🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bình Minh Mưa
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
K. PAUXTOPXK
Người dịch:
KIM ÂN và MỘNG QUỲNH
Bình minh mưa
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga
Truyện ngắn chọn lọc
Nhà xuất bản Văn học quốc gia Maxcơva, 1957 và Nhà xuất bản Công nhân Maxcơva, 1961
https://thuviensach.vn
ÂM NHẠC VÉCĐI
Có một cái gì đó thật là đẹp đẽ trong sự giao tiếp của những con người dũng cảm trong phút hiểm nguy, trong cơn hoạn nạn.
Trên boong tàu bọc thép của chiếc tuần dương hạm, đoàn kịch từ Maxcơva tới trình diễn vở Traviata ở ngoài trời.
Những bác lái đò râu bạc tụ lại ở bến thuyền lát gỗ trên những chiếc xuồng cũ kỹ rao lên bằng cái giọng khàn khàn như thúc giục: - Ai muốn lên tàu đây? Ai muốn nghe nhạc nào? Chúng tôi sẽ đứng sát ngay bên boong tàu cho tới khi diễn xong nhé! Không chòng chành gì hết - xin cam đoan! Thế này mà bảo là chòng chành à, bà con!
Những chiếc xuồng va vào nhau lủng củng gật gù hối hả chào bờ biển - Sóng nhẹ đung đưa chúng. Những con ngựa thồ gầy yếu thường có cái lối gật đầu lia lịa như vậy.
Trên vùng biển trời lặng gió, sương chiều tỏa mờ. Những ngọn đèn tín hiệu đung đưa nhịp nhàng trên nước ở gầm những mỏm đá bên bờ. Đêm mùa thu đến rất chậm, mỗi bước đi nó lại dừng lại và mãi không sao dồn hết được những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà ra khỏi vũng biển sâu.
Nhưng khi ánh sáng trên tuần dương hạm vừa lóe lên bóng tối ồn ào đã ập xuống ngay. Nó chứa đầy âm thanh của mặt nước xao động. Tiếng sóng vỗ, tiếng nước róc rách, réo sôi.
Người ta bắt đầu nghe thấy cái tất bật của thành phố cảng: Tiếng mái chèo vội vã, tiếng máy nổ, tiếng gọi vang xa của những người lái tàu, tiếng rú khoái trá của còi tàu, tiếng sóng vỗ lớp lớp chạy trên mặt biển về khắp các ngả.
Những âm thanh ấy từ bờ bến đổ về phía tuần dương hạm, nơi tiếng sáo phagốt bất ngờ vang lên trong dàn nhạc. Những chiếc ca nô vội phóng ngay lại phía đó. Bóng cờ hiệu trên mũi phấp phới trong nước.
https://thuviensach.vn
Tachiana Xônxeva phải đóng vai Viôleta. Cô đang hóa trang trong phòng của hạm trưởng, nơi các chiến sĩ thợ điện hải quân đỏ đã mắc những ngọn đèn một trăm nến, cô cài lên ngực bông hoa sơn trà và thoa phấn lên khuôn mặt gày sút đi. Biểu diễn lúc này thật khó khăn - cô để lại ở Maxcơva một chú em bé bỏng bị ốm nặng. Chú đang chờ một cuộc mổ xẻ nặng nề.
Xônxeva đang lo lắng nên không nhận ra điều gì xung quanh. Cả thành phố xôn xao tiếng lá khô và gió - cả vô số những đốm lửa chạy đi chạy lại khắp đó đây trên bến tàu với tiếng vo vo như một đàn ong, cả cái không khí kỳ lạ tỏa khắp đường phố, mùi đá ẩm ướt và mùi cỏ đắng - cuộc phẫu thuật phải tiến hành sáng hôm nay, nhưng đến giờ phút này vẫn chưa có điện báo từ Maxcơva tới.
Xônxeva bước ra boong tàu hai bên chăng vải bạt. Những chiếc cần viôlông xen gác trên những tháp pháo màu xanh. Âm nhạc Vécđi rung lên trong sự yên tĩnh của con tàu bọc thép. Hàng trăm thủy thủ trẻ trung nín thở lắng nghe tiếng hát buồn thảm của Viôleta. Tiếng nhạc vang xa đến tận các bờ biển lân cận.
Những chiếc xuồng nhấp nhô bên boong tàu. Người xem ngẩng đầu nhìn lên boong. Những bác lái thuyền cố gắng không làm mái chèo phát ra tiếng động và khi thuyền va vào nhau họ chỉ yên lặng giơ nắm đấm lên, thay cho những trận đấu khẩu thường ngày, người trợ lý của đạo diễn lo lắng đứng ở đằng sau tháp súng như ở sau cánh gà, trong tay anh ta cầm bức điện. Anh cũng không biết nên bóc ra xem hay cứ để vậy đưa cho Xônxeva sau vở diễn. Anh thì thầm trao đổi với người quản lý nhà hát, ông này giằng bức điện khỏi tay anh và bóc ra:
-Không có gì đặc biệt, - ông ta vừa nhai nhai cái tẩu vừa nói. -Cuộc phẫu thuật phải đình lại vì bệnh nhân mệt nặng, giờ nghỉ anh có thể nói với cô ấy. Người trợ lý đạo diễn nhăn mặt rồi gật đầu. Anh thợ lò Vaxia Tsukhốp mang cái biệt hiệu như mọi anh thợ đốt lò khác là "con quỷ dưới đất" được giao việc kéo chiếc màn khâu lại từ những mảnh cờ hiệu.
https://thuviensach.vn
Vaxia nhỏ bé, chắc nịch, mặt đỏ gay vì gắng sức, không rời mắt nhìn người trợ lý đạo diễn. Cái anh chàng gày xương nôn nóng này phải giơ tay ra hiệu cho Vaxia khi cần kéo màn. Vaxia đã nghe cả câu chuyện ở bên tháp pháo. Nụ cười to rộng từ từ tắt trên môi anh.
Sang màn hai Xônxeva bước ra sân khấu quá vội vàng. Cô vừa đọc bức điện lúc giải lao. Cô thấy choáng váng chóng mặt.
Khi Anfrết quì phục dưới chân cô, cô cúi xuống hôn vào thái dương non trẻ của anh. Một mạch máu xanh nổi lên thái dương, giống hệt như đứa em cô.
Xônxeva nuốt ực không khí và khóc. Nước mắt trào ra. Nhưng cô vẫn hát. Giọng cô run run. Cô nhìn thấy những đốm sáng mờ ướt át và không nhận ra đó là ánh đèn sân khấu, những vì sao trong nước, hay gương mặt mờ nhạt của các chiến sĩ hải quân.
Lúc đó Vaxia Tsukhốp hạ màn, bất chấp tiếng kêu giận dữ ở phía sau tháp pháo. Anh đã tự ý làm việc đó, không tuân theo sự điều khiển của người trợ lý đạo diễn. Đáp lại tiếng thì thào phẫn nộ của anh ta, anh trả lời giận dữ và cộc lốc:
- Anh ra mà nói với tư lệnh tuần dương hạm, tôi sẽ báo cáo mọi việc với đồng chí ấy.
Boong tàu vang lên tiếng vỗ tay. Những khán giả chất phác cho vở kịch dừng lại lúc này là hoàn toàn hợp lý, nhất là sau cái cảnh đầy đau khổ như vậy, sau những giọt lệ của Viôleta. Không ai biết là vở kịch bị "con quỷ dưới đất" cắt ngang lúc mới bắt đầu.
Tsukhốp lại gần chỉ huy tàu ngồi ở hàng đầu và báo cáo với ông về sự việc xảy ra. Tư lệnh trưởng đứng dậy. Đó là một người tóc bạc, ít nói. Trong đời mình ông đã nhiều lần nhìn thấy cái chết trong các cuộc vật lộn của cách mạng, nhiều phong ba và sự hy sinh của bao đồng đội. Ông đã từng biết sự tàn khốc trong chiến đấu, sự quyết đoán của các mệnh lệnh. Ông cô đơn. Tất cả những gì ông có trước cách mạng đều đã tan biến trong màn sương ảm đạm -cả cái xóm thợ ở mỏ Đônet, cái trường làng bẩn thỉu, và những con
https://thuviensach.vn
người của thời xa xưa ấy để lại cái ấn tượng của một đám đông hoang mang mệt mỏi. Cách mạng đã xóa bỏ quá khứ bằng bàn tay cứng rắn, mang lại cho tiềm thức sự giản dị và rõ ràng. Ông trung thành với cách mạng như một người lính, một người thợ mỏ cũ, một người có trí tuệ trong sáng và chính xác.
Tư lệnh đứng dậy đi lên sân khấu. Boong tàu vẫn vang dậy tiếng gót giày và vỗ tay của các thủy thủ.
Ở hậu trường, người phụ trách nhà hát mặt tái đi vì tức giận gặp tư lệnh. - Xin đồng chí yên tâm, - ông ta nói vội vã, -chúng tôi sẽ thu xếp ổn thỏa ngay bây giờ. Chuyện vớ vẩn, sự yếu đuối thường tình của phụ nữ đó thôi. Cô ấy sẽ hát.
Cô ấy sẽ không hát nữa. - Tư lệnh trưởng khoan thai nói, - các đồng chí cho ngừng buổi diễn lại.
Người phụ trách nhà hát nhún vai, cười méo mó:
Không thể được. Nhà hát chúng tôi làm việc theo kiểu tiên tiến không thể vì tâm trạng diễn viên mà đình vở diễn được. Cuối cùng có gì cần phải nói? Cô ấy đã trấn tĩnh và hoàn toàn có thể diễn tiếp được.
Tư lệnh trưởng nhìn Xônxeva. Cô không nhìn ông, gật đầu.
- Đồng chí cũng thấy là cô ấy đồng ý đấy, - người phụ trách nhà hát nói và vứt mẩu thuốc xuống boong tàu.
Câu chuyện này bắt đầu làm ông khó chịu. Vừa khó xử, vừa xấu hổ.
Tư lệnh thoáng nhìn mẩu thuốc và Vaxia Tsukhốp tức khắc khẽ gạt nó xuống biển.
Các đồng chí đang ở trên hạm đội của hải quân đỏ. - Tư lệnh nói, bên má có vết sẹo của ông khẽ giật giật. - Xin lỗi đồng chí, nhưng ở đây tôi
https://thuviensach.vn
là người chỉ huy, nên tôi cho phép mình can thiệp vào công việc của các đồng chí. Về công việc theo kiểu tiên tiến đồng chí quan niệm hoàn toàn sai lầm - Sự đồng ý của diễn viên không có ý nghĩa - Tôi ra lệnh hoãn buổi diễn này lại. Thế thôi. Không bàn cãi gì nữa.
Tự lệnh giơ tay và Vaxia Tsukhốp kéo màn. Các khán giả im lặng.
Các chiến sĩ hải quân đỏ! - Vị tư lệnh điềm đạm nói, - nữ diễn viên Xônxeva có chuyện không may trong gia đình. Cô biểu diễn lúc này khó khăn.
Tiếng xì xào khe khẽ lan trong hàng thủy thủ. Mọi người đứng cả dậy. Vị tư lệnh không kịp nói vở kịch hoãn lại đến một thời gian tốt đẹp hơn. Điều đó các chiến sĩ đều hiểu, không cần lời giải thích của chỉ huy.
-Cho ca nô lại đây! - Chỉ huy tàu khẽ ra lệnh.
- Cho ca nô lại gần tàu! Ca nô lại gần tàu, mệnh lệnh được truyền dần cho đến khi tắt đi ở boong dưới.
Mấy phút sau tư lệnh cùng Xônxeva xuống ca nô. Các chiến sĩ đỡ cho Xônxeva xuống thang. Anh thượng sĩ cao lớn vạm vỡ trân trọng đặt lên chỗ Xônxeva ngồi một bó hoa, đỏ mặt và khẽ kêu lên:
-Hết tốc lực, tiến!
Chiếc ca nô làm sủi lên trước mũi những thác nước đầy ánh lửa và bọt trắng, phóng về bến tàu, chỉ huy tàu ngồi trong ca nô nói:
Tôi đã liên lạc với tổng tư lệnh hạm đội. Cô được dành một chỗ trong tàu tốc hành đi Maxcơva. Chúng ta sẽ kịp. Còn bốn mươi phút nữa cơ.
Xônxeva cúi đầu. Cô lần lần những bông hoa và không nói nên lời.
https://thuviensach.vn
Thưa đồng chí chỉ huy. Tôi thấy báo chí nói là ở Maxcơva có một giáo sư mổ tim dễ như mổ gà ấy thôi. Giá tìm được ông ta! -Anh thượng sĩ nói.
- Im lặng, Kuzmenkô! - Tư lệnh nói.
Khoảng một giờ sau tàu tốc hành nhả khói ầm ầm lao ra khỏi đoạn đường hầm cuối cùng. Ánh lửa thành phố và bến tàu lùi ra sau những bờ đá dựng đứng.
Xônxeva ngồi vào phòng trong toa xe không bỏ áo rét và khăn quàng. Cô loáng thoáng nhớ lại ánh đèn nhà ga, tuyết trên các nóc toa chở hàng. Maxcơva chìm trong bóng đêm cực đới. Chiếc xe tắc xi cũ kỹ, ánh sáng trắng đục trong hành lang bệnh viện, cô cũng nhớ loáng thoáng khuôn mặt của cậu em mỉm cười với cô trên giường bệnh.
-Tất cả đã diễn ra thật may mắn. - Vị giáo sư có bộ râu nhọn nom dữ tướng nói với Xônxeva. - Thật là một trường hợp may mắn hiếm có.
Xônxeva khẽ hôn lên thái dương ướt đẫm non trẻ của em, một đường ven xanh mảnh nổi lên mờ mờ và mấy giờ sau lại là đêm, là nhà ga, người phu khuân vác mặt rỗ, chiếc vé xe lửa khó nhọc mới kiếm được, tiếng loảng xoảng rầm rầm của những nhịp cầu sắt, tuyết, hoàng hôn u ám trên thảo nguyên ngoài Kharcốp. Và cuối cùng là màn sương lam trên những vùng biển sâu, mặt trời mọc cao và không khí dịu dàng của mùa thu ven biển.
Xônxeva nhảy lại gần cửa sổ - kia chiếc tuần dương hạm vẫn đậu đó, chưa rời bến! Xônxeva vội vã dứt dây chằng cửa sổ. Cô muốn thò đầu ra ngoài, vươn bàn tay tới tận con tàu vẫy nó rối rít bằng chiếc khăn tay trắng. Nhưng cửa sổ không mở ra được, và Xônxeva nhớ ra rằng đang là mùa đông và mặt trời chiếu sáng ở đây, trên những vĩ tuyến ở tít miền nam tuyệt đẹp này, là kỷ niệm cuối cùng của mùa hè. "Mong sao đoàn chưa đi nơi khác, chỉ mong đến kịp với họ" - Xônxeva nghĩ thầm.
Cô gặp lại các bạn bè trong thành phố bên bờ biển.
Một ngày sau trên chiến hạm trình diễn lại vở kịch bị bỏ dở. Khi "con quỷ dưới đất" kéo màn và Xônxeva bước ra sân khấu, các chiến sĩ hải quân đứng
https://thuviensach.vn
cả dậy và tiếng vang của những tràng vỗ tay chưa tùng thấy dội đến khắp cả vùng bờ chung quanh. Những bông hoa đồng nội giản dị rơi tới tấp xuống chân Xônxeva và hòa lẫn với đám nhung lụa bộ trang phục cổ thành Vơnidơ. Tư lệnh đứng ở hàng đầu và thân ái mỉm cười.
Xônxeva cúi đầu. Cô cảm thấy mi mắt nặng trĩu những giọt lệ như lần trước, nhưng đây là những giọt lệ của tình bạn, của lòng biết ơn và cô dằn lòng, ngẩng đầu lên, mỉm cười. Ngay lúc đó dàn nhạc lên tiếng và âm nhạc truyền cảm của Vécđi đã át cả tiếng sóng vỗ.
Xônxeva rút bông sơn trà cài trên ngực ném xuống sàn. Thay vào đó cô cài bông hoa màu tím nhạt bám đầy bụi và khô héo. Đó là bông hoa vùng đất ngoại thành mà Vaxia Tsukhốp đã ném lên tặng cô.
- Cô đã hát một buổi tuyệt vời - giọng hát lanh lảnh trầm bổng trên vùng biển. Những người đánh cá già ngồi ở trên bờ, sát mạn nước. Họ nghe và phải kinh ngạc vì sức mạnh của tuổi trẻ con người. Chỉ huy trưởng lắng nghe và thầm nghĩ là không có gì làm cho tài năng nẩy nở bằng tình bạn và sự quan tâm giản dị của những người đồng chí.
Tưởng chừng như Viôleta đang hát giữa quê hương Vơnidơ của cô, ánh sao tỏa mờ trên những tảng đá bên bờ. Ánh đèn rung rinh tỏa tới tận đáy vịnh. Nước trong đến như vậy. Không khí rung rinh vì những dòng nước nóng không nhìn thấy. Chân trời trên biển cả tuy đã về đêm, vẫn sáng lên hàng chục hải lý như hoàng hôn mới vừa đổ xuống.
Sau vở kịch các chiến sĩ hải quân vây quanh Xônxeva nhưng bỗng nhiên họ kính cẩn nhanh chóng dãn ra. Một người cao lớn tay áo có những vòng viền vàng rộng lại gần Xônxeva. Vị tư lệnh của toàn hạm đội.
-Tôi muốn thay mặt toàn hạm đội cảm ơn đồng chí. - Ông nói. - Đồng chí đã mang lại niềm vui cao quý cho chúng tôi - Thế còn cậu em, đã khỏi rồi chứ?
Xônxeva muốn nói rằng: không phải cô, mà chính những chiến sĩ trẻ tuổi xạm nắng này khi thì đùa cợt, khi thì nghiêm trang, nhưng bao giờ cũng bình tĩnh và đầy thiện ý - đã cho cô được hưởng một niềm hạnh phúc thực sự. Cô
https://thuviensach.vn
nghĩ rằng, với những khán giả như thế, thì đến cả Môda, cả Betôven cũng phải ghen tỵ. Nhưng cô không nói được gì, cô chỉ siết chặt, siết mạnh đến đau cả tay vị tư lệnh hạm đội.
Gió mới từ biển thổi vào, nơi những ngọn hải đăng xa nhấp nhánh trong bóng tối, trong tiếng rì rầm của những lớp sóng bạc đầu.
MỘNG QUỲNH dịch
https://thuviensach.vn
CÂY TƯỜNG VI
Đêm, sương mù trùm lên mặt sông, con tàu không thể đi được nữa vì qua màn sương không còn nhìn thấy đâu là phù tiêu, đâu là đèn hiệu.
Tàu ghé mũi vào một mạn bờ dốc và tắt máy, chỉ còn nghe thấy tiếng cầu treo vừa quăng lên bờ kẽo kẹt nhịp nhàng, những người thủy thủ xuống bờ theo nhịp cầu này kéo dây neo ở đầu mũi tàu lên để cột vào một cây liễu già trên bờ.
Masa Klimôva chợt tỉnh giấc lúc nửa đêm. Bốn bề lặng lẽ đến nỗi cô không nghe thấy rõ ràng tiếng ngáy của một hành khách trong một căn buồng ở tận đằng xa.
Masa ngồi trên giường ngủ. Qua khung cửa sổ mở ngỏ không khí tươi mát đưa vào mùi lá liễu dịu ngọt.
Những bụi cây mờ mờ trong sương, rạp xuống trên boong tàu. Masa có cảm tưởng như con tàu không rõ vì sao bỗng dưng mọc lên giữa mặt đất, giữa những bụi cây rậm rạp. Rồi sau nghe tiếng nước róc rách nhẹ nhàng cô đoán ra rằng con tàu dừng lại ở bên bờ sông.
Trong bụi cây một âm thanh vang lên ríu rít rồi ngừng bặt. Một lát sau lại vang lên rồi lại tắt ngay. Hình như một người nào đó muốn thử thách cái yên tĩnh và độ nhạy cảm âm vang của đêm khuya. Thế rồi những âm thanh chuyển thành tiếng hát trầm bổng kéo dài, cắt ngang bằng một tiếng huýt gió ngắn gọn. Và đáp lại tiếng huýt ấy, lập tức hàng chục giọng chim cất vang lên và bất thần tiếng hót của bầy chim họa mi bỗng rộ lên, bát ngát lướt đi trên các lùm cây.
Nghe thấy không, Egôrốp? - Tiếng một người có lẽ ở bên trên cầu chỉ huy hỏi xuống.
Một cuộc đua tiếng của họa mi như vậy ngay cả ở Sêchxna cũng chưa từng có bao giờ! -Một giọng khàn khàn từ phía dưới trả lời lên.
https://thuviensach.vn
Masa mỉm cười. Cô chìa đôi bàn tay ra phía trước. Đôi tay cô đen sạm lại trong bóng đêm mờ nhạt, chỉ có những móng tay lấp lánh trắng ở đầu ngón.
Không hiểu tại sao mình lại buồn thế này nhỉ? - Masa cau mày tự hỏi khe khẽ, - có lẽ tại mình đang chờ đợi một cái gì chăng? Mà chờ gì, chính mình cũng không biết nữa.
Masa chợt nhớ rằng bà của cô vẫn thường nói với cô về cái buồn khó hiểu ở lứa tuổi thiếu nữ.
- Toàn chuyện tầm bậy thôi! -Cô tự bảo -Mình chả tin cái nỗi buồn thiếu nữ vớ vẩn ấy được. Cuộc sống tự lập của mình đang bắt đầu, và vì thế mình mới có vẻ lo sợ ít nhiều đấy thôi mà.
Masa vừa tốt nghiệp đại học lâm nghiệp ở Lêningrát và cô đang đi về vùng hạ lưu sông Vônga để trồng rừng cho một nông trường.
Rõ ràng là Masa đã tự dối mình khi cô nói chỉ thoáng lo sợ ít nhiều thôi. Thực ra thì cô sợ quá đi là đằng khác. Masa hình dung thấy mình đã tới khu vực làm việc như thế nào và ông phụ trách chắc chắn phải là một người cau có, bụi đầy người, mặc chiếc áo vét đen túi roãng cả ra, và đi đôi ủng bùn lấm bê lấm bết. Ông ta sẽ nhìn chằm chằm vào mặt cô; cái nhìn ấy sẽ dừng lại trên đôi mắt xám của cô (theo Masa thì mắt cô hệt như những quả bi bằng thiếc), dừng lại trên những bím tóc của cô và ông ta sẽ nói một mình: "Khéo chưa! Những cô ả tóc tết đuôi sam! Ở đây chỉ còn thiếu cái thứ ấy nữa thôi! Hẳn là rồi đây, chị chàng sẽ lôi sách vở ra bằng hết cho mà xem. Chúng tôi còn phải lo nhiều chuyện khác kia, khi gió hanh từ Axtrakhan thổi tới thì cô bạn thân mến ơi, sách vở của cô ở đây không ích lợi gì cho cô lắm đâu".
Nhưng, trong chuyến đi dài này, cô đã dần dần quen đi với cái ý nghĩ rằng người phụ trách cô sẽ là một người cau có, mặc áo vét đen, rồi cuối cùng cô không thấy sợ ông ta nữa. Tuy nỗi buồn của cô vẫn chưa dứt.
Masa không biết rằng đấy không hẳn là cái buồn, mà là một cảm giác chưa có tên gọi đích xác: cái cảm giác lòng ta se lại trước một tương lai chưa
https://thuviensach.vn
biết rõ, trước vẻ đẹp giản dị của đất nước với những dòng sông, những màn sương mù, những đêm sâu thăm thẳm và tiếng lá liễu rì rào bên sông.
