🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bill Gates - Con Đường Đến Tương Lai - Jonathan Gatlin Ebooks Nhóm Zalo “- Năm 18 tuổi, tôi đã bắt đầu cảm nhận và thấy được viễn cảnh của tương lai và tôi quyết định hướng công việc của mình theo hướng đó. Sự thay đổi của tôi đến hôm nay đã được chứng minh là đúng.” - BILL GATES LỜI GIỚI THIỆU " T hế giới sẽ khác đi chăng nếu chỉ một vài người không được sinh ra?”. Câu trả lời với chúng ta có lẽ là không. Vâng! Chính người viết và các bạn sẽ có lúc nghi ngờ về tính đúng đắn của câu nói táo bạo trên cho đến khi đọc xong cuốn sách này và hiểu hết về Bill Gates – một con người đặc biệt tài năng, đồng sáng lập Microsoft, một người đã tạo nên một gia sản cá nhân đáng kinh ngạc trên 100 tỷ Dollar trong một thời gian ngắn bằng chính tài năng của mình, người đã gây dựng nên tên tuổi chính mình như một hiện tượng kinh doanh thời đại chưa từng có và là thần tượng của nhiều lớp thanh niên thế giới thời công nghệ thông tin hiện nay. “- Anh ấy là Thomas Edison và Henry Ford kết hợp lại – nhưng có lẽ William Henry Gates III thông minh và thành công hơn hai bậc tiền bối ấy. Anh ấy là một người tài năng giàu nhất nước M , và trong sáng tạo kinh doanh, anh ấy là người mưu lược và thành công hơn bất kì ai. Chỉ trong một thời gian không lâu – con người đó đã làm thay đổi cách sống và cách làm việc của chúng ta.” – J.GATLIN. “- Tại sao tôi lại thích làm việc nhiều hơn là nghĩ ngơi? Câu trả lời thật đơn giản: Tôi đang làm những gì tôi thích mang đầy tính thử thách, và tôi nghĩ là tôi đang có một công việc tốt nhất thế giới. Không có chỗ nào trong cuộc sống của tôi gần với sự nghỉ ngơi cả.” - BILL GATES Quyển sách mới này sẽ giúp chúng ta khám phá nhân vật có tầm nhìn xa trông rộng tuyệt vời này đồng thời hiểu rõ hơn quá trình phát triển đầy uy lực của Microsoft, tập đoàn thành công và mạnh nhất thế giới. Những tính cách và phẩm chất cá nhân nào đã khiến Bill Gates trở thành một người bản lĩnh và thành công đến như vậy? Làm sao con người này có thể gây dựng nên một cơ nghiệp hùng mạnh và một nền công nghiệp quan trọng từ những điều hết sức giản dị? Và Microsoft đã tìm kiếm lựa chọn những gì – từ con người, cách điều hành, tư duy đến sản phẩm – để được tiếng tăm vang dội như vậy? Chiến lược của Microsoft để đối phó với những đối thủ cạnh tranh lớn như Netscape, Apple, IBM...cũng như các đối tác như thế nào? Quyển sách này có tất cả: từ thời niên thiếu của Gates, trường đại học, những bước đi ban đầu, cách tổ chức làm việc tại tổng hành dinh Microsoft ở Redmont, Washington đến các mối quan hệ của Gates với phụ nữ và những doanh nhân khác, chẳng hạn như người bạn tỷ phú cùng thời Warren Buffett và diễn biến vụ đối đầu có một không hai mới đây nhất giữa Bill Gates – Microsoft và Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ...Qua các trang sách này, các bạn sẽ nhận biết chân dung hấp dẫn, một tính cách rất độc đáo và một tài năng hiếm có của một công dân Mỹ độc nhất vô nhị vào buổi bình minh của thế kỷ 21 – người mà sự nghiệp và ảnh hưởng của mình đối với thế giới chúng ta chỉ mới bắt đầu. First News – Nhà xuất bản Trẻ “Một điều hết sức rõ ràng: chúng ta không có quyền lựa chọn để lẩn tránh tương lai...Trong quá trình lâu dài, không một ai có thể ngăn cản được những thay đổi mang tính phát triển; bởi vì, trên chốn thương trường, sự thay đổi này được sẵn lòng đón nhận mà không chút ưu tư.” The Road Ahead Chương 1 NGÀY TRỌNG ĐẠI “Trong ngành công nghiệp điện toán không thiếu sự cạnh tranh. Chẳng có ai ở vị trí thống trị được lâu vì họ phải thường xuyên tự khẳng định mình. Bạn không thể an nhiên tự tại một chỗ trong thị trường. Việc bạn đang giữ 70 hay 80 phần trăm thị phần sẽ không mang một ý nghĩa gì trong hiệp đấu kế tiếp.” Bill Gates, 1993 “Rất gần đây thôi, tôi đã đi đến kết luận rằng sự thành công lạ kỳ của Internet là một dấu hiệu cho thấy sẽ có một sự thay đổi cấu trúc triệt để trong các ngành công nghiệp điện toán và truyền thông. Từ lâu tôi vẫn luôn mong chờ các mạng máy tính đạt được tầm quan trọng trong lịch sử nhưng chỉ trong vài tháng gần đây tôi lại muốn Internet trở thành dòng chủ lưu. Sự thay đổi môi trường này buộc chúng ta phải đánh giá lại mọi kế hoạch – ngắn hạn cũng như dài hạn. Ví dụ như một trong những điều ưu tiên hàng đầu của chúng tôi hiện nay là làm sao cho Windows hỗ trợ được Internet.” Bill Gates (7/1995), một tháng trước khi phát hành Windows 95 Ngày 24 tháng 8 năm 1995 T heo bản tin dự báo thời tiết thì ngày hôm nay ở Redmond, Washington, gần Seattle, trời sẽ không mưa. Mà cho dù trời có mưa người ta cũng đã dựng dự phòng một cái lều khổng lồ để che chắn cho buổi lễ được bắt đầu lúc 11 giờ đúng như dự kiến. Mưa là một đe dọa thường xuyên đối với người dân vùng Seattle nhưng chắc chắn sẽ không làm ảnh hưởng đến hơn 2.500 thượng khách có mặt trong buổi lễ. Họ là những phóng viên từ khắp nơi trên thế giới, những giám đốc điều hành và các chuyên gia kỹ thuật bậc thầy từ hàng chục công ty máy tính hàng đầu về phần cứng và phần mềm, những chính trị gia lừng danh. Người ta còn nhìn thấy Jay Leno – người dẫn chương trình The Tonight Show đang bận rộn với những thiết bị của mình. Trong số các vị khách này có hàng trăm triệu phú và một số hiếm hoi – như chủ nhân của buổi tiệc – là tỉ phú. Chủ nhân của buổi lễ - William Henry Gates III – đã tổ chức buổi họp mặt này để giới thiệu sản phẩm phần mềm mới nhất và quan trọng nhất của công ty Microsoft. Năm 1975, khi mới 19 tuổi, Gates đã cùng với người bạn thiếu thời của mình là Paul Allen lập nên công ty Microsoft. Năm 1984, Allen rời công ty vì chứng bệnh Hodgkin nhưng vẫn nằm trong Hội Ðồng Quản Trị, vẫn là bạn thân của Gates và đã là một tỉ phú. Lẽ dĩ nhiên Allen không thể vắng mặt trong một ngày trọng đại như thế này – ngày mà công ty Microsoft giới thiệu phần mềm Windows 95, phần mềm hệ điều hành nâng cấp có tính cách mạng nhất của Microsoft dành cho máy tính cá nhân. Người tiền nhiệm của nó, Windows 3.1, ra đời năm 1991, đã được cài đặt cho 75 triệu máy tính trên toàn thế giới. Công ty Microsoft tin rằng người dùng cần một phiên bản mới, cải tiến hơn, với 15 triệu dòng mã và vô số những tính năng mới, bao gồm việc truy cập vào dịch vụ Internet của Microsoft vừa lập ra. Hơn thế nữa, người tin rằng Windows 95 sẽ đủ sức kích thích hằng triệu người đang bị lóa mắt bởi khả năng phong phú của Internet sẽ bỏ tiền ra mua chiếc máy tính đầu tiên trong đời họ. Microsoft tiên đoán rằng họ sẽ bán 30 triệu bản Windows 95 trong năm đầu tiên. Trong khi điều này sẽ khiến cho các đối thủ cạnh tranh của họ phải điên lên vì ganh tị và giận dữ (nhiều người cho rằng Windows 95, cũng như Windows 3.1, đều là những sản phẩm còn nhiều khiếm khuyết về mặt kỹ thuật), đó cũng là lý do tại sao có thêm 14 chiếc lều nhỏ được dựng lên trong khuôn viên bát ngát của Microsoft trong ngày hôm đó. Trong những căn lều này, các công ty sản xuất máy tính và phần mềm sẽ giới thiệu với giới truyền thông được mời đến những sản phẩm của họ đã được chế tác phù hợp với Windows 95. Trong một văn phòng làm việc ngày nay Với tốc độ phát triển nhanh như vũ bão của ngành công nghệ thông tin, sự ra đời của Windows 95 đã được người sử dụng nồng nhiệt đón nhận. Vì tiên đoán trước sẽ bán được 30 triệu bản Windows 95 nên Microsoft không từ một cơ hội nào để giới thiệu sản phẩm mới. Các chiến dịch quảng cáo giật gân đã được rầm rộ tiến hành trong nhiều tuần lễ. Ðích thân Bill Gates xuất hiện trong hơn 20 chương trình phỏng vấn trên TV. Ðể chào đón ngày ra mắt Windows 95, Gates đã phối hợp với Rupert Murdoch, một người bạn và đồng thời là chủ nhân của tờ London Times, để tặng không số báo ra trước ngày lễ chính thức ở Redmond, với một dòng tít quảng cáo “Windows 95! Office 95! Quá xuất sắc ngay cả báo Times cũng phải biếu không.” Và ở New York, tòa nhà Empire State được thắp sáng với ba màu đỏ, vàng, xanh – màu Ở biểu tượng của công ty Microsoft. Ở Úc, Microsoft tặng 500 đôla tiền mặt cho 95 trẻ sơ sinh chào đời sớm nhất vào ngày 24 tháng 8. Ðương nhiên một chiến dịch quảng cáo như thế này phải có một ca khúc chủ đề phù hợp để ngân vang trên khắp thế giới. Bill Gates muốn có bài hát “Start Me Up” của ban nhạc Rolling Stones, nhưng ban nhạc rock huyền thoại này chưa từng cho phép ai sử dụng bất kỳ một bài hát nào của họ vào mục đích quảng cáo. Thế mà lần này Microsoft đã làm ban nhạc Stones phá lệ với một cái giá khổng lồ, ước tính lên đến 12 triệu đôla. Nhưng xét cho cùng, con số này chưa bằng khoảng tiền lẻ trong tổng ngân sách chi cho quảng cáo là 250 triệu đôla. “Các công ty sản xuất phần cứng và phần mềm cố gắng tạo ra những sản phẩm hấp dẫn để thu hút giới tiêu thụ cho dù những người này đã sở hữu những sản phẩm tương tự nhưng cũ hơn. Ðiều này làm cho việc nâng cấp sản phẩm có được một lực thôi thúc mạnh mẽ để đổi mới sản phẩm. Ví dụ như tại Microsoft, chúng tôi biết rằng phải làm cho Windows 95 trở nên tốt hơn so với Windows 3.1, nếu không, sẽ chẳng có người nào nâng cấp phần mềm của mình cả. Chúng tôi nhận ra rằng đối thủ sừng sỏ nhất của chúng tôi là các phiên bản trước của cùng một sản phẩm.” Bill Gates, 1995 Bill Gates trong buổi lễ giới thiệu Windows 95 ở Seattle Windows 95 sẽ được đưa ra bán chính thức vào lúc 12 giờ 01 phút sáng ngày 24 tháng 8, tính theo từng múi giờ. Các cửa hàng máy tính tại những thành phố lớn trên khắp thế giới mở cửa vào nửa đêm nhằm đáp ứng nguyện vọng của các khách hàng không muốn chờ đến lúc mặt trời mọc mới có thể cầm trong tay kỳ quan mới nhất của thế giới máy tính. Theo lời James Wallace, tác giả quyển Nỗ Lực Vượt Bậc (Overdrive), thì bản đầu tiên của Windows 95 được bán cho một sinh viên ngành quản trị kinh doanh tại Auckland, một thành phố nhỏ ở New Zealand. Hãng tin quốc tế Reuters tường thuật lại lời một phụ nữ ở Illinois,“ ối với dân máy tính, đây là một ngày hội của họ.” Ở New York, chỉ riêng một cửa hàng của Comp USA đã có 900 người xếp hàng chờ đợi giây phút “thiêng liêng” đó. Buổi lễ ở Redmond cũng là một thành công lớn. Hoạt náo viên truyền hình Jay Leno, người đã có mặt trong lễ đính hôn của Gates và Melinda năm 1993, cũng có mặt để giúp vui cho ngày lễ hôm nay với một khoản tiền hậu hĩnh. Mọi người yêu thích khả năng trào lộng của Leno và Gates cũng vậy. Anh có thể trị giá 20 tỉ đôla (và Windows 95 sẽ làm tăng con số này lên gấp đôi trong vòng hai năm) nhưng dường như Gates luôn luôn là một người có óc hài hước. Không mấy người biết rằng đằng sau vẻ mặt tươi cười đó là một Bill Gates hết sức mệt mỏi. Theo lời một số bạn bè thân thích của Gates kể lại thì hôm đó anh gần như kiệt sức. Mấy tuần sau đó, Gates đưa vợ con cùng một số bạn hữu, kể cả gia đình người bạn tỉ phú Warren Buffett, đi nghỉ 2 tuần ở Trung Hoa. Anh muốn được bỏ quên sau lưng mọi công việc, được nghỉ ngơi và vui sống bên cạnh người thân, bạn bè. Thậm chí những khách du lịch này còn mải mê đánh bài khi xe lửa chở họ chạy ngang qua khung cảnh ngoạn mục của Vạn Lý Trường Thành. Gates có đủ lý do cho sự mệt mỏi của mình, cho dù có nổi tiếng là người đam mê công việc khó ai bì, những năm tháng đó người ta thường xuyên thấy anh ngủ ngay dưới gầm bàn làm việc. Windows 95 lẽ ra phải được xuất xưởng từ hai năm trước, nhưng do một số trục trặc kỹ thuật, cùng với sự đăng quang của Internet – một ngã rẽ trên đường mà suýt nữa Gates bỏ qua – nên việc phát hành sản phẩm này đã hai lần trì hoãn. Ngoài ra, trong vòng năm năm vừa rồi, Gates còn phải đối phó với sự giám sát cực kỳ chặt chẽ của chính quyền liên bang về vấn đề chống độc quyền. Nhưng cuối cùng ngày trọng đại cũng đã đến. Xa khỏi những căn lều đang nhô trên nền cỏ xanh ngọc bích của khuôn viên Microsoft, một vòng đu quay đã được dựng lên, điểm thêm nét cầu kỳ cho không khí lễ hội. Có người cho rằng Gates phô trương quá nhiều điều để ăn mừng. Theo như thông cáo mà Microsoft gửi cho báo chí, trước lúc phát hành Windows 95, danh số bán của Windows 3.1 và các phần mềm kèm theo đã đạt đến mức cứ mỗi 1,5 giây đồng hồ lại có thêm một ai đó, ở một nơi nào trên thế giới mua một sản phẩm của Windows. Chương 2 MỘT THẾ GIỚI MỚI VẪY GỌI “Một điều có vẻ như mỉa mai bản thân tôi không có bằng đại học nhưng Microsoft lại gần như chỉ muốn thuê những người có bằng đại học. [Bởi vì] Chúng tôi tin rằng sự trưởng thành và tri thức mà trường đại học trao cho chúng ta là vô giá. Chúng tôi đã thấy rằng những người theo học khoa văn đang đưa vào trong công việc những tri thức rộng lớn hơn về thế giới.” “Tôi đã từng nói và sẽ vẫn nói rằng, “Hãy vào đại học!” Bill Gates, 1996 “Ngày nay, các công cụ truyền thông đa phương tiện, cũng như sách giáo khoa trước kia, không thể thay thế thầy cô giáo hay cha mẹ và cũng không thể làm cho việc đọc sách ngày càng trở nên kém quan trọng đi. Nhưng hình ảnh và âm thanh sẽ hỗ trợ rất nhiều trong việc giáo dục. Tôi luôn là một người lạc quan. Tôi tin rằng trẻ con lớn lên trong điều kiện được tiếp cận với các nguồn tài nguyên này sẽ còn giữ được tính tò mò khao khát hiểu biết kể cả khi đã lớn. Thỉnh thoảng tôi nhận được thư của trẻ em nói rằng chúng muốn giống như tôi khi lớn lên. Nhưng khi tôi nhìn những gì có thể sắp xảy ra trong vài năm tới tôi lại ước gì mình là một cậu bé đang trưởng thành.” Bill Gates 1995 K hông giống những nhà tư bản khổng lồ như Vua Thép Andrew Carnegie hay các nhà phát minh vĩ đại như Thomas Edison thuở trước vốn xuất thân từ nơi bần hàn, Bill Gates, chào đời năm 1956, trong một gia đình thượng trung lưu. Cha của Gates, ông William Henry Gates, là một luật sư rất thành công, và mẹ của Gates, bà Mary, là con gái một chủ ngân hàng, có chân trong hội đồng quản trị của nhiều học viện, tổ chức từ thiện và ngân hàng. Gia đình Gates sống trong một ngôi nhà rộng lớn, đầy đủ tiện nghi ở tiểu bang Seattle, trông ra hồ Washington. Ba anh em nhà Gates là Kristi, lớn hơn Bill một tuổi và Libby, nhỏ hơn Bill chín tuổi, được cha mẹ chu cấp đầy đủ mọi thứ. Bill Gates rất hãnh diện về cách nuôi dạy con cái của cha mẹ mình và anh mong sẽ theo gương cha mẹ trong việc áp dụng tinh thần cởi mở cũng như kỷ luật khi nuôi dạy những đứa con của anh. Nhưng bản thân Gates không phải là đứa trẻ ngoan ngoãn, dễ dạy. Người ta nói rằng khi vào lớp 6, cậu bé Bill nổi tiếng là một đứa trẻ ương ngạnh, đặc biệt là đối với mẹ, đến nỗi phải có giáo viên tham vấn riêng. Gates kể rằng anh rất thích việc kèm cặp này một phần là do giáo viên tham vấn đã đưa cho Gates đọc những quyển sách về tâm lý có nội dung vượt quá tầm hiểu biết của một học sinh 12 tuổi. Khi được đối xử như người lớn, rõ ràng tính khí của Bill có phần dịu đi, nhưng đến cuối năm học, theo báo Time, chuyên gia tâm lý này thẳng thừng tuyên bố với mẹ của Gates rằng chuyện lèo lái được Gates chẳng khác gì chuyện đội đá vá trời vì tính hiếu thắng quá mức của cậu bé. Ðồng thời người này cũng nói rằng chính mẹ của Gates phải tự lo uốn nắn con mình. Thực tế thì ở cả hai phía, mẹ và con, đều có những sự nhượng bộ lẫn nhau, vì khi Gates lớn lên, anh càng trở nên gần gũi với mẹ mình nhiều hơn. Vào cấp II, Gates học trường Lakeside, một trường tư thục tại Seattle. Theo