồng chí rất có thể có ích cho chúng tôi để làm công tác tuyên truyền, cổ động đồng chí nói và viết rất hay. Là một nhà vạn vật, có lẽ, đồng chí hời hợt, nhưng đồng chí có thể làm tốt việc quan sát vật hậu học. Và giá đồng chí làm việc thắt vòng chân chim thì rất tốt, vì đồng chí là người đi săn và thường đồng chí bắt được chim.
Tôi mỉm cười, bắt tay các cậu, và các cậu bắt đầu sẵn lòng kể chuyện về mình. Cậu lớn tuổi hơn cả đã hai mươi tuổi, tốt nghiệp trường trung học cấp hai rồi và làm cán bộ nghiên cứu ở trạm sinh vật học và giảng viên vật lý ở trường trung học — một thanh niên cao, bộ mặt có duyên, rõ ràng là cán bộ lãnh đạo và nói chung là chủ tịch. Cậu thứ hai trẻ hơn, người nhỏ nhắn hơn, trầm tĩnh hơn và chín chắn, chắc là làm việc giỏi: thư ký. Cậu thứ ba với những hình thủy thủ xăm trên cánh tay, là một thanh niên mạnh mẽ, có một số phận lạ thường: bản thân cậu vốn là một đứa bé lưu lạc, bơ vơ, nhưng có một bận, tình cờ cậu đến trạm sinh vật học, nhìn và thấy những cậu bé lưu lạc như mình làm việc với kính hiển vi, cậu nhìn vào mặt kính, và cũng như thời xưa, có người nào đấy bỗng bắt đầu tin Chúa trời và vào tu viện, cậu ta bắt đầu tin khoa học, học tập và bây giờ cũng tốt nghiệp trường trung học rồi. Cậu có bộ mặt hơi giống người phương Đông, còn họ là Pankin.
— Chắc đồng chí hiểu chúng tôi, — các cậu nói, — chà, làm việc với đoàn viên thanh niên cộng sản thì khó khăn lắm.
— Lẽ nào các anh không phải là đoàn viên?
— Vâng, chúng tôi là đoàn viên và hơn nữa là đảng viên cộng sản, và vì thế chúng tôi hiểu các hiện tượng của sinh hoạt xã hội sâu sắc hơn.
Bỗng cả ba cậu cùng nhìn đồng hồ: các cậu phải vội vã đi họp với đoàn viên thanh niên cộng sản địa phương, tại đấy sẽ tuyên truyền phương pháp
mới của mình.
Khi chia tay, tôi hỏi:
— Các anh nghĩ thế nào, hay là chúng ta cùng nhau xây dựng trạm sinh vật học ở đây nhé?
Chủ tịch nói:
— Chúng tôi sẽ nghiên cứu khả năng thực tế của đồng chí và sau đó sẽ trả lời dứt khoát.
ĐÁM CỎ XANH RỜN
Từ sáng, cả bầu trời phủ kín mây. Một cơn mưa nhỏ và ấm.
Trên các đám cỏ trong rừng đã hiện lên màu xanh đầu tiên, mùa xuân của thảm cỏ xanh rờn đang bắt đầu.
Trong bếp, người ta nói:
— Bây giờ cừu đã có nỏi ăn no bụng được rồi.
Tuyết chỉ còn lại vài ba đám nhỏ ở trong các rãnh sườn phía bắc núi Ầm Vang. Công việc của những con chuột chũi rất dễ thấy. Vào khoảng năm giờ chiều, mặt trời ló ra và không khí trở nên trong trẻo lạ thường. Mắt thường có thể trông thấy rất rõ ở phía bên kia cả Dị Chỉ lẫn núi Alêcxăng với Đầu Hói của Iarilô. Từ phía làng quê đã nghe rõ tiếng hát đầu tiên của điệu múa vòng tròn. Cơn gió nhẹ đông—nam trong một ngày đã thầm kín dồn băng từ bờ chúng tôi lên phía bắc, và bây giờ băng màu vàng nhạt do phản chiếu ánh sáng ban chiều, hòa màu với khoảng mênh mông của những đám mây đen xanh thẫm.
Cả ba cậu công xã viên ấy đến gặp tôi, yêu cầu cho mượn súng và đưa các cậu đến chỗ rình bắn chim. Tôi cho các cậu mượn súng, nhưng tôi không thân hành đi được và bảo Pêcha dẫn đường. Các cậu nhìn nhau, và chủ tịch nói rằng cậu ta sẽ ở lại với tôi để nói chuyện. Tôi biết là cậu hy sinh buổi săn bắn để nghiên cứu khả năng thực tế của tôi. Cả việc nghiên cứu ấy không làm tôi phật lòng chút nào. Bản thân tôi cũng nghiên cứu, tôi có ý định của tôi, và hơn nữa sẽ xem: ai nghiên cứu ai. Thời thanh niên của tôi cũng đã diễn ra trong một công xã bí mật, và sự nghiên cứu của tôi đúng hơn giống như hồi ức.
— Thế là trong công xã của các anh, — tôi nói, — có mươi lăm thanh niên: tám nam và bảy nữ, như thế thì có một nhà vạn vật trẻ tuổi không có bạn gái.
— Cái đó thì không thể như thế.
— Anh không hiểu tôi rồi, tôi nói về sự thông cảm chuyển dần thành tình yêu.
— Tình yêu như thế chẳng làm phiền cái gì cả, và tất cả cái đó chỉ biểu hiện ở chỗ hai người cùng làm việc với một kính hiển vi mà thôi.
— Nhưng nếu anh, chẳng hạn, áo quần bị rách, thì dù sao anh cũng phải mượn kim của cô ta chứ?
— Vâng, lúc đầu tôi cũng đã phải như thế. Tôi kêu to: “Catca*, chữa cái quần cho tớ” Và đồng chí có biết cô ta trả lời tôi thế nào không?
* Cách gọi khá thô của Êcatêrina. — ND.
— Tất nhiên, cô không chữa quần.
— Hơn thế nữa, cô còn nói: “Xêriôja, tôi không hiểu cách đặt vấn đề như thế”
— Chà, cô gái dễ thương làm sao, thế mà tôi nghĩ là cô ta nói với anh câu gì thật thô cơ đấy. Tôi rất không thích cái câu của anh: “Catca, chữa cái quần cho tớ?”.
— Đúng thế, cô gái ấy thật là giác ngộ, cô đưa sự việc đó ra thảo luận trong toàn công xã. Hội nghị quyết định: xét thấy rằng cô may vá rất giỏi, nên từ nay việc chữa quần áo sẽ là công tác xã hội của cô. Cô đồng ý và từ đó cô sẵn lòng chữa quần cho tôi.