Masa vẫn không tài nào ngủ được. Cô mặc áo vào và lên boong tàu. Sương đêm phủ đầy mọi vật: từ tay vịn cầu thang, lan can tàu có chấn song sắt đến ghế dài và những chiếc ghế mây.
Có tiếng nói chuyện lầm rầm từ khoang lái đằng sau vọng tới. Một anh chàng thủy thủ trẻ đang kể chuyện.
-Tớ mới bảo ông lão thế này: "Bố già ơi, bố để lại một tí cho con hút nhờ với chứ". Ông lão bèn đưa mẩu thuốc còn lại cho tớ. Tớ nuốt một hơi rồi lại nói với cụ: "Này bố già, vậy chứ ban đêm bố làm gì ở ngoài đồng thế?" "Lão canh bình minh", ông lão trả lời vậy rồi cười phá lên. "Có thể đó là buổi bình minh cuối cùng lão được chứng kiến ở trên đời. Điều ấy chú không hiểu nổi đâu, chú còn trẻ lắm!"
Đám thủy thủ im không nói nữa. Chim họa mi lại cao tiếng hót trong những rặng cây.
Masa tì tay lên thành cầu. Xa xa trong tăm tối những con gà trống đã cất tiếng gáy. Ở đằng kia, phía sau màn sương mù, chắc hẳn là một làng quê. "Gà gáy canh một hay canh hai đấy nhỉ?..." Masa suy nghĩ mà cũng không biết được gà gáy lần thứ nhất và lần thứ hai là mấy giờ. Cô đã đọc hàng chục cuốn sách nói về điều đó, nhưng cô đã quên mất cả rồi.
Bà của Masa, vợ góa một thuyền trưởng chuyên chạy đường sông đã thuyết phục Masa nên đi tàu thủy. Masa hài lòng là đã nghe lời khuyên của bà. Sau khi đi theo sông Nêva với dòng nước xanh thẳm gần ngả sang màu đen, con tàu đã xuyên qua hồ Lagôđa, và Masa lần đầu tiên đã nhìn thấy nước hồ xam xám và những ngọn hải đăng bằng đá trên những mũi đất thấp trên hồ. Cô đã được thấy con sông Xvirơ hung dữ, những cửa sông ngăn nước trên sông đào Mariinxki, những bờ sông phủ đầy những bụi rậm nhỏ và những cây mộc tặc; và tất nhiên là thấy cả những chú bé đứng trên bến tàu tay cầm những chiếc cần câu cong queo câu cá chép, vẻ mặt trầm ngâm.
https://thuviensach.vn
Hành khách thay nhau lên xuống tàu; Masa thấy mỗi người đều có một vẻ hay hay. Tới Bêlôderxcơ, một phi công trẻ tuổi mái tóc đã trắng bạc bước xuống tàu. Có lẽ anh ta vừa về Bêlôderxcơ, nghỉ ở nhà mẹ; mẹ anh là một bà cụ người nhỏ bé, mảnh khảnh, mặc áo vải hoa màu xám; bà lão tiễn chân con ra tàu và đứng khóc thút thít ở trên bến. Anh phi công đứng trên boong tàu nói với mẹ:
- Mẹ đừng quên, mẹ nhé: con đã móc con cá con câu được ở sau cầu thang nhỏ trong hầm nhà kho ấy. Mẹ cho con mèo Vaxca một con cá rô nhé! - Mẹ sẽ không quên đâu, Pasa ạ, không quên đâu - bà mẹ gật đầu nói vậy, đưa chiếc mùi xoa vo tròn lên, lau mắt.
Anh phi công vừa mỉm cười vừa nói đùa, nhưng anh vẫn không rời mắt nhìn bà cụ và má anh cứ giật giật hoài.
Sau đó, một đoàn diễn viên lên tàu. Họ trổ tài ăn nói làm ầm ĩ cả lên. Và trong nháy mắt đã làm quen với tất cả các hành khách trên tàu. Chiếc dương cầm kê trong phòng khách đã ướt đẫm vì sương, nay lại suốt ngày vang lên không một phút nào ngơi.
Một ca sĩ có tuổi, dáng linh lợi, mặt choắt lại, hát nhiều hơn tất cả những người khác. Masa kinh ngạc nghe bác ta hát. Chưa bao giờ cô được nghe những bài hát như vậy. Nhất là một ca khúc Balan, bác ta nhắc đi nhắc lại luôn. Bài hát kể lại một anh ăn trộm si tình không đánh cắp nổi cho người yêu một ngôi sao trên bầu trời đêm, nên đã bị nàng xua đuổi.
Mỗi lần chơi xong bài ca đó, bác diễn viên đậy nắp dương cầm lại và nói:
- Ngụ ý của bài hát này thật rõ ràng. Hãy rộng lượng với những kẻ yêu. Xin đừng tranh cãi! Ý kiến chính xác đấy!
Rồi bác ta sửa lại ngay ngắn chiếc cà vạt đen, ngồi vào bàn gọi bia và món cá vôbơla ưa thích của bác ta.
Đến Tserepôvetx thêm một tốp sinh viên khoa kiến trúc xuống tàu. Họ từ tu viện Kirinlô-Bêlôderxcơ trở về Maxcơva, họ đến tu viện này để đo đạc và vẽ phác họa sơ đồ các công trình kiến trúc cổ. Suốt chuyến đi trên tàu, mấy anh sinh viên cứ thảo luận mãi về những hòn đá chạm trổ, về những vòm
https://thuviensach.vn
nhà thờ, về Anđrây Rubơlep (1) về những ngôi nhà chọc trời ở Maxcơva. Nghe họ nói chuyện Masa chỉ đỏ mặt lên vì sự dốt nát của mình về vấn đề này.
Sau khi những chàng sinh viên này xuất hiện, nhà danh ca có tuổi trở nên bớt ầm ĩ hơn, không hát bài ca Balan về gã ăn trộm nữa và suốt ngày ngồi ở trên boong cắm cúi đọc cuốn sách "Đời tôi trong nghệ thuật" của Xtanilápxki(2). Bác ta phải đeo kính để đọc sách và mặt bác bỗng già đi và có vẻ hiền lành ra. Đến lúc ấy Masa mới thấy rõ rằng tất cả những tràng thuyết lý huênh hoang của bác ta chỉ là kết quả của một thói quen nhà nghề lâu đời và con người ấy tốt hơn cái vẻ cố làm ra bộ của bác ta nhiều lắm.
Giờ này, các hành khách, anh phi công, nhà danh ca và đám sinh viên đều đã ngủ yên. Một mình Masa ở trên boong tàu, lắng tai nghe những tiếng động ban đêm và cố gắng đoán ra đó là những tiếng gì.
Một tiếng ầm ì xa xa vẳng lên trong bầu trời, rồi từ từ tắt dần. Có lẽ trên lớp sương mù một chiếc máy bay bay đêm vừa đi qua. Một con cá quẫy mạnh ở gần bờ, rồi từ ở đâu xa xa tiếng tù và mục đồng nổi lên. Tiếng tù và vang đến từ rất xa đến nỗi đầu tiên Masa không hiểu những tiếng ngân dài và du dương đó là tiếng gì.
Có ai quẹt một que diêm đằng sau Masa. Cô quay lại. Anh phi công đứng sau lưng cô châm thuốc hút. Anh vứt que diêm xuống nước: nó từ từ rơi qua làn sương mù với một đốm lửa bao ngoài một lớp hơi lung linh màu cầu vồng.
- Những con chim họa mi không còn cho ai ngủ nữa, -anh phi công nói. Không nhìn anh, Masa cũng đoán được là anh mỉm cười trong bóng tối. - Thật y như bài hát "Họa mi ơi, đừng quấy rầy những người lính, hãy để cho anh lính được ngủ yên..."
Tôi chưa bao giờ được nghe họa mi hót như thế này. - Masa nói.
Chị hãy đi đây đi đó một chút trong liên bang xem, chị sẽ biết nhiều điều thú vị hơn thế nữa. - Anh phi công trả lời. - Thật là một đất nước
https://thuviensach.vn
có một không hai, cả trong mơ cũng không thấy được nơi nào như vậy.
- Có lẽ đó là vì anh thường bay trên trời, cô gái nói, - và dưới cánh máy bay, cảnh vật trên mặt đất luôn luôn biến đổi.
Tôi không nghĩ thế, - anh phi công trả lời. Yên lặng một hồi lâu, cuối cùng anh nói: - Trời hửng sáng rồi. Nền trời phương Đông đã trở nên xanh nhạt. Chị về đâu?
- Về Camưsin.
Tôi biết vùng ấy. Một thành phố trên sông Vonga. Nóng bức, nhiều dưa hấu, lắm cà chua...
- Thế còn anh?
- Xa hơn nữa kia, - anh trả lời.
Anh đứng tì tay vào thành tàu và ngắm cảnh rạng đông vừa ló. Lúc này tiếng tù và đã ngân lên và gần hơn. Trời nổi gió. Màn sương mù lay động và gió cuốn trôi đi từng mảng trên mặt sông. Những bờ bụi hiện ra, ướt đẫm sương đêm và ở giữa nhô lên một túp lều mái lợp bằng những cành liễu kết lại với nhau. Bên cạnh là một mồi lửa bốc khói nghi ngút.
Masa cũng đứng ngắm bình minh. Trên nền chân trời vàng ánh ngôi sao cuối cùng lấp lánh sáng như một giọt bạc.
"Bắt đầu từ hôm nay - Masa tự nhủ - mình sẽ sống khác hẳn. Từ trước đến nay, mình chả nhận xét được gì cả. Từ giờ trở đi mình sẽ để ý, ghi nhớ tất cả và sẽ giữ lại mãi trong lòng."
Anh phi công quay lại phía Masa.
- Cô gái lại tư lự gì rồi, - anh nghĩ bụng. Anh quay mặt đi rồi lại ngó Masa lần nữa.
https://thuviensach.vn
Anh nhớ tới một câu trong cuốn tiểu thuyết đã đọc từ lâu: "Trên đời không có gì đẹp hơn cặp mắt của trẻ em và các cô thiếu nữ vào lúc ban mai. Trong những cặp mắt đó, đêm vẫn còn sẫm bóng nhưng ánh nắng sớm đã ngời lên".
"Câu ấy cũng không đến nỗi ngớ ngẩn lắm", anh phi công nghĩ vậy. Ông thuyền phó, một người có bộ mặt dầu dãi phong sương, mặc áo choàng bằng vải bạt, từ trên đài chỉ huy chạy xuống.
- Cô không ngủ à? - Ông ta vui vẻ nói với Masa. Một giờ sau tàu mới nhổ neo. Cô có thể lên bờ dạo chơi một lát.
- Có lẽ tôi xuống chơi thật, - Masa vừa nói vừa quay lại phía anh phi công, - tôi sẽ hái một ít hoa luôn thể.
- Được lắm, ta cùng đi.
Họ đi qua cái cầu treo rung rinh bước xuống bờ sông. Một ông già từ trong lều chui ra; đây hẳn là ông cụ thức đêm không ngủ để rình xem bình minh. Ngay lúc đó mặt trời đã nhô khỏi đám sương mù. Cỏ mọc xung quanh xanh thẫm như mặt nước lặng lờ và sâu thẳm. Giá lạnh buổi đêm toát lên từ đám cỏ.
- Bố làm gì đấy, bố già? - Anh phi công hỏi.
- Lão làm nghề đan lát, - ông lão trả lời với nụ cười ngượng ngập. -Lão cứ thủng thỉnh đan cái đơm cái đó, đan giỏ đựng khoai tây cho nông trường. Thế còn anh chị, lại đi xem cánh đồng đấy hẳn?
- Dạ vâng, chúng cháu cũng muốn thăm cảnh đồng quê một chút. - Sao mà cô cậu vội vàng thế, - ông già vừa nói vừa cười. - Lão đã ở bảy mươi năm trên cánh đồng này rồi thế mà lão vẫn chưa kịp xem cho hết đấy. Các cháu cứ theo con đường mòn này đến tận cây cội dương đằng kia kìa. Nhưng chớ có đi xa hơn. Ở đấy cỏ mọc cao hơn đầu người; sương sẽ trút xuống, quần áo cứ gọi là hong đến tận tối vẫn chưa khô đâu. Cái thứ sương ấy, có thể hứng đầy hàng bình mà đem uống được...
- Bác đã uống sương rồi à? -Anh phi công hỏi.
https://thuviensach.vn
- Tất nhiên rồi! Cái ấy bổ lắm.
Masa và anh phi công thong thả đi theo con đường nhỏ. Masa đi đến tận chỗ con đường vòng quanh một cây cội dương đã héo khô thì dừng lại. Hai bên đường, những cây tường vi mọc cao lút thành một bức tường dựng đứng. Hoa tường vi nở còn ướt át, đỏ rực như những ngọn lửa, đến nỗi những tia nắng nằm trên vùng lá bên những bông hoa tường vi cũng trở nên lạnh lẽo và nhợt nhạt hơn. Tưởng như những đóa hoa tường vi đó đã vĩnh viễn đứt lìa khỏi những cành đầy gai góc và lơ lửng trên không như những ngọn lửa nhỏ rực rỡ. Trong rặng tường vi, những con ong vàng vằn đen cần mẫn bay vo vo.
-Những chàng hiệp sĩ Xanh Gioocơ, - anh phi công nói.
Thực vậy, trông bầy ong giống như những dải băng ngắn của những chiếc mề đay Xanh Gioóc ngày xưa. Và bọn ong này cũng dũng cảm như những chàng chiến sĩ dạn dày chiến trận, chúng chẳng sợ người, lại còn sẵn sàng gây gổ với người nữa.
Từng quãng một, những bụi tường vi lại cắt quãng bằng những bụi hoa cựa gà nở rộ chĩa lên những bông hoa hình nến màu xanh sẫm gần như màu đen. Phía sau, cỏ và hoa đủ các loại khác nhau mọc lên, quấn quít vào nhau, lấp lánh gờn gợn như những làn sóng đầy nắng, cả một khu vườn um tùm trăm hồng nghìn tía: xa trục thảo đỏ và trắng, hoa hồng tử thái, hoa cẩm quì dại, ánh sáng rọi vào cánh hoa trong suốt hồng lên, hoa cúc trắng như tuyết và hàng trăm thứ hoa khác mà Masa và anh phi công không biết tên là gì.
Những con cun cút phành phạch vụt bay lên từ dưới chân. Một con gà nước núp dưới cái hốc ẩm ướt của một thân cây đã chết, cất tiếng kêu cùng cục, nhạo báng tất cả mọi chuyện trên đời. Đàn sơn ca run rẩy bay lên không, nhưng tiếng hót của chúng lại không từ nơi chúng đang bay lên mà như từ phía sông đưa lại. Còi tàu lên giọng cụt lủn rồi rú lên thật to, gọi Masa và anh phi công trở về.
-Biết làm thế nào nữa chứ? - Masa bối rối nhìn đám hoa. - Làm thế nào bây giờ?
https://thuviensach.vn
Cô dùng cả hai bàn tay vơ vội từng ôm hoa. Tiếng còi tàu lại rú lên, lần này có vẻ sốt ruột và bực dọc.
- Cái gì vậy? - Masa tức giận nhắc lại; và, quay đầu về phía đám khói đang từ ống khói tàu bay lên trên đám sương mù, cô kêu to: "Về ngay đây! Chúng tôi về ngay đây mà!".
Họ đi nhanh về phía tàu thủy. Áo váy của Masa ướt đẫm sương, lết quết đập vào chân cô. Đôi bím tóc búi lại đằng sau gáy đã tuột ra và rớt xuống lưng. Anh phi công đi đằng sau cô gái. Vừa đi anh còn lấy dao cắt được vài cành hoa tường vi; toán thủy thủ đang đợi họ để kéo cầu, liếc mắt nhìn bó hoa. Trong đám người ấy, có tiếng nói:
- Việc làm hay đấy! Đến hết cả hoa ở cánh đồng mất. Nào, Xêmiôn, làm một mạch đi!
Người thuyền phó đứng bên trên nói lớn:
- Đem hoa vào phòng khách cho tất cả mọi người cùng hưởng với. - Rồi ông cầm chiếc loa ra lệnh: - Đi nào! Từ từ thôi!
Những chiếc bánh lái nặng nề quay, chân vịt khuấy nước sùi bọt và bờ sông xa dần trong tiếng lá xào xạc.
Masa cảm thấy bịn rịn phải xa cái bờ sông này, với cánh đồng hoa, với mái lều và ông già đan lát nọ. Tất cả cảnh vật ở đây trở nên thân thuộc đối với cô hệt như cô đã lớn lên ở đây, và ông lão kia là người đã nuôi nấng, dạy dỗ cô.
"Thật lạ lùng, - Masa vừa nghĩ vừa bước chân lên cầu thang dẫn đến buồng khách. - Mà mình có biết đây là đâu, thuộc trấn nào vùng nào và mình đang ở gần thành phố nào đâu."
Buồng khách lạnh lẽo và rất sạch. Mặt trời chưa kịp sưởi ấm những bức tường gỗ nhẵn bóng, những chiếc bàn nhỏ và chiếc dương cầm bằng gỗ bồ đào.
Masa sắp lại mớ hoa để cắm vào cái bình. Anh phi công mang từ chỗ cầu giá lên một xô nước lạnh.
https://thuviensach.vn
- Ở Bêlôderxcơ, mẹ tôi có một khu vườn anh vừa nói vừa giúp Masa cắm hoa. - Vườn nhỏ thôi, nhưng cơ man nào là hoa. Nhất là hoa cúc vạn thọ.
Ở Bêlôderxcơ, chắc anh đã nghỉ ngơi thỏa chí chứ? - Masa hỏi.
Cũng khá. Tôi đọc sách và sửa sang lại cuộc đời mình. Ở Bêlôderxcơ còn biết làm gì khác nữa?
Thế nào? "sửa sang" là thế nào? -Masa ngạc nhiên hỏi lại.
Tôi đã ghi chép tất cả những gì tôi trông thấy, làm được và suy nghĩ được. Thế rồi tôi kiểm lại xem tôi sống đã đúng chưa, tôi đã lầm lẫn những gì; và tôi soát lại xem trong thời gian gần đây cuộc đời đã mang lại cho tôi những gì?
- Và rồi sao nữa? - Masa hỏi.
- Từ nay, quá khứ thế là rõ ràng, - anh phi công trả lời. - Tôi lại có thể sống tiếp với một đầu óc trong sáng.
- Tôi quả không ngờ ở đời lại có những việc như thế đấy, - Masa thì thầm và chăm chú nhìn anh phi công.
- Chị cứ thử xem, - anh mỉm cười khuyên Masa. - Chị sẽ ngạc nhiên thấy cuộc sống của mình tràn đầy đến thế!
- Hoan hô! - Một tiếng nói quen thuộc vang lên đằng sau Masa. Cô quay lại.
Nhà danh ca già đứng trên ngưỡng cửa, mặc bộ quần áo ngủ màu xanh lơ, mép trong ống tay áo lật lên màu nâu nâu, với một chiếc khăn bông vắt trên vai.
- Hoan hô! - Bác ta nhắc lại. - Tôi rất thích những cuộc trò chuyện buổi sáng. Sáng dậy những ý nghĩ của ta cũng sạch sẽ như bàn tay ta vừa rửa.
-Xin bác thôi đi cho, - anh phi công nhăn mặt nói, có vẻ không bằng lòng. - Phải, toàn là chuyện vớ vẩn cả! - Người diễn viên nói. - Anh đừng giận nhé. Tôi vô tình nghe lỏm câu chuyện của các bạn và tôi muốn góp vào một
https://thuviensach.vn
đôi câu, một chân lý không thể nào chối cãi được, cái chân lý tôi chỉ vừa mới hiểu ra, có thể nói là mãi đến trót đời tôi mới hiểu ra đấy.
Cái chân lý vĩ đại đó thế nào? - Anh phi công hỏi.
-"Tôi không ưa giọng mỉa mai của anh đâu"(3)- bác diễn viên cố tình đọc câu thơ bằng một giọng ấp úng của một chàng ngâm thơ tồi. Bác nói tiếp. - Một chân lý rất giản đơn: mỗi ngày trong đời đều có một cái gì tốt lành. Và cả thi vị nữa. Và mỗi khi ta sửa sang lại cuộc đời mình, như anh vừa nói, thì bất giác, ta hay nhớ đến cái nội dung thơ mộng và thông tuệ ấy của nó. Thật tuyệt diệu! Và lạ lùng làm sao. Tất cả chung quanh ta đều tràn đầy thơ. Hãy tìm cho ra nguồn thơ ấy! Đấy là lời chúc già lão của tôi cho các bạn tới muôn đời! Xin đừng có cãi lại! Chấm hết!
Bác diễn viên cười và bước đi, Masa bỗng trở nên tư lự, lòng thầm nghĩ rằng mọi vật quanh cô quả thật rất bình thường, nhưng cũng rất kỳ lạ. Ở Lêningrát, ở trường đại học, điều đó không biểu lộ ra rõ rệt như trong chuyến đi này. Có lẽ đây chính là cái chất thơ bấy lâu vẫn bị che lấp đi, nay mới nở ra trước mắt, cái chất thơ chứa đựng trong từng ngày của cuộc sống.
Hết ngày lại ngày gió thổi trên sông Vonga. Từng luồng hơi xanh xanh lan đi như những làn sóng trong vắt trên suốt mặt sông và dọc sườn tàu. Masa có cảm hứng như làn gió kia vừa đùa giỡn vừa lần lượt cuốn trôi theo tất cả những ngày hè đẹp đẽ này. Và khi chiều đến gió lại dịu dần. Nước sông Vonga trôi đi trong màn đêm kéo dài.
Chỉ còn những ánh đèn của con tàu như dứt ra từ trong bóng đêm ấy một vòng tròn nhỏ trên mặt nước được chiếu sáng.
Masa cảm thấy sung sướng, nhưng đôi lúc lại vẫn thấy buồn. Cô không sao làm quen được với cái ý nghĩ là cuộc đời mới của mình đã bắt đầu một cách tốt đẹp như thế, một ngày kia lại có thể đổi khác đi được.
Đến Camưsin, Masa xuống tàu. Cơn gió kéo đến dâng lên một lớp sương mù vàng vàng trên mặt sông Vonga.
https://thuviensach.vn
Anh phi công và bác ca sĩ già tiễn Masa lên bến.
Masa bối rối từ biệt anh phi công.
Anh phi công không biết nói gì, trở lên tàu và dừng lại ở trên boong; từ chỗ đó anh nhìn xuống chỗ bác diễn viên đang chia tay với Masa. Bác ca sĩ ngả mũ ra, nắm lấy tay Masa trong tay mình và đưa cặp mắt nhăn nheo đang cười, đăm đăm nhìn cô.
- Cô sẽ hạnh phúc, - bác ta nói. - Nhưng hạnh phúc của tôi còn lớn hơn. Bởi vì tôi đã già rồi.
- Bác nói gì vậy? - Masa hỏi.
- Cô không thể hiểu được cái niềm hạnh phúc của người không còn trẻ nữa. - Bác diễn viên nói một cách văn hoa. - Cái hạnh phúc được nhìn thấy những giọt nước mắt của nàng Đexđêmôna(4) yêu kẻ khác.
Bác buông tay Masa ra và đi giật lùi về phía cầu treo, đầu vẫn để trần. Còi tàu rúc lên lần thứ ba và tàu mở máy chạy.
