🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Biên Niên Sử Chrestomanci tập 1: Quý Nhân Phù Trợ - Diana Wynne Jones full prc pdf epub [Kỳ Ảo] Ebooks Nhóm Zalo Tên sách: Biên niên sử Chrestomanci tập 1 - QUÝ NHÂN PHÙ TRỢ Tác giả: Diana Wynne Jones Nhà xuất bản: Trẻ Năm xuất bản: 2002 Biên dịch: Anh Việt. --------- Đánh máy: vongtronkhuyet, Shinigami82, Iris_elizabeth, baby_cute, Jollie312, nguyen_ly, tuyenduong114 Chụp hình sách: vongtronkhuyet Sửa chính tả: vongtronkhuyet, poem spring Chuyển sang ebook: vongtronkhuyet Ngày hoàn thành: http://www.thuvien-ebook.com Phần giới thiệu là do mình search trên mạng, và thêm vài thông tin mình tìm được. Thông cảm, vì mình đánh máy chậm, nên chẳng muốn lãng phí thêm thời gian nghĩ ra lời giới thiệu, và thật ra mình cũng lười quá. Truyện này mình chỉ có bản cũ mình mua vào năm 2002 thôi do NXBtrẻ sản xuất, chứ mình không có bản mới nhất của Công ty cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam và nhà xuất bản Văn Học liên kết xuất bản. Vì hình bìa của bộ cũ không đẹp, nên mình lấy của bộ mới thay vào. Giới thiệu truyện: Bộ Biên niên sử Chrestomanci gồm có 6 cuốn: Quý nhân phù trợ; Chínmạng sống của Christopher Chant; Các pháp sư thành Caprona; Tuần lễphù thủy, Conrad's Fate, The Pinhoe Egg (theo như mình tìm được)của nữ nhà văn người Anh Diana Wynne Jones. Tác phẩm Quý nhân phù trợ ra mắt độc giả Anh quốc năm 1977. Đây là cuốn đầu tiên trong bộ Biên niên sử Chrestomanci. Cái tên của bộ sáchxuất phát từ cốt truyện về một loạt các đại pháp sư chín mạng đầy quyền phép, giữ chức vụ Chrestomanci. Những người này bản thân là các quan chức chính phủ chịu trách nhiệm giám sát việc thực thi pháp thuật trên Trái đất. Ai cũng bảo rằng Gwendolen Chant là một phù thủy bẩm sinh tài năng phi thường, nên thật hợp ý cô hết sức khi cô được mang về sống cùng một mái nhà với Đại pháp sư Chrestomanci. Em trai Eric của cô (thường bị gọi làCat) lại không hài lòng đến thế, vì cậu chẳng có tí tài phép nào.Tuy vậy, cuộc sống bên cạnh vị đại pháp sư vĩ đại với gia đình ông ta lại không phải là điều đứa nào chờ đợi và rồi chẳng mấy chốc bùa bắt đầu bay!... Vài dòng về tác giả: Tác giả Diana Wynne Jones sinh ngày 16.8.1934 tạiLondon, là nhà văn Anh chuyên viết các tác phẩm văn học kỳ ảo cho thiếu nhi và người lớn. Trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của bà có thể kể đến: bộ Biên niên sử Chrestomanci, tiểu thuyết Lâu đài bay của Howl và Chúa tể bóng tối xứ Derkholm. Tác phẩmChín mạng sống của Chiristopher Chantra mắt độc giả Anh quốc năm 1988. Đây là cuốn thứ hai trong bộ Biên niên sử Chrestomanci, mặc dù về trình tự thời gian lại là chuyện xảy ra trước tiên. Và Chín mạng sống của Christopher Chant đã đoạt giải sách đáng chú ýtrong năm của ALA (Hiệp hội thư viện Mỹ), được đề cử nhiều giải thưởngnhư Carnegie Medal và Nebula Award, ngoài ra đã được bán bản quyền tới 22 quốc gia trên giới. (Mình thích bộ này hơn, nhưng phải làm từ tập một đã) MỤC LỤC CHƯƠNG MỘT CHƯƠNG HAI CHƯƠNG BA CHƯƠNG BỐN CHƯƠNG NĂM CHƯƠNG SÁU CHƯƠNG BẢY CHƯƠNG TÁM CHƯƠNG CHÍN CHƯƠNG MƯỜI CHƯƠNG MƯỜI MỘT CHƯƠNG MƯỜI HAI CHƯƠNG MƯỜI BA CHƯƠNG MƯỜI BỐN CHƯƠNG MƯỜI LĂM CHƯƠNG MƯỜI SÁU BIÊN NIÊN SỬ CHRESTOMANCI tập 1 - QUÝ NHÂN PHÙ TRỢ CHƯƠNG MỘT (@vongtronkhuyet type) Cat Chant nể chị Gwendolen của mình ghê lắm. Chị nó là phù thuỷ. Nóthán phục và cứ quấn lấy con chị. Cuộc đời hai đứa đã trải qua nhiều biến động lớn và nó chẳng còn ai khác để mà bám víu. Biến động lớn đầu tiên xảy ra khi ba mẹ đem chúng theo trong chuyến du lịch nguyên ngày, xuôi dòng sông trên chiếc tàu guồng hơi nước. Họ đóng bộ thật bảnh. Gwendolen và mẹ diện bộ váy trắng thắt ruy-băng, Cat và ba diện bộ đồ “mồi” bằng vải gai xéc màu xanh. Đó là một ngày nóng bức. Tàu hơi nước đầy nghẹt người mặc đồ nghỉ mát. Họ cười rôm rả, nhấm nháp món ốc buxin kẹp trong những lát bánh mì trắng phết bơ, trong lúc dàn oóc-gan hơi nước của chiếc tàu guồng khẹt ra những làn điệu quen tai, khiến cho chẳng ai nghe được giọng nói của chính mình nữa. Quả là chiếc tàu hơi nước ấy đã quá tải và quá đát. Thế rồi có gì đó trục trặc ở bộ phận bánh lái. Vừa tới đập nước, cả đám người cười nói, ăn ốc, diện đồ vía đó bỗng bị cuốn phăng theo dòng nước. Họ va vào hàng cột đá vẫn dùng để chặn những người bị nước cuốn; còn chiếc tàu guồng hơi nước vốn dĩ đã cũ kỹ, giờ chỉ việc vỡ tan ra từng mảnh. Cat còn nhớ khi đó dàn oóc-gan vẫn đang chơi, trong khi những cánh guồng chới với khua đập lên bầu trời xanh. Những đám mây hơi nước phụt ra từ những đường ống bị vỡ, và tiếng la hét của đám đông bị chìm lỉm, khi tất tật mọi người trên tàu, không sót một ai, bị cuốn cả vào con đập. Đó là một tai nạn khủng khiếp. Báo chí gọi đó là Thảm hoạ Saucy Nancy. Các quý bà quý cô trong những bộ áo chật cứng , chới với, không cách nào bơi được. Cánh đàn ông trong bộ đồ bó sát bằng vải xéc xanh số phận cũng không khá hơn. Nhưng Gwendolen là phù thuỷ, nên nó không thể chết đuối được. Và Cat, nhờ choàng tay bám chặt người Gwendolen lúc chiếc tàu va vào cây cột, nên cũng sống sót. Có rất ít người khác sống sót sau vụ này. Sự kiện này làm cả nước bị sốc. Công ty tàu guồng và thị trấn Wolvercote chia nhau trang trải cho tang lễ. Người ta trao cho Gwendolen và Cat những bộ đồ đen nặng chịch mua bằng tiền công quỹ. Hai đứa đi theo sau dãy xe tang, trên một cỗ xe ngựa, được kéo bằng mấy con ngựa ô cắm lông vũ màu đen trên đầu. những người còn sót lại cũng ngồi trên xe cùng hai đứa. Cat nhìn họ và tự hỏi phải chăng họ cũng là phù thuỷ và pháp sư, nhưng nó chẳng thể nào biết được. Thị trưởng Wolvercote đã lập ra một quỹ cho những người sống sót. Tiền được rót đến khắp cả nước. Mấy người sống sót lấy phần của mình rồi ra đi. bắt đầu cuộc đời mới ở nơi khác. Chỉ còn lại Cat và Gwendolen, và do không ai dò tìm được người nào là bà con của chúng, cho nên chúng đành ở lại thị trấn Wolvercote. Hai đứa trở nên nổi tiếng suốt một dạo. Mọi người đều rất tử tế với chúng. Ai cũng nói, hai đứa bé mồ côi này mới xinh xắn làm sao. Đúng vậy, cả hai đứa đều tóc vàng, trắng trẻo, cặp mắt xanh biếc, trông rất hay trong bộ đồ màu đen. Gwendolen lại rất xinh và cao ráo so với tuổi của nó. Cat thì nhỏ con so với tuổi. Gwendolen đối với Cat dịu dàng như mẹ đối với con, nên ai ai cũng cảm động. Nhưng Cat có màng gì đâu. Sự quan tâm đó chỉ làm vơi đi một chút nỗi trống rỗng và lạc lõng trong lòng nó. Các bà các cô cho nó bánh và đồ chơi. Mấy Ủy viên Hội đồng thị trấn đến thăm, hỏi han nó đã thoát nạn bằng cách nào. Rồi ông thị trưởng gọi nó tới, vỗ vỗ lên đầu nó. Ông thị trưởng giải thích rằng tiền quỹ đã được đưa vào một tài khoản tín dụng cho đến khi hai đứa khôn lớn. Từ đây đến đó thị trấn sẽ trang trải cho việc giáo dục và nuôi dưỡng chúng. “Thế các bạn nhỏ muốn sống ở đâu nào?” Ông ấy thân mật hỏi. Gwendolen nói ngay rằng bà cụ Sharp ở nhà dưới đã xin nhận nuôi chúng. “Bà ấy tốt với chúng cháu lắm ạ,” con bé giải thích. “ Chúng cháu muốn sống với bà ấy.” Bà Sharp quả là rất tử tế. Bà cũng là phù thuỷ - bảng hiệu trong phòngkhách bà ghi rằng bà là Phù thuỷ có Bằng chứng nhận – và bà rất thích Gwendolen. Ông thị trưởng hơi nghi hoặc. Giống như tất cả những người không có phép thuật, ông không tán thành những ai có tài phép đó. Ông hỏi Cat cảm thấy thế nào về kế hoạch của Gwendolen. Cat sao cũng được. Nóthích sống trong căn nhà mà nó đã quen thuộc, cho dù là ở tầng dưới. Do ông thị trưởng cảm thấy rằng phải làm hết sức để hai đứa trẻ mồ côi được vui, nên ông đã chấp thuận. Gwendolen và Cat dời đến sống cùng bà Sharp. Nghĩ lại chuyện này, Cat cho rằng chính từ lúc đó nó mới dám tin chắc Gwendolen là phù thuỷ. Trước đó nó còn chưa biết chắc. Ngày xưa, khi nó hỏi ba mẹ, ba mẹ nó đã lắc đầu, xua tay, trông có vẻ không vui. Cat bối rối, bởi lẽ nó còn nhớ một vụ rắc rối khủng khiếp khi Gwendolen làm cho nó tự nhiên bị chuột rút. Nó thấy nếu chỉ vì vụ chuột rút này thôi thì ba mẹ nó chẳng có lý do gì la mắng Gwendolen cả, trừ phi Gwendolen quả thực là phù thuỷ và đã dùng phép thuật để làm cho nó bị chuột rút. Nhưng tất cả những chuyện đó giờ đã thay đổi. Bà Sharp chẳng dấu diếm gì nữa. “Con có tài phù thuỷ thực sự đấy, con thân yêu,” bà cười thật tươi với Gwendolen, “bà mà bỏ phí tài năng đó thì bà đúng là không làm tròn nghĩa vụ với con. Phải tìm ngay cho con một người thầy. Đầu tiên, cứ đến học lão Nostrum hàng xóm thì không đến nỗi quá tệ đâu. Lão có thể là thầy đồng hạng bét trong thị trấn, nhưng lão biết cách dạy dỗ đấy. Lão sẽ cho con một căn bản tốt con ạ.” Tiền học phép thuật chỗ lão Nostrum hoá ra lên tới một bảng mỗi giờ cho các lớp sơ cấp, và một guinea mỗi giờ cho các lớp nâng cao. Quá mắc, bà Sharp nói vậy. Bà đội chiếc mũ xịn nhất có tết tràng hạt màu đen, rồi đánh một vòng lên Toà thị chính để dò coi quỹ có chịu chi trả tiền học cho Gwendolen hay không. Ông thị trưởng đã từ chối trước sự bực dọc của bà. Ông nói với bà Sharp rằng thuật phù thuỷ không phù hợp với một nền giáo dục bình thường. Tràng hạt khua lách cách trên chiếc nón, bà Sharp trở về với vẻ bồn chồn, tay bê chiếc hộp các-tông dẹt mà ông thị trưởng trao cho bà, bên trong chứa đầy người thứ vặt vãnh, linh tinh mà các quý bà tốt bụng đã thu dọn từ phòng ngủ của ba mẹ nó. “Thành kiến mù quáng!” Bà Sharp hằm hè, quẳng chiếc hộp lên bàn bếp. “Con người ta có tài thì phải được quyền phát triển tài năng chứ… bà có nói với lão như vậy! Nhưng đừng lo, con ạ,” bà nói khi thấy Gwendolen trông như sắp nổi sùng. “Chuyện gì cũng xoay sở được thôi. Lão Nostrum sẽ dạy con miễn phí nếu ta tìm được đúng món gì để nhử lão. Ba mẹ tội nghiệp của con biết đâu chẳng để lại vài thứ đáng giá.” Miệng nói tay làm, bà Sharp lật ngược chiếc hộp trên bàn. Đó là một tập hợp kỳ lạ các món đồ vặt vãnh: thư từ, dây cột giày, đồ lưu niệm. Cat nghĩ có hơn một nửa số đồ vật này nó chưa từng thấy bao giờ. Có một tờ đăng ký kết hôn ghi rằng ông Francis John Chant đã kết hôn với CarolineMary Chant mười hai năm trước tại nhà thờ St Margaret, thị trấnWolvercote, cùng một bó hoa quắt queo mà mẹ nó hẳn đã cầm trong hôn lễ. Dưới bó hoa đó, nó tìm thấy đôi bông tai lấp lánh mà chưa bao giờ nó thấy mẹ nó đeo. Chiếc nón của bà Sharp khua lách cách khi bà cúi nhanh xuống món đồ vật này. “Một đôi bông tai kim cương!” bà kêu lên. “Mẹ các con hồi trẻ cũng lắm tiền ra phết! Giờ thì bà sẽ mang món này đến lão Nostrum… nhưng mình sẽ kiếm được bộn hơn nếu để cho ông Larkins coi qua một cái.” Ông Larkins có một cửa hiệu lạc xoong ở góc phố, có điều là hàng của ông không hẳn lúc nào cũng là đồ lạc xoong. Giữa những thanh rào bằng đồng thau và những chén dĩa bằng sành sứt mẻ, cũng có thể tìm thấy những món rất có giá. Lại có cả một tấm biển ghi hai chữ Hàng độc, có nghĩa là ông Larkins trữ cả cánh dơi, sa giông khô, và những chất liệu làm ra phép thuật. Khỏi nói, ông Larkins chắc chắn rất quan tâm đến đôi bông tai kimcương. Cặp mắt bà Sharp cụp xuống, rồi lại hau háu ánh lên, khi bà thò tay vô nhặt đôi bông tai ra. Cùng lúc đó, Gwendolen cũng vươn tay ra để lấy đôi bông tai. Con bé không nói gì cả. Bà Sharp cũng thế. Cả hai bàn tay bất động trong khôngtrung. Có cảm giác như một cuộc đấu tranh dữ dội đang ngấm ngầm diễn ra. Bà Sharp rụt tay về. “Cảm ơn bà.” Gwendolen lạnh lùng nói, rồi cất đôi bông tai vào túi áo đầm đen của nó. “Con thấy bà nói đúng chưa?” bà Sharp nói, gắng lấy giọng tự nhiên. “Con đích thực là có tài, con thân yêu!” Bà trở lại lục lọi đồ vật khác trong chiếc hộp. Bà lật lật một ống điếu cũ, những dải ruy-băng, một cành bạch thạch thảo, mấy cái thực đơn, vé xem hoà nhạc, rồi bà cầm lên một cọc thư từ cũ. Bà miết ngón tay cái dưới mép cọc thư. “Thư tình đây”, bà nói. “Của ba các con gửi má các con.” Bà đặt cọc thư xuống mà không hề nhìn. Rồi bà cầm cọc thư khác lên. “Của má các con gửi ba các con. Khỏi coi cũng biết.” Cat nhìn ngón tay to sù màu tia tía của bà Sharp đảo lượn trên cọc thư thứ ba. Nó nghĩ, làm phù thuỷ chắc tiết kiệm được khối thời gian. “Cái này là thư công việc,” bà Sharp reo lên. Ngón tay bà dừng lại và từ từ lần tiếp trên cọc thư. “Coi có cái gì đây?” bà nói. Bà gỡ lớp băng keo dính màu hồng quấn quanh cọc thư rồi cẩn thận lấy ra ba lá thư. Bà mở chúng ra. “Chrestomanci!” bà kêu lên. Vừa dứt lời, bà dùng một tay bụm lấy miệng và lẩm bẩm trong lòng bàn tay. Khuôn mặt bà đỏ dừ. Cat nhận ra ngay rằng bà đang sửng sốt, sợ hãi, háo hức, tất cả cùng một lúc. “Ông ta viết gì cho ba các con thế nhỉ?” bà nói sau khi đã bình tĩnh trở lại. “Coi đi bà,” Gwendolen đề nghị. Bà Sharp trải ba lá thư lên trên bàn nhà bếp. Gwendolen và Cat cùngcuối xuống đọc. Điều đầu tiên làm Cat rất ấn tượng là chữ ký trên cả ba lá thư: Chrestomanci Điều kế tiếp nó thấy là có hai lá thư được viết bởi cùng một nét chữ mạnh mẽ như bản thân chữ ký. Lá thứ nhất cách đây mười hai năm, không lâu sau khi ba mẹ nó kết hôn. Thư viết: Frank thân mến, Giờ thì đừng nên trèo cao. Ta chỉ đề nghị thế thôi vì ta tin điều đó sẽ giúp anh. Ta vẫn sẽ giúp bằng tất cả những gì ta có thể nếu như anh cho ta biết ta có thể làm gì. Ta cảm thấy hình như anh thỉnh cầu gì đó nơi ta. Thân ái, Chrestomanci Lá thứ hai ngắn hơn: Chant thân, Nhắn anh như cũ. Quỷ tha ma bắt anh đi! Chrestomanci Lá thứ ba ghi cách đây sáu năm, và một người khác viết. Chrestomanci chỉ ký tên mà thôi. Thưa ngài, Ngài đã được cảnh báo cách đây sáu năm rằng điều ngài thuật lại có thể xảy ra, và ngài đã tỏ ý rằng ngài không mong muốn sự giúp đỡ nào kể từ quý này. Chúng tôi không quan tâm đến các rắc rối của ngài nữa. Đây cũng không phải là cơ quan từ thiện. Chrestomanci “Thế ba các con đã nói gì với ông ta?” Bà Sharp thắc mắc, không giấu vẻ tò mò và khiếp hãi. “Này… con nghĩ sao, con?” Gwendolen xoè rộng hai bàn tay trên mấy lá thư, tựa hồ như đang sưởi ấm cho chúng. Cả hai ngón út của nó giần giật. “Con không biết. Chúng có vẻ quan trọng, nhất là thư đầu với cái thư cuối…, quan trọng ghê gớm…” “Chrestomanci là ai vậy?” Cat hỏi. Đây là một cái tên khó đọc. Cat đọc nó theo kiểu đánh vần, cố nhớ lại cách phát âm của bà Sharp: KREST-OH-MAN-SI. “Đọc vậy có đúng không bà?” “Đúng đấy. Nhưng ông ta là ai thì con đừng thắc mắc làm gì, con yêu quý,” bà Sharp nói. “Mà con gọi là quan trọng thì vẫn còn chưa đủ đâu. Phải như bà biết ba con đã nói gì. Cứ theo như cách viết thì chắc là một điều gì đó mà không ai dám nói. Coi ba con đã nhận lại được thứ gì kìa! Ba chữ ký thứ thiệt! Lão Nostrum dám đánh đổi cả cặp mắt của lão lấymấy thứ này cho coi. Trời! Con hên thiệt đó! Với mấy thứ này ổng sẽ chịu dạy con liền! Bất cứ thầy đồng nào ở xứ này cũng sẽ như vậy thôi.” Vẻ hớn hở, bà Sharp bắt dầu cất các đồ vật trở vào hộp. “Cái gì thế này?” Một vì diêm nhỏ màu đỏ rơi ra từ cọc thư công việc. Bà Sharp cẩn thậnnhặt lên và cũng cẩn thận như thế, bà mở nó ra. Còn chưa đầy một nửa số que diêm bằng các-tông mỏng dánh. Nhưng có ba que diêm đã đốt mà không bị xé khỏi tập diêm. Que thứ ba cháy dọc thân nhiều đến mức Cat nghĩ dám nó làm cháy hai que kia. “Hừm,” bà Sharp nói. “Bà nghĩ con nên giữ lại món này.” Bà trao tập diêm đỏ cho Gwendolen và nó bỏ ngay lập tức vào túi áo đầm cùng với đôi bông tai. “Còn của con là món này, có chịu không hả con thân yêu?” Bà Sharp nói với Cat, sực nhớ rằng nó cũng muốn có thứ gì. Bà chìacho nó cành bạch thạch thảo. Cat đã dắt vào lỗ khuy cài áo cho đến ngày cành hoa đó rã rời thành từng mảnh. Sống với bà Sharp. Gwendolen như lớn phổng lên. Tóc của nó có vẻnhư ánh vàng hơn, mắt nó xanh thẫm hơn, và điệu bộ nó hớn hở, tự tin. Có thể Cat đã hơi tóp lại chút đỉnh để nhường chỗ cho con chị, nó cũng không biết nữa. Chẳng phải là nó không hạnh phúc. Bà Sharp đã tốt với nó khôngkém Gwendolen. Các Ủy viên Hội đồng thị trấn, cùng với các phu nhâncủa họ vẫn thăm hỏi nó mỗi tuần mấy lần và gặp ở phòng khách là họ vỗ vỗ lên đầu nó. Họ cũng đã gửi nó và Gwendolen đến trường học tốt nhất ở Wolvercote. Ở đó Cat rất vui. Chỉ khổ một điều là Cat thuận tay trái, và các thầy cô cứ bắt phạt nó hoài khi chộp được nó đang viết bằng tay trái. Nhưng trường nào Cat học mà chả như thế, nó quen rồi. Nó có cả đống bạn. Thế mà, ở sâu thẳm đáy lòng, nó vẫn lạc lõng và cô đơn. Vậy là nó bám riết lấy Gwendolen vì con bé là gia đình duy nhất của nó. Gwendolen nhiều khi rất bực bội với Cat, do quá bận rộn, và chỉ mong sao được thoát nợ. “Cat, đừng có bám theo tao nữa,” Gwendolen vẫn nói vậy. “Liệu hồn đấy!” Xong con bé thường nhét vội mấy cuốn sách bài tập vào hộc bàn rồi lỉnh nhanh sang nhà bên để học với lão Nostrum. Lão Nostrum mừng húm được dạy dỗ Gwendolen để đổi lấy mấy lá thư. Mỗi năm một kỳ, bà Sharp trao cho lão một lá, bắt đầu từ lá cuối. “Không đưa tất cả một lúc được, lỡ đâu lão nổi lòng tham thì sao?” Bà nói. “Để sau cùng ta mới đưa cho lão lá hấp dẫn nhất.” Gwendolen tiến bộ vượt bực. Là một phù thuỷ triển vọng nên nó khỏi phải qua cuộc thi kiểm tra pháp thuật lớp một, mà nhảy thẳng vào lớp hai. Ngay sau Giáng Sinh, nó đã học gộp luôn cả hai lớp ba, bốn. Đến mùa hènăm sau, nó đã bắt đầu học lớp pháp thuật nâng cao. lão Nostrum coi nó là học trò cưng - lão nói vọng qua bờ tường giữa hai nhà với bà Sharp như vậy - và Gwendolen luôn trở về từ các buổi học ở nhà lão với vẻ hài lòng, rạng rỡ và hoan hỉ. Nó theo học lão Nostrum mỗi tuần hai tối, khệ nệ ômtheo chiếc hộp phép hệt như những người đi học nhạc. Thật ra, những bài học nhạc là thứ mà bà Sharp cố nhồi cho