— Có thể coi việc chữa quần áo là công tác xã hội, — tôi nói, — cái đó thì dễ hiểu, nhưng tình yêu nhất định biểu lộ dưới tình cảm cá nhân, và tình cảm cá nhân ấy rồi sẽ được hôn nhân củng cố.
CÔ GÁI TRONG RỪNG BẠCH DƯƠNG
Trên các cây bạch dương mới nhú ra một ít màu xanh mơn mởn, và rừng trở nên rất to lớn, rất trinh bạch. Chuyến tàu lửa của chúng tôi trong những cánh rừng ấy không có vẻ kỳ quái, — trái lại, tôi cảm thấy chuyến tàu lửa rất tiện nghi. Tôi rất mừng là có thể ngồi bên cửa sổ và ngắm nhìn phong cảnh những cánh rừng bạch dương sáng trắng xóa, liên tục. Một cô gái đứng trước cửa sổ bên cạnh, trẻ măng, nhưng không đẹp lắm: trán hơi cao, có vẻ thông minh, rẽ lên đỉnh đầu hầu như thành một góc vuông và cái đó làm tôi nghĩ rằng cô ta làm việc trong hiệu thuốc. Thỉnh thoảng cô ngả đầu ra sau và nhìn quanh toa tàu, giống như một con chim: chẳng biết có anh chàng nào, hoặc ai đấy theo dõi cô hay không? Rồi cô lại chăm chú nhìn trong rừng.
Tôi rất muốn xem cô cảm giác như thế nào khi đứng một mình ngắm nhìn đám lá xanh mơn mởn của rừng bạch dương. Tôi khe khẽ đứng lên và thận trọng nhìn qua cửa sổ. Cô nhìn đám lá xanh của rừng bạch dương trắng xóa,
vừa mỉm cười với rừng, vừa thì thầm cái gì đây, và hai gò má của cô đỏ ửng.
CÂY CỎ MẬT RA HOA
Cây dương, cây hoàn diệp liễu, cây cỏ mật, cây sao hoa và tất cả những cây hoa đầu mùa đều đâm bông.
Do sự chăm chú theo dõi và thông cảm của tâm hồn mình, nên tôi đã đoán được nhiều điều trong sự thay đổi của thiên nhiên, ở đâu cây gì đã ra hoa, cái gì đã chui xuống đất, đã bay đi; đôi khi tôi đoán đúng cả thời tiết nữa, nhưng vào đầu xuân, trong một ngày thời tiết thay đổi bao nhiêu lần đến nỗi ngay cả dân chài lưới cũng nhầm lẫn.
Sáng nay, lúc bình minh, ở phía đông trời quang đãng, còn trên khắp bầu trời thì mây xám dăng kín dường như chúng thỏa thuận với nhau để chống lại mặt trời. Trong thời gian đó, dân chài cũng thỏa thuận với nhau về chuyến xuất phát đầu tiên đi đánh cá trên hồ. Người đầu tiên đến bờ hồ là cụ Ivan Ivanưt, bố ông trùm đạo, một người già nhất và có kinh nghiệm nhất, — bây giờ thì cụ không đi đánh cá trên hồ nữa, nhưng cụ như là chiếc phong vũ biểu của dân chài. Khi mọi người dân chài đã họp lại, cụ Ivan Ivanưt chẳng biết dựa vào đâu mà kết luận rằng đến tối thì gió sẽ đẩy băng giạt về phía nam và sẽ giam ép những người đánh cá, vì thế không nên đi.
Dân chài suy nghĩ.
Tôi hỏi cả cụ già lẫn người đánh cá về điều suy nghĩ của họ, nhưng cái đó, có lẽ, đúng hơn là cảm giác, và nghiên cứu chúng cũng phải từ từ, như nghiên cứu thiên nhiên. Chỉ có điều tôi biết đúng là bây giờ cá dầy đẻ
trứng, rồi đến cá măng, còn sau đó thậm chí cả trình tự các loài cá đẻ thì họ nói khác nhau.
Để xoa dịu những ý kiến mâu thuẫn nhau, cụ già kết luận: — Trên hồ này có những tiên đoán khác nhau.
Trái với sự chờ đợi của mọi người, mặt trời mọc mà không bị mây che, và những người dân chài đã chèo thuyền đi giữa băng và bờ nam đến Cửa Sông, ở chỗ hồ đổ vào dòng sông Vecxa.
Đến bảy giờ sáng, mặt trời đã nhìn vào cửa sổ, và gió rất nhẹ, chỉ thấy hơi phe phẩy, bắt đầu thổi từ phía bắc. Đến trưa một cơn gió mát nổi lên và mưa đá rơi xuống.
Đến chiều tối, một trận cuồng phong thổi mạnh, tuyết xuống nhiều và tất cả bãi cỏ xanh rờn của chúng tôi trở nên trắng xóa. Băng trôi giạt về phía chúng tôi, ép vào bờ, và mọi việc đã xảy ra đúng như nhà tiên tri đã nói buổi sáng: những người đánh cá bị băng giam ép ở Cửa Sông.
Đây là tối đầu tiên mà ở vùng chúng tôi người ta không soi cá măng, cả bờ hồ hoàn toàn bị băng dồn ép, phủ kín, và chỉ thấy ánh đuốc ở phía bắc, nơi nước không có băng.
Nhìn băng xấu xí và chết cứng, như xác của mùa đông tàn tạ chưa chôn vẫn còn nằm đấy, Đumnôp, người đâm cá mắng, nói:
— Chàng rể xấu đã đến thăm mẹ vợ.
BĂNG GIÁ THÁNG NĂM
Theo mọi dấu hiệu thì ban đêm sẽ có băng giá gay gắt. Lúc một giờ sáng, dưới ánh trăng lờ mờ, tôi đi ra khu rừng sồi, ở đấy có nhiều chim nhỏ và
hoa đầu mùa màu tím.
Chẳng bao lâu ở phía tây trời bắt đầu rạng đông và ánh sáng chuyển sang phía đông, dường như rạng đông từ bên đưới, không thấy được dưới đường chân trời, đã bắt lấy hoàng hôn và kéo về phía mình.
Tôi đi rất nhanh và do đó sưởi ấm người đến nỗi tôi không nhận thấy băng giá gay gắt đã làm cỏ và những bông hoa đầu mùa cứng đờ lại. Khi trời bắt đầu sáng và băng giá đang lúc ác liệt nhất, tôi cầm một bông hoa tím và muốn sưởi cho nó bằng hơi ấm của bàn tay, nhưng bông hoa cứng đã gãy trong lòng bàn tay.