Gió từ sông thổi vào mặt Masa mang tới mùi dầu hỏa. Một ông già nhỏ bé có bộ ria bạc trắng, xoắn xuýt quanh Masa và nhắc khẽ: "Cô để tôi mang hành lý cho cô nhé!". Nhưng cô không nghe thấy tiếng ông cụ. Thấy vậy ông già nhỏ bé lảng ngồi sang một chiếc ghế gỗ dài, thận trọng châm một điếu thuốc lá đợi cho Masa bớt xúc động.
Cách một ngày sau Masa đã sống xa Camưsin trong một toa tàu nhỏ lưu động đỗ ở trong thảo nguyên, gần một cái đầm có bờ đất sét trơ trụi bao quanh. Toa tàu nhỏ này được mệnh danh là văn phòng nơi trú ngụ của các nhân viên ở khu vực gây rừng của nông trường.
Người phụ trách khu vực không mang bộ quần áo phủ đầy bụi và mặt mày cũng không cau có, ngược lại là một người rất hoạt bát và thích pha trò. Nhưng không khí ở khu vực này từ ngày Masa đặt chân tới đã không bình lặng chút nào. Ai nấy đều lo lắng. Những hạt dẻ vừa nhận để gieo liệu nó mọc lên được không? Sắp đến mùa gió khô từ phía đông nam thổi tới; và một lớp sương mù óng ánh như thủy tinh đã thấy trải dài bên kia sông. Ai
https://thuviensach.vn
nấy đều luôn miệng nhắc tới cái đám đất muối, thứ rêu độc của thảo nguyên, thứ đất sét vàng lấp lánh muối vụn, kẻ thù vĩnh cửu và nguy hiểm đối với rừng cây non mới trồng.
Theo lời khuyên của anh phi công, bữa trước Masa đã thử rà soát lại cuộc đời mình, và nhận ra rằng đời cô đã chia ra làm ba giai đoạn rất rõ: thời kỳ ở Lêningrát, chuyến đi trên tàu thủy và những ngày làm việc trong thảo nguyên vùng Vonga này. Mỗi giai đoạn đều có chuyện tốt lành, và theo như bác diễn viên, đều có cái thi vị của nó.
Ở Lêningrát, có căn buồng của bà cô, nơi cô thường ngắm cảnh mặt trời lặn trên sông Lakhơta, những bạn gái, học viện, sách vở, rạp hát và các khu vườn. Trong chuyến đi, lần đầu tiên Masa hiểu được cái duyên dáng của cuộc gặp gỡ thoáng qua nhưng để lại một dư âm thăm thẳm trong tâm hồn và vẻ đẹp nên thơ của vùng đất phóng khoáng của nước Nga ở ven những bờ sông. Còn ở đây, trên thảo nguyên này, cô hiểu được ý nghĩa lớn lao và sức mạnh của công việc cô đang làm.
Và đâu đó, tận đáy con tim vẫn lưu lại cái kỷ niệm về anh phi công nọ. Cô vẫn nhớ nụ cười ngượng ngập của anh khi anh oán trách lũ chim họa mi, và cặp mắt anh nhìn cô ở Camưsin, từ trên boong tàu và má anh bỗng giật giật như khi ở bến Bêlôderxcơ. Một con người đi ngang qua cuộc đời và thật là đáng tiếc...
Masa nghĩ luôn đến chuyến đi vừa qua của cô, đến nỗi có lần cô nằm mê thấy cuộc đi ấy trở lại. Những bụi cây tường vi sum suê ướt đẫm sương đêm. Trời hoàng hôn. Trăng non dịu dàng giống như chiếc lưỡi liềm bạc của một cô thợ gặt nào đó bỏ quên, trên nền bức rèm xanh biếc nhạt của đêm khuya. Cảnh vật tĩnh mịch và lòng nhẹ lâng lâng đến nỗi Masa cười thành tiếng ngay trong giấc ngủ.
Dải rừng vừa ươm như một con sông cạn xanh nhờ nhờ lao qua các đỉnh núi cao và xuôi xuống những vùng thảo nguyên khô cằn nơi bụi đỏ cuốn làm lên từng đám trên những con đường lớn. Công việc đang dồn dập. Cần phải xới xỉa lớp đất giữa những hàng sồi non lên để trồng keo vào đấy. Masa đã
https://thuviensach.vn
làm tất cả những việc đó với một sự chu đáo đặc biệt, có thể nói với cả một niềm trìu mến đối với những mầm cây non nớt này.
Masa đen cháy đi. Những bím tóc của cô bạc nắng mặt trời. Bây giờ cô đã giống như một cô gái thực thụ của đồng cỏ. Áo cô, đôi bàn tay cô, mọi vật quanh cô đều toát ra mùi cây ngải cứu. Mùi ngải cứu bốc lên từ đám lông xù của con chó Nardan chuyên canh gác toa tàu khi mọi người đi làm ngoài thảo nguyên.
Con Nardan cùng gác nhà với Xtiôpa, một thằng bé lên bảy tuổi, con trai người phụ trách khu vực. Người và chó cả ngày cùng ở dưới bóng râm của toa tàu, nghe tiếng gió khô đập vào một cây táo dại cong queo; mỗi đợt gió lại làm cho thân cây kêu choang choang ầm ĩ như thể đúc bằng đồng đen vậy.
Đến mùa hạ đám cây non bị lũ chuột nhảy đến tấn công. Chúng khoét lỗ ở gần những cây sồi nhỏ và xuống đầm mình trong lớp bụi để rũ sạch những con bọ chó. Người ta đã gọi một chiếc máy bay "làm vườn" từ Xtalingrát tới để thả lúa mạch tẩm thuốc độc xuống những cánh rừng mới ươm này.
Một buổi chiều trong khi Xtiôpa đang ngồi cạnh toa xe, con Nardan bỗng ngẩng đầu lên và cất tiếng gầm gừ. Là là trên đồng cỏ một chiếc máy bay nhỏ từ phía mặt trời đang bay lại với tiếng động cơ nổ chậm chạp và lười nhác.
Chiếc máy bay bay qua phía trên toa tàu, quay ngoắt lại và hạ cánh trên bãi ngải cứu, chạy lăn đi vài thước rồi đỗ lại.
Người phi công từ buồng máy nhảy xuống, bỏ mũ phi công ra và đi về phía toa tàu nhỏ. Anh phi công còn trẻ, nhưng tóc mai đã bạc trắng. Trên ngực anh phi công, Xtiôpa thấy hai hàng cuống huân chương.
Con Nardan đáng lẽ phải sủa lên, lại chúi đầu vào gầm toa xe gừ gừ se sẽ trong cuống họng.
- Chào chú bé! - Anh phi công nói. Anh ngồi xuống trên bậc lên xuống của toa xe bên cạnh Xtiôpa và châm một điếu thuốc lá. - Có phải đây là khu vực số 15 không?
https://thuviensach.vn
Vâng! - Xtiôpa rụt rè trả lời. -Chú đến chỗ chúng cháu à?
Ừ, đến với anh em ở đây, - anh phi công trả lời. - Chú đến tiễu trừ chuột nhảy.
Chú được nhiều huân chương mà lại phải đến đánh nhau với bọn chuột nhảy ở đây à? -Xtiôpa nghĩ một lúc rồi hỏi lại như vậy. - Ở đây cứ nghĩ là người ta sẽ cử đến một học sinh trường hàng không.
Tự chú muốn được đến đây, bé ạ, - anh phi công trả lời và đưa tay vuốt tóc Xtiôpa. - Cô Masa Klimôva có làm việc ở đây không?
Có, - Xtiôpa hấp háy mắt trả lời. - Thế thì làm sao hở chú? -Thế cô ấy đâu?
Kia, ở trong rừng kia kìa. -Xtiôpa chỉ đám cây non mới trồng.
- Quả là rừng thật! - Anh phi công vừa nói vừa cười rồi đi thẳng về phía những hàng cây non, không hề quay đầu lại. Xtiôpa đưa mắt nhìn theo chú phi công. Chiều đã xuống không thấy gì trên đồng cỏ nữa, nhưng Xtiôpa vẫn nhìn thấy cô Masa đang từ thảo nguyên trở về. Chú phi công bước nhanh đón cô, nhưng cô Masa chưa đi đến chỗ chú phi công đã ngồi thụp xuống đất và lấy hai tay bưng lấy mặt.
Trời đã tối hẳn. Một ngôi sao thảo nguyên lang thang, đứng cao tít trên vòm trời lồng lộng, lấp lánh sáng le lé nhìn xuống làn nước hồ đen ngòm.
"Tại sao cô Masa lại lấy tay ôm lấy mặt thế?" Xtiôpa tự hỏi, và chú bé lặp lại câu nói của bố vẫn thường đùa cô Masa.
- Cái cô Masa này đến là kỳ quặc! Còn con Nardan, nó vẫn nằm dưới gầm xe và suốt đêm cứ nhìn chiếc máy bay đang bình yên ngủ trong mấy bụi ngải cứu mà gầm gừ khe khẽ.
MỘNG QUỲNH dịch
https://thuviensach.vn
TRÁI TIM NHÚT NHÁT
Bà Vácvara Iakôplepna, nữ y sĩ của viện điều dưỡng lao, không chỉ nhút nhát trước các giáo sư mà cả với bệnh nhân. Bệnh nhân của bà hầu hết là dân Maxcơva - những người hay đòi hỏi và không chịu nằm yên. Họ bực bội vì nóng, vì khu vườn bụi bặm của viện, vì thủ tục điều trị, nói tóm lại, vì mọi chuyện.
Cũng do bản tính nhút nhát mà vừa mới về hưu bà Vácvara đã dọn ngay ra ở ngoại ô, trong khu Karantin. Bà tậu một ngôi nhà nhỏ mái ngói, và náu mình trong đó trốn cái ồn ào và sặc sỡ của phố phường duyên hải. Bà cũng chẳng thiết gì cái không khí nhộn nhịp của miền Nam, âm nhạc khàn khàn của những loa phóng thanh, những tiệm ăn sực nức mùi cừu chiên, những chuyến ô tô buýt, tiếng sỏi lạo xạo dưới bước chân những người đi dạo.
Ở Karantin, nhà nào nhà nấy sạch bong, yên lặng. Trong những mảnh vườn nhỏ có mùi lá cà chua bị hun nóng và mùi khổ ngải. Khổ ngải mọc cả trên tường thành cổ bao quanh khu Karantin. Qua chỗ tường vỡ người ta đã có thể nhìn thấy mặt biển màu xanh đục và những hòn núi đá. Ông già Hy Lạp Xpirô, râu không bao giờ cạo, suốt ngày quanh quẩn lấy rổ xúc tôm bên những hòn núi đá ấy. Ông để nguyên cả quần áo mà lội xuống, lấy tay sờ soạng bên dưới những tảng đá rồi lại lên bờ ngồi nghỉ. Nước biển từ áo ngoài cũ kỹ của ông chảy xuống ròng ròng.
Bà Vácvara gửi gắm tình thương yêu duy nhất của mình ở đứa cháu mà bà nuôi nấng, dạy dỗ, đứa con trai của em gái bà đã khuất: thằng Vania Gêraximôp.
Tất nhiên, bà Vácvara phải là một người nuôi trẻ vụng. Vì thế ông hàng xóm cùng ở chung một thửa đất, ông Êgo Pêtrôvich Vêđenxki, một nhà giáo trước kia dạy môn vạn vật, hoặc môn "Lịch sử giới tự nhiên" như ông thường nói, hay cằn nhằn bà. Sáng nào ông cũng đi ủng ra vườn tưới cà chua. Ông soi mói nhìn từng khóm cây sù sì và nếu thấy một cành gẫy hoặc
https://thuviensach.vn
một quả cà chua xanh lăn lóc giữa đường thì thế nào ông cũng hầm hè chửi rủa lũ nhóc hàng xóm.
Bà Vácvara lúi húi trong bếp và nghe tiếng hô hoán giận dữ của ông láng giềng là đã sợ thất thần. Bà biết ông Êgo lại sắp sửa gọi bà ra mà bảo rằng thằng Vania lại phá vườn ông, rằng nuôi trẻ như bà thì nên giao con cho công an để họ tống vào trại cải tạo lao động còn hơn. Thằng Vania nghịch gì ư? Nó lấy hộp sắt tây cắt thành những cánh quạt rồi dùng một cái ống và một sợi dây, phóng lên không và những mảnh sắt tây ấy vù vù bay vào vườn nhà ông, làm gẫy cà chua, đôi khi còn làm gẫy cả những khóm cúc vạn thọ và hoa từ bi nữa. Gớm chưa, nhà phát minh đấy! Xiôncốpxki! (1) Trẻ con phải dạy chúng đứng đắn, làm những việc hữu ích. Không thì chúng chỉ dầm nước đến phát ốm, chọc lão Xpirô, leo trèo trên tường thành. Không phải trẻ con nữa mà là một bầy khỉ. Thế mà đòi là học sinh Xô viết!
Bà Vácvara chỉ nín lặng. Tất nhiên ông Êgo đã mắng oan thằng bé, điều đó bà biết. Vania của bà là một thằng bé ngoan. Nó luôn loay hoay chế tạo một cái gì đó, vừa vẽ vừa thở khò khè và sẵn sàng giúp đỡ bà trong công việc nội trợ không sung túc gì, nhưng được cái sạch sẽ.
Bà Vácvara chỉ muốn dạy dỗ cháu mình trở thành một người lao động, một người tốt. Tất nhiên, bà không tin Trời. Nhưng bà tin chắc có một định luật bí ẩn trừng phạt con người vì những tội ác mà nó gây ra cho kẻ khác.
Đến khi Vania đã lớn thì bỗng dưng ông Êgo lại bắt nó học cách vẽ thảo mộc và phân định các loại cây cỏ do chính ông dạy. Cặp già trẻ này rất chóng thân nhau. Vania thích những căn phòng tranh tối tranh sáng trong nhà ông Êgo, những bông hoa và những chiếc lá khô ép trong những cặp giấy, ngoài có đề chữ "Thảo mộc rừng Krưm" và những bức họa phong cảnh treo trên tường. Những bức họa có nét vẽ lạnh lùng và ưa mắt: những thác nước và những ghềnh đá phủ dây leo.
Sau khi tốt nghiệp phổ thông mười năm, Vania nhập ngũ và theo học trường quân sự ở ngoại thành Maxcơva. Sau thời gian phục vụ trong quân đội, anh ước mong được học trường mỹ thuật, hoặc hơn nữa, tốt nghiệp học viện mỹ thuật Lêningrat. Ông Êgo tán thành ý Vania. Ông cho rằng Vania có
https://thuviensach.vn
thể trở thành một họa sĩ thực vật hoặc "một nhà thảo mộc" như ông thường nói. Có những họa sĩ chuyên vẽ thú vật tài năng có một không hai. Thế thì tại sao lại không có một họa sĩ có thể đưa lên khung vải cả cái phong phú muôn màu muôn vẻ của thế giới thực vật.
Vania về nghỉ có một lần. Bà Vácvara ngắm mãi anh không biết chán: chiếc áo varơi phi công màu xanh, cặp mắt thâm trầm, đôi cầu vai xanh da trời, những chiếc cánh bạc trên cánh tay áo. Còn anh thì đen xạm, cháy nắng nhưng vẫn rụt rè như trước. Công tác trong quân đội không làm anh thay đổi mấy tí.
Suốt vụ nghỉ Vania cùng với ông Êgo đi ra ngoài ngoại ô, lên những ngọn núi cằn cỗi tìm kiếm cây cỏ và vẽ rất nhiều tranh màu. Bà Vácvara treo tranh của anh khắp tường. Trong nhà vui hẳn lên như thể người ta mở thêm rất nhiều cửa sổ nhỏ và bên ngoài mỗi cửa sổ ấy lại xanh lên một mảng trời và có gió ấm thổi.
Chiến tranh bắt đầu một cách lạ lùng đến nỗi lúc đầu bà Vácvara không hiểu gì hết. Hôm chủ nhật, bà ra ngoại ô hái rau bạc hà và khi về tới nhà bà chỉ còn biết ơ lên một tiếng ngạc nhiên. Ông Êgo đang đứng trên chiếc ghế đẩu và lấy bùn loãng pha trong chậu bôi lên bức tường trắng của ngôi nhà.
Thoạt đầu bà Vácvara tưởng ông Êgo lại lên cơn hấp (trước kia ông vẫn thường bị lên những cơn hấp như thế) nhưng ngay đấy bà thấy đông đủ cả lân bang hàng xóm. Họ cũng đang vội vã lấy bùn nâu màu đất chung quanh nhà quét lên tường.
Tối đến, lần đầu tiên những ngọn hải đăng không sáng, chỉ có những ngôi sao mờ chiếu ngoài biển. Trong các nhà không có lấy một ngọn lửa. Ở phía dưới, trong thành phố, như trong một nhà mồ tăm tối, những con chó lo lắng sủa cho đến tận sáng. Chiếc máy bay bảo vệ thành phố chống oanh tạc Đức lượn vè vè trên đầu.
Mọi việc xảy ra bất thình lình, đến sợ. Bá Vácvara ngồi ở ngưỡng cửa cho tới khi trời sáng hẳn. Bà nghe ngóng và nghĩ đến Vania. Bà không khóc. Ông Êgo đi bước một trong vườn, húng hắng ho. Thỉnh thoảng, ông quay
https://thuviensach.vn
vào trong nhà hút thuốc nhưng không ở lâu trong ấy và lại trở ra vườn. Họa hoằn mới có những ngọn gió từ những quả núi thấp thổi xuống, mang theo mùi cỏ, tiếng dê kêu be be và bà Vácvara nghĩ thầm "chiến tranh thực rồi ư?".
Trước lúc bình minh có một tiếng sấm ngắn ngủi từ biển cả bay vào. Rồi tiếng thứ hai, thứ ba... Trong các sân nhà người ta hấp tấp nói chuyện với nhau. Khu Karantin không ngủ. Không ai có thể giải thích ngọn nguồn những việc đang xảy ra bên kia chân trời đen kịt. Mọi người chỉ nói rằng ban đêm, trong bóng tối, con người thoải mái hơn, đỡ nguy hiểm hơn, như thể đêm tối che chở cho con người trước tai họa.
Một mùa hè khủng khiếp, đầy lo âu, trôi qua nhanh chóng. Chiến tranh lan đến gần thành phố. Không có thư từ điện tín gì của Vania. Mặc dầu tuổi già, bà Vácvara đã tình nguyện trở về công việc cũ: bà làm y tá trong quân y viện. Cũng như mọi người, bà đã quen với những chiếc máy bay màu đen, tiếng rít của bom rơi, tiếng kính vỡ loảng xoảng, bụi lọt vào đủ mọi chỗ sau khi bom nổ, với bóng tối, bà phải sờ soạng nấu nước trà trong bếp.
Quân Đức chiếm thành phố vào mùa thu. Bà Vácvara không kịp đi. Bà ở lại trong ngôi nhà nhỏ của mình ở Karantin. Ông Êgo cũng ở lại.
Sang đến ngày thứ hai, quân Đức bao vây thành phố. Chúng lặng lẽ vào từng nhà, liếc vội vào đủ mọi ngóc ngách, lấy bột mì, quần áo ấm. Cả đến chiếc kính hiển vi bằng đồng của ông Êgo chúng cũng không tha. Chúng làm chuyện đó cứ y như trong nhà chẳng có ai và cũng chẳng thèm nhìn chủ nhà lấy một lần.
Trong hang đá đàng sau mũi Bligiơni hầu như ngày nào bọn Đức cũng bắn người Do Thái. Bà Vácvara quen nhiều người trong bọn họ.
Bà Vácvara đã thấy sợ. Bà đóng hết cửa chớp trong nhà lại và ra ở trong lều chứa củi. Trong lều lạnh lẽo thật nhưng vẫn còn hơn ở trong những căn phòng bị cướp trọi đến nỗi những khung cửa sổ cũng không còn lấy một mảnh kính.
https://thuviensach.vn
Bọn Đức đặt một khẩu đội pháo sau tường thành. Nòng súng quay ra biển. Biển lúc ấy đã sôi sục, điên cuồng như trong mùa đông. Những tên lính gác mặc áo choàng không kín hết người, quay cuồng, giương những đôi mắt đỏ hoe vì gió nhìn ra chung quanh và thỉnh thoảng lại gọi giật những khách bộ hành đi một mình.
Một buổi sáng mùa đông, những chiếc phi cơ Xô Viết từ ngoài biển ầm ì bay vào. Bọn Đức bắn lên. Đất rung chuyển theo mỗi tiếng nổ. Ngói rơi lả tả. Bụi bốc lên thành những đám mây lớn bên trên thành phố. Súng cao xạ gầm thét hết giọng. Những cành dạ hợp gẫy văng vào tường. Bọn lính mặc áo choàng xám xịt la hét và chạy đi chạy lại, những mảnh bom rú rít, những ngọn lửa của trận bom nhấp nhoáng liên hồi trong những đám mây đen. Còn ở ngoài cảng lửa đã cháy phần phật trong những kho hàng, làm bung những tấm mái kẽm.
Ông Êgo vừa nghe thấy tiếng nổ đầu tiên đã hấp tấp chạy ra vườn, giơ đôi tay run rẩy hướng về những chiếc máy bay lượn sát khu Karantin, kêu lên những tiếng gì đó và nước mắt tuôn ròng trên đôi gò má trắng bệch và khô héo của ông.
Bà Vácvara mở cửa lều và lạnh loát người khi nhìn thấy những con chim sắt khổng lồ gầm thét, lượn đi lượn lại trên thành phố và ở dưới thân chúng, trên mặt đất, bùng lên những cột lửa vàng.
Ông Êgo hét lên:
- Quân ta! Quân ta đấy, bà Vácvara ơi! Bà không trông thấy sao? Họ đấy!
Một chiếc trong tốp máy bay bỗng bốc khói và bắt đầu rơi xuống nước. Người phi công nhảy dù. Ngay lập tức, những chiếc xuồng máy của bọn Đức rẽ sóng, phóng băng băng, nhả đạn liên thanh không ngớt, tiến về phía người phi công sẽ rơi xuống.
Trọng pháo của Đức bị đánh tan tác, đất cát phủ đầy. Ngôi nhà cổ có những cửa cuốn tò vò ngoài phố chính, nơi bộ chỉ huy Đức đóng, cháy rừng rực. Ngoài bến, chiếc tàu vận tải Rumani xanh lốm đốm như một con ếch, bốc khói, chìm dần. Xác lính Đức ngổn ngang khắp phố.
https://thuviensach.vn
Sau trận oanh tạc, Pasa - một bà dân chài đã có tuổi - lần từ trong thành phố ra và kể lại rằng ở gần chợ có một thiếu phụ còn trẻ và ông lão chủ hiệu thuốc đang ốm bị chết bom.
Bà Vácvara không thể ngồi yên trong nhà. Bà sang nhà ông Êgo. Ông đứng bên bức tường chằng chịt dây nho dại và thẫn thờ lấy khăn tay lau bụi trắng bám ở lá nho. Lá nho mùa đông đã khô và khi lau, ông làm chúng rụng hết.
Bà Vácvara khẽ hỏi:
- Sao vậy, ông Êgo? Vậy ra người mình lại giết người mình... Chúng ta đã sống đến cái ngày gì vậy, ông Êgo?
- Cần phải thế! - Ông trả lời và bộ râu ông rung rung - Đừng hỏi tôi. Tôi đang bận.
Bà Vácvara trả lời:
- Tôi không tin là cần phải thế! Thôi không sao hiểu nổi vì lẽ gì mà người ta nỡ giơ tay đánh những người thân...
- Thế bà tưởng lòng họ nhẹ nhàng lắm khi phải làm chuyện ấy sao? Một chiến công vĩ đại! Vĩ đại!
Tôi không sao hiểu nổi chuyện đó. - Bà Vácvara nói - Tôi ngu ngốc, tôi già rồi, hẳn là như vậy...