lời cha của Gates thì Gates là một học sinh “bé nhỏ và nhút nhát”, mặt khác ông cũng cảm thấy rằng chỉ trường tư mới có thể là nới thích hợp hơn trong việc đáp ứng nhu cầu trí tuệ rất năng động của Gates. Chính tại trường Lakeside, Gates đã gặp Paul Allen, người mà chỉ 7 năm sau cùng với Gates lập ra công ty Microsoft. Khi quen nhau, Gates 12 tuổi còn Allen lớn hơn 2 tuổi, Gates cũng thừa nhận rằng ở tuổi thiếu niên, chênh lệch hơn hai tuổi mà kết bạn với nhau thì cũng là chuyện lạ. Tuy nhiên cả hai có những sở thích giống nhau, đặc biệt các chàng trai đều mê mẩn với cái máy tính trạm (computer terminal) mà Câu lạc Bộ Các Bà Mẹ Học Sinh đã mua cho trường. Câu Lạc Bộ này cũng quyên tiền để mua giờ truy cập máy chủ cho học sinh. Chiếc máy tính này thậm chí không có cả màn hình, học sinh phải chờ kết quả làm việc của mình được in ra bằng một cái máy in rệu rạo, kêu lách kách đến inh cả tai. Cha và mẹ của Bill Gates Và Gates đã viết chương trình đầu tiên trên chính cái máy này năm 13 tuổi. Ðó là một trò chơi carô trên máy tính mà thật ra dùng giấy bút chơi thì sẽ nhanh hơn nhiều, nhưng chỉ vậy thôi các cậu nhỏ cũng đã lấy làm sướng mê khi cảm thấy có “sức mạnh” sai khiến được một cái máy làm theo lệnh của mình. Gates, Allen và cậu bé khác – Kent Evans, bạn thân nhất của Gates – lập ra Nhóm Những Nhà Lập Trình trường Lakeside. Cái tên nghe có vẻ người lớn này đã giúp bọn trẻ kiếm được một việc làm thực sự vào những lúc rãnh: viết chương trình tính lương cho một công ty nhỏ ở Seattle. Chúng đã học cách trở thành những nhà kinh doanh ngay từ khi còn rất trẻ nhưng rồi nhanh chóng phải đương đầu với một thảm kịch của người lớn: Kent Evans chết trong một tai nạn leo núi. Gates nói, “Cả hai tuần liền tôi không làm nổi một việc gì.” Gates bên cạnh thiết bị đầu cuối Teletype rệu rạo của trường Lakeside, là chiếc máy cậu học trò Gates đã viết các chương trình đầu tiên của mình vào năm lớp 8 Sau cái chết của Kent, Gates và Allen càng thân nhau hơn. Cả hai tìm thấy niềm vui thú trong một số lần hợp tác với nhau. Trong số đó là lần viết chương trình trò chơi Risk – mặc dầu những người chỉ trích Gates thường lấy làm khoái trá khi hay viện dẫn mục đích của trò chơi này để kết luận rằng Gates đã có ý muốn thống trị thế giới từ khi còn nhỏ. Nhưng hai cậu bé chỉ đang trong quá trình học tập – và họ học rất nhanh – rồi liền đó đem áp dụng những kinh nghiệm tích lũy được vào công việc thảo chương trình cho các công ty trong vùng. Những chuyện “bạo gan” này đã lần hồi giúp Gates cảm thấy tự tin hơn và ngày càng biểu hiện nhiều phong thái đĩnh đạc trong cách giao tiếp của mình, một điều chắc hẳn đã làm hài lòng mẹ của Gates vì bà là người rất coi trọng phẩm chất đó. Gates rất thích nhắc lại lần được giao vai diễn chính trong vở hài kịch của trường mình dựa trên tác phẩm Black Comedy của Peter Shaffer. Vai này trước kia vốn đã từng được Tom Courtenay – một diễn viên nổi tiếng trong bộ phim Nỗi Cô ơn Của Kẻ ộc Hành – thủ diễn tại Hội Diễn Văn Nghệ Chichester ở Anh. Trong một bài báo, Gates làm dập tắt hoàn toàn ý kiến cho rằng mình có một “trí nhớ cực kỳ chính xác” nhưng lại nói rằng mình còn nhớ đầy đủ từng lời trong vở Black Comedy sau 25 năm. Gates giải thích là vì quá lo rằng sẽ quên trong khi đang diễn nên đã “khắc ghi mọi lời thoại” vào trong óc mình. Có một công việc Gates và Paul Allen đã làm mà ngày nay những tay hacker trẻ đều mơ đến. Một công ty nọ đồng ý mua máy với điều kiện là tiền sẽ được trao chỉ khi máy tính hoàn toàn không có một sai sót nào. Gates nhớ lại, “Công ty này đã tiết kiệm vô khối tiền bằng cách cho tiền chúng tôi để tìm cách vô hiệu hóa hệ thống của họ - một điều mà tất cả các lập trình viên trẻ tuổi đều thích.” Tuy nhiên, Gates cũng cảnh cáo rằng ngày nay những việc làm như thế là phạm pháp. Bill và Allen cùng một học sinh khác đã thực hiện một việc làm thêm khác trong kỳ nghỉ hè và cả bọn được trả một số tiền mà Gates coi là “khổng lồ” – 5.000 đôla – mặc dù một phần số tiền này được quy đổi thành giờ sử dụng máy tính thay vì tiền mặt. Sau đó Gates còn nhận viết chương trình xếp thời khóa biểu cho trường mình và bằng cách “thêm vài dòng lệnh” Gates khám phá thấy mình gần như là con trai duy nhất trong một lớp toàn là con gái. Phần nào, có thể chính cái kiểu “nổi trội” này đã khiến cho một số bạn đồng môn nhớ về anh không mấy thiện cảm... “Kể từ sau cái thời 13 tuổi thích nghiên cứu các phần mềm siêu nhỏ, tôi đã làm rất nhiều việc. Tôi đã trở thành một người viết phần mềm giỏi nhưng tôi vẫn thường nhờ những bậc thầy khác xem xét lại và chỉ bảo thêm cho tôi biết chỗ nào có thể sửa cho tốt hơn và làm cách nào để viết khác đi. Tôi đã nâng lên một đẳng cấp mới. Khi Microsoft ra đời có rất nhiều bạn bè thân thiết thách thức nhau, “Các anh có thể hoàn thiện bộ mã này không? Các anh có thể làm cho nó tốt hơn không?” Ðó là thời kỳ của những con người tuyệt vời, yêu thích sự tinh xảo, thuộc về một thế giới hoàn toàn khác hẳn.” Bill Gates,“Trong Công Ty Của Những Người Khổng Lồ”, tác giả Rama Dev Jager và Rafael Ortiz, 1997 Cả Gates và Allen đều xác nhận giống hệt nhau rằng bước đầu hợp tác kinh doanh thật sự của họ diễn ra vào mùa hè năm 1972. Trong tạp chí Electronics, ở những trang gần cuối, Paul Allen đọc được một bài báo nói về bộ xử lý 8008 của Intel. Ðây là vi mạch điện tử (chip) thứ hai của Intel, mạnh gấp hai lần vi mạch đầu tiên công ty này sản xuất vào năm trước đó. Ngay lập tức Allen nhận ra một điều rằng những vi mạch này sẽ ngày càng mạnh hơn. Quả thực là vào năm 1965 người đồng sáng lập ra hãng Intel là Gordon Moore đã tiên đoán rằng mỗi năm những vi mạch sẽ tăng sức chứa lên gấp đôi. Lời tiên đoán này trở thành sự thật và đến cuối những năm 1970, các kỹ sư đã bắt đầu nói đến định luật Moore, khi mà sức mạnh của bộ vi xử lý tăng theo cấp số nhân trong khi thời gian chỉ tăng theo cấp số cộng. Băng giấy này – chứa chương trình do Bill Gates, Paul Allen và Monte Davidoff viết bằng ngôn ngữ BASIC – là bước đi khởi đầu của công ty Microsoft “BASIC trở thành ngôn ngữ máy tính phổ biến nhất và dễ có nhất không phải vì nó được cung cấp miễn phí. Sức mạnh của BASIC – sự đơn giản trong việc dùng biên dịch, khả năng xử lý chuỗi hiệu quả, sự phong phú của ngôn ngữ này, các từ khóa và cú pháp tương tự như tiếng Anh thường sử dụng, và sự thoái mái cho phép các nhà lập trình thử nghiệm – tất cả góp phấn làm cho người mới học lập trình muốn khám phá những sự phức tạp của máy tính.” Bill Gates, nhân k niệm 25 năm ngôn ngữ BASIC, 1989 Mùa hè năm 1972, Gates và Allen đặt mua một bộ vi xử lý 8008 với giá 360 đôla. Trước đó, Gates đã nghĩ đến việc tạo ra một dạng ngôn ngữ lập trình theo kiểu BASIC (Beginner’s Allpurpose Symbolic Instruction Code) để chạy con chip này, nhưng rồi Gates nhận thấy nó không đủ mạnh vì vi mạch này vẫn chưa chứa đủ số bản dẫn (transistor) cần thiết. Nhưng họ đã có thể dùng nó để chạy chương trình phân tích lưu lượng xe cộ do họ viết ra, và mơ tưởng sẽ bán được các máy tính ứng dụng cho mục đích này. Ðể thực hiện điều đó, họ thành lập công ty đầu tiên lấy tên là Traf-O-Data. Paul Allen nhận xét rằng công ty “không thành công lắm”. Những máy tính mẫu của họ dẫu hoạt động rất tốt nhưng không hấp dẫn được khách hàng. Trên thực tế, việc các nhà thiết kế là những “chú nhóc” có lẽ đã không mấy gây ấn tượng nơi người mua. Dẫu sao cả hai cũng có được một số ít khách hàng quan tâm đến chính chương trình này, nhưng điều quan trọng nhất ở Traf-O-Data là học hỏi được nhiều kinh nghiệm kinh doanh thực tiễn. Trong thời gian này, Allen đã hoàn tất trung học ở Lakeside và sắp vào đại học Washington. Gates thực hiện phần công việc lập trình cho Traf-O-Data trong khi đang đáp xe buýt đi ngao du khắp tiểu bang để bàn bạc với các bạn bè và đối tác kinh doanh. Ðến năm Gates xong trung học (1973), Allen cũng chán học đại học và có ý định cùng Gates lập một công ty mới – một công ty với mục tiêu lớn hơn Traf-O-Data. Nhưng cha mẹ của Gates thì kiên quyết muốn Gates phải theo học ở trường đại học Harvard. Theo lời Gates, anh đã luôn được điểm cao nhất từ năm học lớp 9 khi anh bắt đầu tâm niệm là “mình phải được toàn điểm A mà không cần về nhà học bài”. Khi Gates lọt vào trong số 10 học sinh đứng đầu cả nước trong kỳ thi năng khiếu về toán thì giai đoạn hiếu thắng của Gates cũng chấm dứt. Người ta đã thêu dệt nhiều chuyện về những việc “phạm quy” mà chàng sinh viên Gates làm ở Harvard ví dụ như đi nghe giảng ở những lớp anh không ghi danh học và, ngược lại, trốn học ở những lớp ghi danh của mình. Nhưng thực ra những hành vi kiểu này ở Harvard không hề bị xem là khác thường. Ở trường đại học này, các sinh viên sẽ được tham dự trong những lớp học tổ chức theo kiểu hội thảo nhỏ trong đó chú trọng đến phần thảo luận của sinh viên, nhưng mặt khác điểm số mới là yếu tố quyết định chứ không phải là việc sinh viên đến lớp hay không hoặc học hành theo cách khác. Gates thừa nhận rằng thói quen chờ “Nước đến chân mới nhảy” – nấn ná cho đến gần kỳ thi rồi mới học cật lực – mà Gates áp dụng ở Harvard không phải là một tiền lệ tốt cho lĩnh vực kinh doanh. Altair 8800 là một máy điện toán nhỏ được công ty Micro Instrumentation Telemetry Systems (MITS) (New Mexico) giới thiệu vào năm 1975. Máy tính Altair được thiết kế dựa trên bộ vi xử lý 8 bit: Intel 8080, kích thước bộ nhớ RAM là 256 byte, nhận dữ liệu nhập (input) thông qua một hàng nút tắt/mở từ một bảng đặt ở phía trước và hiển thị thông tin kết quả (output) bằng một dãy đèn LED. Máy được bán chủ yếu theo nguyên bộ. Mặc dù có tuổi thọ ngắn nhưng Altair đã được xem như là chiếc máy điện toán “cá nhân”thành công đầu tiên của nhân loại. Máy Altair trở nên nổi tiếng sau khi được đăng tin ngay trang bìa của tạp chí Popular Electronics, ấn bản tháng 1/1975. Không ai có thể ngờ mức độ hồi đáp mạnh mẽ từ thông tin này: MITS chỉ mong là bán được 200 chiếc (con số đủ để hòa vốn) nhưng thay vào đó lại nhận được hàng ngàn đơn đặt hàng chỉ riêng trong năm đầu tiên. Với giá bán lẻ là 397 USD, Altair được coi là còn rẻ tuy nhiên người dùng phái mất nhiều thao tác chỉ để khởi động và chạy nó. Bất chấp việc được tiếp thị như là một bộ máy tính hoàn chỉnh, Altair đòi hỏi người sử dụng phải tương đối thành thạo về k thuật thì mới mong biến nó thành chiếc máy hữu ích. Một khi đã được cấu trúc đầy đủ. Máy tính Altair vận hành và làm sáng các bóng đèn gắn ở bảng điều khiển phía trước cùng lúc với chương trình mà người dùng phải nhập vào máy bằng cách thao tác các nút tắt/mở cũng nằm trên bản này. Tính cách tân đáng kể nhất của máy điện toán Altair là có các khe (slot) được chừa sẵn bên trong máy, cho phép người dùng gắn thêm các bo mạch điện tử do các hãng khác sản xuất. Kết quả là đa số các công ty chế tạo bộ vi xử lý đầu tiên có thể bắt tay vào việc sản xuất các bo mạch mới hoặc tốt hơn cho máy tính Altair. “Cấu trúc mở” này dẫn đến một k nguyên mới trong việc phát triển máy vi tính. Mùa thu năm 1974, khi Gates học năm thứ hai, Paul Allen lái chiếc xe Chrysler cũ mèm lặn lội đến công ty Honeywell gần Boston nhận một công việc lập trình. Ðiều đó có nghĩa là Allen và Gates có thể cùng đàm đạo ngày đêm cho vấn đề cả hai cùng tâm huyết là tương lai của máy tính và ngôi thứ mà giờ đây cả hai chắc chắn sẽ đạt được trong cái thế giới đặc thù này. Nhưng việc thư từ qua lại cũng không mang đến cho họ điều gì mới mẻ lắm. Cho đến một hôm, trước khi Gates về nhà nghỉ lễ Giáng Sinh, tình cờ họ đọc được tờ báo Popular Electronics số tháng 1 năm 1975. Hai người bạn chăm chú đọc tờ báo khi đang đứng trong cái lạnh ghê người tại một sạp báo ở Quảng Trường Harvard. Dòng tít lớn ngay trên trang bìa đập vào mắt họ,“Một Dự Án ột Phá! Máy Vi Tính ầu Tiên Của Thế Giới Dành Cho Các Mô Hình Thương Mại Cạnh Tranh...! “Altair 8800”. Tiết kiệm hơn 1000 đôla.” Altair là tên của một vì sao xa xôi trong dải Ngân Hà bỗng dưng được hàng triệu người biết đến chỉ vì nó đã được con tàu Enterprise trong bộ phim khoa học viễn tưởng Star Trek viếng thăm. Hai chàng thanh niên thấy rằng Altair chẳng khác gì một món đồ chơi nho nhỏ, với các công tắc tắt mở và những bóng đèn chớp tắt. Ðây không phải là một phát minh tầm cỡ vì nó không có bàn phím, cũng không có màn hình hiển thị và không có phần mềm nào để chạy. Nhưng họ sửng sốt khi phát hiện trong Altair có con chip 8800 mới do Intel tung ra vào mùa xuân trước, mạnh gấp 10 lần con chip 8008 mà họ đã dùng cho chương trình Traf -O- Data. Một nỗi buồn xâm chiếm tâm tư của cả hai khi thấy rằng tương lai họ đang ước mơ lại xảy ra mà không cần đến họ, rằng rốt cuộc cũng đã có người viết được những chương trình chính hiệu cho vi mạch này, biến Altair 8800 trở thành một cái gì đó hơn là một món đồ chơi bình thường. Còn hiện thời trong tay họ không hề có lấy một máy vi tính Altair cũng chẳng có nỗi con chip 8800. Trong tự truyện Con Ðường Phía Trước, Gates kể rằng Paul Allen “nghiên cứu tài liệu hướng dẫn sử dụng chip 8800 và viết một chương trình để một máy tính Altair nhỏ bé. iều này giống như dùng một dàn nhạc khổng lồ để chơi một bản nhạc hát bè đôi đơn giản. Tuy nhiên Allen đã làm được.” Sau đó hai người đã bỏ ra năm tuần lễ làm việc cật lực, gần như quên ăn quên ngủ, để viết một chương trình bằng ngôn ngữ BASIC cho máy vi tính Altair. Kế đó họ tìm cách thuyết phục MITS, công ty sản xuất Altair, để bán chương trình này. MITS là một công ty rất nhỏ, tọa lạc tại một khu vực “khỉ ho cò gáy” ở Albuquerque thuộc tiểu bang New Mexico. Nhưng Gates và Allen không quan tâm: họ đã đặt chân được vào những gì mà họ tin rằng sẽ là tương lai của nền công nghệ điện toán. MITS mời Allen làm việc cho họ và dành cho hai chàng trai một chỗ trong văn phòng của công ty đặt tại một thương xá. Allen từ bỏ công việc ở Honeywell; và Gates nghỉ học ở Harvard. Gates đã bàn bạc thấu đáo với cha mẹ mình về quyết định này. Nhận thấy rõ năng lực và quyết tâm thành lập công ty riêng của Gates, cha mẹ anh chiều theo ý nguyện của con trai. Nhưng xem ra, cho mãi về sau Gates thấy rằng việc bỏ học ở Harvard của anh vẫn thường xuyên được đem ra thảo luận. Ðề tài này được nêu ra trong các cuộc phỏng vấn dành cho anh và trong nhiều lá thư từ các chuyên gia điện toán trẻ gởi về cho cột báo do anh phụ trách để chất vấn về việc bỏ học này. Gates luôn khẳng định rằng anh hài lòng với ngôi trường Harvard, và cảnh báo cho những người nào tự cho mình đủ thông minh để bỏ học chỉ vì sự thành công của anh. Gates nhấn mạnh rằng mình nghỉ học phần lớn là nhìn thấy thời vận của mình đang tới – một thời kỳ hoàn toàn mới sắp mở ra và Gates tin rằng mình có thể giữ một vai trò quan trọng trong thời kỳ đó. Gates quá khiêm tốn, hay quá khôn khéo, để không bộc bạch rằng mình có một thiên tài mà không ai cũng có được. Nói rộng ra hơn, Gates cố gắng chứng tỏ cho thấy mình có khá nhiều điều thuận lợi và đã được giáo dục tương đối kỹ lưỡng về khoa xã hội nhân văn. Paul Allen, đồng sáng lập công ty Microsoft Kể từ khi cùng với Bill Gates sáng lập công ty Microsoft vào năm 1975, Paul G. Allen đã luôn là người đi đầu trong việc mở ra những hướng mới cho ngành công nghiệp máy vi tính. Ông