🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bill Gates - tham vọng lớn lao và quá trình hình thành đế chế Microsoft
Ebooks
Nhóm Zalo
Table of Contents Lời giới thiệu
Chương 1. Thời niên thiếu
Chương 2. “Thời cơ đang đến” Chương 3. Những chàng trai Microsoft Chương 4. Làm ăn với “Anh cả” Chương 5. Lớn mạnh
Chương 6. Vua một cõi
James Wallace - Jim Erickson
Bill Gates - Tham vọng lớn lao và quá trình hình thành đế chế Microsoft
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/
Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google :http://bit.ly/downloadsach
Lời giới thiệu
Những kỷ niệm với Bill Gates
Trước năm 1988 tôi chẳng biết là Bill Gates là ai? Microsoft là gì? Bây giờ tôi vẫn chưa một lần gặp Bill. Nhưng đế chế phần mềm nhỏ (micro and soft) do ông gây dựng nên đã để lại những dấu vết không phai mờ trong hơn 20 năm làm phần mềm của tôi.
• Năm 1989, tôi tham gia viết chương trình xử lý văn bản cho Windows 2.0, khi đó còn chưa có ai dùng ở Việt Nam. Đây là dự án phần mềm đầu tiên của tôi, là nơi tôi học lập trình C, học khái niệm đồ họa của Windows, các hàm như BitBlt.
• Năm 1995, lần đầu tiên chúng tôi, nhóm phần mềm của FPT tổ chức một buổi liên hoan nhỏ đánh dấu sự ra mắt của Win95, giao diện mới với trời xanh mây trắng quá đẹp đã hút hồn những thanh niên trẻ ham mê công nghệ.
• Năm 1996, cuốn The road ahead của Bill mà tôi mua ở sân bay Hongkong đã chỉ cho tôi cách phổ cập mạng trong cộng đồng. Cuối năm 1996, mạng Trí tuệ Việt Nam của chúng tôi đã có 10.000 người sử dụng.
• Năm 1998, cuốn Barbarians led by Bill Gates đã dạy cho chúng tôi biết lập trình là một quá trình chặt chẽ như kỷ luật quân đội. “Daily build” trở thành một thực tế trong nhóm chúng tôi.
• Năm 1999, Michael David, nguyên giám đốc Microsoft Việt Nam, đã nhường cho nhóm xuất khẩu phần mềm của FPT một PM và kèm theo đó là khách hàng đầu tiên từ nước ngoài.
• Năm 2004, Microsoft Malaysia gửi công văn cho Petronas, cam kết trong toàn khu vực, FPT là đơn vị tốt nhất để thực hiện dự án NextGeneration của họ. Dự án này đã đưa tên tuổi của FPT đến Redmond.
• Năm 2007, Bill Gates đến Việt Nam và tuyên bố:“Chúng tôi đã và sẽ tiếp tục hợp tác với FPT”.
• Năm 2010, tôi với tư cách TGĐ của FPT có vinh dự được cùng Steve Balmer ký kết biên bản hợp tác và ra thông báo chung về Điện toán đám mây, một kỷ nguyên mới của CNTT bắt đầu.
Vậy đó, Microsoft đã làm cho những khái niệm lập trình trở nên đơn giản nhất cho các thanh niên Việt Nam, mang máy tính cá nhân đến mọi mái nhà trên dải đất hình chữ S. Nhưng cũng trớ trêu thay, chính hình tượng Bill Gates luôn đam mê khát khao thay đổi trong công nghệ và cực kỳ thành công trong kinh doanh đã làm thui chột rất nhiều thế hệ tài năng của ngành CNTT non trẻ ở nước ta.
Cho đến gần đây, rất nhiều người vẫn tin tưởng cách duy nhất để thành công và làm giàu trong lĩnh vực phần mềm là sản xuất ra được các sản phẩm như Windows, bán ra toàn thế giới với hàng triệu, hàng chục triệu bản. Chúng ta miệt mài ngồi code, mà quên mất nhìn ra thế giới.
Chúng ta không biết rằng Bill Gates là một hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử nhân loại. Trong lịch sử thương mại thế giới, chưa từng có tiền lệ một sản phẩm chiếm đến 90% thị phần như Windows. Chúng ta không biết rằng Bill, Steve, Lary… là những nhân vật chỉ có thể nảy sinh ở Mỹ, một xã hội đang ở giai đoạn phát triển cao nhất của nhân loại. Tựa như cây nho rất ngon, chỉ có thể mọc được trên những cánh đồng đất Pháp.
Chúng ta không biết rằng đâu đó ở Ấn Độ, Trung Quốc có những con người như bác Murthy, như Dr. Liu, đã tạo cơ hội cho những thanh niên nghèo nhưng ham mê công nghệ của các nước thuộc thế giới thứ ba được chung tay xây dựng nên những đế chế CNTT, tuy có thể chưa hoành tráng như Microsoft, nhưng thực sự đã mang lại sự đổi mới và danh dự cho đất nước họ.
Dù gì đi chăng nữa, xin được vô cùng cám ơn Bill và những đồng nghiệp của ông. Không có Microsoft, chắc FPT và cá nhân tôi đã rất khác.
Vì thế cá nhân tôi hy vọng BẠN sẽ mở lòng đón nhận cuốn sách này, cuốn Bill Gates – Tham vọng lớn lao và quá trình hình thành đế chế Microsoft, để có thể hiểu thêm về Bill, về một hiện tượng “độc nhất vô nhị” trong lịch sử nhân loại.
Cám ơn Công ty cổ phần sách Alpha đã lựa chọn Bill Gates thành một mảng ghép không thể thiếu của bộ sách “Trí tuệ xuất chúng – Thiên tài kinh doanh”.
Trân trọng giới thiệu cùng BẠN.
NGUYỄN THÀNH NAM
Chủ tịch HĐQT FPT Software
Chương 1. Thời niên thiếu
Mặt đất tụt xuống xa dần và thành phố hiện ra dưới chân cậu bé 11 tuổi có mái tóc màu vàng cát khi chiếc thang máy lao vút lên cao trong nắng chiều cuối một ngày thu. Các cửa sổ kính của những toà nhà cao nhất thành phố đón lấy những tia nắng của mặt trời và phản chiếu sắc vàng rực rỡ. Xa xa bên dưới về phía Tây, một con tàu trôi theo vịnh Elliot với bóng dãy núi Olympics nằm xa xa.
Mặc dù trên dòng sông Sound đang có gió mạnh, nhìn từ độ cao lạnh giá này dòng nước sẫm màu ấy giống như tấm kính bị ám khói và dấu hiệu duy nhất cho thấy con tàu đang chuyển động là vệt nước xanh nhạt đang rẽ ra sau nó.
Cậu bé gầy ốm và nhút nhát len lỏi qua chân những người lớn và những đứa trẻ khác xung quanh cho đến khi cậu đứng đối mặt với khung cửa kính của thang máy để nhìn cho rõ hơn.
“Kính chào quý khách đến tham quan tháp Space Needle”, giọng người điều hành thang máy vang lên. “Quý khách đang ở trong thang máy phía Tây di chuyển với tốc độ mười dặm một giờ, hay 800 feet/1 phút. Space Needle được xây dựng như một công trình thuộc Hội chợ Thế giới 1962, được xem là Triển lãm thế kỷ XXI…”
Nhưng Bill Gates chẳng nghe thấy những lời này. Đầu óc cậu đang chu du cách đó 3.000 dặm, từ mũi Canaveral cậu phóng đi trong một tên lửa do cậu tưởng tượng, được nạp nhiên liệu bằng những câu chuyện của Edgar Rice Burroughs và Isaac Asimo cùng cả chục tác giả khoa học viễn tưởng khác đã từng đưa cậu vào nhiều chuyến thám hiểm và du hành tưởng tượng.
Sau bốn mươi giây vận hành, phong cảnh và ánh sáng mặt trời khuất dần khi chiếc thang trôi vào khoang của nó tại nhà hàng Space Needle ở độ cao 200m trên thành phố Seattle. Bữa ăn tối ở Space Needle là phần thết đãi của mục sư Dale Turner dành cho tất cả những ai đã nhận lời và vượt qua thử thách hàng năm của ông – Và năm 1966, người đạt kết quả tốt hơn hết là Trey, tên gọi của Bill Gates lúc ấy.
Bữa ăn tối này là một truyền thống có từ những ngày mục sư Turner giảng dạy ở trường Đại học Kansas, Lawrence. Vào đầu mỗi năm học, ông thường thách thức các sinh viên học thuộc chương 5, 6 và 7 của sách Matthew, thường được gọi là bài Bài giảng trên núi. Turner đã rời Lawrence năm 1958 và hiện đang cai quản Thánh đường Giáo đoàn đại học tại Quận đại học Seattle, đối diện với Đại học Washington. Được xây dựng chín năm trước khi bước sang thế kỷ này, đây là một trong những nhà thờ cổ nhất của thành phố.
Gia đình Gates là những con chiên ngoan đạo của giáo đoàn, Bill Gates đã ghi danh vào học lớp tín đồ của mục sư Turner. Một buổi sáng chủ nhật, Turner đưa ra lời thách đố hàng năm cho cả lớp – ông sẽ đãi bữa ăn tối ở nhà hàng Space Needle cho bất kỳ ai thuộc được bài thuyết giảng trên núi. Đó cũng là thách đố ông đưa ra cho cả nhóm.
Bài thuyết giảng trên núi là những lời khó thuộc. Từ ngữ không ăn vần, cấu trúc câu rời rạc và rất dài – tương đương gần 4 cột báo in thông thường.
25 năm sau, Turner vẫn còn nhớ buổi trưa ông ngồi với Gates trong phòng khách nhà Gates để nghe cậu đọc bài kinh.
“Vả, Jesus thấy quần chúng”, cậu bé cất giọng, “Ngài bèn lên núi. Khi Ngài ngồi thì môn đồ đến cùng Ngài và Ngài dạy họ rằng:
“Phước cho kẻ nghèo khó…”
“Phước cho kẻ nhu mì…”
“Phước cho kẻ nhân từ…”
Lắng nghe Gates, Turner cảm thấy kinh ngạc. Chưa một ai, trong tất cả những năm ông làm mục sư, lại đọc toàn bộ kinh mà không hề vấp vài từ hay vài dòng. Thế mà Gates đã đọc bài kinh một mạch từ đầu đến cuối, không hề sót một dòng.”
“Tôi đã đến nhà cậu ngày hôm ấy để biết rằng cậu bé là một hiện tượng đặc biệt”, Turner sau này đã nhớ lại. “Tôi không thể hình dung nổi làm thế nào một cậu bé 11 tuổi lại có được một trí nhớ tuyệt vời như thế. Và cuộc chất vấn sau đó của tôi đối với cậu đã cho thấy cậu hiểu sâu sắc về bài thuyết giảng.”
31 người khác thuộc thánh đường Giáo đoàn đại học năm ấy cũng gắng gượng thuộc được bài kinh và đến mùa thu, mục sư Turner đã đưa 32 môn đệ của mình đến nhà hàng xoay tráng lệ trên đỉnh tháp Space Needle.
Trong bữa ăn tối hôm đó, “Trey” Gates đã được ngắm thỏa thích vùng đất mà sau này cậu sẽ vang danh. Về phía Đông Bắc là trường đại học Washington bên cạnh khu nhà ở quận Laurelhurst, nơi gia đình Gates sinh sống, dọc theo hồ Washington. Về phía Nam, thác Seattle đổ xuống dòng sông Sound, với những con tàu, cầu tàu, nhà hàng đặc sản và các cửa hiệu đồ cổ. Về phía Đông Nam sừng sững những toà nhà chọc trời của thành phố, với ngọn núi Rainier cao 4.800m ẩn hiện như người lính gác xa xa. Về hướng Đông, nổi trên nền rặng núi Cascade ở
đường chân trời là vùng ngoại ô Bellevue và Redmond, nơi 13 năm sau Gates sẽ xây dựng cơ nghiệp phần mềm máy tính của mình.
Tối hôm đó, khi Gates ngắm nhìn thành phố, vùng ngoại ô, núi non và dòng sông Sound, cậu đã không biết đến định mệnh đang xoay chuyển con người mình. Mặc dù đã thuộc bài kinh và được chiêu đãi bữa tối tại Space Needdle, cậu bé sẽ không bao giờ trở thành một con chiên ngoan đạo của nhà thờ. Chẳng bao lâu nữa cậu sẽ dành tất cả thời gian rảnh rỗi của mình để chìm đắm trong thế giới máy tính mới mẻ, kỳ thú. Tuy vậy, Gates và mục sư Turner vẫn giữ tình bạn mãi về sau.
“Anh ta thích thử thách”, Turner nói, khi nhớ về con chiên thông minh của mình. “Mặc dù một bữa ăn tại Space Needdle lúc ấy rất hấp dẫn, rất nhiều đứa trẻ khi nghe tôi thách đố đã chẳng dám thử tài. Trey thì dám.”
Hôm ấy tại nhà mình, Gates đã nói với mục sư: “Con có thể làm bất cứ điều gì mà con đã để tâm vào đó.”
* * *
Nếu dòng dõi gia đình là một dấu hiệu của sự thành đạt trong tương lai thì Bill Gates được sinh ra trong cái nôi dồi dào tiềm năng.
Ông cố J. W. Maxwell về phía mẹ cậu, là một chủ ngân hàng nổi tiếng khắp cả nước. Sinh ra trong một nông trang ở Iowa vào thế kỷ XIX, ông đã quyết định thử thời vận của mình sau khung cửa ngân hàng chứ không cam chịu với kiếp lam lũ đằng sau luống cày. Ông đã bỏ quê nhà tìm đến Lincoln, bang Nebraska lúc 19 tuổi – cùng độ tuổi mà gần một thế kỷ sau cháu cố ông sẽ sáng lập Microsoft – để khởi đầu con đường công danh trong ngành ngân hàng. Ở Lincoln, ông kết bạn thân tình với William Jennings Bryan, nhà hùng biện, chính khách và John J. Pershing, người sẽ chỉ huy quân đội quốc gia trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất.
Năm 1892, do lời khuyên của chủ bút kiêm nhà lãnh đạo chính trị Horace Greeley, Maxwell đã cùng vợ thẳng hướng Tây tìm đến thành phố South Bend ở bang Washington. Ở đó, ông tiếp tục theo nghề ngân hàng của mình và được bầu làm thị trưởng, đương nhiệm trong cơ quan lập pháp của tiểu bang. Gia đình ông dời về Seattle năm 1906, nơi ông lập nên ngân hàng National City Bank và giành được uy tín trong ngành ngân hàng toàn quốc.
Con trai Maxwell, James Williard Maxwell, bắt đầu theo ngành ngân hàng năm 1925 với tư cách thông tín viên cho ngân hàng của cha mình sau khi tốt nghiệp Đại học Washington. Tại trường
anh đã gặp người vợ tương lai của mình, Adelle Thompson, một phụ nữ thông minh, sôi nổi và say mê thể thao trước sống ở Enumclaw, một ngôi làng nằm dưới chân dãy núi Cascade phía Đông Nam Seattle. Cô gái là một tiền vệ ngôi sao của đội bóng rổ nữ trường trung học và là một đại biểu sinh viên đọc diễn văn tốt nghiệp.
Vợ chồng nhà Maxwell là những gia đình danh giá nhất của Seattle, có chân trong nhiều tổ chức cộng đồng, trong đó có tổ chức United Good Neighbors, tiền thân của United Way. Williard Maxwell đạt được cả sự giàu có và quyền thế ở Seattle, cuối cùng trở thành phó chủ tịch Pacific National Bank (về sau trở thành First Interstate, ngân hàng lớn thứ chín của Mỹ). Nhiều thập niên sau, họ để lại cho cháu nội một triệu đô-la ngân quỹ. Mặc dù giàu có, vợ chồng Maxwell không tỏ thái độ phô trương, một tính cách đã được họ truyền qua nhiều thế hệ.
Mary, con gái họ, sinh ở Seattle năm 1929. Cô gái trẻ đẹp và hoạt bát này xuất thân từ một trong những dòng họ danh tiếng nhất miền Tây Bắc. Cũng như mẹ cô ngày trước, khi đang học ở Đại học Washington, Mary Maxwell đã quen người chồng tương lai của mình, một sinh viên dự bị luật cao ráo khoẻ mạnh tên Bill Gates Jr.. Là một hoạt náo viên của trường, Mary cởi mở và thích giao du bao nhiêu thì Bill lại nhút nhát và kín đáo bấy nhiêu. Một người bạn của hai người – Brock Adams – đã giới thiệu họ với nhau khi anh là chủ tịch hội sinh viên và Mary là một thành viên trong hiệp hội sinh viên chính phủ. (Adams tiếp tục theo đuổi sự nghiệp chính trị, đảm nhiệm chức vụ trợ lý giao thông dưới thời tổng thống Jimmy Carter. Ông hiện là một thượng nghị sĩ của bang Washington và vẫn là bạn thân của gia đình Gates).
Bill Gates Jr. không có của cải và danh tiếng gia thế như vợ mình nhưng anh cũng có lòng quyết tâm và tham vọng không kém. Anh sinh ra ở Bremerton, bang Washington, cách Seattle một giờ đi tàu thuỷ, nơi cha anh làm chủ một cửa hiệu đồ gỗ. Sau khi tốt nghiệp trung học năm 1943, Gates gia nhập vào quân đội. Đến cuối Chiến tranh Thế giới thứ Hai, hai năm sau đó, anh đã ghi tên theo học trường huấn luyện sĩ quan ở Fort Benning, bang Georgia. Giải ngũ năm 1946 với quân hàm trung uý, anh ghi danh vào Đại học Washington và trở thành người đầu tiên của dòng họ tốt nghiệp đại học.
Sau khi lấy được mảnh bằng luật của trường đại học năm 1950, Gates trở về Bremerton làm trợ lý luật sư. Mary Maxwell, học sau anh vài năm trong trường đại học, tốt nghiệp năm 1952 và họ cưới nhau một thời gian ngắn sau đó. Nhưng một thành phố cảng như Bremerton, với nhan nhản thuỷ thủ, nhà hàng thức ăn nhanh và nhà trọ, không phải là nơi để tiến thân về địa vị xã hội và trong ngành luật pháp nên đôi vợ chồng đã dọn đến Seattle, nơi Mary đi dạy học và Gates vào nghề luật sư tư nhân để cuối cùng trở thành một cổ đông trong công ty Shidler,
McBroom, Gates & Lucas.
Năm 1954, Mary Gates sinh con gái, Kristi. Một năm sau cô lại sinh thêm một cậu con trai. * * *
William Henry Gates III sinh ngày 28/10/1955 ngay sau 9 giờ tối. Bố mẹ cậu đặt biệt danh cho cậu là “Trey”, để ám chỉ chữ III sau tên cậu. Thế là chết tên – không ai trong nhà gọi cậu bằng tên khác nữa. Cậu sinh ra cầm tinh Hổ cáp và những tính cách gán cho tinh đẩu này tỏ ra chính xác đến mức kỳ bí: xông xáo và nhạy bén với những thách thức; có khuynh hướng thay đổi trạng thái nhanh chóng; một nhân cách có khả năng lãnh đạo xuất sắc. Những người Hổ cáp được xem là những người được kính trọng, yêu mến (theo nhận xét của sách Bách khoa Toàn thư Thế giới). Trey Gates đã đọc hết cuốn sách ấy khi mới lên bảy, lên tám.
Ngay từ lúc còn sơ sinh, Trey là một đứa trẻ năng động khác thường, cậu đã tìm cách làm cho chiếc nôi tự đu đưa và mỗi lần có thể hàng giờ đồng hồ. Khi đã lớn hơn, bố mẹ mua cho cậu một con ngựa gỗ, một món quà tạo thú vui cho những đứa trẻ hiếu động. Thậm chí ngày nay, thói quen đu đưa của Gates đã trở thành giai thoại trong ngành máy tính, chẳng khác nào cử chỉ xốc quần của danh thủ Arnold Palmer khi anh đi bóng hay cử chỉ thè lưỡi của Michael Jordan khi anh tung bóng vào rổ. Nó đã trở thành một điệu bộ quen thuộc mà các lập trình viên ở Microsoft ưa bắt chước theo phong cách vị chủ tịch của họ. Gates thường đu đưa trên ghế, khuỷu tay tì lên đầu gối để tập trung suy nghĩ, nhất là khi nói chuyện về máy tính; không có gì lạ khi bước vào một căn phòng của các nhà quản lý Microsoft bạn bắt gặp hầu hết họ đều đang lắc lư theo nhịp trong một cuộc họp quan trọng.
Trey Gates đã có một thời thơ ấu khá điển hình. Sau khi sinh con trai, Mary Gates nghỉ dạy để ở nhà chăm sóc gia đình trong khi chồng bà lập văn phòng luật sư. Thay cho công việc dạy học, bà đã theo gương mẹ mình và trở thành một người làm công tác cộng đồng. Một trong các công tác tình nguyện của bà, phục vụ cho viện bảo tàng lịch sử và phát triển Seattle, là đến các trường học trong vùng để diễn thuyết ngắn về văn hoá và lịch sử của vùng này. Trey, khi ấy mới ba, bốn tuổi, thường theo mẹ và ngồi trên bàn trước lớp trong khi bà giới thiệu về các hiện vật bảo tàng cho học sinh.
Trong một cuốn sách gần đây, Công cuộc tạo dựng Microsoft của Daniel, Ichbiah và Susan Knepper, các tác giả đã nói đến thời thơ ấu của Gates đầy êm ả ngoài việc miêu tả rằng cậu là một cậu bé trầm tư, mặc cảm, sống hướng nội. Gates chắc chắn là một chú bé trầm tư nhưng không phải như một thầy tu. Cũng không hẳn là Gates có thể quen với việc ngồi lâu trong
phòng mình – một căn phòng thường trong trạng thái bề bộn. Bố mẹ cậu không dạy cậu thu dọn quần áo. Cuối cùng họ phải dọn dẹp quần áo của cậu. Khi cách ấy cũng không xong, họ đành chịu thua, chỉ yêu cầu cậu nhớ đóng cửa phòng để đừng ai nhìn thấy đồ đạc hỗn độn.
Mary Gates, khi kể về con trai mình, đã cho biết cậu bé hầu như đã quyết tâm làm những chuyện mình muốn từ lúc lên tám. Bạn thân nhất thời thơ ấu của Trey là Carl Edmark, người bạn Gates quen lúc học lớp 4. Edmark kể về cậu: “Từ lúc ấy cậu ta đã rất lập dị”. Hai người cùng học chung bậc tiểu học, cùng tốt nghiệp trung học và tiếp tục là bạn thân nhiều năm sau. Gia đình họ cũng thân với nhau; cha của Edmark là nhà phẫu thuật tim nổi tiếng ở Seattle, người đã chế tạo ra một dụng cụ để hiệu chỉnh nhịp tim bất thường trong khi giải phẫu.
Từ lúc còn bé Gates đã bị ám ảnh và thôi thúc bởi nhu cầu phải trở thành nhân vật số một. “Bất cứ bài vở nào ở trường, dù là chơi nhạc hay soạn bài, anh ta đều có thể thực hiện bất cứ lúc nào trong ngày”, lời Edmark. Tuy nhiên, điều có vẻ khác lạ đối với những học sinh lớp 4 chính là tinh thần tranh đua cao độ của cậu. Một trong những bài tập đầu tiên khi cậu lên lớp 4 là viết một bài dài bốn đến năm trang về một bộ phận đặc biệt của cơ thể người. Gates đã viết hơn 30 trang. Sau đó, cả lớp được giáo viên bảo viết một truyện ngắn không quá hai trang. Truyện ngắn của Trey dài gấp năm lần mức đó.
“Bất cứ điều gì Bill làm, anh ta đều làm hết mình”, Edmark nói. “Những gì anh ta làm luôn luôn đạt kết quả tốt, hơn tất cả mọi người.”
Những đứa trẻ thần đồng – những đứa trẻ có chỉ số thông minh gần bằng hay trên mức thiên tài – đôi khi lớn lên trở nên thụ động về mặt xã hội do những hạn chế về quan hệ và kinh nghiệm thời thơ ấu. Bill và Mary Gates đã quyết tâm không để điều đó xảy ra với con trai mình. Họ tìm cách tạo cho cậu thật nhiều cơ hội và kinh nghiệm. Khi cậu đã đủ lớn, cậu được khuyến khích gia nhập Đoàn Hướng đạo 186. Cha cậu thời trẻ từng là một hướng đạo sinh Chim ó và hiểu được giá trị của các hoạt động và tình bằng hữu hướng đạo. Đoàn này hội họp tại một ngôi trường tiểu học không xa nhà Gates. Trey đến với hướng đạo không phải chỉ vì thích hoạt động dã ngoại mà còn vì luôn mong muốn trở thành một hướng đạo sinh.
“Cha cậu là một luật sư và rất bận rộn, còn Bill thì cần có tình bạn mà cậu đã tìm thấy ở những cậu bé khác”, huynh trưởng hướng đạo Don Van Wieringen đã kể lại.
Một năm kia trong một cuộc liên hoan hướng đạo – dịp các hướng đạo sinh khắp tiểu bang tề tựu để biểu diễn kỹ năng thắt nút dây và đốt lửa trại – Gates và một người bạn đã tìm kiếm thiết bị máy tính và trình diễn những khả năng của máy tính. Bấy giờ, một vài cậu bé thậm chí
vẫn còn chưa nghe nói đến máy tính chứ đừng nói sử dụng. Ngày nay, phần nào nhờ có các hệ phần mềm của Gates, máy tính đã giúp ích cho hướng đạo sinh rất nhiều.
Không như một số đoàn hướng đạo khác quan tâm nhiều đến việc bán bóng đèn và bánh kẹo trong mùa Giáng sinh, đoàn 186 quanh năm chỉ đi dã ngoại và cắm trại trong rừng.
Trong một dịp đi dã ngoại 50 dặm, Gates đã bộc lộ phẩm chất kiên định và gan lì, một tính cách nổi bật của cậu trong cuộc đời sau này. Gates tham gia chuyến đi dã ngoại dài một tuần lễ này bằng một đôi giày ống mới không thích hợp cho việc đi bộ tám giờ mỗi ngày. Đến cuối ngày đầu tiên, gót chân cậu đã bị trầy và các ngón chân phồng rộp rất đau. Một bác sĩ tham gia chuyến đi, đã cho cậu uống thuốc giảm đau. Ngày hôm sau một số hướng đạo sinh khác mang giùm đồ đạc của cậu và Trey vẫn tiếp tục bám theo cho đến khi đến được điểm hẹn nửa chặng đường vào ngày thứ tư, nơi có thể tìm được phương tiện cấp cứu. Lúc ấy cậu không còn đi được nữa. Mọi người phải gọi điện cho mẹ cậu ở Seattle đến đón cậu. Một người lớn trong chuyến đi còn nhớ rằng khi mẹ cậu đến bà đã không vui. Ông kể: “Bà bận bịu với công tác xã hội và cứ tưởng Bill được chăm lo suốt cả tuần.”
Niềm đam mê dạy học của Mary thôi thúc bà đi dạy trở lại, nhưng dự kiến của bà bị thay đổi do sự ra đời của đứa con gái thứ hai, Libby, kém Trey chín tuổi. Đổi lại, bà tiếp tục đảm nhiệm công tác cộng đồng, điều giúp bà có chân trong hội đồng của nhiều công ty lớn nhất vùng Tây Bắc, trong đó có Fist Interstate Bank và Pacific Northwest Bell. Mary Gates là một người nhạy bén với ý chí mạnh mẽ, thông minh sắc sảo và năng khiếu kinh doanh tốt.
Một người bạn đã nhận định: “Động lực trong gia đình lúc nào cũng là Mary Gates. Bà ấy chăm lo mọi công việc cho gia đình. Mary là một người khéo léo, Bill Jr. là một người kín đáo.”
Bất chấp các công tác tình nguyện khiến bà luôn bận bịu, Mary Gates vẫn tỏ ra là người mẹ tận tâm, bà cũng thích giao lưu, thường xuyên cùng chồng mở tiệc đãi bạn bè, trong số đó có những nhân vật giàu có và thế lực nhất ở Seattle. Tuy là nữ chủ nhân duyên dáng, thanh lịch, nhiệt tình và cởi mở, bà cũng là một con người quyết đoán với cái nhìn kiên nghị và cách bắt tay mạnh mẽ.
Một người bạn cho biết: “Bà ấy chính là người có thể đánh giá bạn qua cái nhìn, nói chuyện một cách chóng vánh và chủ động rồi từ biệt bạn một cách lịch sự nhưng kiên quyết.”
Trong khi Mary Gates hoạt bát thành công trong cộng đồng Seattle thì Bill Jr. trầm lặng cũng trở thành một nhân vật đáng nể. Sự nghiệp luật sư của ông đã thăng tiến thông qua các mối quan hệ từ cuộc hôn nhân với nhà Maxwell. Ông là người tích cực trong hội luật sư, sau cùng
trở thành chủ tịch Hội luật sư tiểu bang Washington và điều hành nhiều uỷ ban của Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ. Năm 1966, ông trở thành thành viên cao cấp trong công ty luật Shidler, McBroom, Gates & Lucas – một công ty mang chính kiến của Đảng Cộng hoà.
“Tôi có cảm giác Bill Jr. luôn muốn nắm quyền điều hành thầm lặng trong công ty luật, còn Mary thì có khuynh hướng lãnh đạo số đông và quyết đoán”, lời của một luật sư Seattle quen biết gia đình này.
Cả Mary và Bill Jr. đều tích cực trong giới chính khách Cộng hoà, mặc dù họ giấu mình đằng sau chính trường và không lộ diện trước công chúng. Năm 1973, thống đốc Evans, một người bạn của gia đình, đã thầm lặng cổ động cho Gates ứng cử vào chức vụ chánh án liên bang ở Seattle. Nhưng hai thượng nghị sĩ của tiểu bang lúc ấy, Henry Jackson và Warren Magnuson, đều là người của Đảng Dân chủ, muốn tìm một luật sư địa phương có quan điểm trung lập hơn để đảm nhiệm chức vụ này của liên bang.
Trong chính giới địa phương, Bill Jr. từ chối không ra ứng cử hay thực hiện bất cứ điều gì có thể lôi kéo công chúng chú ý đến quan điểm chính trị của ông. Tuy nhiên, ông có quan điểm chính trị vào loại kiên định. Khi một luật sư muốn tái cử vào cơ quan lập pháp tiểu bang với tư cách người của Đảng Dân chủ nhờ ông ủng hộ chiến dịch tranh cử và đóng góp tài chính, ông đã đáp lại:“Lạy Chúa! Trong đời tôi chưa bao giờ đưa tiền cho một người nào của Đảng Dân chủ.”
Bill Jr. là một tấm gương nổi bật cho các con mình. “Tôi luôn thắc mắc không biết Trey làm thế nào cho bố cậu hài lòng”, một luật sư Seattle cùng làm việc với Bill Jr. cho biết: “Ông ấy là một người cứng rắn, khó tính và đòi hỏi cao”. Con trai ông cũng không khác.
* * *
Mặc dù đều có ý chí mạnh mẽ, Trey và bố cậu vẫn rất hợp nhau và mối quan hệ của hai cha con đã ảnh hưởng quan trọng đến thời thơ ấu của cậu. Gia tộc Gates có mối quan hệ gia đình mật thiết. Bà ngoại của Trey Gates, Adelle Maxwell, cũng có ảnh hưởng lớn đến cậu, đã khuyến khích cậu đọc sách thật nhiều, cổ vũ cậu đạt được kết quả vượt bậc trong mọi công việc, thách đố cậu vận dụng trí óc. Hai bà cháu thường đánh bài với nhau, nhất là những loại bài đòi hỏi trí óc nhạy bén. Gates vẫn gần gũi với bà ngoại cho đến khi bà qua đời năm 1987.