Ông Êgo im lặng hồi lâu và lau lá nho.
Trời hỡi, trời! - Bà Vácvara nói. - Thế là thế nào? Ông hãy giảng cho tôi nghe đi, ông Êgo!
Nhưng ông Êgo không muốn giảng giải gì hết. Ông khoát tay và bước vào nhà.
Trước khi trời tối có ba tên lính Đức đi qua khu Karantin. Một tên mang bó cáo thị, tên kia mang cái xô đựng hồ. Một thằng lính tóc hung đeo tiểu
https://thuviensach.vn
liên lê gót đàng sau, luôn miệng nhổ bọt.
Bọn lính dán tờ cáo thị lên chiếc cột gần nhà bà Vácvara rồi bỏ đi. Không ai tới gần tờ cáo thị đó. Bà Vácvara cho rằng hẳn không ai nhìn thấy bọn Đức dán tờ cáo thị ấy. Bà khoác vội chiếc áo gi-lê rách và đi ra cột. Trời đã tối và nếu ở phía tây không còn lại một chút ánh vàng giữa những đám mây rách thì chưa chắc bà đã đọc nổi.
Tờ giấy còn ẩm. Trên đó ghi những hàng chữ:
"Kẻ nào bóc sẽ bị bắn. Lệnh của chỉ huy trưởng. Những tên phi công Xô Viết đã tiến hành một cuộc oanh tạc dân lành làm nhiều người thiệt mạng, nhiều nhà cửa bị cháy và phá hủy. Một trong những tên phi công phạm tội đã bị bắt làm tù binh. Tên nó là Ivan (2) Gêraximôp. Bộ chỉ huy Đức quyết định xử tên man rợ này như đối với kẻ thù của dân chúng và hắn sẽ bị xử bắn. Để cho dân chúng có dịp được nhìn thấy tên Bônsêvich đã giết con cái họ và phá hoại của cải của họ, ngày mai, hồi bảy giờ sáng hắn sẽ bị giải qua phố chính. Bộ chỉ huy Đức tin rằng dân chúng có thiện chí sẽ tỏ lòng khinh bỉ tên uống máu người không tanh đó.
Chỉ huy trưởng thành phố
Đại úy DUTXƠ
Bà Vácvara nhìn quanh rồi bóc vội tờ cáo thị giấu vào trong áo gi-lê và hấp tấp trở về lều.
Lúc đầu bà ngồi lặng đi, không còn hiểu gì hết, chỉ lấy những ngón tay run rẩy lần từng sợi tua của chiếc khăn xám cũ kỹ. Rồi đầu bà nhức nhối và bà khóc. Những ý nghĩ của bà rối như bòng bong. Chuyện gì đã xảy ra? Có lẽ nào ngày mai bọn Đức sẽ giết thằng Vania của bà ở một cái sân bẩn thỉu nào đó bên những chiếc xe vận tải nát! Không hiểu sao ý nghĩ rằng chắc chắn chúng sẽ giết Vania ở trong một cái sân, bên cạnh những chiếc xe vận tải, nơi mặt đất sặc sụa mùi xăng dầu, cứ luẩn quẩn trong đầu óc và bà Vácvara không tài nào xua đuổi nó đi cho được.
Làm thế nào cứu được Vania? Giúp Vania cách nào đây? Bà bóc tờ cáo thị trên cột xuống làm gì? Bà sợ cái gì kia chứ? Bọn Đức chăng? Không, bà
https://thuviensach.vn
thấy lương tâm cắn rứt trước đồng bào. Bà muốn giấu tờ cáo thị khỏi mắt ông Êgo, khỏi mắt mọi người. Bọn Đức sẽ giết Vania. Chúng có thể giết cả bà vì bà đã bóc cái mảnh giấy nhớp nháp kia. Còn đồng bào? Đồng bào, trừ cái ông Êgo kỳ quặc kia, sẽ không bao giờ tha thứ tội lỗi kia cho bà, vì thiếu phụ bị giết, ông lão chủ hiệu thuốc bất hạnh và những ngôi nhà nát vụn, nơi họ đã sống bao năm, những ngôi nhà mà mọi vật đều quen thuộc, từ nước sơn tróc ở những tay vịn thang gác đến tổ én dưới cửa sổ. Ai là người chẳng biết Vania là đứa trẻ do bà dạy dỗ. Nhiều người còn tưởng anh là con trai của bà.
Bà Vácvara như đã cảm thấy những cái nhìn chằm chằm khó chịu, đã nghe thấy những tiếng thì thào rin rít sau lưng. Bà còn mặt mũi nào nhìn mọi người! Thà Vania cứ giết ngay bà đi còn hơn là giết những người kia. Thế mà ông Êgo lại còn nói rằng đó là một chiến công vĩ đại.
Bà Vácvara cứ lần từng sợi tua của chiếc khăn mà khóc cho đến khi trời bắt đầu sáng.
Khi trời sáng hản, bà lẻn ra khỏi lều, đi xuống thành phố. Gió rú rít thổi tàn tro bay trên các phố. Biển reo ào ào trong cái ảm đạm tăm tối, trong sương mù. Hình như đêm chưa đi hẳn, giống như một tên ăn trộm, nó náu mình trong những chỗ ngoặt, từ đó bốc lên một mùi khét lẹt, mùi rêu và mùi vẩy sắt nung cháy.
Giờ đây, lúc bình minh, ruột gan bà Vácvara như đã bị nước mắt đốt cháy hết và bà không còn biết sợ là gì nữa. Bọn Đức cứ việc giết bà, đồng bào cứ việc căm thù bà, bà bất cần. Chỉ cốt sao bà được trông thấy Vania, dù chỉ là cái nốt ruồi trên má anh, rồi chết cũng bõ.
Bà Vácvara đi hấp tấp, mặt cúi gằm xuống. Bà không biết ông Êgo đang đi đàng sau. Bà cũng không trông thấy lão Xpirô cũng lần mò tới đó, tới phố chính, và cả người đàn bà dân chài mặt đầy tàn nhang Pasa nữa. Bà Vácvara vẫn hy vọng rằng có lẽ sẽ chẳng có ai đến xem bọn Đức giải Vania của bà đi đâu. Chỉ có một mình bà đến đó và không có gì ngăn trở bà được nhìn thấy Vania của bà.
https://thuviensach.vn
Nhưng bà đã nhầm. Những người mặc quần áo xám, lạnh cóng đã tụ tập bên những bức tường.
Bà Vácvara không dám nhìn thẳng vào mắt họ. Bà không ngẩng đầu lên và chờ đợi mãi những tiếng la hét giận dữ. Nếu không bà đã nhìn thấy thành phố quê hương của bà biến đổi như thế nào. Bà sẽ nhìn thấy những mái đầu run rẩy, những bộ tóc khô héo, những vết nhăn đầy bụi và những mi mắt mọng đỏ.
Bà Vácvara đứng lại bên cột dán áp phích, nấp vào sau cột và rúm người lại, chờ đợi. Tay bà vò nát chiếc ví lụa cũ kỹ, trong đó chẳng còn vật gì khác ngoài chiếc khăn tay và chìa khóa lều.
Những mẩu áp phích lơ lửng bám lấy cột. Chúng báo tin những sự kiện như đã xảy ra cách đây hàng nghìn năm; những bản giao hưởng của Sốtxtakôvich, những buổi biểu diễn của nghệ sĩ ngâm thơ Iakhôntôp.
Người ta vẫn cứ im lặng và hấp tấp đổ về. Yên lặng đến nỗi tiếng sóng đập vào bờ còn vọng đến tận phố chính. Sóng đập vào con đê chắn, tan ra thành bọt xám và bốc lên tận những đám mây đen, lăn ra xa rồi lại vỗ nước mặn vào đê.
Rồi đám đông bỗng thở dài, rùng mình và dịch về phía vỉa hè. Bà Vácvara ngước mắt lên.
Sau lưng những người đứng chắn trước mặt, bà không trông thấy con đường nhựa. Bà trông thấy những chiếc mũ lưỡi trai xám, những nòng súng trường ở đàng xa. Tất cả những vật đó từ từ dịch lại gần, hơi đung đưa và nghiến ủng ken két.
Bà Vácvara vòng tay ôm chặt lấy cột, ngả hẳn người về phía trước, cái cổ gầy guộc vươn ra.
Có người nào nắm lấy khuỷu tay bà và nói nhanh: "Đừng kêu! Đừng để chúng nó biết!" Bà Vácvara không nhìn lại, mặc dầu bà nhận ra tiếng ông Êgo.
Bà chăm chú nhìn cái đám đông tối xầm kia đang tiến lại gần. Giữa đám áo choàng xám nổi bật lên bộ quần áo phi công màu xanh. Bà Vácvara nhìn
https://thuviensach.vn
không rõ, bà chỉ thấy lờ mờ. Bà lau nước mắt, run rẩy nhét chiếc khăn tay vào ví và cuối cùng bà đã trông thấy anh, Vania của bà, đang đi sau một tên sĩ quan Đức vạm vỡ. Anh đi bình thản, nhìn thẳng về phía trước, nhưng trên mặt anh không còn vẻ rụt rè quen thuộc đối với bà.
Bà nhìn anh nghẹn ngào, cố nín thở, nuốt nước mắt. Đó là anh, là Vania, anh vẫn như xưa, đáng yêu, da xạm nắng, nhưng gầy đi rất nhiều và bên mép đã có những nếp nhăn khắc khổ.
Bất thần tay bà run bắn lên và bà để rơi chiếc ví. Bà trông thấy đám đông cất nhanh mũ xuống trước Vania và nhiều người đưa tay áo lên mắt.
Rồi bà trông thấy một bó hoa Crimê khô héo không rõ từ đâu rơi xuống và xổ tung lên mặt đường ướt đẫm nước mưa. Bọn Đức đi mau hơn. Vania mỉm cười với một người nào đó và mặt bà tươi hẳn lên qua hàng lệ. Từ trước, anh vẫn chỉ cười như thế với một mình bà.
Khi toán lính đi ngang mặt bà, đám đông đàng trước dãn ngay ra và một vài cánh tay nhẹ nhàng nắm lấy tay bà, dìu bà ra trước mặt đường và bà chỉ còn cách Vania có mấy bước. Nhìn thấy bà, anh tái mặt nhưng không để lộ một lời nói, một cử chỉ nào chứng tỏ anh quen cái bà lão bé nhỏ đang run rẩy kia. Bà nhìn anh bằng đôi mắt cầu khẩn và tuyệt vọng.
- Vania tha lỗi cho mẹ!
Bà Vácvara nói và khóc rưng rức, đến nỗi bà không còn trông thấy Vania liếc nhanh nhìn bà trìu mến, không nghe thấy cả tên sĩ quan Đức hét lên: "Lùi vào!" và văng tục. Bà cũng không nhìn thấy ông Êgo và lão Xpirô kéo bà trở lại đám đông và đám đông lập tức che kín bà khỏi mắt bọn Đức. Về sau bà chỉ còn nhớ là ông Êgo và lão Xpirô đã dẫn bà qua những phố hoang tàn, bước trên ngói vỡ, giữa đám cỏ gai trắng bệch vì vôi.
- Không cần! - Bà Vácvara lầu bầu trong miệng - Bỏ tôi ra! Tôi ở lại đây! Bỏ ra!
Nhưng ông Êgo và ông lão Xpirô vẫn giữ chặt tay bà và không trả lời.
Ông Êgo đưa bà về tận lều, đặt bà nằm xuống chiếc giường gỗ và lấy tất cả chăn áo ấm đắp lên cho bà. Còn bà thì run rẩy, răng va vào nhau cầm cập.
https://thuviensach.vn
Bà cố cắn chặt góc chiếc chăn xám cũ kỹ và lẩm bẩm: "Trời, sao thế này? Sao thế này?" và từ trong cuống họng thỉnh thoảng lại bật ra một tiếng nấc thường có ở những người cố giữ nước mắt.
Ngày hôm đó qua đi như thế nào bà Vácvara cũng chẳng nhớ nữa. Ngày hôm đó xám, ẩm thấp và có bão. Những ngày đông như vậy qua đi rất mau. Chẳng ra là đã có những ngày ấy mà cũng chẳng ra là không có. Biển cứ kiên nhẫn gầm thét mãi. Gió vặt bụi cây khô trên những mỏm đá biển, tung mưa đi thành từng giải.
Đến đêm, trong tiếng ầm ì của biển, một tiếng sấm nặng nề xông vào, còi và đại bác rú rít, những tiếng nổ ầm ì, tiếng vọng của súng liên thanh dội vào vách núi. Ông Êgo chạy lại lều bà Vácvara và nói lớn với bà câu gì trong bóng tối. Nhưng bà chỉ hiểu ông Êgo nói gì khi nghe thấy cả cái đêm rét mướt bất thần vang dậy tiếng "xung phong"(3) kéo dài ở xa. Tiếng kêu ấy lớn dần, lăn dọc bờ bể, ùa vào trong các phố hẹp của khu Karantin, lăn theo các bậc thang xuống thành phố.
-Quân ta!
Ông Êgo kêu lên và cái yết hầu vàng vàng nơi cổ ông rung lên. Ông khóc rưng rức, cười ha hả, rồi lại khóc rưng rức.
Trời vừa sáng thì quân đổ bộ Liên Xô đã chiếm được thành phố. Cuộc đổ bộ sở dĩ thành công là nhờ những đồng chí phi công đã ném bom tiêu diệt trọng pháo Đức.
Đó là những gì ông Êgo kể lại cho bà Vácvara nghe. Giờ đây ông quanh quẩn dưới bếp nhà bà, đun trà cho bà.
- Ra thằng Vania nhà tôi cũng thế...? - Bà Vácvara hỏi ông và giọng bà đứt quãng.
- Vania là một ông thánh. - Ông Êgo nói, giờ tất cả trẻ con trong thành phố này là cháu bà. Một gia đình lớn! Chính Vania đã cứu chúng khỏi chết.
Bà Vácvara quay mặt vào tường và lại khóc nhưng bà khóc rất khẽ nên ông Êgo không nghe thấy.
https://thuviensach.vn
Ông tưởng bà Vácvara đã ngủ.
Ấm nước trong bếp reo, nắp ấm kêu lạch xạch. Mặt trời ló ra giữa những đám mây đen và thấp. Ánh nắng chiếu vào hơi nước phùn phụt từ vòi ấm tuôn ra và bóng của những dòng hơi nước cứ bay mãi, bay mãi, cuồn cuộn trên bức tường trắng một thứ khói lam nhạt và không sao bay ra ngoài được.
KIM ÂN dịch
https://thuviensach.vn
TUYẾT
Tachiana Pêtơrốpna dọn đến nhà cụ Pôtapốp được một tháng thì cụ mất. Nàng ở lại một mình với đứa con gái nhỏ là Varia và người vú già.
Ngôi nhà nhỏ, chỉ có ba gian, ở trên một ngọn đồi trông xuống con sông phía Bắc ngay đầu tỉnh lỵ. Sau nhà, bên kia khu vườn đã trụi lá là một rừng bạch dương phơi màu trắng bạc. Ở đó, từ sáng sớm đến lặn mặt trời, lũ quạ kêu quàng quạc, bay thành từng đám mây đen trên những ngọn cây trần trụi, báo hiệu trời xấu.
Từ khi rời Maxcơva, Tachiana mãi vẫn không sao quen được cái tỉnh lỵ đìu hiu với những ngôi nhà nhỏ bé, những cánh cửa hàng rào kêu ken két, những buổi tối vắng lặng, nghe rõ cả tiếng ngọn đèn dầu hỏa nổ lép bép.
"Mình ngốc quá! - Nàng nghĩ - Không dưng đi bỏ Maxcơva, nhà hát và bè bạn! Đáng lẽ phải đưa Varia đến ở với bà vú ở Puskinô, ở đó chưa bị máy bay bắn phá lần nào, còn mình thì cứ việc ở lại Maxcơva. Trời, mình thật ngốc!".
Nhưng không thể trở lại Maxcơva được nữa rồi. Tachiana quyết định biểu diễn trong các trạm quân y lưu động - trong thị trấn đã có vài trạm - và nàng thấy trong lòng cũng khuây khỏa đôi chút. Nàng còn thấy thích cái tỉnh lỵ ấy nữa là khác, nhất là khi đông về và tuyết xuống phủ đầy. Ngày lại ngày, êm dịu và xám ngắt. Sông mãi chưa đóng băng, mặt nước màu xanh lá cây bốc khói.
Tachiana quen dần cả với tỉnh lỵ và cả với ngôi nhà không phải của mình. Nàng đã quen chiếc dương cầm lạc giọng, những tấm ảnh úa vàng treo trên tường, những tấm ảnh chụp những thiết giáp hạm bảo vệ bờ biển cổ lỗ. Trước kia, cụ Pôtapốp làm thợ máy tàu biển. Trên cái bàn giấy phủ dạ xanh của cụ có đặt mô hình tuần dương hạm "Grômôbôi", trên tàu đó cụ đã làm việc. Varia bị cấm không được sờ vào mô hình ấy. Và nói chung, con bé bị cấm không được sờ vào bất cứ vật gì.
https://thuviensach.vn
Tachiana biết cụ Pôtapốp có con trai đang phục vụ trong hạm đội Hắc Hải. Trên bàn, bên cạnh mô hình tuần dương hạm, có bức ảnh của anh. Đôi lúc, Tachiana cầm bức ảnh lên xem, mê mải ngắm nghía rồi nhíu đôi lông mày thanh thanh lại, nghĩ ngợi. Nàng cứ có cảm giác là đã gặp anh ở một nơi nào đó, nhưng đã lâu lắm rồi, trước cả cuộc hôn nhân không toại nguyện của nàng. Nhưng ở đâu? Và khi nào nhỉ?
Anh lính thủy nhìn nàng bằng đôi mắt bình thản, hơi có vẻ chế nhạo, như muốn hỏi: "Thế nào chị? Chẳng lẽ chị vẫn chưa nhớ ra được là chúng ta đã gặp nhau ở đâu hay sao?".
- Không, tôi không nhớ. Nàng trả lời khe khẽ.
Mẹ ơi, mẹ nói chuyện với ai thế? Varia từ phòng bên hỏi to. Mẹ nói với cái dương cầm con ạ! Tachiana cười, trả lời con.
Vào giữa mùa đông bắt đầu có những lá thư gửi cho cụ Pôtapốp, những lá thư do cùng một bàn tay viết. Tachiana xếp những lá thư ấy lại trên bàn.
Một lần, đang đêm nàng chợt thức giấc. Ánh tuyết mờ mờ chiếu vào cửa kính. Con mèo xám Ackhip của cụ Pôtapốp để lại đang ngáy khò khò trên đi-văng.
Tachiana khoác áo choàng mỏng vào phòng làm việc của cụ Pôtapốp và đứng một lát bên cửa sổ. Một con chim lặng lẽ bay vụt ra khỏi cây làm tuyết đổ ào xuống. Tuyết bay như một thứ bụi trắng, phủ một lớp mỏng lên trên mặt kính.
Tachiana thắp ngọn nến trên bàn, ngồi xuống ghế bành và đăm đăm nhìn ngọn nến. Ngọn nến cũng chả buồn động đậy. Sau đó nàng thận trọng lấy ra trong chồng thư một bức, bóc phong bì, nhìn chung quanh và bắt đầu đọc:
"Cha yêu quý, thế là con đã nằm bệnh viện được một tháng. - Nàng đọc. - Vết thương của con không nặng lắm. Nó đang lên da non. Xin cha đừng lo lắng và chớ hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Con van cha đấy!"
https://thuviensach.vn
"Con luôn nhớ đến cha, - Tachiana đọc tiếp, - đến ngôi nhà của cha con ta, đến tỉnh lỵ của chúng ta. Tất cả những cái đó xa xăm quá, tưởng như ở đâu mãi chân trời. Con nhắm mắt lại và thấy con mở cửa hàng rào, bước vào vườn. Mùa đông, tuyết xuống, nhưng con đường nhỏ dẫn tới phong đình bên dốc đã được sửa sang sạch sẽ và băng bụi phủ đầy những khóm tử đinh hương. Lò sưởi trong phòng kêu tí tách. Khói bạch dương thoang thoảng. Cây dương cầm cuối cùng đã được lên dây lại và cha đã cắm những cây nến vàng hình xoắn ốc con mua từ Lêningrat vào những chân đèn. Và vẫn những bản nhạc ấy trên chiếc đàn: bản tự khúc của vở nhạc kịch "Con đầm Pích" và tình ca "Trên những bờ Tổ quốc xa xôi". Không biết quả chuông treo ở cửa có kêu không? Thế là con vẫn chưa kịp chữa. Chả lẽ rồi con sẽ lại được gặp tất cả những cái đó? Chả lẽ rồi con lại được đổ nước giếng trong bình ra mà tắm sạch bụi đường xa? Cha còn nhớ không? Ôi, nếu cha biết được rằng ở đây, ở một nơi xa xôi, con yêu mến tất cả những cái đó biết chừng nào?
63 Cha đừng ngạc nhiên, nhưng con nói với cha một cách thật đứng đắn rằng con nhớ đến những cái đó trong những phút ác liệt nhất của trận đánh. Con biết rằng con đang bảo vệ không riêng gì tất cả đất nước mà cả cái góc nhỏ bé và thân yêu ấy trong lòng con: tức là cả cha, cả khu vườn nhà ta, cả những em bé đầu bù tóc rối trong làng ta, cả những cánh rừng bạch dương bên kia sông và cả con mèo Ackhíp nữa. Xin cha đừng cười và đừng lắc đầu cha nhé!
Có thể là khi ở bệnh viện ra, người ta sẽ cho con về nhà trong một thời gian ngắn. Điều đó chưa chắc lắm. Tốt hơn hết là cha đừng đợi".
Tachiana ngồi rất lâu bên cạnh bàn, mắt mở to nhìn qua cửa sổ, nơi bình minh bắt đầu hé lên trong một màu xanh dày đặc, và nghĩ rằng sắp tới đây thôi, ngày một ngày hai, có thể sẽ có một người mà nàng không quen biết từ mặt trận trở về ngôi nhà này và người đó sẽ đau khổ khi phải gặp những người xa lạ ở đây và phải trông thấy mọi vật hoàn toàn không giống như ý người đó muốn.
Sáng hôm sau, Tachiana sai Varia lấy xẻng ra dọn con đường dẫn tới phong đình trên bờ dốc. Cái lầu đã hoàn toàn đổ nát. Những cột gỗ mốc
https://thuviensach.vn
meo, rêu phủ đầy, Tachiana tự tay chữa quả chuông con treo trên cửa. Trên quả chuông có một hàng chữ đúc đến buồn cười "Ta treo trên cửa - Hãy giật cho vui". Tachiana đụng vào quả chuông. Nó kêu lên lanh lảnh. Con mèo Ackhíp khó chịu, ve vẩy đôi tai, rồi bực dọc, đi ra khỏi nhà: có lẽ nó cho tiếng chuông vui vẻ kia là càn rỡ.
Trưa hôm đó, Tachiana, mà ửng hồng, cười nói ầm ĩ, mắt quầng thâm vì xúc động, từ ngoài phố về dắt theo một ông lão lên dây đàn, một người Tiệp đã Nga hóa hoàn toàn. Ông lão làm nghề chữa đèn cồn, đèn dầu hỏa, búp bê, ắccoócđêông và lên dây đàn dương cầm. Lão thợ chữa đàn có một cái họ rất buồn cười: "Nêviđan" (Của hiếm). Sau khi lên dây đàn, ông già Tiệp nói rằng chiếc đàn cũ nhưng rất tốt. Không cần ông nói Tachiana cũng biết rõ điều đó.