giữ chức vụ Phó Chủ Tịch điều hành phụ trách nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới cho Microsoft mãi tới năm 1983. Ngày nay, ông vẫn là một cổ đông chính và có chân trong ban giám đốc của Microsoft. Paul Allen sở hữu và đầu tư vào một loạt các công ty khám phá tiềm năng trong ngành truyền thông đa phương tiện k thuật số. Chiến lược kinh doanh của Allen là tìm cách khuyến khích việc liên lạc và điều phối các hoạt động giữa các công ty của ông để có được những lợi ích hỗ tương. Các công ty do ông sở hữu toàn phần gồm Asymetrix Corporation, Starwave Corporation, Vulcan Ventures Inc, và the Paul Allen Group of Bellevue, Washington; Internet Research Corp, thuộc Palo Alto, California và Ticketmaster Corporation ở Los Angeles, California. Ông cũng là chủ nhân của đội bóng chày Portland Trail Blazers, là người nắm giữ trọng trách đối với Seattle Seahawks NFL, là thành viên đối tác của phim trường Dreamworks SKG và là người đang đầu tư vào hơn 25 công ty k thuật khác trên khắp nước M. Ngoài ra, Allen còn phụ trách bốn qu từ thiện mang tên ông, Allen Charitable Foundations, và là người sáng lập tổ chức Experience Music Project (nguyên là Bảo tàng Jimi Hendrix) ở Seattle. Cả Gates và Allen đều có một số vốn nhỏ khi họ khởi đầu sự nghiệp. Allen dành dụm được một số tiền kha khá trong thời gian làm việc cho Honeywell. Về phần Gates. Về phần Gates, ngoài số tiền kiếm được bằng việc lập trình trong các mùa hè qua, đã kiếm chác được bộn tiền nhờ đánh bài poker ở Harvard – một điều mà Gates dừng như rất tự hào với một vẻ gần như trẻ con. Lẽ dĩ nhiên, lúc đó, nói gì thì nói Gates vẫn chưa trưởng thành gì mấy – anh mới 19 tuổi – còn Allen chỉ lớn hơn Gates hai tuổi. Theo Gates, ở các quốc gia khác, trong cả hai môi trường kinh doanh và công luận, những thanh niên tuổi đời còn rất trẻ không được đón tiếp và động viên nhiều như ở Hoa Kỳ, do đó Gates tự cho rằng mình may mắn đã sinh ra ở Hoa Kỳ vào đúng thời đại, mình thích hợp cho tài năng của anh. Cho đến giờ không ai biết đích xác cái tên Microsoft là ai khai sinh. Với Gates thì anh nói rằng chính mình là người nghĩ ra cái tên đó, nhưng với Allen, thậm chí khi trả lời phỏng vấn chung với Gates, thỉnh thoảng đã gieo cho người nghe ấn tượng rằng anh mới là người nắm quyền quyết định tối hậu trong việc đặt tên cho công ty. Dẫu sao lúc đầu công ty mang một cái tên hơi khác một chút: MicroSoft. Gates thuật lại với tạp chí Fortune rằng trong phần nêu tên tuổi những người đóng góp công trạng trong bộ mã nguồn của sản phẩm đầu tiên chi là “MicroSoft BASIC: Bill Gates viết phần lớn chương trình, Paul Allen viết một số phần còn lại.” Họ cũng đã dự tính đặt tên là công ty Allen và Gates nhưng kinh nghiệm của IBM và một số công ty khác đã cho họ thấy rằng một cái tên chung chung sẽ có lợi về sau, ít nhất là trong ngành máy vi tính. Họ cho rằng cái tên Allen và Gates nghe giống như một công ty tư vấn pháp luật nhiều hơn. Mãi đến năm 1981 họ mới thống nhất tên gọi Microsoft. Thông tin về công ty Traf-O-Data in trên đầu các trang thư hiếm hoi còn sót lại. “Những công ty sản xuất phần mềm bắt buộc phải đánh bài liều trong một thị trường vẫn còn mù mờ vì gần như không thể nào yêu cầu các khách hàng tiên đoán dùm xem họ có muốn mua một sản phẩm mới mà họ chưa từng biết đến hay không. Những công ty phần mềm thành công điều không thể được vượt qua điều không thể được. Chúng tôi không còn cách nào khác là phải tiêu hết số tiền chúng tôi có thể tạo ra một sản phẩm trước khi mang bán với hy vọng rằng người ta sẽ mua sản phẩm đó.” Bill Gates, 1997 ở Albuquerque họ tiếp tục sống như những sinh viên thực thụ, thi thoảng cũng có đi xem phim, nhưng hầu hết thời gian là làm việc và thường kéo dài đến khuya. Gates không chỉ ngủ dưới gầm bàn mà có khi còn ngủ gật trong các buổi họp. Allen thì đi về nhừ trọ của cả hai để ngủ nhưng thường bị dựng dậy giữa đem vì những cú điện thoại của Gates. Cả hai đều thừa nhận rằng họ đã học hỏi kinh nghiệm kinh doanh khi làm việc chung với nhau. Tất cả mọi quyết định đều được cả hai nhất trí, thường là phải sau nhiều giờ tranh luận, nhưng Allen luôn là người đưa ra ý tưởng sản phẩm mới trong khi Gates lo việc kinh doanh. Trong những ngày này cả hai đều tham gia viết chương trình nhưng gần như mọi trường hợp Allen là người đảm nhận phần viết còn Gates lại bộc lộ một năng khiếu đặc biệt trong việc xử lý các trục trặc. Lâu nay báo chí vẫn kể rằng quan hệ giữa Gates và Allen đã có lúc suýt tan vỡ. Ðiều này xảy ra ngay vào những ngày đầu hợp tác. Lúc ấy cả hai còn đang học tại trường Lakeside, Allen có lần nhận được hợp đồng viết một chương trình và anh định làm một mình. Nhưng rốt cuộc, Allen thấy rằng mình cần phải có mã nguồn của Gates. Báo Times kể rằng Gates đã trả lời, “ ược, tôi tham gia. Nhưng tôi phải chịu trách nhiệm chính và tôi sẽ phải quen với vai trò lãnh đạo. Từ nay đừng mời tôi làm việc nếu không để tôi lãnh đạo.” Mặc dù sau đó họ còn đụng độ với nhau nhiều trận nẩy lửa nữa nhưng cả hai đều nói rằng thời kỳ ở Albuquerque hầu như không có cãi vã. Có lẽ một phần là do họ quá phấn khởi hoặc do quá bận rộn nên không rảnh hơi để gấu ó với nhau. Không phải một sớm một chiều họ mới nhận ra rằng lâu nay với giá bỏ thầu thật rẻ - đang được họ áp dụng nhằm bảo đảm ký được hợp đồng viết chương trình với các công ty như Texas Instruments – là có thể thoải mái tăng lên mà không chút âu lo. Hóa ra là hấu hết các công ty đều sẵn lòng bỏ ra số tiền cao hơn nhiều so với những gì họ đòi. Có lần họ đã bỏ thầu một công việc ở Texas Instrument với giá 99.000 đôla chỉ vì họ không có gan để nâng lên tới giá sáu con số. Nhưng họ nhanh chóng vượt qua sự ngại ngùng đó vì họ biết một điều rằng các đối thủ cạnh tranh không thể nào làm việc đó tốt hơn hay nhanh hơn họ được. Thế nhưng, cùng lúc họ cũng khám phá ra là họ nhận hợp đồng thực hiện những sản phẩm mà ngay lúc đó họ vẫn chưa có kinh nghiệm nào, mặt khác còn phải cố gắng chứng tỏ mình thực sự giỏi hơn so với các đối thủ khác. Ðã có lần công ty Ricoh của Nhật phải cử riêng một nhân viên đến văn phòng của họ, chỉ với việc duy nhất là ngồi ngay đó để bảo đảm rằng hai chàng trai không được làm bất kỳ việc nào khác và phải tập trung giải quyết xong công việc đã quá hạn của Ricoh. Do dám nhận lời viết những chương trình mà họ chưa suy nghĩ cặn kẽ về nó nên hai chàng trai không những phải vận dụng tối đa khả năng trí tuệ của mình mà còn xem đó như là sự thách thức của bản thân để chứng tỏ cả hai luôn vượt trội hơn các đối thủ cạnh tranh của họ trên nhiều phương diện. Ngày nay, chúng ta thường nghe thấy nhiều lời chỉ trích về nền công nghiệp điện toán nói chung, và về công ty Microsoft nói riêng, cho rằng bản chất cạnh tranh gay gắt trong ngành công nghiệp này đã dẫn đến một thói quan hứa hão và huênh hoang về những tính năng mới mà thực sự không có gì nổi bật. Microsoft là công ty thường xuyên bị kết tội là loan truyền về những tính năng mới mà họ chưa hề để mắt đến chỉ với mục đích là hù dọa các đối thủ cạnh tranh. Một số đối thủ của Microsoft vẫn thường mỉa mai, “Thấy không, từ hồi còn ở Albuquerque họ đã làm thế rồi.” Nhưng Microsoft nói rằng ngày nay họ không còn như vậy nữa, đồng thời Gates và Allen cũng vạch ra cho thấy trong thuở ban đầu đó, nền công nghiệp phần mềm quá sơ khai đến mức chẳng có gì lạ lùng khi người ta phải hỏi một nhà sản xuất phần cứng là họ cần gì và rồi đồng ý cung cấp, dù đó chỉ là những ý tưởng hết sức sơ sài, khái quát về cách hoàn thành các yêu cầu. Các nhà sản xuất phần mềm lúc ấy đang đứng trước miền đất lập trình còn rất hoang sơ, và việc khai phá miền đất này thường có nghĩa là phải gật đầu chấp thuận một số điều kiện trong khi đường đi nước bước dẫn qua khu rừng rậm này vẫn chưa được khai thông. Ðiều cần thiết là họ phải tìm đủ mọi cách “chui chủi để tìm ra được một con đường thông suốt cho mình. Trong khi việc phát triển các phần mềm mới chắc chắn không tránh khỏi những khủng hoảng thì giai đoạn đáng sợ nhất trong những trang sử đầu tiên của Microsoft hóa ra là những vấn đề thuộc về lĩnh vực kinh doanh. Hợp đồng đầu tiên mà họ ký với MITS có điều khoản yêu cầu công ty này bán chương trình Gates/Allen BASIC cho khách hàng của họ và Microsoft không được bán trực tiếp cho người dùng. Ðiều này thoạt đầu nghe có vẻ khôn ngoan vì nó giúp Microsoft bớt đi công sức bán hàng. Nhưng bản hợp đồng chỉ ghi là yêu cầu MITS phải “hết sức cố gắng” để bán được sản phẩm, và thực tế là chỉ một thời gian ngắn sau đó họ gần như bỏ mặc và không hề có một chút cố gắng nào trong việc bán hàng cả. Hậu quả là phần mềm Gates/Allen BASIC bị “đạo chích” thoải mái và hầu như ai ai cũng có thể sao chép được một cách vô tội vạ. Hai bên đưa nhau đến trọng tài kinh tế để yêu cầu MITS phải tôn trọng hợp đồng. Nhưng việc phân xử này kéo dài đến 9 tháng, và trong khi chờ quyết định cuối cùng. MITS ngưng trả tiền cho Microsoft. Gates và Allen nói thẳng rằng MITS muốn họ phải “chết đói”. Vì không có tiền, thậm chí là tiền để thuê luật sư, Microsoft suýt chút nữa phải chấp nhận hòa giải, nhưng lòng kiên trì của họ cuối cùng đã được đền bù khi trọng tài ra phán quyết hoàn toàn nghiêng về phía họ. Nếu như thua trong vụ phân xử này thì họ chẳng còn con đường nào khác ngoài việc phải bắt đầu lại từ đầu. Cả hai đều cho rằng thời kỳ đó thật đáng sợ, nhưng cuối cùng thì nó cũng dạy cho họ một bài học kinh doanh quí giá là phải làm chủ lấy chính vận mệnh của mình. Từ đó về sau trong mọi hợp đồng kinh doanh họ đều đưa vào những điều khoản bảo đảm an toàn cho họ. Người ta thường kết tội Microsoft là quá cứng rắn đến mức độ tàn nhẫn, nhưng Gates và Allen đã học được một bài học cay đắng là phải “cứng rắn để tồn tại”. Kazuhiko (Kay) Nishi nguyên là chủ tịch công ty phần mềm ASCII (Nhật). Trở thành Phó Chủ Tịch khu vực Viễn ông của Microsoft vào cuối thập niên 70 và đến cuối thập niên 80 là Giám ốc kiêm PCT phụ trách các công nghệ mới Thời gian này, nhiều công ty khác cũng bắt đầu tham gia vào thị trường máy tính cá nhân, kể cả Commodore và Radio Shack, nhưng chỉ có Apple II là thật sự cất cánh. Ðến cuối năm 1978, MITS, một công ty nhỏ bé với tài năng và tầm nhìn hạn hẹp, đã bị bỏ rơi lại phía sau. Cũng trong năm 1978, Gates hợp tác với một doanh nhân dám nghĩ dám làm người Nhật tên là Kazuhiko Nishi, hay còn gọi là Kay. Kay tiếp xúc với Microsoft và ngay lập tức anh ta cùng với Gates, cả hai cùng tuổi với nhau, trở thành một cặp bài trùng. Trong quyển Con ường Phía Trước, Gates mô tả Kay là một người “khoa trương”. Gates không có cá tính này nhưng rõ ràng anh rất thích tính cách này nơi đồng nghiệp mới. Qua sự trung gian của Kay, gần một nửa công việc kinh doanh của Microsoft được hợp đồng với các công ty Nhật. MITS lúc này đang lu mờ dần nên không còn lý do gì để họ nấn ná ở Albuquerque cả. Vào ngày đầu tiên của năm 1979, Gates và Allen chuyển công ty về quê nhà Seattle, tại một vùng ngoại ô có tên Belvue. Lúc đó họ có khoảng 12 nhân viên và hầu hết đều chấp nhận theo về Seattle. Công ty Microsoft năm 1978. Ở hàng cuối cùng, bên phải là Paul Allen và bên trái là Bill Gates. Steve Ballmer Tổng Giám ốc (CEO) Công ty Microsoft từ tháng 1/2000 Steve Ballmer gia nhập Microsoft Corporation vào năm 1980 và đã nắm giữ nhiều trọng trách trong công ty này. Trong đó bao gồm chức vụ phó chủ tịch phụ trách phần mềm hệ thống với trách nhiệm chỉ đạo việc phát triển, tiếp thị và thử nghiệm phần mềm hệ thống. Khi còn giữ vai trò Phó Chủ Tịch điều hành phụ trách công việc mua bán và hỗ trợ, Steve Ballmer là người chịu trách nhiệm thúc đẩy mọi mọi hoạt động liên quan đến doanh số, hỗ trợ và tiếp thị của công ty Microsoft. Chính ông là người đã tạo dựng ra mô hình mới, có tính qui mô, về dịch vụ khách hàng trong thập niên 90, xây dựng và duy trì các mối giao tiếp lâu bền với khách hàng. Ballmer theo học ở ại học Harvard và sau khi lấy được bằng về toán ứng dụng và kinh tế học, ông về làm trợ lý giám đốc sản xuất cho hãng Procter and Gamble. Sau đó ông ghi danh học thêm ở trường Thương Mại Stanford. Ballmer có chân trong Ban Giám Sát của H Harvard và Hội ồng Cố Vấn của trường Stanford Business School. Ông dùng thì giờ rảnh rỗi của mình để tập thể dục, chạy bộ và chơi bóng chày. Nằm thu mình ở Seattle, công ty nhanh chóng lớn mạnh. Ðầu năm 1980, công ty có 35 nhân viên. Lúc này Gates và Allen biết rằng cần phải có thêm người cho bộ phận quản trị. Ðồng thời hai người không đủ sức kiểm tra tất cả các bộ mã được viết ra nữa. Gates quyết định tìm đến người bạn cũ trong hai năm theo học ở Harvard là Steve Ballmer. Vào năm học thứ hai, Gates và Steve sống cùng một dãy phòng với nhau ở ký túc xá và học chung một lớp dạy môn toán và kinh tế học. Ballmer có lần đã kể với báo Time là Gates thường “chơi bài poker tận 6 giờ sáng, sau đó tôi gặp anh ta tại bữa điểm tâm và chúng tôi bắt đầu thảo luận về toán ứng dụng.” Cũng như nhiều người khác, Ballmer cho rằng Gates là người thông minh nhất mà anh từng gặp. Nhưng lúc đầu anh ta còn phân vân, không biết có nên về làm cho Microsoft không. Sau khi tốt nghiệp Harvard, Ballmer về làm giám đốc phụ trách phát triển sản phẩm cho Procter & Gamble, sau đó đăng ký học kinh doanh ở đại học Stanford, California. Khi Gates tìm đến thì Ballmer chỉ vừa học được một năm và cho rằng tốt hơn nên học cho đến khi lấy xong bằng. Gates nhờ mẹ mình, một người rất giỏi thuyết phục, đến nói chuyện với Ballmer, đồng thời Gates lôi kéo Ballmer bằng cách để anh được quyền tham gia sở hữu Microsoft. Ðến năm 1995, Ballmer có 5% cổ phần, trị giá 2,7 tỉ đôla và kể từ đó, giá trị cổ phần của ông ta về thực chất đã tăng lên rất nhiều lần. “Nếu bạn cho rằng mình là một lập trình viên giỏi, hoặc nếu bạn muốn thử thách kiến thức của mình thì hãy tìm đọc quyển Nghệ Thuật Lập Trình Máy Tính của Donald Knuth. Hãy sẵn sàng giải quyết các vấn đề trong đó. Bản thân tôi đã không ngờ là phải tự đặt ra khuôn phép và phải mất nhiều tháng để đọc cuốn này. Tôi đọc mỗi lần khoảng 20 trang rồi gấp sách lại cất đi. Khoảng một tuần sau mới giở ra và đọc tiếp 20 trang nữa. Nếu bạn có thể đọc được hết thì tôi sẽ nhận bạn vào làm cho Microsoft.” Bill Gates, 1995 Cả Gates và những người quan sát trung lập khác đều thừa nhận rằng Ballmer đóng vai trò quan trọng trong thành công của công ty, Ballmer càng sát cánh hơn với Gates, làm rễ phụ trong đám cưới của Gates ngày 1 tháng 1 năm 1994. Nhưng thời gian đầu, sau khi Ballmer đến Microsoft, quan hệ của cả hai đã không được xuôi chèo mát mái cho lắm. Chỉ sau ba tuần làm việc để làm quen với cơ chế hoạt động của Microsoft, Ballmer khẳng định rằng công ty ngay lập tức cần phải tuyển thêm 17 người đồng thời phải chuẩn bị tuyển thêm 50 người khác trong một thời gian ngắn sau đó. Gates hết sức kinh hoàng. Anh chỉ muốn công ty mình “thanh mảnh và thèm ăn”. Vì đã chứng kiến nhiều công ty khác phá sản nhanh chóng nên Gates muốn Microsoft phải dự trữ một lượng tiền mặt khá lớn, có thể đủ sức chống chỏi trong vòng một năm cho dù không thu về được đồng nào trong suốt thời gian đó. Ballmer rất kiên quyết trong vấn đề tuyển thêm người. Ngoài ra, Ballmer còn tỏ ra vô cùng tức giận khi thấy khả năng phán đoán của mình bị nghi ngờ - ngay sau khi được mời tham gia để có thể đưa ra những kiểu quyết định như vậy – đến mức anh dọn ra khỏi căn nhà mà anh và Gates đang thuê chung với nhau. Ðến nước này, bố của Gates phải nhảy vào để dàn xếp mọi việc. Gates dịu đi và chấp nhận việc tuyển thêm người. Ðây là một quyết định hết sức đúng đắn vì chẳng bao lâu sau, công ty đã phải tuyển thêm nhiều, và thật nhiều người mới nữa. “Bạn không thể chỉ chăm chú nhìn vào tình trạng thị trường của ngày hôm nay và hôm qua. Bạn còn phải nhìn xem nơi mà tình trạng này có lẽ sẽ hướng đến và bạn phải xét thêm nơi có thể đến đó dưới tác động của một số hoàn cảnh mà nó có thể phải hứng chịu; và rồi lúc đó bạn hãy lèo lái công ty của mình dựa trên những dự đoán tốt nhất bạn có” Business @ the Speed of Thought Chương 3 THẦN HỦY DIỆT XUẤT HIỆN “Hãy chỉ cho chúng tôi một sản phẩm thành công nào của Microsoft mà không là sản phẩm ưu hạng. Chúng tôi không sản xuất những sản phẩm nào như vậy.” Bill Gates, bàn về chất lượng sản phẩm của Microsoft, 1994 “Ngành công nghiệp máy tính và phần mềm đã phát triển vượt bậc trong những năm qua chính là do có ít quy trình về chuẩn mực kỹ thuật. Khi các chuẩn mực do thị trường quy định chúng sẽ không trở nên cứng nhắc. Các đối thủ cạnh tranh được kích thích để phải liên tục đưa ra những cái mới nếu muốn lật đổ các chuẩn mực hiện hành. Hệ thống tuyệt vời đó gọi là nền kinh tế thị trường. Cần phải có nó để khoa học kỹ thuật phát triển.” Bill Gates, bàn về sự cần thiết của thị trường tự do, 1995 Đ ến năm 1980, sự có mặt của máy tính Apple II và các máy tính cá nhân khác trên thị trường đã làm các đại gia trong ngành sản xuất máy tính phải thay đổi quan niệm của họ đối với tương lai của máy tính cá nhân. IBM, kẻ đã thống trị thị trường máy tính cỡ lớn (mainframe), và Digital Equiqment Corporation (DEC), kẻ mới nhất lên trong ngành sản xuất những loại máy tính được coi là “nhỏ hơn”, thích hợp trong nhiều ứng dụng khác nhau, đều không đủ sáng suốt để nhận ra rằng máy tính cá nhân chính là sản phẩm của tương lai. Quả thực, Ken Olsen, người sáng lập DEC (thần tượng thuở thiếu thời của Gates) đã “hạ nhục” vai trò của máy tính cá nhân khi ông ta tuyên bố trong hội nghị năm 1997 bàn về Xã Hội Tương Lai Của Thế Giới là “Không có lý do gì mà mỗi nhà đều phải mua một máy tính cả.” Chỉ vì phán xét sai lầm một cách tệ hại như vậy mà sau này DEC phải dồn mọi nỗ lực của mình mới có thể theo kịp thị trường và điều không tránh khỏi là Olsen phải cuốn gói rời khỏi công ty. IBM cũng chậm chạp trong việc nhìn ra những khả năng của PC, nhưng ít ra điều này cũng có nguyên cớ là do công ty này hiện đang đi đầu trong lĩnh vực sản xuất máy tính lớn (mainframe) trên khắp thế giới. IBM hoài nghi vào tương lai của máy tính cá nhân nhưng cũng không hoàn toàn bình chân như vại. Ðó là lý do tại sao năm 1980 IBM tiếp xúc với Microsoft. IBM có một kế hoạch bí mật phát triển loại máy tính cá nhân và nếu họ muốn nhanh chóng cho xuất xưởng loại máy này thì cần làm là phóng tầm mắt ra ngoài công ty để kiếm đối tác có khả năng phát triển phần mềm điều hành cho loại máy này, hơn là bỏ công sức ra rà soát lại toàn bộ và tìm cách cắt xén phần mềm đồ sộ đang dùng cho máy tính lớn của riêng họ. Bill Gates lúc nào cũng nơm nớp sợ rằng các “đại gia” sẽ tự mình làm lấy công việc này và lúc ấy thì Microsoft chỉ còn nước hít bụi. Trên thực tế, năm 1979, DEC cũng đã thu nhỏ lại chương trình của mình, nhưng chỉ vì Olsen trong bụng không mấy tin tưởng để đặt cược vào máy tính cá nhân nên DEC đã không hỗ trợ cho sản phẩm mới của mình đến mức làm cho Microsoft cảm thấy bị đe dọa. Công ty International Business Machines (IBM) là hãng sản xuất máy tính của M , trụ sở chính đặt tại Armonk, New York. Trên khắp nước M và toàn thế giới, IBM là nhà cung cấp chính yếu các sản phẩm và hệ thống xử lý thông tin, phần mềm, hệ thống truyền thông, máy trạm làm việc, cũng như thực hiện những hỗ trợ và dịch vụ có liên quan. Các sản phẩm của công ty được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực công nghiệp khác nhau như kinh doanh, quản lý nhà nước, khoa học, quốc phòng, giáo dục, y tế và thám hiểm không gian. Louis V. Gerstner Công ty ra đời vào năm 1911 từ sự hợp nhất của ba công ty nhỏ hơn với tên gọi Công ty Ghi nhận-Lập bảng kê-Tính toán (Computing-Tabulating-Recording Company) Sau những hoạt động sở hữu hóa khác, năm 1924 công ty sáp nhập thêm Công ty Máy Kinh doanh Quốc tế (International Business Machines Corporation) và dùng tên này làm tên mới cho công ty. Cũng vào năm đó Thomas Watson tham gia và bắt đầu xây dựng công ty đang hồi suy sụp thành một người khổng lồ công nghiệp. Chẳng bao lâu IBM đã trở thành nhà sản xuất đồng hồ tính thời gian lớn nhất, và đã phát triển và tung ra thị trường chiếc máy đánh chữ điện đầu tiên. Năm 1951 công ty bước chân vào lĩnh vực máy điện toán. Công nghệ của IBM phần lớn phát triển được là nhờ được sự tài trợ từ những hợp đồng với Ủy ban Năng Lượng Nguyên tử của chính phủ M . Người ta nhận thấy rừng có nhiều điểm tương quan giữa những sản phẩm được chế tạo riêng cho chính phủ và những sản phẩm được IBM giới thiệu ra thị trường dân dụng. Vào cuối thập niên 1950 IBM đã trở thành trung tâm của sự chú ý với hai ý tưởng mang tính cách tân. Thứ nhất, đó là khái niệm về một họ máy tính (họ máy 360 của công ty) với chủ đích là một phần mềm tương tự có thể chạy được bất kỳ máy nào có cùng một họ. Ý tưởng thứ hai là công ty thực thi chính sách bảo đảm chắc chắn rằng khách hàng nào cũng vận hành được sản phẩm mang nhãn hiệu IBM. Chính sách này đã giành được sự tín nhiệm to lớn từ phía khách hàng đối với “Big Blue,” một tục danh của IBM. Từ thập niên 1960 đến thập niên 1980, IBM đã thống trị thị trường toàn cầu về máy tính lớn (Mainframe), dù trong thập niên 1980 IBM đã để mất thị phần vào tay một số hãng sản xuất khác trong một số lĩnh vực chuyên biệt như máy tính hiệu suất cao. Khi loại máy tính nhỏ (minicomputer) được giới thiệu trong thập niên 1970, IBM xem đó là một mối đe dọa đối với thị trường máy tính lớn nhưng đã thất bại trong việc đánh giá tiềm năng của chúng nên đã để ngỏ cửa cho các đối thủ cạnh tranh như Digital Equipment Corporation, Hewlett-Packard, và Data General. Tuy nhiên, đến năm 1981, IBM tung ra sản phẩm máy điện toán cá nhân đầu tiên của công ty, IBM PC, và máy này nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn trong lĩnh vực máy vi tính. Nhưng thị phần của công ty bắt đầu sụt giảm sau khi các đối thủ cạnh tranh tung ra loại máy tính tương thích IBM có giá bán rẻ hơn. Đến cuối thập niên 1980, IBM trở thành công ty lớn nhất thế giới trong việc sản xuất đủ mọi chủng loại máy tính và là nhà sản xuất dẫn đầu trong lĩnh vực trang thiết bị văn phòng, bao gồm cả máy đánh chữ và máy photocopy. ây cũng là nhà sản xuất lớn nhất về mạch tích hợp mà tất cả đều sử dụng trong các sản phẩm của riêng công ty. Doanh số bán của máy tính cỡ lớn cùng các phần mềm và các thiết bị ngoại vi có liên quan chiếm gần một nửa giá trị kinh doanh của IBM và khoảng 70 đến 80% lợi nhuận của công ty. Vào thập niên 1990, giữa cơn suy thoái của nền kinh tế M , IBM đã cải tổ sâu rộng trong toàn công ty để trở thành một đơn vị kinh doanh tự chủ, theo sát thị trường hơn đối với các hoạt động kinh doanh của công ty. Kết quả là 40.000 nhân công đã mất việc làm trong năm 1992, và tiếp tục cắt giảm thêm trong năm 1993. Sau những thua lỗ k lục trong năm 1992 và, lần đầu tiên trong lịch sử của IBM, cổ tức chứng khoán của công ty bị sụt giảm (giá trị chỉ còn phân nửa so với trước đó), John F. Akers, chủ tịch công ty từ năm 1985 đã từ chức vào đầu năm 1993. Louis V. Gerstner, Jr. được cử làm chủ tịch công ty từ tháng 4 năm 1993. Năm 1995, IBM bỏ ra 3,5 t USD để mua lại công ty phần mềm Lotus Development nhằm mở rộng phạm vi của công ty sang ngành công nghiệp phần mềm. Năm 1997, một siêu máy tính của IBM có tên là Deep Blue đã chiến thắng nhà vô địch cờ vua quốc tế là Garry Kasparov trong một trận đấu kéo dài 6 ván. Chiến thắng này đã được ca ngợi như là một điểm son trong việc phát triển lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. IBM, mặc dầu trong lòng thì nôn nóng, nhưng bên ngoài lại khởi sự kế hoạch của mình một cách tỉnh như không. Họ cử hai ủy viên quản trị đến Seattle, nhưng theo lời Gates kể lại sau này thì hai người này tự hạ thấp vai trò quan trọng của họ khi nói rằng họ chỉ là nhân viên của phòng kế hoạch và những ý kiến được họ định lại chẳng mấy khi được tiến hành. Nhưng hai người này đã có cuộc thảo luận kéo dài với Gates và Allen về định hướng của nền công nghệ và những triển vọng to lớn của loại máy tính cá nhân. Họ nói rằng họ muốn có chương trình viết bằng ngôn ngữ lập trình FORTRAN và COBOL của Microsoft và có lẽ nhiều ngôn ngữ khác nữa. Cuộc họp này làm Gates nhớ lại kinh nghiệm ở Albuquerque, khi Microsoft hứa với hãng Ricoh những phần mềm mà họ chưa hề tạo ra. Nhưng lần này Microsoft có thể đang nắm trong tay con bài chủ. Họ đang thương lượng mua lại một hệ thống ít người biết đến có tên là Q-DOS của một đối thủ cạnh tranh nhỏ tên là Seattle Computer. Nếu họ nhanh chóng mua được phần mềm này, họ có thể nhượng quyền sử dụng nó cho IBM. Ðược sự đốc thúc của cộng sự người Nhật là Kay Nishi, Microsoft liều lĩnh đề nghị phần mềm Q-DOS cho IBM trước khi đặt bút ký hoàn tất thủ tục mua bán với Seattle Computer. Hai ngày chờ quyết định sau đó là hai ngày đứng ngồi không yên đối với Gates và Allen. Cả hai lo là Seattle Computer sẽ đánh hơi thấy được việc làm này của IBM và sẽ ra giá Q-DOS thật cao. Nhưng chính vì bản thân IBM cũng đang muốn giữ bí mật cho kế hoạch này nên họ cũng kín đáo không để lộ hợp đồng này ra ngoài; nhờ vậy Microsoft mua được Q-DOS chỉ với giá có 50.000 USD. Và nhờ từ hệ thống này mà Microsoft đã dần trở thành một công ty phần mềm khổng lồ như ngày nay. Tim Paterson, người đã viết hệ điều hành được công ty Microsoft mua lại và biến thành hệ điều hành MS-DOS Tim Paterson lấy bằng cử nhân Khoa Học Máy Tính với lời khen tặng của ại học Washington năm 1978. Ngay sau đó, ông vào làm cho Seattle Computer Products. Tại đây ông thiết kế hệ thống máy điện toán đầu tiên dựa trên bộ vi xử lý Intel 8086. Chiếc máy điện toán mới này cần một hệ điều hành và vì vậy năm 1980 Paterson viết một chương trình có tên là “86-DOS”. Qua năm sau 86-DOS được Microsoft mua lại và cải tiến là MS DOS. Và từ đó đến nay hệ điều hành này đã trở thành chương trình máy điện toán được dùng rộng rãi nhất trên thế giới. Năm 1993 Paterson thành lập công ty Falcon Technology, chuyên sản xuất cạc điều khiển ổ cứng. Ba năm sau, ông bán công ty này cho một tập đoàn và tập đoàn này tiếp tục bán các sản phẩm do ông làm ra dưới cái tên Paterson Labs cho tới khi Paterson Labs được công ty Phoenix Technologies mua lại. Cũng từ đó Paterson trở thành nhà cố vấn và nhà phát triển phần mềm cho các công ty này và công ty Microsoft. Năm 1991, Paterson được cấp bằng sáng chế ở M cho Test Coverage Analyzer, một phương tiện giúp đo lường mức độ thử nghiệm hoàn chỉnh của phần mềm và cho biết phần nào cần phải được thử nghiệm thêm. Từ khi trở lại Microsoft (1990), Tim Paterson làm việc trong bộ phận phát triển công cụ lập trình Visual Basic. Lẽ đương nhiên là hệ thống Q-DOS của Seattle Computer đã được thay đổi rất nhiều trước khi trở thành hệ điều hành MS DOS nổi tiếng của công ty Microsoft. Microsoft tiện tay đã mua đứt luôn chuyên gia hàng đầu của Seattle Computer là Tim Paterson và giao cho anh ta chịu trách nhiệm thực hiện phiên bản MS-DOS mới này. Vì Microsoft còn cộng tác chặt chẽ với IBM trong việc thiết kế máy tính cá nhân của IBM nên có rất nhiều công việc phải hoàn thành. Bill Gates và Paul Allen vẫn tiếp tục tham gia trong công việc phát triển sản phẩm, trực tiếp tạo ra các mã lệnh. Mãi mười lăm năm sau, khi hai người cùng trả lời phỏng vấn của tạp chí Fortune người ta mới có thể tạm thời thấy được không khí căng thẳng chắc chắn đã xảy ra trong những ngày đó. Trong cuộc phỏng vấn, khi Gates nêu ra sự kiện Allen nhanh chóng nói xen vào cho rằng đây là vụ phóng tàu vũ trụ đầu tiên mà ông ta được tận mắt chứng kiến và rằng ông ta đã đến Florida để xem và rồi trở về ngay, vắng mặt chưa đến 36 giờ. Vốn được thiết kế cho bộ vi xử lý 8086 và 8088 của Intel (và các bộ xử lý cao cấp khác), MS-DOS là một hệ điều hành 16 bit mạnh, sử dụng chế độ chuẩn (mode) dựa trên ký tự thời bấy giờ và được thay bằng giao diện đồ họa dùng trên máy Macintosh ba năm sau đó. Phiên bản nguyên thủy của MS-DOS giới hạn bộ nhớ ở mức 640K, nhưng giới hạn này cũng nhanh chóng bị vượt qua. Và thậm chí khi ra mắt hệ điều hành đồ họa Windows, MS- DOS đã được năng cấp để hoạt động với tốc độ nhanh hơn nữa. Phần lớn sự thành công của Microsoft có thể xuất phát từ việc công ty này đã tạo ra được bên trong MS-DOS một hệ điều hành có thể dùng làm nền tảng vững chắc cho các thế hệ hệ điều hành phức tạp hơn về sau này và cho vô vàn những phần mềm ứng dụng khác. Mặc dù máy IBM PC sẽ là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với máy Apple II, vào năm 1980 Microsoft vẫn viết phần mềm ứng dụng đầu tiên cho máy tính Apple. Ðó là phần mềm Softcard dành cho máy Apple II, cho phép máy tính này chạy hệ điều hành CP/M của Digital Research. Nhưng trong thời gian này, Gates và Allen xem quan hệ với IBM là trụ cột chính của sự hợp tác trong tương lai. Số tiền Microsoft thu được trong việc viết phần mềm cho IBM không lớn – chưa đến 200.000 đôla – nhưng Gates đã chắc chắn được rằng hợp đồng của họ ký với IBM có tính đến việc Microsoft sử dụng hệ điều hành MS-DOS – đã được sửa đổi thích hợp – cho các máy nhái theo máy IBM PC mà người khổng lồ trong ngành sản xuất máy tính này đang sắp sửa cho phép sản xuất. Một khi các máy tính cá nhân IBM được tung ra thị trường, Microsoft tích cực phát triển MS-DOS, thuyết phục các công ty phần mềm khác viết những chương trình ứng dụng chạy trong môi trường này. Ðây là một vấn đề quan trọng, vì IBM đưa ra nhiều phần mềm khác nhau để cho khách hàng chọn lựa, như ngoài hệ điều hành CP/M của Digital Research còn có hệ điều hành đắt tiền hơn nhiều là UCSD. Gates và Allen tin rằng nếu họ có thể làm cho MS-DOS trở thành hệ thống được nhiều người dùng nhất thì trong tương lai họ có thể kiếm được rất nhiều tiền. Ván bài ngã ngũ trong vòng một năm và MS-DOS là kẻ chiến thắng trong cuộc chiến này. Ðiều đáng nói là lúc này các máy nhái đầu tiên đang dần xuất hiện và Microsoft có thể điềm nhiên tĩnh tọa mà hốt bạc. Chưa kể, những phần mềm mới, như phần mềm bảng tính Lotus 1-2-3, đang được tạo ra để hoạt động trên môi trường MS-DOS. Nhưng đúng lúc Gates và Allen đang ca khúc khải hoàn thì Allen bị chẩn đoán là mắc căn bệnh Hodgkin (ND. Một bệnh rối loạn ác tính do sự bành trướng của hạch bạch huyết và lá lách đồng thời do sự lây nhiễm bạch huyết dọc theo các mạch máu, được đặt tên thao bác sĩ điều trị người Anh, Thomas Hodgkin (1798- 1866), người đã tìm ra căn bệnh này). Trước đó bác sĩ cho rằng ông ta mắc bệnh ung thư thường gây chết người. Và cho