“Gia đình lúc nào cũng là một yếu tố rất quan trọng của anh ấy”, lời nhận xét của Paul Allen, người đồng sáng lập Microsoft và một trong những người bạn thân thiết nhất của Bill. “Điều đó chưa bao giờ lay chuyển, kể từ lúc chúng tôi quen nhau khi còn bé”. Bữa ăn tối nào cũng là dịp để tranh luận sôi nổi. Khi lớn lên Gates và các chị em gái của mình thường hỏi han bố mẹ về
công việc của hai người khi ngồi vào bàn ăn. “Đó là một môi trường bổ ích để học hỏi”, Gates đã nói về thời thơ ấu của mình.
Thời thơ ấu ấy cũng đầy tính tranh đua một cách khác thường. Dòng máu tranh đua của cậu được kích thích từ bé và được nuôi dưỡng bằng những trò chơi thời thơ ấu, những môn thể thao và tham vọng đầy nỗ lực của bố mẹ. Dù đua tài với chị gái trong trò xếp hình 300 mảnh, chơi bóng trong kỳ đua tài hàng năm của gia đình hay bơi thi với bạn bè ở câu lạc bộ bơi lội, Gates đều thích tranh đua – và chiến thắng. Điều không kém quan trọng là cậu ghét sự thất bại. Cậu thích thú tranh tài những khi tham gia một hoạt động nào đó mà cậu am tường và tận dụng mọi cơ hội để chứng tỏ chính mình, cả về mặt thể lực lẫn trí tuệ.
Một người bạn quen Gates từ lúc lên mười tuổi đã nói: “Bill thích chơi bóng và rất có tinh thần tranh đua. Anh ta thích chơi quần vợt và rất có tinh thần tranh đua. Anh ta thích chơi trượt nước và rất có tinh thần tranh đua. Mọi việc anh ta làm, anh ta đều làm với tinh thần tranh đua chứ không đơn thuần để giải trí. Anh ta là một con người có rất nhiều động lực.”
Gia đình cậu nhiều lần bay đến California để dự giải Rose Bowl, một dịp để Mary và Bill Jr. giao lưu và thăm viếng bạn bè. Trey đã dành hàng giờ ở công viên giải trí gần đó để chơi lái ô tô đụng. Dù còn bé đến độ chưa điều khiển được tay lái, cậu đặc biệt thích thú khi lao vào xe những người lớn.
Một địa điểm tranh tài cậu ưa thích trong những trò giải trí lúc nhỏ là trại hè, một nơi trên kênh Hood mang tên là Cheerio. Khu trại gồm có sân quần vợt và hàng chục căn chòi mộc mạc gần con kênh. Hàng năm vào tháng Bảy, gia đình Gates lại lên xe đi về Cheerio và nghỉ lại đó hai tuần với cả chục gia đình khác. Đó là những con người thành đạt và đầy tinh thần cầu tiến, trong đó có những luật sư, các nhà lãnh đạo kinh doanh và chính khách.
Bill Jr. lúc nào cũng được bầu làm “thị trưởng”. Các gia đình bày trò “Thế vận hội Olympic” bao gồm những tiết mục như ném trứng và chạy tiếp sức. Trey đặt biệt chơi giỏi trò “Cướp cờ”, một trò chơi đòi hỏi kỹ năng và sự nhanh nhẹn cũng như thể lực. Nhóm của cậu hầu như luôn chiến thắng.
“Anh ta không phải là loại trẻ em chậm chạp hay ngớ ngẩn mà bạn không muốn cho tham gia vào nhóm của mình”, một người bạn ở Cheeriod đã nhớ lại. “Chúng tôi đều biết Bill khéo léo hơn chúng tôi. Ngay từ lúc ấy, khi mới lên chín, lên mười, anh ta đã nói chuyện như một người lớn và có thể trình bày theo một phong cách mà chẳng ai trong chúng tôi hiểu được. Khi chúng ta còn bé, nếu ai giỏi toán thì người đó sẽ nổi bật. Chúng tôi đều biết anh ta rất giỏi toán.”
Trey cũng đã học trượt nước và chơi quần vợt lần đầu ở Cheerio. Cả gia đình đều chơi quần vợt – chị Kristi của Trey đã thắng nhiều giải quần vợt Cheerio dành cho các thiếu nữ. Chính Brock Adams đã dạy Trey chơi quần vợt ở Cheerio và chẳng bao lâu cậu ta trở thành một tay chơi ngoại hạng.
Mary Gates đã góp phần tổ chức nhiều hoạt động ở Cheerio. Lúc nào cũng chu đáo quá mức, mỗi tuần bà có cả một kế hoạch ăn mặc cho Trey trong cả năm, định ra cách phối hợp màu sắc quần áo của cậu mỗi ngày cho phù hợp giữa sơ mi, quần tây và vớ. Ngày thứ hai có thể cậu đến trường với quần áo màu xanh lá, thứ ba màu be… thứ tư màu xanh… rồi đen… Khi cả gia đình đến nhà ông bà ngoại ở kênh Hood với bạn bè, Mary thường chuẩn bị thực đơn bữa ăn phù hợp phù hợp với giờ giấc. Mọi thứ đều theo lịch trình.
Đó là một tính cách mà bà đã truyền lại cho con trai mình, một người đã không bỏ phí một giây phút nào khi làm việc hay vui chơi.
* * *
Nếu không vì một quyết định hệ trọng của bố mẹ cậu vào năm 1967 thì Bill Gates có lẽ đã trở thành một nhà toán học hay giáo sư đại học. Lúc 11 tuổi, cậu đã vượt xa những bạn đồng trang lứa về toán học và khoa học và cần có những thách thức trí tuệ mới. Bố mẹ cậu đã quyết định cậu không nên học ở trường công như chị mình nữa mà cần ghi danh vào Lakeside mùa thu đến, một trường tư thục nam sinh nổi tiếng là môi trường học vấn khắc nghiệt. Đó là ngôi trường với học phí đắt nhất Seattle, nơi quy tụ con cái những người giàu có và thế lực. Có khoảng 300 học sinh theo học tại Lakeside, với mức học phí lúc ấy là gần 5.000 đô-la. Gates sẽ có cơ hội đối đầu với những người cừ khôi và thông minh nhất của thế hệ những người lãnh đạo tương lai của Seattle.
Lakeside là một chiếc lò đã thổi bùng ngọn lửa tài năng sáng tạo đến mức mà cha mẹ cậu cũng không ngờ. Chính nơi đây những tố chất cần thiết hun đúc nên ngọn lửa của Gates đã được quy tụ: sức lực, trí thông minh, nhiệt huyết, tinh thần tranh đua, niềm đam mê, động lực, tham vọng, trực giác kinh doanh, khả năng lãnh đạo và sự may mắn. Cậu sẽ thực hiện những thương vụ đầu tiên và lập nên công ty kinh doanh đầu tiên của mình ở Lakeside. Cậu sẽ gây dựng tình bằng hữu dài lâu với một số bạn trẻ đam mê máy tính ở Lakeside, những người đầu tiên sát cánh cùng cậu trong cuộc trường kỳ tạo dựng một đế chế phần mềm.
Năm 1967, các học sinh lớp 7 và 8 học ở khối Sơ cấp. Khối Cao cấp gồm các học sinh lớp 9 đến lớp 12. Những ai vào học từ lớp 7 và vượt qua được áp lực học tập ở Lakeside cho đến khi tốt
nghiệp được mệnh danh là “tù chung thân”. Trey Gates là một người như thế.
Cho đến những năm 1960, Lakeside là một trường tư thục có bề dày truyền thống. Các nam sinh mặc áo khoác, thắt nơ và mang giày Tây. Các học sinh sắp thi tốt nghiệp có một số đặc quyền – chẳng hạn, chỉ có những người sắp thi tốt nghiệp mới được ra vào bằng cửa chính và hút thuốc.
Nhưng chiến tranh Việt Nam đã gây nên phong trào phản chiến và sự thay đổi. Áo khoác và nơ bị dẹp đi, tóc để dài hơn và nhiều nam sinh bắt đầu để râu, mặc quần jean và áo khoác lính.
“Thế hệ những năm 1960 đã nới lỏng các quy định của một trường nam sinh mẫu mực”, lời hồi tưởng của Robert Fulghum, tác giả sách bán chạy mang tựa đề Mọi điều thật sự cần biết tôi đã được học ở nhà trẻ, một giáo viên nghệ thuật ở Lakeside. Fulghum tiêu biểu cho phía đối lập ở Lakeside. Ông thuộc dạng giáo viên có cá tính bước vào lớp học trong bộ đồ khỉ đột để minh hoạ cho một ý tưởng nào đó và có thể ra đề thi với những câu hỏi như: “Giả sử tất cả con người đều có đuôi. Hãy miêu tả đuôi của bạn.” Fulghum biết khá rõ về Gates mặc dù cậu không hề dự các giờ học nghệ thuật của ông.
Lakeside luôn gợi đến những tổ chức bề thế của thành phố. Nhiều chàng trai từng học ở trường này bao năm đã trở thành những nhân vật tầm cỡ trong cộng đồng. Đó là một môi trường mang tính tranh đua quyết liệt ở mọi cấp độ. “Ngay cả những anh chàng ù lì cũng thông minh”, một người cùng khóa tốt nghiệp với Gates năm 1973 phát biểu. Trong số những học sinh ở Lakeside có anh em nhà McCaw, những người sáng lập nên một đại công ty điện thoại di động hàng tỷ đô-la.
Mặc dù nhà trường có khen thưởng những học sinh ngoan, những học sinh thật sự được chú ý lại là những học sinh vượt trội về mặt nào đó. Những cậu bé này được hội đồng quản trị và nhà trường giúp đỡ và khuyến khích rất nhiều.
“Nếu đánh giá Lakeside một cách hời hợt, bạn sẽ nghĩ đây là một ngôi trường hàng đầu với những đòi hỏi cao độ và chú trọng mạnh mẽ đến việc chuẩn bị cho bậc đại học”, Fulghum nói. Thật ra, nhà trường có khuynh hướng hết sức quan tâm đến từng cá nhân học sinh, nhất là những học sinh có điểm khác thường và nhà trường thường tạo rất nhiều quyền lợi và điều kiện để các em thực hiện ý tưởng, cho dù nó vượt xa khỏi giới hạn thông thường của nhà trường.
Về mặt này, Lakeside quả là đặc sắc: trường cho phép học sinh theo đuổi những mối quan tâm riêng và Gates đã nhanh chóng thể hiện điều đó.
* * *
Sau này, sẽ đến lúc mọi học sinh trong trường đều biết cậu là học sinh giỏi nhất Lakeside. Nhưng điểm đáng chú ý duy nhất ở Bill Gates khi bắt đầu vào học lớp 7 là đôi bàn chân to tướng của cậu. Mặc dù là cậu bé nhỏ nhắn nhất khối bảy, Gates lại mang giày cỡ 13. Một bạn cùng lớp kể lại:“Tất cả chúng tôi đều thắc mắc không biết đôi bàn chân anh ta còn lớn nữa
hay không.”
Trong tất cả các mối quan hệ bạn bè ở Lakeside, không có ai gắn bó và thân thiết với Gates bằng Kent Evans. Hai cậu bé gắn bó với nhau kể từ lớp 7. Cả hai đều có năng khiếu, cùng say mê toán học và chẳng bao lâu cả hai lại cùng say mê máy tính dữ dội hơn nữa.
Gates và Evans có tính cách rất khác biệt nhau. Trong khi Gates lãnh đạm và cách biệt như cha cậu, Kent lại nồng nhiệt và cởi mở. Là con của một bộ trưởng, với chiếc môi sứt và mái tóc đen dày, Evans rất hoà đồng. Các học sinh Lakeside thường gọi cậu là “anh bạn tốt tính nhất trường”.
Mùa xuân 1968, gần cuối năm đầu tiên của Gates tại Lakeside, nhà trường đã có một quyết định hệ trọng đối với tương lai của Bill Gates. Nước Mỹ đang chuẩn bị đưa các phi hành gia lên mặt trăng, một thành tựu kỹ thuật nhờ vào sự phát triển của máy tính. Lakeside đã quyết định giới thiệu cho các học sinh của mình thế giới máy tính mới mẻ và kỳ thú. Vấn đề là làm thế nào mua một chiếc máy tính bằng ngân sách của trường, cho dù là một trường tư thục khá giả. Những máy tính lớn (main frame) lúc ấy trị giá hàng triệu đô-la và nằm ngoài tầm tay của tất cả, ngoại trừ chính phủ, các trường đại học và các công ty lớn. Digital Equipment Corporation, hay còn gọi là DEC, vừa bắt đầu tiếp thị một máy tính mini, nhưng ngay cả chiếc máy tính cỡ chiếc tủ lạnh này cũng nằm ngoài tầm ngân sách của Lakeside. Vì thế nhà trường mua về một máy teletype khá rẻ. Với chi phí nhỏ, người sử dụng có thể đánh lệnh lên máy teletype và liên lạc qua đường điện thoại với một máy tính mini PDP-10 ở trung tâm thành phố Seattle (PDP viết tắt từ Program Data Processor – Máy xử lý dữ liệu chương trình). Máy PDP-10, một trong những loạt máy tính rất nổi tiếng do Digital Equipment Corporation chế tạo, sẽ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển trở thành nhà lập trình máy tính của Gates. Máy PDP 10 Lakeside sử dụng thuộc quyền sở hữu của General Electric. Công ty này tính tiền với Lakeside theo “giờ máy” các học sinh sử dụng và giờ máy lúc ấy rất đắt.
Một nhóm các bà mẹ, Hội các bà mẹ Lakeside, đã tổ chức một cuộc bán các vật dụng linh tinh để có tiền trả giờ máy và đã quyên góp được khoảng 3.000 đô-la, với hy vọng khoản tiền ấy sẽ
đủ chi đến cuối năm học. Điều họ không hình dung được là cô nàng Máy tính có sức quyến rũ như thế nào đối với mấy cậu bé sớm tinh khôn và say mê toán học cùng khoa học. Bill Gates và Evans sắp sửa rơi vào một cơn nghiện ngập rất tốn kém.
* * *
Lakeside trở thành một trong những trường đầu tiên trong cả nước sử dụng máy tính làm phương tiện dạy học. Phòng máy tính nhanh chóng trở thành một điểm thu hút mạnh mẽ đối với nhiều học sinh thông minh nhất của Lakeside, đặc biệt là Gates. Chẳng mấy chốc, máy teletype đã trở thành mối dây liên lạc của cậu với một thế giới mới và kỳ thú.
Gates quan sát phòng máy tính lần đầu tiên trong giờ toán của thầy Paul Stocklin. Một ngày mùa xuân, Stocklin đã đưa cả lớp toán của mình đến khối cao cấp để xem máy. Theo sự hướng dẫn của Stocklin, Gates đã đánh một vài lệnh và quan sát một cách ngạc nhiên khi thấy máy teletype, sau khi giao tiếp với PDP-10 cách xa hàng dặm, câu trả lời hiện trở lại. Điều đó còn thú vị hơn cả chuyện khoa học viễn tưởng.
Gates lập tức bị lôi cuốn. Mỗi khi có thời giờ rảnh rỗi, cậu lại chạy đến khối cao cấp để tìm hiểu thêm về hệ thống. Nhưng Gates không phải là cậu bé duy nhất say mê máy tính ở Lakeside. Cậu nhận thấy mình phải tranh giành giờ máy với một đám các học sinh khác cũng bị hút đến căn phòng này như thể có một lực hấp dẫn mạnh mẽ. Trong số đó có một học sinh khối cao cấp nói năng nhỏ nhẹ tên là Paul Allen, lớn hơn Gates hai tuổi.
Bảy năm sau, hai người bạn học này sẽ tạo dựng Microsoft, công ty thành công nhất trong lịch sử kinh doanh nước Mỹ.
* * *
Khi Albert Einstein bốn, năm tuổi và bị bệnh nằm trên giường, cha cậu đã cho cậu một chiếc la bàn từ máy tính bỏ túi. Trong cuốn Tự thuật được viết 60 năm sau, Einstein đã mô tả chiếc la bàn ấy là một “kỳ quan”. Có lẽ nó đã định hướng cho cuộc đời cậu bé trở thành một nhà vật lý lý thuyết. “Việc chiếc kim ấy tuân theo cách của riêng nó là một sự kiện khác thường”, ông viết: “Tôi vẫn còn nhớ – ít ra tôi tin rằng tôi vẫn còn nhớ – điều này đã gây cho tôi một ấn tượng sâu sắc và khó phai.”
Bill Gates chắc chắn không thể lý giải được thái độ của cậu đối với “kỳ quan” của mình, chiếc máy tính. Nhưng nó đã khơi dậy trong cậu một niềm đam mê mạnh mẽ, một nỗi ám ảnh. Kể từ ngày đầu tiên trong căn phòng máy tính nhỏ ở Lakeside, sức hút của nó đối với cậu là không gì
lay chuyển nổi.
Gates đọc ngấu nghiến mọi thứ cậu kiếm được liên quan đến máy tính và cách thức giao tiếp với chúng. Nhà trường chẳng biết gì về máy tính. Gates và các cậu bé khác tụ tập suốt cả ngày đêm ở phòng máy tính và tự mày mò.
“Chúng tôi tự cô lập trong thế giới của chúng tôi”, Gates về sau nhớ lại: “Chẳng có ai hoàn toàn hiểu được chiếc máy tính ngoài chúng tôi. Tôi muốn tìm hiểu chính xác khả năng của nó.”
Niềm đam mê vô hạn này đối với máy tính thật đắt giá. Trong vòng vài tuần, 3.000 đô-la Hội các bà mẹ Lakeside quyên góp đã gần hết sạch. Cuối cùng, các bậc cha mẹ được gửi yêu cầu giúp thanh toán số hoá đơn đang nợ do General Electric gửi đến.
Chương trình máy tính đầu tiên của Gates, một chuỗi mệnh lệnh cho máy tính, là một trò chơi tick-tack-toe. Sau đó cậu đã viết một chương trình trò chơi đổ bộ mặt trăng đòi hỏi người chơi phải hạ cánh xuống mặt trăng nhẹ nhàng trước khi dùng hết nhiên liệu trong phi thuyền và rơi xuống bề mặt mặt trăng. (Trò chơi này không ngờ lại mang tính tiên tri. Tàu Apollo 11 đổ bộ xuống mặt trăng mang theo Neil Amrstrong và Buzz Aldrin chỉ còn vài giây nhiên liệu khi hạ cánh xuống mặt biển im lặng ngày 20/7/1969). Khi kỹ năng lập trình đã được nâng cao, Gates đã điều khiển máy tính chơi cờ triệu phú, ra lệnh cho máy tính chơi hàng nghìn ván để nghiên cứu các chiến lược giành chiến thắng.
Những chương trình máy tính thuở ban đầu này được viết bằng một ngôn ngữ máy tính gọi là BASIC (Beginner’s All Purpose Symbolic Instruction Code). Nó được hai giáo sư Đại học Dartmouth năm 1964 viết theo tài trợ của viện khoa học quốc gia nhằm dạy sinh viên một phương pháp sử dụng máy tính đơn giản hơn. Gates đặc biệt quan tâm đến các nền tảng toán học của khoa học máy tính, cái thế giới nhị phân mới mẻ mà con người giao tiếp với máy tính chỉ dùng hai số – thường được gán là 0 và 1. Gates nói về mối quan hệ này giữa máy tính và toán học trong cuốn Công việc của nhà lập trình của tác giả Susan Lammers:
“Hầu hết các nhà lập trình giỏi đều có nền tảng toán học, vì nó giúp nghiên cứu tính thuần khiết trong việc chứng minh các định lý, khi mà bạn không được đưa ra những nhận định mơ hồ mà chỉ được đưa ra những nhận định chính xác. Trong toán học, bạn phải phát triển trọn vẹn vấn đề và phải kết hợp các định lý theo những phương cách mới mẻ. Bạn thường phải chứng minh một vấn đề có thể được giải quyết nhanh chóng hơn. Toán học liên quan rất trực tiếp đến việc lập trình, có lẽ theo quan niệm của tôi, nó còn quan trọng hơn theo quan điểm của mọi người, bởi vì tôi nhìn vấn đề theo góc cạnh đó. Tôi nghĩ có một mối quan hệ rất tự
nhiên giữa hai lĩnh vực.”
Gates rất giỏi toán. Thực chất anh có năng khiếu. Trong kỳ thi giành danh hiệu toán Lakeside tổ chức cho sinh viên, Gates là sinh viên số một của trường. Về sau anh đã đạt điểm tối đa 800 về phần toán trong kỳ thi vào đại học.
Trong thời gian học ở Lakeside, anh đã dự các học phần toán cao cấp tại Đại học Washington. “Vì đọc trước môn toán nên thật sự tôi không mất nhiều thời gian cho môn học toán ở trường. Thậm chí tôi có thể bị điểm xấu các môn khác, nhưng tôi vẫn luôn học tốt môn toán.”
Fred Wright, chủ nhiệm bộ môn toán tại Lakeside đã nói về Gates: “Anh ta có thể tìm ra cách vắn tắt để giải quyết một bài toán đại số hay một bài toán máy tính. Anh ta có thể tìm ra cách đơn giản nhất để giải quyết vấn đề trong toán học. Anh ta là một nhà toán học phân tích giỏi nhất mà tôi đã gặp suốt bao nhiêu năm giảng dạy. Nhưng thực chất Bill giỏi về mọi mặt chứ không chỉ về toán học. Anh có khả năng bao quát. Đó là một trong những điều khác thường ở anh.”
Wright phụ trách phòng máy tính ở khối Cao cấp và được ghi nhận rất có công trong việc vun trồng thế hệ nhân tài máy tính đầu tiên của Lakeside vào mùa xuân 1968. Ông đã nuôi dưỡng, khích lệ và giúp đỡ không chỉ Gates và Allen mà còn nhiều học sinh khác, trong đó có Marc McDonald, Richard Weiland và Chris Larson, ba nhà lập trình đầu tiên được tuyển dụng làm việc cho Microsoft.
Sau khi Lakeside có chiếc máy ấy, Bill và Kent liên tục gặp rắc rối với nhà trường. Một số ghi chép của Kent đã thể hiện việc này. Mọi thứ đều bê trễ – bài vở môn hoá bê trễ, bài vở môn lý bê trễ, sử và văn chương cũng chểnh mảng.
* * *
Mặc dù Gates chỉ mới học ở khối sơ cấp, chẳng bao lâu sau các anh chàng lớp lớn đã phải nhờ đến cậu về máy tính. Trong số đó có Paul Allen, người thường thúc ép và thách thức Gates giải quyết các vấn đề hóc búa.
“Paul cứ cho rằng tôi hiểu hết mọi thứ”, Gates kể. “Cho nên khi bị bí anh ta thường nói: ‘Này tớ thách cậu gỡ được cú này đấy!’ Anh ta thường thách thức tôi… và vấn đề thường khó nuốt.”
Đến phòng máy tính với nhau ngày càng nhiều, Gates và Allen đã trở thành bạn bè. Một hôm, Gates đến nhà Allen và sửng sốt trước bộ sưu tập sách khoa học viễn tưởng của Allen.
“Allen đọc nhiều gấp bốn lần tôi”, Gates nhớ lại. “Và anh ta còn đủ thứ sách giảng giải mọi điều. Nên tôi thường hỏi anh ta: ‘Súng hoạt động ra sao? Lò phản ứng hạt nhân hoạt động thế nào?’ Paul giải thích mọi thứ rất tài. Về sau, chúng tôi cùng học toán và lý với nhau. Chúng tôi đã trở thành bạn bè như thế đấy.”
Paul Allen đọc sách nhiều cũng chẳng có gì lạ. Hơn 20 năm, cha của cậu, Keneth Allen, làm giám đốc các thư viện cho trường Đại học Washington.
Mặc dù Allen cũng hăng say và có máu tranh đua y như Gates, anh lại nói năng nhỏ nhẹ đến mức không ngờ, với cách bắt tay cũng nhẹ nhàng không kém. Allen nói chuyện nhỏ nhẹ đến độ khi các phóng viên phỏng vấn anh, giọng của anh đôi lúc không kích hoạt được máy ghi âm của họ.
Những anh chàng khác ở Lakeside đều mến Paul Allen. Đối với nhiều bạn học, dường như anh ta là người đáng mến hơn cả. Người ta dễ có cảm tình với một anh chàng tóc vàng để ria, mang kính râm phi công và có thói quen xách cặp. Allen chẳng hề tự phụ, hoàn toàn không có thái độ ta đây thông minh hơn người.
“Paul là người điềm đạm”, một bạn học không nằm trong số những người đến phòng máy nhận xét. “Anh ta là một con mọt sách nhưng không giống mọt sách. Bao giờ cũng dễ gần và thân thiện hơn Bill… Có khi bạn chạm mặt anh ta trong hành lang và anh ta sẽ chặn bạn lại để nói chuyện.”
Allen và Gates không chỉ dành nhiều thời gian làm việc với nhau trong phòng máy tính mà còn dành nhiều thời gian nói chuyện về tương lai của ngành công nghệ máy tính.
“Cả hai chúng tôi đều bị cuốn hút bởi những khả năng đa dạng mà bạn có thể ứng dụng máy tính”, Allen nói. “Đó là một lĩnh vực tri thức bao la mà chúng tôi đã cố gắng lĩnh hội… Bill và tôi luôn luôn có những giấc mơ lớn về việc ứng dụng máy tính.”
Trong khi Allen thích đọc các tạp chí như Điện tử Phổ thông, Gates lại đọc những tạp chí kinh doanh thường có trong nhà mình. Như một khúc dạo đầu chuẩn bị cho chuyện làm ăn thực thụ, Gates và Allen đã thành lập nhóm lập trình viên Lakeside cùng với hai người bạn, Richard Weiland và Kent Evans. Weiland và Allen đang học lớp 10, còn Gates và Evans đang học lớp 8. Nhóm lập trình viên Lakeside nhắm đến chuyện tìm kiếm những cơ hội sinh lợi nhuận để ứng dụng máy tính vào thực tế.
“Tôi là người đề xuất”, Gates nói. “Tôi là người lên tiếng: ‘Ta hãy chào mời giới làm ăn và tìm
cách bán thứ gì đó.’”
Nhưng rồi chính giới làm ăn lại gọi họ trước. Và thật là một cuộc giao dịch tuyệt vời – họ có được tất cả máy miễn phí theo ý muốn.
* * *
Được thành lập bởi bốn chuyên gia máy tính Đại học Washington vào mùa thu 1968 với sự tài trợ của các nhà đầu tư Seattle, Computer Center Corporation là một công ty tư nhân ở Seattle quy tụ tiềm năng máy tính lớn nhất Bờ Tây. Công ty này (mà Gates gọi là “C-Cubed”) đã thuê nhiều máy tính từ Digital Equipment Corporation, trong đó có một máy PDP-10 giống như máy mà Gates và các học sinh khác ở Lakeside đã sử dụng.
Computer Center Corporation có ý đồ bán dịch vụ của mình cho các doanh nghiệp khoa học và kỹ thuật trong vùng – hay bất cứ khách hàng nào cần đến máy tính với giá cả phải chăng.
Một trong những người sáng lập công ty và là trưởng nhóm lập trình khoa học, Monique Rona, có một con trai học lớp 8 ở Lakeside – cùng trang lứa với Gates. Bà đã biết về chiếc máy teletype của trường và hợp đồng mua giờ máy của trường với General Electric. Một vị đại diện của công ty bà đã tiếp xúc với Lakeside để tìm hiểu xem trường có muốn thu xếp một thỏa thuận tương tự với Computer Center Corporation không. Các học sinh sẽ có cơ hội nhiều hơn để học hỏi về máy tính, vị đại diện đã trình bày như thế.
Trường Lakeside tán thành và một lần nữa yêu cầu các bậc cha mẹ giúp đỡ trang trải giờ máy con em họ sử dụng.
Gates và các cậu bé khác lại nhanh chóng khám phá tất cả những chương trình “tinh xảo” ẩn trong phần mềm của C-Cubed PDP-10 – những chương trình họ chưa gặp trong máy tính của General Electric. Một mẹo mà các cậu bé học được là ngắt máy mà chương trình vẫn chạy. Cách này nghĩa là mặc dù đã ngắt ra khỏi hệ thống, máy vẫn chạy chương trình của họ… và ghi lại thời gian sử dụng. Hoá đơn máy tính chẳng mấy chốc lên đến hàng trăm đô-la.
“Những anh chàng này rất thèm thuồng giờ máy”, Dick Wilkinson, một trong những người tổ chức Computer Center Corporation nhớ lại. “Mỗi lần chúng tôi có được một phiên bản phần mềm mới, chúng thường sục sạo khắp trong hệ thống và chúng tôi thường phải bỏ qua một số hoá đơn vì chúng hay chạy những chương trình không được phép. Chúng tìm được cờ vua trên hệ thống mà lẽ ra không được phép. Chúng thường chơi nửa ván cờ và rời khỏi máy trạm ở Lakeside để trở về lớp hay làm gì đó. Chúng không hề hiểu rằng chúng đang sử dụng giờ máy
một cách quá mức.”
Cuối cùng thì trò tinh nghịch vượt ngoài tầm kiểm soát. Gates và vài chàng trai khác đã phá hệ thống bảo mật của PDP-10 và nắm quyền truy cập vào các hồ sơ kế toán của công ty. Các cậu đã tìm thấy tài khoản cá nhân của mình và làm giảm đi số thời gian máy tính họ đã sử dụng. Họ rất tự hào về trò này – cho đến khi bị phát giác.
Wilkinson đã lái xe đến Lakeside để nói chuyện với Fred Wright, giáo viên toán phụ trách dự án máy tính của nhà trường. Như những đứa trẻ hư nết, Gates và các bạn khác phải kéo nhau vào phòng hiệu trưởng.
“Chúng tôi thông báo là các cậu bị cúp máy sáu tuần lễ”, Wilkinson kể, “và nếu chúng tôi phát hiện việc này trên máy một lần nữa chúng tôi sẽ gọi cảnh sát, bởi vì chuyện các cậu làm là bất hợp pháp. Các cậu rất hối lỗi. Từ đó trở đi các cậu là những học sinh rất ngoan.”
Sau đó không lâu Gates lại gây ra một chuyện vô cùng rắc rối cho Computer Center Corporation. Chương trình BASIC đầu tiên mà Gates viết bằng máy PDP-10 ở C-Cubed được gọi là “Bill”. Thế nhưng lần tiếp theo khi cậu nối kết máy tính và tìm cách nạp chương trình thì hệ thống lại bị treo.
Ngày hôm sau Gates thử lại. “Chương trình mới hay cũ?’’
Máy tính lại hỏi:“ Tên chương trình cũ?”
Gates đánh câu trả lời:“Tên chương trình cũ là Bill.”
Bùm! Cứ thế, hệ thống lại treo. Gates đã cố nạp chương trình của mình nhiều lần trong vòng mấy ngày tiếp theo và lần nào máy tính của C-Cubed cũng treo.
Đây là một chuyện không vui đối với Computer Center Corporation, công ty đang chịu chi phí, tìm cách thu hút khách hàng mới và giữ khách hàng cũ. Mỗi khi máy tính trục trặc, những khách hàng trả tiền khác cũng bị tách ra khỏi hệ thống. Tệ hơn nữa, máy tính mất tất cả những dữ liệu đang làm việc – một dạng Alzheimer điện tử. Khi máy tính phục hồi trở lại, bộ nhớ trống rỗng.
Những người lập trình đang bó tay ở C-Cubed cuối cùng đã hình dung được sai sót của Gates. Khi máy tính hỏi cậu tên của chương trình, lẽ ra cậu chỉ đánh một từ “Bill”. Chuỗi ký tự cậu đánh vào, “Tên chương trình cũ là Bill”, quá dài đối với máy, một nguyên nhân khiến nó bị treo.
Gates có cảm giác hồ hởi khi biết rằng cậu có thể một thân một mình làm trục trặc cỗ máy tính khổng lồ bằng cách đánh một chuỗi ký tự. Không lâu sau cậu biết rằng làm trục trặc PDP-10 không khó khăn gì cả.
Phần mềm mà Digital Equipment Corporation cung cấp với PDP-10 thuộc loại dễ hỏng hóc. Hôm nào may mắn thì hệ thống của C-Cubed hoạt động được bốn giờ trước khi trục trặc. Hôm nào xui xẻo, có nhiều khách hàng sử dụng, trong vòng nửa giờ nó đã bắt đầu trục trặc. Nếu muốn tiếp tục hoạt động, hiển nhiên công ty này phải có biện pháp gì đó.
“Chúng tôi biết mình gặp rắc rối về độ tin cậy”, lời kể của Steve Russell, một trong những lập trình viên làm việc cho C-Cubed. “Chúng tôi biết làm thế nào để chống trục trặc… đơn giản bằng cách cho nhiều người sử dụng hoặc ngăn không cho nhiều người sử dụng. Cái mà chúng tôi muốn làm là quy tụ một nhóm bạn bè thân thiện sử dụng mà chúng tôi có thể mở cho họ để kiểm tra hệ thống và tắt cho họ khi chùng tôi muốn hệ thống được an toàn – bởi vì có nhiều khách hàng sử dụng máy đem lại cho chúng tôi nhiều lợi nhuận.”
Vì thế công ty đã thuê một nhóm người sử dụng và họ trở thành nhóm “ca đêm” không chính thức. C-Cubed đề nghị Gates và các chàng trai mê máy tính ở Lakeside một cơ hội thử làm trục trặc máy tính. Đổi lại, các cậu sẽ có tất cả giờ máy miễn phí theo ý muốn. Họ chỉ việc đến C Cubed buổi tối vào dịp cuối tuần, sau khi các khách hàng trả tiền đã ra khỏi máy tính, ghi nhật ký vào hệ thống và chơi các trò chơi. Yêu cầu duy nhất là các cậu phải cẩn thận ghi chép từng lỗi mà các cậu phát hiện đã làm ngưng hệ thống.
Những lỗi máy tính được gọi là “bọ”. Tháng Tám năm 1945, trong khi làm việc trên một máy tính thử nghiệm mang tên Mark 1 ở Đại học Harvard, một mạch điện trục trặc và người trợ lý nghiên cứu đã tìm kiếm nguyên nhân trong đèn chân không và hệ thống dây điện. Ông đã tìm ra vấn đề và gỡ nó ra bằng một cái kẹp – đó là một con côn trùng (bướm đêm) dài 5 cm.
“Kể từ đó”, Grace Hopper, một thành viên của nhóm nghiên cứu Mark 1, kể với tạp chí Time năm 1984, “khi máy tính gặp bất cứ trục trặc gì, chúng tôi đều nói nó có ‘bọ’”. (Con côn trùng (bướm đêm) nổi tiếng ấy được bảo quản tại Trung tâm Vũ khí Hải quân ở Dahlgren, bang Virginia).
Tìm kiếm “bọ” trong hệ thống máy tính của C-Cubed quả là một lĩnh vực khảo sát phong phú cho Gates và các chàng trai khác. Các cậu được giao cho một thứ gọi là “sổ báo cáo tình hình” dùng để ghi lại những khám phá và khảo sát của mình. Sáu tháng sau, sổ “bọ” đã lên đến hơn 300 trang. Hầu hết các mục đều được ghi bởi hai anh chàng Bill Gates và Paul Allen.
Computer Center Corporation toạ lạc ở Quận đại học của thành phố, trong một toà nhà của Buick. Sau giờ học, Gates thường phóng về nhà ở Laurelhurst để ăn tối rồi chạy đến bệnh viện nhi đồng gần đó đón chuyến xe bus số 30 đi đến C-Cubed cách đó không xa.
Thường qua nửa đêm các chàng trai mới xong việc. Đôi khi một trong các ông bố bà mẹ ghé qua và chở tất cả về nhà.
“Chỉ đến khi có giờ máy miễn phí ở C-Cubed, chúng tôi mới thực sự lao vào máy tính”, Gates kể. “Lúc ấy tôi đã trở thành một người chủ chốt. Cả ngày lẫn đêm.”
Lúc này Gates 13 tuổi và đang hoàn tất chương trình lớp 8.
“Chúng tôi thức suốt đêm… Thời gian ấy thật vui”, Allen nhớ lại.
Gates và Allen không chỉ tìm kiếm bọ mà còn tìm kiếm những thông tin có thể giúp các cậu tìm hiểu thêm về máy tính, các hệ điều hành và phần mềm. Allen thường cùng Gates sục sạo các thùng rác để tìm kiếm những thông tin quan trọng còn sót lại của “ca ngày”.
“Tôi đã tìm được những tờ ghi chép dính cà phê để nghiên cứu các hệ điều hành”, Gates kể.
Kent Evans thường ở đó suốt đêm với Gates và Allen, cũng như Rick Weiland. Sau bốn, năm giờ làm việc trước máy tính, các cậu thường kéo nhau đi ăn pizza và uống Coke. Đó là thiên đường của những tay hacker.
Thỉnh thoảng, một người cao, trầm lặng có râu mang tên Gary Kildall ghé qua vào buổi tối để sử dụng máy tính và trò chuyện với các lập trình viên. Kildall đang hoàn tất công trình tiến sĩ khoa học máy tính của mình ở Đại học Washington. Mười năm sau, anh sẽ có dịp tiếp cận với những cơ hội làm ăn lớn nhất trong cuộc cách mạng máy tính và góp phần làm cho Bill trở nên một người vô cùng giàu có.
Nội quy do C-Cubed đặt ra cho ca đêm khá đơn giản. Các chàng trai có thể sử dụng hệ thống máy tính bao lâu cũng được. Các cậu được khuyến khích làm trục trặc hệ thống và khi nó bị đình trệ, các cậu phải báo cho C-Cubed những gì các cậu đã nhập vào khi nó trục trặc. Các cậu có thể tìm thấy “bọ” một lần nào đó và cũng chỉ một lần. C-Cubed sau đó thường khử lỗi phần đó của chương trình.
“Thỉnh thoảng chúng tôi phải khiển trách các cậu ấy vì đã vi phạm nội quy, tức là sử dụng con bọ ấy nhiều lần trước khi chúng tôi điều chỉnh”, lời kể của Steve Russell. “Vì được chúng tôi cung cấp miễn phí giờ máy, các cậu rất hăng hái cộng tác với chúng tôi.”
Russell, khi ấy ngoài 30, đã ở đó vào ban đêm để trông coi các chàng trai, kể rằng:
“Thông thường, khi tôi để mắt đến công việc của các cậu, các cậu thường hỏi tôi một mạch bốn, năm câu và tôi thường trả lời các câu hỏi khá dài. Các anh chàng rút ra những thông tin bổ ích từ đó.”
Steve Russell là một nhà lập trình máy tính nổi tiếng và bọn trẻ quấn lấy anh để tìm hiểu. Russell vào đại học ở Dartmouth nhưng nghỉ học năm 1958 để làm lập trình viên tại học viện Kỹ thuật Massachusetts, nơi giáo sư John McCarthy, một vị giáo sư đãng trí và là một bậc thầy toán học, đã nghĩ ra thuật ngữ “trí tuệ nhân tạo” hay AI (Artificial Intelligence). Về sau ông chuyển sang trung tâm nghiên cứu AI của Stanford ở Bờ Tây và Russell đi theo ông.
Năm 1961, khi sử dụng máy PDP-1, chiếc máy tính đầu tiên trong loạt máy tính PDP của Digital, Russell đã viết ra trò chơi video đầu tiên trên máy tính tên là “chiến tranh không gian”. Máy PDP-1 có một màn hình CRT hay ống tia âm cực. Russell đã làm việc nhiều giờ đồng hồ để tạo ra một chấm sáng trên màn hình mà người ta có thể điều khiển nó đổi hướng và tăng tốc bằng cách gạt các công tắc ở phía trước máy tính. Cuối cùng, trò chơi của anh thành hình – một cuộc giao chiến trong không gian giữa hai hoả tiễn, mỗi chiếc có 31 đạn pháo. (Russel cũng là một người say mê khoa học viễn tưởng). Những chấm sáng ngẫu nhiên trên màn hình thể hiện các vì sao. Một chương trình về sau đã biến các ngôi sao thành các chòm sao. Một số tay hacker khác đã cải tiến trò chơi của anh. Người chơi có thể nhảy vào tầng không gian bên trên bằng cách gạt công tắc.
“Chiến tranh không gian” đã trở thành thuỷ tổ của tất cả những trò chơi máy tính. Chẳng bao lâu, một thế hệ trò chơi mới nối bước ra đời.
Ở Stanford, Russell làm việc trên các hệ thống máy tính nhiều người sử dụng, dùng máy PDP-6 của DEC. C-Cubed được thành lập để vận hành phiên bản kế tiếp của hệ thống này, máy PDP-10 và khai thác kinh doanh dịch vụ trên máy ấy. Russel được công ty C-Cubed tuyển dụng từ Trung tâm Nghiên cứu Trí tuệ Nhân tạo của Stanford vào cuối năm 1961 vì anh có kinh nghiệm với các hệ thống máy tính nhiều người sử dụng.
Đôi khi Russel đưa cho Gates và Allen các cẩm nang máy tính và dặn dò trả lại vào sáng hôm sau. Thay vì về nhà, các cậu ở lại C-Cubed suốt đêm để đọc.
Gates và Allen nổi bật hơn so với những anh chàng khác ở lòng say mê, Russel nhớ như thế. “Các cậu ấy cũng rất thích thú trong việc đột phá hệ thống so với các bạn khác.”
Gates nổi tiếng ở C-Cubed là một chuyên gia về nghệ thuật đột phá hệ thống bảo mật máy tính. Đặc biệt cậu có tài trong việc tìm ra một “con bọ” tên là “một dòng”. Đây là một chuỗi ký tự bệnh lý có thể đánh vào trên một dòng, cho phép Gates kiểm soát hệ thống hoặc khiến nó trục trặc. Người ta đồn rằng Gates đã bị khiển trách nặng nề tại C-Cubed vì đã đột phá vào các hệ thống bảo mật. Tuy nhiên, ngoại trừ lần duy nhất sửa đổi tài khoản từ Lakeside, những chuyện như thế không được rõ. Công ty này khuyến khích Gates và các chàng trai tìm cách xâm nhập vào những hồ sơ mà các cậu không thể vào được. C-Cubed phải biết được lỗi bảo mật thì mới mong sửa được lỗi. Digital đã cung cấp một hệ thống bảo mật công phu cho máy PDP-10 mà các nhân viên ở C-Cubed đã bổ sung thêm bằng những biện pháp của riêng họ. Họ muốn biết xem có ai có thể đột phá được hệ thống bảo mật hay không và họ rất muốn Gates thử làm chuyện này. Cậu làm chuyện ấy với sự theo dõi và cho phép của họ.
“Chúng tôi muốn biết về những con bọ này để có thể khử chúng”, Russell kể.
Một lập trình viên khác ở C-Cubed, Dick Gruen, kể lại: “Tôi không gọi đó là đột phá mà tôi nói: ‘Xem thử các cậu có cách nào vào được không.’ Tôi bảo mọi người xem thử hệ thống bảo mật có hoạt động tốt hay không. Điều đặc biệt là các cậu ấy không đánh cắp gì của chúng tôi cả, và các cậu làm chuyện đó không những được sự chấp thuận của chúng tôi mà còn làm lợi cho chúng tôi. Chúng tôi muốn các cậu báo cho chúng tôi biết về những lỗi tìm thấy.”
Mặc dù có sự đóng góp của Gates, Allen và các anh chàng khác ở Lakeside, DEC vẫn tiếp tục gặp trục trặc với phần mềm nhiều người sử dụng của công ty. Muốn khử hết tất cả các lỗi, phải mất bảy năm nữa. Nhưng lúc ấy, C-Cubed không còn nữa, còn Gates và Allen thì nổi tiếng hơn nhiều so với Steve Russell.
Trung tâm máy tính bắt đầu chật vật vào cuối năm 1969 đến tháng 3/1970 công ty này phá sản.
Gates đang hoàn tất năm học lớp 9 thì C-Cubed phá sản. Lúc ấy, cậu đã thực hiện một việc khởi đầu cho nhiều vụ mua bán khôn ngoan và có lợi trong thời gian học ở Lakeside. Cậu đã chứng tỏ rằng khi bước vào chuyện làm ăn, cậu không cho phép một điều gì cản trở mình, kể cả tình bạn.
Không cần bàn bạc vấn đề với Allen và Weiland, những người cùng trong nhóm lập trình viên Lakeside, Gates và Evans đã thương lượng mua lại từ C-Cubed những cuộn băng từ có giá trị của DEC với giá thanh lý. Các cậu giấu những cuộn băng này trong máy teletype ở Lakeside. Khi tìm ra và nổi giận, Allen giữ lấy những cuộn băng. Gates và Evans đe doạ kiện tụng dù các
cậu chỉ mới ở tuổi thiếu niên.
“Lúc ấy chuyện quả là có phần căng thẳng”, Allen kể, “nhưng rồi cũng thu xếp được”. Gates và Evans cuối cùng đã bán được những cuộn băng và kiếm lời hậu hĩnh.
Mary và Bill Jr. không hài lòng với những trò bịp bợm như thế. Họ càng quan tâm hơn đến con trai mình. Họ cảm thấy dường như máy tính có một sức hút mãnh liệt đối với cậu bé. Mặc dù mới học lớp 9, cậu đã bị ám ảnh bởi máy tính, không còn biết gì khác, thức suốt cả đêm. Gates đang trở thành loại nhân vật mà giáo sư MIT Joseph Weizenbaum, trong cuốn sách Sức mạnh máy tính và lý trí con người của ông, đã mô tả:
“Những chàng trai trẻ bộ dạng nhếch nhác, đôi mắt sáng hõm sâu, ngồi trước màn hình máy tính, đôi cánh tay duỗi thẳng, những ngón tay lúc nào cũng chực chờ gõ vào những chiếc nút và phím mà sự chú tâm của họ dồn vào đó như con bạc tập trung vào xúc xắc đang lăn. Những khi không căng thẳng như thế, họ thường ngồi bàn với những bản in máy tính vung vãi mà họ nghiền ngẫm như những môn sinh bị ám ảnh bởi thần chú. Họ làm việc cho đến khi gần ngã gục, một mạch hai mươi, ba mươi giờ đồng hồ. Thức ăn, nếu họ gọi, được mang đến: cà phê, coke, bánh mì. Nếu được họ ngủ ngay trên ghế gần máy in. Quần áo nhàu nát, gương mặt không cạo không rửa và tóc tai bù xù chứng thực rằng họ đã quên mất thân thể mình và cả thế giới mà họ đang sống. Đây là những dân nghiện máy tính, những kẻ lập trình ép xác...”
Weizenbaum miêu tả những chàng trai ở MIT vào cuối thập niên 1960, ở phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo. Đoạn văn trong sách của ông đã bị phản đối trên các tạp chí máy tính. Những tay hacker cho rằng nó vô căn cứ và có ý xấu. Họ xem máy tính là công cụ cách mạng có thể làm thay đổi thế giới. Nhưng Weizenbaum lại cho rằng nó làm mất đi tính người. Những chàng trai nghiện máy tính không còn biết đâu là giới hạn, ông nhận định. Họ chìm trong mê cung, không còn nhìn ra thế giới thật nữa.
Mary và Bill Jr. bắt đầu quan sát thấy thái độ máy móc và mê muội ở con trai mình. Mặc dù trước đó chưa bao giờ họ thúc ép con một điều gì, giờ đây họ đã phải làm như vậy. Họ buộc cậu bé phải bỏ máy tính, ít ra cũng một thời gian.
Gates phân trần: “Mọi người nhìn thấy sự việc và nghĩ rằng bọn trẻ chúng tôi đã lú lẫn, nghĩ rằng chúng tôi chẳng còn thiết gì đến chuyện khác nữa và một tình trạng như thế quả thật là không ổn. Cho nên bố mẹ tôi bảo: ‘Con dẹp cái trò này đi.’ Thế là tôi dẹp.
Chẳng có gì là ghê gớm. Tôi dẹp nó đi và học những môn khác như khoa học, toán. Có bao nhiêu là thời gian để đọc sách. Ít nhất có đến chín tháng tôi không hề đụng đến máy tính.”
Cậu đã đọc sách, cũng say mê như đối với máy tính. Cậu đọc một số sách tự thuật – trong đó có sách của Franklin Roosevelt và Napoléon – để hiểu tư tưởng của những vĩ nhân. Những cuốn cậu yêu thích là Bắt trẻ đồng xanh và Hòa bình riêng rẽ. Về sau cậu trích những đoạn dài trong hai cuốn sách này gửi cho các bạn gái. Holden Caulfield, nhân vật chính trong cuốn Bắt trẻ đồng xanh, đã trở thành một trong những anh hùng của cậu.
Và thế là Bill Gates, tay máy tính lão luyện nhất của phòng máy tính Lakeside đã từ bỏ máy tính gần một năm, từ cuối năm lớp 9 đến giữa năm lớp 10.
“Tôi đã cố gắng hết mức để sống bình thường”, anh nói.
* * *
Trong thời gian theo học tại trường Lakeside, Bill Gates luôn nổi bật so với những cậu bé khác. Động lực, sự đam mê, thái độ và trí thông minh của cậu khiến cậu nổi bật trong đám. Thực chất, Bill Gates chẳng có điều gì bình thường. Gates thường bị trêu chọc ở Lakeside vì cậu ta quá thông minh so với những học sinh khác. Thậm chí trong một môi trường như Lakeside, nơi mà trẻ thông minh chẳng phải là nổi bật, Gates thông minh đến mức những học sinh khác phải trêu chọc. Trên xe bus đến trường, Gates, nhỏ tuổi và nhỏ con hơn những anh chàng khác, luôn luôn ngồi ở cuối xe và thường bị gạt ra ngoài những cuộc chuyện trò. Thỉnh thoảng, cậu cũng được các bạn tán đồng khi kể một chuyện đùa.
Sau chín tháng gián đoạn, Gates khôi phục lại niềm đam mê máy tính. Chẳng mấy chốc những học sinh khác nhận thấy cũng những anh chàng ấy lại tụ tập đến phòng máy tính của Lakeside. Sàn nhà thường vương vãi những thẻ đục lỗ bị gấp nếp, cắt xén và những đoạn băng bị ngắt ra. Máy teletype lại thường xuyên hoạt động. Gates và bạn bè thường ngồi ở chiếc bàn dài, uống những chai Coke hai lít và chơi cờ vua hay đánh cờ vây của Trung Quốc trong khi máy tính hoàn tất công việc đang thực hiện. Sau thời gian ngồi ở phòng máy, Gates trở thành bậc thầy về đánh cờ vây và có thể hạ bất cứ học sinh nào trong trường.
“Gates hầu như luôn đi với những anh chàng trong phòng máy tính”, một bạn học nay là kiến trúc sư danh tiếng ở Seattle và là nhà lãnh đạo cộng đồng đã nhớ lại. “Anh ta thụ động về mặt giao tiếp và không thích quây quần với những học sinh khác. Anh chàng hoàn toàn bị ám ảnh bởi mối quan tâm về máy tính… Có khi người ta thấy anh ta chơi quần vợt nhưng ngoài ra không thấy gì khác. Thoạt đầu, tôi nể sợ Gates và những anh chàng khác trong phòng ấy. Thậm chí phần nào tôi đã thần tượng hoá những bạn ấy. Nhưng rồi tôi thấy họ là những con mọt sách mà tôi chẳng muốn giống. Chính họ là một phần lý do mà tôi từ bỏ máy tính… Họ đã trưởng
thành rất hạn hẹp về mặt xã hội và họ lại kiêu căng ngạo mạn, còn tôi thì không muốn trở nên người như thế…”
Đến năm lớp 11, Gates được xem như một đàn anh về máy tính đối với những tay tìm hiểu máy tính nhỏ tuổi ở Lakeside. Cậu thường diễn thuyết hàng giờ đồng hồ trong phòng máy tính, nói chuyện chuyên môn và kể chuyện về những tay hacker trong ngành và những tay đạo chích điện thoại như đại uý Crunch, người nổi tiếng khắp cả nước vì đã chế tạo những cái gọi là hộp xanh cho phép người sử dụng gọi điện thoại đường dài không tốn tiền. Một trong những đàn em đến để nghe Gates nói chuyện là Brad Augustine, học sau cậu bốn năm.
“Anh ta sống và thở với máy tính đến độ quên cả cắt móng tay”, Augustine nhớ lại. “Móng tay anh ta thường dài đến cả phân. Về mặt ấy thì anh ta cẩu thả, chỉ mải quan tâm đến những gì đang làm.”
“Kỷ yếu thường niên vào năm Gates tốt nghiệp Lakeside có một bức ảnh cậu đang nằm trên bàn trong phòng máy tính, điện thoại áp vào tai, nón trượt tuyết đội xùm xụp trên đầu. Dòng chú thích ghi: Anh chàng nào đây?
“Bill là người nổi bật”, một bạn học cũ nay là một doanh nhân thành đạt kể lại. “Mọi người đều biết Bill Gates. Tôi nghĩ rằng không có ai trong trường lại không biết anh ấy. Có những anh chàng mọt sách chẳng ai thèm để ý và có những anh chàng mọt sách ai cũng biết. Bill thuộc dạng thứ hai. Trông anh ta như một cậu bé. Trông anh ta trẻ hơn tuổi tác. Anh ta cũng là người đặc biệt vô cùng. Anh ta được đánh giá là học sinh thông minh nhất trường. Nếu bạn hỏi ai đó ở Lakeside: “Ai là thần đồng nổi bật trong các thần đồng?”, mọi người sẽ nói: “Bill Gates”. Anh ta đặc biệt, anh ta tự tin, anh ta thông minh đến mức đáng gờm. Nhắc đến Bill người ta thường nghĩ anh chàng này sẽ giật được giải Nobel. Nhưng anh ta lại không có sự lịch duyệt. Anh ta không phải là loại người đáng mến. Anh ta là loại người biết rằng mình thông minh hơn mọi người và biết rằng lúc nào mình cũng đúng…”
Anh ta thể hiện phong cách đối chọi ngay cả với các giáo viên – một phong cách được chú ý của anh ngày nay. Nhiệt tình của anh đôi khi biến thành một thứ cảm xúc thô kệch, mạnh mẽ và thỉnh thoảng trở thành cơn nóng giận đầy tính trẻ con. Nhiều bạn học cũ vẫn còn nhớ như in cuộc tranh luận sôi nổi giữa Gates và giáo viên vật lý Gary Maestretti hồi lớp 10. Hai thầy trò tranh cãi với nhau dữ dội, lời qua tiếng lại, ngay trên bục giảng trước lớp. Gates hét toáng lên, vung vẩy ngón tay, chỉ trỏ liên hồi vào Maestretti, bảo rằng thầy đã sai một ý về vật lý… và Gates đã cãi thắng.
Maestretti, nay là chủ nhiệm ngành khoa học của trường, không nhớ gì về cuộc tranh luận, nhưng ông nhớ ngay Gates và bạn thân nhất của cậu là Kent Evans.
“Bài viết của Bill thường không trau chuốt nhiều”, Maestretti cho biết. “Kent Evans thường đi sâu cặn kẽ vào vấn đề. Bill là dạng người không viết dài”. Có lúc Maestretti đã khuyến khích Bill vận dụng bàn tay cũng như trí óc. Trong một bài thực nghiệm, Maestretti đã yêu cầu cậu lắp ráp một bộ linh kiện điện tử Radio Shack sao cho nó hoạt động.
Tôi còn nhớ cậu ta mang đến cho tôi và nói: ‘Xong rồi, em đã hoàn thành bài thực tập.’ Và mối hàn chì chảy khắp phía sau… Dĩ nhiên, nó không hoạt động được. Rõ ràng cậu ta thiên về trí óc hơn là thực nghiệm…”
Chỗ cho cậu tranh đua không phải là phòng thực tập mà chính là lớp học, một nơi giao tranh về trí tuệ, nơi mà cậu có thể dốc sức để giành điểm kiểm tra cao nhất hay tranh tài toán hay lý nhanh hơn mọi người. Cậu nổi tiếng trong lớp về việc trả lời chính xác những câu hỏi lắt léo – lúc nào cậu ta cũng nhìn thấy ý nghĩa ẩn giấu trong mỗi câu hỏi của giáo viên.
“Anh ta lúc nào cũng đi trước một bước”, Carl Edmark, bạn thời thơ ấu kể lại. “Bạn không thể lừa được anh ta.”
Gates rất bực bội với những ai không nhanh trí như cậu, kể cả các giáo viên. Giáo viên môn khoa học của cậu, William Dougal, đã có lần nhận xét: “Nếu một giáo viên tỏ ra chậm chạp, Bill ắt sẽ buột miệng: ‘Hiển nhiên là thế.’”
Thái độ hợm hĩnh của cậu đã gây ra va chạm với các bạn học. Colby Atwood, người học trước Gates một năm, ngồi trước Gates trong lớp luật của luật sư Gary Little. Lúc này Gates đang là học sinh lớp 11. Một hôm, Gates cười một học sinh chậm chạp trong việc trả lời câu hỏi thầy Little đặt ra. Khi Atwood, người không thân với Gates, nghe thấy anh ta cười bạn mình, anh ta đã quay lại, túm áo Gates và đuổi ra. Thầy Little phải can và giảng hoà.
“Phản ứng đó không chỉ vì chuyện hôm ấy mà vì thái độ của Gates trước đó nhiều lần trong lớp”, Atwood cho biết. Atwood đã gặp lại Gates trên máy bay 20 năm sau, khi Gates lên khoang vào phút chót.
“Trông anh ta lếch thếch… mệt mỏi… tóc tai bù xù… hệt như bộ dạng ngày đi học.”
Trong khi một số bạn bè nhớ rằng Gates ứng xử vụng về và hoàn toàn mải mê với thế giới của máy tính Lakeside thì với những người bạn thân cậu lại không phải là người cách biệt như thoạt tưởng. Cậu có khiếu hài hước và phiêu lưu. Cậu lại là người chịu đùa, thích đùa và vui vẻ
với bạn bè. Cậu có vốn kiến thức và hiểu biết rộng lớn và có thể nói chuyện say sưa về nhiều đề tài.
“Ai cho rằng anh ta là một con mọt sách thì hoặc là không chơi thân với anh ta hoặc đã lầm”, lời Paul Carson, người đam mê chính trị chứ không phải máy tính.
Khi 16 tuổi, Gates mua một chiếc Mustang 1970 mới tinh màu đỏ mà cậu và các bạn thường nghỉ học buổi chiều để rong chơi.
Ngoài Kent Evans, hầu như không ai gần gũi Gates thời trung học hơn Carl Edmark, bạn của cậu từ lớp 4. Suốt thời trung học, Gates và Edmark làm gì cũng chung với nhau – đi xem phim, lái xe Mustang, đi ăn hamburger và chơi máy bắn bi. Vào dịp cuối tuần trong những tháng hè, hai cậu đi trượt nước ở kênh Canal. Hai cậu cũng học trượt diều trên kênh Canal, để cho một chiếc xuồng cao tốc kéo con diều rộng 5m với dây kéo dài hơn 300m.
“Chúng tôi chơi đủ mọi trò bình thường, hấp dẫn mà mọi thiếu niên vẫn chơi’, Edmark kể. “Bill… thật là bình thường… chúng tôi thường nói về công nghệ CD. Cả hai đứa đều quan tâm đến những vấn đề kỹ thuật… Nhưng chúng tôi chẳng bao giờ nói ‘Tớ sẽ trở thành ông này’ hay ‘Tớ sẽ trở thành ông kia’. Thật sự chúng tôi chẳng biết mình sẽ ra sao.”
Khi họ học năm cuối cấp, Edmark làm công việc mùa hè ở một ngân hàng Seattle. Một hôm, một phụ nữ có tuổi bước vào gửi nhiều hối phiếu một nghìn đô-la vào tài khoản của bà. Trước đó Edmark chưa bao giờ nhìn thấy tờ hối phiếu một nghìn đô-la. Tối đó, cậu kể cho Gates. “Thế thì ta sẽ tìm một tờ”, Gates nói. Ngày hôm sau, cậu đưa cho Edmark một nắm hối phiếu hai mươi đô-la và Edmark đem số tiền ấy đến một nhà quản lý ngân hàng để đổi lấy hối phiếu một nghìn đô-la.
Tối đó, Edmark và Gates đến tiệm Dick, một quán humburger nổi tiếng có món gà rán béo nhất thành phố. Hai anh chàng gọi cheeseburger và gà rán. Khi hoá đơn đưa ra, Gates hững hờ mở ví và đưa cho người thu ngân hối phiếu một nghìn đô-la mới tinh. Cô ta nhìn tờ hối phiếu rồi nhìn Gates, nhìn tới nhìn lui nhiều lần. Cuối cùng cô ta đi tìm người quản lý.
“Có tờ nào nhỏ hơn không?” viên quản lý bước ra hỏi một cách nghiêm túc. Gates, nhìn trẻ hơn năm tuổi so với tuổi thật của mình, lắc đầu một cách trịnh trọng. “Không, không còn tờ nào cả”, cậu đã quyết định diễn hết màn kịch xem đến đâu.
“Sau bữa ăn trưa chúng tôi mới đổi được. Bây giờ thì không thể”, người quản lý đáp. Gates và Edmark phá lên cười. Cuối cùng, họ trả tiền thức ăn bằng vài đô-la và leo lên chiếc
Mustang lẩn vào màn đêm.
Mặc dù Gates chưa biết cậu sẽ làm gì trong thời gian học trung học nhưng dường như cậu tin rằng bất cứ điều gì cậu làm đều đem lại cho cậu nhiều tiền. Cậu đã nhiều lần nói trước như thế về tương lai mình với các học sinh khác và giáo viên ở Lakeside. Năm lớp 11, Gates nói với Paul Carson bạn mình rằng cậu sẽ là triệu phú trước năm 30 tuổi.
“Điều đó nghe có vẻ ngạo mạn”, Carlson kể. “Một số người nói ra điều đó vì khoác lác. Một số người nói ra điều đó vì họ đánh giá được chính họ. Bill thuộc loại thứ hai.”
Gates trở lại với máy tính vào cuối năm 1970, cậu bắt đầu tìm những phương cách mới để kiếm tiền. Trong khi Gates thu xếp chuyện sách vở suốt chín tháng, Paul Allen lo tìm kiếm máy tính để chạy ở Đại học Washington, nơi cha cậu làm việc tại thư viện của trường. Allen biết nhiều chỗ. Cậu tìm thấy một máy tính PDP-10 ở khoa vật lý và một máy PDP-11 ở bệnh viện trường đại học. Cậu phát hiện các máy tính khác ở khoa kỹ thuật. Đến lúc Gates trở lại, nhóm lập trình viên Lakeside đã chuyển hoạt động sang trường đại học, nơi các cậu thức suốt đêm.
“Chúng tôi mò mẫm khắp các máy đó”, Gates kể. “Chúng tôi lùng khắp trường đại học tìm xem máy nào có thể sử dụng được. Từ khi C-Cubed phá sản, lúc nào cũng phải tìm kiếm giờ máy.”