Khi ông lão về rồi, Tachiana cẩn thận lục khắp các ngăn kéo bàn và tìm thấy một gói to những cây nến hình xoắn ốc. Nàng cắm vào các chân nến đặt trên chiếc dương cầm. Buổi tối hôm ấy, nàng thắp nến lên, ngồi trước dương cầm và tiếng nhạc tràn ngập cả ngôi nhà.
Khi Tachiana ngừng chơi và tắt nến đi thì một làn khói thơm tỏa ra khắp các phòng y như trên cây thông ngày lễ đầu năm.
Varia không giữ được nữa.
- Sao mẹ lại đụng vào đồ vật của người khác? - Nó nói với Tachiana - Mẹ cấm con, còn mẹ thì lại đụng vào đủ mọi thứ: nào chuông, nào nến, nào đàn. Mẹ lại đặt những bản nhạc của người ta lên trên dương cầm nữa.
- Bởi vì mẹ là người lớn.
Tachiana trả lời.
Varia chau mày, ngờ vực nhìn mẹ. Lúc này Tachiana không giống người lớn một chút nào. Mặt nàng tươi hẳn lên và nom nàng giống cái cô thiếu nữ tóc vàng đã đánh rơi chiếc hài pha-lê trong cung vua nhiều hơn. Chính Tachiana đã kể cho Varia nghe chuyện cô gái ấy.
*
https://thuviensach.vn
Ngay từ lúc còn ngồi trên tàu hỏa, trung úy Nikôlai Pôtapôp đã tính rằng anh chỉ có thể ở nhà với cha anh nhiều lắm là hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Hạn nghỉ phép thì ngắn mà cuộc hành trình đã chiếm mất gần hết thời gian.
Tàu hỏa tới thành phố ban ngày. Vừa bước chân xuống ga, trung úy được ông lão trưởng ga là người quen cho biết cha anh mất đã được một tháng và hiện giờ một nữ ca sĩ trẻ tuổi cùng đứa con gái của nàng đang ở nhà anh. - Chị ta người tản cư.
Ông trưởng ga nói. Nikôlai im lặng và nhìn ra ngoài cửa kính, nơi những hành khách mặc áo bông, đi ủng dạ, tay cầm ấm nước, đang chạy. Anh thấy chóng mặt.
- Vâng. - Ông trưởng ga nói. - Cụ nhà là người thật tốt bụng. Thế mà cụ chết đi không kịp gặp con trai.
- Bao giờ lại có tàu ra, thưa bác?
Nikôlai hỏi.
- Năm giờ sáng mai. - Ông lão nói, rồi im lặng một lát và nói tiếp - Anh lại đàng tôi chơi. Bà lão nhà tôi sẽ pha trà, dọn bữa tối cho anh. Anh về nhà bây giờ cũng vô ích.
-Cảm ơn bác.
Nikôlai trả lời và bước ra.
Ông trưởng ga nhìn theo, lắc đầu.
Nikôlai đi qua tỉnh về phía bờ sông. Phía trên là một bầu trời xanh xám. Tuyết lơ thơ, bay chênh chếch giữa trời và đất. Mấy con quạ bước đi bước lại trên con đường có những đống phân ủ. Trời sẩm tối. Gió thổi từ bên kia bờ sông, từ những cánh rừng, làm anh chảy nước mắt.
- Làm thế nào được! - Nikôlai nói - Ta về chậm quá! Và tất cả: cả tỉnh lỵ này, cả con sông, cả ngôi nhà, giờ đây đối với ta gần như hoàn toàn xa lạ!
Anh ngoảnh nhìn về phía sườn đồi dốc bên kia thành phố. Ở đó, khu vườn nằm trong băng bụi và ngôi nhà ánh lên một màu đen. Khói bay ra từ ống khói của ngôi nhà. Gió đưa khói bay về cánh rừng bạch dương.
https://thuviensach.vn
Nikôlai thong thả bước về phía nhà mình. Anh định không vào nhà mà chỉ đi ngang thôi, hoặc có thể, anh sẽ ngó qua mảnh vườn xưa, đứng một lát trong cái lầu nghỉ chân cũ kỹ. Anh không sao chịu nổi, khi nghĩ rằng trong ngôi nhà của cha anh giờ đây đã có những người hoàn toàn xa lạ, vô tình đến ở. Tốt hơn hết là chẳng nhìn thấy gì hết để khỏi phải đau lòng, cứ đi đi và lãng quên dĩ vãng.
- Ờ, - Nikôlai nghĩ bụng - Con người mỗi ngày một trưởng thành, mỗi ngày một nhìn sự vật chung quanh một cách khắc khổ hơn. Nikôlai về đến nhà khi trời tối. Anh nhẹ nhàng mở cửa vào vườn, nhưng cánh cửa vẫn kêu ken két. Mảnh vườn như giật mình. Tuyết đọng trên cành rơi xào xạc. Anh nhìn quanh. Trên con đường nhỏ dẫn tới phong đình, tuyết đã được dọn sạch sẽ. Nikôlai vào trong lầu, đặt hai tay lên trên cái lan can cũ kỹ. Đằng xa, bên kia rừng, bầu trời hồng lên, mờ nhạt: có lẽ trăng đã nhô ra sau những đám mây, Nikôlai cất mũ, lấy tay vuốt tóc. Chung quanh anh yên lặng, chỉ ở dưới kia, dưới chân đồi, mấy người đàn bà xách những chiếc xô rỗng kêu loảng xoảng đi lấy nước ở các lỗ băng.
Anh chống cùi tay trên lan can, nói khẽ:
- Có thể nào lại như thế?
Có ai đó nhè nhẹ đặt tay lên vai anh, Nikôlai ngoảnh lại. Đàng sau anh là một thiếu phụ trẻ, có khuôn mặt xanh xao và nghiêm trang, đầu quàng khăn len. Thiếu phụ nhìn anh bằng đôi mắt sâu thẳm và chăm chú. Trên mi mắt và trên má thiếu phụ những bông tuyết tan dần. Có lẽ đó là tuyết từ trên cành rơi xuống.
- Anh đội mũ vào kẻo cảm lạnh đấy! - Thiếu phụ nói khẽ. - Mời anh vào nhà. Không nên đứng ở đây.
Nikôlai yên lặng. Thiếu phụ nắm lấy cánh tay áo của anh và dẫn anh theo con đường nhỏ đã được dọn sạch. Nikôlai dừng lại ở bên thềm. Xúc động làm anh nghẹn ở cổ họng, không sao thở được. Thiếu phụ vẫn nói khe khẽ:
- Không sao, xin anh đừng ngại vì chuyện ở đây có tôi. Cảm giác đó sẽ qua ngay thôi.
https://thuviensach.vn
Nàng dậm chân để rũ tuyết bám vào giày. Tức khắc quả chuông trong phòng mắc áo reo lên lanh lảnh trả lời. Nikôlai thở dài thực mạnh, lấy hơi.
Anh bước vào nhà, vừa đi vừa bối rối, lẩm bẩm điều gì. Ở phòng ngoài cởi áo choàng anh đã ngửi ngay thấy mùi khói bạch dương thoang thoảng và nhìn thấy con mèo Ackhíp. Nó đang ngồi trên đi-văng, ngáp dài. Một đứa con gái tóc bím đứng bên đi-văng và nhìn anh bằng cặp mắt sung sướng. Nhưng nó không nhìn mặt anh mà nhìn mấy viền vàng trên tay áo anh.
-Vào đây, anh! Tachiana nói và dẫn anh vào bếp.
Trong bếp, anh thấy có bình nước giếng lạnh và chiếc khăn tay gai quen thuộc thêu hình những chiếc lá sồi đã được treo sẵn ở đấy. Tachiana trở ra. Đứa con gái mang xà phòng cho Nikôlai và nhìn anh cởi áo, rửa mặt. Nỗi bối rối trong lòng anh vẫn chưa tan.
- Mẹ cháu là ai vậy?
Anh hỏi con bé và đỏ ửng mặt. Câu hỏi đó anh hỏi chỉ để mà hỏi.
- Mẹ cháu cứ tưởng mẹ cháu là người lớn. - Con bé thì thầm với một vẻ bí mật. - Thế nhưng mà mẹ cháu chẳng phải là người lớn tí nào. Mẹ cháu chỉ là một đứa con gái bé nhóc còn xoàng hơn cả cháu nữa kia.
- Tại sao? - Anh hỏi.
Nhưng con bé không trả lời, nó nhoẻn miệng cười và chạy ra ngoài. Suốt buổi tối hôm ấy, anh không sao xua đuổi được cái cảm giác kỳ lạ là mình đang ở trong một giấc mộng nhẹ nhàng nhưng rất vững chắc. Mọi vật ở trong nhà xếp đặt đúng theo ý anh muốn. Vẫn những bản nhạc ấy trên chiếc đàn dương cầm, vẫn những cây nến hình xoắn ốc đang cháy, nổ tí tách và chiếu sáng căn phòng làm việc của cha anh. Cả những bức thư anh gửi từ bệnh viện về cũng thấy nằm trên bàn, dưới chiếc địa bàn cũ kỹ ngày xưa mà ông cụ vẫn thường dùng chặn lên trên những bức thư.
Sau khi uống trà, Tachiana dẫn Nikôlai ra thăm mộ cha anh ở bên kia rừng. Mặt trăng mờ mờ đã lên cao. Những cây bạch dương lấp loáng một cách yếu ớt trong ánh trăng, ném những bóng nhẹ xuống tuyết.
https://thuviensach.vn
Đêm đã khuya, Tachiana ngồi trước dương cầm, nhẹ nhàng lựa phím đàn, rồi ngoảnh lại nhìn Nikôlai và nói:
- Lúc nào tôi cũng có cảm giác là tôi đã gặp anh ở đâu rồi. - Vâng, cũng có lẽ, - anh đáp.
Nikôlai nhìn thiếu phụ. Ánh nến ở bên cạnh soi sáng nửa khuôn mặt nàng. Anh đứng dậy, đi đi lại trong phòng rồi dừng lại, anh nói bằng một giọng trầm trầm.
- Không, tôi không sao nhớ ra được!
Tachiana ngoảnh lại, sợ sệt nhìn Nikôlai nhưng không nói gì hết.
Nàng đã sửa soạn chỗ ngủ cho Nikôlai trên chiếc đi-văng trong phòng làm việc, nhưng anh không sao nhắm mắt được. Mỗi phút trong ngôi nhà này đối với anh thực quý báu và anh không muốn bỏ mất phút nào. Anh nằm, chăm chú nghe tiếng bước chân rón rén của con mèo Ackhip, tiếng đồng hồ tích tắc, tiếng thì thào của Tachiana với người vú già sau cánh cửa đóng. Rồi những giọng nói im bặt, người vú đã đi, nhưng vệt sáng ở dưới cánh cửa vẫn không tắt. Anh nghe thấy tiếng lật giở các trang giấy loạt soạt: chắc Tachiana còn đọc sách. Anh đoán nàng thức cốt để gọi anh dậy cho kịp tàu. Anh muốn nói với nàng rằng anh cũng không ngủ, nhưng anh không dám gọi.
Bốn giờ sáng Tachiana khe khẽ mở cửa và gọi Nikôlai. Anh cựa mình. - Anh dậy đi thôi, đến giờ rồi. - Nàng nói -Tôi rất tiếc phải đánh thức anh.
Tachiana tiễn anh ra ga. Hai người đi qua tỉnh lỵ còn đang ngủ im lìm. Sau hồi chuông thứ hai họ từ giã nhau. Tachiana đưa cả hai tay cho Nikôlai và nói.
- Anh nhớ viết thư nhé! Giờ đây chúng ta đã là những người thân. Phải không?
Nikôlai không trả lời, anh chỉ gật đầu. Mấy hôm sau, Tachiana nhận được một bức thư của Nikôlai viết ở dọc đường.
https://thuviensach.vn
"Tôi đã nhớ ra chúng ta gặp nhau ở đâu -Anh viết - nhưng tôi không muốn nói với em khi còn ở nhà. Em còn nhớ Krưm năm một nghìn chín trăm hai mươi bảy không? Mùa thu. Những cây tiêu huyền cổ thụ công viên Livađia. Trời u ám. Biển nhợt nhạt. Tôi đi theo con đường nhỏ tới Orêanđa. Trên chiếc ghế dài bên đường có một thiếu nữ ngồi. Cô ta chừng mười sáu tuổi. Trông thấy tôi, cô ta đứng dậy và đi về phía tôi. Khi chúng tôi gặp nhau, tôi liếc nhìn cô. Cô ta đi qua tôi rất nhanh, nhẹ nhàng, tay cầm một cuốn sách mở rộng. Tôi dừng lại, nhìn theo cô rất lâu. Thiếu nữ đó là em. Tôi không thể nhầm được. Tôi nhìn theo em và cảm thấy rằng có một người con gái vừa đi qua ngay bên cạnh tôi, người đó có thể làm tan vỡ cả đời tôi mà cũng có thể đem lại hạnh phúc cho tôi. Tôi hiểu rằng mình có thể yêu người con gái ấy đến hy sinh cả thân mình. Lúc đó tôi đã biết rằng tôi phải tìm em cho bằng được, dù cho có phải trả bất cứ giá nào. Tôi nghĩ như vậy, nhưng lại vẫn cứ đứng lặng. Vì sao? Tôi cũng chẳng hiểu. Từ ngày ấy tôi yêu Krưm và con đường nhỏ, ở đó tôi đã gặp em trong giây lát và mất em vĩnh viễn. Nhưng cuộc đời đã thương tôi và tôi lại được gặp em. Nếu mọi việc đều ổn thỏa và em cần đến cuộc đời tôi, thì tất nhiên nó sẽ là của em. À, tôi đã thấy bức thư của tôi bị bóc ra để ở trên bàn cha. Tôi đã hiểu tất cả và tôi chỉ biết từ nơi xa xôi này gửi lời cảm ơn em."
Tachiana đặt lá thư xuống, đôi mắt mơ màng nhìn qua cửa sổ ra mảnh vườn tuyết phủ:
- Trời, mình có ở Krưm bao giờ đâu? Chưa bao giờ! Nhưng lúc này cái đó có gì là quan trọng? Và để cho anh ấy tuyệt vọng làm gì? Và cả mình nữa...
Nàng cười, đưa tay lên che mắt. Bên ngoài cửa sổ hoàng hôn mờ mờ vẫn còn cháy đỏ, mãi không sao tắt được.
1943
KIM ÂN dịch
https://thuviensach.vn
GIÓ BIỂN
Suốt ngày, mưa rơi và gió lạnh thổi từng cơn. Thời tiết như vậy thường ở Maxcơva vào đầu tháng năm. Cái gì cũng xám. Trời, khói trên những mái nhà, cả đến không khí. Chỉ có con đường nhựa là bóng loáng như một dòng sông đen.
Một anh lính thủy trẻ tuổi tới nhà một bác sĩ già, cô độc, sống trong một ngôi nhà lớn bên bờ sông Maxcơva. Năm 1942 anh lính thủy bị thương nặng trong trận bao vây Xêvaxtôpôn và được đưa về hậu phương. Bác sĩ đã chữa cho anh trong một thời gian dài và cuối cùng họ trở thành bạn. Giờ anh lính thủy từ hạm đội Hắc Hải về đây vài ngày. Bác sĩ mời anh lại nhà uống rượu Kakhêtin và nghỉ đêm.
Nửa đêm, đài phát thanh báo tin quân đội Liên Xô đã chiếm lại được Xêvaxtôpôn. Pháo hoa sẽ bắn vào một giờ sáng - vào cái giờ mà phố xá Maxcơva hoàn toàn vắng ngắt.
Trong khi chờ đợi pháo hoa, bác sĩ và anh lính thủy ngồi chuyện vãn trong căn phòng làm việc hơi tối.
Cũng lạ, - bác sĩ vừa nói vừa uống nốt cốc rượu vang, - không hiểu khi bị thương nặng người ta nghĩ gì! Anh chẳng hạn, anh nghĩ gì lúc ở Xêvaxtôpôn?
Tôi sợ nhất là đánh mất hộp thuốc lá Kadơbếch. - Anh lính thủy trả lời. - Tất nhiên, ông biết đấy, trên nhãn hiệu của nó có in hình núi Kadơbếch phủ tuyết. Tôi bị thương lúc gần sáng. Đêm vừa qua đi còn mát rượi và trong sương mù mặt trời buổi sớm le lói, một ngày nóng bức nặng nề sắp đến. Tôi mất rất nhiều máu những vẫn nghĩ đến cái hộp nọ và tuyết trắng trên núi Kadơbếch. Tôi thèm được người ta vùi vào tuyết. Tôi tin rằng như thế máu sẽ thôi chảy và thở sẽ dễ hơn, còn mặt trời thì cứ lên cao mãi. Tôi nằm trong bóng mát một hàng rào nát,
https://thuviensach.vn
nhưng rồi cái bóng mát ấy cứ mỗi phút một nhỏ dần. Cuối cùng mặt trời bắt đầu thiêu chân tôi, rồi tay tôi và tôi phải nâng cánh tay ấy lên, di chuyển nó rất lâu để dùng bàn tay che mắt cho khỏi chói. Lúc đó tôi không thấy đau lắm. Nhưng tôi nhớ rất rõ, rằng lúc nào tôi cũng băn khoăn vì cái hộp thuốc lá.
- Tại sao anh lại sợ mất nó đến thế?
- Biết nói với ông thế nào... Hầu hết những dân mới ra trận đều có một thói quen ngốc nghếch là viết địa chỉ những người thân thuộc trên tất cả những thứ gì họ mang theo: trên mặt nạ chống hơi độc, trên xà cột, trên vải lót mũ chào mào. Anh nào cũng tưởng rằng mình sẽ bị giết và không ai còn có thể tìm ra dấu vết gì nữa. Sau này, tất nhiên chuyện đó cũng bớt dần.
- Thế anh đã viết địa chỉ ai trên hộp thuốc lá? - Bác sĩ hỏi và nheo mắt một cách tinh quái.
Anh lính thủy đỏ mặt, không trả lời.
- Thôi được. - Bác sĩ nói một cách vội vàng. - Gác chuyện ấy lại cái đã. Giữa lúc đó có ai bấm chuông. Bác sĩ bước ra phòng ngoài mở cửa. Giọng một thiếu phụ trẻ hổn hển trong bóng tối:
- Pháo hoa sắp bắn bây giờ. Ông làm ơn cho phép tôi được đứng ở bao lơn nhà ông để xem pháo hoa nhé?
- Tất nhiên, mời bà! - Bác sĩ nói. - Bà sao thế? Chạy từ tầng thứ ba lên tầng thứ tám à? Bà muốn làm hỏng tim hẳn. Tắt đèn đi, anh! -Bác sĩ đứng ở gần cửa, bảo anh lính thủy. - Ta ra bao lơn thôi. Nhưng mặc áo choàng vào. Chưa tạnh hẳn đâu.
Anh lính thủy đứng dậy, tắt đèn. Ở phòng ngoài, anh chào một người đàn bà lạ mặt. Những ngón tay họ chạm nhau trong bóng tối. Người đàn bà sờ soạng tìm thấy tay anh lính thủy và nhè nhẹ nắm lấy.
Họ đi ra bao lơn. Mùi mái sắt ướt và hương thu thoảng thoảng. Đầu xuân thường giống thu.
- Này, - bác sĩ rúm người lại vì nước mưa,
https://thuviensach.vn
rồi sau có chuyện gì xảy ra với cái hộp Kadơbếch của anh?
Khi tôi tỉnh lại thì cái hộp đã biến mất. Chắc những người tải thương hoặc cô y tá băng bó cho tôi đã vứt nó đi. Nhưng có cái này là lạ.
- Gì vậy?
- Cô ấy... tức là người có địa chỉ ghi ở hộp, đã nhận được một bức thư báo tin tôi bị thương. Chính tôi không hề viết cho người đó.
Chả có gì là lạ, - bác sĩ nói. - Một người nào đó nhặt được cái hộp, thấy địa chỉ, đã viết bức thư ấy. Một câu chuyện hết sức bình thường. Nhưng có lẽ anh thích gán cho việc đó một ý nghĩa thổi phồng.
Không đâu, tại sao lại như vậy? - Anh lính bối rối. - Nhưng nói chung, bức thư nói về tôi đến lúc ấy đã không còn cần thiết.
- Vì sao?
Ông biết đấy, - anh lính thủy trả lời sau một phút do dự. -Tình yêu giống như gió thoảng. Ban ngày nó từ bờ thổi ra. Không phải hết thảy mọi người đều chung thủy và kiên nhẫn chờ đợi ta như ta muốn.
- Anh nói như một nhà thơ chính cống. -Bác sĩ nhận xét với một vẻ hài hước.
- Trời! - Thiếu phụ kêu lên. - Sao mà ông khô khan làm vậy, bác sĩ! - Không đâu, thưa bà! - Bác sĩ bực mình.
Lúc đó loạt súng đầu tiên tung lên một ngọn lửa đỏ tươi. Tiếng gầm của đại bác lăn trên những mái nhà. Hàng trăm pháo sáng bay lên, xào xạc trong mưa, trên nền trời đục. Chúng soi sáng thành phố và cung Kremli bằng một ngọn lửa nhiều màu. Pháo sáng phản chiếu trên mặt nhựa đường.
https://thuviensach.vn
Thành phố vùng thoát khỏi bóng tối trong giây phút. Tất cả những gì mà những người dân ở trên những ngôi nhà cao nhìn thấy hàng ngày vụt hiện ra: cung Kremli, những chiếc cầu rộng, những ngôi nhà thờ và nhà cửa khu phía nam thành phố trên hữu ngạn sông Maxcơva.
Nhưng những cái đó khác hẳn lúc ta thấy chúng ban ngày. Cung Kremli như treo lơ lửng trong không khí và rất nhẹ. Cái ánh loang loáng trơn tuột của pháo sáng và mưa sương làm dịu đi những đường nét khắc khổ những ngôi nhà thờ của nó, những tháp thời nông nô và gác chuông Ivan Đại đế. Những tòa nhà đồ sộ mất trọng lượng. Chúng hiện ra như những ánh chớp trong khói thuốc của pháo sáng. Trông như chúng làm bằng đá trắng, được hiếu sáng từ bên trong bằng một thứ lửa hồng.
Khi một ánh chớp tắt đi thì những tòa nhà cũng tắt nốt, y như chính chúng là nguồn sáng của ngọn lửa bập bùng kia vậy.
- Đẹp tuyệt! - Thiếu phụ nói. -Tiếc là pháo hoa chỉ có hai mươi bốn loạt chứ không phải một trăm hai mươi bốn loạt.
Thiếu phụ im lặng một chút rồi nói tiếp:
- Xêvaxtôpôn! Anh còn nhớ không, nước ở đấy mới xanh và mới trong làm sao! Nhất là dưới đuôi tàu. Và hương những cây keo khô bị bắn gãy.
- "Anh còn nhớ không" nghĩa là thế nào? -Bác sĩ nói. - Bà hỏi ai vậy? Tôi chưa từng đến Xêvaxtôpôn.
Thiếu phụ không trả lời.
Thế mà tôi thì lại nhớ những cái đó rất rõ. - Anh lính thủy nói. - Chị đã ở Xêvaxtôpôn ư?
Vào khoảng thời gian anh ở đó. - Thiếu phụ trả lời.
Pháo hoa đã hết. Thiếu phụ ra về, nhưng qua mấy phút chị trở lại, kêu nhức đầu, xin bác sĩ piramiđông(1)rồi lại ra về sau khi bối rối từ biệt mọi người.
https://thuviensach.vn
Giữa đêm anh lính thủy thức giấc nhìn ra ngoài cửa sổ. Mưa đã qua. Ở những chỗ mây đen bị rách có những vì sao lấp lánh. "Thời tiết thay đổi làm mình đâm ra khó ngủ". Anh nghĩ. Rồi anh lại thiêm thiếp ngủ, nhưng cái giọng nói kéo dài lại thấy vang vang ngay bên cạnh: "Nước ở đấy mới trong làm sao!". Và anh lính thủy tỉnh dậy, mở mắt. Tất nhiên, không có ai trong phòng.