dù bệnh Hodgkin có thể chữa trị được nhưng cũng mất 22 tháng điều trị liệu bằng phương pháp hóa học. Mặc Allen vẫn là một trong những giám đốc của Microsoft và thỉnh thoảng tới dự các cuộc họp, nhưng ông ta tạm thời rút lui khỏi công việc tại Microsoft trong thời gian hai năm điều trị bệnh. Khi đã hồi phục, ông ta quyết định rút lui hẳn khỏi công việc điều hành tại Microsoft. Lúc đó ông ta đã là một tỉ phú và tỏ ra là một nhà đầu tư khôn khéo vào các công ty khác, từ Ticketmaster (ông ta nắm 8% cổ phiếu) cho đến America Online và các công ty kỹ thuật cao khác. Ông ta mua lại công ty NBA Portland Trailbazers và trở thành một trong những chủ nhân mới của Seattle Mariners để có thể duy trì đội bóng chày ở Seattle. Hàng năm ông tặng hàng triệu đôla cho công tác từ thiện, tài trợ cho nhiều tổ chức công ích – từ những công trình nghiên cứu về ung thư và AIDS cho đến các thư viện và lễ hội Shakespeare tại Oregon. Với tư cách là một giám đốc của Microsoft ông ta vẫn có quyền đóng góp ý kiến trong việc điều hành công ty nhưng rõ ràng ông ta có một vị trí đặc biệt như một nhà tiên tri trong lĩnh vực thông tin và là một mưu sĩ cho Bill Gates. Ngoài ra, một điều chắc chắn khác, kể cả mặt trí tuệ lẫn tình cảm cá nhân. Apple I là một bo mạch điện tử của máy điện toán được lắp ráp bởi Steve Wozniak và Steve Jobs vào tháng 3/1976. Nó không có bàn phím, vỏ thùng, âm thanh hoặc đồ họa. Nhân ngày Cá Tháng Tư (1/4) cùng năm, ngày truyền thống của những “trò chơi khăm”, Wozniak và Jobs thành lập công ty Apple. Cả hai đã triển lãm Apple I tại Câu lạc Bộ Máy Tính Homebrew ở Palo Alto, CA., và chiếc máy này đã thành công trong việc thu hút sự chú ý của mọi người. Để có tiền sản xuất bo mạch Apple I, Jobs phải bán chiếc xe Volkswagen 12 chỗ và Wozniak bán cái máy tính tay Hewlett-Packard có thể lập trình được; số tiền tổng cộng thu được là 1.350 USD. Họ nhận được nhiều đơn đặt hàng và cả hai bắt tay vào việc sản xuất trong nhà để xe hơi của cha mẹ Jobs. Tháng 7, máy Apple I được tung ra bán cho những người ưu thú tiêu khiển và say mê điện tử với giá 666,66 đôla. ến tháng 12, Apple được bán tại 10 cửa hàng bán lẻ trên khắp nước M . Sau khi Paul Allen ngã bệnh vào năm 1982, ông không còn là một nhân vật chủ yếu của Microsoft nữa. Mọi gánh nặng trong việc tiếp tục kiến thiết Microsoft trở thành một công ty tằm cỡ thể giới giờ đây trút lên vai Bill Gates. Có người nói rằng Paul Allen dễ mến hơn Gates, và nếu như Allen còn quyền hạn như những ngày đầu thì Microsoft đã không là một công ty tàn nhẫn như thế. Nhưng nói thế tức là không để ý đến một điều là ngay từ đầu Gates đã can dự vào công việc kinh doanh nhiều hơn Allen. Nếu thỉnh thoảng Gates cáu bẳn và trả đũa lại khi bị người khác kết án là hung hăng và chối bỏ mọi lời buộc tội đối với đường lối hành xử trong kinh doanh của công ty thì cũng nên thấy rõ là chính Gates đã điều hành một cách xuất sắc các hoạt động doanh nghiệp. “Ngày nay tốc độ thay đổi của công nghệ nhanh hơn bao giờ hết. Trước kia, những tiến bộ lớn của khoa học kỹ thuật như TV hay điện thoại phải mất nhiều thế hệ mới trở nên quen thuộc với mọi người. Riêng công nghệ máy tính, chỉ trong vòng một thế hệ, nó đã từ một thứ không mấy ai quan tâm trở thành một công cụ không thể thiếu đối với hầu hết công việc, và thật sự là nều muốn quan hệ với người khác bạn sẽ cần phải biết sử dụng nó thành thạo.” Bill Gates, 1995. Bước tiến lớn đầu tiên mà Microsoft thực hiện không có sự tham gia tích cực của Allen là việc phát triển một giao diện đồ họa. MS-DOS là hệ điều hành dựa trên ký tự. Gates giải thích sự khác nhau giữa hai dạng thức này bằng cách dùng bàn cờ để so sánh. MS DOS di chuyển một quân cờ bằng cách gõ vào các lệnh, còn giao diện đồ họa hiển thị một bàn cờ và di chuyển hình ảnh quân cờ bằng chuột. Ðiều này quả thật không thể tin nổi đối với thế hệ người dùng trẻ nhưng đến năm 1984 cùng với sự ra đời máy tính Macintosh của hãng Apple, việc sử dụng chuột đã trở nên phổ biến. Công nghệ sử dụng chuột do hãng Xerox phát triển trước nhất, nhưng vì giá máy tính của họ quá cao, lại không sử dụng các bộ vi xử lý chuẩn nên họ không thể thành công trên thương trường với bước đột phá này. Máy tính Macintosh lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Tiếng tăm của Microsoft lớn đến nỗi hãng Apple phải cộng tác chặt chẽ với công ty của Gates để phát triển máy tính Macintosh. Các sản phẩm đầu tiên dùng giao diện đồ họa như phần mềm xử lý văn bản Microsoft Word và phần mềm bảng tính Microsoft Excel được tạo ra để chạy trên máy Macintosh. Nhưng Gates cũng đang hợp tác với IBM để phát triển một hệ điều hành mới có tên là OS/2. Hai công ty gặp rất nhiều khó khăn trong dự án này. Một số thuộc về vấn đề của IBM nằm rải khắp nơi trên nước Mỹ nên dẫn đến những mâu thuẫn về tầm nhìn phát triển. Chris Peter, một phó chủ tịch của Microsoft, huỵch toẹt một trong những vấn đề chính liên quan đến việc phát triển phần mềm OS/2 trong quyển Ðiều Bí Mật của Microsoft (Microsoft Secret) như sau “OS/2 là phần mềm mà IBM đã bỏ nhiều công sức để tìm cách thay đổi nhiều điều...trong khi họ muốn sản phẩm này phải tốt hơn lên 10% thì họ lại biến nó thành một sản phẩm khác hẳn hoàn toàn, vậy mà trên thực tế thì không ai cần đến 10% tốt hơn này. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, một sản phẩm cần phải được cải tiến để tốt hơn gấp đôi trước khi biến nó thành một sản phẩm khác hẳn, nếu như bạn muốn duy trì tính nhất quán”. Nội dung của cuốn sách này là mô tả cách công ty Microsoft sản xuất các phần mềm do hai tác giả Michael A. Cusmano và Richard W. Selby viết với sự cộng tác của các ủy viên trong Ban Quản Trị ở Microsoft. Gates ngày càng trở nên nản chí với dự án này kể cả Nathan Myhrvold, một thiên tài kỹ thuật gia nhập vào Microsoft năm 1986 khi Gates mua công ty tí hon của ông ta và thu nạp luôn 6 nhân viên đang làm việc ở đó. Về phần mình, IBM cũng cảm thấy bực bội vì thái độ của Gates. Cuối cùng, đến năm 1989 hai công ty quyết định ngưng hợp tác sau khi sản phẩm OS/2 đầu tiên được phát hành. Trước đó Microsoft cũng đã tung ra hai phiên bản hệ điều hành Windows đầu tiên của mình vào năm 1985 và 1987, nhưng cả hai đều thất bại trên thương trường. Sau đó Microsoft đưa ra Windows 3.0 năm 1990, được qua được ngưỡng bộ nhớ 640K của MS-DOS (giới hạn lượng thông tin có thể được lưu trữ). Việc tạo ra phiên bản nâng cấp Windows 3.1 đã thực sự được tiến hành và Gates đang chọn một bước đi vô cùng liều lĩnh, hay có thể nói là Gates đang “đánh cuộc cả số phận của công ty” vào sự thành công tối hậu của Windows 3.1 không còn hợp đồng ràng buộc với IBM nữa có nghĩa là Windows 3.1 bắt buộc phải thành công; nếu ngược lại công ty sẽ phá sản. Ðúng như mong đợi của Gates, Windows 3.1 thành công và trở thành chuẩn mực cho máy tính cá nhân, nuốt chửng phiên bản OS/2 mới nhất của IBM. Thậm chí khi Windows 3.1 đang được tung ra năm 1992 thì cũng lúc những giấy tờ sau cùng cho việc chia tay của Microsoft và IBM cũng đang được ký kết. Microsoft giữ lại quyền sử dụng đối với phần mềm NT (New Technology – Công nghệ Mới) mà họ đã phát triển. (Hệ điều hành này được dùng để các mạng máy tính cá nhân có thể hoạt động chung với nhau, và nó sẽ càng trở nên quan trọng trong những năm sắp tới. Phần mềm này sẽ được tích hợp vào Windows 95, và các phiên bản kế tiếp của nó sẽ giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong bước tiến của Microsoft vào thị trường máy tính cá nhân dùng trong các công ty vào năm 1997). IBM được phép sử dụng hệ thống mã của Windows, nhưng thỏa thuận này chỉ kéo đến cuối năm 1993. Ngoài ra, Microsoft cũng sẽ nhận được tiền bản quyền trong việc bán sản phẩm OS/2 – nhưng xem ra lợi nhuận này không là bao khi Windows 3.1 chiếm lĩnh thị trường. Windows 3.1 còn phải thanh toán một lần cho IBM một khoản tiền, theo lời kể lại vào khoảng 25 triệu đôla, để sử dụng một số bằng sáng chế của IBM. Nhưng với sự thành công tối hậu của Windows 3.1, mọi người thấy rõ rằng, tuy có muộn, Microsoft đã vét sạch túi IBM qua quyết định “ly hôn”, chấm dứt hoàn toàn mối quan hệ giữa hai bên. “Ðiều kỳ quặc nhất trong tất cả mọi chuyện là khi chúng tôi muốn được mời tham dự trong buổi ra mắt chính thức trọng thể của máy tính cá nhân ở New York, IBM đã từ chối. Khoảng 4 ngày sau, chúng tôi nhận được lá thư dưới dạng biểu mẫu, có lẽ IBM cũng đã gửi cho tất cả các nhà buôn lẻ. Trong đó, đại để là những câu như: “Bạn hàng thân mến, cám ơn các bạn đã giúp đỡ chúng tôi, vân vân và vân vân.” Cuối cùng thì họ cũng xin lỗi chúng tôi về việc đó.” Bill Gates, 1995 “Khi IBM giới thiệu máy tính cá nhân IBM năm 1981, nhiều người đã công kích vai trò của Microsoft trong đó. Họ nói rằng những máy tính 8-bit, với 64K khoảng trống địa chỉ sẽ tồn tại mãi. Họ cho rằng chúng tôi đã hoang phí khi bỏ các chương trình 8-bit tuyệt vời để hướng mọi người chuyển sang máy tính 16-bit.” Bill Gates, khi các hệ thống 32-bit được coi là chuẩn mực, 1996 Tính phổ cập của Windows 3.1 có thể được đo đếm qua việc nó đã được cài đặt trên 70 triệu máy tính cá nhân bán trên khắp thế giới tính đến thời điểm phát hành năm 1992 và cài đặt trên 90% số máy tính mua trong khoảng từ năm 1992 đến trước lúc tung ra Windows 95 (tháng 8 năm 1995). Xét trên phương diện phần mềm cho máy tính cá nhân thì Microsoft không chỉ chiếm địa vị thống trị mà còn vượt quá xa các đối thủ cạnh tranh. Từ năm 1992, Bill Gates cứ đều đặn leo dần lên, không chỉ từng năm hay từng tháng mà phải nói là từng tuần một, để trở thành người giàu nhất hành tinh. Việc phát triển một phần mềm kế vị Windows 3.1 đã cho thấy đây là một việc làm hết sức khó khăn. Trước tiên, phải chuyển từ xử lý 16-bit sang xử lý 32- bit. Ðiều này có thể làm được nhờ vào tốc độ và khả năng xử lý ngày mỗi tăng của bộ vo xử lý Pentium do hãng Intel sản xuất. Ðây là một thế trận mới, có thể giới thiệu tính năng mới nhưng sẽ làm cho việc viết mã lệnh vạn phần phức tạp hơn và cũng làm cho hệ thống có khả năng dễ bị lỗi hơn. Ngoài ra Windows 95 còn bị đình trệ do sự thừa nhận muộn màng của Microsoft đối với tầm quan trọng của Internet. Windows 95 ra đời. “như một con qu dữ xổng chuồng”, nói như vậy để có thể tổng kết đúng tâm trạng của các đối thủ cạnh tranh của Microsoft khi nhắc về phần mềm này. Từ lúc nó ra đời vào ngày 24 tháng 8 năm 1995 đến ngày 30 tháng 9 năm 1995, người ta ước tính nó đã bán được 7 triệu bản. Con số này cao hơn hẳn những gì mà ngành công nghiệp điện toán cùng các phân tích gia ở phố Wall dự đoán. Ngay cả Microsoft cũng chỉ loan báo rằng họ mong sẽ bán được 30 triệu bản trong năm đầu tiên. Nhưng nếu với tốc độ này thì không đầy 5 tháng họ sẽ đạt số lượng mong muốn. Giới truyền thông đã làm rùm beng về sự ra đời của Windows 95 và kể từ lúc đó trở đi, Bill Gates, người khai sinh ra nó, trước đây vốn đã không bị bỏ quên, nay lại càng trở thành một trong những nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trên các phương tiện truyền thông, xuất hiện trên bìa các tạp chí nhiều không bất kỳ một ngôi sao điện ảnh hay âm nhạc nào. Nhưng Gates không hề ngủ quên trên chiến thắng. Quyển tự truyện Con ường Phía Trước của Gates nhanh chóng đứng đầu danh sách những cuốn sách bán chạy nhất cuối năm 1995. Cuốn sách có kèm theo một đĩa CD, bao gồm, theo dòng trích dẫn giới thiệu trên tờ bìa,“toàn bộ nội dung cuốn sách cùng với hàng trăm địa chỉ siêu liên kết (hyperlink) về lĩnh vực đa truyền thông, một cuộc phỏng vấn đặc biệt với Bill Gates, một đoạn video thuyết minh về công nghệ tương lai, trình duyệt World Wide Web và nhiều điều khác nữa.” Cuốn sách được viết chung với nathan Myhrvold, cùng với nhà báo Peter Rinearson, người đã từng đoạt giải thưởng báo chí Pulitzer. Phần lợi nhuận của riêng Gates thu được quyển sách này được dùng để “trợ cấp cho chương trình phát triển công nghệ quản trị giáo dục thông qua Tổ Chức Phát Triển Giáo Dục Toàn Quốc.” Năm 1996, Microsoft hợp tác với NBC để lập ra MSNBC, kết nối Microsoft Web Netword với một công ty truyền hình cáp. Năm 1996 và 1997 Microsoft mua lại quyền sở hữu hoặc đầu tư những khoản tiền lớn vào công ty nào có triển vọng trong việc giải quyết hướng phát triển xa lộ thông tin của tương lai, kể cả những công ty chế tạo các thiết bị cho phép kết hợp TV và Internet, hay chế tạo các hệ thống âm thanh kết hợp giữa máy tính cá nhân và Internet. Những số tiền đầu tư phát triển nhanh đến nỗi vào mùa hề năm 1997, một vài chuyên gia phân tích của Wall Street nói rằng nếu Microsoft có điểm yếu nào thì có thể đó chính là việc nó đã dàn trải ra quá nhiều nơi. Dĩ nhiên đó không phải là cách suy nghĩ của Bill Gates. Gates đã nhiều lần nói rằng xa lộ thông tin vẫn còn đang trong giai đoạn hình thành, và nó có thể đi theo nhiều hướng khác nhau. Thực vậy, hầu hết các nhà phân tích đều nhận sự sở hữu và đầu tư của Gates là một chính sách khôn ngoan, bảo vệ được Microsoft trên nhiều mặt trận và cho dù có chuyện gì xảy ra thì Microsoft vẫn tiếp thục tham gia vào ngành công nghệ thông tin. Khi Microsoft tiến gần hơn đến ngành công nghiệp giải trí với việc ra đời của MSNBC, cùng với những sự đầu tư kỹ thuật khác có liên quan đến công nghiệp giải trí, Gates phải lên tiếng xóa tan những lời đồn đãi và những thắc mắc của dư luận về khả năng anh sẽ có những bước đi xa hơn như mua thêm một phim trường chẳng hạn. Cũng có thể do nhìn thấy những rắc rối của hãng Sony khi mua Colombia Pictures nên Gates phải từ bỏ ý định này. Bill Gates, ảnh được phóng lớn trên màn hình đại vĩ tuyến, trong buổi ra mắt công ty MSNBC, kết hợp giữa công ty truyền hình cáp NBC và công ty mạng máy tính Microsoft Web Netword Nhưng nếu Gates ngày càng quan tâm nhiều hơn đến khía cạnh giải trí của xa lộ thông tin đang từng bước hình thành thì Gates cũng ngày càng trở nên nóng nảy hơn trên mặt trận phần mềm điện toán. Giữa năm 1997, Gates trở thành chủ đề chính trong một số tạp chí nói về những nỗ lực mạnh mẽ của Microsoft trong thị trường máy tính nối mạng dành cho các doanh nghiệp. Tờ Fortune số tháng 5 năm 1997 đăng một tâm ảnh khổng lồ chụp cận cảnh gương mặt mang kính cận của Bill Gates với miệng cười rộng, khinh khỉnh mà có thể dễ dàng hiểu rằng đó là cái cười của sự tham lam, kèm một dòng tít lớn,“Sự Thâu Tóm Quyền Lực Lớn Nhất của Gates ( ang Tiến Hành)”. Gates tin rằng Windows NT của Microsoft khi kết hợp với bộ phần mềm Backoffice, rốt cuộc sẽ thay thế cho hệ UNIX và trở thành hệ thống nối mạng máy tính được ưu tiên chọn lựa của các công ty. Các máy chủ (server) dùng hệ UNIX, sản phẩm chủ lực của Sun Microsystems, là xương sống (backbone) của các hệ thống mạng máy tính của công ty, có thể chạy tối đa cùng một lúc 64 bộ xử lý. Hệ Windows NT hiện thời chỉ có thể chạy đồng thời trên 8 máy, như vậy quá ít đối với hệ thống đăng ký giữ chỗ cho một khách sạn hay hãng hàng không. Nhưng mục tiêu ban đầu của Microsoft là nắm bắt thị trường doanh nghiệp nhỏ, và Windows NT được bán với giá, mà theo Fortune là “giá cắt cổ”, 625 đôla. Hiện tại Microsoft có khoảng 1 tỉ đôla dành cho quý đầu tư nghiên cứu, phần lớn số tiền dùng để nghiên cứu vấn đề tăng số máy mà Windows NT có thể