Có tin đồn rằng Gates đã phá hỏng Cybernet, một mạng máy tính quốc gia do Control Data Corporation điều hành, bằng cách mò vào hệ thống bằng một máy của CDC tại trường đại học. Hai cuốn sách, Lửa trong thung lũng và Công cuộc tạo dựng Microsoft, đã ghi lại rằng Gates đã bị khiển trách nặng nề bởi các kỹ sư CDC lần theo dấu vết cậu.
Nhưng cũng như chuyện nghịch phá ở C-Cubed, chuyện này có vẻ huyền hoặc chứ không thực tế. Control Data Corporation là một trong những công ty được mệnh danh là Bảy chú lùn sản xuất máy tính lớn vào những năm 1960 dưới bóng Người khổng lồ IBM. Đại học Washington thật sự có một máy tính CDC mà Gates đã truy cập. Nhưng nó không được nối với mạng Cybernet cho nên Gates không có cách nào phá được mạng, theo lời một lập trình viên hệ thống đã lắp đặt máy CDC tại trường đại học năm 1968.
Gates nói về chuyện này: “Chúng tôi tìm hiểu về các bộ xử lý ngoại vi trên máy CDC tại trường đại học. Nhưng tôi không liên can đến việc phá hỏng Cybernet… mặc dù tôi biết một số người tự xưng họ đã làm.”
Nhóm Lập trình viên Lakeside nhận được một cơ hội làm ăn quan trọng vào đầu năm 1971. Information Sciences Inc., một công ty máy tính phân thời gian (time sharing) ở Portland,
bang Oregon giống như C-Cubed, đã tiếp xúc với nhóm về việc viết một chương trình bảng lương cho một trong số các khách hàng của họ. ISI có một máy PDP-10 và chủ tịch công ty, Tom McLain, biết rằng các anh chàng này có nhiều kinh nghiệm viết các chương trình trên máy. Dick Wilkinson, một trong những người tổ chức C-Cubed, đã bán hệ thống máy tính PDP
10 cho ISI trong thời gian ông làm giám đốc kinh doanh khu vực cho Digital Equipment Corporation. Allen và Richard Weiland đã quyết định không cần đến những đồng nghiệp đàn em và mời Gates cùng Evans rút lui khỏi dự án ISI.
Gates nhớ lại: “Paul và Rick thấy rằng không có nhiều công việc nên họ bảo chúng tôi: ‘Bọn tớ không cần đến các cậu’. Nhưng sau đó họ gặp trục trặc. Thậm chí họ chưa kịp bắt tay vào viết chương trình bảng lương. Thế là họ yêu cầu tôi trở lại và nói với họ: ‘Được thôi, các cậu muốn tớ trở lại thì tớ sẽ ra tay…’ kết cục là tôi và Kent viết gần hết chương trình tính lương, một chương trình COBOL. Chúng tôi có giờ máy miễn phí để làm việc và được trả thù lao bằng mấy giờ máy miễn phí. Mọi người đều có lợi.”
Dự án “bảng lương” quả thật “khá nhàm chán”, theo lời Gates. “Chúng tôi phải nắm được mức thuế của tiểu bang, mức chiết giảm lương… và những thứ đại loại như vậy.”
Chuyện làm ăn với ISI cho thấy nhóm lập trình viên Lakeside phải có danh nghĩa chính thức. Cha của Gates đã giúp các thủ tục pháp lý và hỗ trợ hợp đồng với ISI. Ông đã trở thành cố vấn pháp lý chính thức của nhóm. Gates và Evans mới 15 tuổi. Evans ghi chép về dự án ISI và cho thấy một sự hiểu biết sâu sắc của các cậu bé mà khi bước vào làm ăn đã tỏ ra khôn ngoan hơn tuổi tác. Evans viết trong một mục: “Chúng tôi đang viết một chương trình bảng lương rất phức tạp. Ngày 16/3 là thời hạn chót. Vụ làm ăn này rất bổ ích vì chúng tôi đã tìm hiểu được rất nhiều khi làm việc trong môi trường kinh doanh và làm việc với các cơ quan chính phủ. Suốt mấy tuần qua, chúng tôi đang cố gắng hết sức để hoàn thành. Thứ ba, chúng tôi đi Portland để giao chương trình và như họ đã nói: ‘Hãy nghĩ ra hợp đồng sắp tới.’ Mọi thứ từ trước đến nay đều làm vì mục đích học hỏi và để có được những giờ máy đắt tiền. Giờ đây chúng tôi cũng muốn kiếm lợi nhuận bằng tiền nữa.”
Gates, Allen, Evans và Weiland đáp xe bus đến Portland khi chương trình đã làm xong để gặp các nhà kinh doanh của ISI. Sau cuộc gặp, Kent viết: “…tất cả chúng tôi được trao giấy để viết lý lịch tóm tắt giúp cho họ tuyển dụng chúng tôi… tiền bạc chưa được đề cập. Paul, Bill và tôi không muốn lĩnh lương theo giờ nên chúng tôi bàn đến mức thanh toán cho các sản phẩm lập trình và thỏa thuận về bản quyền. Vấn đề bản quyền tỏ ra đồ sộ. Chúng tôi được khoảng 10% khoản tiền ISI nhận được từ một trong các chương trình của chúng tôi – Về lâu dài, chúng tôi sẽ
có nhiều hơn và công ty không cần lệ thuộc bất kỳ đồng vốn nào của ISI.”
Không rõ cả nhóm kiếm được bao nhiêu tiền bản quyền từ dự án bảng lương, nhưng ISI đã cho các cậu giờ máy miễn phí trị giá khoảng 10.000 đô-la.
“Nếu ai muốn biết vì sao Bill được như ngày nay, theo đánh giá của tôi đó là do sớm có kinh nghiệm trong làm ăn”, lời Marvin Evans, cha của Kent.
Allen tốt nghiệp trường Lakeside năm 1971 và mùa thu năm ấy ghi danh vào trường đại học tiểu bang Washington, theo chuyên ngành khoa học máy tính. Nhưng anh và Gates đã thực hiện một chương trình kinh doanh khác bằng công ty của chính họ mà họ đặt tên là Traf-O Data.
Ý tưởng lập công ty của họ thật là tài tình. Hầu hết mỗi đô thị đều dùng những hộp kim loại nối với những ống cao su trải ngang đường để đếm xe. Những hộp giao thông này chứa băng giấy 16 kênh (rộng gấp hai lần băng 8 kênh dùng trong các máy teletype cũ) và mỗi lần một chiếc xe hơi vượt qua ống cao su, máy lại bấm lên băng giấy với các số nhị phân 0 và 1. Các con số thể hiện giờ giấc và số lượng. Chính quyền các thành phố thuê những công ty tư nhân chuyển dịch dữ liệu thô này thành thông tin mà các kỹ sư đô thị có thể sử dụng – chẳng hạn – để xác định xem đèn giao thông cần đỏ hay xanh trong thời gian bao nhiêu lâu cho xe cộ lưu thông tối ưu.
Nhưng các công ty cung cấp dịch vụ này lại chậm chạp và đòi hỏi giá cao. Gates và Allen nghĩ rằng họ có thế lập trình máy tính phân tích các băng giấy đếm xe cộ rồi bán thông tin cho các chính quyền đô thị nhanh hơn và rẻ hơn các đối thủ. Gates thuê các học sinh lớp 7 và 8 ở Lakeside chuyển đổi số liệu trên các băng giao thông vào thẻ máy tính để cậu đưa vào máy tính CDC ở Đại học Washington. Chương trình phần mềm của cậu biến đổi dữ liệu thành các sơ đồ lưu lượng giao thông dễ đọc.
Chris Larson, học sau Gates bốn năm, là một trong số những học sinh được thuê với chi phí thấp để chuyển đổi số liệu từ băng giao thông thành thẻ máy tính. Em họ của cậu, Brad Augustine, cũng được thuê làm việc cho Traf-O-Data. Nhiều học sinh khác, kể cả một vài bà mẹ cũng tham gia khi bọn trẻ quá bận bịu làm bài tập.
Khi Traf-O-Data đã đi vào hoạt động, Allen quyết định cậu và Gates cần phải chế tạo máy tính riêng để phân tích trực tiếp các băng giao thông, khỏi cần đến thao tác bằng tay nữa. Đó là một công việc khó khăn. Các cậu đã thuê một kỹ sư của Boeing giúp thiết kế phần cứng. Gates góp 360 đô-la và cậu cùng Allen mua một vi mạch xử lý 8008 mới của Intel, một trong những vi
mạch đầu tiên bán qua một nhà phân phối khắp cả nước. Họ nối kết một bộ đọc băng giấy 16 kênh vào “máy tính” của mình và đưa các băng giấy giao thông vào thẳng trong máy.
Tuy không sánh được về công năng như máy vi tính ra đời về sau, máy tính của Traf-O-Data đã hoạt động được – hầu như mọi lúc. Mary Gates nhớ có lần con trai bà đã giới thiệu máy giao thông của cậu cho một viên chức chính quyền thành phố trong phòng ăn của bà. Khi máy gặp trục trặc, viên quan chức này mất hứng. Bill đã năn nỉ mẹ: “Mẹ bảo ông ấy đi, mẹ bảo ông ấy máy chạy được mà!”
Gates và Allen thu được tổng cộng 20.000 đô-la từ Traf-O-Data. Nhưng doanh nghiệp này chưa bao giờ thành công lớn cả và cuối cùng nó bị xếp xó khi Gates vào đại học.
Năm lớp 11 tại Lakeside, trong khi tìm kiếm mối làm ăn cho Traf-O-Data, Gates có được những kế hoạch kiếm tiền khác. Cậu và Evans thành lập một nhóm máy tính khác, gọi là Logic Simulation Company và các cậu tung ra các tờ bướm quảng cáo công việc và nhân lực giá rẻ.
Một bức thư các cậu gửi cho học sinh Lakeside ghi rằng: “LPG và LSC là hai tổ chức máy tính hướng đến một số dự án thu lợi nhuận. Trong số này có việc lập trình học, thực hiện nghiên cứu dữ liệu giao thông, làm sách dạy nấu ăn… Chúng tôi muốn phát triển nhân lực, hiện nay có năm thành viên của Lakeside. Tổ chức này không chỉ đơn thuần làm việc về máy tính. Chúng tôi cần những người có thể đánh máy, vẽ phác thảo và thực hiện bản vẽ kiến trúc. Nếu bạn quan tâm, hãy gặp Kent Evans, Bill Gates hay Chris Larson.”
Lá thư đề cập đến “cơ hội bình đẳng cho nam và nữ” và đính kèm một biểu mẫu cho những học sinh quan tâm điền vào các chi tiết như có thể làm việc bao nhiêu giờ, thời gian rỗi trong mùa hè và kinh nghiệm về máy tính.
Vào tháng 5/1972, gần cuối năm lớp 11. Gates và Evans được ban giám hiệu Lakeside tiếp xúc với ý định điện toán hoá thời gian biểu lớp học cho gần 400 học sinh. Việc sắp xếp hệ thống thời khoá biểu từ lâu nay là một công việc rất mất thời gian. Lakeside muốn chương trình máy tính mới phải hoàn thành cho đầu năm học 1972 - 1973, vào mùa thu. Một cựu kỹ sư Boeing được tuyển dụng làm giáo viên toán ở Lakeside đang thực hiện chương trình này nhưng ông đã chết trong một vụ tai nạn máy bay. Công việc được chuyển sang cho Gates và Evans.
Đau buồn thay, chưa đầy một tuần sau, ngày 28/5, kỳ cuối tuần dịp lễ Chiến sĩ vong trận, Kent Evans đã chết trong một tai nạn leo núi. Vài tháng sau khi Evans chết, trường mới biết rằng cậu nằm trong số 11 ứng viên bán kết của kỳ Trắc nghiệm Học bổng Tài năng Quốc gia. Gates cũng có trong danh sách (năm sau cậu vào đến chung kết). Sau khi Evans chết, chàng Gates
bàng hoàng đến nhờ Allen giúp mình trong dự án thời khoá biểu. Các cậu đã thỏa thuận thực hiện vào mùa hè đó khi Allen từ Đại học Washington trở về.
(Năm 1986, Gates và Allen đã tặng Lakeside 2,2 triệu đô-la để xây dựng một trung tâm khoa học và toán học mang tên họ, với giảng đường mang tên Evans).
Đầu mùa hè ấy, để tưởng nhớ Evans, người say mê chính trị chẳng kém máy tính, Gates đã đến Washington, D.C., phụ việc trong Hạ nghị viện. Bố mẹ cậu đã kiếm được cho cậu công việc này thông qua Brock Adams, hiện nay là một dân biểu. Gates nhanh chóng tỏ rõ năng khiếu thương mại của mình. Cậu đã mua 5.000 huy hiệu McGovern-Eagleton với giá 5 xu mỗi cái – tổng cộng 20 đô-la. Khi George McGovern đánh bại Thomas Eagleton khỏi danh sách ứng cử tổng thống, Gates đã bán những chiếc huy hiệu hiếm hoi như món đồ sưu tập với giá 15 đô-la mỗi chiếc, thu lợi hàng nghìn đô-la.
Khi quốc hội ngưng họp trong mùa hè, Gates quay về Lakeside để giúp Allen thực hiện dự án thời khoá biểu. Các cậu đã viết chương trình bằng giờ máy miễn phí tích luỹ được ở Information Sciences Inc. Lakeside cũng thanh toán giờ máy này cho các cậu và các cậu kiếm được vài nghìn đô-la. Chương trình thời khoá biểu do họ thiết kế vẫn còn được sử dụng tại Lakeside dù đã qua cải tiến nhiều năm.
Chương trình này tỏ ra là một thành tựu đối với các học sinh mùa thu năm đó, nhất là đối với những học sinh năm cuối cấp, những người – nhờ có Gates và thời khoá biểu đầy sáng tạo – không phải đến lớp vào chiều thứ ba. Nhóm các sinh viên năm cuối đã mặc áo thun với dòng chữ “Câu lạc bộ Thứ ba” in trên nền hình một két bia.
Các nữ sinh đã được nhận vào Lakeside từ đầu năm lớp 11 của Gates, khi Lakeside sáp nhập với St. Nicholas, một trường nữ sinh. Gates đăng ký học giờ kịch nghệ trong năm cuối chung với một số nữ sinh đầu tiên vào học ở Lakeside. Kết quả là Gates được nhận những vai chính trong hai vở kịch của nhà trường Đêm Sập Giường của James Thurber và Bi Hài Kịch của nhà biên kịch Peter Shaffer. Vở kịch của Thurber đòi hỏi Gates phải thuộc một đoạn độc thoại dài ba trang. Gates, với một trí nhớ gần như máy, chỉ liếc qua mấy trang giấy trong chốc lát là đã thuộc.
“Tôi tự nhủ”, Anne Stephens, người đã đạo diễn cả hai vở kịch của Gates, nhớ lại: “Không biết cậu bé nhút nhát này làm ăn ra sao? Vở này rất khô khan. Thế mà cậu đã diễn hào hứng. Trông cậu thật có duyên.”
Với sự thành công của dự án thời khoá biểu, Gates tiếp tục tìm kiếm những cơ hội làm ăn khác
trong năm cuối cấp. Cậu gửi thư đến các trường trong vùng, đề nghị điện toán hoá thời khoá biểu của họ. Cậu giới thiệu hệ thống của mình chống trùng lặp đến 95%.
“Chúng tôi sử dụng một chương trình lập thời khoá biểu độc nhất vô nhị do Lakeside thiết kế”, thư của cậu viết. “Chúng tôi cũng mong muốn cung cấp chương trình lập thời khoá biểu này cho quý trường. Một chương trình tốt với giá phải chăng – 2 đô-la đến 2,50 đô-la cho mỗi học sinh. Chúng tôi rất hân hạnh được dịp thảo luận về việc này với quý trường.”
Gates đã giành được công việc viết chương trình máy tính đầu tiên phục vụ việc ghi danh môn học ở trường Cao đẳng Thực nghiệm thuộc Đại học Washington. Trường này do các sinh viên Đại học Washington điều hành và giảng dạy các chương trình tương đương với chi phí thấp. Trường không do phía đại học điều hành mà do hiệp hội sinh viên đại học chính phủ điều hành.
Gates được hiệp hội thuê làm công việc lập trình. Tuy nhiên, có một vấn đề phát sinh không liên quan đến chương trình do cậu viết. Chị gái Kristi của cậu, sinh viên Đại học Washington lúc bấy giờ, là một thành viên của hiệp hội sinh viên chính phủ. Khi nhà trường biết em của cô có được hợp đồng lập thời khoá biểu, họ đã lên án hiệp hội về thái độ gia đình trị. Kết cục, Gates kiếm được không bao nhiêu từ dự án này – chỉ khoảng 500 đô-la.
Khi bước vào học kỳ hai của năm cuối, Gates vẫn tìm kiếm cơ hội kiếm tiền bằng kinh nghiệm máy tính của mình. Cậu không phải chờ lâu.
Một hôm, Gates nhận được một cú điện thoại của một người đàn ông ở TRW, nhà thầu khổng lồ về quốc phòng. Ngay sau đó, Gates đã gọi điện đến Đại học Washington ở Pullman để tìm cách báo tin cho Paul Allen.
TRW, Gates hối hả giải thích cho Allen, muốn cả hai đến Vancouver để phỏng vấn càng sớm càng tốt. “Paul, đây là cơ hội để bọn mình kiếm tiền thực sự! Phải đi thôi.”
Paul Allen chẳng đợi phải nài ép. Mặc dù mới năm học thứ hai ở đại học tiểu bang Washington, Allen đã chán đời sống đại học và cảm thấy bứt rứt. Anh muốn lao vào thực tế, ứng dụng những hiểu biết sâu sắc về máy tính để kiếm tiền. Có lẽ anh và Bill sẽ thành lập công ty phần mềm của riêng họ. Họ đã bàn về chuyện ấy nhiều lần.
Cho đến bấy giờ thì thù lao cho công việc của họ phần lớn vẫn là những giờ máy miễn phí, ban đầu ở C-Cubed và sau đó ở Information Sciences. Nhưng TRW đã đề nghị một công việc toàn thời gian có lương.
Nhà thầu quốc phòng khổng lồ này của chính phủ đang gặp rắc rối. TRW đang thực hiện một dự án điện toán hoá mạng lưới điện vùng Tây Bắc cho Ban quản trị điện lực Bonneville. Máy tính sẽ phân tích nhu cầu điện lực của khu vực và kiểm soát lượng điện phát ra từ các đập thuỷ điện trên sông Columbia. TRW đã thành lập các văn phòng ở Vancouver, đối diện với sông Columbia qua Portland. Hệ thống điều độ điện sử dụng các máy tính PDP-10 và TRW phải ứng dụng cho các máy tính hoạt động. Nhưng dự án này chẳng mấy chốc bị chậm trễ. Như thường lệ, phần mềm PDP-10 bị nhiễm bọ. Hợp đồng đòi hỏi có một hệ thống điều khiển thời gian thực với độ tin cậy 99,9%, nếu TRW không sửa chữa được phần mềm một cách nhanh chóng, công ty này sẽ phải bồi thường hợp đồng khá tốn kém.
Đã đến lúc phải gọi những tay chuyên diệt bọ.
Ban lãnh đạo TRW ở Cleveland đã yêu cầu khẩn cấp tìm kiếm những chuyên gia săn tìm bọ cho phần mềm PDP-10. Lần theo manh mối từ Digital Equipment Corporation, một kỹ thuật viên của TRW đã phát hiện ra “Sổ báo cáo tình hình” ở Computer Center Corporation đã phá sản tại Seattle. Tên của hai thợ săn bọ xuất hiện hầu như trên từng trang – Bill Gates và Paul Allen. TRW đã tiếp xúc với Gates qua điện thoại tại nhà, đề nghị cậu và Allen đến Vancouver để dự phỏng vấn.
“Bill và tôi diện bảnh nhất để đến đó”, Allen kể.
Mặc dù còn nhỏ tuổi, Gates và Allen đã được đề nghị vào làm việc với mức lương 165 đô-la một tuần.
“Chúng tôi sướng run lên”, Allen kể. “Cho đến lúc ấy, chúng tôi vẫn chưa hề kiếm được tiền một cách nghiêm túc bằng công việc về máy tính… kiếm được tiền bằng công việc mình yêu thích… chúng tôi thấy thật tuyệt vời.”
Thay vì làm trục trặc máy PDP-10 như các cậu đã từng làm ở C-Cubed, các cậu được tuyển dụng vào để phục hồi hệ thống mỗi khi nó trục trặc.
Gates được phép của trường Lakeside bảo lưu học kỳ hai của năm cuối để làm việc toàn thời gian tại TRW. Allen bỏ học ở đại học tiểu bang Washington và hai cậu tìm được một căn hộ ở Vancouver, cách Seattle 160 dặm.
Chính tại TRW, Gates bắt đầu phát triển thành một nhà lập trình thực thụ. Lập trình máy tính là công việc thiên về nghệ thuật hơn là khoa học. Những lập trình viên giỏi nhất đều có một phong cách riêng giống như nét cọ của các danh hoạ. Gates ước mơ làm một lập trình viên bậc
thầy, tuy rằng hiện giờ anh đã thôi không viết mã nhiều năm do bận rộn điều hành công ty của mình.
Có nhiều nhà lập trình gạo cội tham gia dự án TRW. Một trong những người đó là John Norton. Ông thích viết chú thích tràng giang đại hải về mã lệnh của người lập trình. Đó là lần đầu tiên Gates thấy có người làm như thế và cậu rất ấn tượng. Ngày nay, Gates nhận xét về mã lệnh của các lập trình viên của mình bằng cách gửi tin điện tử cho họ. Lời nhận xét thường mang tính chỉ trích và châm biếm. Không ít lần các lập trình viên xui xẻo của Microsoft đã nhận được thư điện tử lúc 2 giờ sáng mở đầu bằng câu:“Đây là đoạn lệnh ngớ ngẩn nhất trên đời.”
Norton thích Gates và trở thành một người thầy giúp đỡ cậu thiếu niên hăng say ưa học hỏi về các kỹ năng lập trình. Mỗi khi Gates phạm lỗi hay làm việc luộm thuộm, Norton thường xem lại mã và giảng giải cậu đã sai những gì và làm sao để cải tiến cho có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, lại còn vấn đề tốt nghiệp trung học. Mùa xuân 1973, sau khi được chấp nhận vào học ở Harvard vào mùa thu, Gates trở về Seattle để hoàn thành học kỳ cuối tại Lakeside. Mặc dù lỡ mất ba tháng học tập, cậu đã nhanh chóng đuổi kịp. Với môn toán, cậu là người thi cuối cùng và đã đạt điểm cao nhất. Tuy nhiên, toàn môn học cậu bị xếp loại B vì giáo viên cho rằng Gates không đi học nên không đánh giá được tinh thần học tập.
Gates bao giờ cũng đầy tự tin. Bill Hucks, cũng là bạn học năm 1973 ở Lakeside, nhớ lại một trận bóng chày ở phòng thể dục nhà trường khi sắp sửa tốt nghiệp vào tháng Sáu. Sau trận bóng mà Gates thắng, Hucks đã hỏi cậu:“Sao chuyện thế nào rồi? Cậu tính làm gì tiếp?”
Gates đã bảo cậu sẽ đến Harvard vào mùa thu. Rồi cậu nói tiếp bằng giọng nghiêm túc: “Tớ sẽ kiếm được một triệu trước lúc 25 tuổi”. Cậu nói đó không phải là lời khoác lác, cũng không phải là lời tiên đoán. Cậu đã nói về tương lai của mình như thể thành công của cậu là tiền định, một sự đã rồi, một điều hiển nhiên như thể một với một là hai.
“Tôi còn nhớ tôi đã không ngạc nhiên”, lời Hucks, người về sau theo ngành báo chí và hiện nay kinh doanh thiết bị y tế ở vùng Seattle. “Chẳng có gì lạ khi anh chàng Gates này tỏ ra đầy tham vọng và sẽ làm giàu. Mọi người trong trường đều biết thành tích của anh ta.”
Sau khi tốt nghiệp, Gates trở lại Vancouver để tiếp tục công việc với Allen về dự án TRW. Nhưng mùa hè của cậu hoàn toàn không chỉ là những con số nhị phân không và một, hay những bữa ăn pizza và coke đêm khuya trước máy tính. Cậu dùng một phần tiền lương của mình để mua một chiếc xuồng cao tốc và cùng các bạn trượt nước ở những chiếc hồ kế cận ở Oregon và Washington khi rảnh rỗi vào cuối tuần.
Mùa hè dần trôi qua và đến lúc Gates phải rời Vancouver để vào đại học, cậu và Allen bắt đầu nói chuyện nghiêm túc về việc thành lập công ty phần mềm của riêng họ. Cho đến bây giờ, các cậu đã cùng chung một tầm nhìn, rằng một ngày nào đó, máy tính sẽ phổ biến trong gia đình như máy truyền hình và những chiếc máy tính đó sẽ cần đến phần mềm – phần mềm của họ.
“Chúng tôi luôn có những giấc mơ lớn”, Allen kể.
Chương 2. “Thời cơ đang đến”
Bill Gates nói với một người bạn rằng anh đến Harvard để học hỏi những người thông minh hơn mình… và anh đã ra đi với tâm trạng thất vọng.
Anh đến Cambridge vào mùa thu năm 1973 trong lúc chưa hề có một ý tưởng mình sẽ làm gì trong đời. Mặc dù đã đăng ký môn học chính là dự bị luật học, anh lại không mấy quan tâm đến chuyện trở thành luật sư như cha mình. Cả bố mẹ anh cũng không mấy hy vọng anh sẽ theo đuổi nghề này. Gia đình không hề ép buộc anh phải thế này hay thế khác. Bố mẹ chỉ đòi hỏi anh phải vào đại học và hoà nhập cùng các sinh viên khác. Thế thì còn môi trường đại học nào tốt cho con trai họ bằng Harvard, trung tâm đào tạo bậc cao lâu đời nhất nước Mỹ? Nơi này gắn liền với cả một huyền thoại. Nó gợi cho mọi người liên tưởng đến hình ảnh sự thành đạt, địa vị và thế lực… đỉnh cao. Những vị chánh án toà án tối cao đều từng học ở Harvard. Các tổng thống cũng thế.
Giờ đây con trai họ đã bước vào môi trường trí tuệ này. Mọi ý tưởng anh ấp ủ về việc thành lập một công ty phần mềm với Paul Allen phải gác lại, bố mẹ anh đã yêu cầu như thế.
“Lúc nào tôi cũng mơ hồ không biết mình sẽ làm gì, còn bố mẹ tôi thì muốn tôi vào đại học”, Gates kể. “Bố mẹ tôi không muốn tôi lập công ty và cũng không hẳn muốn tôi hoàn tất chương trình đại học. Ông bà không hề có một ý hướng cụ thể trong đầu mà chỉ nghĩ rằng tôi cần phải sống với các sinh viên khác, theo học chương trình đại học bình thường… và tôi đã làm như thế.”
Ở Harvard, hầu hết sinh viên năm đầu đều sống ở ký túc xá nằm cạnh khu Yard, kề với Quảng trường Harvard ở Cambridge. Yard là trung tâm của trường đại học thuở ban đầu, thành lập vào năm 1636, chỉ 16 năm sau khi những di dân đặt chân đến Plymouth. Vào cuối năm thứ nhất, các sinh viên có thể đăng ký sống trong 12 khu nội trú.
Năm thứ nhất, Gates được xếp vào một trong các ký túc xá và ở cùng phòng với hai sinh viên khác, Sam Znaimer và Jim Jenkins. Họ đã được xếp cùng phòng một cách tình cờ. Họ không hề quen biết nhau. Cả ba xuất thân từ những hoàn cảnh và những nền văn hoá vô cùng khác biệt nhau – đúng là dạng môi trường mà bố mẹ Gates đã kỳ vọng. Gates là một chàng da trắng, giàu có, người Seattle. Znaimer là một chàng Do thái nghèo đến từ Canada mà bố mẹ đã di cư sang Montreal sau cuộc tàn sát. Anh vào Harvard bằng một học bổng, theo ngành hoá. Jenkins là chàng da đen tầng lớp trung lưu người vùng Chattanoonga bang Tennessee, có cha trong quân
đội.
“Tôi thấy Bill có nét độc đáo”, hồi tưởng của Znaimer, hiện nay đang là nhà đầu tư ở Vancouver, British Columbia. “Trước đó tôi không quen biết nhiều những người da trắng giàu có gốc Anglo-Saxon theo đạo Tin lành. Ở Montreal, tôi không quen biết những người như thế. Bill là một người xuất thân từ một gia đình khá giả và đã học trường tư. Anh ta thường kể một vị giám đốc nào đó của bang Washington hay lui tới với ông nội anh như thế nào… một thế giới không quen thuộc với tôi. Nhưng ngược lại, Bill rất hoà đồng. Anh chẳng khoác lác hay huênh hoang. Tất cả bọn tôi đều sống như nhau. Chúng tôi cùng ăn, cùng làm việc và chúng tôi đều quan tâm đến khoa học, kỹ thuật và những thứ khác đại loại như vậy. Chúng tôi say mê khoa học viễn tưởng.”
Khi ghi danh vào Harvard, Gates được phép tham dự cả chương trình đại học và cao học. Điều đó cũng không lạ đối với những sinh viên có năng khiếu. Điều khác lạ là anh đã được phép gác lại những học phần đại học về toán, lý, khoa học máy tính để đăng ký những tín chỉ cho chương trình cao học về sau. “Khoảng hai phần ba các học phần của tôi nhắm vào bằng đại học và khoảng một phần ba dành cho bằng cao học, mặc dù giờ đây tất cả đều vô nghĩa vì tôi đã không hoàn tất được chương trình nào cả”, Gates kể.
Năm đầu tiên anh tham dự những học phần khó nhất của Harvard, gọi là “Toán 55”. Hầu hết mọi người trong lớp đều từng đạt mức điểm hoàn hảo 800 về toán trong kỳ trắc nghiệm SAT. Gates học giỏi phần này nhưng anh không phải là người giỏi nhất. Hai sinh viên khác đã vượt trên anh, trong đó có Andy Braiterman, người sống cùng ký túc xá với Gates. Braiterman vào Harvard với tư cách sinh viên năm thứ hai. Anh ta và Gates đã trở thành bạn thân và về sau ở cùng phòng.
Gates đã theo những phần học điển hình của chương trình đại học như kinh tế học, lịch sử, văn học và tâm lý học. Thái độ học tập của anh cũng giống như ở Lakeside. Anh học chăm và đạt kết quả tốt ở những môn mà anh quan tâm. Anh không chăm với những môn học không làm anh quan tâm. Tuy nhiên, anh vẫn đạt kết quả tốt vì anh quá thông minh. Ở môn văn chương Hy Lạp năm thứ nhất, Gates đã ngủ gục trong kỳ thi cuối khoá nhưng vẫn kiếm được điểm “B” môn này. “Anh ta rất tự hào về điều đó”, Braiterman nhớ lại. “Đó là một câu chuyện anh ta thường kể về mình.”
Chuyện Gates ngủ gục trong lớp không có gì là ngạc nhiên. Anh sống rất căng thẳng. Anh làm việc ba ngày không ngủ là chuyện bình thường. “Làm sao anh ta chịu được sự thiếu ngủ, tôi không hình dung nổi”, Znaimer kể. “Tôi gần như gục sau 18 hay 24 tiếng, nhưng thói quen của
anh ta là làm việc 36 tiếng hay hơn nữa, nằm gục 10 tiếng rồi ra ngoài, ăn pizza và lại làm việc. Và nếu như anh ta lại bắt đầu làm việc lúc 3 giờ sáng thì cũng chẳng có gì lạ.”