CON SÁO SẬU
Người phụ trách nhà bảo tàng rõ ràng là không bằng lòng những nhà vạn vật, ông đưa cho tôi xem những điều ghi chép hoàn toàn sai văn phạm của các cậu ở trong cuốn số nhà bảo tàng và nói:
— Tôi không tin cái món sinh vật học của những người thiếu học. Họ sẽ là những giáo viên hạng bét!
Xét về một quan điểm nào đấy thì ông nói đúng, nhưng tôi có quan điểm lạ lùng của tôi: trước đây khi còn học ở trường tôi cũng viết kém.
Ở trường, tôi học môn toán cực kỳ vất vả, và môn khoa học ấy đối với tôi khó đến mức hình như không khắc phục nổi. Nhưng hai mươi lăm năm sau, khi cần phải giúp cho con tôi, thì chỉ trong ba ngày tôi đã đọc xong môn đại số.
Bây giờ, ai hiểu tất cả những điều đó, cân nhắc cả phương pháp học ấy mà tôi đã không tiếp thu được môn đại số, thì gọi đó là phương pháp tri thức có sẵn, còn phương pháp kia mà sau đó, khi từ bên trong của tôi cần đến, và
chính bản thân tôi đã học qua thì gọi đó là phương pháp nghiên cứu. Tức là sự khác nhau ở chỗ, trong phương pháp có sẵn, người ta bắt buộc, còn trong phương pháp nghiên cứu thì tự tôi học lấy, và nhiệm vụ nhà sư phạm là làm sao thức tỉnh được tính tự bản thân ấy của mỗi một học sinh.
Nhưng cái đó là tôi hiểu những nhiệm vụ hiện nay như thế, còn ở trên trường thậm chí của cái cơ quan rất tích cực, như trạm sinh vật học ở Xôcônhiki, thì phương pháp nghiên cứu đã được các nhà phương pháp học mô tả bằng đồ thị với rất nhiều mũi tên, dấu ngoặc, đường tia đến nỗi hiểu được cũng rất khó, như tìm đáp số của một bài toán phức tạp nhất về phép lượng giác hình cầu và nếu đưa phương pháp nghiên cứu ấy vào trong tỉnh, thì cái xác chết ấy của sự sáng tạo sẽ hoàn toàn không khác gì cái xác chết của tri thức có sẵn.
— Này, ông bạn quý Mikhain Ivanôvich của tôi, cái xấu là ở chỗ đó, — tôi nói với người phụ trách nhà bảo tàng, — chứ không phải ở chỗ các cậu ấy thiếu học.
— Nhưng chính họ lại muốn dạy chúng ta cơ mà!
— Việc gì mà phải xét đoán một cách nghiêm trọng đến thế: nhiệm vụ của các cậu ấy là nghiên cứu khả năng thực tế của chúng ta thôi.
Buổi tối, chủ tịch đến chỗ tôi với những ống nghiệm đầy côn trùng đủ loại và hơn nữa có cả cái bình đựng nước mạch trên núi Ầm Vang. Tôi hỏi cậu ta cần nước để làm gì, thì cậu trả lời là để phân tích. Tôi nói rằng trong nhà bảo tàng có sẵn bản phân tích tỉ mỉ nhất rồi. Cậu đổ nước đi. Việc làm không cần thiết, vì trong phương pháp nghiên cứu loại trừ việc tìm hiểu sơ bộ với tài liệu trong sách; trong sách viết về tri thức có sẵn, mà chính là phải tự bản thân mình thấy. Nhưng trong trường học, thầy giáo làm một cách kín đáo đến nỗi học sinh chỉ cảm thấy hình như chính cậu ta đã tự mình đi đến nhận thức được môn học; nhưng thực ra, chính là thầy giáo đã
đưa cậu đến; còn trong cuộc sống thì nhất định phải tự mình làm quen với những tác phẩm có trước của người khác, nếu không thì nhất định sẽ có rất nhiều lần làm việc người khác đã biết từ lâu rồi.
Khi đi ra khỏi nhà, mặc dù phong cảnh mùa đông, nhưng chúng tôi vẫn nghe trong rừng tiếng chim thỉnh thoảng hót lúc chiều tối.
Chủ tịch hỏi tôi:
— Đồng chí nghe con chim gì hót đấy?
— Con sáo hót.
— Vâng, nhưng trong số loài sáo hót thì nó là con nào?
— Tôi không biết. Con nào thế?
— Tôi không thể nói cho đồng chí được, ở trường chúng tôi có thể lệ là nếu biết cũng không nói. Đồng chí hãy bắn nó và tự mình xác định lấy.
— Nhưng, anh bạn ơi, — tôi yêu cầu, — anh hãy làm cho tôi một ngoại lệ vậy, tôi không thể nào bắn chim chỉ để thỏa mãn tính tò mò và nhất là trong khi nó đang hót, tôi hiểu tiếng hát của thiên nhiên trước hết như là lời ca, rồi sau đó tôi mới nghiên cứu nhự một hiện tượng. Anh hãy nói giúp tôi theo tình bạn vậy.
Cậu nghĩ lại và nói:
— Đó là con sáo sậu hót đấy.
Không, tôi không thấy điều gì xấu trong các cậu đó cả, khi tôi bằng trạc tuổi các cậu thì tôi xấu hơn nhiều, và tôi sống với bố mẹ và nếu đầu óc tôi bị căng thẳng thì đôi khi bố mẹ tôi cho tôi uống brôm để an thần, còn những cậu bé lưu lạc kia, trước đây là những đứa bé lang thang trên đường phố, có lẽ, có khi nào đấy đã ngửi côcain rồi. Chắc chắn là Pankin đã ngửi rồi.
CHÀNG RỂ XẤU
Sau một đêm ấm trời, ánh nắng trở nên nóng ngay và cảnh vật hoàn toàn yên tĩnh. Vẫn như trước, cái hồ của chúng tôi bị chia ra thành hai vùng: ở phía bắc nước không có băng, ở phía chúng tôi một lớp băng độc ác, màu lục với những bọt bong bóng màu trắng.
Ngay sau khi mặt trời lên, cơn gió thổi từ phía nam dần dần mạnh hơn, và đến trưa thì nghe tiếng kêu:
— Đã đi rồi, đã đi rồi!
— Ai đi? — tôi hỏi qua cửa sổ.