quản lý được. Và đối với các công ty nhỏ hơn, tổ hợp Windows NT/BackOffice đã thay thế cho UNIX rồi. Nhà sản xuất bộ vi xử lý Intel, người đã từng cộng tác với Microsoft trong nhiều dự án, cũng như hầu hết các nhà sản xuất máy tính cá nhân khác, nhìn thấy khả năng sinh lợi khổng lồ về sau trong việc phát triển phần mềm Windows NT. Tổng giá trị thị trường của phần mềm này trong giới kinh doanh được ước tính vào khoảng 60 tỉ đôla. Vì vậy, nếu Microsoft thành công trong giới máy tính cá nhân dùng cho các doanh nghiệp bằng bất cứ biện pháp nào, dù chỉ nhằm đến vai trò thống lĩnh thị trường máy tính cá nhân không thôi, thì Microsoft srx không chỉ trở thành một người khổng lồ mà còn là một kẻ hủy diệt không ai có thể ngăn chặn được. Qua thời gian, các đối thủ cạnh tranh và cả người dùng máy tính cá nhân đều cho rằng thành công to lớn của Microsoft là do khả năng tiếp thị lớn hơn là khả năng kỹ thuật. Ý kiến này dựa trên cơ sở cho rằng đã có rất nhiều phần mềm tốt hơn của những công ty khác, nhưng các chiến thuật bán hàng theo kiểu “xe lu” của Microsoft đã đè bẹp sản phẩm cạnh tranh ưu việt. Nói vậy nhưng những lời phàn nàn này đã bỏ qua hai yếu tố quan trọng. Thứ nhất, khi có người dùng hay nhà phê bình phần mềm nào chỉ ra các khuyết điểm trong các sản phẩm của Microsoft thì các lỗi này đều được sửa, hoặc ngay tức khắc, hoặc trong phiên bản nâng cấp tiếp theo. Thứ hai, như Bill Gates muốn tạo ra sự chú ý đã nhiều lần chỉ ra, những phần mềm của Microsoft từng giành được nhiều giải thưởng uy tín. Cụ thể 1983, phần mềm ứng dụng Multiplan của Microsoft viết cho máy tính Apple II được InfoWorld chọn là phần mềm trong năm. Nhiều năm liền Microsoft giành được các giải thưởng tương tự, đặc biệt năm 1994 là một năm toàn thắng của Microsoft. Bộ Office 4.0 và Windows NT của Microsoft được tạp chí PC Magazine trao giải thưởng hằng năm dành cho phần mềm hệ thống và ứng dụng có kỹ thuật hoàn hảo nhất, đồng thời Word được bình chọn là chương trình xử lý văn bản hay nhất và Access – một chương trình quản lý cơ sở dữ liệu cá nhân – được chọn là phần mềm cơ sở dữ liệu hay nhất. Ðiều quan trọng cần lưu ý là Access đã được Microsoft mua lại của một công ty khác và nó được bán riêng lẻ hoặc kèm chung với Office. Những sự kiện trên khó lòng chứng tỏ rằng Microsoft đang chèn ép các đối thủ cạnh tranh – Microsoft nhìn thấy một sản phẩm tốt, họ mua lại và làm cho sản phẩm đó tốt hơn. Sẽ không tránh khỏi việc một số người sẽ buộc tội rằng hành động mua lại này là một sự thâu tóm quyền lực. Nhưng rất có thể hàng triệu khách hàng sẽ vô cùng cảm kích khi hệ cơ sở dữ liệu Access này đã trở thành một phần trong bộ phần mềm Office phổ biến nhất thế giới. Chương 4 CÔNG VIỆC QUẢN LÝ MICROSOFT “Trong công ty, Bill bộc lộ quan điểm cho rằng mâu thuẫn có thể là biểu hiện của sự tốt lành. Ý tưởng này hoàn toàn khác biệt với công ty P&G vì ở công ty này sự lễ độ, lịch thiệp là phẩm chất hàng đầu của các nhân viên. Bill biết rằng điều quan trọng là cần phải tránh sao cho sự lịch sự và lễ độ không cản bước trong việc tìm ra chân lý của vấn đề được nhanh chóng. Gates rất thích những người nào, dù là một nhân viên mới, thách thức mình, và điều bạn nên biết rằng khi Gates quát tháo chê bai các ý kiến của bạn thì chính là Gates tôn trọng bạn.” Steve Ballmer, Time, 1997. T huật ngữ “khuôn viên công ty” (corporate campus) có thể được dùng để chỉ tổng hành dinh của nhiều hãng lớn trên thế giới, ít nhất là về cách bố trí và hình thức thể hiện chung. Khuôn viên công ty là bước cải tiến từ “công viên công nghiệp” (industry park) vốn dĩ xuất hiện từ những năm 70, bao gồm các tòa nhà “nằm thu người lại”, trải dài rải rác trên một khu đất rộng ở vùng ngoại ô, và được phân cách bởi vô số bãi cỏ xanh mát được chăm sóc cẩn thận, núp dưới bóng râm của những lùm cây. Khởi thủy, các công viên công nghiệp thường là trụ sở của một vài công ty, được cố tình thiết kế sao cho hòa lẫn vào với các khu vực dân cư ngoại ô lân cận, là một hình ảnh hoàn toàn tương phản với những tòa cáo ốc văn phòng nghễu nghện tại trung tâm thành phố mà nay nhiều công ty đã chán không thèm ở. Tuy nhiên về sau, khái niệm khuôn viên công ty, trụ sở của một công ty duy nhất đã dần dần trở thành một tên gọi riêng biệt gắn liền với hình ảnh các công ty kỹ thuật cao, đặc biệt là các công ty trong lĩnh vực điện toán. Các tổng hành dinh trong như công viên kia rất giống với khuôn viên của nhiều trường đại học nhỏ và xem ra có vẻ rất hợp với hình ảnh các thiên tài kỹ thuật trẻ tuổi ăn mặc tuềnh toàng, thoải mái đang cư ngụ tại đó. Tuy nhiên ngoài việc có tất cả những thứ như trò ném đĩa Frisbees giữa các cây cao bóng mát, các phòng giải trí và các phòng thể dục thì khuôn viên công ty còn là tổ ấm của một vài nhân viên có sức cống hiến phi thường nhất thế giới. Tại những công ty điện toán như Apple hay Microsoft, khung cảnh yên bình mang dáng dấp của một vùng đồng quê, lại đang che giấu bầu không khí làm việc cực kỳ sôi động và căng thẳng đang diễn ra tại đây. Mỗi khi tiến hành nghiên cứu một sản phẩm mới và quan trọng – mà việc này hầu như diễn ra thường xuyên – các nhân viên tại đây sẽ phải làm việc với số giờ mà bất kỳ nhà cải cách ở đầu thế kỷ hay lãnh tụ công đoàn nào cũng phải kinh hoàng. Trong những tháng cuối trước khi một sản phẩm mang tính quyết định và được quảng cáo rùm beng nhiều như Windows 95 chẳng hạn được tung ra, chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh các lập trình viên nằm ngủ trên các băng ghế dài trong phòng làm việc sau những ngày làm việc 18 giờ mỗi ngày mà không buồn nghĩ đến việc về nhà an giấc. Dĩ nhiên, những con người này không giống như những nhân viên của thời cách mạng công nghiệp, bởi vì thường thì họ có thể mua cổ phiếu của công ty họ đang làm việc và họ yêu quý công việc họ đang làm. Khuôn viên công ty Microsoft rộng 270 mẫu Anh đặt tại Redmond, Washington, ngay phía ngoài Seattle Microsoft Corporation được William H. Gates và Paul G. Allen thành lập như một hiệp hội (partnership) vào ngày 4/4/1975, và chính thức trở thành công ty vào ngày 25/6/1981. Giấc mơ “mỗi nhà một máy điện toán”, đã xuất hiện từ lâu trong công ty Microsoft nay vẫn còn tiếp tục là nhân tố chính trong mọi hoạt động của công ty. Microsoft luôn tin tưởng rằng phần mềm là công cụ để phát huy sức mạnh cho con người tại nơi làm việc cũng như tại nhà. Kể từ khi được thành lập, mọi kế hoạch của công ty là làm cho máy tính cá nhân ngày càng trở nên mạnh hơn. Microsoft tin rằng con người sẽ là nhân tố quyết định bộ mặt của máy điện toán trong hôm nay và ngày mai. Lực lượng then chốt trong cả hai lĩnh vực máy tính cá nhân và cuộc cách mạng công nghệ k thuật số đều nằm trong tay những nhà phát triển – những người xác định các công nghệ, và người tiêu dùng – những người sử dụng thực tế các công nghệ này trong công việc hằng ngày. Việc cam kết sản xuất các sản phẩm phần mềm cách tân, kết hợp với sự đánh giá chân thực những phản hồi từ phía khách hàng luôn là chìa khóa mở cửa cho sự thành công của công ty Microsoft. Mục tiêu lâu dài đặt “Thông Tin trên ầu Ngón Tay” tiếp tục là nguồn thúc đẩy mọi nỗ lực phát triển của công ty trong khi xã hội đang bước vào k nguyên kế tiếp của nền công nghệ truyền thông và máy tính cá nhân. Microsoft hiện có hơn 20.000 nhân viên đang làm việc trên khắp nước M và tại 48 chi nhánh trên toàn thế giới. Các chương trình phần mềm của công ty được sản xuất bằng 30 ngôn ngữ khác nhau và được bán trong hơn 50 quốc gia. Khuôn viên công ty Microsoft chiếm một khu vực rộng 270 mẫu Anh – thường được ví von là “nằm ưỡn người” - ở Redmond, Washington, một vùng ngoại ô của Seattle. Các tòa nhà đủ kích cỡ nằm rải rác khắp nới như cố ý cho thấy các nhóm nhỏ có thể biến mình vào những góc xa tít trong khuôn viên này để làm việc hoặc một vài nhóm có thể sẽ được triệu tập vào trong những tòa nhà lớn hơn khi có nhu cầu. Rõ ràng Microsoft không muốn mọi người nghĩ rằng làm việc trong một tòa nhà này sẽ có địa vị cao hơn làm việc trong một tòa nhà khác và ngược lại, nhưng, theo những lời đồn đại thì dường như tinh hoa của công ty đặc biệt phát tiết xung quanh tòa nhà số 8, nơi Gates đặt phòng làm việc tại đây đều có cùng cương vị như nhau, văn phòng của Gates không phải là nơi phô trương sự sang trọng như thường thấy tại văn phòng của Tổng Giám Ðốc các công ty khác. Theo như tờ Time thì các đồ đạc trong phòng thuộc dạng “cấp phát chuẩn” và được trang trí ở mức tối thiểu. điều trước tiên đập vào mắt mọi người khi bước vào đậy là một bức ảnh khổng lồ hình một vi mạch Pentium, choán gần hết một bức tường. Và, chắc ai đó cũng đã nghĩ đến, trong căn phòng này còn treo ảnh chân dung của Leonardo da Vinci và Einstein, cũng như Henry Ford. Bức ảnh này là điểm chú ý đặc biệt. Theo chính lời Gates, bức ảnh này có mặt ở đó không nhằm nhắc nhở cho anh mục tiêu nổi tiếng của Ford là muốn thấy mỗi gia đình người Mỹ đều sở hữu một chiếc xe hơi – một mục tiêu mà Gates và những cộng sự của Gates cũng đã từng tuyên bố nhưng là đối với máy tính cá nhân – mà để nhắc cho Gates nhớ rằng chỉ do tính ngoan cố và thiếu nhìn xa trông rộng ở nhiều lĩnh vực nên cuối cùng Ford đã để cho nhiều đối thủ cạnh tranh của ông giành lấy hết các lợi lộc về họ. Tấm ảnh chụp Henry Ford treo trong phòng làm việc của Gates nhằm nhắc nhở về mối nguy hiểm của sự thành công. Công ty Ford đã tuột dốc thảm hại khi cho phép công ty General Motor của Alfred Sloan nắm quyền lãnh đạo trong nền công nghiệp xe hơi vào năm 1927. Gates nhận thức thấu đáo lẽ khôn ngoan thường tình cho rằng người lãnh đạo khi đang thực hiện những bước đại nhảy vọt trong kỹ thuật sẽ không thể thấy được bước kế tiếp nào sắp xảy ra. Trong phần đầu của chương 3 trong quyển Con ường Phía Trước có tựa là Những Bài Học Từ Nền Công Nghiệp iện Toán Gates viết: “Thành công là một người thầy tồi tệ vì chính nó khiến những con người thông minh luôn nghĩ mình không thể thất bại.” Trong chương này Gates đã phân tích chi tiết sự thất bại của các đại gia thuộc làn sóng thứ nhất và thứ hai trong công nghệ điện toán như IBM, Digital Equipment Corporation và Wang Laboratories là do đã không thấy được cuộc cách mạng máy tính cá nhân sắp đến. Bản thân Gates không chỉ nhìn thấy việc đó khi còn là con nít ranh, hỉ mũi chưa sạch mà còn hiểu được vai trò then chốt của phần mềm trong cuộc cách mạng này. Có lẽ điều Gates sợ nhất là một ngày nào đó sẽ có người viết về mình như Gates đã từng viết về Ken Olsen và An Wang – những người đã bỏ lỡ bước phát triển vĩ đại kế tiếp. Nhiều năm qua, đôi lúc trong các bài nói chuyện và phỏng vấn liên quan đến vai trò lãnh ấn tiên phong trong cuộc chơi này, Gates luôn đề cặp đến cảm giác “vừa chạy vừa sợ” hoặc “lúc nào cũng thấy nỗi sợ hãi vây quanh”. Tuy vậy, vài năm trở lại đây, Gates đã lãng đi không muốn nhắc đến những lời bình phẩm trước đó, hiển nhiên là vì Gates cảm thấy chữ “sợ hãi” có vẻ hơi quá thông tục và không ra dáng người lớn chút nào. Thay vào đó, Gates đã chuyển sang nói đến việc đối đầu với những thử thách mới và nhấn mạnh đến “niềm vui thích” có được mỗi khi nhanh chân phỗng tay trên từ các đối thủ của mình. Môi trường làm việc tại tổng hành dinh của công ty Microsoft ở Redmont mang dáng vẻ và không khí của một trường đại học được mặc sức theo đuổi các mục tiêu sáng rạo và trí tuệ. Nói thế nào đi nữa, cách thức hoạt động hiện nay của Microsoft hiển nhiên là nhằm mục đích tránh khả năng bỏ lỡ những ngã rẽ lớn sẽ đến trên con đường phía trước. Công ty bắt đầu bằng những nhân viên được tuyển dụng làm việc trong Microsoft. Có một từ ngữ riêng thường xuất hiện trong những câu chuyện nói đến loại nhân viên mà công ty biệt đãi, đó là sự thống tuệ (intellectual bandwidth). Theo chiều nhà quan sát thì công ty Microsoft luôn tìm những người có chỉ số thông minh cao (IQ), có đầu óc phóng khoáng và ưa soi mói, đồng thời còn phải có tài giải quyết vấn đề một cách khéo léo hơn là sở đắc những kiến thức đã có rồi. Như vậy, xem ra tiêu chuẩn của hãng đưa ra có bản chất trái ngược với những gì chúng ta quen nghĩ về một “tín đồ máy tính” (computer nerd) thường mang ý nghĩa một sự tập trung hạn hẹp. Triết lý của Microsoft dường như cho rằng huấn luyện một cái đầu thông minh để làm các loại công việc mới còn dể hơn dạy một người có trí thức kỹ thuật uyên thâm suy nghĩ một cách sáng tạo. Mặc dù vậy không có nghĩa là tại đây những người có kiến thức uyên thâm sẽ bị xem nhẹ, chỉ có điều người có kiến thức cũng phải tỏ khả năng học hỏi thêm kiến thức mới. Một số người thẳng thừng nói ra rằng công ty chỉ đi tìm những “hình mẫu của Gates” mà thôi. Thật vậy, một số ký giả khi được phép tham dự trong các cuộc họp do Bill Gates thường xuyên chủ trì với các nhóm thực hiện dự án kể lại rằng các lập trình viên của Microsoft thường đong đưa người trên ghế khi suy nghĩ, giống hệt như Gates thường làm. Các ký giả cũng nhận xét thấy rằng các cuộc gặp gỡ như thế được tổ chức trong bầu không khí dân chủ, rằng tất cả nhân viên Microsoft đều được khuyến khích để bác bỏ hoặc tranh luận với những ý kiến từ Gates, xếp lớp của họ. Do vậy, ai mà làm cho Gates phải hét toáng lên rằng: “ úng là điều ngu ngốc nhất từ trước tới giờ tôi mới được nghe” – một phản ứng thường gặp ở Gates – thì đó không phải là bị quở trách mà là được huân chương vì ý kiến vừa nêu ra. Ðại đa số các lập trình viên trẻ trong công ty đều là nam giới, dù rằng tại các lĩnh vực khác có rất nhiều nhân viên nữ. Nhìn thẳng vào cách thức Microsoft đang được điều hành, chúng ta có thể thấy bản thân Bill Gates chính là một lập trình viên thiên tài. Nathan Myhrvold, trưởng bộ phận nghiên cứu cấp cao của Microsoft, một nhà tri thức uyên bác, đã tiết lộ với tờ Time rằng: “Có hai loại công ty k thuật, một là loại công ty mà tay đứng đầu biết cách tự lướt sóng một mình, loại còn lại là tay đứng đầu phải nhờ đến các huấn luyện viên trên bãi biển hướng dẫn cho mình.” Gates chính là ví dụ tiêu biểu nhất cho loại người biết tự lướt sóng. Bằng chứng là mỗi ngày công việc chủ trì trung bình 3 cuộc họp với các nhóm làm dự án đều được Gates giải quyết hết sức nhanh gọn, chính xác. Không cần phải phí phạm thời gian vào việc giải thích thậm chí cả những vấn đề mang tính chuyên môn nhất có liên quan, đồng thời chính trong mỗi cuộc họp như vậy, không ai thấy cần thiết phải “tâm tình với nhau những chuyên trên trời dưới đất”, điều mà các ngày CEO ở các công ty khác thường phải làm cốt để tạo lòng trung thành và kính trọng. Các “Trò trí trá văn phòng” không nằm trong những điều Gates muốn quan tâm. “Tại Microsoft, chúng tôi có hàng trăm nhân viên chỉ nghiên cứu những phần mềm giúp cho xa lộ thông tin trở thành sự thật. Rồi đây cách truy tìm và tương tác với thông tin sẽ thay đổi. Tôi không nói là ngay ngày mai...nhưng khi ngày đó đến, chúng tôi sẽ đóng vai trò to lớn trong việc phân phối phần mềm để tạo ra những thay đổi đó.” Bill Gates, 1993 “Thật tình mà nói, một trong những thử thách của công ty Microsoft hiện nay là rất nhiều nhân viên chưa nếm mùi thất bại nhiều. Rất nhiều nhân viên chưa bao giờ tham gia vào một dự án không thành công. Hóa ra, khi thành