Anh đưa tay với hộp thuốc lá trên ghế. Cái hộp rỗng. Anh nhớ ra là anh còn thuốc để trong túi áo choàng. Anh lính thủy ngồi dậy, khoác chiếc áo ngủ vắt trên thành ghế, đi ra phòng ngoài bật đèn. Trên chiếc bàn con, bên cạnh tấm gương, một hộp thuốc lá Kadơbếch rách nát và nhăn nhúm nằm trên chiếc mũ lưỡi trai thủy quân. Một vết đen xóa mất hình ngọn núi tuyết.
Anh lính thủy vẫn chưa hiểu gì hết, cầm lấy cái hộp và mở ra: trong hộp không có thuốc. Nhưng bên trong nắp hộp anh nhìn thấy một địa chỉ quen thuộc do chính tay mình viết. "Nó từ đâu lại đây thế này? - Anh lính thủy nghĩ chẳng lẽ". Không hiểu sao anh thấy sợ hãi, tắt ngay đèn và nắm chặt hộp thuốc lá trong tay, trở về phòng. Từ lúc ấy đến sáng anh không tài nào chợp được mắt.
Sáng dậy, anh lính thủy không nói gì với bác sĩ. Anh cạo mặt rất lâu, sau đó tắm nước lạnh và tay anh run bần bật. "Ngốc thật! - Anh nghĩ - Thế là cái quái gì?".
Sương mù đẫm nắng nằm trên Maxcơva. Mọi cửa sổ đều mở toang. Cái tươi mát của ban đêm ùa vào những khung cửa sổ ấy. Buổi sáng ra đời trong ánh lấp loáng ẩm ướt của trận mưa vừa qua. Trong buổi sáng này người ta đã cảm thấy trước một mùa hè dài, những cơn mưa rào ấm áp, những buổi hoàng hôn trong suốt, những cánh hoa đoạn bay dưới chân.
Không hiểu vì sao anh lính thủy tin chắc rằng buổi sáng ấy không thể nào khác thế được. Cái im lặng trong bình minh, rất hiếm có ở Maxcơva, không xoa dịu, ngược lại còn làm tăng thêm nỗi bối rối trong lòng anh.
- Thật ra thì thế là cái quái gì? - Anh lính thủy lẩm bẩm. - Nói cho cùng những trường hợp như vậy không phải là không có trong cuộc đời.
https://thuviensach.vn
Anh đoán là thiếu phụ nọ chắc đã làm y tá ở Xêvaxtôpôn, người đầu tiên đã băng bó cho anh, thấy cái hộp có địa chỉ và đã viết bức thư cho cô ta, một người đàn bà khác, người đã quên anh thật là dễ dàng và nhanh chóng. Hôm qua chị nghe được câu chuyện của anh, nhận ra anh và cố ý mang cái hộp Kadơbếch đó tới.
"Ờ, nhưng chị ta giữ nó làm gì? Tại sao lại chẳng nói gì cả? Tại tuổi trẻ đây. - Anh quyết đoán như vậy. - Chính mình cũng thích những điều bí ẩn kia mà. Thế nào cũng phải đến thăm chị ta và cám ơn mới được". Nhưng cũng ngay lúc đó anh chợt hiểu rằng cần phải có một dũng cảm phi thường mới có thể ấn tay lên nút chuông điện ở cửa phòng thiếu phụ và chưa chắc anh đã dám làm chuyện đó.
Một giờ sau anh lính thủy từ biệt bác sĩ. Lúc xuống thang, anh đi rất chậm. Ở tầng thứ ba anh dừng lại. Có ba cánh cửa trông ra đầu cầu thang.
Anh lính thủy thấy nhẹ người khi nghĩ rằng anh đã không hỏi bác sĩ tên họ thiếu phụ và phòng ở của chị. Mà hỏi thế cũng không tiện. Còn bây giờ thì không thể nào bấm cả ba cái chuông liên tiếp để hỏi một người mà mình không biết tên.
Giữa lúc đó anh nghe thấy một giọng nói quen thuộc đằng sau một cánh cửa "Một giờ nữa tôi sẽ về, Masa à. Đêm qua tôi khó ngủ. Ở đây ngột ngạt quá. Tôi ra sông đây".
Anh lính thủy chợt hiểu rằng, ngay bây giờ đây, ngay phút này thôi, thiếu phụ sẽ ra và sẽ bắt gặp anh ở đầu cầu thang. Anh lao lại cánh cửa và tim đập thình thình, anh bấm chuông.
Cánh cửa mở ra tức khắc. Sau cánh cửa là thiếu phụ hôm qua. Gió từ trong cửa thổi ra làm bay tà áo nhẹ của thiếu phụ và làn tóc của chị.
Anh lính thủy yên lặng. Thiếu phụ bước ra, đóng cửa lại, cầm lấy tay anh và nói:
- Ta đi thôi. Tôi sẽ tiễn anh.
https://thuviensach.vn
Tôi muốn tới cảm ơn chị. - Anh lính thủy nói. - Chị đã cứu tôi ở đó...Ở Xêvaxtôpôn. Và chị đã gửi theo địa chỉ ấy một bức thư...
- Và hình như tôi đã làm một việc vô ích? -Thiếu phụ mỉm cười. - Anh không giận tôi đấy chứ?
Họ xuống thang. Thiếu phụ buông tay anh lính thủy, sửa lại mái tóc.
Vì sao kia? - Anh lính thủy hỏi, - tất cả những cái đó thật là kỳ lạ. Và thật là tốt đẹp...
Thiếu phụ dừng lại, nhìn thẳng vào mắt anh.
Đừng xúc động, anh. - Chị nói khẽ. - Dù tôi có nói gì cũng thế thôi. Chính tôi cũng xúc động chẳng kém gì anh.
Họ ra bờ sông và dừng lại bên cái lan can bằng gang. Cung Kremli với những bức tường màu hồng sáng lên trong sương mù buổi sớm. Thiếu phụ lấy tay che mắt và nín lặng. Anh lính thủy nhìn bàn tay chị và nghĩ rằng có lẽ máu anh đã giây trên những ngón tay kia. Trên những ngón tay dịu dàng và nhỏ nhắn.
Thiếu phụ vẫn để nguyên tay trên mắt, nói:
- Không bao giờ em tin rằng cái đó lại đến...ngay tức khắc như vậy..., rằng em lại còn được gặp anh lần nữa, sau Xêvaxtôpôn.
Anh lính thủy cầm lấy tay chị. Anh hôn bàn tay nhỏ nhắn và khỏe mạnh đó, không chú ý gì đến những người đi qua. Họ đi ngang hai người, giả tảng như không trông thấy gì hết. Chỉ mãi sau khi đi đã xa, họ mới vụng trộm nhìn lại và mỉm cười ngượng nghịu.
1944
KIM ÂN dịch
https://thuviensach.vn
CHÚ BÉ CHĂN BÒ
Sương xuống nhiều và lạnh, thật đúng là sương tháng chín. Sương từ những bụi cỏ cao vẩy nước vào mặt ta. Sương nhỏ giọt từ cành cây xuống sông và trên mặt nước tối sầm những vòng tròn chậm chạp cứ lan rộng mãi.
Người tôi ướt đẫm thứ sương ấy và tôi phải nhóm lửa sưởi. Khói bay lên trên ngọn những cây thông và những cây tùng lạc diệp. Những cây tùng lạc diệp đã trút hết lá. Lá tùng nhỏ như những sợi tóc ngắn vàng óng, rụng xuống không ngừng, mặc dầu trời lặng gió. Có một con chim nào kêu tanh tách trên những cây tùng bên đống lửa. Thì ra nó là anh thợ cạo của rừng miền này. Chính nó cắt lá, đánh kéo tanh tách, làm lá tùng rơi lả tả xuống đầu tôi, xuống sông và xuống đống lửa.
Tôi vừa hong người cho khô vừa nhìn ra sông. Lá vàng trôi thành những hòn đảo, thỉnh thoảng lại mắc vào những gốc cây và dừng lại. Từ phía sau đã lại ùn tới từng đống lá khác.
Những đống lá chắn ngang dòng sông, bắt đầu từ từ xoay lại, vùng vẫy, cố thoát khỏi những bàn tay xiết chặt của những rễ cây, cuối cùng thoát ra được và trôi đi. Chúng lúc thì sáng chói lên như vàng khi ra chỗ có nắng, lúc thì tắt đi và đen lại khi bóng cây trùm lên.
Trên sông vẫn còn lại những chiếc cầu phao bỏ đi không dùng nữa từ khi ở đây có những trận đánh với quân Đức: đó là những chiếc bè, trên đó lăn và sú mọc đầy. Những chiếc cọc chơ vơ cắm vào những giải cát ngầm làm sủi bọt lên chung quanh.
Những bụi cây bên đống lửa kêu răng rắc. Một cái mõm bò ướt át trong những bụi cây ấy thò ra. Con bò đánh hơi, thở phì một cái thật to và gật cái đầu trắng có chấm đen trên trán chào tôi. Lập tức ở gần đó vang lên tiếng roi vút đánh đét như một tiếng súng và có người nào đó kêu lên.
- Mày đi đâu thế hử, Praxka? Mày chui đi đằng nào rồi, con trời đánh kia? (1)
https://thuviensach.vn
Praxka lao về một bên, xô gẫy những bụi cây và biến mất. Từ trong bụi bước ra một chú bé chăn bò - một chú chăn bò bình thường mà ta có thể gặp trong bất cứ làng nào ở nước ta. Chú người nhỏ nhắn, tóc vàng hoe, đội mũ lưỡi trai rộng, mặc áo bông rách, tay cầm chiếc roi dài. Chú kéo lê chiếc roi theo sau trên cỏ ướt.
Chú chăn bò hỉ mũi, đưa ống tay áo dài sát đất lên quệt ngang, nhìn tôi và nói bằng một giọng rin rít:
- Chào bác! Sương xuống cứ như mưa ấy. Chịu hết nổi, bác ơi! - Lại đây mà hong, cháu! Tôi đề nghị.
- Được thôi. - Chú chăn bò ưng thuận và lại gần, ngồi xổm bên đống lửa. - Bác đi du lịch đấy à?
- Cũng có thể là du lịch. - Tôi trả lời.
- Còn cháu thì chăn bò. - Chú bé nói, - Tên cháu là Alêchxây Kuđưski. Cháu làm việc thay cha cháu. Cha cháu ở ngoài mặt trận. Nói thật tình, cháu chỉ muốn làm nghề chăn ngựa, nhưng ông chủ tịch không nhận. Ông ấy bảo là cháu chưa đến tuổi, thấp quá. Ông ta nhận thằng Lenca. Chăn ngựa gì nó! Nếu choảng nhau thật sự thì cháu được nó ngay. Nó cao lớn, nhưng sức lực chẳng có gì trơn. Bởi vì sức con người ở đôi vai mà vai nó thì hẹp như vai dê.
Chú lặng thinh một lát rồi đột nhiên hỏi tôi:
- Bác đã trông thấy sông Mitxixipi chưa? Ở Mỹ ấy mà.
- Chưa, chưa trông thấy. Sao?
- Cháu muốn thấy con sông ấy. Người ta bảo nó rộng lắm, rộng hơn cả sông Vonga. Thế bác đã đến Xtalingrát bao giờ chưa?
- Đến rồi.
Chú bé mỉm cười:
- Cha cháu bị thương ở Xtalingrát, được thưởng huân chương đấy. Trước chiến tranh, ở làng, cha cháu cũng chăn bò.
- Sao, cháu biết sông Mitxixipi à?
https://thuviensach.vn
Tôi hỏi.
- Ở trường dạy cháu. Với lại cha cháu cũng nói chuyện cho cháu nghe về con sông ấy. Cha cháu biết đủ mọi thứ, biết từng ngọn cỏ. Biết người ta gọi nó là gì, nó mọc ở đâu, nó có ích hay có hại. Cha cháu có thể giảng giải được tuốt tuột về nước ta và các nước khác. Có thật là có những núi kim cương, có cái là những trái núi ấy nằm sâu trong lòng đất và phải dùng máy móc đào một trăm năm mới đến nơi, phải không bác?
- Bác không biết. - Tôi trả lời. - Bác cũng chưa nghe ai nói về những trái núi ấy.
- Ấy thế mà cha cháu đã nghe nói đấy! -Chú bé nói. - Cha cháu không phải là người đi du lịch nhưng lại biết hết mọi chuyện đường xa. Thế bác có biết chuyện những cái chai không?
- Những cái chai nào?
- Những cái chai đựng thư ấy.
- Không, bác không biết.
- Để cháu giảng cho bác nghe. - Chú bé nói.
- Thí dụ, có một người du lịch đi trên một con tàu giữa đại dương. Thủy thủ, tất nhiên, nổi loạn. Họ không muốn đi. Ở nhà họ, họ được ăn uống no nê, lò sưởi suốt mùa đông có lửa, họ có bò sữa, có vườn rau, buổi tối tha hồ la cà sang hàng xóm đánh cờ (2). Còn ở trên tàu thì nóng nực và nước mênh mông, ngoài ra chẳng có gì trơn. Thế là họ nổi loạn, họ bỏ người du lịch nọ vào một chiếc thuyền con và thả ông ta một mình giữa đại dương. Rồi họ quay buồm lại và trở về. Nhưng đại dương lại vứt ông khách du lịch lên một hoang đảo. Bác đã thấy những hoang đảo bao giờ chưa?
- Chưa. - Tôi trả lời.
- Ở con sông làng cháu cũng có những đảo như thế đấy. - Chú bé nói, mắt chú sáng lên và mặt đỏ bừng vì xúc động. - Ở trên một hòn đảo làng cháu có một con rái cá. Ờ, thế rồi sóng vứt người du lịch lên một hoang đảo. Ở đấy chỉ có những cây cọ xào xạc và những con vẹt bay lượn, kêu quàng quạc, và
https://thuviensach.vn
nếu có nước ngọt thì thật là may mắn. Thế là người du lịch nọ lấy ở trong thuyền ra một cái chai viết một mảnh giấy nói vì sao mà ông ta lại bị quẳng lên hòn đảo này rồi đóng nút lại và ném xuống biển. Dòng nước biển cuốn cái chai đi, sau đó, tất nhiên nhiều thủy thủ ở một chiếc tàu nào đó nhặt được và đánh điện đi nói rằng người du lịch kia cần được cấp cứu. Và người ta cứu ông ấy. Sau đó, những tay thủy thủ bị đem ra xử trước tòa án hải quân.
-Vì nổi loạn?
- Vì nổi loạn và vì vô nhân đạo.
- Aliôska (3)- Một giọng đàn bà giận dữ ré lên ở xa. - Mày đâm đầu vào đâu rồi? Con Praxka lại chui vào vườn rau cải rồi kia!
- Con đây! - Chú chăn bò kêu lên. -Con đuổi nó đi ngay bây giờ. Chú đứng lên, khép áo bông lại.
- Con quái ác! Coi cả đàn bò cũng chẳng nhọc bằng chăn một mình con Praxka, bác ạ! Thôi, xin chào bác.
Chú bé chạy vào trong những bụi cây. Từ xa vẳng lại tiếng roi quất đen đét, tiếng kêu: "Đi đâu, đồ quỷ sứ!" và tiếng bò rống bực dọc.
Tôi tắt lửa, đi xuôi theo dòng sông. Cứ mỗi bước đi con sông trước mắt tôi lại càng có thêm vẻ bí ẩn và nên thơ. Lúc thì có những cánh rừng nhỏ toàn liễu hoàn điệp làm thành một bức tường xám trên bờ sông dựng đứng và những dây hốt bố vàng treo lơ lửng trên từng khóm liễu như có ai phơi rải rác đây đó những chiếc chiếu gai mới. Lúc thì một cây liễu thủng lỗ chỗ nằm vắt ngang sông như một cái cầu, và bên cầu, những con cá tung mình lên trên mặt nước. Lúc thì dòng sông oai vệ uốn khúc đi vào những cánh rừng vàng óng và xanh biếc mùa thu.
Ở hai bên bờ sông, nước khi thì chảy thành dòng trên những bãi cát sạch bóng, khi thì tụ lại thành những vực sâu lặng lẽ. Đứng ở bờ vực, ta có thể nhìn thấy loáng thoáng bóng những cây sồi mun lăn lóc dưới đây. Ở một đoạn, trước mặt ta hiện lên con đường dốc, đỏ rực những cây phong, còn sau đám lá phong là một nhà thờ nhỏ cũ kỹ, mái tròn đã han rỉ.
https://thuviensach.vn
Lúc hoàng hôn xuống, tôi ra khỏi rừng, tới đường làng. Con đường nằm dọc bờ sông. Những chiếc bè cỏ mọc đầy lại hiện lên trên dòng sông. Từ xa trông chúng giống như những hòn đảo. Mặt trời đang lặn và trên một chiếc bè có vật gì lấp lánh một cách khó chịu. Tôi chú ý nhìn kỹ nhưng không sao phân biệt được đó là vật gì đang lấp lánh: một cái hộp sắt tây hay là một mảnh kính.
Tôi cẩn thận bước lên một thanh gỗ vứt lay lắt ở đấy, chuyền sang bè, cúi xuống và trông thấy một chai bia thông thường. Một sợi bìm bìm quấn mấy vòng quanh cổ chai. Tôi nhặt cái chai lên và đưa ra chỗ sáng xem. Nó đã được gắn sáp ong và có vật gì trăng trắng bên trong. Đó là một bức thư gấp thành hình tam giác(4).
Tôi đập gãy cổ chai và moi bức thư ra nhưng không thể nào xem được: chữ viết bằng bút chì rất nhạt và bóng tối sâm sẫm dày đặc quá nhanh chóng làm tôi không sao phân biệt nổi những dòng chữ không thẳng hàng.
Tôi phải đi vội tới ga trước khi trời tối hẳn. Mùi lá lạnh lẽo bay ra từ các bụi rậm. Ánh sáng mờ mờ còn rớt lại trong những cánh rừng thưa. Trên trời cao, một đám mây đỏ rực như lửa đang tắt dần.
Tàu đi Maxcơva tới vào giữa đêm. Sau những cánh rừng hoang vắng, không khí lạnh lẽo và cảnh cô đơn, những toa tàu ồn ào đầy khói thuốc đối với tôi thật ấm cúng. Tôi nằm lên tầng trên, bên cạnh đèn, lấy bức thư ra đọc. Bức thư đã cũ. Căn cứ vào ngày tháng mà không hiểu vì sao người gửi đã viết chữ thật to thì bức thư nọ đã nằm trong chai chừng hai năm.
"Cha ạ! Đây là thư của con trai Alêchxây KuĐưskin gửi cho cha. Trong khi cha đang đánh nhau ngoài mặt trận, ở nhà ta vẫn bình thường và đang đợi cha về. Mẹ đi chăn bò, còn con thì giúp mẹ. Nhưng con lại muốn làm người chăn ngựa. Bởi vì chăn bò thì cứ phải loay hoay với nó, không được nhìn thấy gì hết. Đi ngựa thì còn có thể có công việc đi nơi này nơi khác, còn chăn mấy con bò sữa thì chỉ biết độc một con đường, quanh đi quẩn lại hết cánh đồng cỏ Gôrêlưi lại cánh rừng Litin. Ở đó chẳng có gì mà xem cho đã mắt. Mà con thì lại muốn xem, muốn biết tất cả mọi thứ. Nếu mẹ mà cho đi thì con xuống ngay bè, bỏ làng ra tận Xtalingrát với cha, nhưng mẹ lại
https://thuviensach.vn
không cho. Người ta bảo không có giấy thông hành thì không được ra mặt trận. Ở đó cha có thể nhận con vào, đi với cha để mang đạn hay làm một công việc gì khác trong đơn vị. Con có thể làm được những việc ấy lắm. Và cha sẽ kể cho con đủ mọi chuyện nếu trong trận đánh có những phút nghỉ. Con gửi thư này trong chai như người khách du lịch đã làm vì gửi bằng bưu điện thì chả còn gì là thú vị. Sông làng ta chảy ra Vônga, còn cái chai sẽ theo dòng sông Vônga mà đến tay cha. Một anh chiến sĩ nào đó sẽ nhặt nó lên, đọc địa chỉ và chuyển đến cho cha nếu cái chai không bị thủy lôi làm chìm hoặc va vào guồng tàu thủy. Bọn trẻ nói rằng Xtalingrát dài đến bốn mươi tám cây số và cứ mỗi bước lại có một trận đánh. À, mà con gửi thư trong chai để mẹ không đọc được. Mẹ thường hay khóc, nhớ cha và rất khó chịu khi con hoặc bà trông thấy nước mắt của mẹ. Nói để cha biết. Ở nhà đợi cha trở về bình yên vô sự và ngày nào cũng nhớ đến cha. Bởi vậy con luôn luôn yêu mến cha. Xin dừng ở đây. Alêchxây.
Anh Pếtca, con ông xay bột đã làm phi công. Người ta bảo anh ấy có bay qua làng ta, nghiêng cánh mấy lần, nhưng con không trông thấy. Ở cái vực bên gốc sồi cụt, cá chép nhiều vô kể, thích lắm, người ta đánh suốt ngày đêm. Còn ở nhà ông thợ săn Pôtapôp, ban đêm có một con cáo ngốc nghếch mò vào lồng cắp đi mất con vịt rơm: nó nhầm. Ông Pôtapôp chửi rủa nó suốt hai ngày. Cha trả lời cho con nhé!"
Ở Maxcơva tôi cứ loay hoay mãi, không biết nên giải quyết bức thư như thế nào? Địa chỉ của bố Alêchxây tất nhiên là không còn như cũ. Đành phải dùng một kế lừa dối để chú bé Alêchxây khỏi buồn rầu là gửi một bức thư về làng cho chú kèm theo tờ báo tin là thủy thủ tàu Kraxnôvôtxkơ đã thấy cái chai có bức thư trên biển Caxpixkôiê, nhặt lên tàu và gửi trả lại, bởi vì những trận đánh ở Xtalingrát đã kết thúc thắng lợi từ lâu và người nhận thư đã rời Xtalingrát để đi về phía tây, giành những chiến thắng mới.
KIM ÂN dịch
https://thuviensach.vn
LỜI CẦU NGUYỆN CỦA MADAM (1) BÔVÊ
Ai cũng gọi bà là mađam, kể cả anh chở nước thuê Phêđô. Sáng sáng Phêđô chở chiếc thùng tô-nô nước màu xanh lá cây tới biệt thự ở ngoại ô Macxơva, nơi mađam ở.
Mađam thường ra giúp Phêđô chuyển vào thùng con và mang mẩu bánh mì cho con ngựa chạ kéo xe già yếu. Con ngựa đang ngủ gà ngủ gật bỗng choàng tỉnh, thận trọng hươi cái mõm ấm ra đón miếng bánh trong tay mađam, nhai rất lâu và hướng về phía mađam mà gật gật cái đầu.
- Ôi! - Mađam cười. - Con ngựa già này nó lại cảm ơn tôi kìa! Mađam không biết rằng có những người hàng xóm cũng gọi bà, Mađam Gian Bôvê, là "con nghẽo già".
Mađam đã có tuổi nhưng nói năng, đi lại vẫn nhanh nhẹn và có đôi má hồng hào đến nỗi người ta phải lầm và đoán bà ít tuổi hơn nhiều so với sự thực.