Giờ giấc nghỉ ngơi của anh thật kỳ dị. Gates không bao giờ ngủ đệm. Anh thường nằm xuống chiếc giường chưa trải dọn của mình, trùm chăn điện lên đầu và ngủ ngay tức khắc trong tiếng gáy, bất kể giờ giấc và những gì diễn ra trong phòng. (Hiện nay Gates vẫn ngủ rất nhanh. Khi đi trong máy bay, anh thường trùm chăn lên đầu và ngủ suốt chuyến bay).
“Anh ta chẳng mấy chú ý đến những thứ mà anh ta không quan tâm, dù là quần áo hay giấc ngủ”, Znaimer cho biết.
Đối với bạn bè cùng phòng và nhóm nhỏ sinh viên mà anh cùng sinh hoạt, Gates là một nhân vật rất sôi nổi. Anh thường rơi vào trạng thái bùng nổ năng lượng và đung đưa tới lui, hai tay ôm đầu trong khi nói chuyện, khi đọc hay khi tập trung vào một vấn đề tư duy. Đôi lúc, anh vung tay mạnh mẽ để thể hiện quan điểm khi nói chuyện.
Phần lớn năng lượng này được dồn vào máy tính, như lúc ở Lakeside. Dù Gates chưa định hướng cuộc đời khi vào Harvard nhưng đối với những người quen biết anh, chẳng ai lạ gì niềm đam mê thật sự của anh. Trong năm đầu tiên, anh đã bỏ nhiều tuần lễ cho một chương trình BASIC chơi bóng chày trên máy tính mà nó đòi hỏi anh phải hình dung ra những giải thuật phức tạp để thể hiện hình trên máy tính về đánh bóng, ném bóng và bắt bóng. Ngay cả những lúc say giấc dưới chiếc chăn điện, Gates cũng mơ đến máy tính. Một lần vào khoảng 3 giờ sáng, Gates bắt đầu nói mê trong lúc ngủ, lặp đi lặp lại mãi: “Một dấu phẩy, một dấu phẩy, một dấu phẩy, một dấu phẩy…”
Trong năm ấy, anh đã dành nhiều đêm thức ở trung tâm máy tính Aiken của Harvard, nơi cũng có một máy PDP-10. Znaimer đôi khi ghé qua toà nhà máy tính này và bắt gặp Gates đang ngồi mày mò trên một chiếc máy tính. Có nhiều trò chơi trên máy tính, trong số đó có “chiến tranh không gian” của Steve Russell và Gates cùng Znaimer thường chơi trò này đến rạng sáng.
Để thư giãn, Gates, Znaimer và Braiterman thường đi xem phim ở Cambridge hay chơi máy bắn bi ở đại sảnh tầng trên ký túc xá của họ. Đại sảnh này cũng có một phiên bản cũ của trò chơi video “Pong”. (Trò chơi này đã được thiết kế bởi Nolan Bushnell và khiến anh trở nên giàu có và nổi tiếng. Anh đã bán trò chơi này thông qua công ty do mình thành lập, Atari).
Thông thường, khi nói đến trò chơi thì chàng Gates đầy máu ăn thua hầu như lúc nào cũng chiến thắng. Anh trở thành một tay chơi ngoại hạng ở cả hai trò máy bắn bi và “Pong”.
“Ngoài chơi máy bắn bi và đi xem phim lu bù”, Znaimer nói, “chúng tôi còn cùng chung những hoạt động khác như chuyện yêu đương và âm nhạc… có điều bọn chúng tôi bị thôi thúc bởi lửa lòng nhiều hơn Bill. Tôi nhớ anh ta chẳng hề săn đuổi bất cứ phụ nữ nào trong khi đã có rất nhiều cơ hội.”
Không một ai quen biết Gates ở Harvard thấy anh hẹn hò với ai khi còn học ở đó. Thỉnh thoảng anh có đến thăm một cô gái vào những dịp về nhà trong kỳ nghỉ nhưng giữa họ không có quan hệ yêu đương. Cô ấy là Karen Gloyd, sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Whitman ở bang Washington. Gloyd trẻ hơn Gates vài tuổi, đã vào đại học sớm ở độ tuổi 16. Họ biết nhau qua các bậc cha mẹ. Cha dượng của cô cũng có chân trong hội đồng quản trị hiệp hội luật sư tiểu bang, giống như cha Gates. Gates không gây mấy ấn tượng sâu sắc cho Gloyd. Anh thiếu vẻ sang trọng mà một cô gái trẻ thường hình dung về một chàng trai Harvard. Gloyd cũng thấy rõ Gates ít quan hệ với phụ nữ. Điều đầu tiên mà anh muốn biết khi họ gặp nhau là điểm số cô đạt được trong kỳ thi SAT vào đại học.
“Lúc ấy tôi cũng không mấy quan tâm đến chuyện kết thân”, Gloyd, giờ đã lập gia đình, hồi tưởng lại. “Nghĩ lại thật buồn cười, nhưng lúc ấy thật tình tôi chẳng thấy buồn cười. Tôi cứ ngỡ mình nghe lầm anh ta.” Thế rồi Gates tiếp tục giảng giải cho Gloyd rằng anh đã dự kỳ thi SAT hai lần để đạt điểm số hoàn hảo là 1.600. (Điểm số toán và ngôn ngữ mỗi thứ đạt 800 là tối đa). Gates bảo cô rằng khi anh thi lần đầu, anh làm một mạch phần toán nhưng một lỗi vớ vẩn làm anh rốt cuộc được có 790 điểm. Thi lần thứ hai anh được điểm tối đa là 800. “Lúc nói chuyện đến đó”, Gloyd kể, “tôi đã nghĩ rằng chúng tôi chẳng có mấy điểm hợp nhau.”
Họ còn gặp nhau vài lần nữa. Một lần, khi cả hai từ trường về nhà, họ đã tháp tùng cùng các ông bố trong chuyến du lịch của hội luật sư đến cảng Friday ở quần đảo thắng cảnh San Juan. Buổi tối, Gloyd và những người bạn trẻ khác trong chuyến đi đã lấy xe của các ông bố lái vào thành phố để khiêu vũ và ăn uống. Còn Gates thì ngồi lại đánh bài poker với những người lớn.
“Bill và tôi có chơi quần vợt với nhau vài lần nữa, nhưng thật sự chúng tôi không mấy hợp nhau”, Gloyd kể. “Lúc nào tôi cũng nghĩ anh ấy tốt tính, nhưng thuộc loại người chuyên đèn sách, còn tôi thì thích hội hè, bạn bè và những chuyện khác. Bill quả thật bẽn lẽn. Lúc ấy tôi có ấn tượng rằng anh không có nhiều kinh nghiệm trong chuyện hẹn hò các cô gái cũng như đi chơi và tham gia các hoạt động ngoài xã hội. Tôi nghĩ anh ta không muốn mất thời gian cho những chuyện mà anh không mấy quan tâm.”
Dù Gates có lẽ không giao du nhiều với các cô gái, đó là điều khiến anh khác biệt với nhiều bạn bè ở Harvard. Anh đã bước chân vào “chốn làm ăn”. Anh có công ty riêng của mình, Traf-O-
Data.
“Đó là một trong những điều đáng chú ý về Bill”, Znaimer kể. “So với những người còn lại trong chúng tôi, anh ta có nền tảng vững chắc hơn. Bạn có thể tìm thấy những nhà toán học hay vật lý học khác thật sự tài giỏi. Nhưng Bill có nhiều kinh nghiệm thực tế. Anh ta đã từng đi làm việc trong nhiều môi trường khác nhau, như TRW.”
Znaimer nhớ rằng Gates đã bỏ ra nhiều đêm trong căn phòng ký túc xá vào đầu năm 1974 để tính thuế cho doanh nghiêp Traf-O-Data của mình. “Tôi chẳng biết gì về biểu mẫu thuế. Đó là chuyện của bố mẹ tôi”, Znaimer kể. “Nhưng Bill lại biết.”
Trong khi Bill đang hoàn tất năm thứ nhất ở Harvard, Paul Allen ở Washington cố tìm kiếm thương vụ làm ăn mới cho Traf-O-Data. Anh đã thương thuyết các thương vụ với chính quyền nhiều tiểu bang cũng như Canada. Nhưng doanh nghiệp của họ bị ép giá thầu bởi chính phủ liên bang, người quyết định hỗ trợ các thành phố và các quận hạt phân tích số liệu giao thông.
Ngoài chính phủ, chẳng có ai trả tiền cho Gates và Allen để thực hiện dịch vụ này. Những hợp đồng của họ ở Canada không đủ để duy trì doanh nghiệp. Có lúc thậm chí họ đã tính đến chuyện bán các máy móc của Traf-O-Data cho một công ty Brazil, nhưng việc không thành. Với tình hình tuột dốc của công ty, Gates và Allen bắt đầu có những cuộc điện đàm đường dài bàn tính xem họ phải làm gì. Allen quyết định sẽ phối hợp với bạn mình sau khi Gates hoàn tất năm thứ nhất. Họ sẽ cùng làm việc với nhau và vắt óc suy nghĩ ra các kế hoạch tương lai. Bố mẹ Gates rất nản lòng khi Gates nghĩ đến việc từ bỏ Harvard. Anh và Allen rất chí thú về việc lập công ty máy tính của riêng họ, anh đã nói chuyện với bố mẹ. Mùa hè năm 1974 ấy, Gates đi phỏng vấn xin việc nhiều nơi ở Boston, kể cả Honeywell, một trong Bảy chú lùn chế tạo máy tính lớn dưới bóng Nàng Bạch Tuyết – IBM hùng mạnh. Một nhà quản lý ở Honeywell sau khi phỏng vấn Gates đã gọi điện cho Allen ở Seattle.
“Tôi vừa gặp anh bạn của anh, và anh ta thật sự gây ấn tượng cho tôi về khả năng của anh ta”, người này đã bảo Allen. “Chúng tôi cũng muốn đề nghị với anh một chỗ làm. Hãy đến Boston và chúng ta sẽ ngã ngũ công việc.”
Allen đóng gói vào chiếc Chrysler New Yorker và nhắm hướng Đông lên đường, vượt qua nhiều vùng đất nước trong ba ngày trời để đến chỗ Gates. Nhưng khi đến Boston, Allen bị bất ngờ. Anh đến Honeywell trong bộ đồ trịnh trọng nhất để nói chuyện với nhà quản lý đã gọi điện cho anh ở Seatle. “Cuộc trò chuyện qua điện thoại ấy thật là thú vị”, người này bảo Allen, “nhưng thật ra chúng tôi đã không đề nghị với anh một chỗ làm.” Họ đã thương thuyết khá căng thẳng
nhưng Allen kiếm được việc. Anh và Gates làm việc chung với nhau ở Honeywell suốt những ngày hè còn lại.
Gates và Allen nhất trí rằng ngành máy tính sắp đạt đến mức độ bùng nổ và khi ấy nó sẽ đưa đường cho một cuộc cách mạng kỹ thuật ở tầm vóc trọng đại. Họ đang ở ngưỡng cửa của những giây phút mà khi ấy lịch sử cũng phải nín thở… và nhẩy cẫng lên, như trước đây khi con người chế tạo xe hơi và máy bay. Quyền năng của máy tính đã sắp hội tụ. Tầm nhìn của họ về một chiếc máy tính ở từng nhà đã không còn là giấc mơ hoang đường nữa. “Sắp rồi”, Allen cứ bảo bạn như thế. Và hoặc họ sẽ là người đi đầu cuộc cách mạng đó hoặc bị nó cuốn đi. Allen còn háo hức muốn thành lập công ty hơn cả Gates, người đang lo âu về phản ứng của gia đình nếu bỏ học.
“Paul cứ nói lập công ty đi, làm đi”, Gates nhớ lại. “Paul đã nhìn thấy vị trí của ngành này.” “Anh ta cứ nói: ‘Sẽ muộn mất. Chúng ta sẽ lỡ dịp mất.’”
Có lúc họ đã định chế tạo máy tính riêng cho mình. Allen quan tâm đến phần cứng máy tính nhiều hơn, Gates chỉ quan tâm đến phần mềm – linh hồn của cỗ máy. Lúc còn bé, Allen đã đọc các tạp chí điện tử và tự ráp radio cùng các bộ máy sóng ngắn. Anh đã từng đụng đến đèn chân không, transistor và cuối cùng là mạch tích hợp khi anh góp phần thiết kế máy Traf-O-Data. Những kinh nghiệm ấy cũng giúp anh biết thiết kế máy tính. Nhưng anh và Gates đã sớm bỏ ý định ấy. Họ quyết định theo đuổi thứ mà họ thạo nhất – phần mềm. Chế tạo máy tính là việc quá liều lĩnh.
“Chúng tôi thấy phần cứng là một nghệ thuật bí hiểm”, Allen nói. “Đó không phải là chuyên môn của chúng tôi. Thế mạnh của chúng tôi là phần mềm.”
Hè 1974, Gates đã quyết định vẫn ở lại trường. Chưa đến lúc để họ lập công ty. Allen ở lại Honeywell trong khi Gates trở về Harvard để bắt đầu năm thứ hai.
Gates dời đến toà nhà Currier House, nơi anh sống cùng phòng với anh bạn Andy Braiterman. Những tòa nhà nội trú ở Harvard đều có phòng ăn riêng, được thiết kế theo mẫu của các trường đại học nội trú Oxford và Cambridge. Anh bạn cùng phòng trước đây của Gates, Znaimer, ngụ ở North House, cách Currier House khoảng 100m.
Rõ ràng Gates băn khoăn về con đường học vấn của mình. Về sau anh thường kể rằng anh đã bỏ nhiều giờ ngồi trong phòng mình “như một gã triết gia chán chường, cố hình dung mình sẽ làm gì trong đời.” Anh bắt đầu chơi bài poker và chơi rất nhiều. Trò cờ bạc hấp dẫn của dân đỏ đen và các tổng thống Mỹ đã chiếm lĩnh tâm trí Gates hệt như máy tính. Anh bỏ hết đầu óc vào
việc chơi bài poker cũng như làm bất cứ một chuyện quan trọng nào khác. Thoạt mới chơi bài poker, Gates chơi rất tệ. Nhưng anh ta rất có quyết tâm và cuối cùng đã trở nên một tay chơi rất khá. “Bill có phẩm chất suy nghĩ độc lập”, Braiterman, bạn cùng phòng của anh kể. “Anh ta đã chú tâm vào việc gì thì theo đuổi đến cùng. Anh ta quyết tâm nắm vững lĩnh vực mà mình đang làm. Có lẽ so sánh bài poker với Microsoft thì hơi khập khiễng, nhưng trong từng trường hợp, Bill đều xác định mục tiêu để đặt tâm trí vào và vứt bỏ mọi thứ còn lại.”
Các chàng trai này chơi poker ra trò hẳn hoi chứ không phải chơi ăn tiền xu cho vui như trong gia đình. Các tay chơi được thua vài trăm đô-la một đêm là chuyện thường. Có những lần thua đến 2.000 đô-la.
Họ chơi trò này hàng đêm tại Currier House trong một căn phòng bỏ không. Nó được gọi là “phòng poker.” Thường có mặt tại căn phòng là một số tay chơi giỏi nhất của Currier House, trong đó có Tom Wolf, Greg Nelson, Scott Drill và Brad Leithauser. Braiterman cũng chơi, dù không nhiều như anh bạn cùng phòng của mình. Ngoài Gates, không có tay chơi nào trong đám chơi poker trở thành tỷ phú, nhưng họ cũng không tệ. Wolf, được gọi là “trùm” của trò này, là một giáo sư toán ở Học viện kỹ thuật California ở Pasdena. Nelson làm việc với trung tâm nghiên cứu của công ty Digital Equipment Corporation ở Palo Alto. Drill là chủ tịch Varitronics Systems, một công ty máy văn phòng ở Minneapolis. Leithauser là một nhà thơ, tác giả và người góp mặt thường kỳ cho tờ The New Yorker. Anh giảng dạy tại Đại học Mt. Holyke. Braiterman là một luật sư thuế hàng đầu ở Phố Wall.
“Tôi chơi khá”, Gates kể. “Nhưng khi chúng tôi bắt đầu chơi, các anh chàng ở trường kinh doanh và trường y chơi không giỏi lắm thường nhập bọn vào. Thế nên chúng tôi tăng tiền lên và những người này thường cháy túi và rút lui. Tàn cuộc chơi poker ở Harvard thường chỉ còn lại những tay chơi triền miên như chúng tôi. Tôi có đủ khả năng cầm cự đến phút cuối.”
Có vài canh bạc kéo dài 24 tiếng. Để dứt cơn nghiện đỏ đen, Gates có lần giao cho Allen giữ sổ ngân phiếu của mình. Nhưng rồi anh ta lại đòi lại.
“Cảm nhận của tôi và của rất nhiều người về phong cách sống của Bill là anh ta chỉ bỏ thời gian để đánh bài poker hoặc ngồi trong phòng máy tính”, Drill nhớ lại.
Một sinh viên ở Currier House đã được nghe hết những ngón cờ bạc của Gates là Steve Ballmer, sống ngay dưới đại sảnh. Sau một đêm dài cờ bạc, đôi lúc Gates thường ghé qua phòng Ballmer để thuật lại những nước phiêu lưu của mình trong canh bạc. Ballmer thường lúc nào cũng thức. Anh ta cũng có khả năng nhịn ngủ tài tình như Gates. Họ đều có nhiệt huyết như
nhau, có nguồn sinh lực vô hạn như nhau. Họ hợp gu với nhau. Hai anh chàng thường tranh luận với nhau sôi nổi, trao đổi những thông tin với cường độ cao như thể hai chiếc máy tính kết nối qua modem. Khi bắt đầu mở miệng, phút chốc cả hai đã bắt đầu đung đưa người và thi nhau nói cùng lúc mà vẫn nghe được lẫn nhau.
Nhiều năm sau, Gates đã đề nghị Ballmer cùng mình điều hành Microsoft. Anh đã trở thành người có ảnh hưởng lớn thứ hai trong công ty, sau chủ tịch Bill.
Ballmer hoạt bát hơn Gates nhiều. Anh ta dường như quen biết hết mọi người ở Harvard. Anh đã thuyết phục Gates gia nhập Câu lạc bộ nam giới ở Currier House. Theo nghi thức kết nạp, Gates bị bịt mắt, vận trang phục tuxedo và lôi đến bàn ăn, nơi anh ta buộc phải thuyết trình về máy tính.
Cũng như Gates từng muốn hội nhập với bạn bè lúc ở trường Lakeside tại Seattle, anh cũng muốn hội nhập ở Harvard để tham gia cộng đồng sinh viên. Nhưng bản chất của anh không hợp điều đó. Mặc dù đã kết giao với anh chàng Ballmer hoạt bát, Gates vẫn là một người rất đơn độc chỉ giao du với một nhóm nhỏ bạn bè. Sự nhút nhát của anh gây nên thái độ sống tách biệt.
“Bill và Steve là hai thái cực”, Braitermen kể. “Bill thực sự không phải dạng người bặt thiệp. Anh ta không phải dạng người giao du rộng rãi. Tôi không có ý nói anh ta không bặt thiệp theo nghĩa không thân thiện với mọi người hay gì khác. Có điều anh ta rất kém hoạt bát. Steve thì hoạt bát.”
Ballmer không có quá trình đam mê máy tính hay kỹ thuật như Gates nhưng anh cũng say mê toán. Ballmer đang lấy bằng đại học về toán ứng dụng. Có lúc khi còn học trung học, Gates đã nghĩ đến chuyện trở thành một nhà toán học. Đó là một trong nhiều khả năng nghề nghiệp. Giờ đây, tại Harvard, anh đang suy nghĩ lại điều đó khi đánh giá những đối thủ của mình. Nhưng anh vẫn tiếp tục theo đuổi học phần toán đại học trong năm thứ hai.
Bill thường ngồi trong lớp, không một mảnh giấy, hai tay chống cằm”, lời kể của Henry Leitner, người học cùng môn toán với Gates trong phần Lý thuyết tính. “Trông anh ta chán nản, thế rồi sau nửa giờ nghiền ngẫm phần chứng minh trên bảng, Bill bỗng giơ tay và buột miệng: ‘Thầy đã sai, em sẽ chỉ cho thầy’. Rồi anh ta chỉ ra chỗ sai. Anh ta thường thách thức giảng viên. Dường như anh ta thích thú điều đó.” Leitner, nay là một giảng viên cao cấp về khoa học máy tính tại Harvard, lúc ấy đang là sinh viên đại học. Anh và Gates thường ngồi cạnh nhau trong lớp và cộng tác giải các bài tập nhà. Nhưng Leitner không sao thuyết phục được anh chàng
Gates nhỏ tuổi giải những bài tập mà anh ta cho rằng phí thời gian. Gates chỉ thích đương đầu với những bài toán khó nhất. “Tôi thường thắc mắc không biết mình làm sao học chung với anh chàng này”, Leitner kể. “Anh ta thường chỉ làm khoảng 20% bài tập. Nhưng chúng đáng để làm. Chỉ cần vài phút qua điện thoại, anh ta đã chỉ ra cho tôi cách giải đối với một bài toán phức tạp. Anh ta thật là một tài năng.”
Ở Lakeside, Gates đã từng là học sinh giỏi nhất trường về môn toán. Ngay cả ở Harvard, anh vẫn là một trong những sinh viên giỏi toán. Nhưng anh không phải là người giỏi nhất. Anh đã gặp nhiều sinh viên giỏi toán hơn mình, trong đó có Fred Commoner, con trai của văn sĩ – khoa học gia Barry Commoner. Cuối cùng Gates từ bỏ ý định trở thành một nhà toán học. Nếu anh không thể trở thành người giỏi nhất thì việc gì phải đâm đầu vào?
“Tôi đã gặp nhiều người ở khoa toán giỏi hơn tôi rất nhiều về toán”, Gates kể. “Điều đó đã làm thay đổi quan niệm của tôi về việc đi vào lĩnh vực toán. Ta vẫn có thể kiên trì trong lĩnh vực toán để thực hiện những cú đột phá bất ngờ, nhưng có lẽ tôi đã ngã lòng. Phải mất rất lâu tôi mới có thể làm được điều gì đó mang tầm cỡ thế giới. Tôi buộc phải suy nghĩ nghiêm túc về chuyện ấy: Này nhé, tôi sẽ phải ngồi trong phòng, nhìn bức tường suốt năm năm và cho dù tôi nghĩ ra điều gì đó, có ai hay biết. Chuyện ấy đã khiến tôi suy nghĩ liệu toán học có phải là thứ tôi muốn đi vào hay không. Trong khi lại có quá nhiều sự lựa chọn. Đầu óc tôi khá mở mang. Tôi nghĩ luật cũng hay… tôi nghĩ tâm lý sinh lý học – nghiên cứu về não – cũng hay… tôi nghĩ làm về trí tuệ nhân tạo cũng hay… tôi nghĩ khoa học lý thuyết máy tính cũng hay… tôi thực sự chưa nhắm vào một lĩnh vực nào cả…”
Gates đã có một đóng góp nhỏ đáng ghi nhận về toán học khi học ở Harvard nhưng không được nhiều người biết, ngoại trừ vài giáo sư của anh. Anh đã góp phần đề xuất lời giải cho một bài toán đố được đặt ra đã lâu. Chưa có ai nghĩ ra được một cách giải dứt khoát.
Đây là bài toán, theo như đã trình bày trong nhiều tạp chí toán học: “Đầu bếp chỗ chúng tôi là người tuỳ tiện và khi ông ta làm một chồng bánh rán thì bánh có đủ kích cỡ. Vì thế, khi tôi dọn bánh cho một khách hàng, trên đường ra đến bàn ăn tôi sắp xếp lại (để cho cái nhỏ nhất nằm lật mặt trên cùng và cứ thế, cho đến cái lớn nhất nằm dưới cùng) bằng cách cầm nhiều bánh trên cùng lật lại, lặp đi lặp lại như vậy (thay đổi số lượng bánh được lật) thật nhiều lần cho đến khi hoàn tất. Nếu có ‘n’ bánh rán, tôi có thể sẽ phải lật tối đa bao nhiêu lần để sắp xếp lại chúng?”
Gates giải bài toán này dưới sự giúp đỡ của giáo sư Christos Papadimitriou của Harvard lúc ấy, người dạy môn khoa học máy tính. Gates nhận thấy bài toán rất giống với loại thách đố mà anh
gặp phải khi làm việc với một chương trình máy tính phức tạp mà anh phải thiết kế thuật giải để giải quyết một vấn đề cụ thể.
“Đây là một bài toán đơn giản nhưng tỏ ra rất hóc búa”, Papadimitriou kể. “Bill đã tuyên bố có một cách giải hay hơn mọi người và tôi đã kiên nhẫn nghe lời giải thích dài và khéo léo của anh ta.” Sau đó, Papadimitriou đã quyết định công bố cách giải của Bill, nó đã được đăng tải năm 1979 trong tạp chí Chuyên toán. Cú đột phá của Gates về bài toán này đã tồn tại chơi vơi trong ngành này suốt mười mấy năm qua, theo lời Papadimitriou, hiện giảng dạy tại Đại học California ở San Diego. Vị giáo sư này thỉnh thoảng lại đưa bài toán cho một số sinh viên của mình và bảo họ rằng nếu họ giải được, ông sẽ nghỉ việc để làm việc cho họ. “Đúng ra tôi đã làm việc với Bill”, ông nói.
Gates có lẽ chẳng phải là sinh viên toán giỏi nhất ở Harvard nhưng anh không có đối thủ trong lĩnh vực khoa học điện toán. Các giáo sư của anh có ấn tượng không chỉ bởi trí thông minh mà cả bởi nguồn sức lực to lớn của anh. “Trong những người đi vào khoa học điện toán sẽ có một người mà bạn biết ngay từ lúc anh ta xuất hiện ở bậc cửa rằng anh ta sẽ hết sức giỏi”, lời của giáo sư Tom Cheatham, giám đốc trung tâm nghiên cứu và công nghệ tính toán tại Harvard. “Chắc chắn, anh ta sẽ làm nên chuyện.” Mặc dù Gates học nhiều giờ khoa học điện toán của Cheatham, hai người lại không thích nhau. “Gates có một tính cách tồi và một trí óc giỏi.” Cheatham nhớ lại. “Trong một môi trường như Harvard, nơi có rất nhiều bạn trẻ thông minh, khi người ta giỏi hơn những người khác, một số tỏ ra tốt tính còn một số tỏ ra đáng ghét. Anh ta thuộc dạng sau.”
Khi Gates không chơi bài poker buổi tối, anh thường làm việc ở trung tâm điện toán Aiken. Đó là lúc các máy tính ít được sử dụng nhất. Đôi khi, chàng Gates kiệt sức thường ngủ gục trên bàn làm việc chứ không quay về phòng ở Currier House. “Có nhiều buổi sáng tôi bắt gặp anh ta ngủ như chết trên bàn”, lời kể của Leitner, chàng sinh viên toán cũng quan tâm đến máy tính. “Tôi còn nhớ anh ta không màng gì cả. Trông anh ta giống như một tay hacker, một tay mọt sách. Tôi biết anh ta thông minh nhưng khi bạn mang cặp kính ấy, có gàu trên tóc và ngủ trên bàn thì bạn cũng gây ấn tượng như thế. Chắc hẳn tôi đã không nhìn thấy tương lai thấu đáo như anh ta.”
Nhưng Paul Allen đã nhìn thấy tương lai. Có lẽ anh ta đã nhìn thấy nó còn rõ rệt hơn cả Gates.
Vào một ngày mùa đông lạnh giá tháng 12/1974, trong khi cuốc bộ qua Quảng trường Harvard ở Cambridge để đến thăm Gates, Allen dừng chân bên một quầy bán báo và nhận ra số tháng Giêng của tờ Điện tử phổ thông, một tờ tạp chí mà anh đọc thường xuyên từ bé. Thế nhưng số
báo này lại khiến anh hồi hộp. Trên bìa là ảnh của Altair 8080, một chiếc máy kim loại hình chữ nhật với các công tắc và đèn nằm phía trước. “Kiểu máy vi tính đầu tiên trên thế giới được trang bị để cạnh tranh trên thị trường”, dòng tiêu đề chính của tạp chí đập vào mắt anh.
“Tôi mua một số, đọc và chạy về ký túc xá của Bill để nói cho anh ta biết”, lời kể của Allen, lúc bấy giờ vẫn đang làm việc cho Honeywell gần Boston. “Tôi bảo Bill: Đây là cơ hội tốt cho chúng ta làm một thứ gì đó với BASIC.”
Anh đã thuyết phục anh bạn trẻ của mình ngưng chơi bài poker để dành thời gian làm một việc gì đó với ngành công nghệ mới này. Allen, một môn đệ của Shakespeare, nhớ đến những gì Bard đã viết, trong tác phẩm Julius Caesar: “Có một ngọn thuỷ triều trong nhân gian, nó trào dâng và đưa đẩy vận mệnh. Quên nó đi, tất cả những cuộc hành trình của đời người chỉ còn là hư vô và đau khổ. Chúng ta đang trôi nổi trên biển cả mênh mông ấy và ta phải đón lấy con nước, nếu không sẽ mất cả cơ nghiệp.”
Gates biết Allen nói đúng – đã đến lúc – Phép màu về máy tính cá nhân sắp sửa xảy đến. * * *
Nó được đặt tên theo một vì sao và có bộ nhớ chỉ đủ để lưu một đoạn thông tin. Nhưng máy Altair, bước đi đầu tiên của con người vào thế giới máy tính mới mẻ và rực rỡ, là thành quả của chặng đường gần 150 năm phát triển và sáng tạo kỹ thuật.
Mặc dù cái mà chúng ta gọi là máy tính hiện đại đã ra đời khoảng 30 năm trước Altair, trong thập niên 1940 của Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khái niệm về một cỗ máy như thế xuất phát từ ý tưởng của một thiên tài toán học lập dị ở thế kỷ XIX tên là Charles Babbage, người đã đưa ra bảng dự đoán tuổi thọ đáng tin cậy đầu tiên. Năm 1834, sau khi sáng chế ra đồng hồ đo vận tốc và bộ phận gạt chướng ngại ở đầu máy xe lửa, Babbage bỏ hết tâm huyết sáng tạo vào việc thiết kế một cỗ máy hơi nước mà ông gọi là “máy phân tích”. Thất vọng trước sự thiếu chính xác của các bảng toán đương thời, Babbage muốn chế tạo một cỗ máy giải các phương trình toán học. Trên giấy, máy phân tích của ông gồm hàng nghìn bánh răng vận hành bằng hơi nước và một trung tâm luận lý mà ông gọi là “cối xay”. Mẫu thiết kế của ông khiến cỗ máy có kích thước bằng một sân bóng đá. Công trình ấy cũng đòi hỏi kinh phí khổng lồ, và khi chính phủ ngưng ủng hộ dự án, Babbage được tài trợ bởi Augusta Ada, nữ bá tước xứ Lovelace và là con gái của thi hào Lord Byron. Vị nữ bá tước xinh đẹp và có đầu óc khoa học này cũng là một nhà toán học tài giỏi và ngày nay được xem là nhà lập trình máy tính đầu tiên. Nữ bá tước định dùng thẻ đục lỗ để chỉ thị cho máy giải tích công việc phải làm. Bà đã lấy ý tưởng từ những tấm
thẻ dùng trên máy dệt Jacquard để định mẫu vải. “Máy phân tích dệt những mẫu đại số cũng như máy dệt Jacquard dệt hoa lá”, bà viết.
Mặc dù Babbage đã cống hiến gần 40 năm đời mình cho dự án, máy phân tích của ông chẳng bao giờ hoàn tất. Trình độ kỹ thuật lúc ấy chưa đủ để biến nó thành hiện thực.
Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ, thẻ đục lỗ được sử dụng thử nghiệm để góp phần lập bảng những thông tin trong cuộc điều tra dân số năm 1890. Chiếc máy lập bảng điện tử được sử dụng trong cuộc thử nghiệm này được thiết kế bởi một kỹ sư trẻ tuổi tên Herman Hollerith. Chẳng bao lâu, thẻ đục lỗ đã được sử dụng rỗng rãi trong mọi loại máy văn phòng, và công ty của Hollerith được sát nhập vào một công ty tại New York mà sau này sẽ trở thành cái tên lớn nhất trong ngành máy tính – International Business Machines (IBM).
Trong thập niên 1930, IBM đã thỏa thuận tài trợ cho việc chế tạo một máy tính lớn. Công ty này đã cung cấp cho Howard Aiken, một giáo sư Harvard mà về sau tên ông đã được đặt cho trung tâm máy tính của trường đại học này, 500.000 đô-la để chế tạo máy Mark 1. Khi hoàn tất vào năm 1944, máy Mark 1 có thể nhân 2 con số 23 chữ số trong vòng năm giây. Nhưng đó là một máy tính điện từ, tức là có hàng nghìn rơ-le ồn ào đóng vai trò chuyển mạch, đóng mở khi máy thực hiện các phép tính.
Đèn chân không chẳng bao lâu sau thay thế cho các bộ rơ-le ngắt mạch và cho ra đời ENIAC, máy tính điện tử số đầu tiên của Mỹ. Nó xuất hiện lần đầu tiên năm 1946 tại Đại học Pennylvania. Được chế tạo để tính toán tọa độ pháo binh cho quân đội, ENIAC (viết tắt từ Electronic Numerical Integrator and Calculator) cân nặng 30 tấn và chứa 18.000 bóng đèn chân không, 70.000 điện trở và 10.000 tụ điện. Nó choán chỗ hơn cả hai cái garage thông thường. Máy ENIAC chế tạo tốn kém hết nửa triệu đô-la và có thể xử lý khoảng 5.000 phép cộng và phép trừ mỗi giây. Ngày nay, bất cứ một chiếc máy tính gia đình rẻ tiền nào cũng ăn đứt ENIAC. Cỗ máy này có độ tin cậy không cao lắm. Các bóng đèn cứ khoảng 7 phút lại trục trặc một chiếc. Thế nhưng nó đã được dùng trong giai đoạn cuối hoàn tất các phép tính toán học cho các nhà vật lý ở Los Alamos đang chế tạo bom nguyên tử đầu tiên.
Bước đột phá lớn trong công nghệ máy tính diễn ra hai ngày trước lễ Giáng sinh năm 1974, khi ba nhà khoa học đang làm việc tại Bell Labs thử nghiệm một linh kiện tinh thể gọi là transistor, viết tắt của “transfer resistance”. (Họ đã giành được giải Nobel về phát minh đó). Những linh kiện tí hon này, hay người ta còn gọi là linh kiện bán dẫn, đóng vai trò các bộ chuyển mạch, kiểm soát dòng điện trong mạch. Linh kiện bán dẫn đã thay thế đèn chân không. Chúng nhỏ hơn và đáng tin cậy hơn. Chúng không toả ra nhiều nhiệt như đèn chân không cho nên chúng
có thể xếp gần nhau. Chúng không có những phần rời nên ít khi trục trặc hơn. Và có lẽ quan trọng hơn hết là linh kiện bán dẫn chế tạo rẻ tiền. Những linh kiện bán dẫn đầu tiên được chế tạo từ tinh thể germanium. Về sau, silicon phổ biến hơn.
William Shockley, một trong những nhà phát minh transistor, đã nghỉ việc ở Bell Labs để về nhà tại Palo Alto ở thung lũng Santa Clara, bang California, thành lập công ty riêng của mình tại trung tâm của nơi được gọi là Silicon Valley. Các công ty khác chẳng mấy chốc đã cuỗm mất các nhà khoa học ngôi sao của Bell Labs để sản xuất chất bán dẫn, trong đó có Texas Instruments.
Một cú nhảy vọt về kỹ thuật nữa diễn ra vào cuối thập niên 1950, khi các mạng transistor được gắn trên một mảnh silicon mỏng và nối bằng những mối nối kim loại mảnh. Những mảch tích hợp này, hay vi mạch, đã trở thành nền tảng của tất cả máy móc điện tử hiện đại.
Máy tính trở nên nhỏ hơn, nhanh hơn và mạnh hơn. IBM chiếm ưu thế trong ngành vào thập niên 1950. Các cây viết thương trường đã gọi những nhà sản xuất lớn khác chuyên chế tạo máy tính lớn là Bảy chú lùn – RCA, General Electric, Honeywell, Burroughs, NCR, Sperry Univac và Control Data Corporation. Những máy tính khổng lồ do các công ty này sản xuất đều kềnh càng và đắt giá. Chúng có thể chiếm nhiều diện tích và giá trị hàng trăm nghìn đô-la.
Cần có một người giám sát kỹ thuật để trông coi chúng. Máy tính cần phải có máy điều hòa không khí. Việc truy cập thường tiến hành qua những người trung gian. Các nhà khoa học và các kỹ sư muốn có một chiếc máy tính mà họ có thể tự vận hành, một chiếc máy nhỏ hơn, rẻ hơn và dễ sử dụng hơn. Sự phát triển của chất bán dẫn đã giúp cho việc chế tạo chiếc máy như vậy có thể trở thành hiện thực – máy tính mini. Khi IBM quyết định không đặt chân vào thị trường mới này, họ đã bỏ mất một lãnh địa màu mỡ cho các công ty máy tính khác như Digital Equipment Corporation, một công ty chẳng mấy chốc đã trở thành chim đầu đàn. DEC đã thiết lập thị trường máy tính mini vào năm 1965 khi đưa ra máy PDP-8 (viết tắt của Program Data Processor – Máy xử lý Dữ liệu Chương trình), trị giá 18.500 đô-la. Với giá này có cả một máy teletype. Digital gọi máy tính của mình là “máy tính nhỏ”. Giới báo chí muốn chọn một cái tên hấp dẫn hơn nên đã gọi là “máy tính mini”, phỏng theo váy mini đang là thời trang. “Máy tính mini” là một máy tính có tương tác cao. Thay vì đưa thẻ đục lỗ vào máy, người sử dụng giao tiếp với máy thông qua bàn phím – một ý tưởng lạ thường bấy giờ.
Khi các kỹ sư làm việc ở một công ty tại Santa Clara tên là Intel chế tạo được các bộ vi xử lý vào năm 1971, người ta biết tất yếu sẽ diễn ra một bước tiến vũ bão về máy tính kích thước nhỏ. Vi mạch này cho phép toàn bộ bộ xử lý trung tâm của máy tính có thể mã hoá vào một mạch silicon không lớn hơn chiếc móng tay. Nhưng bước tiến này lại không được đón nhận bởi
những công ty như DEC hay IBM vốn giàu tiền của và ưu thế. Thay vào đó, nó lại được đón nhận bởi những tay hăng máu làm ăn và những tay chơi nghiệp dư vốn hay mơ tưởng đến một ngày được làm chủ một chiếc máy tính. Một máy tính cá nhân. Một ý tưởng khá cấp tiến.
Một trong những tay chơi này là một người to như gấu mang tên Ed Roberts. Anh cao 1,9m và nặng 135kg. Roberts có sức lực khủng khiếp, đòi hỏi không ngừng chuyện ăn uống và cả thông tin. Nếu có đề tài nào đó mà anh ta quan tâm thì đó là nhiếp ảnh và nuôi ong. Roberts có thể đọc mọi thứ anh tìm thấy trong thư viện đề tài này.
Roberts thuộc tuýp người ưa táy máy. Anh thích lắp ráp các phần cứng điện tử. Anh đã gia nhập quân đội để học hỏi thêm về điện tử và cuối cùng đóng quân tại trường Kirtland ở ngoại vi Albuquerque. Nơi đây anh thành lập một công ty tên là Model Intrumentation & Telemetry Systems. (Về sau, chữ “Model” chuyển thành “Micro”).
Ban đầu, Roberts biến garage của mình thành trụ sở MITS, bán các thiết bị mô hình tên lửa theo đơn đặt hàng. Anh cũng bán cả những bộ phát sóng radio cho các mô hình máy bay. Sau khi rời quân đội, Roberts bắt đầu bán các thiết bị điện tử. Năm 1969, anh chuyển MITS ra khỏi garage đến một nhà hàng cũ ở Albuquerque tên là “Hiệu bánh đam mê”. Roberts dốc hết vốn công ty vào thị trường máy tính thương mại. MITS là công ty đầu tiên ở Mỹ chế tạo các bộ máy tính. Công ty phát đạt. MITS nhanh chóng lớn mạnh với hơn 100 nhân viên. Thế rồi mọi chuyện gay go. Đầu thập niên 1970, Texas Instruments bước vào thị trường máy tính. Các công ty bán dẫn khác cũng theo chân. Tiếp đến là những cuộc chiến tranh giá cả. MITS không cạnh tranh được nữa.
Đến 1974, MITS đã lỗ hơn một phần tư triệu đô-la. Nhằm cứu vãn sự thua lỗ của công ty mình, Roberts đã quyết định khai thác các bộ vi xử lý mới để chế tạo các bộ máy tính cho dân chơi lắp ráp. Roberts biết rằng mạch 8008 của Intel quá chậm. Anh trông chờ thế hệ mạch kế tiếp, gọi là 8080. Nó ra đời vào đầu năm 1974. Mạch 8080 là một hậu duệ đáng mặt. Nó nhanh hơn và có công suất mạnh hơn 8008 nhiều. Mạch mới này hẳn có thể làm nền cho một máy tính nhỏ. Roberts đã tin là thế.
Anh quyết định sẽ bán máy của mình với giá 397 đô-la. Đây là một con số đáng ngại và Roberts cũng biết điều đó. Dù gì thì riêng mạch 8080 của Intel cũng đã bán với giá 350 đô-la. Nhưng Roberts đã ép được Intel bán mạch số lượng lớn cho anh với giá 75 đô-la mỗi chiếc.
Mặt dù đã có giá, máy này vẫn chưa có tên. David Bunnell, một cây viết kỹ thuật của MITS, đã đề nghị chữ “Little Brother” (Chú em). Roberts không thích cái tên này. Dù chưa có tên,
Roberts và nhóm kỹ sư ít ỏi của anh vẫn bắt tay chế tạo một chiếc máy mẫu. Không lâu sau, Les Solomon, biên tập viên kỹ thuật của tờ Điện tử Phổ thông đã tiếp xúc với anh. Solomo đang săn một câu chuyện hay ho về máy tính để đưa lên trang bìa. Anh biết Roberts và đã nghe nói về kế hoạch chế tạo bộ máy tính tự lắp ráp của anh. Solomo đã bay đến Albuquerque để nói chuyện với Roberts. Liệu Roberts có xong được chiếc máy mẫu trước cuối năm không? Roberts cam đoan với Solomo là được.
Sau khi trở về New York, Solomon gãi chiếc đầu hói của mình suốt nhiều ngày để nặn ra một cái tên cho chiếc máy tính. Một đêm, anh đã hỏi ý đứa con gái 12 tuổi của mình đang xem phim “Star Trek” trên TV. Sao không gọi là “Altair”, cô bé đáp. Đó là nơi mà phi thuyền Enterprise đang đi đến.
Roberts cũng là một người hâm mộ khoa học viễn tưởng. Altair cũng là tên của hành tinh được tàu không gian đến viếng thăm trong bộ phim khoa học viễn tưởng cũ mang tựa đề Hành trình cấm kỵ.
Mặc dù con gái Solomo là người nghĩ ra tên của máy tính, chính Roberts đã nghĩ ra thuật ngữ “máy tính cá nhân” để đưa vào chiến dịch quảng cáo cho Altair. “Tôi muốn giới thiệu với các bạn một chiếc máy nhỏ để mua, không phải là đồ chơi”, anh nói.
Trước khi Điện tử Phổ thông đăng bài về Altair, Solomo cần nhìn thấy máy mẫu đã được kiểm nghiệm để đảm bảo nó hoạt động đúng như quảng cáo. Roberts đã gửi mô hình duy nhất hoạt động được của mình đến New York City bằng đường hoả xa. Món hàng ra đi đã không bao giờ đến. Chiếc máy tính gia dụng đầu tiên của thế giới đã bị thất lạc trên đường vận chuyển – Solomo muốn phát điên. Không còn kịp sửa lại bìa dự trù cho số báo tháng 1/1975 nữa. Và cũng không còn đủ thời gian để làm chiếc máy khác. Các kỹ sư MITS đã nhanh tay ráp một chiếc vỏ kim loại với các công tắc và đèn nằm bắt mắt phía trước rồi gửi chiếc máy rỗng ruột đến New York. Và đó là những gì xuất hiện trên trang bìa của tờ tạp chí. Gần nửa triệu độc giả mê điện tử của tờ báo không hề biết – mặc dù sau đó không bao lâu họ cũng biết rằng không phải lúc nào mọi chuyện cũng trôi chảy.
Bài báo về Altair giải thích rằng máy tính chỉ có 256 byte bộ nhớ, mặc dù có 18 khe cắm để mở rộng mạch nhớ bổ sung lên đến khoảng 4K, hay 4.096 byte. Không có màn hình hay bàn phím. Bởi vì chưa có ai chế tạo ngôn ngữ cấp cao cho vi mạch 8080 nên Altair chỉ có thể được lập trình bằng ngôn ngữ máy 8080 phức tạp. Công việc này được thực hiện một cách vất vả bằng cách gạt các công tắc ở mặt trước. Một lần gạt công tắc tương đương với một bit thông tin. (Một chuỗi 8 bit tương đương với 1 byte, hay một ký tự của ngôn ngữ thông thường). Máy
Altair đáp lại bằng cách nháy đèn đỏ ở mặt trước.
Lúc Altair ra đời đã có khoảng một chục ngôn ngữ phần mềm cấp cao cho các máy tính lớn và máy tính mini. Mỗi ngôn ngữ này được thiết kế cho từng loại ứng dụng khác nhau. Ngôn ngữ được phổ biến rộng rãi đầu tiên là FORTRAN. Được chế tạo bởi nhóm kỹ sư của IBM năm 1956, FORTRAN được sử dụng rộng rãi trong giới khoa học và trong công tác lập trình phức tạp. Một ngôn ngữ khác là COBOL, hay ngôn ngữ thông dụng cho mục đích thương mại. Nó được dùng phần lớn cho việc lập trình trên các máy tính lớn. Ngôn ngữ này cũng khó sử dụng. Nhưng BASIC lại dễ học. Thậm chí nó còn được dạy trong một số trường tiểu học. John Kemeny, một trong hai giáo sư Dartmouth viết ngôn ngữ này, đã trình bày: “Qua nhiều năm kinh nghiệm với FORTRAN, chúng tôi đã thiết kế một ngôn ngữ mới đặc biệt dễ sử dụng cho người thường”. “BASIC”, ông giải thích tiếp, “tạo điều kiện dễ dàng cho việc giao tiếp giữa người và máy.”
Mùa hè năm 1974, Roberts đã quyết định BASIC sẽ là ngôn ngữ của Altair, máy tính của mọi người. Nhưng Intel không hề hình dung rằng mạch 8080 lại được sử dụng cho máy vi tính. Một số kỹ sư đã bảo Roberts rằng họ không tin có thể thực hiện được một BASIC cho mạch này.
Ở Harvard, hai chàng trai trẻ đang bắt tay vào việc để chứng minh những chuyên gia này sai lầm.
* * *
Trong nỗi hào hứng và mất ngủ, Gates và Allen đã gọi điện thoại đường dài đến MITS ở Albuquerque từ căn phòng của Gates tại Currier House. Mới chỉ vài ngày kể từ lúc anh và Allen đọc bài báo của Điện tử Phổ thông viết về Altair. Cho đến lúc ấy họ chỉ nói chuyện chứ chưa làm gì nhiều.
Một giọng đàn ông trầm và cốc lốc vang lên bên kia đầu dây. “Alô, có phải Ed Roberts không ạ?” Gates hỏi bằng chất giọng cao như trẻ con của mình. Khi biết đã đúng, Gates tiếp tục trình bày, với giọng điệu hào hùng, rằng anh và bạn anh đã chế tạo được một ngôn ngữ BASIC có thể thích ứng cho máy tính Altair.
Thực chất, họ chưa có chương trình nào cả và Roberts rất hoài nghi. Anh đã từng nghe những lời khoác lác như thế. “Chúng tôi đã gặp 50 người đến bảo chúng tôi rằng họ có BASIC”, Roberts nhớ lại. “Chúng tôi nói với từng người, kể cả những anh chàng này, ai mang BASIC hoạt động được đến trước thì người đó sẽ có hợp đồng.”
Sau cú điện thoại, Gates và Allen gửi tiếp một lá thư cho Roberts, lặp lại rằng họ thực sự có một
BASIC làm việc với mạch 8080 Intel. Họ đề nghị một thỏa thuận theo đó họ sẽ cho phép MITS bán phần mềm của họ cùng máy Altair cho những người mua máy. Họ gửi lá thư bằng giấy có tiêu đề của Traf-O-Data. Khi Roberts nhận được lá thư và gọi điện đến số ghi trên thư, anh nhận ra mình đang gọi điện cho một trường tư thục ở Seattle. Chẳng ai ở Lakeside biết gì về BASIC cho máy Altair. Altair là cái gì, người ta muốn biết. “Thật là kỳ quặc”, Roberts nghĩ bụng. Mấy anh chàng này là ai? Phải chăng là những chàng trung học ưa nghịch phá?
Trong khi đó ở Harvard, Gates và Allen đang vùi đầu trong Trung tâm Máy tính Aiken. Như hai cậu học trò bị phát hiện nói dối, họ hối hả tìm cách che giấu lỗi lầm. Họ đã bảo Roberts rằng họ có một ngôn ngữ BASIC và giờ đây họ phải chế tạo ra – trước tất cả những đối thủ cạnh tranh kia, những người chắc chắn cũng đang cố sức hoàn thành những lời tuyên bố huyênh hoang của họ.
Suốt tám tuần lễ, hai chàng làm việc suốt ngày đêm trong phòng máy tính, nỗ lực thực hiện điều mà những chuyên gia ở Intel nói rằng không thể – hình thành một ngôn ngữ máy tính cấp cao cho mạch 8080. Gates không chỉ bỏ học tất cả các môn mà còn bỏ cả trò cờ bạc poker yêu thích của mình. Những người bạn cờ bạc của anh biết rằng có chuyện gì đó. “Ngay khi Bill bắt đầu bỏ đánh bạc, chắc chắn anh ta đang theo đuổi điều gì đó, nhưng không ai trong chúng tôi biết đó là thứ gì”, lời Greg Nelson, một trong những tay thường chơi đánh bạc.
Gates và Allen không có máy Altair nên công việc của họ rất khó khăn. Roberts chỉ có một chiếc máy Altair duy nhất. Và anh ta lại ở New Mexico. Tạp chí Điện tử Phổ thông có đăng sơ đồ của Altair, giúp ích phần nào. Nhưng cái mà họ thực sự cần là thông tin chi tiết về mạch 8080. Thế là họ đến một cửa hiệu điện tử ở Cambridge và mua một cẩm nang về 8080 do Adam Osborne trình bày, một kỹ sư Intel có nhiệm vụ viết cẩm nang kỹ thuật cho những mạch máy tính mới của công ty. Osborne, một người Anh oai vệ sinh ra tại Thái Lan, không lâu sau sẽ trở thành một nhân vật rất nổi tiếng trong cuộc cách mạng mới này. Anh ta sẽ phát đạt nhờ ấn hành những cuốn sách vi tính đầu tiên trước khi tự chế tạo một kiểu máy Altair của riêng mình.
Trong khi Gates tập trung công sức vào việc viết mã lệnh cho BASIC, Allen nghiên cứu những công việc chuyên sâu với máy tính PDP-10 ở Trung tâm Máy tính Aiken.
Họ đã sáng tạo BASIC bằng một sáng kiến thông minh. Vì không có máy Altair, Allen phải làm cho máy PDP-10 bắt chước mạch 8080. Việc này đòi hỏi tất cả tri thức kỹ thuật và kỹ năng của anh. Nhưng anh đã hăm hở đương đầu với thách thức đó. Tất cả những ngày ở phòng máy Lakeside… tất cả những đêm thức trắng ở C-Cubed… sục sạo máy tính ở Đại học Washington… chế tạo máy Traf-O-Data… tìm hiểu mạch 8080… tất cả những kinh nghiệm trước đây về máy
tính đã chuẩn bị cho Allen đương đầu với công việc anh và Gates hiện đang đối mặt. “Chúng tôi đã ở đúng nơi và đúng lúc”, Allen về sau phát biểu. “Do có kinh nghiệm từ trước, Bill và tôi đã có đủ sức để khai thác tình thế mới mẻ này.”
Gates gặp những khó khăn khác với Allen. Anh phải viết những lệnh khéo léo, chặt chẽ và làm cho nó vừa vặn với bộ nhớ tối đa 4K của Altair. Điều đó giống như thể cố nhét bàn chân cỡ 13 của anh vào chiếc giày cỡ 8. Thật ra, còn hơn thế nữa. BASIC của họ không những phải vừa với không gian nhớ hạn hẹp mà còn phải chừa ra một khoảng để chạy các chương trình. Nếu sử dụng BASIC mà không còn lại bộ nhớ để làm gì khác thì có nghĩa lý gì?
“Vấn đề không phải là tôi có thể viết được chương trình hay không”, Gates nói, “mà vấn đề là tôi có thể nhồi nhét nó vào trong 4K và làm cho nó chạy thật nhanh hay không.”
Anh đã làm được. Sau này Gates đã nói rằng trong tất cả những mã lệnh mà anh từng viết, anh tự hào nhất về chương trình BASIC hình thành trong 8 tuần lễ ở Harvard. “Đó là chương trình tuyệt nhất tôi đã từng viết”, Gates nói.
Chưa có ai từng viết một ngôn ngữ BASIC cho máy vi tính. Về mặt này, Gates và Allen đã mở đường cho các nhà làm phần mềm tương lai và định ra tiêu chuẩn công nghiệp. Chính họ, chứ không phải thị trường, là người quyết định các tính năng tối thiểu mà BASIC của họ cần đến. Hai người làm việc với một tốc độ điên cuồng trong phòng máy, liên tục suốt nhiều ngày mà chỉ ngủ một hai tiếng. Khi đã kiệt sức không còn lập trình nổi nữa, Gates nằm xuống dưới máy PDP-10 để chợp mắt. Thỉnh thoảng anh gục đầu xuống bàn phím, rồi giật mình choàng dậy và lại gõ tiếp ngay lập tức.
Anh và Allen dành cho việc ăn uống một lượng thời gian cũng không hơn để ngủ. Một hôm, trong một bữa ăn nhanh ở nhà ăn của Currier House, họ bàn về một phần mềm toán cần cho vào BASIC. Đây là một chương trình còn gọi là “thường trình dấu phẩy động” nhằm thao thác số trong máy tính. Thường trình này gồm các phép tính cơ bản như cộng, trừ, nhân, chia. Cả Gates và Allen đều biết cách viết chương trình con này nhưng chẳng ai muốn bỏ thời gian ra viết.
Ngồi chung bàn với họ và nghe lóm được câu chuyện về thường trình dấu phẩy động là một sinh viên khác, Monte Davidoff. Câu chuyện lọt vào tai anh vì trước kia anh đã từng lập trình đại loại như thế. Davidoff lên tiếng.
“Tôi biết cách”, anh nói.
Gates và Allen muốn biết thêm. Sau khi nói chuyện với Davidoff một lúc, họ kể cho anh về dự án Altair mà họ đang thực hiện. Davidoff cho biết mình muốn giúp. Nhiều ngày sau, họ trả lời cho anh – anh sẽ tham gia. Nhưng thù lao cho công việc của anh không được bàn đến. “Chúng tôi chỉ có một thỏa thuận miệng”, lời kể của Davidoff, hiện đang làm việc cho một công ty máy tính và điện tử ở Cupertino, bang California. “Họ không biết việc này có đem lại tiền bạc hay không. Họ cảm thấy có khả năng kiếm được tiền và nếu họ kiếm được tiền, họ sẽ trả cho tôi… Thế là tôi tin tưởng ở họ và không bàn đến.”
Cũng như Gates, Davidoff chểnh mảng chuyện học hành để dành hết thời gian cho dự án. Anh là một nhân vật bị lãng quên của ngôn ngữ BASIC. Nhiều năm sau, khi Gates bắt đầu xuất hiện trên trang bìa của các tạp chí quốc gia và các phóng viên viết những câu chuyện về việc anh chàng bỏ học Harvard và người bạn Allen đã hình thành ngôn ngữ BASIC đầu tiên trong ngành ra sao và trở nên giàu có như thế nào, chẳng ai nhắc đến Monte Davidoff một lời. Anh có được nhắc đến một lần, chỉ vắn tắt, trong cuốn Lửa trong thung lũng. Nhưng ngay cả lần ấy, tên anh cũng bị ghi sai thành “Marty”.
“Lần đầu tiên nhìn thấy Bill trên bìa tạp chí Time và tờ báo đã nêu anh ta và Paul đã viết ngôn ngữ này và không nhắc đến tôi, tôi hơi buồn”, Davidoff nói. “Nhưng rồi tôi cũng quên đi.”
Gattes và Allen thực hiện dự án được bốn tuần thì Davidoff cũng tham gia. Họ đã nói chuyện nhiều lần với các kỹ sư MITS ở Albuquerque để tìm kiếm thông tin về Altair không tìm thấy trong bài báo của tờ Điện tử Phổ thông. Roberts muốn biết chừng nào các anh có thể đến Albuquerque để trình diễn BASIC. Ban đầu Gates bảo Roberts rằng anh có thể trao BASIC cho anh ta trong ba, bốn tuần. Đây không phải lần cuối cùng anh ước lượng sai nghiêm trọng về thời gian thực hiện sản phẩm. Gates đã viết chương trình ban đầu trong khoảng ba tuần nhưng anh mất thêm bốn tuần nữa để gọt giũa mọi thứ cho đến khi nó gọn ghẽ và nhanh như ý. Nhưng do họ không có máy Altair nên họ không tài nào biết được nó thực sự hoạt động ra sao.
Đến cuối tháng hai họ cảm thấy đã xong. Allen là người bay đến MITS. Vào đêm hôm trước ngày Allen hẹn gặp với Roberts, Gates đã bảo bạn mình về nhà ngủ để ngày sau được tỉnh táo. Gates vẫn ngồi trong phòng máy tính để hiệu chỉnh chương trình vào giờ chót. Anh chỉ vừa hoàn tất cho Allen kịp giờ đáp chuyến bay sáng sớm đi khỏi phi trường Logan International của Boston.
Khi máy bay đang trên đường đến Albuquerque, đột nhiên Allen giật mình. “Ồ, trời đất!” anh buộc miệng lớn tiếng, làm hành khách kế bên phải giật mình. Anh và Gates đã quên không viết cái gọi là “chương trình mồi” – một chương trình hướng dẫn máy Altair cách nạp BASIC. Soạn
vào một tờ giấy bằng ngôn ngữ máy 8080 phức tạp, Allen hoàn tất chương trình vừa lúc bánh xe máy bay chạm xuống đường băng phi trường Albuquerque. (Về sau, Allen và chàng Gates vốn luôn có máu tranh đua đã tổ chức một cuộc thi xem ai viết được chương trình nạp ngắn nhất, Gates đã thắng).
Ed Roberts đón Allen ở sân bay. Anh ta lái một chiếc xe tải cũ kỹ. Allen không hề biết trước mọi chuyện ra sao khi anh đến Albuquerque. Chắc chắn anh không ngờ một người khổng lồ đã đón anh. Nhưng anh còn kinh ngạc hơn khi Roberts đưa anh đến MITS.
Micro Instrumentation & Telemetry Systems Inc. toạ lạc gần đường 66, một nơi từng là dãy cửa hiệu khu phố trung tâm. Một bên là tiệm massage, một bên là tiệm giặt ủi. Roberts bảo Allen rằng anh muốn chờ đến sáng để thử BASIC nên sau một cuộc dạo chơi ngắn, anh ta lái xe đưa Allen đến khách sạn sang nhất thành phố. Nhà tỷ phú tương lai không đủ tiền trả tiền phòng khách sạn. Anh phải mượn thêm tiền của Roberts.
Đêm đó, Allen gọi điện cho Gates đang nóng ruột chờ ở Cambridge. Anh kể với bạn mình về anh chàng đã ra đón mình bằng chiếc xe cà tàng, kể về doanh nghiệp quèn mà anh đã nhìn thấy chiều hôm đó. Cả hai đều thất vọng… và lo âu. Thế mà họ cứ tưởng đang làm ăn với một công ty đồ sộ và thành công. Liệu những nỗ lực của họ có uổng phí không?
Sáng hôm sau, Roberts đến đón Allen và quay lại MITS. Đã đến lúc kiểm nghiệm BASIC. Mã lệnh nằm trên một băng giấy. Không như những bộ máy Altair bán cho công chúng, chiếc máy của MITS có nhiều điểm có ở các kiểu máy đại trà. Máy Altair này chạy trên 7K bộ nhớ. Và nó được nối với máy teletype. Allen không cần phải đọc đèn nhấp nháy mới hiểu được kết xuất của Altair. Nhưng hay nhất là máy Altair này được nối với một máy đọc băng giấy. Allen có thể nạp băng giấy của mình trực tiếp vào máy. Nếu không, điều đó có nghĩa là phải gạt các công tắc ở mặt trước máy Altair khoảng 30.000 lần theo đúng thứ tự. Thứ duy nhất mà Allen phải gõ vào máy là chương trình nạp.
Allen bẻ ngón tay. Đây là lần đầu tiên anh chạm vào máy Altair. Bất cứ một lỗi nào trong suốt quá trình của anh và Gates, dù trong khi thiết kế bộ giả lập 8080 hay khi viết lệnh cho chính BASIC giờ đây đều sẽ dẫn đến thất bại.
Bỗng nhiên, máy Altair bừng sống. Nó hiện ra. “Memory size?” Allen đánh vào “7K”. Máy đã sẵn sàng nhận lệnh đầu tiên. Allen đánh vào “print 2 + 2”. Máy Altair hiện ra câu trả lời chính xác: “4”.
“Mọi người thật sự sửng sốt khi thấy máy tính của họ hoạt động”, Allen kể. “Đây là một công ty
máy tính nhỏ. Chính tôi cũng khá kinh ngạc thấy nó hoạt động ngay lần đầu tiên. Nhưng tôi cố tỏ ra không quá ngạc nhiên.”
Roberts kể lại phút giây trọng đại ấy khi máy của anh biến thành một chiếc máy hữu ích: “Tôi sững sờ. Thật là đầy ấn tượng. Máy Altair là một hệ thống phức tạp, và họ chưa hề nhìn thấy nó trước đó. Những gì mà họ làm được vượt xa mong đợi. Tôi đã lăn lộn với việc viết chương trình cho máy tính một thời gian dài và tôi rất bàng hoàng về những gì đạt được ngày hôm ấy.”
Rồi trong buổi sáng ấy, Allen tìm thấy một cuốn sách 101 trò chơi máy tính và đã chạy một chương trình “Đổ bộ Mặt trăng” trên máy Altair. Đó là một chương trình rất giống chương trình Gates đã viết ở Lakeside khi niềm đam mê máy tính lần đầu tiên đến với cậu bé qua chiếc máy tính teletype trong phòng máy tính nhà trường. Trò chơi đòi hỏi người chơi phải đáp nhẹ nhàng xuống mặt trăng trước khi hết nhiên liệu trên phi thuyền. Đó là phần mềm đầu tiên chạy trên cái sẽ được gọi là Microsoft BASIC.