— Chàng rể xấu, — Ivan Akimưt đáp lại.
Chúng tôi hiểu đó là lớp băng đã bị dồn từ bờ của chúng tôi đến bờ vách đứng của núi Ầm Vang.
Trong lúc đó thì “chàng rể xấu” đã ở xa rồi, và những người đánh cá bị băng dồn ép, sau hai ngày đêm trên bờ ở đâu đấy vùng Cửa Sông, vui vẻ cùng với thuyền bè trở về nhà, còn ở bờ chúng tôi nước màu lam vỗ óc ách. Những người dân chài tụ tập ở gần bờ, mang theo những chiếc đinh ba. Hàng nghìn chim mòng hạ cánh xuống nước xanh lam, và chẳng hiểu vì sao chúng dồn lại ở một điểm, nên gần bờ của chúng tôi trở thành một hòn đảo trắng xóa trên màu xanh lam, và đôi khi có cảm tưởng hình như nước xanh lam cao hơn mực đường của thị trấn và thế mà nước vẫn không tràn ra. Bỗng nhiên, cả hòn đảo trắng xóa kia tan ra thành những chim mòng và thị trấn tươi sáng của nước Nga hiện ra từ dưới nước, như một câu chuyện cổ tích màu lam qua những cánh trắng phau.
Khi nhìn thành phố Kichejơ* này mà những cánh chim mòng quạt gió lộng, tôi sực nhớ là các nhà vạn vật hôm nay đọc báo cáo về chim mòng ở nhà bảo tàng, và các con tôi nói với tôi rằng dường như các cậu ấy hỏi một phát súng giá bao nhiêu tiền và tính toán rằng bắn hết chim mòng và tiêu diệt loài chim tác hại ấy thì có lợi hay không.
*Tên một thành phố thần thoại của Nga bị chìm ngập dưới nước. — ND.
Tại nhà bảo tàng, tập hợp đông đủ thanh niên vùng chúng tôi, những người đi săn, — nếu thực ra mọi người đều bắt tay vào việc tiêu diệt vẻ đẹp ấy thì sẽ thế nào? Tôi đi xuống tận hồ và hỏi một cụ già đánh cá, có thật chim mòng là một loài chim có hại không.
Cụ trả lời:
— Loài chim có hại à. Ai nói với bác thế? Bác hãy xem, bao nhiêu lần chim mòng hạ xuống nước và đều bắt trượt cả, trong việc bắt cá chim mòng vụng về thế nào ấy. Còn khi bác leo lên bờ và nhìn, thì thấy cả đàn chim mòng đi theo người thợ cày. Có một lần cũng như thế trong buổi đi săn: có những khách từ Matxcơva đến, họ bắt đầu phân loại cái gì có lợi, cái gì có hại. Họ nghe con chim gõ kiến gõ vào cây và nói: “Chim gõ kiến tác hại cho cây vô cùng!” Còn lúc đó ở đấy có người bác học làm bác sĩ ở vùng này, một người rất tốt ông ta tìm ra cây đó và hỏi: “Vì sao cây này đang bị chết khô?” Họ trả lời: “Vì sâu đục thân.” — “Thế đấy, — người của chúng tôi nói, — còn chim gõ kiến thì bắt loài sâu ấy, nó không phải là kẻ thù của cây, mà là bác sĩ”. Thế đấy, cả bác nữa, hãy đi lên trên cao mà nhìn xem bao nhiêu là chim mòng đi theo sau người thợ cày.
NẤM NHĂN* XUẤT HIỆN
* Một loại nấm ăn được và ngon, hình thù nhăn nheo.—ND.
Sáng nay ấm trời và có nhiều sương. Sau bữa ăn trưa, một cơn “mưa đám mây” rơi xuống, rồi sau đó trận mưa to trút xuống, như để bác bỏ ý kiến phổ biến cho rằng: nếu buổi sáng nhiều sương thì nhất định ban ngày tốt trời.
Nước hồ vẫn còn đầy tràn bờ cũ. Trong rừng màu nâu sẫm, hình như những ngọn cây gì đấy đã chớm nhú màu xanh, nhưng cái đó chưa phải là cây đã ra lá mà là bãi cỏ đã xanh thấp thoáng qua khu rừng trụi lá. Một con chim chìa vôi má trắng, như trùm chiếc khăn đen, mặc yếm đen, chạy trên bờ hồ, làm ướt đôi chân. Một con chim dẽ gà đứng lắc lư. Từ trong đám cỏ vàng năm ngoái còn lại, mào lông chim te te nhô lên. Con vịt trời đực bơi với con vịt mái. Con đường cái chạy cắt ngang rừng, nó đang chết, vì vào mùa xuân
xe cộ không còn chạy trên đường nữa. Nếu cứ như thế mãi, thì chẳng bao lâu rừng sẽ nuốt trửng con đường với tất cả những cột dây thép. Một số vết xe hằn sâu đến nỗi trong những ngày mưa đã trở thành dòng nước chảy và do đó, tất nhiên mỗi lúc một sâu hơn. Trong những vết xe khác, những cây cao tung hạt xuống, và ở những nơi trước đây là dấu xe ngựa, bây giờ đã trở thành lối đi con hai bên mọc đủ loại cây. Giữa những cây non là cỏ, hoa, — tôi chưa hề gặp ở đâu nhiều hoa bạch đầu ông và hoa đổng thảo đến thế. Nhưng ở đây lối mòn trắng phau do bàn chân con người vạch ra thì thật là tuyệt đẹp; bây giờ lối mòn ấy uốn khúc quanh co giữa vô số những mầm đang nở của các bụi cây anh đào dại, hồ đào và bạch dương tơ. Một con bướm vàng đang chập chờn bay. Đi qua lối mòn như thế thật là hạnh phúc biết bao! Tôi ngạc nhiên, vì sao những người quen mạnh khỏe của tôi lại đi Crimê nghỉ.
Đất bốc hơi mạnh. Người ta đang cày lúa xuân. Lúc này chính là lúc nấm nhăn đang mọc. Trong rừng ẩm ướt, cứ mỗi bước đi, chân lại kêu lép nhép: dường như những cái hôn vô tận. Khi đi ra quãng trống giữa rừng thì những cái hôn ngừng bặt. Đây là một góc cây bạch dương già, trên gốc mọc lên một cây thông hiên ngang. Cạnh gốc cây đó là những nấm nhăn mà ta mong ước. Tôi hái nấm, còn chim mai hoa thì cứ hót vang mãi. Tôi sung sướng đã thực hiện được những ước mong của mình. Tôi không đi Crimê, tôi kiên nhẫn chờ đợi thời gian khắc nghiệt qua và giờ đây tôi được lĩnh phần thưởng xứng dáng.