Gwendolen, phần tiền công mà bà trích từ khoản tiền mà bà quản lý giùm cho Hội đồng thị trấn. Vì thấy lão Nostrum không lấy công cán gì ngoại trừ mấy lá thư, nên Cat nghĩ bà Sharp làm kiểu này là rất không ngay thẳng. “Bà phải dành dụm chút gì để đề phòng tuổi già chớ,” bà cáu kỉnh nói với Cat. “Bà nuôi nấng chúng mày có lợi lộc gì đâu, đúng không nào? Vả lại bà làm sao tin nổi chị mày vẫn nhớ đến bà một khi nó đã lớn lên và nổi tiếng. Ồ, không đời nào đâu. Bà không ảo tưởng về chuyện đó đâu.” Cat biết lời bà Sharp có thể đúng lắm chớ. Nó thấy hơi hơi tội nghiệp cho bà, vì bà chắc chắn là tốt rồi, và giờ đây nó biết bản thân bà chả phải là một phù thuỷ giỏi giang gì. Chữ Phù Thuỷ có Bằng chứng nhậntrên bảng hiệu trong tủ kính phòng khách nhà bà cho thấy bà thật ra chỉ là phù thuỷ ở đẳng cấp rất thấp. Người ta chỉ ghé nhà bà Sharp xin bùa khi không thể gặp được ba vị Phù thuỷ Chính hiệu ở cuối phố. Bà Sharp kiếm sống bằng cách làm chân rết cho ông Larkins ở cửa hàng lạc xoong. Bà kiếm cho ổng các loại Hàng độc - tức là chất liệu lạ dùng để luyện thần chú - từ mãi tít ở Luân Đôn. Bà rất tự hào về các mối quan hệ của bà ở Luân Đôn. “Chứ sao,” bà thường nói với Gwendolen. “Bà có những mối quan hệ, bà có đấy. Bà có những người sẵn sang kiếm ngay cho bà một vài lạng máu rồng bất cứ lúc nào bà yêu cầu, dù đó là bất hợp pháp đấy nhe. Ai mà có được bà rồi thì khỏi sợ thiếu thốn gì cả.” Mặc dù không nuôi ảo tưởng về Gwendolen, bà Sharp có lẽ vẫn hyvọng trở thành bà bầu của Gwendolen khi con bé lớn lên. Cat đoán vậy. Và nó thấy tội nghiệp cho bà Sharp. Nó biết chắc Gwendolen sẽ rũ bỏ bànhư quẳng chiếc áo cũ khi con bé đã trở nên nổi tiếng. Cũng như bà Sharp, Cat không nghi ngờ gì về việc Gwendolen sẽ trở nên nổi tiếng. Vì vậy, nó nói: “Lúc đó con sẽ lo cho bà.” Nó không thấy ý tưởng đó hay ho cho lắm, nhưng cảm thấy cần phải nói vậy. Bà Sharp mừng rơn. Để tưởng thưởng, bà thu xếp dạy cho Cat nhữngbài học âm nhạc thực thụ. “Vậy là ông thị trưởng khỏi kêu ca gì nhé,” bà nói. Bà tin rằng làm như thế là một phát tên trúng hai con chim. Cat bắt đầu học vĩ cầm. Nó nghĩ rằng mình tiến bộ khá nhanh. Nó tập dợt một cách cần cù. Nó chẳng bao giờ hiểu nổi vì sao những người mới dọn đến ở tầng trên cứ giẫm chân xuống sàn mỗi khi nó khởi sự chơi nhạc. Bà Sharp, bản thân bị điếc, cứ gật gù mỉm cười khi nó chơi và hết lời động viên. Một tối nọ, khi Cat mải miết tập, thì Gwendolen xộc vào và ném một câu thần chú vào mặt nó. Cat hoảng hốt nhận ra mình đang nắm trong tay cái đuôi của một con mèo bự vằn vện. Đầu con mèo đang áp vào cằm nó, còn nó thì đang kéo cưa cây vĩ trên lưng con mèo. Cat buông vội con mèo. Thế mà con mèo vẫn kịp táp vào dưới cằm nó và cào nó đau điếng. “Sao chị lại làm vậy?” Nó hỏi. Con mèo đứng dưới cột vòm. Nhìn Cat lừ lừ. “Vì mày chơi nhạc y như vậy đó!” Gwendolen đáp. “Tao chịu hết nổi rồi. Lại đây, Meo, meo.” Con mèo cũng chả ưa gì Gwendolen. Nó cào lên cánh tay mà con bé chìa ra. Gwendolen chộp con mèo. Con mèo bỏ chạy, với Cat rượt đuổi và la ó đằng sau. “Giữ nó lại đi! Đó là cây vĩ cầm của em mà! Giữ nó lại!” Nhưng con mèo đã trốn mất tiêu, và đó cũng là đoạn kết của bài học nhạc. Bà Sharp sững sờ trước cuộc trổ tài này của Gwendolen. Bà leo lênchiếc ghế ngoài sân và kể lại cho lão Nostrum qua bờ tường. Từ đó, câu truyện cứ lan rộng ra, đến tai tất cả mọi phù thuỷ và thầy đồng trong vùng. Khu xóm này có đầy nhóc phù thuỷ. Những kẻ cùng phường cùng hội vẫn thích túm tụm lại với nhau. Chỉ cần bước ra khỏi cổng nhà bà Sharp, rẽ tay mặt ra đường Coven, Cat đã phải băng qua, ngoài ba tấm bảngPhù Thuỷ Chính Hiệu, còn có hai bảng Phục Vụ Lên Đồng, một bảng Thầy Bói, một bảng Chiêm Tinh, một bảng Pháp Sư Thiện Chí. Nếu rẽ trái, nó sẽ băng qua chiếc bảng ghi ÔNG HERRY NOSTRUM A.R.C.MG, iảng Dạy Môn Lên Đồng, một bảng Thầy Đoán Mệnh, một bảng Ma Thuật Mọi Lúc Mọi Nơi, một bảng Nhà Ngoại Cảm, và cuối cùng là cửa hiệu của ông Larkins. Không khí trên đường này, và nhiều con đường quanh nó, quả là đặt sệt mùi ma thuật. Tất cả những người này đều có mối quan tâm rất lớn và hữu hảo với Gwendolen. Câu chuyện về con mèo gây ấn tượng ghê gớm nơi họ. Họ coi con mèo như một cục cưng của tạo hoá, và dĩ nhiên nó được gọi là Vĩ Cầm. Mặc dù vẫn xấu tính, gàn dở và kém thân thiện, Vĩ Cầm chả bao giờphải lo đói. Đám phù thuỷ lại coi Gwendolen như một cục cưng bự hơn. Ông Larkins tặng quà cho nó. Pháp Sư Thiện Chí, một chàng trai vạm vỡlúc nào cũng bức xúc chuyện cạo râu, cứ luôn lao vọt từ nhà ra mỗi khi Gwendolen đi qua và cứ trố mắt nhìn nó. Các bậc phù thuỷ khác nhau luôn luôn tìm tòi những câu thần chú đơn giản để tặng nó. Gwendolen rất coi thường những câu thần chú này. “Họ tưởng tao là con nít chắc? Tao đã bỏ xa cả dặm mấy trò ấy rồi!” Nó vẫn hay nói thế, gạt phăng mấy câu thần chú đời mới nhất qua một bên. Bà Sharp, người luôn hoan hỉ được hỗ trợ thuật phù thuỷ, thường cẩn thận thu thập những câu thần chú và đem giấu biệt đi. Nhưng có vài lần Cat bắt gặp những câu thần chú lặt vặt nằm lay lắt. Nó không kềm được việc thử mấy câu này. Nó ước gì có được dù chỉ một phần nhỏ tài năng của Gwendolen. Nó luôn hy vọng rằng, mình chỉ là một đứa chậm phát triển, và một ngày kia, một câu thần chú sẽ tác động lên mình. Nhưng những câu thần chú không bao giờ hiệu nghiệm, ngay cả cái câu thần chú biến những nút áo bằng đồng thau hoá thành vàng mà Cat đặc biệt thích. Nhiều Thầy Đoán mệnh cũng tặng quà cho Gwendolen. Nó nhận đượcmột quả cầu pha lê từ thầy Chiêm tinh và một bộ bài từ Thầy Bói. Thầyđoán mệnh thì xem mệnh cho nó. Những thứ đó khiến Gwendolen trở nên vênh vang, đắc thắng. “Tao sẽ nổi tiếng! Ông ấy nói chỉ cần tao đi đúng hướng là tao trị vì cả thế giới!” nó khoe với Cat. Mặc dù Cat không hoài nghi sự nổi tiếng của Gwendolen, nó vẫn khôngthể hình dung con bé trị vì cả thế giới, và nó nói toẹt ra điều đó. “Dù chị có lấy vua đi chăng nữa, chị cũng trị vì được một nước thôi chứ,” Cat phản bác. “Mà hoàng tử xứ Wales mới kết hôn năm ngoái rồi còn gì.” “Có khối cách để trị vì, đâu phải chỉ cách đó, đồ ngốc!” Gwendolen đốp lại. “Lão Nostrum có rất nhiều ý tưởng cho tao, mới khởi đầu thôi đó. Nhớ nè, sẽ có vài trở ngại. Sẽ có một sự thay đổi bởi vì tao sẽ phải vượt qua cái đều tệ hại nhất, và sẽ có một Kẻ-Lạ-Mặt-Tăm-tối thống trị. Nhưngkhi lão Nostrum nói tao sẽ trị vì thế giới thì mấy ngón tay của tao cứ run bật cả lên, cho nên tao biết đó là sự thật!” Có vẻ như sự tự tin cuồng nhiệt của Gwendolen không còn giới hạn nữa. Ngày hôm sau, cô Larkins Đoán mệnh gọi Cat đến nhà và đề nghị xemmệnh cả cho nó. CHƯƠNG HAI (@vongtronkhuyet type) Cô Larkins làm cho Cat phát hoảng. Cô ấy là con gái của ông Larkins, chủ cửa hiệu lạc xoong. Cô Larkins trẻ đẹp và có mái tóc hoe đỏ trông dữ dội. Cô ấy vấn mái tóc đỏ dựng thành một búi trên đỉnh đầu, từ đó hai dải tóc đỏ tuột ra và rối lên, trông rất hợp với đôi bông tai giống nhưng những chiếc vòng cho mấy con két đậu. Cô Larkins là người đoán mệnh rất tài, và, cho đến trước khi câu chuyện con mèo trở nên nổi tiếng, cô ấy còn là cục cưng trong vùng. Cat còn nhớ ngay cả mẹ nó cũng tặng quà cho cô Larkins. Cat biết cô Larkins muốn xem mệnh cho nó là do cô ganh tỵ với Gwendolen. “Không, không cần đâu, con cảm ơn cô nhiều lắm.” Cat vừa nói, vừa lùi ra xa khỏi chiếc bàn nhỏ đặt những vật dụng để đoán mệnh của cô Larkins. “Thế này là tốt lắm rồi ạ. Con không muốn biết đâu.” Nhưng cô Larkins bước tới, chộp lấy hai vai nó. Cat vặn mình. CôLarkins thét vào tai nó một giọng đẫm mùi hương: “VIÔLÉT!” Đôi bông tai của cô lắc lư như những chiếc cùm, và cái áo bó chặt lấy ngực của cô kêu cọt kẹt khi cô dấn tới. “Thằng ngốc!” Cô Larkins nói bằng chất giọng giàu âm điệu và du dương của cô. “Cô có định làm đau con đâu! Cô chỉ muốn biết thôi mà.” “Nhưng… nhưng con không muốn,” Cat nói, vặn vẹo hết bên này sang bên kia. “Đứng yên coi!” Cô Larkins nói, cố nhìn thật sâu vào mắt Cat. Cat vội nhắm mắt lại. Nó vùng vằng còn dữ dội hơn nữa. Nó có thể vùng ra nếu như cô Larkins không đột ngột rơi vào một trạng thái đờ đẫn. Cat thấy mình bị níu lại bằng một sức mạnh mà cho dù đó là của một Pháp sư thiện chí thì cũng làm nó sững sờ. Nó mở mắt ra, thấy cô Larkins đang nhìn nó bằng ánh mắt trống rỗng. Cơ thể cô rung lên, làm chiếc áo bó lấy ngực lại kêu cót két giống như tiếng cánh cửa cũ đong đưa trước gió. “Ôi, làm ơn thả con đi!” Cat nói. Nhưng cô Larkins hình như không nghe thấy gì. Cat nắm lấy những ngóntay đang ghì chặt vai nó và cố gỡ chúng ra. Nhưng nó chẳng thể làm xê dịch được chúng. Thế là, Cat chỉ còn biết tuyệt vọng nhìn khuôn mặt đờ đẫn của cô Larkins. Cô Larkins há miệng và từ đó thốt ra một giọng nói rất khác lạ. Đó là một giọng nam, nghe sống động và hiền từ. “Con trai ơi, con đã giải toả một gánh nặng trong tâm trí ta,” giọng nói mang âm điệu có vẻ rất hài lòng. “Sắp có một thay đổi lớn đến với con. Nhưng con bất cẩn ghê quá - bốn mạng đã ra đi, và chỉ còn lại năm mạng. Con phải cẩn thận hơn mới được. Con đang gặp nguy hiểm từ ít nhất hai hướng, con có biết chuyện đó không?” Giọng nói dừng lại. Trong khi đó, Cat sợ hãi đến mức nó không dámcục cựa. Nó chỉ còn biết chờ đến khi cô Larkins hồi tỉnh lại, ngáp dài, và thả nó ra để lấy tay che miệng một cách lịch lãm. “Xong,” cô ấy nói bằng giọng bình thường của mình. “Rồi đó. Cô đã nói gì nào?” Khi hiểu rằng cô Larkins không hề hay biết gì về những điều cô ấy nói, Cat nổi cả gai ốc. Nó chỉ muốn bỏ chạy. Nó xông ra cửa. Cô Larkins rượt theo, chộp lại hai tay nó rồi lắc mạnh. “Nói đi! Nói coi nào! Cô đã nói những gì?” Do cô lắc quá mạnh, mái tóc đỏ của cô đổ xoã xuống. Chiếc áo bó ngực của cô lại cọt kẹt, nghe cứ như một tấm ván bị bẻ cong. Trông cô thật kinh khủng. “Cô đã nói bằng giọng nào?” cô gặng hỏi. “Giọng… giọng nam ạ,” Cat ấp úng. “Giọng có vẻ hiền lành, và không nói lung tung đâu ạ.” Cô Larkins có vẻ nghệt ra. “Giọng nam? Không phải Bobby hay Doddo… ý cô nói, đó không phải giọng con nít chứ?” Cat lặp lại những lời của giọng nói. Nó nghĩ nó có sống đến chín chục cũng chả thể nào quên được những lời nói đó. Nó được an ủi phần nào khi thấy cô Larkins cũng bối rối y như nó về những lời lẽ ấy. “Thôi được, cô nghĩ đó là một lời cảnh báo.” Cô nói một cách mơ hồ. Trông cô cũng có vẻ thất vọng nữa. “Không có gì khác à? Không lời nào về chị con sao?” “Không, không có gì cả ạ,” Cat đáp. “Thế đấy, chẳng được việc gì cả.” Cô Larkins nói, vẻ không vui. Rồi cô thả Cat ra để vấn lại mái tóc. Vừa lúc thấy an toàn, khi cả hai tay của cô Larkins bận loay hoay vấn tóc, Cat vùng chạy. Nó vọt thẳng ra đường, cảm thấy run lẩy bẩy. Thế rồi nó bị hai người khác tóm lại, hầu như cùng một lúc. “A. Bạn nhỏ Eric Chant đây rồi!” Lão Nostrum thốt lên, xông tới từ vỉa hè. “Cháu làm quen với anh trai William của ta rồi, đúng không nào, bạn nhỏ Cat?” Cat một lần nữa bị một cánh tay giữ lại. Nó cố gượng cười. Chả phải nó không ưa gì lão Nostrum. Chỉ có điều lão Nostrum này lúc nào cũng nói năng đùa cợt và cứ sau vài từ là lại gọi nó là “bạn nhỏ Chant”, khiến nó thấy khó mà biết phải đáp trả lão ra sao. Lão Nostrum nhỏ người và tròn lẳn, có hai dải tóc mai lốm đốm bạc. Lão còn bị lé con mắt bên trái, mà lúc nào cũng nhìn chếch sang bên. Cat cảm thấy con mắt này càng khiến nó khó nói chuyện với lão Nostrum. Liệu lão có nhìn và nghe nó nói hay không? Hay lão đang để tâm đi đâu với con mắt cứ lan man ấy? “Có… có, cháu có gặp anh của ông rồi,” Cat nhắc lão Nostrum. Lão William Nostrum vẫn đến thăm em đều đặn. Cat thấy lão gần như mỗi tháng một lần. Lão là một thầy pháp rất giàu có, hành nghề ở Eastbourne. Bà Sharp quả quyết rằng lão Henry Nostrum sống bám vàongười anh giàu có của mình, cả về tiền bạc lẫn những câu thần chú linh nghiệm. Dù sự thật là thế nào, Cat vẫn thấy lão William Nostrum này thậm chí còn khó nói chuyện hơn người em của lão. Lão ta bự gấp rưỡi lão Herry và luôn khoát bộ đồ buổi sáng với chiếc đồng hồ - dây chuyền đồ sộ bằng bạc vắt ngang chiếc áo chẽn phục phịch của mình. Ngoài cái đó ra, lão đúng là hình ảnh của lão Herry Nostrum, ngoại trừ một điều là cả hai mắt lão đều bị lé. Cat luôn thắc mắc làm cách nào mà lão William nhìn thấy được mọi thứ. “Ông khoẻ không ạ,” nó lễ phép chào lão. “Khoẻ lắm.” Lão William nói bằng một giọng trầm, ảm đạm, như thể câu trả lời phải là ngược lạ mới đúng. Lão Henry Nostrum ngước nhìn nó, vẻ có lỗi. “Thế này nhé, bạn nhỏ Chant,” lão trình bày, “chúng ta đang gặp một trở ngại nhỏ. Anh của ta rất bực bội.” Lão hạ giọng xuống, và con mắt lan man của lão loang loáng khắp phía tay mặt của Cat. “Chuyện về mấy lá thư ấy mà. Thư của… cháu biết ai là người gửi rồi đó. Chúng ta không hiểu gì cả . Hình như chị Gwendolen của cháu cũngkhông biết gì. Bạn nhỏ Chant, cháu có tình cờ biết được vì sao người cha đáng kính và xấu số của cháu lại quen biết với… với, hãy tạm gọi ông ta là Nhân vật Uy Nghi đi, người đã ký tên trên mấy lá thư đó không?” “Cháu chẳng biết tí gì cả, cháu sợ lắm,” Cat nói. “Ông ta có bà con họ hàng gì với cháu không?” Lão Henry Nostrumướm hỏi. “Chant là một cái tên nghe có vẻ bà con xa gần đấy.” “Cháu lại cứ nghĩ nó là một cái tên không dính dáng gì,” Cat đáp. “Gia đình cháu không có họ hàng gì với ông ta cả.” “Nhưng về phía người mẹ yêu quý của cháu thì sao?” Lão Nostrum vẫn dai dẳng. Con mắt kỳ quặc của lão nhìn loanh quanh, trong khi người anh của lão cùng một lúc vừa rầu rĩ nhìn xuống vỉa hè, vừa nhìn lên cả các mái nhà. “Henry, chú cũng thấy là thằng bé tội nghiệp này không biết gì chứ,” lão William nói. “Anh thậm chí không tin được nó có thể nhớ được tên mẹ nó hồi chưa lấy chồng.” “Ồ, cái đó thì cháu biết ạ,” Cat nói. “Có ghi trên giấy tờ hôn thú của ba mẹ cháu mà. Mẹ cháu cũng tên là Chant.” “Lạ nhỉ!” Lão Nostrum nói, nhìn xoáy một bên mắt vào ông anh mình. “Kỳ lạ và đặc biệt chẳng ích lợi gì.” Lão William nhất trí. Cat muốn thoát khỏi họ. Nó cảm thấy đã gặp nhiều câu hỏi kỳ quái, đủ cho đến tận Giáng Sinh. “Dạ, nếu các ông nóng lòng muốn biết điều đó đến thế,” nó nói, “thì sao các ông không thử viết thư hỏi thẳng ông… ơ… ông Chres…” “Suỵt!” Lão Henry Nostrum ngắt lời một cách thô bạo. “Ậy!” Ông anh của lão gằn giọng, cũng thô bạo không kém. “Là con nói Nhân vật Uy Nghi ấy ạ.” Cat nói, hốt hoảng nhìn lão William. Cặp mắt lão William xói thẳng vào hai bên khuôn mặt nó. Cat bỗng sợ nhỡ đâu lão ta lại rơi vào trạng thái đờ đẫn giống như cô Larkins thì chết. “Được đấy, Henry, được đấy!” Bỗng lão Willliam reo lên. Rồi với vẻ đắc thắng ra mặt, lão ta nhấc ra từ thắt lưng chiếc đồng hồ - dây chuyền bằng bạc và rung rung nó. “Ý tưởng bằng bạc đấy!” lão ta reo to. “Thế thì cháu vui lắm ạ,” Cat lễ phép nói. Cháu phải đi bây giờ đây.” Nó vuột chạy hết tốc độ xuôi theo con đường. Khi ra khỏi nhà chiều hôm đó, nó đã tính kỹ sẽ rẽ phải và ra khỏi đường Coven, qua lối nhà của Pháp sư thiện chí. Như thế là khá phiền, bởi lẽ đó là một lối đi vòng khá xa để đến được nhà phần của lớn các bạn bè nó. Nhưng dù có thế nào thì cũng còn hơn là gặp lại cô Larkins hoặc hai ông Nostrum. Chỉ điều đó không thôi cũng làm cho Cat mong cho ngày khai giảng sớm bắt đầu. * * * Khi Cat về tới nhà tối hôm đó, Gwendolen cũng vừa vặn trở về từ buổi học với lão Nostrum. Gwendolen vẫn giữ cái vẻ rạng rỡ và hoan hỉ thường lệ, nhưng nó cũng có thêm cái vẻ bí mật và quan trọng nữa. “Ý tưởng viết thư cho ông Chrestomanci của mày hay lắm đấy,” nó nói với Cat. “Tao không hiểu nổi tại sao tao không nghĩ đến điều này trước đây. Dù sao, tao cũng vừa viết xong.” “Tại sao chị lại viết? Ông Nostrum không viết được sao?” Cat hỏi. “Tao viết thì tự nhiên hơn,” Gwendolen nói. “Tao nghĩ ông ấy lấy chữ ký của tao thì cũng đâu có sao. Lão Nostrum đọc cho tao viết.” “Tại sao ông Nostrum lại muốn biết bằng mọi giá?” Cat hỏi tiếp. “Chứ không phải mày cũng muốn biết à?” Gwendolen hể hả nói. “Đâu có,” Cat nói. “Em đâu có muốn.” Vì câu chuyện gợi lại trong tâm trí nó những gì đã xảy ra sáng nay, mà đến giờ còn khiến nó gần như mong mỏi cho học kỳ mùa thu sớm bắt đầu cho rồi, nên Cat nói: “Em chỉ mong cho cây dẻ ngựa mau chín.” “Cây dẻ ngựa!” Gwendolen thốt lên, vẻ ghê tởm cùng cực. “Đầu óc mày đúng là bã đậu! Chúng chưa thể chín trong ít nhất sáu tuần nữa.” “Em biết chứ,” Cat nói. Và trong hai ngày sau đó, nó vẫn luôn phải thận trọng rẽ phải mỗi lần ra khỏi nhà. Đó là những ngày vàng son tuyệt đẹp, khi tháng Tám trôi qua, nhường chỗ cho tháng Chín. Cat và đám bạn của nó thường đi dọc theo bờ sông. Vào ngày thứ hai, chúng phát hiện một bức tường và trèo qua. Sau tường là một vườn cây ăn trái, và ở đó chúng khá là hên khi phát hiện được một cái cây trĩu nặng những trái táo non trắng và ngọt lịm. Chúng nhét táo đầy các túi và nón. Rồi một bác làm vườn giận dữ xách cây cào rượt chúng. Bọn trẻ bỏ chạy. Cat rất vui khi bê về nhà chiếc nón đầy ắp, lổn nhổn táo. Bà Sharp rất mê táo. Nó chỉ mong sao bà đừng thưởng cho nó bằng cách làmmấy người bánh-mật-gừng. Đám người bánh-mật-gừng, nếu làm đúng cách thì rất tức cười. Cứ mỗi khi sắp ăn chúng, thì chúng sẽ nhảy ra khỏi đĩa và bỏ chạy. Cho nên rốt cuộc, khi tóm được chúng, người ta sẽ cảm thấy việc ăn thịt chúng là một việc làm đúng đắn. Đó là một cuộc chiến đấu công bằng và một số nhanh chân sẽ thoát được. Nhưng đám người bánh-mật gừng của bà Sharp chả bao giờ làm được vậy. Chúng chỉ biết nằm đó, yếu ớt vẫy vẫy những cánh tay, và Cat chẳng còn lòng dạ nào để ăn thịt