Cuộc cách mạng máy tính cá nhân đã bắt đầu bằng một trò chơi chạy trên một chiếc hộp nhỏ màu xanh có đèn nhấp nháy được đặt tên theo vì sao sáng nhất trong chòm sao Aquila. Ba mươi năm trước, dân chúng Albuquerque đã chứng kiến mặt trời mọc lên ở phương nam khi quả bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới nổ trong bóng tối trước rạng đông gần Alamogordo cách xa một trăm dặm báo hiệu thời đại hạt nhân. Giờ đây, một thời đại mới đã ló rạng ở Albuquerque. Nó khởi sự từ một công ty quèn nằm cạnh một tiệm massage. Những nhà tiên tri của thời đại này là hai anh bạn trẻ chưa đủ tuổi uống rượu. Phần mềm máy tính của họ chẳng mấy chốc sẽ khiến cho các nhà kinh doanh mặc đại phục từ khắp cả nước đổ về thành phố xa lộ sa mạc này để tiến hành những hợp đồng hàng triệu đô-la với những anh chàng quần jean áo thun. Gates và Allen đã châm ngòi cho cuộc cách mạng kỹ thuật sẽ lan nhanh như lửa, từ những vườn cây ăn trái của thung lũng Santa Clara, nơi mà những giấc mơ sẽ đâm chồi thành một vùng phát triển rộng lớn gọi là Silicon Valley. Gates rồi sẽ trở thành nhà tỷ phú trẻ nhất trong lịch sử nước Mỹ.
* * *
Khi Allen trở về Boston, anh và Gates ăn mừng bằng cách đi ăn kem và uống nước ngọt. Gates dùng nước Shirley Temple quen thuộc.
“Cả hai chúng tôi đều thật sự vô cùng phấn khởi”, Allen kể.
Họ bàn xem sẽ thảo luận bản quyền như thế nào với Roberts về BASIC của mình. Họ đã làm việc 20 giờ mỗi ngày, có khi hơn, suốt tám tuần. Giờ là lúc để hái tiền.
Trong khi ngồi ăn kem và uống Shirley Temple ngày hôm ấy ở Cambridge, Gates biết rằng còn rất nhiều việc để làm trước khi tung BASIC ra thị trường. Phải tìm ra lỗi và khử lỗi. Phải tinh chỉnh và cải tiến. Gates trở về Trung tâm Máy tính Aiken, còn Allen trở lại làm việc tại Honeywell. Nhưng Gates gặp ngay một vấn đề mà anh không thể giải quyết bằng tài lập trình của mình. Các viên chức Harvard phát hiện anh và Allen đã khai thác mạnh mẽ máy PDP-10 của trường đại học để soạn sản phẩm thương mại. Các viên chức này không hài lòng.
Máy PDP-10 mà Gates và Allen đã sử dụng để soạn BASIC có một lịch sử thú vị. Năm 1969, nó đã được chuẩn bị để đưa sang Việt Nam thì giáo sư Cheatham nhận được một cú điện thoại hỏi xem Harvard có muốn máy đó không. Vì máy PDP-10 trị giá hàng trăm nghìn đô-la và trường đại học này chưa có nên đương nhiên Cheatham gật đầu. Nhưng làm sao đưa được máy vào trường mà không gây ra một cuộc nổi dậy? Máy tính này được cho vào thùng và chuyển đi trên xe tải hai tấn rưỡi của quân đội. Lúc bấy giờ là cao điểm của chiến tranh Việt Nam. Quân đội bị phản đối trong trường đại học. Ở Harvard, các cửa sổ kính được thay bằng plastic sau nhiều cuộc biểu tình phản chiến. Hội đồng quản trị Harvard không muốn nhìn thấy xe tải quân đội lăn bánh vào khu này. Vì thế xe tải phải lẻn đến buổi sáng chủ nhật, khoảng 4 giờ sáng. Nó dừng lại trước Trung tâm Máy tính Aiken, dỡ hàng và chuồn đi trước khi sinh viên nhìn thấy tia nắng mặt trời đầu tiên.
Cho dù Harvard đã làm chủ máy PDP-10, mối quan hệ với quân đội vẫn chưa cắt đứt. Máy tính này được tài trợ bởi Bộ quốc phòng thông qua Cơ quan Nghiên cứu Dự án Quốc phòng Cao cấp, viết tắt là DARPA. Cơ quan ít người biết này được thành lập vào năm 1958 để tìm kiếm những ứng dụng quân sự dài hạn từ những dự án nghiên cứu dân sự. Từ “Quốc phòng” về sau được Quốc hội bổ sung để nhấn mạnh nhiệm vụ quân sự của nó. Nhiều vũ khí kỹ thuật cao của quân đội đã xuất phát từ cuộc nghiên cứu về máy tính được tài trợ của DARPA, trong đó có máy bay chiến đấu tàng hình Stealth và những thứ được gọi là vũ khí thông minh sử dụng trong chiến tranh Vùng Vịnh.
Mặc dù DARPA tài trợ cho máy PDP-10 ở Harvard, chẳng có văn bản nào nói về việc sử dụng.
“Vấn đề ở đây là các chàng trai có thể sử dụng máy tính vào mục đích riêng”, Cheatham nói. “Nhưng sau vụ của Gates, đã có một quy định nghiêm ngặt hơn.”
Không rõ Gates đã gặp rắc rối đến mức nào về việc sử dụng máy tính cho mục đích cá nhân, hay về việc đã để Allen, một người bên ngoài không liên quan gì đến Harvard, sử dụng máy tính. Cheatham đã từ chối kể về chuyện này. Nhưng một giáo sư khác cho biết Gates đã bị khiển trách và đe doạ đuổi học. Thế nhưng Gates lại bác bỏ điều này.
“Chẳng có khiển trách gì nghiêm trọng cả, chỉ bị nhắc nhở về việc thường xuyên đưa Paul vào”, Gates kể. Sau đó anh đã viết một lá thư cho hội đồng quản trị đại học phàn nàn về việc thiếu hướng dẫn. Tại sao các giáo sư có thể sử dụng thư viện Harvard để nghiên cứu những cuốn sách mang đến cho họ tiền bản quyền mà sinh viên lại không được sử dụng máy tính để làm thương mại? Gates đã hỏi trong thư. Năm sau, một quy định được đưa ra: nếu sinh viên sử dụng máy tính để làm sản phẩm thương mại, Harvard phải được chia phần lợi nhuận phát sinh.
Sau vụ việc này, Gates và Allen mua giờ máy của một dịch vụ ở Boston để hoàn tất BASIC của họ.
Allen liên lạc chặt chẽ với Roberts từ lúc bay đến Albuquerque để thử BASIC. Ngay sau chuyến đi, Roberts đã hỏi Allen có muốn đến làm việc cho MITS hay không. Vào mùa xuân 1975, Roberts đã đề nghị Allen làm giám đốc phần mềm của MITS. Allen nhận lời và đến Albuquerque. Gates trở lại chơi poker với những chàng trai và hơn bao giờ hết suy nghĩ nghiêm túc về tương lai của mình.
Chương 3. Những chàng trai Microsoft
Khách sạn Sundowner ở Albuquerque, bang New Mexico nằm ở một khu nhếch nhác của thành phố nổi tiếng về nạn mại dâm và những quán cà phê mở cửa suốt đêm hơn các công ty kỹ thuật cao. Nó nằm cạnh Đại lộ Trung tâm, tên gọi của đường số 66 khi nó đi xuyên qua thành phố sa mạc nóng như thiêu như đốt này của vùng Rio Grande. Khi Paul Allen đến khách sạn này vào mùa xuân 1975, anh bảo người quản lý rằng anh không biết chắc chắn mình sẽ ở lại bao lâu, nhưng có lẽ cho đến lúc người bạn ở Harvard tìm đến sau vài tháng nữa. Allen chẳng màng chỗ ở rẻ tiền hay khung cảnh buồn bã quanh khách sạn. Điều quan trọng là anh đang ở cách MITS, nơi anh sẽ dành hầu hết thời gian để soạn BASIC cho máy Altair, chỉ có năm phút đi bộ. Phải tìm kiếm và khử các lỗi của ngôn ngữ này trước khi tung nó ra thị trường.
So với công việc của anh ở Honeywell, Allen gặp phải tình trạng hỗn độn náo nhiệt ở MITS. Mặc dù chức danh của anh là giám đốc phần mềm của MITS, thực chất cả bộ phận phần mềm chính là anh. Những người khác do công ty tuyển dụng đang làm việc hối hả về phần cứng của Altair. Bài báo trên tờ Điện tử Phổ thông là một sự kiện gần như trọng đại. Nó kích thích trí tưởng tượng của những tay chơi điện tử và những tay mày mò máy tính khắp trong nước đã từng mơ đến một ngày được làm chủ một chiếc máy tính. Giờ đây họ đã toại nguyện, với cái giá rất hợp túi tiền là 397 đô-la.
“Bạn phải biết rằng ngày ấy, ý tưởng làm chủ một chiếc máy tính, một chiếc máy tính của riêng mình, cũng kinh khủng chẳng kém gì ý tưởng ngày nay bạn làm chủ một chiếc tàu ngầm hạt nhân. Nó vượt quá sức tưởng tượng”, lời Eddie Curry, người gia nhập MITS trong vai trò phó chủ tịch ngay sau khi Allen đến. Họ nhanh chóng trở thành bạn bè. “Máy tính là những thứ được đặt trong các toà nhà lớn và chiếm nhiều tầng lầu cũng như cần có đội ngũ bảo trì và người trông nom chúng. Phần lớn sự thành công của Altair và máy tính sau đó là do mọi người ước muốn được làm chủ một chiếc máy. Chuyện họ có làm gì được với máy tính ấy hay không là điều không quan trọng. Ai cũng biết chúng ta có thể làm gì đó với máy tính nhưng không ai biết đó là việc gì. Chỉ riêng việc có một chiếc máy tính cũng đã đủ oai rồi.”
Curry, một người bạn thời thơ ấu của Roberts, đang học đại học thì Roberts bàn với anh ý tưởng về một chiếc máy tính nhỏ dành cho đại chúng. Họ đã nói chuyện rất nhiều qua điện thoại, tốn kém cả trăm đô-la hàng tháng. Mặc dù thay phiên nhau thanh toán, Curry không kham nổi khoản tốn kém quá mức trong khi còn đi học, cho nên anh ta và Roberts bắt đầu trao đổi băng từ, hoá ra chúng lại là những sản phẩm dày công sáng tạo, gồm có cả hiệu ứng âm
thanh, nhạc nền, thơ trào phúng và những bài đọc truyền cảm.
“Chúng tôi trao đổi về công việc qua hình thức này”, Curry cho biết, “và tôi hỏi anh ấy qua băng đâu là mục tiêu của ta đối với MITS và anh ta muốn gì ở MITS. Anh ta đã bảo tôi rằng giấc mơ của anh ta là chế tạo một chiếc máy tính để ai cũng có thể sở hữu được một chiếc máy tính”. Anh ta và Roberts đã thảo luận về chi tiết kỹ thuật, thậm chí đến cả giá cả mà Roberts sẽ bán ra đối với Altair.
Do MITS gần phá sản, Roberts đã đánh liều mọi thứ với Altair. Anh ta đã vay được một khoản 65.000 đô-la trước đó bằng cách trấn an các chủ ngân hàng ở Albuquerque rằng có một thị trường hàng trăm máy tính. Thực tế, MITS được nhiều người hỏi mua Altair trong vòng vài ngày sau khi số báo Điện tử Phổ thông đăng tải về Altair được ấn hành. Trong vòng vài tuần lễ, hơn 4000 đơn đặt hàng máy tính này đã đổ về. Hầu như chỉ trong một đêm, mức tiền mặt của công ty từ thâm hụt 300.000 đô-la đã thặng dư 250.000 đô-la. Cơ hội sở hữu một chiếc máy tính có sức cuốn hút đến độ hàng nghìn người đã gửi ngân phiếu đến một công ty họ chưa từng nghe nói đến. Một số tay hăng máu còn bay đến Albuquerque bằng máy bay riêng, hy vọng khi đích thân tìm đến sẽ có được máy trước những người khác.
Les Solomon, nhà biên tập kỹ thuật thấp người, đầu hói của tờ Điện tử Phổ thông, người in hình chiếc máy Altair giả lên bìa, đã kể lại những phản ứng diễn ra sau kỳ ấn hành ấy trong cuốn Hacker của tác giả Steven Levy:
“Chỉ có một từ duy nhất có thể nói sự kiện này là thần kỳ… Hầu như người ta chẳng ai chịu phí 15 xu để gọi điện vô bổ cho một công ty, bạn có đồng ý không? Khoảng 2.000 người, không hề thấy mặt, đã gửi ngân phiếu, chi phiếu, ba, bốn, năm trăm đô-la mỗi đơn đặt hàng, đến một công ty nhỏ ở một thành phố ít biết đến, thuộc một tiểu bang chẳng có tiếng tăm gì về kỹ thuật. Những người này hoàn toàn không biết nhau. Họ là những kẻ phiêu lưu trong một vùng đất mới. Họ giống như những kẻ phiêu lưu trong một vùng đất mới. Họ giống như những người đến miền Tây vào thuở sơ khai của nước Mỹ. Có trời biết họ sẽ đến California, Oregon hay đi đâu.”
Trong phần quảng cáo của mình, MITS hứa hẹn giao máy tính trong vòng hai tháng. Nhưng công ty chưa chuẩn bị cho số lượng đơn đặt hàng nhiều đến mức choáng váng mà họ nhận được. Khách hàng nôn nóng đã gửi tiền đặt mua Altair cứ gọi điện đến tìm hiểu vì lý do gì mà họ chưa nhận được máy tính như đã hứa. Họ được cho biết MITS có hồ sơ đặt hàng rất lớn và họ phải chờ đợi. Một tay hacker nôn nóng đã lái xe xuyên quốc gia đến ở nhiều tuần lễ trong một chiếc rờ moóc đậu gần MITS, chờ nhận máy Altair của mình.
Với 397 đô-la bỏ ra, những người phiêu lưu này không thu được nhiều nhặn gì. Họ nhận được máy Altair dưới dạng một bộ linh kiện. Khách hàng phải hình dung cách lắp ráp chúng lại với nhau, một công việc mất nhiều giờ đồng hồ và không đơn giản. Hầu hết các bộ linh kiện đều không lắp ráp, máy tính này cũng chẳng làm được gì nhiều lắm. Nhưng chiếc máy đầu tiên được bán đầu năm 1975 không có mạch giao tiếp cho phép kết nối với máy teletype. Mạch mở rộng bộ nhớ cũng chưa có, cho nên máy Altair chỉ là một chiếc máy không có não, với chỉ 256 byte bộ nhớ. Các chương trình thô sơ bằng thứ ngôn ngữ nhị phân phức tạp của máy chỉ có thể nhập vào máy bằng cách gạt các công tắc trên bảng điều khiển hàng trăm lần theo đúng trình tự. Chỉ một lần sai sót là người sử dụng phải làm lại toàn bộ từ đầu.
Ngôn ngữ máy tính BASIC 8080 mà Gates và Allen đang tạo lập ở Harvard vẫn chưa hoàn tất khi những bộ linh kiện Altair được chuyển giao. Cho dù phần mềm đã có sẵn, MITS vẫn chưa thiết kế các mạch nhớ nhằm cho phép người sở hữu có đủ bộ nhớ bổ sung để chạy BASIC. Trách nhiệm của Paul Allen trong vai trò giám đốc phần mềm của MITS năm 1975 là tiếp tục nâng cao BASIC và hoàn chỉnh để chuyển giao. Anh ta và Gates nói chuyện điện thoại liên tục về các vấn đề kỹ thuật nảy sinh. Cả hai đều nhận thức một thị trường phần mềm mới đã ra đời cùng với Altair, và họ hy vọng kiếm được bộn tiền nhờ bán BASIC của mình. Yếu tố mà giờ đây họ cần đến là một pháp nhân chính thức.
* * *
Có lúc, Gates đã cố gắng mào đầu với bố mẹ mình về việc cuối cùng anh sẽ bỏ học Harvard để lập một doanh nghiệp máy tính với Allen. Nhưng tin mới nhất đã làm bố mẹ anh bất ngờ. Anh muốn lập một công ty không phải tại Seattle, quê nhà, nơi anh có thể sống gần gia đình, mà lại ở Albuquerque, khuất nẻo giữa những sa mạc của bang New Mexico.
Dưới mắt Mary Gates, cậu con trai 19 tuổi của bà sắp sửa làm một chuyện chẳng khác nào tự kết liễu con đường học vấn. Bà cực lực phản đối chuyện con trai bỏ học trước khi tốt nghiệp. Dan Evans, thống đốc bang Washington và là một người bạn thân của gia đình, vừa đề cử Mary Gates làm thành viên Hội đồng Quản trị đại học Washington, một trong những địa vị chính trị có uy tín nhất của tiểu bang. Giờ đây, con trai bà bỏ học ở Harvard thì bà chẳng biết sự thể ra sao nữa. Cha của Gates cũng phản đối mạnh mẽ chuyện anh lập công ty trước khi ra trường. Nhưng mặc dù cả ông và Mary đều thúc ép con tiếp tục học, cả hai cũng nhận thấy mình không có đủ hiểu biết chuyên môn để phân tích lý lẽ của việc thành lập một công ty phần mềm.
Vì thế, Mary Gates đã nhờ đến một người bạn mới, Samuel Stroum, một nhà lãnh đạo kinh doanh đáng kính và có thanh thế mà bà đã gặp trong một chiến dịch của tổ chức United Way,
giúp đỡ về việc con bà. Bà đã thu xếp cho Bill nói chuyện với Stroum, với hy vọng Stroum sẽ thuyết phục cậu con trai từ bỏ ý định lập một công ty, ít ra cũng trong giai đoạn hiện tại, để tiếp tục việc học ở Harvard.
Là một nhà triệu phú tự lập, một người nhân ái và một nhà lãnh đạo quần chúng, Samuel Stroum thường được mọi người xin ý kiến, thậm chí ngay cả những người cầm trịch có thế lực nhất trong vùng. Cũng như Mary Gates, Stroum là một thành viên của Hội đồng Quản trị Đại học Washington, Stroum chưa bao giờ học đại học. Sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, ông thành lập một công ty phân phối hàng điện tử ở Seattle và sau đó tích luỹ được một cơ nghiệp từ việc kinh doanh Shuck’s Auto Supply, đầu mối phụ tùng xe hơi danh tiếng nhất miền Tây Bắc. Vào thời điểm 1975, ông là một trong số vài người trong cộng đồng doanh nghiệp Seattle không am hiểu về công nghệ máy tính nhưng có tầm nhìn thấu đáo về tương lai của ngành này.
Khi Gates từ Harvard về nhà vào kỳ nghỉ, Stroum đưa anh đi ăn trưa ở Câu lạc bộ Rainier, trung tâm quyền lực và kinh doanh của thành phố. Sáng lập năm 1888 và có bề dày truyền thống, câu lạc bộ tư nhân này được xem là nơi ăn trưa trong giới chính khách, các nhà môi giới chính trị và các vị chức sắc các công ty. “Rõ ràng tôi đã bị thuyết giáo”, Stroum hồi tưởng mấy giờ đồng hồ mà ông đã ngồi khai thác suy nghĩ của Gates. “Anh chàng đã giảng giải cho tôi nghe anh đang làm gì, anh ta hy vọng sẽ làm gì. Tôi đã từng bước chân vào ngành từ lúc còn trẻ. Anh chàng chỉ cần nói về những gì anh ta đang làm… bất cứ ai biết chút ít về điện tử đều thấy rằng vấn đề rất hứng thú và một kỷ nguyên mới đang mở ra.”
Gates đã nói về tầm nhìn của anh và Paul Allen. Cuộc cách mạng máy tính cá nhân chỉ mới đang bắt đầu, anh nói với Stroum. Rồi sẽ đến lúc tất cả mọi người đều có một chiếc máy tính. Hãy tưởng tượng đến những khả năng thu lợi nhuận… vô số máy đều chạy phần mềm của anh.
Stroum không những không thuyết phục cậu từ bỏ kế hoạch lập một doanh nghiệp mà sau khi lắng nghe chàng thanh niên tâm huyết này ông còn khuyến khích Gates thực hiện. “Mary và tôi đã đùa về chuyện ấy suốt bao nhiêu năm”, lời kể của Stroum, nay đã 70 tuổi. “Tôi bảo bà ấy tôi đã phạm một sai lầm khủng khiếp – tôi đã không đưa cho anh chàng một ngân phiếu trống để điền vào. Người ta đánh giá tôi là một nhà đầu tư khôn ngoan, nhưng quả là tôi đã không nhận ra vụ này.”
Khi Gates học hết năm thứ hai ở Harvard, anh cùng tham gia với Paul Allen ở Albuquerque, dù anh vẫn chưa quyết định về chuyện bỏ học. Đó là một quyết định mà một năm rưỡi sau đó anh mới thực hiện.
Microsoft – viết tắt từ Microcomputer Software (phần mềm máy vi tính) – ra đời vào mùa hè năm 1975. (Tên ban đầu là “Micro-Soft”, dấu nối được bỏ đi sau đó không lâu). Một số nguồn tin cho rằng Gates và Allen lập nên Microsoft từ Traf-O-Data đơn giản bằng cách đổi tên. Không phải như thế. Hai công ty này lúc nào cũng có tỷ lệ ăn chia riêng biệt. Thỏa thuận ăn chia ban đầu của Microsoft quy ước là 60/40 nghiêng về phía Gates, vì anh cho rằng anh đã bỏ công nhiều hơn trong giai đoạn đầu phát triển BASIC. Tỷ lệ này về sau được đổi thành 64/36. (Vào lúc Microsoft phát hành cổ phiếu ra công chúng vào năm 1986, Gates sở hữu hơn 11 triệu cổ phần công ty còn Allen hơn 6 triệu cổ phần).
Mặc dù Gates giàu có nhờ bố mẹ và di chúc ông ngoại để lại cho anh, anh quyết tâm phải tự kiếm tiền và không dựa vào số tiền đó để tài trợ cho doanh nghiệp của anh và Allen. Bố mẹ và ông bà anh đã dạy anh rằng phải thận trọng về tài chính và đó là cách mà anh muốn điều hành công ty của mình. Người ta không hề thấy Microsoft có những khoản chi tiêu nào phung phí. Khi Gates đến Albuquerque, anh và Allen ở cùng phòng tại Motel Sand & Sage, chỉ khá hơn Sundowner chút ít. Sau đó, họ chuyển đến một căn hộ rẻ tiền dưới phố.
Đầu mùa hè ấy, MITS tổ chức một chuyến đi quảng cáo cổ động Altair. Nhiều kỹ sư phần cứng của công ty đã dồn vào căn nhà di động màu xanh của Roberts và đi xuyên nước Mỹ. Nhà di động MITS, hay “Ngỗng xanh”, như người ta nhanh chóng đặt biệt danh cho nó, mang theo một chiếc Altair hoàn chỉnh với cả những thứ không có trong những bộ máy tính đã bán cho người sử dụng. Máy Altair này được kết nối với máy teletype và máy đọc băng giấy, chạy phiên bản BASIC 4K do Gates và Allen soạn. Đó là một chuyến đi vận động tạo mối quan hệ. Bất cứ nơi đâu nhà di động MITS dừng lại, cuộc trình diễn Altair liền được dựng lên. Các hội thảo được tổ chức trong phòng motel. Những người hâm mộ máy tính rủ nhau thành lập các câu lạc bộ máy tính trong các nhà để xe, tầng hầm và bất cứ nơi đâu họ có thể gặp gỡ để trao đổi thông tin không biết chán về máy tính và chia sẻ niềm đam mê đối với cuộc cách mạng mới mẻ này và những tiềm năng của nó. Đoàn lữ hành MITS cũng đóng vai trò đoàn bác sĩ phẫu thuật lưu động. Các chuyên gia phần cứng sửa chữa kỹ thuật cho những sở hữu chủ Altair có máy gặp trục trặc không hoạt động được. Chính Gates cũng tham gia chuyến đi trong nhà di động MITS vào mùa hè đầu tiên anh đến Albuquerque. Anh thấy đó cũng là một chiến lược tiếp thị tốt để quảng cáo cho tên tuổi của BASIC.
Nhà di động MITS không phải là chiến thuật tiếp thị duy nhất Roberts áp dụng để cổ vũ cho Altair. Anh và David Bunnell, cây viết kỹ thuật của công ty, đã thành lập một câu lạc bộ toàn quốc với quyền hội viên miễn phí dành cho những người sở hữu Altair. Bunnell cũng bắt đầu ấn hành một bản tin gọi là Bản tin Máy tính. Roberts viết một mục thường kỳ cho bản tin và
Gates cùng Allen trở thành những cây viết thường xuyên có bài về phân tích phần mềm của họ. Bunnell, người đã bỏ công việc dạy học ở vùng đất bảo tồn của người da đỏ tại South Dakota để gia nhập MITS năm 1972, đã trở thành bạn thân của Gates. Bunnell đã thiết kế biểu tượng và tiêu đề đầu tiên cho Microsoft. Anh sẽ trở thành một trong những nhà xuất bản hàng đầu về tạp chí máy tính cá nhân.
Gates, khi không lên đường với nhà di động MITS thì thức suốt đêm với Allen để tiếp tục cải tiến BASIC. Đến giữa mùa hè, họ đã có một phiên bản BASIC 8K đi với phiên bản 4K và họ đang thực hiện một phiên bản BASIC “mở rộng” đòi hỏi 12K hay 16K bộ nhớ. Ngày 22/7/1975, họ ký một thỏa thuận bản quyền chính thức với Ed Roberts về các quyền lợi đối với BASIC của họ dành cho mạch máy tính 8080. Bản thỏa thuận này, do Gates soạn với sự giúp đỡ của bố và một luật sư của Albuquerque, là một bước đột phá mới. Gates, mới chỉ 19 tuổi, không chỉ am hiểu kỹ thuật phức tạp mà còn nắm được khía cạnh pháp lý của việc bảo hộ phần mềm. Bản thỏa thuận, có giá trị mười năm, cho phép MITS độc quyền trên toàn thế giới trong việc sử dụng và cấp giấy phép BASIC, trong đó có quyền cấp giấy phép cho bên thứ ba. MITS thỏa thuận không cấp giấy phép cho bên thứ ba nào trước hết không chịu cam kết bảo mật BASIC. Điều khoản về sau tỏ ra là phần quan trọng nhất trong thỏa thuận có đoạn ghi: “Công ty (MITS) thỏa thuận nỗ lực tối đa để cấp giấy phép, cổ động và thương mại hoá chương trình (BASIC). Việc Công ty không chịu nỗ lực hết mức… sẽ là cơ sở và nguyên do hữu hiệu để chấm dứt thỏa thuận…” Bản hợp đồng với MITS đóng vai trò mô hình cho những bản thỏa thuận bản quyền phần mềm trong tương lai của ngành máy vi tính và nó đã góp phần thiết lập những tiêu chuẩn của ngành này.
Gates và Allen nhận được 3.000 đô-la từ MITS khi đăng ký thỏa thuận. Bản thỏa thuận quy định cả quyền lợi từ việc cấp giấy phép BASIC, cho dù có hay không có việc bán kèm theo phần cứng của MITS. Microsoft nhận được 30 đô-la mỗi phiên bản 4K của BASIC do MITS bán kèm theo phần cứng, 35 nghìn đô-la cho mỗi phiên bản 8K, và 60 đô-la cho mỗi phiên bản “mở rộng”. Khi MITS bán bất cứ phiên bản BASIC nào không có phần cứng, Gates và Allen nhận được 50% giá bán. Họ cũng nhận được 50% số tiền có được từ việc nhượng bản quyền của mã nguồn BASIC. Mã nguồn này cho phép các công ty có bản quyền có thể sửa đổi nó theo nhu cầu của họ và phát triển những phần mềm ứng dụng để chạy bên trên ngôn ngữ cấp cao này.
Thỏa thuận bản quyền là một thành công của Microsoft nhưng nó chẳng hề làm cho Gates và Allen trở nên giàu có. Họ chỉ có thể kiếm được tối đa 180.000 đô-la tiền bản quyền theo các điều khoản của hợp đồng. Nhưng hiện tại, họ cần MITS giúp tiếp thị BASIC với máy Altair.
* * *
Khi Microsoft phát triển, Gates đã tìm kiếm những người bạn đáng tin cậy để đi cùng mình trong cuộc hành trình. Cuộc tìm kiếm của anh thường lần đến trường Lakeside ở Seattle và những người bạn cũ trong phòng máy ấy.
Mùa hè đầu tiên năm ấy ở Albuquerque, khi thấy rõ anh và Allen không thể tự cáng đáng hết công việc lập trình đối với BASIC, Gates đã liên lạc với Chris Larson, một đàn em ở Lakeside. Larson mới chỉ là học sinh năm cuối nhưng cũng có nhiệt tình, niềm đam mê và chí hướng hệt như bậc đàn anh của mình. Trong hai năm từ khi Gates rời Lakeside vào Harvard, Larson đã đảm nhiệm chương trình thời khoá biểu điện toán hoá của Lakeside. Cậu ta cũng chăm nom cho em gái Libby của Bill đang theo học ở Lakeside. Larson học trên Libby bốn lớp, đã lo chọn lớp cho cô bé. Larson và các bạn của mình cũng chọn được lớp như ý. Larson kể lại: “Tôi cho rằng có một sự hiểu biết bất thành văn giữa chúng tôi và nhà trường rằng chúng tôi không được lợi dụng quá đáng, nếu không nhà trường sẽ ngưng công việc của chúng tôi.”
Gates tuyển dụng Larson làm công việc mùa hè và tìm được một lập trình viên thứ hai cho mùa hè từ Harvard – Monte Davidoff, người đã phát triển phần toán của BASIC. Khi Larson và Davidoff đến Albuquerque, họ ở chung với Gates và Allen, thường ngủ trên sàn phòng khách. Cả bốn đều thức khuya, và quen mặt với các tiệm pizza và cà phê bán khuya quanh đó. Văn phòng phần mềm MITS nơi các nhân viên Microsoft làm việc được tách rời văn phòng điều hành chính của công ty, nằm cạnh một cửa hiệu máy hút bụi. Trong khi các kỹ sư phần cứng MITS chế tạo các mạch nhớ và hiệu chỉnh Altair, Gates và nhóm của anh lo về BASIC và các chương trình phần mềm khác cho phép sử dụng Altair với máy teletype, máy in và máy đọc băng giấy.
Những người làm việc cho MITS và Microsoft đều là những tay đam mê máy tính trẻ tuổi, những kẻ cuồng tín tôn sùng thần máy tính. “Đó là một dạng công việc giống như một nhà truyền giáo, ở chỗ, chúng tôi tạo ra điều gì cho một người nào đó mà họ không bao giờ nghĩ họ có thể có được”, Eddie Curry nhớ lại. “Có một thứ quan hệ mà bạn không thể nào tìm thấy ở một doanh nghiệp bình thường giữa không chỉ những người trong công ty mà cả với khách hàng. Mọi người thường làm việc từ sáng sớm đến chiều tối. Rồi họ chạy về nhà ăn uống, rồi quay trở lại làm việc đến khuya. Nói chung, lúc nào ở MITS cũng có người suốt 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần.”
Một hôm, Curry gặp một nhà kinh doanh nói rằng ông ta đã mất một tuần tìm cách gặp Gates hay Allen. Nhà kinh doanh này cảm thấy hứng thú như thể khám phá được một bí mật nhỏ của
nghề này – dân phần mềm chỉ ra vào ban đêm. Đôi lúc Gates ngủ tại văn phòng Microsoft, như anh đã từng nhiều lúc ngủ tại phòng máy tính của Harvard thay vì về phòng mình ở Currier House. Một hôm, trong khi Ed Roberts đang đưa một đoàn khách đi tham quan vòng quanh MITS, anh bước qua một thân người ở khu vực phần mềm. Đó là Gates, nằm co trên sàn nhà, ngáy khò khò.