công có thể được xem là chuyện đương nhiên thì lại là điều nguy hiểm. Vì vậy, chúng tôi đã có dụng tâm khi tuyển dụng một vài quản lý đã có kinh nghiệm thất bại tại các công ty khác.” Bill Gates, 1995 Một trong các trò trí trá bị Gates ghét cay ghét đắng là việc đổ lỗi cho nhau. Nhiều lần Gates đã nói rõ là hết sức cố tránh “hoạt cảnh” như vậy xảy ra tại Microsoft. Gates nhấn mạnh rằng sai lầm thay vì phí thời gian và công sức tìm xem lỗi của ai thì nên tập trung xem xét để sửa chữa nó. Trong một bài báo Gates kể lại một chuyện, đó là việc phát hiện một lỗi kỹ thuật trong phần mềm bảng tính chạy trên máy Macintosh tên là Multiplan. Phần mềm này do Microsoft viết và tung ra vào năm 1983. Nhóm viết phần mềm Multiplan sau khi sửa lỗi xong đã thỉnh thị ý kiến của Gates, hỏi xem có nên gởi đền phần mềm hoàn chỉnh cho những ai đã mua Multiplan không. Và dù số khách mua phần mềm này đã lên đến con số 20.000 những Gates vẫn đồng ý ngay tức khắc. Theo ý của Gates thì không có gì phải bàn cãi thêm, dù rằng phí tổn gởi phiên bản đã sửa lỗi cho khách hàng tốn mất 250.000 USD. Gates vẫn cho rằng bản thân mình đã phạm sai lầm trong phiên bản gốc của Multiplan vào năm 1981 khi loại ra một số tính năng để phần mềm này có thể chạy trên máy Apple II, cũng như trên máy IBM PC. Chính sai lầm này đã mở đường cho một công ty mới đó là Lotus tung ra sản phẩm bảng tính ưu việt hơn, và hậu quả là Lotus 1-2-3 đã hạ đo ván phiên bản gốc Multiplan. Gates tin rằng ai cũng có thể mắc sai lầm và thường là những sai lầm đắt giá, đặc biệt trong một ngành công nghiệp phải luôn tìm kiếm những cùng đất mới. Chính vì vậy, theo Gates, không việc gì phải chơi trò đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Bên ngoài là vậy, nhưng bên trong Gates vẫn thường lo ngại một thực tế là Microsoft rất ít khi gặp thất bại thật sự nên khi điều này xảy ra sẽ không dễ mà giải quyết được. Chính vì vậy năm 1992 Gates đã tuyển dụng Craig Mundie. Mundie là người đã từng nếm đủ mùi thất bại. Con người này từng là đồng sáng lập viên một công ty siêu điện toán tên là Alliant Computer Systems, đã bị phá sản khi thị trường thay đổi. Gates cho rằng việc mà “Mundie hiểu rõ sai lầm của mình và đã rút ra được những bài học xương máu từ đó” sẽ trở thành một tài sản hữu dụng đặc biệt cho công ty Microsoft. Hiện tại Microsoft có hơn 20.000 nhân viên, bao gồm cả một số khiêm tốn ở nước ngoài. Chỉ tính riêng năm 1992, Microsoft đã thuê 2.500 người. Ðiều này hoàn toàn khác xa với những ngày đầu thành lập khi Gates chỉ trích Steve Ballmer vì Steve cứ khăng khăng đòi thuê thêm 50 nhân viên trong khi công ty đã có 35 nhân viên. Tuy nhiên, với 9 tỷ đôla tiền mặt trong tay, Gates không còn phải lo lắng việc công ty trở nên quá đông như đã từng lo như trước kia nữa, và nếu so với nhiều công ty khác thì Microsoft hãy còn rất ít nhân sự hơn nhiều. Microsoft cũng có văn phòng đại diện tại nhiều quốc gia khác, và chuyển giao một số công việc nhất định cho các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài. Mùa hè năm 1997, Microsoft tuyên bố sẽ thực hiện một dự án liên doanh trị giá một triệu đôla trong lĩnh vực nghiên cứu nâng cao với trường ÐH Cambridge của Anh quốc. Ðây là nơi xuất phát các ý tưởng khoa học trong nhiều thế kỷ, đồng thời là nơi mà nhà vật lý học lừng danh Stephen Hawking (con trai ông ta hiện đang làm việc cho Microsoft tại Redmont) đang giữ một vai trò vốn trước đây dành riêng cho Sir Isaac Newton. Nhưng dù hiện nay Gates có sẵn lòng phát triển lực lượng lao động của mình đi nữa, tự thân Gates vẫn thường xuyên chú ý tránh lặp lại mô hình phát triển của IBM là lập ra nhiều trung tâm nghiên cứu khác nhau nằm rải rác khắp nước Mỹ. Gates cho biết trước đây khi Microsoft có cộng tác trực tiếp với IBM, Gates hết sức kinh ngạc trước việc “đấu đá lẫn nhau” và “các cuộc tranh cãi vô nghĩa” giữa các phòng thí nghiệm của IBM. Tuy nhiên, trong những năm gần đây do có mối quan hệ làm ăn gần gũi hơn với Hewlett-Packard nên Gates đã phần nào bớt lo lắng về mô hình đa địa điểm. Gates cho biết Hewlett-Packard giao cho mỗi phòng thí nghiệm một số công việc nhất định và sau đó tùy vào sự thành công hay thất bại mà quyết định mở lớn hay thu hẹp phòng thí nghiệm, có thể giúp kiểm soát được sự kình chống giữa các phòng thí nghiệm. Mọi người đều cho rằng mô hình của Hewlett-Packard chính là động lực thúc đẩy Gates liên kết với ÐH Cambridge trong dự án này; tuy nhiên có một điều cần phải nói là ít nhất đến giờ phút này Gates không hề có kế hoạch mở thêm chi nhánh của Microsoft trên đất Mỹ. Nhân viên của Microsoft được trả lương khá hậu hĩnh. Tuy vậy, điều quan trọng hơn cả là họ có quyền mua cổ phiếu của công ty. Theo ước tính, hơn 2.500 nhân viên của Microsoft dù còn hoặc không còn làm việc cho hãng hiện nay đã là triệu phú nhờ cổ phiếu của Microsoft. Nhưng đồng thời nhân viên của công ty cũng phải luôn sẵn sàng với việc cơ cấu lại, vốn xảy ra 2 năm một lần kể từ ngày thành lập đến nay. Gates xem việc cơ cấu lại là một yếu tố sống còn để giúp nhân viên của mình duy trì tính sáng tạo, chịu được thử thách và làm việc hiệu quả hơn. Gates xem đó là phương pháp để “hiện đại hóa” tinh hoa trí tuệ của con người. Ðặc biệt, Gates thích việc thuyên chuyển nhân viên liên tục từ bộ phận phát triển sản phẩm sang bộ phận quan hệ với khách hàng và ngược lại, nếu đó là một người có năng lực trong cả hai lĩnh vực, vì theo Gates việc này giúp “thai nghén và chuyển dạ ra các sản phẩm tốt hơn” trong một ngành công nghiệp mã khách hàng là người định hướng phát triển. Gates vẫn biết rằng làm như thế sẽ có nguy cơ công việc ở hai bộ phận đều không trôi chảy và có thể mất đi một vài nhà quản lý vì họ không hài lòng với vị trí mới hoặc phù hợp với vai trò mới. Tuy nhiên, trong chừng mực nào đó, Gates nghĩ là những trở ngại nảy sinh từ việc cơ cấu lại như vậy là có thể chấp nhận. Còn việc mất quá nhiều người hoặc quá nhiều công việc không trôi chảy lại là vấn đề khác – vấn đề mà Microsoft đã tránh được từ lâu nay, một phần có lẽ là vì ngành công nghệ điện toán vẫn tiếp tục thay đổi và phát triển như vũ bão nên hầu hết nhân viên đều ham thích được hoạt động trong lĩnh vực mới. Rõ ràng là Gates không muốn những nhân viên mình suốt ngày chỉ dán mắt vào những nấc thang danh vọng. Bất chấp việc cơ cấu lại thường xuyên và khả năng linh hoạt mà Gates đã cố công tìm kiếm để tồn tại, Microsoft đang ngày càng phình to hơn. Vào đầu thập niên 90, mỗi năm công ty đã thuê thêm hàng trăm nhân viên mới. Gates thừa sức hiểu một điều rằng các công ty lớn rất dễ dàng trở nên tự mãn, yếu ớt hoặc cồng kềnh. Ðể giữ cho được vị trí dẫn đầu, Microsoft luôn chú ý phát triển những sản phẩm mới trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Dự án quan trọng nhất trong nửa đầu thập niên 90 là phần mềm Windows 95, lúc đầu có bí danh Chicago. Phần mềm này không chỉ giúp Microsoft duy trì vị trí thống trị của mình trên thị trường hệ điều hành dành cho máy tính cá nhân mà còn đánh bạt các đối thủ khác ra khỏi cuộc chơi. Ưu tiên nghiên cứu và phát triển kế tiếp của Microsoft nhắm đến điều gọi là xa lộ thông tin, một đề tài nóng hổi xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đại chúng kể từ cuộc bầu cử 1992 được sự cổ vũ của ứng cử viên Phó Tổng Thống Al Gore lúc đó. Cánh cổng dẫn vào con đường truyền thông tương lai này dựa trên vô tuyến truyền hình tương tác (bao gồm việc giả định có thể chọn được 500 kênh truyền hình) và được điều khiển thông qua một cái hộp đặt trên nóc máy truyền hình. Cuộc chạy đua để phát triển cả phần cứng lẫn phần mềm cho trào lưu truyền thông tương lai này bắt đầu mở màn. Những chương trình quảng cáo, giới thiệu rầm rộ, đầy ấn tượng ra rả trên các phương tiện truyền thông (một phần bị mê hoặc vì chính bản thân vô tuyến truyền hình là tâm điểm của cái xa lộ còn trong mơ này) đã khiến mọi người háo hức chờ đợi với những lời lẽ vừa thêu dệt, vừa ba hoa rằng dự án này sẽ ra đời trong hai hoặc ba năm. Bản thân Gates đã cố gắng làm dịu sự cuồng nhiệt của dư luận, nói rằng cuộc cách mạng này thực sự xa hơn cột mốc mà các câu chuyện trên các báo chí đã đặt ra. Gates hiểu rằng, trong lĩnh vực phần cứng người ta còn phải vượt qua không biết cơ man nào những vấn đề thuộc về kỹ thuật và như vậy, dĩ nhiên, cũng không thể nào phát triển phần mềm cho các phần cứng chưa hề có mặt trên đời. “Trong thời đại kỹ thuật số, không một công ty chế tạo các thiết bị kỹ thuật số nào hoạt động độc lập lại có thể tồn tại được...Các công ty truyền hình cáp và điện thoại phải đối mặt với thách thức xây dựng cho được một cơ sở hạ tầng kỹ thuật số cần thiết. Các công ty phục vụ nhu cầu giải trí phải làm sao cho thông tin của họ trở nên thú vị và lôi cuốn hơn. Các công ty sản xuất phần mềm ứng dụng cho PC phải tạo ra các trình ứng dụng và công cụ làm động lực cơ bản thúc đẩy cho cộng đồng phục vụ nhu cầu giải trí đầy tính sáng tạo này. Còn các công ty sản xuất phần mềm hệ thống phải phát triển các phần mềm cơ sở để nối những thiết bị này với nhau và để kết nối mạng máy tính cá nhân vô cùng to lớn vì đây chính là một nhân tố vững chắc của cơ sở hạ tầng kỹ thuật số đó.” Bill Gates, 1992 Cho dù lập luận như trên, Microsoft vẫn đang miệt mài nghiên cứu phát triển một phần mềm cơ bản sao cho sau đó có thể được điều chỉnh để thích hợp với bất cứ phần cứng nào chào đời. Ðồng thời Microsoft cũng đầu tư và thúc đẩy hợp tác với các công ty có khả năng giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng nên cái xa lộ này. Và do tập trung cao độ vào xa lộ thông tin, Microsoft đã không kịp nhận thức tầm quan trọng của một cuộc cách mạng truyền thông khác vốn đã diễn ra – đó là Internet. Lịch sử hình thành của Internet bắt đầu vào khoảng 1969 khi Bộ Quốc Phòng Mỹ khởi xướng việc thiết kế một mạng máy tính sẽ vẫn tiếp tục hoạt động cho dù xảy ra một cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân. Thay vì để các máy tính của chính phủ nối với một vị trí trung tâm thì hệ thống mới này, do ARPANET (Cơ Quan chuyên trách các Dự Án Nghiên Cứu Cao Cấp) tạo nên, cho phép các máy vi tính cá nhân có thể liên lạc trực tiếp với nhau. Nhờ cách đó mà tất cả các máy tính còn hoạt động được sau cuộc tấn công sẽ vẫn giữ được liên lạc với nhau, dù chúng có ở đâu đâu đi nữa. Theo James Wallace mô tả trong quyển sách xuất bản năm 1997 của ông ta với tựa đề Nỗ Lực Vượt Bậc (Overdrive) thì giai đoạn kế tiếp trong việc mở rộng hướng sử dụng những gì sẽ trở thành Internet diễn ra khi Tim Berners Lee, một nhà nghiên cứu tại phòng thí nghiệm vật lý nguyên tử châu Âu (Geneva, Thụy Sỹ) biên soạn thành công một loại ngôn ngữ miêu tả tài liệu mới được biết dưới cái tên Hyper-Text Markup Language (Ngôn Ngữ Ðánh Dấu Siêu Văn Bản – HTML). Loại ngôn ngữ mới này bao gồm một bộ mã được thêm vào một tài liệu như là một cách để định dạng tài liệu nhằm cho phép nhúng vào đó các hình ảnh, âm thanh hoặc các phương tiện đa truyền thông khác, đồng thời cho phép nối kết tài liệu này với bất kỳ tài liệu nào khác trong bất kỳ máy tính nào đang trên mạng Internet. “Tuy cơ cấu lại nhân sự là một việc làm thường xuyên tại Microsoft, nhưng không có nghĩa là không làm cho mọi người phải hoang mang. Hầu như tất cả mọi người đều trong trạng thái tâm lý ấy – kể cả tôi. Tôi lo lắng là vì không biết các quyết định này có phù hợp hay không, và không biết liệu những nhân viên cốt cách có nhiệt tình với vai trò mới của mình hay không. Tôi chỉ an tâm với quyết định tái tổ chức thường xuyên này khi làm cho mọi nhóm hiểu rõ mình phải làm gì, giúp giảm thiểu tối đa sự dựa dẫm vào nhau và sự chồng chéo giữa các nhóm, đồng thời tạo cơ hội cho các nhân viên đang phát triển nhận lấy những trách nhiệm lớn hơn.” Bill Gates, 1996 HTML trở thành một phương pháp ưa thích để các nhà khoa học tại các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới trao đổi thông tin với nhau, tuy nhiên nó lại đòi hỏi các nhà khoa học phải có khả năng sử dụng các mã UNIX phức tạp. Chính sự bắt buộc này đã hạn chế số người sử dụng những gì sau này trở nên nổi tiếng với tên gọi là World Wide Web này. Việc phát triển một “trình duyệt” (browser) Internet đơn giản hóa do một chuyên gia viết phần mềm 21 tuổi tại Trung Tâm Ứng Dụng Siêu Ðiện Toán Quốc Gia tại Urbana-Champaign thuộc ÐH Illinois đảm nhiệm. Chàng trai này tên là Marc Andreessen, thuộc thế hệ mới của các “thiên tài điện toán”, và về sau đã trở thành một trong những nhân vật nổi tiếng song cũng gây ra nhiều cuộc tranh luận nhất. Không cần thông qua cấp trên của mình, Andreessen và bạn là Eric Bina cùng với một số người tại trung tâm đã bỏ ra hai tháng để viết nên một trình duyệt có tên là Mosaic. Trình duyệt này sau đó được cung cấp miễn phí trên Internet, giống như HTML lúc trước. Thật bất ngờ, World Wide Web đã trở nên gần gũi với những người vốn dĩ không phải là chuyên gia về điện toán. Ðó là mùa xuân năm 1993 và toàn bộ thế giới điện toán sắp sửa thay đổi thịt từ đây. “Hàng năm tại công ty chúng tôi các nhân viên điều hành cao cấp đều phải nghỉ dưỡng sức một thời gian. Truyền thống này đã có từ khi công ty chỉ mới 20 nhân viên và đã chứng minh tính hữu hiệu của nó trong nhiều năm nay. Chẳng hạn, trong những ngày chúng tôi còn là đối tác của IBM, một trong số các nhóm an dưỡng nhỏ này luôn có trách nhiệm xem xét vấn đề này. Chúng tôi luôn ở trong tư thế sẵn sàng đề phòng trường hợp đối tác lớn nhất của chúng tôi quyết định không cộng tác với chúng tôi nữa. Nhờ trải qua những lần thực tập như thế trong năm năm, chúng tôi đã dễ dàng ứng phó khi IBM không cộng tác nữa vào năm 1992.” Bill Gates, 1996 Về sau Gates thú thật rằng lần đầu tiên mình biết đến Internet, thông qua trình duyệt Mosaic, là vào tháng Tư Năm 1993. Nhưng Gates không mấy quan tâm và, theo nhiều nguồn tin, chỉ đến tháng 10 năm đó Gates mới bắt đầu ghé mắt xem lại. Vào thời điểm đó, cũng y như giới truyền thông, Gates vẫn còn chúi mũi vào siêu xa lộ thông tin. Gates tỏ ra quan tâm đến các dịch vụ trực tuyến đang tăng trưởng như Prodigy, CompuServ và America Online vốn đang nhanh chóng ký được hợp đồng với các khách hàng muốn có các dịch vụ thông tin của họ do các tạp chí, báo chí, tạp chí khoa học và các công ty đa truyền thông như Time-Warner cung cấp. Microsoft đã thăm dò công ty nhỏ nhất trong 3 công ty lúc bấy giờ là America Online về việc nắm quyền quản lý và chuyển nó thành một phần trong chương trình Windows 95, tuy nhiên Chủ tịch công ty này, Steve Case, là một con người đầy tham vọng nên không có ý định sang nhượng công ty của mình. Vì vậy Gates đã bật đèn xanh cho phép Microsoft tự phát triển dịch vụ trực tuyến của riêng mình để đưa vào trong Windows 95 mặc dù trong lòng Gates lo rằng không đủ thời gian chuẩn bị để kịp đưa vào Windows 95 đã được dự kiến tung ra vào tháng 6 năm 1994. Ngày phát hành sản phẩm cuối cùng đã phải dời lại hai lần, lần đầu vào tháng 12/1994 và lần thứ hai vào tháng 8/1995. Ngay cả khi Microsoft đã bắt tay vào việc phát triển một dịch vụ trực tuyến độc quyền của mình (mật danh là Marvel, một sự kiện mà Marvel Comics nghe phong phanh và phản đối) thì vẫn có một số ít người