Và chính là Crimê đã thân hành đến đây với tôi.
EO ƠI
Trong nhà bảo tàng, những nhà vạn vật đã nói ngay từ đầu: chắc là những cán bộ có kinh nghiệm không thể từ Matxcơva đến chỗ chúng tôi để lãnh đạo được.
Nhưng theo sự quan sát của các cậu, thì ngay tại chỗ đã có đầy đủ khả năng thực tế để có thể bắt tay vào việc ngay được.
Người đầu tiên đọc báo cáo là Pankin. Cậu nói rằng cần nghiên cứu cái gì có ích nhất, vì trong nước bị tàn phá nặng nề, cho nên không thể làm những việc xa xỉ, phù phiếm, chẳng hạn như đo con ngươi của loài cóc xám. Những nhà vạn vật phải nghiên cứu trước hết toàn bộ nền kinh tế quốc dân và chủ nghĩa duy vật.
Một trong số những người nghiên cứu địa phương trẻ tuổi giỏi nhất của chúng tôi, khi nghe nói chữ “chủ nghĩa duy vật”, đã không giữ mình được và buột miệng nói:
— Nhưng lẽ nào nghiên cứu một cách vô tư à?
— Eo ơi! — Pankin thốt lên. — Chủ nghĩa duy vật không phải là vụ lợi, chủ nghĩa duy vật là. cái gì từ đâu mà ra và vân vân. Có hiểu không?
— Tôi hiểu, nhưng không có người lãnh đạo thì làm sao chúng tôi nghiên cứu được cái đó?
— Thế thì sự thông minh? Sự thông minh. cái đó đối với các anh không phải là đồ vớ vẩn, mà rất quan trọng, các anh hãy bắt tay làm việc một cách thông minh theo phương pháp nghiên cứu của chúng tôi, và các anh sẽ thấy là hai mươi nhà vạn vật trẻ tuổi có thể thay một giáo sư.
Cách giải thích hơi nguy hiểm ấy của tư tưởng chung về số lượng chuyển thành chất lượng, làm cho những nhà vạn vật nhao nhao phản đối, và một người nói:
— Cái đó còn tùy giáo sư nào.
Pankin đồng ý với điều đó, cậu cho rằng vấn đề không phải là ở đấy, mà chủ yếu là phải đấu tranh với tình trạng vô kỷ luật và phải nhớ rằng hiệu quả công việc của chúng tôi tùy thuộc mối quan hệ của chúng tôi với các nhiệm vụ quốc gia, và vì thế sự phối hợp phải được đặt lên hàng đầu.
Sau lời phát biểu chung, chủ tịch nêu ra ví dụ, cần phải sử dụng phương pháp nghiên cứu như thế nào.
— Chẳng hạn, — cậu nói, — chúng ta lấy đề tài: con chim mòng. Các bạn hãy bắt đầu nghiên cứu chim mòng, mà nhất thiết không đọc một cuốn sách nào về chim mòng cả, các bạn hãy dùng sách sau, như là sổ chỉ nam. Và trước hết, các bạn hãy đếm tất cả chim mòng; khi đó thì các bạn sẽ thấy lợi ích của phương pháp tập thể của chúng ta: làm một mình không thể nào đếm được như thế; nếu các bạn tập hợp tất cả các trường, trong ngày giờ nhất định, hãy bố trí ở khắp các ao và bờ hồ, thì các bạn sẽ làm việc ấy rất dễ.
Sau đó, các bạn hãy tìm hiểu xem tất cả chim mòng trên hồ nuốt bao nhiêu cá, rồi tìm hiểu xem tất cả chim mòng có thể cho bao nhiêu lông tơ.
Lợi ích của chim mòng là lông tơ; tác hại là ăn cá; thế thì lợi hại cái gì trội hơn. Nếu chim mòng gây ra tác hại, thì cần phải khắc phục thành kiến của nhân dân và tiêu diệt sạch sành sanh tất cả loài chim mòng. Nhưng thậm chí trong khi tiêu diệt cũng không được rời bỏ nguyên tắc kinh tế và tính xem một phát súng giá bao nhiêu và có bằng giá lông tơ thu được hay không.
Đến chỗ nguy hiểm này thì tôi thân mật nói với chủ tịch rằng để đề phòng trường hợp lòng hăng say săn bắn của những nhà nghiên cứu địa phương trẻ tuổi của chúng tôi cao hơn lòng hăng say của nhà nghiên cứu chim mòng,
thì cần phải nói về tính tương đối của khái niệm loài ăn thịt, chẳng hạn con cáo.
Chủ tịch rất hài lòng kể là con cáo, tất nhiên, là loài ăn thịt, nó tiêu diệt gà, nhưng đồng thời nó tiêu diệt chuột đồng, và lợi ích của việc đó lớn hơn nhiều so với tác hại của việc tiêu diệt gà, như thế thì dù con cáo là loài ăn thịt, nhưng nó có ích.
Thế thì chim mòng cũng tiêu diệt loài côn trùng, và cũng có thể là rất có ích. Sau sự chuẩn bị như thế, tình cảm của mọi người đối với chim mòng tăng lên nhiều, và có thể kín đáo nói chêm vào rằng: trước khi bắt tay vào công việc phức tạp nghiên cứu lợi ích hay tác hại do chim mòng gây ra, thì tốt hơn nên tìm hiểu trong các sách khoa học, — vì có thể là vấn đề về chim mòng ấy đã được giải quyết từ lâu rồi. Nhưng điều chủ yếu và cần thiết thì cuối cùng đã tìm được. Té ra là những nhà vạn vật của chúng ta mổ chim để nhồi rơm rất giỏi, và chúng tôi có thể học được cách làm của các cậu. Hơn nữa, các cậu có mang theo những vòng bằng nhôm để đeo vào chân những chim di cư bay qua và thả chúng bay đi đến phương nào chúng cần đến, và ở đấy, chẳng hạn ở nơi nào đấy tại Tân Ghinê, người ta bắt chúng, — cũng như chúng ta bắt chim của họ, — như thế thì con người biết được đường bay của chim, và theo những con đường đó biết được nhiều điều trong cuộc sống của hành tinh chúng ta.