chúng. Cat quá mải mê suy nghĩ về tất cả những điều đó, cho nên, mặc dù nhận ra một cỗ xe bốn bánh đậu trên đường khi nó rẽ vào góc phố gần chỗ nhà của Pháp sư Thiện chí, nó vẫn chẳng để ý gì đến cỗ xe. Nó đi tới cổnghông rồi ào vào bếp với chiếc nón đầy ắp táo, miệng la toáng. “Đã quá! Bà Sharp ơi, coi con có gì nè!” Bà Sharp không có ở đó. Thay vào đó, đứng lù lù giữa nhà bếp là một người đàn ông cao lớn, ăn mặc cực kỳ chau chuốt. Cat nhìn sững ông ta, có phần khiếp sợ. Ông ta rõ ràng là một Ủy viên Hội đồng thị trấn mới và rất giàu có. Trừ những hạng người này, chẳng ai mặc quần với những dải sọc khảm ngọc trai như thế, hoặc mặc áo bằng vải nhung đẹp đến thế, hoặc đội nón cao bóng loáng chẳng thua kém gì đôi giày đang mang đến thế. Mái tóc người đàn ông màu sẫm, nhìn cũng mượt mà như chiếc nón. Cat không nghi ngờ gì rằng đó chính là Kẻ-Lạ-Mặt Tăm-Tối của Gwendolen, đến để giúp chị ấy trị vì thế giới. Và ông ta lẽ rakhông ên đứng ở nhà bếp như thế này. Khách khứa thường vẫn luôn được đưa thẳng vào phòng khách. “Ồ, chào ông. Mời ông đi lối này,” nó ấp úng nói. Kẻ-Lạ-Mặt-Tăm-Tối nhìn nó bằng ánh mắt dò xét. Và ông ta trông cũngđược đấy chứ, Cat nghĩ, lấm lét nhìn xung quanh. Nhà bếp vẫn trong tình trạng bề bộn thường lệ. Mọi vật đều bám muội. Trên bàn, Cat càng khiếp hơn nữa khi thấy những người bánh-mật-gừng do bà Sharp đã làm xong. Lại còn những nguyên vật liệu để làm bùa nằm ở góc bàn - những chiếc bịch bằng giấy báo bụi bặm và những chiếc vại nhỏ tồi tàn – và bản thân món bánh-mật-gừng thì vung vãi ở giữa bàn. Ở góc xa bàn, đám ruồi đang lởn vởn quanh những món ăn cho bữa trưa, vốn trông cũng hỗn tạp chẳng kém gì món bùa. “Con là ai?” Kẻ-Lạ-Mặt-Tăm-Tối cất tiếng hỏi. “Ta có cảm giác ta biết con. Con có gì trong nón vậy?” Cat quá mải lo nhìn quanh nên chẳng chú ý nghe kỹ, nhưng nó nghe được câu cuối cùng. Sự vui thú của nó quay trở lại. “Táo ạ,” nó nói, chìa nón ra cho Kẻ-Lạ-Mặt. “Toàn trái ngọt, ngon lắm. Con hái trộm được đấy ạ.” Kẻ-Lạ-Mặt nghiêm mặt. “Hái trộm hả?” ông ta nói, “Đó là một dạng trộm cắp.” Cat biết điều này chẳng kém gì ông ta. Nó nghĩ thật là mất vui, ngay cả nếu đó là một Ủy viên Hội đồng thị trấn, khi nói ra như thế. Con biết chứ. Nhưng con dám cá là ông cũng đã từng làm thế hồi bằng cỡ tuổi con.” Kẻ-Lạ-Mặt khẽ húng hắng rồi chuyển đề tài. “Con chưa nói với ta con là ai.” “Xin lỗi ông. Con chưa nói thật sao?” Cat đáp. “Con là Eric Chant – cóđiều, mọi người luôn gọi con là Cat.” “Thế Gwendolen Chant hẳn là chị của con?” Kẻ-Lạ-Mặt hỏi. Trông ông ta càng lúc càng nghiêm khắc và thương cảm. Cat cho rằng ông ta đang nghĩ đến nhà bếp của bà Sharp là một thứ hang hốc gì đó. “Dạ phải, Gwendolen là chị con. Ông lên lối này ạ!” Cat nói, hy vọngđưa được Kẻ-Lạ-Mặt ra khỏi nhà bếp. “Qua lối này thì gần hơn ạ.” “Ta có nhận được một lá thư của chị con,” Kẻ-Lạ-Mặt nói, vẫn đứng yên tại chỗ. “Chị con gây cho ta một cảm tưởng rằng con đã chết đuối cùng ba mẹ con.” “Thế thì ông lầm rồi ạ,” Cat lơ đễnh nói. “Con không chết đuối vì conbám vào chị Gwendolen, mà chị ấy lại là phù thuỷ. Mình ra khỏi đây thì sạch sẽ hơn ông ơi!” “Ta biết,” Kẻ-Lạ-Mặt nói. “Nhân tiên, tên ta là Chrestomanci.” “Ối!” Cat thốt lên. Đó là một cú sốc thật sự. Nó đặt chiếc nón đựng táo xuống giữa món bùa mà nó mong phi tang được cho rồi. “Thế thì ông phải lên phòng khách ngay mới được.” “Tại sao?” Chrestomanci hỏi với vẻ ngơ ngác. “Bởi vì,” Cat đáp, vô cùng ngượng nghịu, “ông quá quan trọng, không thể đứng đây mãi được.” “Điều gì khiến con nghĩ rằng ta quan trọng?” Chrestomanci hỏi, vẫn chưa hết ngơ ngác. Cat bắt đầu muốn lôi ông ta đi. “Ông chắc chắn là phải rất quan trọng rồi. Ông mặc quần áo quan trọng. Bà Sharp cũng nói rằng ông quan trọng. Bà ấy còn nói rằng lão Nostrum sẽđổi cặp mắt của lão chỉ để lấy ba lá thư của ông.” “Thế lão Nostrum có đổi cặp mắt lão lấy mấy lá thư của ta không?” Chrestomanci hỏi. “Chắc là chúng không đáng giá đến thế đâu.” “Không ạ. Ông ấy chỉ dạy học cho chị Gwendolen để đổi lấy thư thôi,” Cat nói. May thay, ngay lúc đó có tiếng bước chân thình thịch, rồi Gwendolen lao qua cánh cửa nhà bếp, thở gấp, rạng rỡ và hớn hở. “Ông Chrestomanci phải không ạ?” “Gọi là Chrestomanci được rồi,” Kẻ-Lạ-Mặt nói. “Phải, chính ta. Còcon là Gwendolen đúng không?” “Vâng ạ. Ông Nostrum bảo con rằng có một cỗ xe ở đây.” Gwendolenấp úng. Theo sau con bé là bà Sharp, cũng gần như hụt hơi. Hai người họ xôngvào trò chuyện, và Cat lấy làm biết ơn về điều đó. Chrestomanci cuối cùng đã đồng ý để được dẫn lên phòng khách, nơi bà Sharp cung kính mời ông ấy một tách trà và một đĩa những người bánh-mật-gừng đang yếu ớt ve vẫy. Cat thấy thú vị khi Chrestomanci có vẻ như cũng không có lòng dạ nào để ăn thịt chúng. Ông uống xong tách trà - một cách đạm bạc, không bỏ đường hoặc sữa - rồi nêu ra những câu hỏi về việc làm sao mà Gwendolen và Cat lại đến sống với bà Sharp. Bà Sharp cố tạo ấn tượng cho người nghe rằngbà coi sóc hai đứa chẳng mong lấy công cán gì mà chỉ do những tình cảmtốt đẹp từ trái tim. Bà hy vọng Chrestomanci cũng như Hội đồng thị trấn, sẽ động lòng trang trải cho việc nuôi dưỡng chúng. Nhưng Gwendolen đã quyết định phải ngay thật một cách thẳng thừng. “Thị trấn chi tiền ạ,” nó nói, “Bởi vì tất cả mọi người đều rất đau xót về vụ tai nạn.” Cat thấy vui khi chị nó nói thẳng ra điều đó, mặc dù nó nghi ngờ rằng Gwendolen đã rắp tâm rũ bỏ bà Sharp như quẳng chiếc áo cũ. “Thế thì ta phải đến nói chuyện với ông thị trưởng.” Chrestomanci nói rồi đứng dậy, lấy cái tay áo lịch lãm của ông mà phủi bụi trên chiếc nón lộng lẫy. Bà Sharp thở dài và xìu xuống. Cả bà cũng biết Gwendolen đang tính toán điều gì. “Đừng lo. Bà Sharp ạ,” Chrestomanci nói. “Không ai để bà bị cạn túi đâu.” Ông ta bắt tay Gwendolen và Cat rồi nói tiếp: “Lẽ ra ta phải đến thăm các con từ trước, dĩ nhiên rồi. Hãy thứ lỗi cho ta. Cha các con thật quả là cứng rắn tàn tệ với ta, các con cũng thấy đó. Ta sẽ gặp lại các con, ta hy vọng như thế.” Rồi ông ra đi, trên cỗ xe, bỏ lại bà Sharp chua chát, Gwendolen hớnhở, và Cat bồn chồn. “Tại sao chị vui dữ vậy?” Cat hỏi Gwendolen. “Vì ông ấy đã xúc động trước tình trạng mồ côi của tụi mình,” Gwendolen nói, “Ông ấy sắp nhận tụi mình về nuôi. Vận hội của tao đã đến rồi.” “Đừng nói vớ vẩn như vậy!” bà Sharp gắt lên. “Vận hội của con cũng sẽ như xưa thôi, không có thay đổi gì đâu. Ông ấy đến đây, coi hào nhoáng vậy, nhưng ông ấy đã nói gì đâu, đã hứa hẹn gì đâu!” Gwendolen mỉm cười đầy tự tin. “Đó là bà chưa thấy lá thư làm tan nát cõi lòng mà con viết.” “Cho là vậy đi. Nhưng ông ấy không động lòng đâu” bà Sharp vặc lại. Cat đồng ý với bà Sharp - đặt biệt vì nó cảm giác khó chịu rằng, trước khi Gwendolen và bà Sharp về, hình như nó đã làm phật lòng Chrestomanci ghê gớm, giống như ba nó đã từng làm như vậy. Nó hy vọng Gwendolen không hay biết gì cả. Nói ra, nó biết chị ấy sẽ giận dữ với nó. Nhưng trước sự bàng hoàng của Cat, Gwendolen đã chứng tỏ mình có lý. Ông thị trưởng đến thăm chiều hôm đó và bảo chúng rằng Chrestomanci đã dàn xếp để Cat và Gwendolen đến sống với ông ta như một phần gia đình của chính ông. “Và ta thấy cần thiết phải nói với các con rằng các con quả là những bạn nhỏ may mắn.” Ông thị trưởng nói vậy trong khi Gwendolen bật lên một tiếng kêu mừng rỡ và ôm chầm lấy bà Sharp đang rầu rĩ. Cat cảm thấy bồn chồn hơn bao giờ hết. Nó giật mạnh tay áo của ông thị trưởng. “Ông ơi, nói giùm con, con chưa hiểu Chrestomanci là ai.” Ông thị trưởng thân thiện vỗ lên đầu nó. “Đó là một quý ông rất kiệt xuất. Sống với ông ấy, chẳng bao lâu nữa đâu, con sẽ được đàn đúm với tất cả những chiếc đầu đội vương miện của châu âu, cậu bé ạ. Con nghĩ thế nào, hả?” Cat không biết phải nghĩ gì. Những lời lẽ này chẳng bảo ra được cho nó điều gì cụ thể, mà chỉ tổ làm cho nó bồn chồn hơn nữa. Nó đoán rằng Gwendolen quả thực đã viết một lá thư rất cảm động. Thế là biến động lớn thứ hai đã đến với cuộc đời Cat, và nó lo lắng rằng điều đó sẽ chỉ đem đến nhiều phiền muộn mà thôi. Suốt cả tuần lễ sau đó, trong lúc hai đứa đang được các quý bà của hội đồng thị trấn thúc bách mua sắm y phục mới, trong lúc Gwendolen ngày một khích động và đắc thắng, thì Cat lại cảm thấy nhớ bà Sharp và tất cả mọi người khác, thậm chí cả cô Larkins, như thể nó đã chia tay với họ rồi. Đến lúc phải ra xe lửa, thị trấn dành cho chúng một cuộc tiễn đưa huy hoàng, với cờ xí và đội kèn đồng. Điều đó làm cho Cat cảm thấy khó chịu. Nó căng thẳng ngồi dịch ra mép ghế, lo lắng rằng mình đang bước vào một thời kỳ lạ lẫm và thậm chí có thể là bất hạnh. Gwendolen, về phần mình, xoè rộng bộ váy mới lộng lẫy, chỉnh sửa lại chiếc nón đẹp cho hợp, rồi tao nhã ngả sâu vào lòng ghế. “Thành công rồi!” Nó rạng rỡ thốt lên, “Cat, mày coi có tuyệt vời không?” “Không,” Cat ỉu xìu nói. “Chưa gì em đã thấy nhớ nhà. Chị làm sao hayvậy? Sao chị có thể vui được như vậy?” “Mày không hiểu được đâu,” Gwendolen nói. “Nhưng tao sẽ nói cho mày biết một phần. Tao rốt cuộc cũng đã thoát ra được khỏi cái thị trấn Wolvercote chết dở này, thoát khỏi mấy lão Ủy viên Hội đồng ngốc nghếch và mấy gã thầy đồng tào lao. Và Chrestomanci đã phải ngạc nhiên về tao. Mày cũng thấy mà, đúng không?” “Em không nhận thấy gì đặt biệt cả,” Cat nói. “Ý em nói, tại em thấy chị cũng lễ phép với ông ấy…” “Ồ, câm miệng đi, tao lại cho mày thứ gì tệ hơn cả chuột rút bây giờ!” Gwendolen nói. Và khi con tàu rốt cuộc hụ còi, ì ạch rời nhà ga, cùng với bàn tay đeo găng của Gwendolen đưa lên cụp xuống vẫy đội kèn theo đúng kiểu cách hoàng gia, Cat chợ hiểu rằng chị ấy đang tập sự để trị vì thế giới. CHƯƠNG BA (@Shinigami82 type) Cuộc hành trình trên tàu kéo dài khoảng 1 tiếng đồng hồ, trước khi con tàu phì phò lao vào ga Bowbridge, nơi hai đứa phải xuống tàu. “Nhỏ bé thấy mà ớn,” Gwendolen dè bỉu nói. “Bowbridge!” một người phu khuân vác la lớn, chạy dọc theo sân ga. “Bowbridge. Cô cậu Chant xin vui lòng xuống đây.” “Cô cậu Chant!” Gwendolen khinh khỉnh nói. “Họ không thể đối xử với tao một cách nể trọng hơn hay sao?” Mặc dù vậy, sự chu đáo vẫn làm nó hài lòng. Cat có thể thấy điều đó, bời Gwendolen trong lúc xỏ tay vào đôi găng loại dành cho thiếu nữ mà run lên vì xúc động. Cat co rúm phía sau con chị khi chúng bước ra ngoài, đứng nhìn những chiếc vali lớn của hai đứa được chất trên sân ga lộng gió. Gwendolen tiến tới người phu khuân vác đang gọi. “Chúng tôi là chị em nhà Chant đây,” nó nói với anh ta một cách oai vệ. Sự ra oai này có phần hơi hố. Người phu khuân vác chỉ đơn giản gật đầu rồi lúp xúp chạy tới chỗ cổng ra vào, chỗ đó còn lộng gió hơn cả ở ngoài sân. Gwendolen phải giữ nón cho khỏi bay. Ở đó, một người đàn ông trẻ tuổi đang tiến nhanh đến chỗ chúng trong bộ y phục phấp phới tung bay cuồn cuộn. “Chúng tôi là chị em nhà Chant,” Gwendolen nói với người đàn ông. “Gwendolen và Eric phải không? Rất vui được gặp các em,” người đànông trẻ tuổi nói. “Tôi là Michael Saunders. Tôi sẽ dạy dỗ các em cùng với những em khác.” “Với những đứa trẻ khác?” Gwendolen hỏi lại vẻ xấc xược. Nhưng thầy giáo Saunders quả là loại người không có khả năng ở yên một chỗ. Lúc này, thầy đã lao ra ngoài để trông nom mấy chiếc vali của hai đứa. Gwendolen vốn là đứa ưa cáu kỉnh những chuyện lặt vặt. Nhưng khi thầy Saunders trở lại dẫn hai đứa ra tiền sảnh nhà ga, chúng thấy một chiếc xe gắn động cơ đang chờ sẵn – một chiếc xe dài, màu đen và bóng loáng – thì Gwendolen quên ngay nỗi bực dọc của nó. Nó cảm thấy như vậy là ổn hoàn toàn. Cat nghĩ giá như đó là cỗ xe ngựa thì tốt hơn. Bởi vì chiếc xe này cứ cà khật, lọc cọc và phả đầy mùi xăng. Gần như ngay lập tức nó cảm thấy muốn bệnh luôn. Nó càng muốn bệnh hơn nữa khi chúng rời ga Bowbridge và cứ bị long sòng sọc suốt con đường quê ngoằn ngoèo. Chỉ được mỗi một cái là nó thấy chiếc xe này chạy rất nhanh. Sau có mười phút, thầy Saunders đã nói: “Nhìn kìa – lâu đài Chrestomanci đấy. Các em có thể nhìn thấy nó rõ nhất từ vị trí này.” Cat xoay khuôn mặt thảm não và Gwendolen xoay khuôn mặt tươi rói về hướng thầy chỉ. Tòa lâu đài màu xám, có những tháp canh bao bọc xung quanh, nằm trên ngọn đồi đối diện. Khi con đường uốn khúc, chúng thấy lâu đài lộ ra một phần mới xây, với một mảng rộng những cửa sổ lớn, và một lá cờ bay phấp phới bên trên. Chúng thấy những thân cây hùng vĩ – những cây tuyết tùng um tùm, nhiều tầng lá và những cây du lớn – cùng những thảm cỏ hoa ẩn hiện. “Trông tuyệt diệu quá.” Cat nói mà ỉu xìu. Nó khá ngạc nhiên vì Gwendolen không nói một lời nào. Nó lại hy vọng con đường vào Lâu đài không quá sức quanh co, uốn lượn. Đúng thế thật. Chiếc xe bọc nhanh qua bãi cỏ một ngôi làng rồi đi vào giữa những chiếc cổng lớn. Sau đó là một con đường thênh thang chạy dài bên dưới những hàng cây. Cánh cổng lớn của phần Lâu đài cổ nằm ở cuối con đường. Chiếc xe lạo xạo nghiến lớp sỏi, hất tung đất đá ra phía trước. Gwendolen háo hức chồm tới, sẵn sàng là người đầu tiên bước ra ngoài. Hẳn là phải có người tổng quản hay có khi cả những người hầu đứng chầu sẵn nữa. Nó nôn nóng chờ đợi sự khởi đầu nguy nga của mình. Nhưng chiếc xe lại đi tiếp, vượt qua những bức tường xám sần sùi của phần lâu đài cũ, và dừng lại trước một cánh cổng tăm tối, cũng là nơi bắt đầu của phần lâu đài mới xây. Đó gần như là một cánh cổng bí mật, vì một bụi cây đỗ quyên đã che lấp nó hầu như kín hết. “Tôi đưa các em đi lối này,” thầy Saunders vui vẻ giài thích, “bởi vì đầy là cánh cổng mà các em sẽ sử dụng nhiều nhất, và tôi nghĩ nó sẽ giúp các em tìm được đường đi của mình nếu các em biết khởi đầu con đường mà các em muốn đi.” Với Cat thì không có việc gì. Nó nghĩ cánh cổng đó trông thế còn ấp cúng hơn. Nhưng Gwendolen, vốn bị tẽn tò bởi vụ khởi đầu nguy nga, némmột cái nhìn tóe lửa vào thầy Saunders và tự hỏi có nên giáng lên ông thầy một câu thần chú hắc ám hay nhất hay không. Nó quyết định chưa làm vậy. Nó vẫn còn đang muốn tạo một ấn tượng tốt. Chúng ra khỏi xe và đi theo thầy Saunders – mà bộ áo không hiểu sao vẫn cuồn cuộn cả khi không có gió – bước vào một hành lang vuông vức và bóng lượng ở bên trong lâu đài. Một mệnh phụ đường bệ bậc nhất đang đợi chúng ở đó. Bà mặc một bộ đầm dài bó màu tía, và mái tóc bà được vấn lên thành một chiếc cột cao ngất đen tuyền. Cat nghĩ hẳn đây phải là bà Chrestomanci. “Đây là cô Bessemer, quản gia,” thầy Saunders nói. “Cô Bessemer, đây là Eric và Gwendolen. Tôi e rằng Eric hơi bị say xe.” Cat không ngờ sự say xe của nó lại lộ liễu đến thế. Nó bối rối. Gwendolen, vốn rất bực bội vì được đón tiếp bởi một bà quản gia quèn, lạnh lùng chìa tay cho cô Bessemer. Cô Bessemer bắt tay như một nữ hoàng. Cat vừa mới nghĩ cô này đúnglà một mệnh phụ gây kính sợ nhất mà nó từng gặp, thì cô quay lại với nó và nhoẻn một nụ cười rất nhân hậu. “Eric tội nghiệp,” cô nói. “Đi xe hơi cũng khiến ta khó ở y như con vậy. Bây giờ đã ra khỏi thứ của nợ ấy rồi, con sẽ ổn thôi mà – nhưng nếu còn chưa ổn thì ta sẽ cho con thứ gì đó. Vào tắm rửa đi, rồi hãy ngó qua phòng của các con.” Hai đứa lại đi theo cái lưng hẹp té màu đỏ tía của bộ đầm cô đang mặc, bước lên những bậc thang, đi dọc những hành lang, rồi bước lên những bậc thang nữa. Cat chưa từng thấy nơi nào sang trọng như thế. Thảm được trải trên khắp các lối đi – một lớp thảm mềm mại màu xanh lục, giống như thảmcỏ trong một sáng sương mai – và sàn nhà ở hai bên thảm thì bóng loáng đến mức phản chiếu cả tấm thảm; những bức tường trắng sạch, và tranh treo khắp tường. Khắp nơi cực kỳ im ắng. Chúng không nghe thấy gì suốt dọc đường, ngoại trừ tiếng bước chân của ba người và tiếng sột soạt từ bộ đầm tía của cô Bessemer. Cô Bessemer mở một cánh cửa hướng ra mặt trời chiều. “Phòng của con đây, Gwendolen. Phòng tắm của con mở ra phía ngoài.” “Cảm ơn cô.” Gwendolen nói, đoạn đường bệ bước vào, sở hữu lấy căn phòng. Cat hấp háy nhìn qua lưng cô Bessemer, thấy căn phòng này rất lớn. Một tấmthảm Thổ Nhĩ Kỳ lộng lẫy, mềm mại phủ gần hết sàn nhà. Cô Bessemer nói: “Gia đình thường dùng bữa chiều sớm, khi không có khách khứa, để được ăn chung với con cái. Nhưng ta nghĩ các con cũng muốn dùng chút trà trước đó. Ta sẽ cho đem trà đến phòng nào đây?” “Phòng tôi,” Gwendolen nói ngay. Một khoảng im lặng ngắn, rồi cô Bessemer lên tiếng: “Tốt lắm, vậy là ở đây ổn rồi, đúng không? Eric, phòng của con ở bên trên.” Phải đi lên bằng một chiếc cầu thang xoắn. Cat thích lắm. Có vẻ như phòng của nó nằm trong phần lâu đài cổ. Và nó đã đoán trúng. Khi cô Bessemer mở cửa, căn phòng hiện ra có dạng tròn, và ba cánh cửa sổ cho thấy rằng bờ tường của căn phòng dày dễ đến cả thước. Không cầm được, Cat chạy ào trên tấm thảm rực rỡ, leo lên một trong những bệ cửa sổ rộng thênh và nhìn ra bên ngoài. Nó phát hiện ra, qua những đỉnh phẳng phiu của những ngọn tuyết tùng, một bãi cỏ lớn như một tấm nhung xanh, với những vườn hoa dọc theo sườn đồi, trải bên trên những bậc thang. Sau đó nó mới nhìn quanh quất cả căn phòng. Những bờ tường cong được quét vôi trắng, và cả chiếc lò sưởi dày cộm cũng thế. Chiếc giường được trải bằng một tấm trải thêu. Có một chiếc bàn, một tủ có ngăn kéo, và một kệ sách với những cuốn sách trông thật là hấp dẫn. “Ồ, con thích căn phòng này quá!” nó nói với cô Bessemer. “Có điều là phòng tắm của con ở tận cuối hành lang,” cô Bessemer nói, như thể đó là một trở ngại. Nhưng vì trước đây chưa bao giờ có một phòng tắm riêng, nên Cat hoàn toàn chẳng lấy đó là điều. Khi cô Bessemer vừa