“Bill và Paul cực kỳ hăng say”, Curry kể. “Họ hiểu rõ công việc họ đang làm và họ nhìn thấy nó sẽ đi đến đâu. Không chỉ đơn thuần họ đang phát triển BASIC. Tôi nghĩ hầu hết mọi người đều không thực sự nhìn ra điều này, còn Bill, hiển nhiên, từ lúc tôi gặp, anh ta luôn nhìn thấy sứ mạng của Microsoft là cung cấp tất cả các phần mềm cho các máy tính.”
Gates, Allen và các lập trình viên khác hợp với Curry, nhưng đáng ngạc nhiên – lại không hợp với Roberts. Các nhân viên Microsoft để tóc dài và sinh hoạt giờ giấc thất thường. Họ nghe nhạc rock n’roll còn Roberts thích nhạc êm dịu. “Ngay khi Roberts đi khỏi”, David Bunnell nhớ lại, “họ thường nhún nhảy nhạc rock’n’roll. Tôi không hiểu nổi tại sao họ làm việc được với tiếng nhạc rock inh ỏi mọi lúc, cả ngày lẫn đêm.”
Roberts đánh giá Gates thuộc dạng thông minh. Cả hai đều đọc sách nhiều khủng khiếp và thường tranh luận về những đề tài chẳng liên quan đến máy tính. Liệu nước Mỹ có cần phải thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản không? Không cần biết Gates theo quan điểm nào, Roberts luôn giữ quan điểm ngược lại… dường như do đối địch với nhau chứ không hẳn do lý lẽ. Đám thanh niên rõ ràng cũng không hợp với Roberts. Không thể tránh khỏi chuyện hai bên va chạm với nhau về những chuyện quan trọng hơn, và thực tế đã xảy ra như vậy, thường xuyên và dữ dội. Chàng Roberts lực lưỡng có tính cáu kỉnh, độc đoán và ưa doạ dẫm thường khăng khăng một mực. Không ai ở MITS hoàn toàn hợp với Roberts. Các nhân viên hoặc làm theo ý anh ta, hoặc là gặp phải xung đột nảy lửa. Còn Gates thì không hề nhượng bộ bất chấp Roberts làm dữ đến mức nào.
Mặc dù chưa đủ độ tuổi để gọi bia một cách hợp pháp, anh chàng Gates cao 1m76 không ngại đương đầu với Roberts, đấu khẩu với gã khổng lồ thô lỗ nặng 135kg, cao 1m90, lớn hơn mình 13 tuổi. “Bill ngang tàng, rất thông minh và hăng máu”, Bunnell nhớ lại. “Trước lúc gặp Gates, tôi chưa thấy ai dám đối đầu với Ed.”
Theo quan điểm của Gates, tất cả những ý tưởng hay ở MITS đều chỉ được thực hiện nửa vời và anh đã không ngần ngại nói cho Roberts biết ý nghĩ của mình. “MITS đang hoạt động theo một phong cách rất kỳ cục”, anh nói, “và mỗi người ở đó đều cảm thấy không ổn… Tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng công ty này đang trong tình trạng hỗn độn. Nó thiếu người lãnh đạo. Thật tình
nó không bình thường. Mặc dù tôi không hề chính thức là một nhân viên hay gì cả – tôi chỉ làm công việc phần mềm của tôi – tôi đã có một suy nghĩ về đường lối hoạt động của nó, thế là chúng tôi thường ngồi lại và bàn luận và mọi người thường thúc giục tôi đứng lên nói với Ed. Lúc nào chúng tôi cũng thấy có thể làm được chuyện gì đó để cải tiến các hoạt động.”
Tình trạng trì trệ của công ty làm cho chàng Gates nặng đầu óc kinh doanh gặp tình trạng bế tắc, nhất là vấn đề MITS đang gặp phải về các mạch nhớ động cho máy Altair. Những mạch công nghệ cao này cung cấp cho Altair đủ sức mạnh để chạy BASIC và rất cần thiết cho việc kinh doanh BASIC, một thứ đòi hỏi tối thiểu 4K bộ nhớ. Nhưng các mạch này hiếm khi hoạt động được. Gates đã viết một chương trình kiểm tra các mạch này và không thấy mạch nào hoạt động được như quảng cáo. “Chuyện này dễ gây nổi cáu và bẽ mặt cho mọi người, trong đó có chúng tôi”, Curry kể. Chuyện này đúng là bẽ mặt bởi vì nhiều mạch bị lỗi đã được giao cho khách hàng Altair vốn đã bực dọc vì chờ đợi máy tính quá lâu. Các công ty phần cứng khác, nhìn thấy triển vọng trong lĩnh vực máy vi tính, đã nhanh chóng chế tạo và giao những mạch nhớ hoạt động được. Chuyện này làm Roberts bẽ mặt và nổi cáu dữ dội. Gates đã nói với Roberts về vấn đề anh nhận thấy. Anh và Allen cần tiền quay vòng để thúc đẩy công ty phát triển. Họ làm sao trông mong được ở về lợi nhuận bản quyền từ thỏa thuận của họ với MITS khi mọi chuyện ở MITS đều lộn xộn?
Mặc dù Roberts nể năng lực kỹ thuật của Gates, anh ta lại không thích phong cách đối đầu của Gates. “Chúng tôi biết nên thậm chí đã không mời anh ta đến họp khi chúng tôi định đề ra một phương hướng phần mềm mới hay gì đó vì không thể bàn bạc với anh ta được”, Roberts nhớ lại. “Anh ta là một anh chàng phá rối. Anh ta đúng là một anh chàng phá rối, vấn đề là như thế. Paul Allen có tính sáng tạo hơn Bill rất nhiều. Bill chỉ phí thời gian tranh cãi chứ không đưa ra được giải pháp gì. Paul thì hoàn toàn ngược lại.”
Cuối mùa hè đầu tiên ở Albuquerque, Larson trở về trường Lakeside và Davidoff trở về trường Harvard. Cả Gates cũng quyết định trở về Harvard mùa thu đó. Anh vẫn còn trăn trở với tương lai của mình và bố mẹ anh tiếp tục gây áp lực buộc anh phải hoàn tất việc học. Suốt một năm rưỡi tiếp đó, Gates chia thời gian của mình ra để học, đánh bài poker ở Harvard và soạn phần mềm, thương lượng làm ăn cho doanh nghiệp mới của mình ở Albuquerque.
Do Gates, Larson và Davidoff về trường, Allen bị bỏ rơi một mình làm việc với Roberts và MITS. MITS là công ty đầu tiên chiếm lĩnh thị trường bằng máy vi tính giá phải chăng nhưng các công ty khác nhanh chóng theo chân. Một vài công ty mới ra lò đang chế tạo máy vi tính sử dụng vi mạch MC 68000 mới của Motorola thay cho mạch 8080 của Intel – bộ não của Altair.
Roberts muốn MITS chế tạo một Altair mới dùng mạch của Motorola. Allen phản đối. Điều đó có nghĩa là phải viết lại phần mềm BASIC và so kè với các sản phẩm phần cứng cạnh tranh trên thương trường. Nhưng Roberts, như thường lệ, vẫn kiên quyết giữ nguyên ý kiến của mình. Allen kéo thêm Richard Weiland, một trong các thành viên sáng lập nhóm Lập trình viên Lakeside, để viết phiên bản BASIC 68000. MITS sau đó đã sản xuất một máy Altair tên là 680b, mặc dù đúng như Allen đã tiên đoán, nó không thành công lắm.
Cuối năm 1975, MITS quyết định tung ra một hệ thống bộ lưu trữ đĩa mềm cho Altair 8800. Kết quả là Allen, với vai trò giám đốc phần mềm, được yêu cầu phát triển nhanh một BASIC đĩa. Đĩa từ lưu trữ dữ liệu đã được sử dụng từ nhiều năm cho các máy tính lớn và máy tính mini, nhưng chỉ đến khi Altair chiếm lĩnh thị trường thì đĩa mềm mới được thiết kế cho máy vi tính. Đĩa mềm là một phương tiện lưu trữ dữ liệu hữu hiệu hơn băng giấy rất nhiều.
Thậm chí trước khi MITS loan báo ý đồ đưa ra thị trường một phiên bản Altair BASIC trên đĩa, Allen, tiên đoán được nhu cầu đối với một sản phẩm như thế, đã bảo Gates viết mã phần mềm mới. Nhưng Gates bận rộn với các dự án khác và gác lại yêu cầu ấy. Giờ đây, Gates không còn thoái thác được nữa. Khi học kỳ mùa thu kết thúc, Gates bay đến Albuquerque và nghỉ ở khách sạn Hilton với một chồng giấy. Năm ngày sau anh xuất hiện trở lại, chồng giấy đầy mã lệnh cho phiên bản BASIC mới. Rồi Gates đến phòng máy của MITS để phôi thai BASIC mới, dặn dò mọi người đừng quấy rầy mình. Năm ngày sau, Gates đã có cái gọi là DISK BASIC chạy trên Altair. Ít ra, đó chính là một kỳ công “chính thức” của chủ tịch Bill, theo lời tựa trong kỷ yếu của công ty, cuốn Bách khoa toàn thư MS-DOS. Mặc dù Gates thường được xem là cha đẻ của Microsoft BASIC, một ngôn ngữ đã trở thành tiêu chuẩn công nghiệp và là nền tảng phát triển của công ty anh, có những người trong ngành cho rằng Allen ít ra cũng có công lao y như Gates và có thể hơn. Theo họ, huyền thoại Gates đôi khi đã làm nhoà mất thực tế. Ed Curry, một trong số đó, cho rằng Allen chưa bao giờ được ghi nhận đúng mức công lao của anh đối với BASIC.
“Những gì được trao cho chúng tôi lúc ban đầu ấy ở Albuquerque”, Curry kể, “là cái được gọi là phiên bản 4K, nó không có chức năng quản lý tập tin và rất hạn chế, chỉ là một phần mềm của BASIC và cũng được gọi là BASIC. Chính Paul Allen đã triển khai nó…” Khi bạn đọc thấy người ta viết rằng Bill viết BASIC chẳng hạn, đối với tôi, chuyện ấy hơi ngộ nghĩnh. Anh ta là một người trong nhóm. Nếu bạn quay trở lại nhìn BASIC ba, bốn năm sau và hỏi: “Thế ai đóng góp phần quan trọng?” Tôi nghĩ chính xác phải nói đó chính là Paul Allen. Bước đầu là một phần rất quan trọng, nhưng… Tôi không muốn đưa ra chuyện này để nói rằng Bill đã không viết BASIC. Tôi không nói như thế. Bill là một phần nỗ lực của nhóm. Anh ta đã góp phần quan trọng. Nhưng nếu phải chọn một người làm tác giả của BASIC, tôi nghĩ đó là Paul. Nếu bạn hỏi ai là động lực
đằng sau BASIC, đó là Bill và Paul. Nếu bạn hỏi ai đã giải quyết những vấn đề hóc búa, đó là Bill và Paul. Nhưng nếu nói ai đã ngồi và thực hiện công trình BASIC như chúng ta biết ngày nay, chính Paul là người có công lớn.”
* * *
Những người đủ kiên nhẫn để nhận được bộ máy Altair, đủ khéo léo để lắp ráp các bộ phận và đủ may mắn để cho máy hoạt động được có lẽ chẳng mấy quan tâm ai là tác giả BASIC. Họ chỉ muốn sử dụng nó và khi không có được, họ bèn “đánh cắp” phần mềm đáng giá này để có được sức mạnh lập trình biến những bộ phận điện tử và mạch Intel 8080 trị giá 397 đô-la thành một chiếc máy tính hữu dụng mà khả năng của nó không ngoài việc làm cho nhấp nháy hai hàng đèn LED màu đỏ.
Những tay hacker máy tính này là những “đạo chích phần mềm” đầu tiên, một cụm từ có phần mỹ miều miêu tả những tay du thủ du thực kỹ thuật cao tung hoành trên màn hình máy tính như Errol Flynn. Nhưng theo Bill Gates, đó là những tay đạo chích bất lương. Và anh đã gọi những kẻ ấy như thế trong một lá thư công kích đăng trên bản tin Altair, được in lại trên các tạp chí khác.
Gates viết bài đả kích vào đầu tháng 2/1976 nhưng vấn đề đánh cắp này và những biện pháp cần thiết đã làm anh trăn trở mấy tháng trời, sau khi anh biết được những bản sao trái phép của BASIC đã được chuyền tay nhau như vé xổ số miễn phí ở các cuộc họp mặt câu lạc bộ máy tính khắp toàn quốc. Những gì diễn ra trong một đêm ở Câu lạc bộ máy tính Homebrew tại Bắc California là một trường hợp điển hình.
Các câu lạc bộ máy tính đã thổi bùng cuộc cách mạng khởi sự từ Albuquerque với máy Altair và lan đi khắp các quốc gia như ngọn lửa cháy không thể kiềm chế. Các câu lạc bộ là những hội nhóm kỹ thuật của những người yêu thích máy tính. Chính Gates đã đi lưu động trong đoàn của MITS để cổ vũ thành lập một số câu lạc bộ. Và nhiều câu lạc bộ đã thành lập: trong garage, nhà kho, nhà ở, nhà trường, văn phòng… bất cứ nơi nào các hội viên có thể gặp gỡ và nói chuyện về máy tính. Các câu lạc bộ được tổ chức bởi các kỹ sư, kỹ thuật viên, các tay chơi nghiệp dư, hacker, dân điện tử… những người nhiệt tình bị cuốn hút bởi các khả năng dường như vô tận của máy vi tính. Có lẽ không có câu lạc bộ nào trong nước giàu tinh thần hơn Homebrew. Từ hàng ngũ của nó sẽ xuất hiện rất nhiều nhân vật tiên phong công nghiệp mở đường vào Silicon Valley và khai phá một ngành công nghiệp hàng tỷ đô-la.
Tháng 6/1975, đoàn lữ hành MITS tới Bờ Tây để dự Hội nghị Máy tính Quốc gia. Một trong
những điểm dừng chân là Hyatt House của Rickey ở Palo Alto. Lúc bấy giờ, một số thành viên của Homebrew đã đặt mua máy Altair. Khi nhà lưu động MITS đến, khoảng 200 người đã chen chúc vào phòng Edwards của Hyatt để xem Altair. Họ phát hiện ra chiếc máy Altair có những tính năng không có trên các máy họ đã đặt. Nó được nối với máy teletype và máy đọc băng giấy và chạy phiên bản BASIC 4K của Gates và Allen. Vào thời điểm này, chưa có ai ở Homebrew đặt mua Altair mà nhận được một bản BASIC cả, mặc dù họ đã gửi tiền cho MITS để mua chương trình. Theo một người kể, có ai đó ở Homebrew đã nhặt được băng giấy đục lỗ chứa BASIC nằm trên sàn nhà gần máy Altair. Một người khác sau đó đã sao ra nhiều bản và trong cuộc họp mặt lần sau của Homebrew, một chiếc hộp lớn đựng băng giấy được chuyền đi cho những ai muốn lấy. Dần dần, theo cấp số mũ, BASIC lan truyền từ câu lạc bộ máy tính này sang câu lạc bộ máy tính khác. Và chẳng ai trả tiền cả.
Khi Gates biết chuyện, anh không kiềm chế được. Thảo nào anh và Allen chỉ nhận được chút ít tiền từ bản thỏa thuận bản quyền với MITS, anh nghĩ bụng. Một hôm, anh đã xộc vào văn phòng Roberts và dứ nắm đấm mà nhiều người ở MITS đã quen nhìn. “Tôi còn nhớ như in cuộc nói chuyện ấy”, Roberts kể, “anh ta vào văn phòng tôi và la hét khản cổ rằng mọi người đang đánh cắp phần mềm của anh ta, và anh ta chẳng kiếm được đồng nào, và anh ta chẳng làm gì nữa nếu chúng tôi không trả tiền lương cho anh ta.”
Roberts đã đưa Gates vào danh sách lương của công ty gần một năm và trả cho anh ta 10 đô-la một giờ. Tuy nhiên, về sau Gates tuyên bố anh chưa hề làm việc cho MITS. Xét kỹ ra, anh ta nói đúng. Theo David Bunnell, tiền lương mà Gates nhận được cho thời gian anh làm việc để cải tiến BASIC thực chất là khoản ứng trước tiền bản quyền. Anh ta chẳng hề nằm trong danh sách nhân viên của MITS.
Cuối cùng, Gates đã biết rằng BASIC bán không chạy lắm vì quá nhiều người đã kiếm được bản sao mà không mất tiền mua. Có lúc, bực bội và mất tinh thần, Gates đã đề nghị bán cho Roberts tất cả bản quyền BASIC với giá khoảng 6.500 đô-la. Suýt nữa đây là vụ mua bán dại dột nhất thế kỷ. “Rõ ràng, suýt nữa Bill đã đi đến một quyết định tồi tệ, bởi vì nếu quyết định được thực hiện ngày nay sẽ chẳng có Microsoft nữa”, Eddie Curry nói. Nhưng Roberts đã quyết định từ chối lời đề nghị của Gates. Về sau Roberts đã tâm sự với Curry rằng anh thích cả Gates và Allen và không muốn lợi dụng họ vì họ còn quá trẻ. Thật ra, Roberts thấy rằng tốt hơn nên tiếp tục trả tiền bản quyền cho cả hai và có được những cải tiến mà họ đang thực hiện với BASIC. Nếu Allen từ bỏ chức giám đốc phần mềm, một điều mà hầu như chắc chắn anh sẽ làm nếu anh và Gates không còn quan tâm đến lợi ích tài chính của BASIC, thì chẳng còn ai lo việc nâng cấp vô cùng cần thiết cho ngôn ngữ ấy. “Nhìn lại sự việc”, Curry nói, “mọi chuyện đã diễn ra theo một
chiều hướng mà ngày nay tôi không nghĩ rằng Ed hài lòng, nhưng bấy giờ quyết định đúng đắn ấy được dựa trên những gì mọi người đều biết.”
Gates đã quyết định biện pháp tốt nhất mà anh có thể làm để ngăn chặn mọi người đánh cắp phần mềm là công kích công khai những kẻ đánh cắp. Anh yêu cầu Bunnell đăng một lá thư trên bản tin Altair, Tin tức Máy tính. Với nhan đề “Lá thư ngỏ gửi những người hâm mộ”, Gates đã nhấn mạnh rằng điều hạn chế quan trọng nhất đối với dân chơi là sự thiếu thốn phần mềm tốt.
“Gần một năm trước, Paul Allen và tôi, hy vọng thị trường giới hâm mộ phát triển, đã tuyển mộ Monte Davidoff và hình thành Altair BASIC. Mặc dù công việc ban đầu chỉ mất hai tháng, cả ba chúng tôi đã dành gần trọn năm ngoái để soạn tài liệu, cải tiến và bổ sung các tính năng cho BASIC. Giờ đây chúng tôi đã có BASIC dạng 4K, 8K, mở rộng, ROM và DISK. Giá trị giờ máy chúng tôi đã sử dụng vượt trên 40.000 đô-la.”
Gates nêu rằng mặc dù những người hâm mộ phản hồi tích cực, anh vẫn nhận thấy hai điểm:
1. Hầu hết những “người sử dụng” này không hề mua BASIC (chưa đến 10% tất cả những người sở hữu Altair mua BASIC).
2. Số tiền bản quyền chúng tôi nhận được từ việc bán cho những người hâm mộ khiến cho giờ công dành cho Altair BASIC trị giá chưa đến 2 đô-la một giờ.
Thế rồi anh lên án những người hâm mộ đã đánh cắp chương trình phần mềm. “Điều này có tốt không? Khi đánh cắp phần mềm các bạn sẽ không thể tìm đến MITS mỗi khi gặp trục trặc. MITS không kiếm được tiền qua việc bán phần mềm. Tiền bản quyền trả cho chúng tôi, tài liệu, băng từ và chi phí khiến đây là một công việc kinh doanh. Các bạn đã góp phần gây trở ngại việc viết ra những phần mềm tốt. Ai lại chấp nhận làm công việc chuyên môn không công? Vấn đề là, không có ai ngoài chúng tôi đã đầu tư rất nhiều tiền cho phần mềm… thế mà lại không có mấy động lực khiến phần mềm này đến được với những người hâm mộ.”
Anh tiếp tục nói thêm rằng những người bán lại phần mềm BASIC “làm ô danh giới hâm mộ và cần phải tống ra khỏi những cuộc họp mặt câu lạc bộ khi họ xuất hiện.”
“Tôi rất hân hạnh được nhận những lá thư từ bất cứ ai muốn thanh toán tiền, hoặc có một đề nghị hay nhận xét… Tôi không thích gì hơn là có thể tuyển dụng mười lập trình viên để tung ra thị trường nhiều phần mềm tốt.” Lá thư được đăng vào ngày 3/2/1976. Bunnell không chỉ in lá thư chỉ trích trên bản tin Altair mà còn cho đăng trên hầu hết các ẩn phẩm lớn trong ngành, trong đó có bản tin của Câu lạc bộ Máy tính Homebrew.
Lá thư của Gates đã gây tác động thật sự. Hội máy tính Nam California mà đoàn lưu động MITS đã đến thăm vào đầu năm 1975 và hiện đang có hàng nghìn hội viên, đã đe doạ kiện anh ta. “Họ bất bình về việc Gates đã gọi họ là kẻ cắp”, Bunnell kể. “Không phải tất cả họ là kẻ cắp… mà chỉ đa số thôi.” Chỉ một ít người đang làm chủ những bản BASIC đánh cắp gửi tiền đến cho Gates như anh đã yêu cầu họ trong lá thư. Một số giận dữ viết thư đáp lại. Họ nói làm sao phân biệt được giữa việc thực hiện các bản sao BASIC và thu âm nhạc sống thay vì mua nhạc đã thu của nhạc sĩ? Một số khác tranh luận bằng quan điểm chủ nghĩa vị tha rằng BASIC thuộc về đại chúng, một quan điểm có lý phần nào vì Gates và Allen đã từng sáng tạo BASIC bằng máy PDP 10 tại Harvard, một máy tính được tài trợ của Cơ quan Nghiên cứu Các dự án Quốc phòng Cao cấp. Nói cách khác, những người này cãi lại rằng giờ máy mà họ sử dụng đã được trang trải bằng tiền của những người nộp thuế.
Bất chấp những lý lẽ biện minh mà giới hâm mộ đưa ra để biện luận cho việc họ không trả tiền mua BASIC, có một điều chính đáng: MITS phần nào có lỗi trong việc đưa ra một chính sách giá cả khiến tất cả những người sở hữu Altair, ngoại trừ những người đã được bảo đảm, đều cố gắng tránh trả tiền mua BASIC. Chẳng ai muốn mua những mạch nhớ mà MITS đưa ra. Nhưng ai cũng muốn có BASIC. Thế nên ngay từ đầu công ty đã quyết định tính giá riêng BASIC là 500 đô-la, cao hơn giá của Altair khoảng 100 đô-la. Nhưng chỉ cần 150 đô-la, khách hàng có thể có cả mạch nhớ và BASIC. Dĩ nhiên, người ta nhanh miệng đồn rằng hầu hết các mạch nhớ đều không hoạt động được và MITS biết điều này, đó là lý do công ty đã nâng giá BASIC vượt quá tầm tay của người hâm mộ. MITS đã ép buộc khách hàng muốn có BASIC phải mua thêm những mạch điện tồi.
Gates không ngưng chiến dịch chống nạn đánh cắp bằng thư của mình. Vào cuối tháng Ba, anh lên tiếng về vấn đề đánh cắp tại Hội nghị Máy tính Altair Thế giới tại Albuquerque trong bài diễn văn nghề nghiệp đầu tiên của mình. Hội nghị này, hội nghị đầu tiên của máy vi tính, là ý tưởng của Roberts và Bunnell. Cho đến lúc ấy, MITS có doanh số hàng năm vượt trên một triệu đô-la và Roberts muốn ra mắt công ty bằng một hội nghị quy tụ các nhân vật chủ chốt trong ngành. Bunnell đã tổ chức và cổ động hội nghị, diễn ra vào 26-28/3/1976, tại một khách sạn gần phi trường Albuquerque. Hàng trăm người đã đến dự, trong đó có một vài đối thủ không mời mà đến đã phá rối bữa tiệc. Một trong các đối thủ này là Processor Technology, một công ty phần cứng mới ra đời chuyên sản xuất các mạch nhớ 4K có thể dùng với Altair. Công ty này muốn mở một quầy trưng bày ở hội nghị nhưng Roberts, người ngày càng bị ám ảnh bởi các đối thủ, đã từ chối yêu cầu của họ. Các mạch nhớ của Processor Technology không ngừng hoạt động tốt mà còn bán rất chạy, chạy hơn nhiều so với những mạch có lỗi do MITS thiết kế. Lý do
duy nhất mà khách hàng mua mạch của MITS là để có một phiên bản BASIC với giá 150 đô-la trọn bộ.
Khi Roberts nói với Bob Marsh, người sáng lập Processor Technology, anh ta không thể dựng gian hàng trưng bày tại một hội nghị Altair do MITS bảo trợ được, Marsh đã thuê dãy nhà phụ của khách sạn và treo những bảng hiệu viết tay hướng dẫn những người dự hội nghị tìm đến gian hàng của anh. Về sau, Roberts đã đăng bài đả kích của mình trên bản tin của Altair, gọi Processor Technology và các công ty khác dám sản xuất mạch nhớ cho máy tính của anh là “đồ ký sinh.” Rốt cuộc, anh ta chỉ càng làm tổn hại cho chính mình trong ngành.
Hội nghị ba ngày này, trong đó có một chuyến thăm quan MITS, thiên về một hội nghị hơn là một cuộc trưng bày. Chẳng có phần cứng nào được triển lãm, ngoại trừ gian nhà phụ. Hầu hết các hội thảo đều diễn ra trong một căn phòng lớn của khách sạn. Những người tham dự lắng nghe các cuộc thuyết trình và bàn luận về máy tính. Khi Gates phát biểu, anh lại lên tiếng tấn công những người hâm mộ mà anh cho rằng đã “đánh thó” phần mềm của anh. Lúc bấy giờ, Gates khá vô danh trong ngành. Người ta biết anh là tác giả của bức thư gay gắt trên tờ Tin tức Máy tính nhiều hơn là tác giả BASIC. Giờ đây đã hai mươi tuổi đời, trông anh cứ như mười bốn. Đầu óc bù xù không chải, cặp kính quá khổ dày cộm càng làm cho anh có vẻ trẻ con. Giọng nói cao của anh cũng làm tăng nét trẻ. Nhưng Gates có khả năng gây lòng tin. Lời nói của anh vang lên với bề dày của một người lớn tuổi và khôn ngoan hơn. Sau cuộc thuyết trình, mọi người vây quanh anh để đặt câu hỏi. Mặc dù tỏ ra ngang tàng và ngạo mạn với nhiều người, Gates vẫn có những người ủng hộ. “Tôi rất cảm thông với thái độ của anh ta”, lời kể của Winkless, biên tập viên tạp chí Personal Computing. “Làm sao lấy lại được những gì đã đầu tư?”
Roberts sau đó đã nhờ Eddie Curry nói chuyện với Gates và thuyết phục anh ta viết một lá thư thứ hai nhằm khôi phục phần nào những tổn hại về quan hệ với công chúng. Roberts đã nổi cơn thịnh nộ với Gates về lá thư thứ nhất vì nó đã được viết bằng giấy của MITS. “Cứ như thể chúng tôi đang lên án tất cả khách hàng về tội gian lận… tôi rất bất bình”, Roberts cho biết.
Gates nhìn nhận anh đã phạm sai lầm khi sử dụng mẫu giấy viết thư của MITS và anh đồng ý làm việc với Curry về một lá thư thứ hai phù hợp hơn. “Về sau mới thấy lên án mọi người là những kẻ ăn cắp chẳng được gì cả”, Curry nói. “Mọi chuyện chỉ có hại cho Bill. Anh ta không thấy mình đã làm một chuyện tồi tệ, nhưng rồi khi bình tâm anh ta hiểu mình đã làm một chuyện vô cùng thiếu khôn ngoan.”
Lá thư sau của Gates, nhan đề “Lá thư thứ hai và cuối cùng”, đăng trên bản tin Altair tháng Tư.
“Kể từ lúc gửi lá thư gửi những người hâm mộ vào ngày 3/2, tôi đã nhận được nhiều hồi âm và có một dịp nói chuyện trực tiếp với những người hâm mộ, biên tập viên và các nhân viên của MITS tại Hội nghị Máy tính Altair Thế giới của MITS, tổ chức ngày 26-28/3”, Gates viết. “Tôi ngạc nhiên về sự quan tâm rộng rãi đến lá thư và tôi hy vọng điều đó có nghĩa là mọi người đang quan tâm nghiêm túc đến vấn đề tương lai của sự phát triển và phân phối phần mềm đến tay những người hâm mộ…”
Gates viết tiếp: “Tiếc thay, một số ý kiến tranh luận do bức thư của tôi dấy lên lại tập trung vào cá nhân tôi và vô lý hơn nữa là vào MITS. Tôi không phải là nhân viên của MITS và có lẽ mọi người ở MITS cũng nhất trí như vậy, nhưng tôi cho rằng tất cả mọi người đều vui khi thấy vấn đề tôi nêu ra đã được quan tâm. Tôi nhận được ba lá thư phản đối việc tôi nêu rằng một tỷ lệ lớn những người hâm mộ máy tính đã đánh cắp phần mềm làm của riêng. Ý đồ của tôi là đề cập đến việc một số đáng kể các bản sao BASIC hiện được sử dụng đã không được mua hợp pháp chứ không định buộc tội tất cả những người hâm mộ máy tính. Ngược lại, tôi thấy phần đông mọi người đều là những người sáng suốt và trung thực, đã cùng chia sẻ mối quan tâm của tôi đối với tương lai của sự phát triển phần mềm… có lẽ vấn đề hiện nay là do nhiều người chưa nhận thức được rằng Microsoft hay bất cứ ai khác cũng không thể phát triển phần mềm công phu mà không được bù đắp thỏa đáng về khoản đầu tư thời gian khổng lồ cần thiết.”
Gates kết thúc bằng cách nói rằng anh xem vấn đề nạn đánh cắp đã kết thúc. Anh tiên đoán rằng BASIC sẽ trở thành nền tảng cho sự phát triển của các chương trình ứng dụng lý thú mới mẻ dành cho máy vi tính.
BASIC mà Gates và Allen đã viết trong 8 tuần lễ tại Harvard một năm trước đó hiện đã tràn lan khắp cả nước, phần lớn là nhờ chính những hành vi công kích gay gắt của Gates. BASIC đã trở thành một tiêu chuẩn không chính thức trong ngành máy tính non trẻ. Khi các công ty máy tính mới gia nhập vào cuộc cách mạng và cần ngôn ngữ BASIC, họ đến Albuquerque và làm việc với Gates và Microsoft. Và khi đi họ đem theo đầy túi tiền.
* * *
Một phần nguyên nhân khiến Microsoft thành công trong giai đoạn sơ khai là nhóm lập trình viên mà Gates và Allen đã quy tụ. Người ta gọi là Microkid – những chàng trai Microsoft – những kẻ có chỉ số thông minh cao và hay bị mất ngủ, muốn dự phần nào vào cuộc hành trình của máy tính cá nhân, những bạn trẻ có một niềm say mê máy tính giúp họ phát huy tối đa năng lực và sức mạnh.