MÙA XUÂN RỪNG NÚI
MẶT HỒ ĐÃ TAN BĂNG
Trong lịch sử trái đất, cuộc sống của các hồ rất ngắn ngủi: chẳng hạn, xưa kia đã từng có cái hồ tuyệt đẹp Bêrenđêêvô, nơi phát sinh ra câu truyện cổ tích về Bêrênđây, còn bây giờ cái hồ ấy đã tàn tạ và trở thành đầm lầy. Hồ Plêsêêvô còn rất trẻ và hình như không những không bị lấp bùn và mọc cỏ, mà còn luôn luôn trẻ mãi. Ở hồ ấy, có nhiều nguồn nước mạnh, nhiều dòng nước từ rừng đổ vào hồ, còn theo dòng sông Tơrubêjơ thì cùng với nước còn lại của hồ Bêrenđêêvô, cả câu truyện cổ tích về các Bêrenđây cũng trôi qua.
Các nhà khoa học nói khác nhau về cuộc sống của hồ; tôi không chuyên môn về cái đó, không thể hiểu những giả thuyết của họ, nhưng chính vì cuộc sống của tôi cũng giống như hồ: nhất định tôi sẽ chết; cả hồ, cả biển, cả hành tinh — tất cả đều sẽ chết. Hình như chẳng có vấn đề gì phải tranh cãi nữa, nhưng vì sao khi nghĩ đến sự chết thì lại nảy ra câu hỏi vô nghĩa: “Thế thì làm thế nào?” Tôi nghĩ rằng chắc là cái đó do cuộc sống rộng lớn hơn khoa học. Không thể nào sống được chỉ độc với một ý nghĩ buồn chán về sự chết, và người ta nói lên cảm giác về cuộc sống chỉ bằng câu truyện cổ tích hoặc bằng một tiếng cười khe khẽ: “Ai cũng chết cả, còn tôi thì bằng cách nào đấy sẽ tránh được”. Những tiếng cười khe khẽ thảm hại ấy của những người riêng lẻ trước sự không thoát khỏi tận số, thì những “bêrenđây” giản dị quét sạch đi bằng đạo luật lao động vĩ đại của họ: cứ chuẩn bị để chết, nhưng lúa thì hãy cứ gieo.
Sức sống vô cùng mạnh hơn lôgich, và vì thế nên đừng sợ khoa học. Tôi không còn trẻ, luôn luôn bận rộn để chiếc bình của tôi được đầy nước, và tôi biết rằng khi bình đầy nước thì mọi ý nghĩ về sự chết sẽ vô nghĩa. Sau đây dù có thế nào di nữa, thì bây giờ sáng sáng tôi vẫn cứ hài lòng đặt ấm xamôva, chiếc ấm xamôva của tôi đã phục vụ tôi một thời gian lâu, kể từ cuộc gặp gỡ đầu tiên cho đến ngày lễ ngân hôn* của tôi với nàng Bêrenđêepna.
*Theo phong tục châu Âu, ngày vợ chồng kết hôn với nhau được 25 năm thì gọi là lễ ngân hôn, 50 năm — lễ kim hôn, 75 năm — lễ ngọc hôn. — ND.
Chỉ có điều là vào lúc ngày dài nhất, ánh sáng ban mai dậy sớm hơn tôi, nhưng dù sao thì tôi vẫn dậy trước mặt trời, khi ngay cả những “bêrendây” bình thường của đồng áng và rừng rú còn chưa dậy. Đổ ấm xamôva trên chậu gỗ, tôi lắc để tro ngày hôm qua của nó rơi ra, rót nước suối Ầm Vang vào, thắp đóm và đặt nó ngoài trời, sau khi đã bắc ống khói vào vách lâu đài, ở cửa sau. Và khi ấm xamôva sôi, thì lúc đó ngay trên sân thượng, tôi chuẩn bị sẵn hai bộ đồ trà trên bàn. Khi đã chuẩn bị xong, lần cuối cùng tôi thổi những mảnh than, pha trà, ngồi xuống cạnh bàn — và từ lúc đó không phải là tôi, một người bình thường bận rộn, ngồi cạnh bàn, mà chính là Bêrenđây đang ngắm nhìn cái hồ tuyệt đẹp của mình và đón mặt trời mọc.
Chẳng bao lâu Bêrenđêepna cũng đến uống trà, và nhìn xem mọi thứ của chồng mình có ổn cả không nàng ra lệnh:
— Lại để râu rồi, trông mà sợ, anh hãy lau ria đi.
Nàng càu nhàu quở trách Bêrenđây, và bao giờ cũng gọi bằng các bố con, như thế đặt Bêrenđây ngang hàng với các con, và Bêrenđây vui thích phục tùng nàng. Ở Bêrenđây, cái quan hệ bình thường đối với người phụ nữ, được gọi bằng danh từ vợ, đã qua rồi, và đối với Bêrenđây, vợ đã trở thành mẹ, còn các con của mình đã trở thành anh em trong nghề đi săn. Có lẽ, sẽ đến lúc Bêrenđêepna trở thành vừa là vợ, vừa là bà đối với Bêrenđây, còn các cháu là những anh em mới, — Bêrenđây đã đến dưới dạng hài nhi, thì sẽ ra đi như hài nhi, giống như trong các hồ: một số dòng nước chảy vào, những dòng khác chảy ra, và nếu ta giữ gìn cho chiếc bình đầy nước, thì cuộc sống sẽ vô tận.
Dần dần những “bêrenđây” từ trong rừng ra tập hợp lại: người mang gà trống, kẻ mang trứng, người mang nỉ dạ dệt ở nhà và những tấm đăng ten;
Bêrenđêepna chăm chú xem xét tất cả và đôi khi, mua một vài thứ gì đấy, còn chính bản thân Bêrenđây thì hỏi thăm mọi người, người nào ở đâu, làm việc gì, đất đai, nước nôi và rừng rú của họ ra sao, vui chơi trong những ngày hội như thế nào, ca hát những bài gì.
Hôm nay, có một “bêrenđây” từ tổng Pôlôvetxcơ đến và nói chuyện rằng ở vùng của họ trong rừng lầy lội có một con đường dài ba cây số bằng súc gỗ ghép lại rất cẩn thận và tha thiết mời đến thăm và ngắm nhìn con đường đã làm xong. Một “bêrenđây” khác từ Vêđômsa đến, làm nghề nấu dầu nhựa thông, kể chuyện hồi lâu ông đã chẻ một cái gốc to thành những mảnh nhỏ như thế nào, đã nấu dầu nhựa thông thuần chất, đun nhựa và dầu thông như thế nào. Một “bêrenđây” thứ ba từ Sau Sông Ái Nữ đến.