rời đi, Cat vội phóng ra theo để ngó qua phòngtắm. Nó kinh ngạc phát hiện ra một lô khăn tắm đỏ với ba cỡ khác nhau và một miếng bọt biển to như trái dưa tây. Bồn tắm có chân giống như chân sư tử. Một góc phòng được lát đá, có rèm che bằng nhựa mềm, dành để tắmvòi sen. Cat không cầm được việc thử một cái. Lúc nó thử xong thì phòng tắm ướt sũng. Nó trở lại phòng của mình, người ướt lướt thướt. Lúc này, vali và túi xách của nó đã nằm sẵn đó, và một chị hầu phòng tóc đỏ đang tháo dỡ đồ đạc ra. Chị bảo Cat rằng tên của chị là Mary, và chị muốn biết chị sắp xếp đồ đạc như thế đã đúng chỗ hay chưa. Chị ấy rất dễ chịu, nhưng Cat lại rất e dè với chị. Mái tóc đỏ của chị khiến nó nhớ tới cô Larkins, và thế là nó không thể nghĩ ra phải nói gì với chị ấy. “Ơ... Em xuống dưới nhà dùng trà có được không ạ?” nó lúng túng. “Cứ tự nhiên.” Chị hầu phòng đáp, khá lạnh lùng, Cat nghĩ thế. Nó chạy trở xuốngthang, cảm thấy như vừa thoát khỏi một tình huống khó xử. Vali của Gewendolen nằm ở giữa phòng, còn Gwendolen ngồi một cách rất kiêu kỳ nơi chiếc bàn tròn gần cửa sổ, với một ấm trà lớn bằng thiếc ở trước mặt, cùng một dĩa bánh mì đen, bơ, và một dĩa bánh quy. “Tao bảo con hầu đó để tao tự cất đồ,” con bé nói. “Tao có những thứ bí mật trong vali và túi xách của tao. Tao cũng dặn nó mang trà lên ngay vì tao đói muốn chết. Vậy mà mày nhìn coi! Mày đã thấy thứ gì chán ngắt như thế này chưa? Ngay cả mứt cũng không có!” “Biết đâu món bánh quy đó lại ngon,” Cat nói, đầy hy vọng. Nhưng bánh lại không ngon, hay nói đúng hơn, không đặc biệt ngon. “Tụi mình sẽ chết đói giữa một đống xa xỉ!” Gwendolen thở dài. Phòng của nó tất nhiên là xa xỉ rồi. Giấy bồi tường như làm bằng nhung xanh. Tấm dát ở đầu và cuối giường cũng được lót đệm giống như ghế, bằng nhung xanh cùng những chiếc nút đính bên trên. Một tấm trải giường cũng lại nhung xanh, rất hợp với chiếc giường. Mấy cái ghế được sơn nhũ vàng. Có một bàn trang điểm xứng với một nàng công chúa, với những chiếc ngăn kéo xinh xinh cũng màu nhũ vàng, những chiếc lược chải tóc mặt sau dát vàng, và một tấm gương bầu dục lộng khung hình vòng hoa cũng lại mạ vàng. Gwendolen thừa nhận rằng nó lại thích chiếc bàn trang điểm, tuy vậy nó không ưng lắm chiếc tủ quần áo vẽ đặc những hoa văn cùng các vũ công cung đình. “Tủ là để máng quần áo chứ có phải để ngắm đâu,” Gwendolwn nói. “Nó làm tao mất tập trung. Nhưng phòng tắm thì hết chỗ chê.” Phòng tắm được lát đá xanh và trắng, còn bồn tắm thì khoét sâu xuống nền. Trên bồn là những rèm màu xanh, vắt như phủ nôi em bé, dùng khi tắmvòi sen. Khăn tắm hợp màu với đá. Cat lại thích phòng tắm của nó hơn, nhưng đó có thể là do nó bị ngồi trong phòng tắm của Gwendolen lâu quá. Gwendolen nhốt nó trong đó khi con bé soạn đồ đạc. Qua tiếng lạo xạo của vòi sen, (Gwendolen chỉ còn biết tự trách mình khi thấy phòng tắm ướt nhẹp sau đó), Cat nghe thấy giọng nói của Gwendolen gắt lên với ai đó vừa bước vào phòng để dọn món trà chán ngắt và vì thế vô tình bắt gặp nó với chiếc vali mở toang. Khi Gwendolen cuối cùng mở khóa phòng tắm, con bé vẫn chưa nguôi giận. “Tao dám nghĩ đám đầy tớ ở đây không được văn minh lắm,” Gwendolen nói, “Nếu con hầu đó mà còn nói thêm tiếng nữa, nó sẽ thấy trên mũi nó có cái nhọt – cho dù tên của nó có cái tên kiều diễm là Euphemia đi chăng nữa. Mày về phòng mặc áo mới đi, Cat. Con hầu đónói rằng còn nửa tiếng nữa là đến bữa chiều và tụi mình phải thay đồ để đi ăn. Mày từng nghe thứ gì điệu đàng hình thức và mất tự nhiên như vầy chưa?” “Em tưởng chị đã tính trước những chuyện như vầy rồi chứ,” Cat nói Phần nó thì cầm chắc không thể nghĩ trước ra được những chuyện như vầy. “Người ta có thể lộng lẫy mà vẫn tự nhiên vậy,” Gwendolen vặc lại. Tuy vậy, ý nghĩ về sự huy hoàng sắp tới cũng làm nó dịu đi. “Tao sẽ mặc bộ đầm xanh có viền ren,” nó nói. “Và tao thật tình nghĩ đứa nào mang cái tên Euphemia là đủ gánh nặng cho nó rồi.” * * * Khi Cat trèo lên lại chiếc cầu thang xoắn, lâu đài chợt rung lên bởi một tiếng vang bí ẩn. Đó là tiếng động đầu tiên mà nó nghe thấy. Việc này khiến nó hoảng hốt. Sau này, nó mới biết đó là tiếng cồng thay y phục để báo hiệu cho Gia đình rằng họ có nửa tiếng đồng hồ để thay đồ. Cat dĩ nhiên chẳng mất đến ngần ấy thời gian để khoác vào bộ đồ của nó. Nó cảm thấy phiền muộn, yếu ớt, và gần như không sống nổi nữa vào lúc chị hầu phòng xấu số có tên gọi Euphemia đến rước nó và Gwendolen xuống phòng khách dưới nhà, nơi Gia đình đang chờ đợi. Gwendolen, trong bộ váy xanh tuyệt đẹp, đi như lướt vào phòng, đầy tự tin. Cat rụt rè bước theo sau. Căn phòng trông như đầy ấp người. Cat không hiểu nổi bằng cách nào Gia đình có tới chừng này thành viên. Một bà mệnh phụ lớn tuổi đeo găng ren hở ngón, và một người đàn ông nhỏ thó, lông mày rậm, giọng nói sang sảng đang huyên thuyên về chuyện chứng khoáng cùng cổ phiếu. Có cả thầy Saunders với mấy cổ tay và mắt cá chân quá dài do với bộ com-lê đen bóng lộn. Và có ít nhất hai thiếu phụ trẻ tuổi hơn, cùng ít nhất hai người đàn ông trẻ tuổi hơn. Cat nhìn thấy Chrestomanci, cực kỳ lộng lẫy trong bộ đồ nhung đỏ bầm. Chrestomanci cũng đã trông thấy Cat và Gwendolen. Ông nhìn chúng với một nụ cười mơ hồ, khó hiểu, khiến Cat tin chắc rằng Chrestomanci đã quên khuấy chúng là ai. “Ồ,” Chrestomanci nói. “Ơ... Đây là vợ của ta.” Hai đứa được dẫn đến trước một mệnh phụ đẫy đà với khuôn mặt hòa nhã. Bà mặc một bộ váy ren lộng lẫy – mắt của Gwendolen quét từ trên xuống dưới bộ váy, lộ vẻ khá ngạc nhiên – nhưng ngoài đó ra thì bà chỉ là một trong những phụ nữ bình thường nhất mà chúng từng gặp. Bà nhoẻn một nụ cười thân thiện với chúng. “Eric và Gwendolen phải không? Hãy gọi ta là Millie, các con yêuquý.” Quả là nhẹ cả người, bởi lẽ không đứa nào biết phải gọi bà ra sao. “Bây giờ các con phải gặp Julia và Roger của ta mới được,” bà nói. Hai đứa bé đẫy đà bước tới đứng cạnh bà. Cả hai đều nhợt nhạt và hít thở có vẻ nặng nhọc. Đứa con gái mặc bộ váy ren giống như mẹ của nó, còn đứa con trai mặc một bộ com-lê bằng vải nhung xanh. Nhưng chẳng y phục nào có thể che giấu được sự thật là chúng thậm chí trông còn tầmthường hơn cả mẹ của chúng. Chúng lễ độ nhìn Gwendolen và Cat, rồi cả bốn cùng thốt lên: “Khỏe không?” Sau đó có vẻ như chẳng ai còn đều gì khác để mà nói. May sao, hai đứa không phải đứng ở đó quá lâu vì người tổng quản đã bước vào, mở cánh cửa đôi ở cuối phòng, và thông báo với mọi người rằng bữa ăn đã dọn xong. Gwendolen phẫn nộ nhìn người tổng quản. “Tại sao ban nãy lão không mở cửa cho tụi mình?” nó thì thào với Cat, khi mọi người lục tục nối đuôi nhau vào phòng ăn. “Tại sao tụi mình lại bị lừa ra sống với mụ quản gia?” Cat không trả lời. Nó đang lo bám theo cho kịp Gwendolen. Chúngđược xếp ngồi quanh một chiếc bàn dài bóng lộn, và nếu như lúc đó có ai đó đem nhấn Cat ngồi vào chiếc ghế nào không ở kế ngay ghế của Gwendolen thì Cat nghĩ, chắc nó thể nào cũng sẽ lả đi vì sợ hãi. May sao, chẳng ai làm điều đó. Dù vậy, bữa ăn cũng đã đủ khủng khiếp. Những người hầu bàn cứ chuyền qua vai trái của nó những món ăn thơm ngon đặt trên những chiếc dĩa bạc. Mỗi lần như thế, Cat đều sợ hết cả hồn, và nó nhảy dựng lên, làm chao đảo chiếc dĩa. Cat được mời múc đồ ăn từ chiếc dĩa bạc, và nó không bao giờ biết mình được quyền múc bao nhiêu. Nhưng khó khăn lớn nhất lại là việc nó thuận tay trái. Chiếc muỗng và nĩa mà nó phải dùng để lấy thức ăn từ dĩa của người hầu bàn vào dĩa của nó luôn luôn ở ngược vị trí. Nó tính đổi tay và thế là đánh rơi chiếc muỗng. Nó tính để chúng lại chỗ cũ và thế là làm đổ món sốt. Người hầu bàn luôn luôn nói, “Không sao đâu, cậu chủ,” khiến nó cảm thấy càng tệ hại hơn bao giờ hết. Câu chuyện quanh bàn thậm chí càng kinh khủng hơn nữa. Ở một đầu bàn, ông nhỏ thó sang sảng cứ huyên thuyên không ngừng về chứng khoáng và cổ phiếu. Ở đầu bàn chỗ Cat ngồi thì mọi người bàn bạc về nghệ thuật. Thầy Saunders chừng như vừa trải qua một mùa hè đi du lịch ở nước ngoài. Thầy đã được thấy tận mắt những pho tượng và những bức họa ở khắp Châu Âu và ngưỡng mộ chúng ghê gớm. Thầy hăng tiết đến mức vỗ bồm bộp lên bàn trong khi nói. Thầy nói về các xưởng vẽ và các trường phái, về nghệ thuật nội thất Hà Lan, cho đến khi cái đầu của Cat quay mòngmòng. Cat nhìn khuôn mặt gầy gò, chiếc cằm vuông vức của thầy Saunders và kinh ngạc trước tất cả kiến thức ẩn sau khuôn mặt đó. Rồi đến bà Millie và Chrestomanci tham gia vào câu chuyện. Bà Milliekể ra một loạt những cái tên mà Cat chưa từng nghe trong cuộc đời nó từ trước tới giờ. Chrestomanci đưa ra những lời bình phẩm về họ, như thể những tên tuổi đó đều là bạn bè thân thiết của ông vậy. Cho dù mọi người trong gia đình này có như thế nào, Cat nghĩ, Chrestomanci dứt khoát không thể là người thường được. Ông có cặp mắt sáng đen láy luôn cuốn hút ngay cả khi chúng có vẻ xa xăm và mơ màng. Khi ông tỏ vẻ quan tâm – như là với nghệ thuật chẳng hạn – cặp mắt đen ấy vo lại, như làm tràn ánh sáng ra toàn bộ khuôn mặt. Và Cat kinh hãi khi thấy hai đứa bé cũng tỏ ra quan tâm đến các câu chuyện không kém. Chúng thủ thỉ với nhau, cứ như chúng thực sự hiểu những gì cha mẹ chúng đang bàn vậy. Cat thấy mình dốt nát đến thảm hại, dù là nó chẳng thấy khoái chút nào với những cuộc trò chuyện này, lại càng bực mình với những rắc rối do những chiếc dĩa bạc xuất hiện đột ngột, hay với những chiếc bánh quy chán ngắt. Nó phải bỏ dở một nửa món bánh kem. Nó thèm được như Gwendolen vì chị ấy có thể ngồi im ắng như thế mà khinh khỉnh thưởng thức các món ăn. Cuối cùng thì bữa ăn cũng chấm dứt. Chúng được phép thoát đi, trở lên lại căn phòng xa hoa của Gwendolen. Ở đó, Gwendolen thả mình ngồi lên chiếc giường bọc đệm của mình. “Đúng là trò con nít!” con bé nói. “Bọn họ khoe mẽ để tụi mình cảmthấy nhỏ bé ấy mà. Lão Nostrum đã báo trước cho tao rồi. Ấy là để che giấu sự non nớt của tâm hồn họ thôi. Mụ vợ sao mà kém cỏi, nhạt nhẽo đến vậy không biết! Mà mày đã từng thấy có đứa nào chán phèo, ngu ngốc như hai đứa nhóc kia chưa? Tao biết tao rồi sẽ thù ghét nơi này thôi. Tòa lâu đài này chưa gì đã bóp nghẹt tao rồi đó.” “Nếu mình quen thì chắc cũng không đến nỗi tệ lắm đâu,” Cat nói mà chẳng dám hy vọng. “Sẽ còn tệ hơn nhiều,” Gwendolen nói như đinh đóng cột với nó. “Tòa lâu đài này hình như có vấn đề. Có cái gì đó hắc ám và chết chóc. Nó đang vắt kiệt sức sống và tài phù thủy của tao. Tao thấy khó thở lắm rồi.” “Chị tưởng tượng ra đấy thôi,” Cat nói, “vì chị muốn về nhà với bà Sharp.” Rồi Cat thở dài. Nó thấy nhớ bà Sharp quá chừng. “Còn lâu, tao đâu có tưởng tượng.” Gwendolen nói. “Lẽ ra tao phải biết mày đâu có đủ sức nhận thấy điều đó chớ! Thì cứ sống thử coi. Bộ mày không cảm thấy có sự chết chóc quanh đây sao?” Cat thực sự chả cần thử mới hiểu được chị ấy muốn nói gì. Tòa lâu đài này quả thật có gì đó lạ lùng. Nó đã có lúc nghĩ đơn giản rằng chỉ vì nơi đây quá yên tĩnh. Nhưng không phải chỉ có thế: có một sự mong manh trong không khí, đồng thời có sự nặng nề, như thể mọi thứ mà mọi người ở đây nói hoặc làm điều được ủ dưới một tấm mền lông khổng lồ. Ngay cả những âm thanh bình thường, như giọng nói của hai chị em nó, cũng có vẻ loãng ra. “Ờ há, ở đây kỳ cục làm sao ấy,” Cat tán đồng. “Kỳ cục là chưa đủ đâu, phải nói là nó ghê rợn kìa,” Gwendolen nói. “Tao mà sống sót được là may lắm.” Rồi, trước sự ngạc nhiên của Cat, con bé nói thêm: “Cho nên tao không hối tiếc là đã đến đây.” “Em thì hối tiếc,” Cat nói. “Ồ, mày thì còn phải tìm hiểu chán!” Gwendolen nói. “Thôi được. Có bộ bài trong bàn trang điểm đó. Thật ra là để coi bói, nhưng nếu bỏ mấy con bài chủ ra thì tụi mình có thể dùng nó để chơi Snap (Trò chơi trong đó các người chơi kêu lên “Snap” khi hạ xuống hai quân bài giống nhau), nếu như mày thích.” CHƯƠNG BỐN (@Shinigami82 type) Sự mong manh và im ắng vẫn y như thế, khi cô Mary tóc đỏ đánh thức Cat dậy sáng hôm sau và bảo nó rằng đã đến giờ ra khỏi giường. Nắng sớmmai đang tràn ngập những bức tường cong cong trong phòng. Mặc dù giờ đây Cat đã biết Lâu đài này có đông người sống, nó vẫn chưa nghe thấy âmthanh của bất cứ ai. Và nó cũng chẳng nghe thấy âm thanh nào từ bên ngoài các cửa sổ. Mình biết cái này giống cái gì rồi! Cat nghĩ. Giống như khi trời đổ tuyết ban đêm. Ý tưởng này khiến nó cảm thấy hài lòng và ấm cúng quá chừng, vì vậy mà nó lại thiếp đi. “Eric, cậu phải dậy đi thôi,” Mary lay nó dậy. “Tôi đã chuẩn bị bể tắmcho cậu rồi đấy, và lớp học của cậu bắt đầu lúc chín giờ. Nhanh lên, nếu không cậu không kịp ăn sáng đâu.” Cat ngồi dậy. Nó có cảm giác quá chừng mạnh rằng trời đã đổ tuyết trong đêm nên giờ đây nó rất ngạc nhiên khi thấy căn phòng đang ấm lên dưới ánh mặt trời. Nó nhìn ra cửa sổ. Ngoài kia có những thảm cỏ xanh, những khóm hoa, những chú chim bay liệng giữa những ngọn cây... cứ như thể có gì đó nó đã lầm lẫn. Mary đã rời phòng, Cat thấy mừng vì nó cảmthấy có vẻ mình không thích chị ấy, mà trong khi đó nó cũng sợ hụt mất bữa điểm tâm. Mặc quần áo xong, nó đi ra phòng tắm và xả nước nóng khỏi bồn. Rồi nó ù chạy xuống chiếc cầu thang xoắn để tới chỗ Gwendolen. “Mình ăn sáng ở đâu vậy?” Nó lo lắng hỏi con chị. Gwendolen chẳng bao giờ dễ ưa vào buổi sáng. Nó đang ngồi trên cái ghế đẩu bọc nhung xanh, đối diện với chiếc gương lộng trong cái khung khắc những vòng hoa, cáu kỉnh chải mái tóc vàng hoe. Chải tóc là một việc nữa luôn khiến nó cáu kỉnh. “Tao không biết và tao không quan tâm! Mày im đi có được không!” nó nói. “Bây giờ không phải là lúc cãi nhau.” Chị hầu phòng bị gọi là Euphemia nói, nhanh nhẹn theo Cat bước vào phòng. Chị ấy khá xinh đẹp, và chị ấy có vẻ như chẳng xem cái tên mỹ miều của mình là một gánh nặng như người ta tưởng. “Mọi người chờ cô cậu đến dùng điểm tâm từ nãy giờ rồi đấy. Nào, đi thôi.” Gwendolen liệng chiếc lược xuống rất lộ liễu rồi theo sau Euphemia vào một căn phòng ở ngay dọc hành lang. Đó là một căn phòng vuông vức, thông thoáng, có nguyên một dãy cửa sổ lớn, song nếu so sánh với các phòng khác trong lâu đài thì lại khá tồi tàn. Mấy cái ghế bọc da đã mòn vẹt. Tấm thảm sợi cỏ có những vết ố. Chẳng có tủ trà nào đóng được cho ngay ngắn. Những đồ vật như xe lửa dây cót, vợt ten-nít lòi cả ra ngoài. Julia và Roger đang ngồi đợi ở chiếc bàn cạnh cửa sổ. Trông chúng cũng bệ rạc như căn phòng. Mary cũng đang đợi ở đó. Chị ấy nói “Sắp tới giờ rồi!” rồi bắt đầu cho chạy một chiếc thang máy con trông rất ly kỳ trong chiếc tủ trà gần lò sưởi. Có tiếng loảng xoảng. Mary mở cửa cái thang máy và lôi ra một dĩa lớn đựng bánh mì, bơ và một vại ca cao nâu bốc hơi. Chị ấy bưng chúng ra bàn, và Euphemia rót cho mỗi đứa một ca. Gwendolen hết nhìn từ chiếc ca của nó rồi lại nhìn sang dĩa bánh mì. “Chỉ có vậy thôi sao?” “Thế cô muốn gì khác nào?” Euphemia hỏi lại. Gwendolen không thể nào nghĩ ra từ ngữ kịp để diễn tả nó muốn gì. Cháo yến mạch, thịt heo xông khói và trứng, bưởi, bánh mì nướng cùng cá muối hun khói, tất cả thoảng qua đầu nó cùng một lúc, do đó nó cứ giương mắt nhìn. “Cô cứ suy nghĩ cho kỹ đi,” Euphemia rốt cuộc nói. “Tôi cũng phải dùng điểm tâm, cô biết đấy.” “Có mứt cam không?” Gwendolen hỏi. Euphemia và Mary đưa mắt nhìn nhau. “Cô Julia và cậu Robert không được phép dùng mứt cam,” Mary nói. “Không ai cấm cản được tôi dùng món đó,” Gwendolen nói, “Lấy mứt cam cho tôi ngay lập tức.” Mary đi tới chiếc ống nói gần thang máy, và, sau những tiếng ầm ầm và một tiếng loảng xoảng nữa, một lọ mứt được đưa đến. Mary bưng nó ra đặt trước Gwendolen. “Cảm ơn chị!” Cat nồng nhiệt nói. Nó cảm thấy phấn chấn chẳng kém gì Gwendolen – thật ra còn hơn cả thế nữa, bởi lẽ nó ghét cay ghét đắng món ca cao. “Ồ, không có chi!” Mary nói bằng một giọng rõ ràng mang âm điệu mỉa mai, rồi hai cô hầu phòng cùng lui ra. Trong một khoảnh khắc, chẳng ai nói năng gì. Rồi Roger mở lời với Cat. “Làm ơn cho mình xin chút mứt cam.” “Mày đâu được phép ăn món này,” Gwendolen nói, vẫn chưa hết cáu kỉnh. “Nếu mình dùng con dao của các bạn để lấy mứt thì sẽ chẳng ai biết đâu,” Roger điềm đạm nói. Cat chìa cho Roger lọ mứt cam và cả con dao của nó. “Tại sao bạn không được phép ăn mứt vậy?” Julia và Robert nhìn nhau, vẻ bẽn lẽn. “Tụi này quá mập.” Julia nói rồi lặng lẽ cầm con dao và lọ mứt sau khi Roger đã lấy xong phần của nó. Cat không còn ngạc nhiên khi thấy lượng mứt cam mà chúng cố trét bằng được lên bánh mì. Mứt cam, được trét ở cả hai lát, trông cứ như những mỏm đá nâu nhớp nháp. Gwendolen nhìn chúng vẻ ghê tởm, và rồi, vẻ cao ngạo, nó nhìn xuống bộ váy ren gọn gàng của mình. Sự tương phản thật quá rõ. “Ba của tụi bay đẹp như thế,” nó nói “chắc ông ta thất vọng lắm vì cả hai đứa bay đều phì nộn và nhạt nhẽo, giống như má tụi bây vậy.” Hai đứa nhóc điềm tĩnh nhìn nó qua những ụ mứt cam. “Ồ cái đó thì không biết à,” Roger thốt lên. “Phì nộm mới thoải mái,” Julia nói. “Giống con búp bê sứ như bạn mới là phiền.” Cặp mắt xanh của Gwendolen ánh lên. Nó làm một dấu hiệu nhỏ dưới mép bàn. Bánh mì và lớp mứt cam dày cui đột nhiên vuột khỏi tay hai tay Julia rồi tự dán chặt vào mặt Julia, phần trét mứt hướng vào trong. Julia khẽ hỗn hển. “Mày dám chửi tao hả!” Gwendolen nói. Julia chậm rãi lột miếng bánh mì khỏi khuôn mặt rồi lóng ngóng rút ra chiếc khăn tay. Cat nghĩ nó sắp lau mặt. Nhưng không, Julia vẫn để nguyên xi chỗ mứt cam đang chảy dài dọc đôi má phệ, và chỉ đơn giản thắt một chiếc nút trên khăn tay. Nó từ từ xiết chặt chiếc nút, mắt nhìn Gwendolen đầy ý nghĩa. Sau cú xiết