Từ lâu rồi, mađam đã sống ở Nga trong những gia đình xa lạ, dạy trẻ con tiếng Pháp, ngâm nga đọc cho chúng nghe chuyện ngụ ngôn của La Fôngten (2) đưa chúng đi chơi và dạy chúng cách xử thế. Cuối cùng mađam rồi cũng quên hẳn miền Normanđi, nơi đó xưa kia bà còn là một con bé cao lẳng ngẳng.
Khi quân Đức từ phía bắc vòng qua chiến tuyến Maginô và ùa vào nước Pháp, khi quân đội Pháp bị các ông tướng phản bội đã đầu hàng và Pari thất thủ, mađam không nói một lời. Sáng hôm ấy bà không ra ngoài uống trà.
Lũ trẻ - hai đứa con gái - thì thầm kể cho cha mẹ nghe rằng chúng nhìn thấy mađam quỳ ở trong phòng, trước cửa sổ trông ra rừng và khóc. Trong rừng có chim cu cu kêu. Rừng rậm. Mỗi khi cu cu kêu, trong rừng sâu lại có tiếng vọng.
https://thuviensach.vn
- Giờ thì mađam chả bao giờ thôi khóc đâu.
Đứa con gái lớn có đôi đuôi tóc tết cháy nắng nói với bố.
- Tại sao?
- Bởi vì mađam chẳng còn nước Pháp nữa.
Đứa con gái trả lời và nghịch đuôi tóc tết.
- Đừng làm tuột bím tóc. - Người cha trả lời. - Nước Pháp vẫn còn.
Mãi đến bữa trưa, mađam mới rời phòng mình. Bà ngồi ở bàn, nghiêm nghị và lạnh lùng. Môi bà mím chặt và màu hồng đã biến mất trên đôi gò má nhỏ.
Không ai dám cất lời nói đến nước Pháp. Mađam cũng im lặng. Mùa hè năm sau, Đức tấn công Liên Xô. Phi cơ Đức ào ào bay đến Maxcơva. Những trái bom nặng rơi xuống gần biệt thự.
Trong thời gian khó khăn đó, ai cũng phải ngạc nhiên vì sự hối hả của mađam. Từ sáng tinh mơ cho đến đêm bà chăm lo mọi việc: đi Maxcơva mua thực phẩm, giặt giũ, vá quần áo, làm những bữa cơm đạm bạc và khâu áo trấn thủ cho chiến sĩ. - Và lúc nào cũng vậy, mađam vừa bận rộn làm vừa hát khe khẽ một bài hát Pháp: "Quand les lilas refleuriront".(3)
- "Khi những cây tử đinh hương nở hoa" -Đứa con gái lớn dịch lời bài hát - Sao lúc nào mađam cũng cứ hát mãi bài ấy hở mađam?
Mađam trả lời:
- Ồ, đó là một bài hát cũ. Khi nào cần phải nhẫn nại chờ đợi rất lâu một cái gì đó, bà mẹ đáng thương của ta vẫn thường bảo ta: "Không hề gì, Gian ạ, con đừng nóng ruột, khi nào tử đinh hương nở hoa thì cái đó sẽ đến."
Đứa con gái hỏi:
- Thế bây giờ mađam đang đợi gì?
- Đừng hỏi ta chuyện đó. - Mađam trả lời và nhìn con bé bằng cặp mắt xám, nghiêm nghị.
https://thuviensach.vn
- Hiểu không? Con bé gật đầu và chạy đi. Từ đó nó, cũng như mađam, bắt đầu hát bài hát về hoa tử đinh hương nở. Nó thích bài hát ấy. Con bé càng ngày càng mơ thấy nhiều thêm một mùa xuân huy hoàng, những khu vườn yên lặng ban mai và những bụi tử đinh hương bên hồ. Quand les lilas...quand les lilas refleuriront... refleuriront.(4)
*
Về cuối xuân năm 1944 trời ấm áp và trong trẻo nhờ những trận mưa ngắn thường có. Đến đầu tháng sáu thì tử đinh hương đã khai hoa trong khu vườn gần biệt thự.
Sương phủ đầy những chùm tử đinh hương lạnh ngắt và nếu ai ngửi hoa, người ấy sẽ bị ướt hết mặt. Chim chóc gọi nhau ở trong rừng. Một con chim lạ được người ta đặt cho cái biệt hiệu "bác thợ đồng hồ", làm mọi người vui. "Tơ r.r.r...- tơ r.r.r...- tơ r.r.r...". Nó kêu như vậy và cái tiếng kêu lanh lảnh ấy giống hệt tiếng vặn khóa lên dây đồng hồ treo.
Nhưng đẹp nhất là những lúc trời còn tranh tối tranh sáng và mặt trăng mờ mờ hơi sương vừa nhô lên khỏi những khu rừng bạch dương ẩm thấp. Trên bầu trời buổi tối hằn rõ bóng những cành liễu mảnh dẻ. Những đêm mây trắng đứng yên trên rừng và tỏa một ánh sáng yếu ớt trong bầu không khí màu xám đen phơn phớt xanh. Rồi đêm tràn ngập không khí mát mẻ và mùi nước đưa hương bắt đầu ngự trị trên mặt đất bao la đã trở nên im lặng.
Mađam đặt trẻ con ngủ rồi ra vườn, ngồi nghỉ trên chiếc ghế dài bên cạnh một bụi tử đinh hương và chăm chú nghe ngóng. Tiếng động xa xa của những con tàu ngoại ô, tiếng người đi trên đường cái lao xao vẳng đến tai bà. Không một vật gì ở chung quanh nhắc bà nghĩ đến chiến tranh nhưng chiến tranh vẫn tiếp diễn, nặng nề và khắc nghiệt. Và có lẽ vì thế, trong mùa hè năm nay người ta mới cảm thấy rõ hơn, mạnh hơn, cái đẹp của rừng, tiếng chim kêu, bầu trời đầy sao.
Cũng vào mùa xuân năm ấy, lần đầu tiên mađam đi tới nhà thờ làng bên. Hôm đó là ngày lễ Ba Ngôi. Nhà thờ được trang hoàng bằng bạch dương.
https://thuviensach.vn
Người ta rắc cỏ lên trên nền đá. Cỏ bị chân người dẫm nát xông lên một hương ngọt và buồn, hương mùa thu, hương lá héo.
Cha xứ già khọm làm lễ một cách vất vả, chậm chạp, nhờ đó mađam hiểu được nhiều. Bà thở dài khi nghe cha cầu nguyện "cho không khí được trong lành, cho mùa màng được bội thu và cho những thời gian yên ổn được lâu dài". Biết đến bao giờ những thời gian ấy sẽ tới với đất nước xa lắc xa lơ của bà, đất nước mà bà đã gần như quên hẳn!
Tối hôm đó mađam ra vườn muộn hơn thường lệ. Bà chủ nhà đi Maxcơva vắng và mađam phải làm việc nhiều hơn mọi ngày.
Trong vườn rất yên lặng. Trăng hắt những bóng trong vắt xuống mặt đất.
Mađam ngồi suy nghĩ, hai tay đặt trên đầu gối. Rồi bà quay lại và đứng hẳn dậy, có ai chạy ngang biệt thự. Mađam đến bên hàng rào và trông thấy thằng bé hàng xóm Vania.
-Vania! - Mađam gọi.
Thằng bé chạy qua, kêu lên:
- Cháu vừa ở Maxcơva về. Cuộc đổ bộ đã bắt đầu! Sáng hôm nay! Đổ bộ lên Normanđi! Có thế chứ!
- Sao? Sao? Mađam hỏi nhưng thằng bé không trả lời cứ chạy. Mađam nắm chặt tay, đi rất nhanh về phòng mình. Trong phòng ăn, ông chủ nhà, như thường lệ, đang đọc sách bên cốc nước chè lạnh ngắt.
Mađam đứng lại trong khoảnh khắc và thở hổn hển, bà nói rất nhanh:
-Họ đã đổ bộ... ở nước tôi... ở Normanđi. Tôi đã bảo mà... Quand les lilas refleuriront.
Ông chủ nhà ném cuốn sách lên bàn, đứng phắt dậy ngơ ngác nhìn theo mađam. Ông xoa tóc rối bù lên và lẩm bẩm: "Cừ thật!" rồi đi sang biệt thự bên cạnh hỏi thăm tin tức.
Một giờ sau ông trở về và dừng lại ở ngay ngưỡng cửa phòng ăn. Căn phòng sáng rực. Mọi ngọn đèn đều đã được bật lên. Trên chiếc dương cầm những cây nến bằng sáp ong cháy sáng và bốc khói. Cái bàn tròn đã được
https://thuviensach.vn
phủ khăn dày trắng toát. Trên bàn lấp lánh màu thủy tinh đen của hai chai sâm banh.
Và ở khắp nơi: trên bàn, trên cửa sổ, trên dương cầm, trên sân, hoa tử đinh hương cắm đầy bình, lọ, chậu thau và cả trong chiếc xô nước bằng gỗ sồi.
Mađam đang đặt ly lên bàn. Ông chủ nhà ngạc nhiên nhìn bà và im lặng. Ông không nhận ra mađam già của ông, người lúc nào cũng lo lắng, lúc nào cũng tất tả với đôi bàn tay đỏ lên vì công việc, trong người đàn bà nhỏ nhắn, tóc bạc, bận chiếc áo dài lụa xám. Những chiếc áo dài duyên dáng nhưng đã lỗi thời ấy ông chỉ thấy trong những buổi dạ hội và những cuộc vui gia đình khi ông còn nhỏ. Chuỗi hạt trai sáng lấp lánh lên trên nền lụa và chiếc quạt đen treo lủng lẳng bằng một sợi dây chuyền vàng gập lại với một tiếng động còn trong tay bà khi mađam trông thấy ông chủ nhà, mỉm cười và ấp úng:
- Xin mơxiơ tha lỗi,(5) nhưng tôi thiết nghĩ nhân việc này ta có thể đánh thức lũ trẻ dậy một lát...
- Vâng, tất nhiên!
Ông chủ lẩm bẩm nhưng vẫn chưa hiểu gì hết:
Mađam ra khỏi phòng rồi, mà một hương thơm nhẹ nhàng, chắc là nước hoa Pari, vẫn còn lại.
"Sao thế nhỉ! - Ông chủ nghĩ - Đôi mắt sáng long lanh, nụ cười, dáng điệu thoải mái khi bà ta gập chiếc quạt lại! Những cái đó ở đâu ra? Trời, hẳn lúc còn trẻ bà ta phải đẹp lắm! Lại còn chiếc áo dài nữa. Chiếc áo duy nhất mà bà mặc trong buổi dạ hội khiêu vũ duy nhất ở Can hay ở Grăngvin. Đến giờ mà không ai trong nhà này biết mađam có chiếc áo ấy, chuỗi hạt trai ấy, cái quạt ấy và nước hoa ấy. Còn những chai sâm banh này nữa, bà ta đã giấu ở đâu?"
Lũ trẻ đã xuống, ngạc nhiên và bối rối, mađam nhanh nhẹn bước theo sau chúng, ngồi xuống trước chiếc dương cầm, sửa lại mái tóc và bắt đầu chơi.
Phải, ông chủ nhà đã đoán đúng! Bao giờ cũng vậy, tim ông se lại khi nghe thấy điệu nhạc ròn rã làm người nghe ngây ngất.
https://thuviensach.vn
Vùng lên vì Tổ quốc
Ngày vinh quang đã tới!
Ông chủ nhà vừa nghe vừa mở sâm banh. Hai đứa con gái đứng nép vào nhau ở giữa phòng ăn, mắt long lanh nhìn mađam.
Hãy cầm lấy vũ khí, hỡi các công dân!
Bài Macxâye(6) vang vang, tràn ngập ngôi nhà, khu vườn và hình như nó tràn ngập cả rừng và đêm tối.
Mađam khóc, đầu gục xuống, mắt nhắm lại nhưng vẫn tiếp tục dạo đàn.
Cây dương cầm ca những tiếng sấm nhịp nhàng. Họ đang đi! Họ đi, con cái của nước Pháp, những đứa con trai và con gái của một đất nước đẹp tuyệt trần! Họ, những người Pháp vĩ đại, đã từ những nấm mồ đứng dậy để được trông thấy tự do, hạnh phúc và vinh quang của tổ quốc đã bị người ta làm ô nhục.
"Hãy cầm lấy vũ khí, hỡi các công dân!". Gió Normanđi, Buốcgônhơ, Sămpanhơ và Lănggơđốc thổi khô những giọt nước mắt trên má họ, những giọt nước mắt biết ơn hàng nghìn, hàng vạn người lính Anh, lính Nga và lính Mỹ đã lấy cái chết của chính mình để tiêu diệt chết chóc và giành lại cuộc sống, Tổ quốc và danh dự cho một dân tộc cao thượng và đau khổ.
Mađam ngừng chơi, vòng tay ôm lấy vai hai đứa trẻ và dẫn chúng đến bên bàn. Chúng nép vào lòng bà, vuốt ve tay bà.
Ông chủ nhà ngồi trong chiếc ghế bành, lấy lòng bàn tay che mắt và cứ để nguyên như thế, không bỏ tay ra, ông uống cạn cốc sâm banh. Đứa con gái nhỏ tưởng ông bị chói mắt vì trong nhà quá sáng.
*
Trời vừa sáng thì đứa con gái lớn đã tỉnh giấc. Nó lặng lẽ trở dậy, mặc quần áo và chạy sang phòng mađam.
Cửa phòng bỏ ngỏ. Mađam mặc chiếc áo dài bằng lụa xám đang quỳ bên cửa sổ, gục đầu vào bậu cửa, tay cũng đặt lên trên đó, thì thào nói khẽ điều gì.
https://thuviensach.vn
Đứa con gái lắng nghe. Mađam thì thầm những tiếng lạ lùng. Con bé không đoán được ngay rằng đó là những lời cầu nguyện.
- Lạy Đức Mẹ Maria Đồng trinh! - Bà thì thầm - Lạy Đức Mẹ Maria Đồng trinh! Hãy cho con lại được trông thấy nước Pháp, được hôn ngưỡng cửa nhà con và lấy hoa tô điểm nấm mồ anh Saclơ yêu dấu của con! Lạy Đức Mẹ Maria Đồng trinh!
Con bé đứng sững nghe bà cầu nguyện. Mặt trời cất mình lên bên kia rừng và những tia nắng đầu tiên đã lấp lánh trên sợi dây chuyền của chiếc quạt vẫn còn lủng lẳng nơi tay mađam.
1945
KIM ÂN dịch
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
CẦU VỒNG TRẮNG
Ôi, còn đâu những đêm đông, những vì sao sáng chói lấp lánh và lạnh lùng.
X. XÔLÔVIEP
Họa sĩ Pêtrốp được gọi nhập ngũ vào giữa năm thứ hai của cuộc chiến tranh tại một thành phố lớn ở Trung Á. Từ Maxcơva Pêtrốp đã sơ tán về đây. Dãy núi Alatao đứng sững ở phía nam thành phố như một bức trường thành màu xám. Tuyết đã rắc lên các đỉnh núi. Buổi tối trong những căn nhà đều giá lạnh im lìm và tối tăm. Họa hoằn trong vài cửa sổ mới có ánh đèn dầu leo lắt. Trong thành phố đèn tắt rất sớm. Ban đêm vừng trăng nhô lên trên những rặng thùy dương trơ trụi và trong ánh sáng chói chang, thành phố có một vẻ gì dữ dội.
Pêtrốp sống trong căn nhà gỗ nhỏ bên bờ một con suối chảy lượn quanh thành phố sát các lề đường - tiếng suối reo đều đều, không đổi. Đêm đêm trên tấm đệm mỏng trải trên sàn nhà, Pêtrốp nằm lắng nghe tiếng nước tràn qua những viên đá. Sau tường nhà, con lạc đà già nua của hàng xóm chậm rãi nhai nhai mãi không thôi.
Tàu hỏa rời thành phố vào ban đêm. Nhà ga vắng tanh. Những hàng cây lạnh giá xào xạc. Đêm châu Á vun tuyết thành đống giữa các toa xe. Chẳng có ai ra ga tiễn Pêtrốp. Anh không có bạn bè và cũng chẳng để lại đây kỷ niệm nào. Không có gì hết, ngoài cái cảm giác cuộc sống bị ngưng lại. Mới ngoài ba mươi tuổi nhưng cuộc đời phiêu bạt bơ vơ khiến Pêtrốp sớm cảm thấy mình là một ông già.
Lên tàu, Pêtrốp chui vào một góc toa hút thuốc. Ngoài cửa toa một người lính đang chia tay với một phụ nữ trẻ tuổi. Không hiểu sao Pêtrốp cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe người phụ nữ xưng hô "anh, tôi" với bạn.
Đó là một giọng nữ cởi mở và trong trẻo. Pêtrốp thầm nghĩ rằng người ta có thể đến với giọng nói ấy như một tiếng gọi từ xa, qua sa mạc, qua những
https://thuviensach.vn
đêm sâu mịt mùng, qua thác ghềnh giá buốt, đi cho đến lúc đôi chân rớm máu, gục xuống lại bò tiếp. Miễn là được nhìn thấy cái cánh cửa, nắm lấy nó và nói: "Đây, tôi đã đến, xin đừng xua đuổi tôi". Có những giọng nói nghe như một lời hứa hẹn của hạnh phúc.
Tàu chuyển bánh. Pêtrốp ngó ra ngoài cửa sổ. Trên sân ga anh nhìn thấy người phụ nữ trẻ tuổi. Gương mặt tái nhợt, nụ cười, bàn tay giơ lên -chỉ có thế. Bóng tối lập tức ập ngay vào khuôn cửa.
"Nếu anh dừng lại ở Maxcơva, anh nhớ gọi điện cho Masa nhé!" và chị nói số điện thoại. Pêtrốp nhẩm lại số điện thoại hồi lâu và không tin ở trí nhớ của mình, anh ghi nó lên thẻ quân nhân.
Dọc đường, Pêtrốp luôn ngó ra cửa nhìn những đám tuyết dày, những cột điện thoại nối nhau chạy dài vào nẻo xa màu xám. Thành phố Trung Á xa dần không còn đường trở lại với nó nữa. Nó trở thành hồi ức mờ ảo, như hư như thực, lấp lẫn giữa dòng đời như một ngày đã sống qua giữa ba trăm sáu mươi ngày của một năm dài dặc.
Mùa đông, mùa xuân và mùa hè mưa nhiều trôi qua trong những trận đánh. Khi vượt qua tuyến phòng thủ của quân Đức ở Vitép, Pêtrốp bị thương vào đầu.
Ba tháng anh nằm ở bệnh viện. Ra viện anh được gửi đến một nhà nghỉ để hồi sức sau vết thương nặng nề. Pêtrốp yêu cầu được về nghỉ ở thành phố Trung Á, nơi anh đã được gọi vào quân đội. Gần thành phố có một an dưỡng đường nhỏ ở trên núi.
- Ồ, anh bạn thân mến, - ông bác sĩ già râu bạc, quân hàm nhàu nát nói với anh. - Anh nghĩ lại xem! Anh chỉ có một tháng mà đi về đã mất mười ngày rồi.
- Có khi một ngày còn quý hơn cả một năm. - Pêtrốp cãi lại. - À, nếu vậy thì... Nếu anh có những lý do đặc biệt để về đấy, - ông bác sĩ làu bàu, - thì tôi chỉ biết giơ tay. Tôi đồng ý.
Phải đi qua Maxcơva. Tàu đến Maxcơva lúc nửa đêm và sẽ rời Maxcơva đi Trung Á vào sáng sớm. Cả một đêm dài mệt nhọc đang chờ anh ở đoạn
https://thuviensach.vn
Maxcơva. Còn lâu tàu mới đến Maxcơva, Pêtrốp hồi hộp, ngay lúc vừa hoàng hôn khi con tàu tỏa khói lên những cánh rừng bạch dương, chạy trên đất Xmôlenxkơ. Ngoài cửa sổ, những nhà nghỉ tối om, những bãi tuyết và những khu vườn cứng lạnh vùng Kuntxevô lướt nhanh trong bóng đêm. Sau đó hiện lên vùng sáng yếu ớt của bầu trời đến Maxcơva tối mò và cuối cùng sân ga tăm tối vang động của ga Bêlôruxi về đêm trôi tới rồi dừng lại.
Elêna Pêtrôpna tắt đèn và kéo tấm rèm cửa. Hơi ấm tỏa lên từ lò sưởi hơi nước. Đêm tối mò trải trên Maxcơva.
- Thế là lại về Maxcơva rồi. Lại xa cái vùng Trung Á - Elêna nói và lấy ngón tay ấn lên đôi mày. Chị thường làm như vậy mỗi khi suy nghĩ. Lại về với công việc quen thuộc, với bạn bè. Mọi chuyện lại như cũ. Còn muốn gì hơn nữa?
- Vậy mình còn mong muốn điều gì hơn nữa? - Chị nhắc lại và im lặng.
Một giọt lệ trào trong khóe mắt, chị không chùi đi mà cứ nhìn chằm chằm vào cửa sổ -Ánh sáng ở cột đèn ngoài ngã tư bỗng trở nên sắc cạnh như những ngôi sao bằng kim tuyến trên cây Nôen.
- Giá mà biết được hạnh phúc bí ẩn là gì? Nó ở đâu? Khó mà sống mãi thui thủi một mình và nhìn thấy tất cả dù chỉ là đêm nay, và suy nghĩ về mọi điều, không mỉm cười với ai, không đặt tay lên vai ai và không bảo: "Anh xem, tuyết đang rơi kìa".
Máy điện thoại trên bàn thận trọng reo lên. Elêna Pêtrốpna cầm ống nghe. Giọng nói đàn ông yêu cầu gặp Masa.
- Masa không ở đây nữa. - Elêna Pêtrốpna trả lời. - Ai hỏi đấy? - Vấn đề là... tôi không quen cô ấy. -Giọng đàn ông trả lời sau một lát suy nghĩ. Nói tên tôi ra chả có ý nghĩa gì...
- Cũng kỳ đấy. - Elêna Pêtrốpna giễu cợt nói.
- Kỳ quá thật! - Người đàn ông đồng ý - Tôi vừa ở mặt trận về. - Anh muốn chuyển gì cho cô ấy chăng? Anh ở chỗ anh cô ấy về chăng? Anh ấy cũng ở ngoài mặt trận mà.
https://thuviensach.vn
- Không, tôi không biết anh cô ấy, - người đàn ông trả lời và im bặt.
Làm thế nào bây giờ? Tôi đợi đây. - Elêna Pêtrốpna nói. - Hay là bỏ ống nghe xuống.
Hãy khoan đã. - Giọng nói van lơn. - Tôi đang ở Maxcơva đợi chuyển tàu. Tôi đang gọi điện từ sân ga Bêlôruxi. Không hiểu người ta có để cho tôi nói hết không. Bên máy có nhiều người đang đợi.
- Nếu vậy anh nói mau lên.
Elêna Pêtrốpna đứng nghe bên cửa sổ. Chị nhíu mày rồi mỉm cười, chìa tay ra cửa sổ - con mèo xám đang bám vào rèm cửa mắt tròn xoe; chị nói: Khẽ chứ! Mày làm gì thế! - Không, tôi không nói với anh mà nói với con mèo con. Chị bật cười. - Tôi đang nghe anh và chẳng hiểu gì cả. Vâng, vâng. Quả là lạ lùng. Nhưng cũng có thể là điều hay... Tôi không biết... Tôi còn nhớ tất cả; Nhà ga, đêm và gió. Chỉ không nhớ có anh thôi. Chẳng lẽ bằng vào giọng nói ư? Anh là một người kỳ lạ. Bao giờ tàu chạy? Tôi cũng chẳng biết nghĩ thế nào nữa... Tất nhiên đáng tiếc đấy. Anh bị thương nặng ư? Ở đầu à? Ở ngoài ga anh sẽ mệt đến chết mất. Ban đêm anh không được đi lại ở Maxcơva đâu. Họ sẽ giữ lại đấy. Vâng tôi nghe đây - Anh nói đi.