— Sau Sông Ái Nữ nghĩa là gì? — Bêrenđây hỏi.
— Ở vùng chúng tôi có một dòng sông, chúng tôi ở bên kia sông, sông đó tên là Ái Nữ.
— Dòng sông Ái Nữ, tên hay thật! — chính Bêrenđây khâm phục thốt lên.
— Vâng, — người kia hài lòng nói, — vì ở vùng chúng tôi, phía bên kia sông Ái Nữ có những cánh đồng bằng phẳng và dọc theo mương xói An Ủi có những làng trù phú: Thổi Sáo, Gọi Nhau, Gan Dạ, Chưng Diện và Ngồi Nhà.
— Còn ở vùng chúng tôi, — “bêrenđây” ở Sau Rừng từ Vêđômsa đến, nói, — thì chỉ có gốc cây, nhựa, ruồi muỗi đủ loại, và những làng nghèo xác nghèo xơ: Quỷ Quái, Đồng Quỷ, Quần Quái Vật, Tà Giáo, Nhạo Báng.
Những con sông, con suối, dòng nước, nguồn nước, những nhánh sông và thậm chí những nơi ẩm ướt — toàn bộ vùng Sau Rừng sáng rực lên bằng những đường vân hoa kỳ dị ấy. Và Bêrenđây quyết định tự mình bơi thuyền đến tất cả những nơi ấy, khi băng trên hồ Plêsêêvô đã tan hết.
Khi mặt trời đã thay màu qua tất cả các sắc ban đầu lúc rạng đông và trở nên vàng rực chói lọi, thì những “bêrenđây” tản đi, và Bêrenđây cũng biến mất.
Và lúc đó, tôi kéo màn che cửa sổ thư phòng để khỏi nắng và bắt tay vào công việc.
Chẳng hiểu vì sao hôm nay, tôi không thể làm gì được cả, mọi thứ cứ lẫn lộn, rối tung thế nào ấy. Con chó vàng Iaric ngồi trong góc đưa cặp mắt tuyệt đẹp và thông minh nhìn tôi, nó đoán chắc là tôi sẽ không ngồi lâu. Tôi không chịu nổi cái nhìn ấy và tôi bắt đầu câu chuyện triết lý với nó về con vật và con người, nói rằng con vật biết tất cả, nhưng không nói được, còn con người nói được, nhưng không biết tất cả.
— Iaric thân yêu, một nhà thông thái vĩ đại đã từng nói: cùng với con vật cuối cùng, mọi bí mật trên trái đất sẽ biến mất. Đấy, trên các đường phố Pari, những con ngựa đã biến mất rồi, và nghe nói rằng chỉ độc một mình xe ô tô thì đường phố trở nên rất buồn tẻ. Hãy xem kìa, ở Matxcơva của chúng ta, ngựa nhiều biết bao, chim trên các đại lộ nhiều biết bao, người ta nói rằng trên thế giới, không có một thành phố nào mà trên các đường phố nhiều chim đến thế. Iaric, nào, tao với mày, chúng ta hãy tổ chức trạm sinh vật của Bêrenđây ở Chiếc Xuồng Con, để tất cả cánh rừng, tất cả chim chóc, tất cả thú vật, tất cả nguồn nước của Bêrendây chung quanh khoảng chừng hai mươi lăm cây số sẽ được bảo tồn và còn lại nguyên vẹn. Trên núi Ầm Vang sẽ là trường đại học, và sẽ chỉ cho vào trường một số ít người đã tỏ ra có năng lực sáng tạo đặc biệt mà thôi, và chỉ vào trong một thời gian ngắn để chuẩn bị cho ngày hội lớn của cuộc đời mà mọi người tham gia đều sẽ vui mừng và nhất định sẽ đưa thêm cái gì đấy của mình vào thế giới của Bêrenđây, chứ không làm bẩn thế giới đó bởi những mảnh giấy gói bánh mì kẹp chả.
Tôi còn có thể nói chuyện hồi lâu với Iaric nữa, nhưng bỗng Bêrenđêepna thét lên:
— Anh ơi, hãy đi nhanh lên, ra xem cái hồ đẹp làm sao!
Tôi chạy ra và thấy cảnh tượng tuyệt vời mà không thể nào thấy lại được lần thứ hai nữa, vì rằng lần này hồ đã hiến dâng cho tôi tất cả cái gì tốt đẹp nhất của nó và tôi hiến dâng cho hồ cái gì tốt đẹp nhất của mình. Cả vòm trời với những thành phố và làng mạc, với những đồng cỏ và hành lang, với những đám mây dạng sóng trắng xóa nom như đàn cừu, cả vòm trời nằm nghỉ ở đây; trên mặt hồ phẳng lặng như gương, hình như nó đến thăm chúng tôi, thăm những con người rất gần.
Và tôi sực nhớ lại thời thanh xuân của mình, khi nàng nói với tôi: “Anh đã lấy cái gì tốt đẹp nhất của em”. Tôi nhớ lại cả điều nàng đã nói với tôi trong mùa thu, khi mặt trời từ biệt chúng ta, và lúc đó tôi giận mặt trời, tôi mua cây đèn măng sông lớn nhất và quay toàn bộ cuộc đời lại theo cách của mình.
Và kết quả của việc ấy như thế nào? Chúng tôi lặng thinh hồi lâu, nhưng một người khách của chúng tôi không chịu được sự lặng thinh đó và đã nói một cách vô nghĩa, chỉ cốt để mà nói thôi: — Các bạn có thấy không, đằng kia một con vịt đen đen.
Bêrenđêepna thở dài và cũng nói:
— Giá tôi là thiếu nữ như trước kia, khi thấy cảnh tượng cái hồ thế kia, thì tôi sẽ quỳ xuống.
Đó là một ngày vĩ đại của mùa xuân, khi tất cả bỗng trở nên rõ ràng, dễ hiểu, và vì thế mà chúng ta đã chịu đựng bao nhiêu ngày u ám, băng giá và lộng gió: tất cả những cái ấy đều rất cần thiết để sáng tạo ra ngày này.
TIẾNG CHIM TU HÚ ĐẦU TIÊN
Khi thấy mặt hồ đã tan băng thì chỉ có một việc mà thôi: không bỏ phí thì giờ vô ích, chúng tôi đi sát mép nước vào rừng và đi xa hơn vào tận rừng sâu, đến làng Diêm Thôn, ở đấy có thợ đóng thuyền làm việc.