cuối cùng, vại ca cao đầy phân nửa đang bốc hơi bỗng vọt lên không. Cái vại đứng yên một giây rồi tạt ngang, treo lơ lửng ngay trên đầu Gwendolen rồi bắt đầu đong đưa, ngả dần về tư thế rót. “Dừng lại!” Gwendolen hổn hển. Nó đưa tay lên để gạt chiếc vại. Chiếc vại né nó, tiếp tục nghiêng xuống. Gwendolen làm một dấu hiệu nữa và lẩm bẩmnhững từ ngữ kỳ lạ. Chiếc vại có vẻ như lở tịt. Nó tiếp tục nghiêng cho đến khi ca cao ở bên trong loang ra sát miệng rót. Gwendolen nghiêng người sang bên để tránh. Chiếc vại cứ thế lướt trên không cho đến khi lại lơ lửng ngay trên đầu Gwendolen. “Có nên cho nó rót không ta?” Julia hỏi. Có một thoáng cười cợt phía sau lớp mứt cam. “Mày dám...!” Gwendolen hét lên. “Tao sẽ méc Chrestomanci cho coi! Tao sẽ... Ồ!” Nó ngồi thẳng lại, và chiếc vại vẫn theo nó một cách trung thành. Gwendolen với tay chộp chiếc vại lần nữa, nhưng chiếc vại lại né được. “Cẩn thận đấy. Bạn sẽ làm đổ nó. Và với bộ váy đẹp của bạn thì như thế sẽ thật xấu hổ,” Roger nói, hả hê nhìn. “Câm miệng, thằng kia!” Gwendolen quát vào mặt thằng bé, nghiêng sang phía ngược lại, khiến nó gần như chồm lên Cat. Cat căng thẳng nhìn lên, chiếc vại lướt tới và lơ lửng cả ở trên đầu của mình. Chiếc vại có vẻ như chuẩn bị rót. Nhưng, ngay lúc đó, cánh cửa mở ra và Chrestomanci bước vào trong bộ áo khoác ngoài, dài và rộng, mặc trong nhà, có in hoa. Đó là một bộ áo màu đỏ và tía, với phần cổ áo và tay áo màu vàng nhũ. Nó khiến Chrestomanci trông cao lớn một cách lạ thường, mảnh mai một cách lạ lùng, uy nghi một cách đáng kinh ngạc. Trông ông như thể là một Hoàng đế, hay một giám mục đặc biệt khắc khổ. Ông mỉm cười khi bước vào, nhưng nụ cười vụt bay biến khi ông thấy chiếc vại. Chiếc vại cũng tìm cách tẩu thoát. Mới thoáng thấy bóng ông, nó vọt trở về bàn, vội vã đến mức làm ca cao bắn cả ra bộ váy của Gwendolen – điều này có thể là tình cờ mà cũng có thể là không tình cờ. Cả Julia lẫn Roger trông đều rất khổ sở. Julia rối rít tháo nút chiếc khăn tay. “Hay nhỉ, ta đến đây để chúc các con một buổi sáng tốt đẹp,” Chrestomanci nói. “Nhưng ta thấy rằng có lẽ buổi sáng nay không được đẹp như vậy.” Ông đưa mắt nhìn từ chiếc vại sang đôi má nhơm nhớp mứt của Julia. “Nếu hai con muốn ăn mứt cam lần nữa,” ông nói, “thì hãy nhớ rằng tốt nhất là các con phải vâng lời. Và điều này ta nói cho cả bốn đứa các con đấy.” “Con có làm gì sai đâu ạ!” Gwendolen lúng búng như thể bơ (chưa nói đến mứt cam) không tan được trong miệng nó. “Có, bạn có làm,” Roger nói. Chrestomanci đi đến cuối bàn rồi dừng lại, cúi nhìn bọn trẻ, hai tay đút trong túi bộ áo choàng sang trọng. Trông ông cao lớn đến mức Cat thấy ngạc nhiên vì sao đầu ông thế mà chưa đụng trần. “Có một điều luật nghiêm ngặt trong lâu đài này mà tất cả các con nên nhớ lấy,” ông nói. “Trẻ con không được dùng bất cứ dạng phép thuật nào trừ phi thầy Michael Saunders có mặt ở đây để giám sát các con. Con đã hiểu chưa, Gwendolen?” “Dạ.” Gwendolen đáp. Nó mím chặt môi và siết chặt nắm tay, nhưng nó vẫn run lên vì tức giận. “Con từ chối tuân theo thứ luật lệ ngu ngốc đó!” Chrestomanci có vẻ như không nghe thấy hoặc nhận thấy sự giận dữ của nó. Ông quay lại Cat. “Con cũng hiểu rồi chứ, Eric?” “Con ấy à?” Bị bất ngờ, Cat hỏi lại. “Dạ hiểu, dĩ nhiên rồi ạ.” “Tốt,” Chrestomanci nói. “Giờ thì ta sẽ chúc các con một buổi sáng tốt lành.” “Con chúc ba một buổi sáng tốt lành,” Julia và Roger đồng thanh nói. “Ơ... Chúc ông một buổi sáng tốt lành,” Cat nói. Gwendolen giả tảng như không nghe. Chrestomanci mỉm cười rồi lặng lẽ lướt khỏi phòng như một đám rước dài với một người duy nhất. “Đồ nhiều chuyện!” Gwendolen cự với Roger ngay khi cánh cửa khép lại. “Và còn cái trò dơ bẩn với chiếc vại nữa chớ! Cả hai đứa mày cùng làm, đúng không?” Roger lơ đễnh cười, chẳng mảy may bối rối. “Phép thuật là chuyện thường tình trong gia đình tụi này,” nó nói. “Và cả hai đứa này đã được kế thừa,” Julia tiếp lời. “Tôi phải đi rửa mặt đây.” Nhón lấy ba lát bánh mì để dùng tạm trên đường đi rửa mặt, nó rời khỏi phòng và nói với lại: “Roger, nói với thầy Michael rằng chị sẽ tới liền.” “Thêm ca cao nhé?” Roger lịch sự nói, tay nhấc chiếc vại lên. “Ừ, cho mình xin.” Cat nói. Cat chưa bao giờ ngại khi ăn hay uống những thứ đã bị phù phép, mà nó lại đang khát. Nó nghĩ nếu nó tọng mứt cam đầy miệng rồi cho ca cao đi qua thì nó sẽ không ngửi thấy mùi ca cao nữa. Gwendolen, về phần nó, tin chắc rằng Roger đang muốn sỉ nhục mình. Nó quay ngoắt trên chiếc ghế và kiêu kỳ nhìn chăm chăm vào tường, cho đến khi thầy Saunders bất chợt mở tung một cánh cửa mà Cat không để ý thấy trước đó. Thầy nói: “Nào, tất cả các em. Đến giờ học rồi. Ta vào đi thôi. Để xem các emđối phó thế nào trước các câu sát hạch.” Cat nuốt vội miếng mứt cam có mùi vị ca cao. Sau cánh cửa là một phòng học. Đó là một phòng học đích thực, mặc dù trong đó chỉ có bốn chiếc bàn. Có một tấm bản đen, một quả cầu. Sàn lớp lát đá kẻ ô và nói chung là có mùi vị của phòng học. Có cả một kệ sách đóng cửa kính mà tất cả các lớp học mẫu mực đều có, và có những cuốn sách sờn cũ màu xámxanh cùng xanh đen mà tất cả các kệ sách mẫu mực của các lớp học mẫu mực đều có. Trên các vách tường là những bức họa lớn vẽ lại những pho tượng mà thầy Saunders đã rất thích. Hai trong số những chiếc bàn có màu nâu và đã cũ. Hai chiếc còn lại thì mới cứng, màu vàng, đánh vécni. Gwendolen và Cat ngồi im ắng nơi hai chiếc bàn mới. Julia tất tả bước vào với khuôn mặt sáng sủa nhờ xà bông. Nó ngồi xuống chỗ chiếc bàn cũ bên cạnh bàn Roger, và cuộc sát hạch bắt đầu. Thầy Saunders lóng ngóng sải những bước dài đi qua lại phía trước tấm bảng đen, đặt ra những câu hỏi hóc búa. Chiếc áo vét vải tuýt phùng lên sau lưng thầy, chẳng khác gì chiếc áo choàng lộng gió của thầy. Có lẽ vì thế mà các cổ tay của chiếc vét trở nên quá sức cộc so với đôi tay dài của thầy Saunders. Một cánh tay dài vươn ra, và bàn tay xương xẩu với một ngón tay lêu nghêu bỗng chĩa vào Cat. “Phép thuật đóng vai trò gì trong các cuộc chiến của những Đóa hồng?” “Ơ...” Cat ấp úng. “Ơ... thưa thầy, em chưa từng làm phép này ạ.” “Gwendolen,” thầy Saunders gọi. “Ồ... một vai trò rất lớn ạ,” Gwendolen đoán mò. “Sai,” thầy Saunders nói. “Roger.” Qua cuộc sát hạch này, hóa ra là Roger và Julia đã quên rất nhiều thứ sau mùa hè, nhưng dù vậy chúng vẫn vượt xa lắc Cat ở hầu hết mọi mặt và vượt xa Gwendolen ở mọi mặt. “Em đã học những gì ở trường vậy?” Thầy Saunders hỏi Gwendolen, có phần thất vọng. Gwendolen nhún vai. “Em quên rồi. Trường đó dạy không hay. Em đã chỉ tập trung vào thuật phù thủy, và em dự định sẽ tiếp tục như thế. Xin thầy làm ơn giúp cho.” “Tôi e rằng em không thể học pháp thuật nữa,” thầy Saunders nói. Gwendolen nhìn thầy, không tai nào tin nổi nó đã nghe đúng những gì thầy vừa nói. “Sao ạ?” nó gần như rít lên. “Nhưng... nhưng em là một tài năng kinh khủng! Em phải tiếp tục học pháp thuật!” “Tài năng của em nào có mất đi đâu,” thầy Saunders nói. “Em có thể học pháp thuật trở lại khi nào em học xong những thứ khác. Mở sách Số học của em ra đi và hãy làm cho tôi bốn bài tập đầu tiên. Eric, tôi nghĩ tôi sẽ phải dạy em chút ít môn Lịch sử. Hãy viết cho tôi bài luận về triều đại vua Canute.” Rồi thầy quay sang giao bài cho Roger và Julia. Cat và Gwendolen mở sách ra. Khuôn mặt Gwendolen hết đỏ bừng rồi trắng nhợt. Khi thầy Saunders cúi xuống Roger, lọ mực của Gwendolenbỗng vuột ra khỏi hốc đựng trên bàn rồi tự nó trút cả lên lưng chiếc áo vét vải tuýt lùng thùng của thầy. Cat bặm môi để khỏi bật cười. Julia ngó nhìn với một vẻ thú vị câm lặng. Thầy Saunders có vẻ chả để ý. Lọ mực lẳnglặng quay trở về với cái hốc của nó. “Gwendolen,” thầy Saunders nói mà không quay đầu lại. “Lấy lọ mức và cái phễu ở đáy tủ trà rồi rót mực cho đầy lại đi. Và làm ơn rót cho tử tế đấy nhé.” Gwendolen đứng dậy, vẻ khoái chí và thách thức. Nó kiếm chiếc bình lớn và chiếc phễu rồi bắt đầu rót vào lọ mực của mình. Mười phút sau, nó vẫn chưa rót xong. Khuôn mặt nó thoạt tiên bối rối, sau đó đỏ lên rồi trắng nhợt vì giận. Nó toan đặt chiếc bình xuống nhưng chợt nhận ra rằng nó không làm sao làm được vậy. Nó vừa tính thì thầm một câu thần chú thì thầy Saunders đã quay phắt lại, nhìn nó. “Ông quả là xấu xa chưa từng thấy!” Gwendolen nói. “Với lại, tôi đã được cho phép làm phép thuật khi ông có mặt ở đây.” “Không ai được phép đổ mực lên thầy giáo,” thầy Saunders ôn tồn nói. “Và tôi đã bảo em tạm thời phải quên phép thuật đi cơ mà. Cứ rót tiếp đi, khi nào tôi bảo ngừng hẵng hay.” Gwendolen rót mực thêm nửa tiếng đồng hồ nữa, và cứ từng phút lửa giận trong nó lại bốc lên cao hơn. Cat rất kinh ngạc. Nó nghĩ rằng thầy Saunders hẳn là một phù thủy khá tài ba. Dĩ nhiên khi nó nhìn lại thầy Saunders, trên lưng thầy đã không còn thấy dấu vết một đốm mực nhỏ nào. Cat liếc nhìn thầy Saunders khá thường xuyên để dò xem có an toàn hay không khi nó chuyển cây viết từ tay mặt sang tay trái. Nó từng bị phạt quá nhiều về tội viết tay trái nên nó rất tài tình trong việc canh me các thầy cô. Khi thầy Saunders quay đầu lại, nó dùng tay mặt. Nhưng khi thầy vừa quay đầu đi, Cat lại đổi tay cầm và viết hối hả cứ như nhà bị cháy. Rắc rối lớn nhất là ở chỗ, để khỏi bị dính mực khi viết bằng tay trái, nó phải giữ một bên tờ giấy. Nhưng nó cũng cực khéo trong việc ẩy cuốn sách cho ngay trở lại bất cứ lúc nào thầy Saunders có vẻ như để mắt tới nó. Khi thời hạn nửa giờ qua đi, thầy Saunders, vẫn không quay lưng lại, bảo Gwendolen ngưng rót mực và làm các bài tính. Rồi, vẫn tiếp tục không quay lưng, thầy nói với Cat: “Eric, em đang làm gì vậy?” “Dạ em làm bài luận về vua Canute ạ,” Cat giả đò ngây thơ nói. Thầy Saunders quay lại, nhưng, trong thời gian đó, tờ giấy đã kịp ngay ngắn và cây viết đã ở trong tay mặt của Cat. “Em viết bằng tay nào vậy?” thầy hỏi. Cat đã quá quen với chuyện này. Nó đưa tay phải đang cầm viết lên. “Tôi thấy như là cả hai tay thì phải,” thầy Saunders nói, rồi thầy bước tới nhìn vào tờ giấy mà Cat viết. “Đúng là cả hai tay.” “Đâu thể nhận ra được ạ,” Cat thảm não nói. “Cũng khó nhận ra đấy,” thầy Saunders xác nhận. “Em thấy vui khi viết bằng cả hai tay hay sao vậy?” “Không ạ,” Cat thú nhận. “Nhưng em thuận tay trái.” Rồi, đúng như Cat lo sợ, thầy Saunders nổi trận lôi đình. Khuôn mặt thầy đỏ dừ. Thầy vỗ bàn tay bự sần sùi của mình lên chiếc bàn của Cat, khiến Cat nhẩy dựng lên và cả lọ mực cũng thế. Mực tung tóe cả lên bàn tay to lớn của thầy Saunders lẫn bài luận của Cat. “Thuận tay trái!” thầy gầm lên. “Thế thì tại sao cậu ấm đen đủi nhà ta lại không viết bằng tay trái, hử?” “Họ... họ phạt em nếu em làm vậy,” Cat lúng búng. Nó run lập cập, hết sức bối rối khi thấy thầy Saunders nổi giận vì một lý do lạ lùng như thế. “Thế thì họ đáng bị thắt nút lại và đem đi quay!” thầy Saunders gầmlên, “Bất kể họ là ai, em đang tự hại mình không thế tả được khi tuân theo lời họ, cậu bé ạ! Tôi mà còn bắt gặp em viết bằng tay mặt một lần nữa thì em sẽ gặp rắc rối to đấy!” “Vâng ạ.” Cat nói, nhẹ cả người nhưng vẫn không ngớt run. Nó nhìn bài luận bị vấy mực một cách thê lương và hy vọng rằng thầy Saunders sẽ làm một chút phép thuật cho cả chỗ mực ấy. Nhưng thầy Saunders đã với lấy cuốn tập và xé toạc trang giấy. “Làm lại cho tử tế đi!” thầy nói, dập cuốn sách trước mặt Cat. Cat còn đang viết lại toàn bộ bài luận về vua Canute thì Mary bước vào với một khay đựng sữa, bánh quy và một tách cà phê dành cho thầy Saunders. Sau món sữa và bánh quy, thầy Saunders bảo Cat và Gwendolenrằng chúng được nghỉ cho đến bữa trưa. “Mặc dù đó không phải là nhờ học tốt sáng nay đâu đấy,” thầy nói. “Các em ra ngoài thư giãn chút đi.” Khi chúng ra khỏi lớp, thầy lập tức quay sang Roger và Julia. “Giờ thì ta sẽ ôn lại một phép thuật nhỏ,” thầy nói. “Cả hai em nữa, hy vọng rằng các em sẽ không quên sạch bách.” Gwendolen khựng lại ở ngưỡng cửa, đưa mắt nhìn thầy. “Không. Không phải em,” thầy Saunders nói với nó. “Tôi đã dặn emxong rồi.” Gwendolen quay phắt lại, ù chạy, vượt qua căn phòng chơi tồi tàn rồi lao tiếp ra hành lang bên ngoài. Cat tất bật chạy theo chị, nhưng nó chỉ bắt kịp Gwendolen khi chúng đến một khu vực lâu đài lộng lẫy hơn hẳn, nơi có một cầu thang lớn bằng đá cẩm thạch uốn xuống dưới và ánh sáng rọi xuống từ một mái vòm sang trọng ở trên nóc. “Mình lộn đường rồi,” Cat hổn hển nói. “Không lộn đâu,” Gwendolen gắt gỏng đáp. “Tao đi gặp Chrestomanci đây. Tại sao hai đứa oắt con béo ụ ngu ngốc đó được học pháp thuật mà tao thì không được? Tao có tài gấp đôi chúng ấy chứ. Phải cả hai đứa nó mới nhấc nổi một vại ca cao. Cho nên tao muốn gặp Chrestomanci.” Nhờ một sự may mắn bất ngờ, Chrestomanci đang vừa vặn bước tới dọc hành lang ở phía bên kia cầu thang, phía sau chiếc tay vịn cong cong bằng cẩm thạch. Lúc này, ông mặc một bộ áo màu da hươu non thay cho bộ áo khoác ngoài uy nghi, song trông ông thậm chí còn sang trọng hơn trước. Qua ánh mắt trên khuôn mặt ông, có thể thấy những ý nghĩ của ông đang ở cách xa hàng dặm. Gwendolen chạy bọc ô cầu thang cẩm thạch và đến đứng chắn ngang trước mặt ông. Chresotmanci chớp mắt, mơ màng nhìn nó rồi đến Cat. “Có đứa nào trong hai con muốn gặp ta à?” “Vâng, là con ạ,” Gwendolen nói. “Thầy Saunders không chịu dạy conphép thuật, và con muốn ông bảo thầy ấy phải dạy.” “Ồ, nhưng ta đâu thể làm việc đó,” Chrestomanci lơ đãng nói. “Xin lỗi con nhé.” Gwendolen dậm chân. Động tác đó không gây ra một tiếng động nào cả, dù là tiếng động ở trên sàn cẩm thạch, và cũng không hề có tiếng vang nào. Gwendolen buộc lòng phải hét lên thay vào đó. “Tại sao không? Ông phải nói. Ông phải nói. Ông phải nói mới được!” Chrestomanci cúi nhìn Gwendolen, vẻ dò xét và ngạc nhiên, như thể ông mới vừa mới nhìn thấy nó lần đầu. “Con có vẻ bực tức,” ông nói. “Nhưng ta e rằng điều đó không thể nào tránh được. Ta đã dặn Michael Saunders rằng ông ấy sẽ không được thanh toán tiền công dạy dỗ pháp thuật cho cả hai con.” “Ông ấy à? Tại sao thế?” Gwendolen la lớn. “Tại vì các con có xu hướng lạm dụng nó, dĩ nhiên rồi,” Chrestomanci nói như thể đó là chuyện quá rõ ràng. “Nhưng ta sẽ xem xét lại quyết định này trong khoảng một năm nữa, nếu như con vẫn còn muốn học.” Rồi ông mỉm một nụ cười thân mật với Gwendolen, rõ ràng là ông chờ đợi nó tỏ ra hài lòng, rồi mới tha thẩn bước xuống những bậc thang cẩmthạch. Gwendolen đá vào tay vịn cẩm thạch và đau buốt cả bàn chân. Điều này khiến nó nổi cơn thịnh nộ chẳng kém gì thầy Saunders lúc nãy. Nó vung tay múa chân, nhảy chồm chồm và rên rỉ ở đâu cầu thang, trong khi Cat rất lo lắng cho chị. Gwendolen giơ nắm đấm dứ dứ sau lưng Chrestomanci. “Tôi sẽ cho ông thấy! Cứ chờ đấy!” nó hét lớn. Nhưng Chrestomanci đã mất dạng sau một khúc quanh cầu thang và có lẽ không nghe thấy. Ngay cả tiếng hét lớn nhất của Gwendolen nghe cũng lạc lõng và yếu ớt. Cat bối rối. Tòa lâu đài này làm sao ấy nhỉ? Nó nhìn lên chiếc vòm, nơi ánh sáng đổ vào, và nghĩ rằng tiếng hét của Gwendolen lẽ ra phải vang vọng trên đó như một âm thanh ma quái. Thay vào đó, tiếng hét chỉ tạo ra một tiếng than yếu ớt. Trong khi chờ đợi Gwendolen bớt cáu, Cat thử nhét hai ngón tay vào mồm và ra sức huýt thật to. Động tác đó tạo ra một tiếng cứa kỳ lạ, giống như tiếng giày ống cót két. Nó chỉ khiến một bà lão mang găng tay hở ngón thò đầu ra khòi một cánh cửa dọc hành lang. “Ồn ào quá, mấy đứa trẻ này!” bà ta nói. “Nếu các con muốn la hét và huýt sáo thì ra ngoài sân đi.” “Ta đi thôi!” Gwendolen cáu kỉnh bảo Cat, rồi cả hai đứa chạy đến phần lâu đài mà chúng đã quen thuộc. Sau một lúc quanh quẩn, chúng phát hiện ra cánh cửa mà chúng đã đi qua lần đầu. Chúng bèn chui ra ngoài qua cánh cửa đó. “Mình thám hiểm mọi nơi đi!” Cat đề nghị. Gwendolen nhún vai bảo rằng nó không phản đối, thế là cả hai bắt đầu cuộc thám hiểm. Bước ra sau đám đỗ quyên, chúng thấy mình đứng trước một bãi cỏ lớn mượt mà, lác đác những ngọn cây tuyết tùng, trải rộng ra toàn bộ mặt tiền của phần lâu đài mới. Ở phía bên kia bãi cỏ, Cat thấy một bức tường cao ngập nắng trông hay ho nhất, với những ngọn cây vắt vẻo ở bên trên. Rõ ràng đó là tàn tích của một phần lâu đài thậm chí còn xưa hơn nữa. Cat lon ton chạy đến đó, băng qua những cửa sổ lớn của phần lâu đài mới, lôi cả con chị Gwendolen chạy theo sau. Nhưng, mới được nửa đường, Gwendolen bỗng dừng lại, đứng rón rén trên bãi cỏ xanh được tỉa tót chu đáo. “Hừm,” Gwendolen nói, “Mày nghĩ coi ở đây có còn trong phạm vi lâuđài không vậy?” “Em cho là còn,” Cat đáp. “Nào, mình đi tiếp đi. Em muốn thám hiểmnhững phần đổ nát đằng kia.” Bức tường đầu tiên mà chúng đi tới là một bức tường rất thấp, và cánh cửa trên tường dẫn chúng vào một ngôi vườn rất tề chỉnh. Ngôi vườn có những lối đi rộng trải sỏi, chạy thẳng tắp giữa những rào cây hoàng dương. Khắp nơi là những cây thủy tùng, được xén ngọn thành những hình kim tự tháp khắc khổ, và tất cả những bông hoa trong các bụi cây ngăn nắp đều có màu vàng. “Trông chán quá,” Cat nói, rồi dẫn đường đi thẳng tới bờ tường phía sau. Nhưng, một lần nữa, dọc đường lại có một bức tường thấp hơn, và lần này hai đứa ra đến một vườn cây ăn trái. Đó là một vườn cây ăn trái rất ngăn nắp, trong đó tất cả cây cối đều được tạo dáng để nằm dẹt xuống, trông giống như những bờ rào dọc theo những lối đi trải sỏi, ngoằn ngoèo. Những cây táo trĩu đầy trái, có một vài trái rất lớn. Sau những gì Chrestomanci nói về việc hái trộm, Cat không dám bứt trái nào, nhưng Gwendolen thì