Cuộc nói chuyện bỗng nhiên ngắt quãng. Elêna Pêtrốpna chậm rãi buông ống nói.
- Có thể anh ấy sẽ gọi điện nữa. - Chị nói và ngồi xuống chiếc ghế dựa trên bàn, nhặt mẩu thuốc hút dở và rít mạnh.
Mười lăm phút rồi nửa giờ trôi qua. Không có ai gọi điện cả. Đồng hồ điểm hai tiếng.
- Không, thế này thì không thể hiểu được! -Elêna Pêtrốpna nói to. - Mình phát điên lên mất.
Chị lao lại phía cái tủ và mở tung nó ra. Con mèo phát hoảng chui xuống gầm đi-văng. Elêna Pêtrốpna nhanh nhẹn lấy chiếc áo dài đen, dốc lọ nước hoa. Con mèo ngồi ở dưới đi-văng đang thu mình rình chuột, móng vuốt xòe
https://thuviensach.vn
ra giỡn bắt khi thì dải đăng-ten khi thì chiếc mùi-xoa mỏng lất phất quanh nó. Nó thích trò chơi này mặc dầu nó nhăn mũi lại và còn hắt hơi về mùi hương lạ lùng của các vật lạ này.
Khi Elêna Pêtrốpna ra khỏi nhà đồng hồ điểm ba giờ. Maxcơva ngủ yên trong ánh sáng trắng của tuyết và những cây đèn.
Ở quảng trường Puskin nhóm tuần tra giữ Elêna Pêtrốpna lại. Chị đưa họ xem giấy tờ và nói rằng chồng chị bị thương ở ngoài mặt trận đang qua Maxcơva. Bây giờ anh ấy đang ở ga Bêlôruxi và chị cần phải được gặp anh ấy. Khi nói đến chữ "chồng" Elêna Pêtrốpna đỏ mặt lên, nhưng không chiến sĩ nào trông thấy điều đó. Các chiến sĩ thì thầm nói với nhau, sau đó người nhiều tuổi nói:
- Có thể chị nói thật - Nhưng Maxcơva đang giờ thiết quân luật, chị ạ. - Việc gấp quá, - chị nói đầy thất vọng.
- Vấn đề là như vậy, - người chiến sĩ nhiều tuổi nói. -Giá chị có nhiều thì giờ nhất định chúng tôi cũng vẫn giữ chị lại. Đúng thế! Nào Xiđôrốp, - anh ta nói với người chiến sĩ thấp lùn. - Hãy giữ chiếc xe kia lại.
Anh chiến sĩ chặn chiếc xe du lịch lại. Người có tuổi kiểm tra giấy tờ của người lái xe, nói gì đó với anh ta rồi quay sang Elêna Pêtrốpna:
- Chị ngồi vào đây! Xiđôrốp đi với nữ công dân đến nhà ga. Để kiểm tra, - anh nói thêm và mỉm cười. - Và để chị khỏi bị giữ lại lần nữa. Elêna Pêtrốpna nhanh nhẹn bước nào căn phòng xanh nhạt của nhà ga và lập tức chị thấy nghẹn thở. Chị tưởng như trái tim mình dừng lại. Nếu có thể, chị sẽ nhắm mắt lại, dựa vào tường đứng yên để lắng nghe một cái gì đang vang vọng từ xa xăm và rất mỏng manh có thể từ ngọn lửa chùm đèn nhà ga, có thể là ngay trong mạch máu thái dương chị.
Những con người mệt mỏi đang ngồi gục trên những ghế dài bằng gỗ. Ở chiếc ghế đằng xa có một sĩ quan gầy gò vẻ mặt nhọc mệt đang ngồi. Mắt trái anh cuốn lớp băng đen.
Elêna Pêtrốpna lại gần anh và nói:
https://thuviensach.vn
- Thế đấy...
Người sĩ quan nhanh nhẹn đứng dậy.
-Thế đấy... - Elêna Pêtrốpna nhắc lại và mỉm cười - Mà anh đúng hệt như tôi nghĩ.
Gian phòng như thụt xuống rồi quay tròn. Pêtrốp đỡ Elêna Pêtrốpna và đặt chị ngồi xuống chiếc ghế nơi anh chiến sĩ đang ngồi, bối rối kéo vội bọc quân trang để chị ngồi được thoải mái hơn.
Elêna Pêtrốpna nhìn gương mặt đầy lo lắng đáng yêu và hầu như hoàn toàn quen thuộc của Pêtrốp, khẽ hỏi:
- Anh có hiểu gì không?
- Không, - Pêtrốp trả lời. - Và có gì phải hiểu?
- Có lẽ đúng thế, không cần - Elêna Pêtrốpna đồng ý và thở dài. - Tội nghiệp anh, em đã làm anh sợ. Tay anh lạnh cóng thế này. - Chị cầm bàn tay Pêtrốp và sưởi ấm nó giữa hai lòng bàn tay mình.
-Cái này là về lâu về dài. - Chị nói như chính với mình.
Pêtrốp yên lặng. Trong giọng nói của Elêna Pêtrốpna có cả sự dịu dàng và sự lo âu như đêm tháng chạp. Trên sân ga, khi gió từ sa mạc thổi về làm bay tuyết khô. Pêtrốp yên lặng, nhưng anh tưởng rằng anh đã nói hết cả với Elêna Pêtrốpna.
... Thành phố Trung Á đón Pêtrốp với tuyết trắng và vừng mặt trời lồ lộ trên bầu trời xuân trong vắt. Tuyết phủ đầy trên các cành cây cổ thụ, trên hàng rào và cả đường dây điện thoại. Đường phố to rộng sáng chói như được xé ra từ những đống tuyết lấp lánh muôn vàn hình sao tuyết. Dãy núi Alatao tỏa sáng về thành phố qua lớp băng xanh lam tinh khiết. Đôi khi đất lở trên triền núi và bụi trắng bốc mùi lên.
Những con la đủng đỉnh trên phố lắc lư đôi tai cứng lạnh. Nước óc ách trong các hố băng và những bông hoa đại cúc phủ đầy tuyết mịn xòe nở trong các thửa vườn nhỏ như những bông hồng mùa đông khổng lồ.
https://thuviensach.vn
Pêtrốp hít thở say sưa không khí mùa đông thậm chí làm anh choáng váng.
Pêtrốp ngạc nhiên nghĩ rằng thành phố này một năm trước đây tưởng chừng như ảm đạm và dữ dội, giờ đây ký ức thô cứng của anh lại hé ra trong quá khứ những ngày tươi sáng, bầu trời trong trẻo, mùi lá mục và vẻ yên tĩnh của những khu vườn cổ xưa. Trước đây anh không nhận ra điều đó. Vì sao? Có thể vì anh chỉ có một mình và nhìn tất cả chỉ có một mình. Vì bên anh không có bàn tay ấm áp, không có đôi mắt tươi cười và giọng nói trầm ấm.
Pêtrốp sống ở ngoài thành phố trong nhà an dưỡng giữa giá lạnh tuyệt vời của núi cao, nơi những ngôi sao tưởng chừng như đông lại về đêm và bọc quanh lớp băng sắc nhọn.
Anh sống trong nỗi hồi hộp lâng lâng không dứt. Sự hồi hộp càng tăng lên biến thành cảm giác của một niềm hạnh phúc hư ảo gần như không thể chịu đựng nổi, khi người ta mang đến cho anh bức điện vỏn vẹn vài chữ: "Đón em, ngày hai mươi".
Sau bức điện tất cả chuyển động như một cơn lốc tuyết, làm lóa mắt, ngạt thở, biến thế giới thành chiếc cầu vồng trắng.
Sân ga ban đêm, giá rét đôi môi yêu quý run rẩy, giọng nói của nàng, con đường về nhà nghỉ chạy len giữa rừng táo dại, tiếng thác đổ xuống những đám tuyết đầy bọt cùng cây rừng đổ nát.
Và vừng sáng xanh biếc của những vì sao mọc trên đỉnh núi nối đuôi nhau thành chuỗi dài vĩnh cửu lấp lánh. Cả không khí của sa mạc, của núi và mùa đông phà vào mặt họ ở chỗ ngoặt, khi họ dừng lại trong phút chốc để nhìn lên những dãy núi về đêm lấp lánh ánh sáng của những hạt tuyết rắn mờ mờ. Và những lời của Elêna Pêtrốpna nói ra khe khẽ, gần như với sự tuyệt vọng:
- Điều này là lâu dài, lâu dài. Có thể là mãi mãi...
1945
MỘNG QUỲNH dịch
https://thuviensach.vn
BỨC ĐIỆN
Hiếm có tháng mười mà trời lại lạnh và mưa nhiều đến thế. Những mái nhà lợp ván mỏng đen hẳn lại.
Trong vườn, cỏ rối vào nhau, nằm rạp xuống. Chỉ có một bông hướng dương nhỏ ở bên hàng rào là cứ nở mãi mà không sao nở hết để tàn đi cho được.
Những đám mây đen xốp còn cố bám lấy những cây liễu trụi lá, từ ngoài sông kéo vào lê lết trên những đồng cỏ. Từ những đám mây ấy mưa trút xuống một cách khó chịu.
Đường lầy đến nỗi không thể đi bộ, mà cũng chẳng có thể đi xe được và những người chăn súc vật cũng thôi không lùa đàn vào đồng cỏ.
Tiếng tù và mục đồng im bặt cho tới tận mùa xuân. Bà Katêrina Pêtrôpna càng thấy khó trở dậy vào buổi sáng để nhìn vào những vật ấy: Những căn phòng có mùi đắng của những chiếc lò sưởi không bao giờ đốt đến, tập báo "Tin châu Âu" bụi bặm đầy, những chiếc chén đã ngả màu vàng trên bàn, ấm xamôva từ lâu chưa lau rửa và những bức tranh trên tường. Có thể vì trong các phòng tối quá mà mắt bà thì đã kém, cũng có thể vì những bức tranh bị thời gian làm bạc màu, nhưng nhìn chúng bà không thể nào hiểu nổi đó là tranh gì. Bà Katêrina chỉ căn cứ vào trí nhớ mà biết đây là chân dung của cha mình, còn bức tranh nhỏ trong khung mạ vàng kia là quà của họa sĩ Kramxkôi; phác thảo bức "Người con gái không quen biết mặc áo choàng nhung" của ông.
Bà Katêrina sống nốt những ngày tàn trong ngôi nhà cũ kỹ do cha bà - một họa sĩ danh tiếng - dựng nên.
Khi đã có tuổi, họa sĩ từ Pêterburg về làng cũ, sống yên tĩnh và chăm lo vườn tược. Ông không còn vẽ được nữa, tay đã run và thị giác cũng yếu, mắt ông bị đau luôn.
https://thuviensach.vn
Theo lời bà Katêrina thì ngôi nhà của bà là nhà "lưu niệm". Viện bảo tàng địa phương quản lý ngôi nhà này. Nhưng rồi nó sẽ ra sao khi bà - người cuối cùng trong ngôi nhà này - chết đi, bà cũng không biết nữa.
Còn trong làng Zabôriê thì chẳng ai là người có thể nói chuyện với bà về những bức tranh, về cuộc sống ở Pêterburg, về mùa hè ở Pari khi cô Katêrina còn sống bên cha và được chứng kiến đám ma Victo Huygô.
Cũng chẳng có thể kể chuyện đó cho Manhuska, con gái bác hàng xóm thợ giày của nông trường. Manhuska hàng ngày chạy sang lấy nước giếng, quét sàn và đặt ấm trà cho bà.
Bà Katêrina thưởng cho Manhuska một đôi tất tay đã nhăn nhúm, những chiếc lông đà điểu, một cái mũ đen gắn hạt cườm.
Manhuska khịt mũi và hỏi bà lão bằng giọng khàn khàn:
- Bà cho cháu làm gì? Cháu có phải là đứa nhặt giẻ rách đâu.
- Cháu đem bán đi. - Bà Katêrina thều thào. Đã một năm nay bà yếu hẳn đi và không còn nói to được nữa. - Cháu đem bán đi.
- Cháu sẽ bỏ vào kho đồ cũ.
Manhuska kết luận và nhặt lấy, bỏ đi.
Thỉnh thoảng ông lão coi kho cứu hỏa - lão Tikhôn gầy gò, tóc hung - lại rẽ vào chơi. Lão vẫn còn nhớ việc cụ thân sinh ra bà Katêrina từ Pêterburg về làng, xây nhà, dựng nên cơ ngơi này.
Lúc đó lão Tikhôn còn là một đứa trẻ, nhưng lòng tôn kính họa sĩ già lão giữ đến trọn đời. Nhìn những bức tranh của họa sĩ, lão thở dài thườn thượt: - Những bức tranh mới tự nhiên làm sao!
Lão Tikhôn thường săn sóc bà một cách vô tư không tính toán, vì lòng thương đối với bà, kể ra lão cũng vẫn giúp được việc vặt trong nhà: lão chặt những cây khô trong vườn, cưa ra và chẻ thành củi. Và lần nào cũng vậy, khi ra về, lão cũng dừng lại ở cửa và hỏi:
- Thế nào, bà Katêrina, Naxtia có viết gì về không?
https://thuviensach.vn
Bà Katêrina nhỏ bé, lưng gù, lặng lẽ ngồi trên chiếc đi-văng và cứ lần giở mãi giấy má gì không biết trong chiếc ví da nhỏ màu đỏ hung. Lão Tikhôn hỉ mũi một lúc lâu, quanh quẩn bên ngưỡng cửa.
- Ờ, thôi! - Lão nói, không đợi câu trả lời. -Tôi đi đây, bà Katêrina ạ! Bà Katêrina thều thào:
- Ờ, đi đi Tisa(1)! Đi đi, Trời phù hộ cho lão.
Ông lão bước ra, nhẹ nhàng khép cửa và bà Katêrina bắt đầu sụt sịt. Gió rít ngoài cửa sổ, trên những cành trơ trụi, vặt đi những chiếc lá cuối cùng. Ngọn đèn đêm run rẩy trên bàn. Nó như một sinh vật độc nhất trong ngôi nhà bỏ hoang này. Không có ánh lửa yếu ớt ấy bà Katêrina không biết làm thế nào mà sống được đến sáng.
Đêm dài và nặng nề như những cơn mất ngủ. Những buổi bình minh ngày càng chậm chạp thêm, ngày càng đến muộn hơn và bất đắc dĩ lắm chúng mới le lói qua những cửa kính lâu ngày không cọ rửa. Ở giữa những khung cửa(2)từ năm ngoái vẫn còn lại trên lần bông những chiếc lá trước kia là lá thu vàng nhưng bây giờ thì đã bắt đầu mục và đen hẳn lại.
Naxtia, con gái bà lão và là người ruột thịt duy nhất của bà thì ở xa, mãi tận Lêningrát. Ba năm trước, nàng trở về nhà lần cuối.
Bà Katêrina biết Naxtia giờ đây chẳng còn bụng dạ nào mà nghĩ đến bà. Bọn trẻ có công chuyện của họ, có những thú vui khó hiểu của họ, hạnh phúc của họ. Tốt hơn hết là đừng ngăn trở họ. Vì thế, chỉ họa hoằn bà mới viết thư cho Naxtia, nhưng ngày nào bà cũng ngồi trên mép chiếc đi-văng đã võng xuống mà nghĩ đến nàng. Bà ngồi yên, lặng lẽ đến nỗi con chuột nhắt cũng bị mắc lừa vì cái yên lặng ấy. Nó bò ra khỏi lò sưởi, cất hai chân trước lên, đưa mũi quay đi quay lại hít hít cái không khí tù hãm của căn phòng.
Naxtia cũng không viết thư về, nhưng cứ hai ba tháng một lần, anh đưa thư trẻ tuổi và vui tính Vaxili lại mang đến cho bà hai trăm rúp gửi bằng thư chuyển tiền. Anh thận trọng giữ tay bà khi bà ký nhận kẻo bà lại ký không đúng chỗ.
https://thuviensach.vn
Vaxili ra về còn bà Katêrina thì ngồi bần thần cầm số tiền trong tay. Rồi bà đeo kính vào và đọc đi đọc lại mấy chữ viết trên giấy. Lần nào cũng vẫn những chữ ấy: nhiều việc quá, đến nỗi không có thì giờ để viết một bức thư cho ra thư chứ đừng nói chi đến việc về nhà.
Bà Katêrina thận trọng lần giở từng tờ giấy bạc mềm và xốp. Tuổi tác làm cho bà lão quên khuấy rằng tiền ấy đâu có phải tiền Naxtia đã giữ trong tay, nên bà lão cứ cảm thấy như những tờ giấy bạc ấy thoang thoảng mùi nước hoa của nàng.
Một đêm, vào cuối tháng Mười, có ai đó gõ rất lâu vào cái cửa chốt chặt đã mấy năm ở cuối vườn.
Bà Katêrina bối rối, mãi mới quấn được chiếc khăn len lên đầu, khoác chiếc áo choàng rộng và lần đầu tiên trong năm ấy, bà bước ra khỏi nhà. Bà đi chậm, rờ rẫm. Không khí lạnh làm bà nhức đầu. Những ngôi sao bị quên lãng chòng chọc nhìn xuống đất. Những chiếc lá rơi cản bước đi.
Đứng bên cửa, bà Katêrina hỏi khẽ:
- Ai gọi cửa đấy?
Nhưng bên ngoài hàng rào không có tiếng trả lời.
- Chắc là ta lầm tưởng thế thôi.
Bà Katêrina nói và lần bước trở lại. Bà nghẹn thở, dừng lại bên một gốc cây già, đưa tay nắm lấy một cành ướt lạnh và nhận ra đó là cây phong. Bà trồng nó đã lâu lắm, từ khi bà còn là một cô gái hay cười, bây giờ nó đã trụi lá, đã chết cóng, nó không biết trốn đâu cho khỏi cái đêm gió rét không nhà này.
Bà lão thương cây phong, đưa tay sờ soạng cái thân xác xơ của nó rồi lần vào nhà và ngay đêm ấy, bà viết cho Naxtia một lá thư.
Bà viết:
"Con gái yêu dấu của mẹ. Mẹ không sống qua được mùa đông này đâu. Con hãy trở về lấy một ngày thôi cũng được. Cho mẹ được nhìn con, được cầm lấy tay con. Mẹ già rồi và yếu đến nỗi chẳng nói chi đi, đến ngồi và
https://thuviensach.vn
nằm thôi cũng thấy nhọc nhằn. Chắc thần chết quên mất lối nên mới chưa đến đây đấy thôi. Vườn nhà ta khô héo, chẳng còn như trước, mẹ cũng chẳng ngó ngàng gì đến nó nữa. Năm nay mùa thu xấu. Cực quá, cả một đời người tưởng cũng chẳng dài bằng một mùa thu này".
Manhuska khịt mũi mang bức thư đến trạm bưu điện, ngập ngừng mãi mới nhét vào thùng thư và ngó nghiêng nhìn vào trong xem có gì không? Nhưng ở trong đó nó không nhìn thấy gì hết, chỉ có một khoảng rộng bằng sắt tây.
*
Naxtia làm thư ký trong Hội nghệ sĩ Mỹ thuật. Công việc rất nhiều. Tổ chức các cuộc triển lãm, các cuộc thi sáng tác, nhất nhất đều qua tay Naxtia.
Naxtia nhận được thư của mẹ trong giờ làm việc. Nàng bỏ thư vào ví, định bụng để đấy việc xong sẽ đọc. Những bức thư của bà Katêrina làm nàng thở ra nhẹ nhõm! Bà cụ viết thư, thế nghĩa là bà cụ còn sống. Nhưng đồng thời nàng cũng băn khoăn, như thể mỗi lá thư là một lời trách móc âm thầm.
Sau giờ làm việc, Naxtia phải đi tới xưởng điêu khắc của nghệ sĩ trẻ Timôfêép xem anh ta sống ra sao để còn báo cáo lên ban lãnh đạo hội. Timôfêep thường kêu ca trong xưởng lạnh, và nói chung, hay phàn nàn rằng người ta làm anh lu mờ và chèn ép không cho anh nổi lên được.
Lên đến đầu cầu thang gác, Naxtia lấy ra chiếc gương nhỏ, nàng đánh phấn và mỉm cười. Lúc này nàng hài lòng về sắc đẹp của chính mình. Các họa sĩ gọi nàng là Xonvai vì nàng có mái tóc màu hạt dẻ sáng với đôi mắt mở to và lạnh lùng.
Timôfêép , con người nhỏ nhắn, quyết liệt và dữ tợn thân ra mở cửa cho Naxtia. Anh ta mặc áo ba-đờ-xuy, có quấn chiếc khăn lớn và Naxtia thấy chân anh cũng đi ủng dạ đàn bà.
Timôfêép lầu nhầu:
- Chị đừng cởi áo. Cứ để nguyên áo choàng kẻo chết cóng đấy. Mời chị.
https://thuviensach.vn
Anh dẫn Naxtia đi theo một hành lang tối, bước lên mấy bậc và mở cánh cửa hẹp dẫn vào xưởng.
Từ trong xưởng bay ra mùi khói khét. Trên sân, bên cạnh chiếc thùng đựng đất sét ẩm, một ngọn đèn dầu hỏa đang cháy. Những bức tượng phủ giẻ ướt đặt trên giá. Bên ngoài khung cửa kính rộng, tuyết bay cheo chéo, phủ một màn sương lên dòng Nêva và tan trong nước tối. Gió rú rít trong khung cửa và lay động những tờ báo cũ trên sàn.
- Trời ơi, lạnh quá! - Naxtia nói và nàng cảm thấy trong xưởng còn lạnh hơn vì những phù điêu trắng bằng cẩm thạch treo bề bộn trên tường.
- Đấy, chị thử ngắm mà xem! -Timôfêép vừa nói vừa đẩy chiếc ghế bành lấm bê bết đất sét về phía Naxtia - Không hiểu vì lẽ gì mà tôi chưa tắt thở trong cái hang gấu này(3). Còn ở xưởng của Pécsin thì có lò sưởi, gió ở đấy bay ra cứ nóng như từ sa mạc Xahara.
- Anh không ưa Pécsin ư?
Naxtia thận trọng hỏi.
Timôfêép giận dữ nói:
- Hắn là một thằng chơi trội. Một anh thợ thủ công. Thân tượng của hắn không có vai mà chỉ là cái mắc áo ba-đờ-xuy. Còn cô nông trường viên của hắn là một mụ đàn bà bằng đá đeo tạp dề. Anh công nhân của hắn giống như một người nêăngđéctan(4). Hắn nặn tượng bằng một cái xẻng gỗ. Nhưng mà hắn khôn ngoan bà chị của tôi ạ, hắn khôn ngoan như một Hồng y giáo chủ.
- Cho tôi xem ông Gôgôn của anh nào?
Naxtia yêu cầu nhà điêu khắc. Nàng muốn chuyển câu chuyện sang hướng khác.
- Chị sang đây! - Nhà điêu khắc cau có nói.
- Ấy không, không phải ở phía ấy! Đây, góc này cơ! Thế!
Nhà điêu khắc gỡ những mảnh giẻ ướt ra khỏi một bức tượng và chăm chú nhìn xoi mói đủ mọi phía rồi ngồi xổm xuống bên cây đèn dầu hỏa, đưa tay ra sưởi và nói:
https://thuviensach.vn