Trên đường đi của chúng tôi; mọi việc xảy ra dường như cái khu bảo tồn mà tôi đã nói chuyện với Iaric, đã được tổ chức rồi.
Ở phía tay phải chúng tôi, ngay sát hồ, rừng thông cao vi vút reo vang, còn phía tay trái là một cánh rừng lầy lội hoang dại không vào được, dần dần trở thành một đầm lầy mênh mông, bát ngát. Trong rừng thông, trên những vệt nắng vàng, chúng tôi thấy những bóng râm lay động trên cây nham lê đỏ, và khi ngẩng đầu lên, tôi đã đoán rằng đó là những con chim bồ các đang nhẹ nhàng bay từ cây thông này đến cây thông kia, không nghe một tiếng động.
— Trước thì cứ lạnh mãi, và hôm qua trời bỗng bắt đầu ấm, — người trông rừng nói với chúng tôi.
— Dù sao thì rạng đông vẫn còn khá lạnh, — tôi đáp.
— Thế nhưng sáng sớm nay chim reo vang âm ĩ lên! Ngay lúc đó một tiếng kêu vang lên và khó khăn lắm chúng tôi mới nhận ra đó là tiếng chim tu hú kêu lần đầu tiên: tiếng kêu reo vang và hòa lẫn với tiếng rừng thông vi vút. Và thậm chí cả những chim hoa mai, những loài chim nhỏ cũng không hót, mà reo vang. Cả rừng thông reo vang, và những con chim bồ các không nghe thấy, mà chỉ phân biệt được theo những bóng râm chập chờn trên vệt nắng ở cây nham lê đỏ, đang bay từ ngọn cây này đến ngọn cây kia.
TIẾNG LÁ XANH REO ĐẦU TIÊN
Đến gần tối, mặt trời ở phía tây trên bầu trời không một gợn mây, nhưng ở phía khác có tiếng dông ầm ì trong những đám mây đen. Trời nóng nực, ngột ngạt và thật là khó biết trước được đêm nay sẽ có mưa dông hay không. Trên đám đất bỏ hoang những cây mõm chó màu xanh nở rộ, còn trong rừng thì vô số những cây me chua và đậu thơm. Lá bạch dương đượm nhựa thơm ngát, lấp lánh trong tia sáng ban chiều. Khắp nơi phảng phất mùi hoa anh đào dại. Những con cuốc và những con sếu kêu rộn ràng. Cá mè và cá giếc bơi vào gần bờ.
Khi thấy vừng hồng lớn ở phía chúng tôi, thì chúng tôi lo sợ: “Có phải đó là đám cháy ở vùng chúng ta không nhỉ?” Nhưng đó không phải là đám cháy, và chúng tôi tự hỏi như mọi khi, suốt đời tự hỏi khi thấy cái đó mà không nhận ra: “Nếu không phải đám cháy, thì cái ấy là cái gì thế nhỉ?”
Cuối cùng, hiện lên rõ rệt đường viền của cái đĩa tròn to, thì chúng tôi đã hiểu rằng đó là mặt trăng nó như thế. Ở phía sau hồ, một ánh chớp sáng bật lên hồi lâu. Trong rừng cây đã ra lá, lần đầu tiên nghe rõ tiếng lá xanh reo mỗi khi có cơn gió nhẹ thoảng qua.
CON CHIM HỌA MI ĐẦU TIÊN
Gần chỗ sông đổ vào hồ, tại cửa sông ấy, trong các bụi liễu, bỗng nhiên con vạc rống lên, nó kêu chẳng khác gì súc vật, con vạc to lắm. Hồ lại trở nên yên lặng như tờ và nước trong vắt — vì suốt ngày cơn gió nhẹ đã kịp rửa sạch nước rồi. Tiếng động khẽ nhất trên mặt nước vẫn nghe được rất xa.
Con vạc hút nước vào và cái đó nghe rất rõ, rồi “quác” một, hai, ba tiếng to, vang động, phá tan bầu không khí yên lặng. Nó im chừng mươi phút và lại “quác”. Có khi kêu đến ba, bốn tiếng, nhưng trên sáu tiếng thì chúng tôi không hề nghe.
Trước đây tôi đã nghe kể rằng có một người đánh cá trôi bập bềnh trên mặt hồ, ôm đáy chiếc thuyền độc mộc bị sóng lật sấp, vì thế tôi cho thuyền đi dọc theo bóng râm của bờ hồ, và tôi cảm thấy hình như chim họa mi hót ở đấy. Ở đâu đấy xa xa, những con sếu đang lơ mơ ngủ bỗng lầu bầu, và tiếng kêu rất khẽ, nhưng ở trên thuyền chúng tôi vẫn nghe được: ở đây đàn le le nâu kêu lên, những con le le đã đánh nhau, sau đó là tiếng kêu ồn ào đủ giọng của tất cả những giống chim loài vịt, ở đâu đấy rất gần con vịt đực đang đạp con mái. Ở chỗ này, ở chỗ kia, những cổ của con cốc trắng và con bồng bồng nhoi lên khỏi mặt nước, trông như những chiếc cọc ảo huyền. Cái bụng trắng của con cá măng nhỏ và cái đầu của con cá măng lớn đã đớp nó, nhô lên trên làn sóng màu hồng.
Sau đó, cả bầu trời bị những đám mây bao phủ; tôi không tìm thấy một điểm nào để đi cho đúng hướng, khó khăn lắm mới phân biệt được bờ tối sẫm, và lái thuyên lệch mãi về phía trái. Mỗi lần con vạc “quác” lên, thì chúng tôi ngạc nhiên vì tiếng kêu đó, cố đoán xem nó sẽ kêu mấy lần và bắt đầu đếm. Thật là lạ lùng, những tiếng kêu ấy nghe rất rành rọt từ xa hai cây số, rồi đến ba, và cứ thế tiếp tục mãi thậm chí đến bảy cây số, khi đã nghe rõ tiếng hát của vô vàn chim họa mi trên núi Ầm Vang.
NHỮNG CON BỌ RẦY
Cây anh đào dại còn chưa tàn hoa và những cây liễu sớm còn chưa kịp phát tán hạt của chúng, thì cả cây thanh lương trà, cả cây táo, cả cây keo vàng đều nở hoa — các cây đua nhau nở rộ trong mùa xuân này.
Từng đàn bọ rầy từ trong đất bắt đầu bay ra.
Buổi sáng sớm tinh mơ, mặt hồ phẳng lặng rắc đầy hạt của những cây cỏ ra hoa. Tôi chèo, và theo sau chiếc thuyền của tôi là một vệt dài trông rõ xa