bứt một trái táo đỏ bự và cắn một miếng. Lập tức, một người làm vườn xuất hiện ở một khúc quanh và nhắc chúng rằng ở đây cấm hái táo. Gwendolen liệng trái táo xuống lối đi. “Vậy thì trả nè. Dù sao nó cũng bị sâu ăn rồi.” Chúng đi tiếp, bỏ lại người làm vườn đang rầu rĩ nhìn trái táo bị cắn dở. Và thay vì đi tới phần lâu đài đổ nát, chúng đi tới một ao cá vàng, rồi sau đó đi tới một vườn hồng. Ở đó, Gwendolen thử hái một bông hồng. Lập tức, một người làm vườn khác xuất hiện và kính cẩn giải thích rằng chúng không được phép hái hồng. Gwendolen lại liệng bông hồng xuống. Rồi Cat ngoái lại nhìn và phát hiện rằng phần lâu đài đổ nát đã ở sau lưng chúng. Nó quay trở lại. Nhưng có vẻ nó không tài nào đi tới được đó. Phải đến gần giờ ăn trưa nó mới bất ngờ rẽ vào một lối đi nhỏ và dốc ở giữa hai bức tường và phát hiện ra phần lâu đài đổ nát giờ lại nằm ở phía trên đầu nó, tận cuối lối đi dốc. Cat hớn hở xông lên. Bức tường phơi nắng ở phía trước mắt nó cao hơn gần hết những tòa nhà xung quanh, và trên đỉnh tường lại có cả cây cối. Khi đến đủ gần, Cat thấy có một cầu thang đá cao đến chóng mặt nhô ra từ bức tường, trông giống như những bậc xếp bằng đá hơn là một cầu thang. Cái cầu thang đá lâu đời đến mức hoa mõm chó và cây quế trúc đã bám rễ đầy ở bên dưới, và những cây thục quỳ đã mọc đùn lên ở chỗ cầu thang tiếp giáp với mặt đất. Cat phải rẽ một cây thục quỳ đỏ cao lớn mới đặt được chân lên nấc thang đầu tiên. Chỉ vừa vặn có thế, một người làm vườn khác đã hổn hển xông lên lối đi dông dốc. “Cậu không được đến đó! Trên đó là khu vườn của Chrestomanci, thật đấy!” “Tại sao lại không được ạ?” Cat chán nản hỏi. “Vì cậu không được phép, chỉ vậy thôi.” Cat lần chần bỏ đi. Người làm vườn đứng ở chân cầu thang để canh nó đi khỏi. “Chán quá!” Cat nói. “Tao muốn phát bệnh vì những trò cấm đoán của Chrestomanci,” Gwendolen nói. “Đã đến lúc phải có ai đó dạy cho lão ta một bài học.” “Chị định làm gì vậy?” Cat hỏi. “Cứ chờ xem,” Gwendolen đáp, môi bặm lại tức tối. CHƯƠNG NĂM (@Iris_elizabeth type) Gwendolen không chịu nói cho Cat biết nó tính làm gì. Có nghĩa là Cat phải chịu đựng những chuỗi ngày thật buồn tẻ. Sau bữa ăn trưa bổ dưỡng với món củ cải Thụy Điển và thịt cừu luộc, hai đứa lại vô học tiếp. Sauđó, Gwendolen chạy vội đi, không cho Cat bám theo. Còn lại một mình, Cat không biết phải làm gì. “Bạn có thích ra ngoài chơi không?” Roger hỏi. Cat nhìn là biết ngay Roger chỉ mời cho có vẻ lịch sự. “Không, cảm ơn.” Cat lịch sự đáp lại. Nó buộc phải lang thang một mình trong khu vườn. Tuốt phía dưới xa có một khu rừng đầy những cây dẻ ngựa, nhưng những hạt dẻ ngựa thì hãy còn sống nhăn. Trong khi Cat đang cụt hứng nhìn lên một ngọn cây, thì nó thấy có một cái chòi ở khoảng lưng trừng, trông đúng là một căn chòi trên cây. Cat vừa định leo lên thì nó nghe có giọng nói và thấy chiếc váy của Julia thấp thoáng giữa những tán lá. Vậy là không được rồi. Đó là cái chòi trên cây của riêng Julia và Robert, và chúng đang ở trong đó. Cat lại lang thang tiếp. Nó ra đến bãi cỏ, và ở đó nó thấy Gwendolenđang lom khom dưới một cây tuyết tùng, mải miết đào một cái hố nhỏ. “Chị làm gì vậy?” Cat hỏi. “Đi chỗ khác!” Gwendolen gắt. Cat bỏ đi. Nó biết chắc rằng Gwendolen lại đang giở trò pháp thuật và điều này chắc hẳn là có liên quan đến việc dạy cho Chrestomanci một bài học. Nhưng dò hỏi Gwendolen thì chẳng hay ho chút nào một khi chị ấy đã tỏ ra bí mật như thế. Cat đành phải chờ đợi thôi. Nó chờ qua một buổi chiều kinh khủng nữa, rồi chờ qua một đêm rất dài, rất dài. Gwendolen tự giam mình trong phòng sau bữa chiều và bảo Cat cút đi khi nó đến gõ cửa. Sáng hôm sau, Cat dậy sớm và lao ngay đến chiếc cửa sổ gần nhất trong ba chiếc. Nó thấy ngay lập tức Gwendolen đang làm gì. Bãi cỏ đã bị tànphá. Không còn là một tấm thảm nhung mềm mại nữa, giờ chỉ còn một bãi đất lởm chởm đầy những hang chuột chũi. Mút tầm mắt của Cat là những ụ nhỏ xanh xanh, những đống đất nhỏ vừa xới, những luống dài đất thô và những đám cỏ xanh bị trói gốc. Cứ như thể có nguyên một đội quân chuột chũi đã làm việc suốt đêm hôm trước. Khoảng một chục bác làm vườn đang rầu rĩ gãi đầu, đứng láo nháo ở đó. Cat khoác vội quần áo rồi chạy ào xuống nhà. Gwendolen đang tựa vào thành cửa sổ trong bộ đồ ngủ vải bông có ren. Trông nó rạng rỡ vì tự hào. “Nhìn kìa!” nó nói với Cat. “Tuyệt chưa! Cũng cả hécta đó chớ. Tối qua tao phải mất cả giờ mới phá hủy được hoàn toàn. Vụ này sẽ làm cho lão Chrestomanci phải suy nghĩ một chút đây!” Cat tin chắc là như thế. Không biết phải tốn kém cỡ bao nhiêu để thay lại một bãi cỏ khổng lồ cỡ đó, nhưng nó nghĩ chắc cũng phải tốn bộn bạc. Nó lại lo rằng Gwendolen sẽ gặp rắc rối to. Nhưng Cat đã vô cùng ngạc nhiên khi chẳng ai thèm đả động gì đến bãi cỏ. Euphemia bước vào một phút sau đó, nhưng chị ấy cũng chỉ nói, “Hai cô cậu lại trễ bữa điểm tâm nữa cho coi!” Roger và Julia không nói năng gì cả. Hai đứa nó lẳng lặng nhận mónmứt cam cùng con dao của Cat chìa ra cho chúng, và câu duy nhất mà chúng mở miệng nói là khi Julia vụng về đánh rơi con dao của Cat và vụng về nhặt nó lên. Con bé nói, “Chán thật!”. Và khi thầy Saunders gọi bọn trẻ vào học, thầy chỉ nói về những điều xung quanh bài học. Cat tự nhủ, chắc chưa ai biết Gwendolen gây ra vụ chuột chũi. Chắc họ chưa hình dung nổi chị ấy là một phù thủy mạnh cỡ nào. Ngày hôm đó chúng không phải học sau bữa trưa. Thầy Saunders giải thích là chiều thứ tư nào chúng cũng được nghỉ học. Đến giờ ăn trưa, tất cả những đống đất bị chuột chũi đào đều biến đâu mất cả. Khi chúng nhìn ra ngoài cửa sổ phòng chơi thì bãi cỏ đã trở lại là một tấm nhung. “Không thể tin nổi!” Gwendolen thì thầm với Cat. “Chắc là ảo ảnh thôi. Họ đang cố làm cho tao cảm thấy mình nhỏ bé đây mà.” Sau bữa trưa, chúng ra ngoài để dò la. Làm việc này, chúng phải khá thận trọng vì thầy Saunders đang trải qua buổi chiều nhàn rỗi trên một chiếc ghế xếp dưới mấy ngọn tuyết tùng. Một cuốn sách bìa vàng có vẻ đang làm thầy khoái chí ghê gớm. Gwendolen thong dong tản bộ ra giữa bãi cỏ, giả đò như ngắm nghía lâu đài. Giả bộ cúi xuống cột lại dây giày, nó chọc mấy ngón tay xuống đám cỏ. “Tao không thể hiểu nổi!” nó nói. Là một phù thủy, nó biết rõ đám cỏ mềm mại, sát kề này không hề là ảo ảnh. “Đúng là cỏ thật rồi! Sao lại thế nhỉ?” “Chắc họ trải một thảm cỏ mới trong khi tụi mình đang học,” Cat gợi ý. “Đừng có nói ngu!” Gwendolen chặn họng. “Thảm cỏ mới thì phải cònkhoanh từng ô chứ, thảm cỏ này đâu có vậy.” Thầy Saunders cất tiếng gọi chúng. Trong tích tắc, Gwendolen hốt hoảng chưa từng thấy. Nhưng con bé che giấu điều đó khá tốt và tỉnh khô tiến lại bên chiếc ghế xếp. Cat thấy cuốn sách màu vàng được in bằng tiếng Pháp. Cười được với một thứ bằng tiếng Pháp thì đúng là ghê gớm thật. Thầy Saunders hẳn phải là một phù thủyuyên bác chứ không đơn thuần chỉ là một phù thủy pháp thuật cao cường. Thầy Saunders đặt úp cuốn sách xuống thảm cỏ đã trở lại tươi đẹp, rồi ngước nhìn hai đứa, mỉm cười. “Hai em lỉnh đi nhanh quá, chẳng để tôi có kịp thời gian phát tiền tiêu vặt cho các em. Phần các em đây.” Ông chìa ra cho mỗi đứa một đồng bạc lớn. Cat nhìn đồng bạc của nó. Đó là một đồng crown – cả năm bảng Anh lận. Trong đời, nó chưa bao giờ có nhiều tiền để tiêu xài đến thế. Thầy Saunders càng khiến nó thêm ngạc nhiên khi nói, “Mỗi thứ tư các em đều được nhận chừng đó. Tôi không biết các emthuộc loại tiết kiệm hay tiêu hoang. Julia và Roger thì thường xuống làng tiêu hết vào khoản kẹo.” “Cảm ơn thầy nhiều ạ,” Cat nói. “Mình có xuống làng không, chị Gwendolen?” “Xuống thì xuống,” Gwendolen đồng ý. Nó đang giằng co giữa một bên là ý muốn ngang ngạnh ở lại lâu đài để đối mặt với bất cứ rắc rối nào về vụ chuột chũi, và bên kia là sự nhẹ nhõmdo đã có cớ để mà chuồn. “Tao đoán lão Chrestomanci thể nào cũng cho gọi tao ngay khi lão biết đó là do tao làm,” Gwendolen nói với Cat khi hai đứa đi trên con đường giữa hai hàng cây. “Theo chị có phải thầy Saunders đã làm bãi cỏ hồi phục lại không?” Cat hỏi. Gwendolen cau mày. “Không thể là ổng được. Ổng mắc dạy tụi mình mà.” “Hay mấy người làm vườn?” Cat gợi ý. “Trong đám họ dám có người là phù thủy lắm chớ. Nhớ không, cứ mỗi khi mình hó hé là họ xuất hiện nhanh khủng khiếp, ngăn cấm chúng mình đủ thứ chuyện.” Gwendolen cười khinh miệt: “Mày nghĩ là tay Pháp sư Thiện chí làm chớ gì!” Đúng là Cat nghĩ đến anh ta, tuy có hơi hồ nghi. Chàng Pháp sư Thiệnchí thật ra không tài ba gì hơn bà Sharp. Anh ta thường được thuê làmnhững việc khuân vác nặng, hoặc làm sao cho một con ngựa yếu giành được chiến thắng trong các cuộc đua. “Nhưng mà,” nó cãi lại, “biết đâu họ là phù-thủy-loại-chuyên-làmvườn?” Gwendolen lại chỉ cười. Ngôi làng nằm ngay bên ngoài những cánh cổng lâu đài, sát dưới chân ngọn đồi mà lâu đài ngự tòa. Đó là một chốn đẹp mắt, nằm lọt giữa một vòng đai xanh rộng lớn. Băng qua một vườn hoa tươi mát là đến những cửa hàng: một cửa hàng bánh mì xinh xắn với mặt tiền khum khum, một cửa hàng kẹo kiêm nhà bưu điện trông cũng thích mắt chẳng kém. Cat muốn tạt vào cả hai nơi ấy, nhưng Gwendolen chỉ dừng lại ở cửa hàng thứ ba – cửa hàng lạc xoong. Cat cũng chả phản đối gì việc ghé vào cửa hàng này. Nhưng Gwendolen đã lắc đầu quầy quậy, vẻ kích động. Nó chặn một thằng bé dân làng đang tha thẩn gần đó. “Tôi nghe nói có một ông tên Baslam sống trong làng này. Bạn có thể cho tôi biết ông ấy sống ở đây không?” Thằng bé xịu mặt xuống. “Ông đó hả? Ổng không tốt đâu. Nếu các bạn thực sự muốn biết thì ổng ở đằng kia kìa, ngay cuối con đường này.” Rồi thằng bé đứng đó nhìn hai đứa với vẻ mặt của một kẻ mong kiếmđược sáu đồng penny để bù cho những khó nhọc của mình. Cả Cat lẫn Gwendolen đều không có xu lẻ nào ngoài mấy đồng crown. Chúng buộc lòng phải bỏ đi mà không cho được thằng bé chút gì. Thằng bé hét lớn sau lưng hai đứa: “Đồ phù thủy con hống hách! Đồ pháp sư con keo kiệt!” Gwendolen chẳng thèm bận tâm, song Cat thì thấy xấu hổ đến mức nó chỉ muốn quay lại để mà thanh minh. Lão Baslam sống trong một căn nhà tranh tồi tàn có một tấm biển ghi trật lấc dựng ở một cửa sổ: HẰNG QUỶ HIẾM (Exotic Supplies, tạm dịch là “hàng quý hiếm”, viết sai thành Eggsotik Serplys). Gwendolen vừa nhìn tấm bảng với vẻ thương hại, vừa giộng cánh cửa bằng chiếc vòng gỗ xin xỉn. Cánh cửa mở ra, lão Baslam xuất hiện hình hài một lão béo với chiếc quần cũng rích, xệ cả xuống nhường chỗ cho chiếc bụng phệ, và đôi mắt chù hụ như của loài chó St Bernard. Thấy hai đứa bé, lão tính sập cửa lại. “Hôm nay không được.” Lão Baslam nói, nồng nặc mùi bia. “Ông Nostrum cử cháu đến,” Gwendolen nói. “Ông William Nostrum.” Cánh cửa ngưng đóng lại. “A,” lão Baslam thốt lên. “Thế thì hai cháu vào đây. Lối này này.” Lão dẫn đường cho chúng bước vào một căn phòng chật chội, có bốn chiếc ghế, một chiếc bàn và hàng chục chiếc hộp đựng những con thú nhồi bông. Chúng được bố trí hết sức lộn xộn, hộp này chồng lên hộp kia, chiếc nào chiếc nấy đều rất bụi bặm. “Ngồi xuống đi,” lão Baslam nói với giọng khá miễn cưỡng. Cat nhẹ nhàng ngồi xuống và cố không hít thở quá sâu. Ngoài mùi bia tỏa ra từ lão Baslam, nơi đây còn thoang thoảng một mùi thối rữa và một mùi như dưa chua. Cat nghĩ rằng có lẽ có một vài con thú nhồi bông đã không được bảo quản đúng cách. Nhưng những mùi này có vẻ không phiền hà gì đến Gwendolen. Nó ngồi đó, như một bé gái hoàn hảo ở trong tranh. Bộ váy màu kem phủ thành nếp quanh mình và chiếc nón rộng tô điểm mái tóc vàng trông rất hợp. Nó nhìn lão Baslam bằng cặp mắt xanh nghiêmnghị. “Cháu nghĩ tấm bảng của ông viết sai chính tả rồi.” Lão Baslam cụp mắt chó St Bernard xuống và phác vài động tác như thể đó chỉ là một trò đùa. “Ta biết. Ta biết chớ. Nhưng ta không muốn bị coi là nghiêm túc, thế có đúng không nhỉ? Không nghiêm túc ngay từ ngưỡng cửa. Giờ thì nói xemcác cháu muốn gì nào. Lão William Nostrum không cho ta biết gì nhiều về các kế hoạch của lão. Ta cũng chỉ là một nhà cung cấp quèn thôi mà.” “Vâng, cháu muốn có một số hàng.” Gwendolen nói. Cat khá chán chường lắng nghe cuộc mặc cả của Gwendolen để mua các vật liệu pháp thuật. Lão Baslam loay hoay phía sau mấy hộp đựng thú nhồi bông rồi lôi ra những món này món nọ bọc trong những tấm giấy báo: mắt sa giông, lưỡi rắn, bạch đậu khấu, cây trị đen, xác động vật ướp, axit nitric, hạt giống cây moly và nhiều loại nhựa cây khác – có lẽ đó là những thứ đã góp phần làm nên cái mùi khó chịu. Lão muốn bán với giá cao hơn giá Gwendolen có thể trả. Nhưng con bé đã quyết định chỉ bỏ ra năm bảng Anh mà thu về nhiều lợi nhất. Lão Baslam hình như cũng cảm thấy điềunày. “Cháu có biết mình muốn gì không?” lão cáu kỉnh nói. “Cháu biết giá cả mọi thứ,” Gwendolen đáp. Nó giở nón ra, cẩn thận nhét những dúm giấy báo nhỏ vào chóp nón rồi đội ngay ngắn trở lại lên đầu. “Cuối cùng, có lẽ cháu muốn có một ít máu rồng,” nó nói. “Ồồồ!!!” Lão Baslam thốt lên, ảm đạm lắc đầu chiếc đầu tới mức hai má thõng xuống của lão vỗ bành bạch vào nhau. “Máu rồng bị cấm sử dụng, cô bé ạ. Cháu phải biết điều đó chứ. Ta khong biết có xoay được cho cháu món đồ đó hay không nữa.” “Ông Nostrum – cả hai ông Nostrum – bảo cháu rằng ông có thể kiếmđược mọi thứ,” Gwendolen nói. “Họ bảo rằng ông là nhà cung cấp tốt nhất mà họ biết. Vả lại cháu cũng chưa cần máu rồng ngay bây giờ. Cháu chỉ đặt hàng thôi.” Lão Baslam có vẻ hể hả vì được hai anh em lão Nostrum khen ngợi, nhưng lão vẫn nghi hoặc. “Chỉ có một món bùa mạnh ghê gớm mới cần tới máu rồng,” lão lầmbầm nói. “Một cô bé trẻ như cháu thế này thì không thể làm món bùa nào mạnh tới cỡ đó”. “Cháu cũng chưa biết nữa,” Gwendolen nói. “Nhưng cháu nghĩ cháulàm được. Ông biết đấy, cháu học đến lớp pháp thuật nâng cao rồi cơ mà. Và cháu muốn có máu rồng chỉ để phòng hờ khi nào cháu cần đến.” “Sẽ đắt tiền lắm đấy,” lão Baslam cảnh báo. “Đó là hàng quý mà. Cháubiết đấy, cần phải chi trả cho rủi ro nữa chứ. Ta thì không muốn dính líu đến pháp luật.” “Cháu trả được,” Gwendolen nói. “Cháu sẽ trả dần. Ông có thể lấyphần dư lại của năm bảng này, coi như khoản trả góp của cháu.” Lão Baslam không thể nào kháng cự được trước khoản tiền đó. Cái cách lão nhìn đồng crown mà Gwendolen chìa ra làm Cat nhìn thấy ngay một cách sống động trong mắt lão hình ảnh một dãy dài những vại bia sủi bọt. “Xong xuôi,” lão Baslam nói. Gwendolen cười khoan dung và đứng dậy đi về. Cat cũng mừng rỡ bật dậy. “Còn cháu thì sao, anh bạn nhỏ?” Lão Baslam hỏi, vẻ săn đón. “Cómuốn thử nhúng tay vào một chút ma thuật không nào?” “Nó là em của cháu ấy mà,” Gwendolen nói. “Ồ… À… Hừm… Phải rồi,” lão Baslam nói. “Là em cháu, dĩ nhiênrồi, chúc hai cháu một ngày tốt lành. Nhớ đến nữa nhé, bất cứ lúc nào.” “Khi nào thì ông có máu rồng?” Ra đến bậc cửa, Gwendolen hỏi. Lão Baslam nghĩ ngợi. “Một tuần được không?” Khuôn mặt Gwendolen sáng lên. “Nhanh thế! Cháu biết ngay ông là nhà phân phối xịn mà. Ông lấy đâu ra mà nhanh quá vậy?” “Giờ thì có thể nói được rồi, đúng không nhỉ?” Lão Baslam nói. “Nóđến từ một thế giới khác, còn thế giới nào thì đó là bí mật kinh doanh, cô bé ạ.” Gwendolen vui ghê gớm khi hai đứa trở ra lại con hẻm. “Một tuần lễ!” nó reo lên. “Tao chưa từng nghe vụ nào nhanh dữ vậy. Mày biết không, chắc máu rồng phải nhập lậu từ cái thế giới khác ấy. Muốn thế ổng phải lập những được dây cực tốt ở đó.” “Hay ổng đã có sẵn rồi, bên trong một con chim nhồi bông chẳng hạn.” Cat nói, nó thấy chẳng ưa ông Baslam chút nào. “Nhưng chị muốn có máu rồng để làm chi vậy? Bà Sharp nói nó trị giá tới năm chục pound một ounce lận đó.” (Pound: đơn vị tiền tệ Anh, Ounce: đơn vị trọng lượng Anh, bằng 28g) “Im nào,” Gwendolen nói. “Ồ, nhanh lên! Nhanh lên đi, Cat! Chui vàocửa hàng kẹo đó liền đi. Không được để mụ ấy biết tụi mình ở đâu đi ra.” Ở bãi cỏ xanh ven làng, một mệnh phụ xách cây dù đang trò chuyện với một tu sĩ. Đó là bà vợ của Chrestomanci. Cat và Gwendolen chui tọt vàocửa hàng, hy vọng bà không nhìn thấy. Ở đó, Cat mua cho mỗi đứa một bịch kẹo bơ. Vì bà Millie vẫn chưa đi khỏi, nên nó mua tiếp cả kẹo camthảo. Đến lúc này bà Millie vẫn chưa dứt chuyện với ông thầy tu, vì vậy nó lại mua cho Gwendolen một cái chùi viết và mua cho chính nó một tấmảnh có hình tòa lâu đài. Bà Millie vẫn chưa đi, mà Cat thì không thể nghĩ ra có thể mua thêm thứ gì khác, thế nên hai đứa buộc lòng phải ra khỏi cửa hàng. Millie vẫy hai đứa lại khi chúng vừa ló mặt. “Lại đây chào cha sở kính mến đi các con.” Ông cha sở già lắm rồi, ánh mắt ông yếu ớt nhìn đâu đâu. Ông run run bắt tay chúng và bảo rằng sẽ gặp lại chúng vào chủ nhật. Đoạn ông nói ông phải đi thôi. “Chúng con cũng thế ạ,” bà Millie nói. “Nào các con, chúng ta cùng về lâu đài nhé!” Chả có việc gì để làm ngoài việc lủi thủi đi cạnh bà Millie dưới bóng cây dù, vượt qua những trảng cỏ xanh, rồi chui dưới những cánh cổng rào. Cat cứ nơm nớp lo sợ bà lại sắp vặn hỏi chúng vì cớ gì và ghé nhà lão Baslam. Gwendolen thì cầm chắc bà sắp hỏi nó về đám hang chuột chũi trên bãi cỏ. Nhưng điều mà bà Millie nói lại là, “Các con thân yêu, ta rất mừng vì có cơ hội trò chuyện với các con. Ta chả có lúc nào rảnh rỗi để tìm hiểu các con đã thích ứng ra sao. Các con ổn cả chứ? Các con có thấy ở đây rất lạ lùng không?” “Hơi… hơi hơi ạ,” Cat thú nhận. “Những ngày đầu tiên bao giờ cũng là những ngày tồi tệ nhất, ở đâu cũng thế thôi,” bà Millie nói. “Ta tin chắc các con sẽ sớm thích hợp với nơi này. Và nếu các con thích thì đừng ngần ngại dùng đồ chơi