tại Microsoft tin rằng nhất thiết phải nhận ra tiềm năng lớn mạnh của Internet một cách rõ ràng hơn và cần phải đầu tư vào đó càng sớm càng tốt. Một trong những người có niềm tin mãnh liệt nhất là Ron Glaser, lúc đó thật ra đang nghỉ phép sau mười năm làm việc tại Microsoft và đang có kế hoạch lập công ty cho riêng mình. Nhưng Bill Gates đã thuyết phục Glaser sang làm cố vấn cho dự án Marvel với lịch làm việc khoảng mười hai giờ mỗi tuần. Như James Wallace đã kể lại trong quyển Nỗ Lực Vượt Bậc của mình thì Glaser đã tuyển mộ Russ Siegelman, người đã vận động hành lang cho dự án Marvel, về chịu trách nhiệm dự án này. Bằng cách khuyến khích các nhân viên cùng cộng tác làm việc và trao đổi ý kiến với nhau, Gates mong mỏi tạo ra một đội ngũ nhân sự năng nổ và hứng thú trong công việc kéo dài hàng giờ để đạt được các mục tiêu cụ thể Chủ ý của Glaser là cùng với Siegelman xây dựng một địa chỉ Internet không độc quyền, tuy nhiên ngay trước ngày dự kiến sẽ gặp nhau thì Siegelman bị chứng phình não cần phải giải phẫu. Vì vậy Siegelman phải đứng ngoài cuộc mãi đến tận tháng 12/1993. Theo Wallace thì Glaser có nói rằng: “Tôi không muốn tùy tiện với nhóm làm việc khi Russ còn chưa khỏe lại. Vì vậy, trước tiên tôi dự định sẽ dạy cho nhân viên của Microsoft về Internet 101.” Tuy nhiên việc dạy dỗ đã không diễn ra và Glaser không muốn trực tiếp gặp Gates để bàn việc này khi Siegelman chưa khỏe lại. Glaser có đưa tài liệu về “Internet 101” cho trợ lý kỹ thuật của Gates là Steve Sinofsky và cuối cùng người cùng hai lập trình viên cao niên là James Allard và Ben Slivka đóng vai trò chủ chốt trong việc thuyết phục Microsoft toàn tâm toàn ý với Internet. Marc Andreessen, đồng sáng lập công ty Netscape Communications vào tháng 4/1994 Marc Andreessen là phó chủ tịch phụ trách công nghệ của Netscape Communications. Andreessen phát triển ý tưởng của trình duyệt NCSA Mosaic dùng trên Internet vào mùa thu năm 1992 trong khi đang còn theo học tại đại học Illinois và là một thành viên tham mưu của Trung Tâm Ứng Dụng Siêu Máy Tính Quốc gia (NCSA) đặt tại Champaign, Illinois. Anh tạo ra công cụ giúp di chuyển trên mạng Internet thân thiện về dễ dùng này cùng với một nhóm sinh viên và nhân viên tại NCSA vào đầu năm 1993. Tại Netscape Communications, Marc đảm nhận trọng trách đề ra và giám sát hướng đi k thuật cho công ty. Anh nhận bằng Cử nhân ngành Khoa học Máy Tính của trường Illinois năm 1993. Mặc dù Bill Gates đã được Steve Sinofsky trình bày minh bạch về những gì đang diễn ra trên Internet nhưng phải đợi đến khi phần mềm Mosaic Navigator của Netscape xuất hiện vào tháng 10/1994 thì Microsoft mới huy động toàn bộ tiềm lực to lớn của mình vào việc sáng lập một bộ dáng chính cho Internet. Netscape chỉ là một công ty bé xíu do Jim Clark lập ra. Jim Clark trước đây là giám đốc công ty Silicon Graphics (công ty điện toán thực hiện kỹ xảo cho phim “Công Viên Khủng Long K Jurassic”) nhưng đã từ chức vào tháng 2/1994 vì bất đồng ý kiến với các thành viên khác trong Hội Ðồng Quản Trị về định hướng phát triển công ty. Cùng lập nên Netscape với Jim là thần đồng Marc Andreessen, trước đây từng là người đóng góp chủ yếu trong việc viết ra phần mềm Mosaic tại Urbana- Champaign thuộc trường ÐH Illinois. Andreessen lúc ấy (tháng 12/1993) đã nhận bằng cử nhân ngành Ðiện Toán. Biết tiếng của Andreessen, Clark lần theo dấu vết và gởi cho một thư điện tử. Cả hai người sau đó đã thuyết phục bạn của Andre- essen là Eric Bina, cùng với một số người khác đã từng cộng tác trong dự án Mosaic đầu tiên, tham gia vào công ty. Netscape được thành lập vào đầu tháng 4/1994 và chỉ sáu tháng sau, phiên bản đầu tiên của trình duyệt mới ra đời. James Wallace kể: “Khoảng mùa thu năm 1994, khi hàng ngàn người sử dụng máy tính bắt đầu chép trình duyệt mới của Netscape từ trên mạng xuống thì số lượng người sử dụng Internet cũng đang bùng nổ khoảng 10% mỗi tháng. Phần đông những người sử dụng mới chỉ quan tâm đến một lĩnh vực trong Internet – đó là World Wide Web. Từ khoảng 50 địa chỉ thương mại vào tháng 1/1993, đến tháng 10 thì Web đã có khoảng 10.000 địa chỉ như thế này.” Microsoft cũng cử riêng một nhóm nhỏ phát triển trình duyệt từ tháng 8 và đang cùng bàn bạc với 2 công ty khác là Booklink Technilogies và Spyglass về việc ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng trình duyệt của họ. Mỉa mai thay, Spyglass lại có quyền sử dụng phiên bản Mosaic đầu tiên do Marc Andreessen và nhóm bạn của anh ta viết khi còn ở ÐH Illinois, còn Booklink thì đã phát triển một trình duyệt riêng. Sự việc càng rắc rối khi công ty của Clark và Andreessen đổi tên thành Netscape vào mùa thu năm 1994. Ban đầu công ty này có tên là Mosaic Communications những đã bị ÐH Illinois phản đối dữ dội. Vì vậy theo James Wallace, Clark và Andree ssen không những phải đổi tên công ty thành Netscape Communications Corpo- ration mà còn phải bồi thường thiệt hại cho ÐH Illinois và Spyglass với số tiền là 2,7 triệu đôla. Microsoft đã tiến gần đến đích trong việc thuyết phục Booklink bán trình duyệt cho mình, tuy nhiên do các điều khoản thô bạo mà đến phút cuối Booklink đã ngã sang bán cho America Online. Lúc bấy giờ Microsoft rơi vào một tình thế vô cùng khó khăn. Rõ ràng là để có được một trình duyệt kèm theo Windows 95 để kịp phát hành vào tháng 8/1995 (đã bị hoãn hai lần) Microsoft phải ký được hợp đồng sử dụng một trình duyệt nào đó và tìm cách hợp nhất nó với Windows 95 thay vì phải bắt tay làm từ đầu. Chính vì vậy cuối cùng Bill Gates đã ký hợp đồng với Spyglass vào ngày 16/12/1994. Vào khoảng thời gian mà Microsoft tung ra Windows 95 (tháng 8/1995) thì Netscape đã được người dùng chấp nhận và đủ thực lực để trở thành một công ty phần mềm lớn mạnh trong thị trường trình duyệt. Ấy là mội người nghĩ vậy thôi! Chỉ cần cho công ty mình chạy vòng vo trong đúng một năm để tận dụng kỳ tích Internet, Bill Gates đã có thể dòm chừng để công ty Microsoft không hoàn toàn bỏ lỡ ngã rẽ quan trọng này trên con đường hoạn lộ. Bản thân Gates từ sau đó đến nay trở thành một trong những người ủng hộ mạnh bằng một tầm nhìn bao quát về vị trí của Internet trong sự phát triển của nền công nghệ điện toán tương lai. Thật vậy, chỉ cần một bước sải, Microsoft đã có thể khép kín toàn bộ sự vòng vo của mình một cách đẹp mắt bằng cách tung một khoản đầu tư khá lớn nhưng không tiết lộ là bao nhiêu cho một công ty khác ở Seattle, công ty Progressive Networks, vào tháng 7/1997. Công ty này chuyên sản xuất phần mềm dùng để thuyết trình băng âm thanh và hình ảnh tốc độ chậm trên Web. Người sáng lập và đứng đầu công ty này không ai khác hơn là Ron Glaser, cựu ủy viên điều hành của Microsoft, người đã làm việc tận tụy để ban điều hành Microsoft hiểu được cặn kẽ tầm quan trọng của Internet. Chương 5 CUỘC CẠNH TRANH KHỐC LIỆT “Chỉ vì gần đây có ai đó thống kê cho rằng tôi là doanh nhân giàu có nhất thế giới rồi kết luận rằng tôi là một thiên tài thì điều đó không đúng. Thành công của tôi trong kinh doanh phần lớn nhờ tôi có khả năng tập trung vào các mục tiêu lâu dài và biết nhắm mắt làm ngơ trước những điều vô bổ ngắn hạn. Ðể có một tầm nhìn xa rộng không nhất thiết phải có một đầu óc thông minh, sáng suốt mà chỉ cần có một tấm lòng tận tâm, tận lực.” Bill Gates, 1995 “Microsoft là một con cá mập trắng khổng lồ không kiêng cữ bất cứ thứ gì. Nó chỉ quan tâm đến sự thèm ăn của nó. Khi nó đói, nó ăn. Chỉ có vậy thôi!” Michael Kertzman, Tổng giám đốc Sybase, phát biểu quan điểm của nhiều đối thủ của Microsoft, 10/1997 K hông một ai trong thế giới kinh doanh khi đã thành công và hùng mạnh như Bill Gates lại không có kẻ thù. Và Gates là người rất nhiều kẻ thù. Một số ít trong số họ dường như chỉ soi mói vào gia tài kếch sù của Gates; số còn lại, hầu hết cũng tự tạo lập được gia sản riêng, cũng như Gates, họ bắt đầu vung tiền ra. Bản thân những con người này cũng không hề tức tối với sự thành công của Gates theo nghĩa ghen ghét thương tình. Ðiều khiến cho họ vô cùng tức giận là Microsoft, với vai trò thống trị trên thị trường hệ điều hành, bắt đầu với MS-DOS và càng trở nên lớn mạnh hơn qua loạt phần mềm Windows, sẽ có khả năng chèn ép các công ty khác có sản phẩm tốt hơn, xua họ ra vị trí chầu rìa và rối tống khứ họ hoàn toàn ra khỏi thế giới kinh doanh. Rốt cuộc, chính quyền lực thao túng của Microsoft đã tạo ra cơn giận này. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các đối thủ cạnh tranh trong mọi lĩnh vực kinh doanh dè bỉu sản phẩm của nhau. Theo luật pháp quy định, trong cạnh tranh công nghiệp không ai được sử dụng các hình thức quảng cáo để chê bai, công kích đối thủ như đã dùng trong chính trị, tuy nhiên các công ty quảng cáo cừ khôi vẫn tìm ra những cách tinh vi để tạo ra sự so sánh gây tâm lý ác cảm đối với đối thủ cạnh tranh. Mặc dù vậy không có luật nào cấm một giám đốc điều hành một công ty này chê bai sản phẩm của một công ty khác khi tiếp xúc với giới báo chí. Khi đó nếu công ty bị chê bai cảm thấy không chịu được và luật sự của họ thấy có đủ cơ sở để kiện thì có thể nộp đơn lên Ủy Ban Thương Mại Liên Bang (FTC). Ðó là những gì đã bắt đầu xảy ra trong thế giới điện toán từ đầu thập niên 90. Rất nhiều đối thủ cạnh tranh đã nộp đơn kiện về cách vận dụng kinh doanh của Microsoft, trong đó nổi bật nhất là hai người: Phillipe Kahn, sáng lập viên người Pháp của hãng Borland International và Raymond Noorda, hãng Novell Data Systems. Biểu tượng một số công ty thù địch với Microsoft Ở Năm 1982 khi đặt chân đến california, Kahn đã 30 tuổi. Ở độ tuổi này mới đặt chân vào lãnh vực điện toán thì xem như đã muộn, nhưng Kahn vốn xuất thân là một nhà toán học và chính nhờ vào tài năng kỹ thuật mà Kahn đã nhanh chóng làm cho công ty phần mềm bé cỏn con, lập ra từ một xưởng sữa chữa ô tô tại Thung Lũng Scott gần San Jose, trở thành công ty phần mềm lớn thứ 3 sau Microsoft và Novell. Chỉ trong vòng một năm, Kahn tung ra một ngôn ngữ lập trình giá rẻ có tên là Turbo Pascal. Tờ New York Times đã viết như sau: “Anh ta bán phần mềm ngôn ngữ lập trình của mình theo như đơn đặt hàng với giá chỉ bằng một phần nhỏ so với giá của các đối thủ lớn như IBM hay Digital Resesrch.” Sau khi Turbo Pascal, Kahn lại tung ra Sidekick và chẳng lâu sau, trở thành một phần mềm quản lý thông tin và thời khóa biểu phổ biến nhất trên các máy tính cá nhân. Tuy nhiên, một năm Kahn giành được sự kính trọng của mọi người nhờ vào thiên tài kỹ thuật, mặt khác kahn cũng nổi đình nổi đám vì cá tính điên rồ của mình. Thậm chí chính Kahn cũng tự trào rằng mình là “kẻ man di mọi rợ”, leo lên xe hơi và phóng bạt mạng, dành nhiều thời gian ngao du với chiếc du thuyền của mình, thổi kèn saxophone và còn ghi âm hai album với các tay chơi nhạc Jazz nổi tiếng – cho phí tính vào công ty mình. Kahn và Gates ghét nhau kinh khủng. Kahn thì bảo rằng Microsoft được điều hành theo kiểu “Ðức Quốc Xã” còn Gates thì nói với tờ Times rằng: “Phillipe Kahn chỉ giỏi chơi Saxophone và lái du thuyền, chứ kiếm tiền còn kém lắm.” Trong quyển Nổ Lực Vượt Bậc James Wallace tiết lộ rằng tại công ty Microsoft có một nhóm nhân viên mặc áo thun in dòng chữ “Delete Phillipe.” (Xóa Bỏ Phillipe). Và đó chính là những gì Gates phải làm, mở đầu bằng việc mua Fox Softwate, một trong những công ty cạnh tranh chủ yếu với Borland trong lĩnh vực sản xuất phần mềm cơ sở dữ liệu. Vụ mua bán thành công mỹ mãn vào năm 1992 với giá là 173 triệu USD. Với lực lượng bán hàng của mình, Microsoft đã thành công trong việc tăng thị phần của FoxPro trong giới tiêu thụ, từ 10% lên 15% chỉ trong vòng vài tháng. Cũng trong tháng 12 năm đó, Microsoft tung ra phần mềm cơ sở dữ liệu của riêng mình tên là Access và bán với giá rất thấp để đốn gục Borland. Thấm đòn, Borland bị lỗ nặng và Kahn phải liên tục cắt giảm nhân sự của công ty khi bản thân anh phạm phải sai lầm và trễ hẹn trong việc cho ra đời các sản phẩm mới. Sự thù hận cá nhân giữa Kahn và Gates lại càng không thể nguôi ngoai khi vợ trước của Kahn bắt đầu có mối quan hệ tình cảm với người sáng lập Microsoft. Trái với Kahn, sự ác cảm giữa Raymond Noorda và Gates dễ hiểu hơn nhiều, nó xuất phát từ quan điểm kinh doanh thô bạo của Microsoft. Dù không phải là một người có đầu óc kỹ thuật, nhưng Noorda lại là một nhà quản lý có căn cơ. Khi được bổ nhiệm điều hành công ty vào năm 1982 khi đã 58 tuổi, Noorda đã vực dậy được một công ty Novell đang lúc khốn đốn. Gates đã cố gắng để ngăn không cho Novell mua lại một công ty phần mềm khác có tên là Aston-Tate vào năm 1988 (về sau Borland International cũng đã mua được công ty này và vụ mua bán đã trở thành một thảm họa cho Borland vì nợ nần càng thêm chồng chất). Năm 1991, mặc dù có xích mích nhưng Noorda vẫn sẵn lòng đàm phán khi Gates tìm đến và gợi ý hợp nhất hai công ty. Novell là công ty vô địch trong việc sản xuất phần mềm mạng để kết nối các máy tính lại với nhau, một lĩnh vực mà Microsoft thực sự yếu kém, nhưng lại là một lĩnh vực mà Gates rất quan tâm và quyết tâm theo đuổi. Nhưng sau đó Microsoft đơn phương hủy bỏ việc làm ăn này với Novell, còn Noorda chia tay mà lòng cay đắng khi hiểu ra rằng Gates thực ra chỉ quan tâm đế việc dò xét những thông tin và những hoạt động bên trong của Novell mà thôi. Chính vì thế cả Kahn và Noorda đều rất vui mừng khi được hỗ trợ Ủy Ban Thương Mại Liên Bang (UBTMLB) trong việc điều tra về hoạt động kinh doanh của Microsoft suốt nửa đầu thập niên 90. Mối quan tâm của UBTMLB khởi đầu từ một bản hợp đồng giữa IBM và Microsoft về việc phát triển phần mềm OS/2, đã khiến các cơ quan chống độc quyền phải lên tiếng. Cuối cùng dù bản hợp đồng đã bị hủy bỏ nhưng UBTMLB đã thu được rất nhiều thông tin về Microsoft và cũng đã nhận được rất nhiều đơn kiện của các đối thủ về cách thức kinh doanh của Microsoft nên Ủy ban này quyết định tiến hành điều tra. Các vụ kiện độc quyền luôn rất phức tạp, hơn nữa trong một lĩnh vực điện toán thì luật pháp thường chỉ được áp dụng một cách chiếu lệ. Tuy nhiên có hai khu vực “tối” khiến UBTMLB phải chú ý đến. Khu vực thứ nhất là việc thỏa thuận giữa Microsoft và các nhà sản xuất máy vi tính qua đó Microsoft sẽ giảm giá đặc biệt cho họ khi mua phần mềm DOS, miễn sao khi một máy vi tính được xuất xưởng thì tiền bản quyền phải được trao cho Microsoft, bất kể chiếc máy đó có cài hệ điều hành DOS hay không. Ở đây, cậu hỏi được đặt ra là tại sao một nhà sản xuất máy vi tính lại phải vài hệ điều hành khác do đối thủ của Microsoft sản xuất trong khi họ đã trả tiền mua DOS rồi? Khu vực thứ hai mà UBTMLB quan tâm bắt nguồn từ các đơn kiện của các đối thủ của Microsoft cho rằng Microsoft đã vi phạm pháp luật. Họ không nhận được thông tin cần thiết với họ từ Microsoft khi hãng này tung ra một hệ điều hành mới trong một khoảng thời gian hợp lý, đủ để họ phát triển các phần mềm ứng dụng có thể làm việc trên hệ điều hành, thí dụ, DOS cho Windows. Người ta nghi ngờ có thể bộ phận lập trình ứng dụng của Microsoft đã được cung cấp các thông tin này đầu tiên và khởi sự viết trước các trình ứng dụng, bất chấp luật pháp quy định rõ rằng các đối thủ cạnh tranh cũng phải được nhận các thông tin đó cùng lúc.