trong phòng chơi nhé. Chúng là của chung đấy. Đồ chơi riêng thì đã ở trong phòng riêng mỗi đứa rồi. Các con có thích phòng các con lắm không?” Cat kinh ngạc ngước nhìn bà. Bà đang nói cứ như thể chưa bao giờ có vụ chuột chũi và mấy trò ma thuật. Mặc dù đã có bộ váy xếp nếp sang trọng cùng với chiếc dù viền ren, trông bà vẫn cứ như một quý bà tốt bụng, hồn hậu, bình dân nhất. Cat thấy mến bà Millie. Nó làm an lòng bà bằngcách nói nó rất thích căn phòng, và cả phòng tắm của nó nữa – đặc biệt là vòi sen. Rồi nó tâm sự rằng trong đời nó trước đây chưa bao giờ nó có được một phòng tắm riêng cả. “Ôi, ta mừng quá. Ta vẫn mong quá chừng rằng con sẽ thích nó,” bà Millie nói. “Cô Bessermer muốn sắp con ở cạnh Roger, nhưng ta nghĩ cănphòng đó quá chán – mà lại không có vòi sen nữa chứ. Khi nào con thử ngó qua đi, con sẽ hiểu ý ta muốn nói gì.” Bà đã đi vào lối đi chính, miệng vẫn không ngớt chuyện, và Cat nhận ra rằng nó chính là người phải đảm nhận phần còn lại của cuộc đối thoại. Ngay khi đã rõ rằng bà Millie sẽ không đả động gì tới vụ thảm cỏ lẫn vụ mấy món hàng độc, Gwendolen bắt đầu có vẻ coi thường bà. Nó im lặng khinh khỉnh, để mặc cho Cat tiếp chuyện. Sau một lúc, bà Millie hỏi Cat cái gì trong lâu đài làm nó thấy lạ lùng nhất. Cat bẽn lẽn nói, nhưng không hề do dự: “Cách mọi người nói chuyện vào bữa chiều ạ.” Bà Millie thốt lên một tiếng kêu thảm thiết đến mức làm cho Cat nhảy dựng lên và Gwendolen thì càng khinh khỉnh chưa từng thấy. “Ôi, con yêu! Eric tội nghiệp của ta! Ta đã thấy cách nhìn của con rồi. Tệ hại lắm phải không con? Thầy Michael thì cứ cái kiểu nhiệt tình ấy, và thầy ấy có biết nói gì khác đâu. Một ngày nào đó cần phải dọn dẹp cái lối này đi mới được, như vậy chúng ta sẽ có lại những cuộc trò chuyện hợp lý và dăm câu chuyện đùa vui. Ta thích vui cười trong bữa ăn, con có vậy không nhỉ? Ta e rằng không gì có thể ngăn được ông Bernard đáng thương huyên thuyên về chứng khoán và cổ phần, nhưng con đừng để ý đến chuyện đó làm gì. Chẳng ai lắng nghe ông Bernard cả. Nhân tiện đây ta muốn hỏi, con có thích bánh kem dài không?” “Có ạ,” Cat đáp. “Ồ, tốt quá!” bà Millie nói. “Ta đã sai dọn trà cho cả nhà trên bãi cỏ vì đây là thứ tư đầu tiên của các con và ta không muốn bỏ phí một thời tiết đáng yêu như thế này. Tháng Chín hầu như bao giờ cũng đẹp trời, các con có thấy lạ không? Chỉ cần chui ra khỏi đám cây cối này là chúng ta sẽ ra đến thảm cỏ cùng lúc với món trà đấy.” Đúng như vậy, chúng đi theo và Millie ra khỏi đám cây rậm rạp và thấy đã có cả một đám ghế xung quanh chiếc ghế thầy Saunders ngồi ban nãy. Đám người hầu đang tất tả bày bàn và bưng đến những chiếc khay. Gần như cả Gia đình đã có mặt, đang đứng đây đó, quanh chỗ mấy cái ghế dựa. Gwendolen theo bà Millie và Cat tới chỗ đó. Trông Gwendolen bồn chồnvà thách thức. Nó biết Chrestomanci sắp sửa nói chuyện với nó về vụ thảmcỏ. Và sự việc sẽ càng tồi tệ hơn nữa khi nó chẳng có cơ hội nào để lấy mấy món hàng độc ra khỏi chiếc nón trước khi ông ấy tịch thu. Nhưng Chrestomanci không có mặt ở đó, mặc dù mọi người đều đã có mặt. Bà Millie len vào giữa Julia và ông Bernard chứng khoán-với-cổphần. Bà băng qua các mệnh phụ lớn tuổi đeo găng tay hở ngón, rồi nghiêmkhắc chỉa mũi dù vào thầy Saunders. “Michael, tôi cấm thầy tuyệt đối không được nói chuyện về nghệ thuật trong bữa trà đấy,” bà nói, nhưng rồi ngay lập tức phá tan sự nghiêm khắc bằng một tràng cười. Gia đình rõ ràng cũng cảm nhận y như Cat. Nhiều người trong số họ thốt lên: “Nghe kìa nghe kìa!” Còn Roger thì nói, “Mình bắt đầu được chưa, hả mẹ?” Cat thưởng thức tiệc trà. Đây đúng là lần đầu tiên nó “thưởng thức” các món ăn kể từ khi nó đặt chân đến lâu đài. Có những chiếc bánh kẹp lát dưa chuột mỏng như giấy, những chiếc bánh kem dài to bự và xốp. Cat ăn uống thậm chí còn nhiều hơn cả Roger. Vây quanh nó là những câu chuyện rômrả như mọi ngày của Gia đình, trên nền những tiếng rầm rì về chứng khoán và cổ phần. Ánh mặt trời tỏa ấm áp và sự thanh bình bao trùm lên thảm cỏ xanh trải dài. Cat thấy mừng rằng cuối cùng, bằng cách chi đó, cũng có người đã hồi phục lại giúp cái thảm cỏ. Nó thích có thảm cỏ mềm mại như thế này hơn. Nó bắt đầu nghĩ rằng, chỉ cần tập dợt thêm một tí thôi thì mình gần như có thể coi là hạnh phúc được. Gwendolen chẳng hề vui như thế. Mớ bọc giấy báo trĩu nặng trên đầu nó. Mùi của chúng làm mất mùi vị của món bánh kem dài. Và nó biết rằng nó sẽ phải chờ đến tận bữa chiều Chrestomanci mới nói chuyện với nó về vụ bãi cỏ. Bữa tối hôm đó diễn ra muộn hơn do đã có tiệc trà. Hoàng hôn buông xuống, nhả những tia sáng cuối cùng vào phòng ăn. Những ngọn nến đã thắp sẵn được bày trên chiếc bàn bóng lộn. Qua dãy cửa sổ dài ngay trước mặt, Cat nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của những ngọn nến và những đồ vật khác. Cat còn thấy bóng một người hầu bàn đang đi tới. Vì vậy lần này nó không bị bất ngờ khi người này chìa qua vai nó chiếc khay đựng món cá nhỏ và bắp cải chua. Và vì giờ đây đã bị cấm dùng tay mặt, Cat cảm thấy rất đàng hoàng khi đổi bên đám muỗng nĩa mà người ta sắp sẵn cho nó. Nó bắt đầu cảm thấy hòa nhập. Do không được phép nói chuyện về nghệ thuật trong bữa tiệc trà, thầy Saunders tỏ ra hùng biện hơn bình thường vào bữa tối. Thầy cứ nói, nói miết. Thầy cố lôi cuốn sự chú ý của Chrestomanci, và nói chuyện với Chrestomanci. Chrestomanci trông mơ màng và tươi tỉnh, lắng nghe rồi gật gù. Và Gwendolen cảm thấy bực bội dâng lên từng phút. Chrestomanci không hé răng một lời về chuyện bãi cỏ, cả ở trong phòng ăn này lẫn trong phòng giải trí trước đó. Càng lúc càng trở nên rõ ràng rằng sẽ chẳng một ai đả động gì đến vụ việc này cả. Gwendolen giận lắm. Nó muốn khả năng pháp thuật của mình phải được nhìn nhận. Nó muốn cho Chrestomanci thấy rằng nó là một phù thủy mà mọi người cần phải kiêng dè. Do đó nó không còn cách nào khác hơn là khởi đầu một đòn phép mới. Nó gặp trở ngại chút xíu là không có vật liệu nó trong tay, nhưng có một thứ nó có thể thực hiện khá dễ dàng. Bữa tối cứ thế mà tiếp tục trôi qua. Thầy Saunders tiếp tục nói. Đámgia nhân bu xung quanh để dọn món ăn kế tiếp. Cat nhìn ra cửa sổ để canh chừng khi nào chiếc đĩa bạc được chuyển tới chỗ nó. Và suýt nữa thì nó thét lên. Đằng kia có một sinh vật trắng dã, ốm yếu. Sinh vật đó nép trong bóng tối phía bên ngoài cửa kính, ngoác ngoác cái miệng và đưa tay vẫy vẫy. Trông nó giống như hồn ma lạc lối của một gã điên, sinh vật đó trông yếu ớt, trắng dã và gớm guốc, bệ rạc và nhớp nhúa. Mặc dù Cat biết gần như ngay tức khắc rằng đây là sản phẩm của Gwendolen, nó vẫn kinh hoàng nhìn sinh vật đó không chớp mắt. Bà Millie bắt gặp Cat đang nhìn chừng chừng. Bà cũng nhìn ra, rùngmình, rồi lấy muỗng gõ nhè nhẹ lên mu bàn tay của Chrestomanci. Chrestomanci bừng tỉnh khỏi giấc mơ êm ái của ông và liếc ra cửa sổ. Ông ném một cái nhìn chán ngắt vào sinh vật thảm hại đó, rồi buông tiếng thở dài. “Do đó tôi vẫn nghĩ rằng Florence là nơi đẹp nhất trong các tỉnh thành nước Ý.” Thầy Saunders nói. “Người ta cũng nói về Venice như thế đấy,” Chrestomanci nhận xét. “Franzier, ông làm ơn kéo rèm lại giùm tôi. Cảm ơn ông.” “Không, không đâu. Theo thiển ý của tôi thì Venice đã lỗi thời rồi,” thầy Saunders khẳng định rồi thầy lao vào giải thích lý do, trong khi người tổng quản kéo những chiếc rèm màu da cam, che khuất sinh vật kia khỏi tầm mắt. “Vâng, có lẽ ông nói đúng. Florence có nhiều thứ hấp dẫn hơn,” Chrestomanci tán thành. “Nhân tiện, Gwendolen, khi ta nói đến Lâu đài thì ta muốn bao gồm cả khu vực ngoài trời lẫn khu vực bên trong của Lâu đài. Giờ thì tiếp tục đi, Michael. Về Venice nhé!” Mọi người đều tiếp tục, ngoại trừ Cat. Nó tưởng tượng cái sinh vật ấyvẫn đang ngoác ngoác và lò mò ở phía tấm kiếng phía sau tấm rèm cam. Cứ nghĩ tới là nó không ăn được nữa. “Không có gì đâu, đồ ngu! Tao đã tống cổ nó đi rồi,” Gwendolen nói. Giọng của con bé nghẹn lại vì tức tối. CHƯƠNG SÁU (@Iris_elizabeth type) Gwendolen xả cơn giận trong phòng của nó sau bữa tối. Nó dậm thình thịch trên giường, ném gối văng lung tung và la hét ầm ĩ. Cat thận trọng đứng lui sát lại tường đợi đến khi chị của nó nguôi ngoai. Nhưng Gwendolen không chịu nguôi cho đến khi con bé tự thề với lòng sẽ mở một chiến dịch để chống lại Chrestomanci. “Tao thù ghét nơi này!” nó gầm lên. “Họ tìm cách ém nghẹm mọi thứ dưới lớp vỏ tốt đẹp, dịu ngọt. Tao thù ghét điều đó, tao căm thù!” Giọng con bé bị bóp nghẹn giữa những lớp nhung của căn phòng rồi bị nuốt chửng trong sự mềm mại bao phủ khắp tòa lâu đài. “Mày có nghe thấy không?” Gwendolen hét lớn. “Đó là sự tốt đẹp gớmguốc của một tấm mền nhồi bông! Tao phá hủy thảm cỏ của họ, thế là họ đãi tao tiệc trà. Tao làm hiện ra cái hình ảnh khả ái đó, thế là họ cho kéo rèm lại. Frazier, ông làm ơn kéo rèm lại giùm tôi! Hừ! Lão Chrestomanci làm tao muốn phát bệnh!” “Em không nghĩ đó là một hình ảnh khả ái,” Cat rùng mình nói. “Ha, ha! Mày đâu ngờ tao làm được vậy, đúng không?” Gwendolen nói. “Nó đâu phải là để dọa mày, đồ ngốc. Nó là để cho lão Chrestomanci bị sốc. Tao căm thù lão ấy! Lão thậm chí chẳng thèm tỏ ra quan tâm đến vụ này.” “Ông ta giữ tụi mình ở lại đây làm chi nếu ông ấy không quan tâm đến chị?” Cat thắc mắc. Gwendolen khá bất ngờ trước ý kiến này. “Tao chưa nghĩ đến điều đó,” nó nói. “Nghiêm trọng đây. Bỏ đi hả? Để tao suy nghĩ coi.” Xong nó la lên trước khi Cat bước ra cửa. “Rồi lão ta sẽ phải quan tâm tới tao, tao sẽ làm được điều đó. Mỗi ngày tao mỗi làm điều đó, cho đến khi lão để mắt tới tao!” Một lần nữa, Cat lại thấy buồn tủi. Nhớ lại lời của bà Millie, nó lữngthững đến phòng chơi. Nhưng Roger và Julia đang ở đó, chơi bày trận với những chú lính chì trên tấm thảm hoen ố. Một đám các chú lính chì tí hon đi đi lại lại. Một số chú đang chĩa một khẩu pháo lên trời. Một số khác nằm sau mấy cái gối, nhắm bắn bằng súng trường, làm phát ra những tiếng nổ râm ran nho nhỏ. Roger và Julia quay phắt lại, vẻ tội lỗi. “Bạn không mách lại chuyện này chứ?” Julia nói. “Bạn có muốn chơi cùng không?” Roger lịch sự hỏi. “Ồ, không, cảm ơn,” Cat vội nói. Nó biết sẽ chẳng bao giờ tham gia nổi loại trò chơi này trừ phi có Gwendolen giúp sức. Nhưng nó lại không dám quấy rầy Gwendolen trongtrạng thái tinh thần hiện nay của chị ấy. Và thế là nó chả có việc gì để làm. Rồi nó nhớ lại rằng bà Millie rõ ràng đã muốn nó sục sạo tòa lâu đài nhiều hơn. Do đó nó quyết định đi thám sát, cảm thấy mình khá liều lĩnh. Về đêm, Lâu đài có một dáng vẻ lạ lùng. Cứ cách một khoảng đều đặnlại có một ngọn đèn điện nhỏ mờ ảo. Tấm thảm xanh ánh lên dìu dịu. Sàn nhà bóng lưỡng và những bức tường phản chiếu các đồ vật thậm chí còn rõ hơn cả ban ngày. Cat bước đi nhè nhẹ, hộ tống bởi những bóng phản chiếu như bóng ma của chính nó, cho đến khi nó rơi vào cảm giác như thể mình đang lạc trong mơ. Mọi cánh cửa trong lâu đài đều khép kín. Nó không dám cả gan mở cánh nào cả. Nó cứ đi tiếp, đi tiếp nữa. Sau một hồi, Cat nhận ra không hiểu bằng cách nào mà nó đã đi vòng ra phần Lâu đài cũ. Các bức tường ở đây đều bằng đá quét vôi trắng, và các cửa sổ lõm sâu vào gần cả thước mới tới phần kính. Rồi Cat đi đến một cái cầu thang, giống như là song sinh với chiếc cầu thang xoắn đi lên phòng nó, ngoại trừ một điều là chiếc thang này xoắn theo chiều ngược lại. Cat thận trọng leo lên. Nó vừa bước lên bậc thang cuối cùng thì cánh cửa ngay trên đầu cầu thang lại bật mở. Một ngọn đèn vuông sáng hơn rọi lên bức tưởng trên đầu cầu thang. Và cái bóng dười ngọn đèn chỉ có thể thuộc về Chrestomanci. Không một cái bóng của ai khác lại có thể cao đến thế, với cái đầu láng mượt đến thế và với nhiều diềm xếp nếp như thế ở trước áo. Cat dừng lại. “Hy vọng con bé đáng ghét đó sẽ không lặp lại chuyện này.” Chrestomanci nói, khuất trên cao. Giọng ông có nhiều âm sắc răn đe hơn bình thường và khá giận dữ. Tiếng thầy Saunders từ bên trên vọng xuống, “Nói cho ngay, tôi gần chịu hết nổi con bé đó rồi. Tôi mong rằng chẳng bao lâu nữa nó sẽ trở nên biết điều hơn. Không biết cái gì đã ám con bé, khiến nó phát tiết quyền năng bừa bãi như thế?” “Sự không hiểu biết,” Chrestomanci nói. “Nếu mà tôi biết nó có một chút ý thức tối thiểu nào về những gì nó đang làm thì đó sẽ là điều cuối cùng mà nó làm được theo kiểu đó, hay bất cứ kiểu nào khác.” “Tôi hết cách rồi đó,” thầy Saunders nói. “Lần này là con thứ mấy? Thứ năm à?” “Không. Thứ ba, căn cứ theo kiểu tóc. Một con ma hiện hồn,” Chrestomanci nói. “Cũng còn may cho chúng ta đấy.” Ông dợm bước xuống cầu thang. Cat đứng chết lặng vì quá sợ. “Tôi sẽ buộc Hội đồng kiểm tra xem xét lại các giáo trình pháp thuật sơ cấp,” Chrestomanci nói với lên trước khi bước xuống lầu “để bổ sung thêm phần lý thuyết. Những tay phù thủy dỏm ấy đã cho bọn học sinh giỏi của họ làm thẳng những phần việc của bậc nâng cao mà không trang bị cho chúng một căn bản tử tế nào cả.” Đang nói, Chrestomanci xuống đến góc cầu thang và bắt gặp Cat. “Ồ, chào con,” ông nói. “Ta đâu ngờ con ở đây. Có thích lên thăm phòng làm việc của thầy Michael một chút không?” Cat gật đầu, nó không dám làm gì khác hơn là gật đầu. Tuy nhiên, Chrestomanci có vẻ rất thân thiện, mà không chỉ ông, cả thầy Saunders cũng thế khi Chrestomanci dẫn Cat vào căn phòng ở đầu cầuthang. “Chào Eric,” thầy Saunders nói bằng một giọng vui vẻ. “Cứ việc ngóquanh đi. Có thứ nào trong này nói lên với em điều gì không?” Cat lắc đầu. Căn phòng có hình tròn, giống như phòng của nó, nhưng rộng hơn, và bên trong có một gian pháp thuật chính hiệu. Cat chỉ thấy có thế. Nó nhận thấy có một ngôi sao năm cánh được sơn trên sàn nhà. Cái mùi tỏa ra từ ngọn đèn dầu đang cháy treo trên trần cũng giống như cái mùi phảng phất ở phố Coven, hồi nó còn ở thị trấn Wolfvercote. Nhưng nó chẳng có chút ý niệm gì về công dụng của những đồ vật bày trên vô số cái bàn chân niễng. Một bàn bày chật cứng những ống nghiệm cổ dài và cổ cong, chiếc thì đang sôi sùng sục, chiếc thì trống rỗng. Bàn thứ hai chất đầy những cuốn sách và giấy cuộn. Trên chiếc bàn thứ ba thấy có ghi chi chít bằng phấn những ký hiệu. Một xác ướp của một sinh vật thuộc giống gì không rõ nằm trơ vơ giữa đám ký hiệu này. Cặp mắt của Cat quét qua tất cả những thứ ấy, rồi lướt đến những cuốn sách khác nhét chật ních trên dãy kệ ở quanh tường. Rồi mắt nó quét tiếp đến những chiếc kệ khác chất đầy những hũ chứa vật liệu. Đó là những hũ lớn, loại giống như trong các cửa hàng kẹo. Nó hiểu ra rằng thầy Saunders này chuyên làm chuyện đại sự. Cặp mắt lơ láo của nó quét tới một tấmnhãn ghi trên những chiếc hũ khổng lồ: mắt sa giông, Gôm Ả Rập, Thuốc luyện đan St John’s Wort, Máu rồng (khô). Chiếc hũ sau cùng chứa đầy một chất bột màu nâu đậm. Đôi mắt của Cat quay trở về cái xác ướp động vật nằm sóng xoài giữa đống ký hiệu viết bằng phấn trên chiếc bàn thứ ba. Chân con vật đó có móng giống như chân chó. Trông nó giống như một con thằn lằn bự, nhưng trên lưng nó hình như lại có cánh. Cat gần như tin chắc rằng đó chính là một chú rồng con. “Em không nghĩ gì hết sao?” thầy Saunders nói. Cat quay lại và thấy Chrestomanci đã đi khỏi. Điều này làm nó dễ chịuhơn chút ít. “Những thứ này chắc phải tốn nhiều tiền lắm ạ,” Cat nói. “Cũng may là đã có người nộp thuế trang trải”, thầy Saunders nói. “Emcó muốn học cách sử dụng tất cả những thứ này không?” “Ý thầy nói học thuật phù thủy ấy ạ?” Cat hỏi lại. “Không. Em khôngmuốn, cảm ơn thầy. Em không có năng khiếu môn đó đâu ạ.” “Tốt, tôi có ít nhất hai thứ khác trong đầu ngoài thuật phù thủy ra.” thầy Saunders nói. “Nhưng điều gì khiến em nghĩ em không có khiếu môn đó?” “Vì em không làm phép được ạ,” Cat thổ lộ. “Các câu thần chú khônglinh nghiệm với em. “Em có chắc chắn đã đọc chúng đúng cách không?” thầy Saunders hỏi. Thầy lững thững đi về phía xác ướp của con rồng – hay con gì đó – rồi lơ đễnh búng cho nó một phát. Cat ghê sợ nhìn thấy con vật vùng vẫy dữ dội. Cặp cánh màng co giựt và xòe rộng trên lưng nó. Rồi nó nằm im trở lại như chết. Cảnh tượng này khiến Cat phải lùi ra cửa. Nó phát hoảng gần như chẳng kém gì cái hồi cô Larkins đột nhiên nói bằng giọng đàn ông. Và, nhân nhớ tới chuyện đó, Cat nhận ra giọng nói ấy không phải là không giống giọng của thầy Saunders. “Em đã thử bằng mọi cách mà em nghĩ ra được,” Cat nói, vẫn tiếp tục lùi lại. “Vậy mà thậm chí em cũng không biến những nút áo thành vàng nổi, mà việc đó là đơn giản lắm rồi đó!” Thầy Saunders bật cười. “Có lẽ vì em chưa đủ tham vọng. Thôi được. Nếu đã muốn đi thì đi đi.” Cat ù chạy, nhẹ cả người. Khi chạy qua những hành lang kỳ lạ, nó nghĩ cần phải cho Gwendolen biết rằng Chrestomanci cuối cùng cũng đã quan tâm đến cái bóng ma chị ấy làm ra, và ông ấy thậm chí còn tức giận nữa. Nhưng Gwendolen đã tự giam mình trong phòng và không chịu trả lời khi nó kêu cửa. Cat cố thử thêm lần nữa vào sáng hôm sau. Nhưng, trước khi nó có cơ hội nói chuyện với Gwendolen, Euphemia đã bước vào, mang theo một lá thư. Lúc Gwendolen háo hức giằng lấy bức thư từ ta Euphemia, Cat nhậnra nét chữ lởm chởm của lão Nostrum trên phong bì. Chỉ một lát sau, Gwendolen đã lại đùng đùng nổi giận. “Ai làm chuyện này đây? Lá thư này đến hồi nào?” Chiếc phong bì đã bị cắt gọn dọc một góc. “Sáng nay, theo như dấu bưu điện,” Euphemia nói. “Và đừng nhìn tôi như thế. Khi cô Bessemer trao cho tôi thì nó đã mở sẵn rồi.” “Bà ta dám thế à!” Gwendolen rít lên. “Bà ta dám đọc thư của ta sao! Ta sẽ đến thẳng chỗ ông Chrestomanci để mách lại chuyện này!” “Cô sẽ phải hối tiếc khi làm như vậy đó.” Euphemia nói khi Gwendolen xô chị ta qua một bên để lao ra cửa. “Ồ, câm miệng lại, đồ con gái mặt ếch ngu ngốc!” Cat nghĩ nói như vậy là hơi bất công. Euphemia, mặc dù đôi mắt khá lồi, nhưng thật tình vẫn rất xinh đẹp. “Đi nào, Cat!” Gwendolen hét lên rồi chạy vọt ra hành lang với lá thư trên tay. Cat hổn hển chạy sau con chị và, nó không đuổi kịp Gwendolen cho đến khi chúng ra đến chiếc cầu thang cẩm thạch. “Ông Chrestomanci!” Gwendolen la lớn, nhưng giọng nó vẫn loãng tuếch, yếu ớt và không một tiếng vang. Chrestomanci đang bước lên cầu thang cẩm thạch trong bộ áo choàng lùng thùng nửa màu cam, nửa màu hồng tươi. Trông ông cứ như hoàng đế xứ Peru. Qua ánh mắt bình thản và mơ màng trên khuôn mặt ông, có thể đoán ông không nhận ra Gwendolen và Cat. Gwendolen hét vọng xuống. “Lại đây! Ông lại đây ngay!” Chrestomanci ngước mặt lên và đôi lông mày của ông cũng nhướn lên. “Có người đã mở thư của tôi,” Gwendolen nói. “Tôi không cần biết đó là ai, nhưng tôi không chấp nhận chuyện đó! Ông có nghe không vậy?” Cat há hốc miệng trước lối nói của Gwendolen, Chrestomanci có vẻ lúng túng: “Làm sao con lại không chấp nhận chứ?” “Tôi không để yên chuyện này đâu!” Gwendolen hét vào mặt ông. “Từ nay về sau, thư từ của tôi phải đến tận tay tôi!” “Ý con muốn là ta hà hơi nước để bóc thư ra, xong rồi dán lại chứ gì?” Chrestomanci hỏi, vẻ nghi ngờ. “Thế thì kể ra cũng hơi phiền đấy, nhưng ta sẽ làm vậy nếu điều đó làm cho con vui lòng.” Gwendolen trợn mắt nhìn ông. “Ông muốn nói là chính ông đã làm? Chính ông đã đọc lá thư gửi đến cho tôi?” Chrestomanci từ tốn gật đầu: “Dĩ nhiên. Nếu như một kẻ như Henry Nostrum gửi thư cho con thì tacần biết chắc rằng lão ta không viết gì nhăng nhít. Lão ta là một gã rất hắc ám.” “Ông ấy là thầy của tôi!” Gwendolen giận dữ nói. “Ông không được quyền nói như vậy!” “Thật đáng tiếc cho con đã bị dạy dỗ bởi một tay phù thủy dỏm,” Chrestomanci nói. “Con sẽ phải quên đi rất nhiều thứ đã học Và cũng thật đáng tiếc nếu như ta không có được cái quyền mở thư từ của con. Ta hy vọng con sẽ không nhận được nhiều thư từ kiểu này nữa, nếu có thì lương tâm ta sẽ chẳng được bình yên.” “Ông định làm tiếp như thế nữa sao?” Gwendolen nói. “Thế thì hãy coi chừng. Tôi cảnh cáo ông đó!” “Rất hân hạnh,” Chrestomanci nói. “Ta thích bị cảnh cáo.” Đoạn ông bước nốt lên những bậc thang cẩm thạch, băng qua Gwendolen và Cat. Chiếc áo choàng hồng và cam uốn lượn, làm lộ ra những viền màu đỏ sáng khiến Cat cảm thấy chói cả mắt. Gwendolen căm hờn nhìn theo chiếc áo choàng sáng rực đang lướt dọc hành lang. “Này, đừng có mà thách tôi,” nó nói. “Cứ chọc tôi đi. Ông cứ chờ đấy! Cat, tao giận quá rồi nè!” “Chị hung dữ quá,” Cat nói. “Lão ta đáng bị như thế,” Gwendolen nói rồi bắt đầu hối hả quay lại phòng chơi. “Dám mở thư của lão Nostrum tội nghiệp! Nhưng tao không nghĩ lão đọc được nó đâu. Tao và lão Nostrum đã thỏa thuận một mật mã, do đó lão Chrestomanci xấu xa sẽ không bao giờ hiểu được cái thư thực sự viết gì, trừ chữ ký ra. Nhưng đây là sự phỉ báng, sự lăng mạ. Tao đang bị họ khống chế trong cái Lâu đài này. Tao đang hoàn toàn kiệt quệ và tao thậm chí không thể ngăn được họ đọc thư từ của tao. Nhưng tao sẽ cho họ thấy. Cứ đợi đấy!” Cat hiểu rằng tốt nhất là không nên nói gì. Gwendolen xông vào phòng chơi, ngồi phịch xuống cạnh bàn, và bắt đầu đọc lá thư của mình. “Tôi đã bảo rồi mà,” Euphemia nói trong khi Mary cho cái thang máychuyển đồ ăn hoạt động. Gwendolen bắn một tia nhìn sang Euphemia. “Cả mi nữa, cứ chờ đi!” nó cúi xuống rồi đọc tiếp. Sau một hồi, nó nhìn lại chiếc phong bì. “Có cả thư cho mày nữa nè,” Gwendolen nói với Cat rồi quẳng cho nó một mảnh giấy. “Nhớ trả lời đấy nhé.” Cat cầm lấy mà cứ bồn chồn tự hỏi cớ sao lão Nostrum lại viết thư cho nó. Nhưng lá thư lại là của bà Sharp. Bà ấy viết: Cat iêu quí quở bà, Con có phẻ khôn vậy, cưn? Bà thì cô đơn lám. Thíu hai con, nhất là thíu con, nơi nài sao lặn lẽ quá. Dù bà có được chúc thư thả nhưn bà nhớ giọng nói của con lám, và bà cứ mong con về, man theo thịt nhìu táo. Có một chiện xẩy ra. Một quý ông tới đưa cho bà nam poun để xin lấy con mìu bị phù phét vốn là cũa con, vì vại bà cảm thí hơi ngượn nên nải ra ý ngĩ gói cho con một ít ngừi bánh bột gừn và đem đến cho con vài ngài sau đó, nhưn lão Nostrum nói là khôn nên. Dù sao, bà nghĩ cát con đã đượt bao bọc trong giàu san rồi. Cho bà gởi lời iêu thươn đến Gwendolen. Bà mong con trở về đây ví bà, Cat ạ, và tiền bạt khôn có ý ngĩa gì đau. Bà của con Ellen Sharp, Cat đọc những dòng đó với một tình cảm ấm áp, vừa muốn cười lại vừa muốn khóc. Nó thấy nhớ bà Sharp y chang như bà đang nhớ nó. Nó nhớ nhà đến mức không nuốt nổi bánh mì, còn món ca cao thì làm nó muốn nghẹt thở. Thầy Saunders cứ nói được năm từ thì nó nghe lõm bõm chưa tới được một từ. “Con có chuyện gì vậy, Eric?” thầy Saunders hỏi. Ngay khi Cat vừa kéo tâm trí của mình trở về từ phố Coven thì cửa sổ vụt tối đen. Căn phòng ngay lập tức tối mò. Julia rú lên. Thầy Saunders dòdẫm lần đường ra đến chiếc công tắc và bật đèn lên. Thầy vừa bật xong thì cửa sổ cũng trong suốt trở lại, để lộ ra Roger toe toét cười, Julia giật bắn mình, Gwendolen nghiêm trang, và bản thân thầy Saunders với bàn tay trên công tắc, nhìn con bé đầy bực bội. “Tôi nghĩ rằng nguyên nhân của chuyện này nằm ở khu vực sân của Lâu đài, đúng không nhỉ?” thầy nói. “Ở bên ngoài mấy cổng rào,” Gwendolen tự mãn nói. “Em đặt nó ở đó sáng nay.” Qua những lời này, Cat hiểu rằng chiến dịch chống Chrestomanci của Gwendolen đã được phát động. Cửa sổ lại vụt tối. “Vụ này bao lâu lại tái diễn một lần đây?” thầy Saunders hỏi trong bóng tối. “Cứ nửa giờ là hai lần,” Gwendolen đáp. “Cảm ơn,” ông Saunders hằn học nói, rồi ông bật đèn lên. “Giờ thì thấyđường được rồi đấy. Gwendolen, hãy viết câu này một trăm lần, ‘Em phải tuân thủ tinh thần luật pháp chứ không phải nghe lời lá thư’. Roger, làm ơn dẹp ngay nụ cười ấy khỏi khuôn mặt của con đi.” Cả ngày hôm đó, các cửa sổ trong Lâu đài cứ vụt tối đều đặn hai lần mỗi nửa giờ. Nhưng nếu Gwendolen hy vọng làm cho Chrestomanci nổi giận, thì nó đã không thành công. Không có chuyện gì xảy ra cả, ngoại trừ việc tất cả mọi người để đèn sáng suốt ngày. Điều này kể ra cũng khá phiền toái, nhưng hình như chẳng ai thèm quan tâm. Trước bữa trưa, Cat ra bãi cỏ, để coi nhìn từ bên ngoài thì vụ cúp tắt này trông ra sao. Như thể có hai chiếc cửa chớp màu đen cứ nhấp đều đặn dọc theo các dãy cửa sổ. Bắt đầu là từ góc trên bên phải, rồi tràn đều xuống, lan dọc tới hàng kế tiếp, từ trái sang phải, rồi lan tiếp đến hàng sau nữa từ phải sang trái, cứ thế tiếp diễn cho đến khi xuống đến đáy. Sau đó nó mở đầu trở lại từ trên đỉnh. Cat quan sát được chừng nửa chu trình hoàn chỉnh thì nó nhận thấy Roger đang đứng bên cạnh, quan sát với ánh mắt chỉ trích, hai bàn tay múp míp đút trong túi. “Chị của bạn hẳn phải có một đầu óc rất ngăn nắp,” Roger nói. “Tôi nghĩ phù thủy nào cũng thế,” Cat nói. Nó chợt thấy bối rối. Dĩ nhiên là nó đang nói chuyện với một phù thủy hay ít ra là một phù thủy tương lai. “Tôi hình như không có,” Roger nhận xét, không một chút âu lo. “Cả Julia cũng thế. Và tôi thật tình cũng không nghĩ rằng thầy Michael có. Bạncó muốn đến cái chòi trên cây của tụi này chơi sau giờ học không?” Cat rất hãnh diện. Nó hài lòng đến mức quên cả việc nó đang nhớ nhà ra sao. Nó trải qua một buổi chiều rất sung sướng ở trong rừng, phụ dựng lại cái mái của cái chòi trên cây. Nó trở về Lâu đài khi tiếng cồng thay đồ vang lên, và nhận thấy món bùa nơi cửa sổ đang mất dần tác dụng. Khi các cửa sổ tối đi, món bùa chỉ còn tạo nên một ánh sáng le lói xam xám ở trong nhà. Đến buổi sáng hôm sau thì đã mất hẳn, và Chrestomanci vẫn không nói một lời nào. Gwendolen tấn công trở lại vào sáng hôm sau. Nó tóm được cậu con trai của ông hàng bánh mì khi cậu bé này đạp xe ngang qua cổng rào, chiếc rổ vuông ở phía trước cái xe đạp chất đầy những ổ bánh mì mang đến Lâu đài. Chỉ một lúc sau, con trai ông hàng bánh bước vào nhà bếp trông đã có vẻ hơi ngơ ngẩn và nói rằng cái đầu của nó rơi lông lốc đâu mất rồi. Hậu quả là bọn trẻ buộc phải dùng bánh nướng vào bữa điểm tâm. Nhưng có vẻ như phải đợi đến khi cắt bánh mì thì những chuyện lý thú nhất mới xảy ra. “Cô làm tất cả chúng tôi cười muốn bể bụng,” Mary nói khi chị ấy bưng bánh nướng đến từ cái thang máy chuyển đồ ăn. “Để tôi kể lại trò nghịch ngợm của cô cho mọi người nghe nhé, Gwendolen. Roberts tưởng mình bị điên lúc anh ấy nhận ra mình đang cắt một chiếc giày cũ. Cook thì cắt chiếc còn lại, một lúc sau thì cô ta với Nancy giành nhau leo lên cùng một cái ghế vì đám chuột bạch lúc nhúc đó. Nhưng bộ mặt của ông Frazier mới làm tôi mắc cười nhất, lúc ông ấy nói ‘Để đó cho tôi’ xong rồi nhìn lại, hóa ra mình đang gọt một cục đá. Rồi đến…” “Đừng có khuyến khích cô ta nữa. Chị biết cô ta là thế nào rồi,” Euphemia nói. “Coi chừng, ta chưa đụng tới mi đấy,” Gwendolen đanh đá nói. Roger được Mary kể riêng cho nghe chuyện gì đã xảy ra với những ổ bánh mì còn lại. Một ổ đã biến thành con thỏ trắng, một ổ biến thành hình trứng đà điểu – trái trứng này vỡ tung ra, dính nhoen nhét khắp người một thằng bé đánh giày. Một ổ nữa biến thành một củ hành trắng to đùng. Sau đó, khi Gwendolen không còn sáng kiến gì nữa, có còn biến tất cả những ổ bánh mì còn lại thành phô mai. “Chắc là phô mai cũ, dở ẹt chứ gì?” Roger nói, vẻ rất coi thường. Không thể biết Chrestomanci liệu có coi thường chuyện này không, bởi lẽ, một lần nữa, ông cũng không nói một lời nào với bất cứ ai. Ngày tiếp theo là thứ bảy. Gwendolen tóm được ông chủ trang trại đang mang thùng sữa đến giao cho Lâu đài dùng hàng ngày. Kết quả là món ca cao buổi sáng hôm đó bốc một mùi khủng khiếp. “Tôi đã bắt đầu bực rồi đấy nhé,” Julia chua giọng nói. “Ba có thể không để ý, nhưng tại ba chỉ uống trà với chanh.” Nó nhìn Gwendolen đầy ác ý. Gwendolen nhìn lại nó, và thế là Cat lại bắt đầu cảm thấy một không khí xung đột vô hình, giống hệt như cái hồi Gwendolen muốn lấy lại cặp bông tai của mẹ từ tay bà Sharp. Tuy vậy, lần này Gwendolen không đạt được mọi điều theo cách nó muốn. Nó cụp mắt xuống lừ lừ và trông có vẻ cáu kỉnh. “Tao phát bệnh vì cứ phải dạy sớm hoài,” nó gắt gỏng nói. Câu này, với Gwendolen, ngầm có ý là nó sẽ làm điều gì đó sau đó, trong một ngày sắp tới. Nhưng Julia lại nghĩ rằng nó đã hạ được Gwendolen, và đó là một sai lầm. Bọn trẻ phải đi học sáng thứ bảy, đó là điều khiến Gwendolen rất bực bội. “Thật là tàn bạo,” nó nói với thầy Saunders. “Tại sao chúng tôi phải chịu hành hạ như thế chứ?” “Đó là cái giá mà tôi phải trả để có được mấy giờ nghỉ của tôi vào thứ tư,” thầy Saunders nói với nó. “Và, nhân nói về hành hạ, tôi mong em yểmbùa món gì khác chứ đừng là món sữa nữa nhé.” “Em sẽ ghi nhớ điều này,” Gwendolen ngọt ngào nói. CHƯƠNG BẢY (@baby_cute type) Chiều thứ bảy trời mưa rả rích. Gwendolen tự giam mình trong phòng, và một lần nữa Cat chả biết phải làm gì. Nó viết thư cho bà Sharp lên mặt sau tầm bưu thiếp có hình lâu đài, nhưng việc này chỉ mất có mười phút, và ngời kia thì ướt quá, chẳng cách gì đi bỏ thư được. Cat luẩn quẩn dưới chân cầu thang lên phòng nó, đang không biết phải làm gì thì Roger từ phòng chơi bước ra và nhìn thấy Cat. “Ồ, hay quá,” Roger reo lên. “Julia không chịu chơi đánh trận. Bạn có muốn chơi không?” “Nhưng tôi không thể …không thể chơi giống các bạn được.” Cat đáp. “Không sao đâu,” Roger nói. “Thiệt mà.” Nhưng đúng là “Có sao đâu”! Dù Cat đã triển khai đội quân vô hồn củanó ma mãnh cách mấy, chỉ cần mỗi binh sĩ của Roger xông lên là quân của Cat cứ đổ rạp cả xuống như những con ky. Chúng đổ gục hàng đống, hàng đoàn, hàng tiểu đoàn. Cat điên tiết di chuyển bộ lính chì hết kiểu này đến kiểu nọ, gom đầy cả hai nắm tay hay lấy nắp hộp mà xúc, thế mà vẫn cư phải lui quân hoài. Sau năm phút, nó chỉ còn có ba chú lính, run rẩy nấp sau một chiếc gối. “Chơi như vậy không hay,” Roger nói. “Ừ, không hay,” Cat rầu rĩ thừa nhận. “Julia,” Roger gọi. “Cái gì,” Julia lên tiếng. Nó đang cuộn mình trong chiếc ghế bành đọc nhất, chẳng hiểu cách chi mà xoay xở được để vừa mút kẹo, vừa đọc một quyển sách mang tựa đề Trong Bàn Tay Các Lạt Ma, vừa đan lát, tất cả cùng một lúc. Cho nênchẳng có gì mà ngạc nhiên khi thứ nó đan ra trông cứ như một cái áo vét nhuộm sáu sắc màu xám giành cho một con hươu cao cổ. “Chị làm cho quân của Cat di chuyển giùm có được không?” Roger nói. “Chị bận đọc sách” Julia đáp, liếm một vòng quanh cây kẹo. “Đangđoạn gay cấn, Tới đoạn một người trong bọn họ bị lạc và họ nghĩ anh ta đã bỏ mạng một cách thê thảm.” “Hào hiệp chút đi mà,” Roger nài nỉ. “Chị mà không chơi, em sẽ kể trước là anh ta có bị chết hay không.” “Em mà làm vậy thì chị sẽ biến quần đùi của em thành nước đá đấy,” Julia thân mật doạ. “Thôi được.” Không rời mắt khỏi cuốn sách và cũng chẳng rời miệng khỏi cây kẹo, nó rút ra chiếc khăn tay và thắt một chiếc nút. Nó đặt chiếc khăn thắt nút lên ghế rồi đan tiếp. Đám quân bị đổ gục của Cat bỗng tự bật dậy, chỉnh trang lại những bộ quân phục bằng chì. Đó là một bước tiến bộ vượt bậc, mặc dù chưa hoàn toàn mĩ mãn. Nhưng Cat vẫn không biết phải ra lệnh gì cho đám lính của mình. Nó đành dùng tay ra hiệu cho chúng đứng vào vị trí. Bọn lính coi bộ không vui lắm. Chúng ngước nhìn hai bàn tay khổng lồ đang phe phẩy bên trên với sự khiếp đảm tột độ. Cat chắc chắn có một tên đã ngất đi vì sợ. Nhưng cuối cùng nó cũng đưa được bọn lính vào hàng ngũ… bằng tất cả sự khéo léo, nó nghĩ thế. Trận chiến bắt đầu. Bọn lính có vẻ đã biết phải chiến đấu ra sao. Cat có một toán quân dự bị ở sau chiếc gối, và khi trận chiến đến hồi quyết liệt nhất, nó xua chúng ra để giáng vào cánh quân phải của Roger. Cánh quân phải của Roger quay đầu đánh lại. Và toàn bộ đám quân dự bị của Cat quay đầu bỏ chạy. Đám quân còn lại của Cat thấy vậy cũng bỏ chạy nốt. Trong ba giây, chúng đưa nhau trốn vào tủ đựng đồ chơi, còn quân của Roger thì giết chúng chết như ngả rạ. Roger thất vọng, “Quân của chị Julia lúc nào cũng bỏ chạy!” “Vì chị chỉ biết làm thế thôi mà.” Julia nói, đặt que đan làm dấu trang sách đang đọc dở. “Chị nghĩ chẳng có lý do gì mà bọn lính không làm thế cả.” “Thôi được chị làm cho chúng dũng cảm lên một chút đi,” Roger nói. “Chứ để vậy bất công cho Eric qua.” “Lúc nãy em chỉ nhờ chị làm cho chúng cử động được thôi mà,” Julia cự nự. Và chính lúc đó cánh cửa bật mở và Gwendolen thò đầu vào. “Tao tìm thằng Cat.” nó nói. “Bạn ấy đang bận,” Roger đáp. “Bận hay không bận cũng vậy,” Gwendolen nói. “Tao cần gặp nó.” Julia chĩa một que đan và vẽ trong không khí một chữ thập nhỏ. Chữ thập trôi lềnh bềnh, sáng lên trong một giây. “Đi ra,” Julia quát lên. “Cút!” Gwendole ngay lập tức lùi ra xa khỏi dấu thập và đóng cửa lại. Nó làmviệc đó mà như thể không làm chủ được mình. Nhưng mặt nó lộ vẻ cáu giận rõ ràng, Julia bình thản cười rồi chĩa que đan vào đám quân của Cat. “Chơi tiếp đi,” Julia nói. “Chị đã nạp sự dũng cảm vào đầy tim bọnlính chì rồi đó.” Khi tiếng cồng thay đồ vang lên, Cat đến hỏi Gwendolen lúc nãy tìm nó có việc gì. Gwendolen đang rất bận bịu đọc một cuốn sách dày cộp, trông khá mới, nên thoạt tiên không thể dành một tẹo chú ý nào cho Cat. Cat vẹo đầu sang một bên để đọc đề tựa cuốn sách- Những Nghiên Cứu Về ThếGiới Khác, xê-ri III. Trong lúc nó làm vậy Gwendolen bật cười. “Ồ, Giờ thì ta biết nó ra sao rồi!” con bé thốt lên. Còn hay hơn ta tưởng nữa. Giờ thì ta biết phải làm gì rồi!” Nói đoạn, Gwendolen hạ cuốn sách xuống và hỏi Cat rằng nó nghĩ nõ đang làm cái trò gì vậy? “Sao hồi nãy chị muốn gặp em mà?” Cat hỏi. “Cuốn sách này chị kiếmđâu ra vậy?” “Ở thư viện của lâu đài chớ đâu” Gwendolen đáp. “Và bậy giờ ta không muốn gặp mày nữa, Tao định cắt nghĩa cho mày về những âm mưu của lão Nostrum, thậm chí còn định kể cho mày nghe về âm mưu của tao nữa kìa, nhưng tao đã đổi ý vì thấy mày ngồi đó và để cho cái con béo ù hợm hĩnh Julia nó tống cổ tao đi.” “Em đâu biết là lão Nostrum có âm mưu gì đâu mà giải thích.” Cat nói. “Đánh cồng thay đồ rồi kìa.” “Dĩ nhiên là lão có những âm mưu của lão - và tao nghe lỏm được - chứ mày nghĩ tao viết thư cho lão Chrestomaci để làm gì?” Gwendolen nói. “Nhưng đừng có hòng mà nịnh tao. Tao không nói cho mày biết nữa đâu vì mày sẽ phải hối tiếc cho coi. Riêng con nhỏ heo con hợm hĩnh Julia thậm chí sẽ còn phải hối tiếc sớm hơn cả mày nữa kìa.” Gwendolen phục thù Julia vào đầu bữa chiều. Khi người hầu vừa chuyền chén súp qua vai Julia thì nguyên cái vạt vày đầm của nó bỗng biến thành một bầy rắn. Julia nhảy dựng và rú lên. Súp đổ lên đám rắn, văng tung toé ra sán, và một anh người hầu hét lên “Xin chúa rủ lòng thương chúng con!” giữa những âm thanh loảng xoảng của chén súp bị vỡ. Sau đó, ngoài tiếng phì phì chết chóc của bầy rắn, chỉ còn lại sự imlặng chết chóc. Có cả thảy hai chục con đang co giật, uốn éo, lở lửng móc đuôi vào lưng váy của Julia. Mọi người đờ ra, quay đầu phăng phắc về hướng con bé. Julia đứng chết trân như pho tượng, hai tay giơ cao để tránh không đụng phải bầy rắn. Nó nuốt nước miếng và đọc thần chú. Không ai mắng khi nó làm thế. Thầy Saunders còn nói: “Giỏi lắm!” Câu thần chú vừa đọc ra, bầy rắn cứng đơ, xoè ra, thế là trông chúng như thể một cái váy ba lê mặc chồng lên cái đầm dài của Julia. Ai cũng nhìn ra miếng diềm ren bị rách trên cái đầm (trong lúc nó dựng cái chòi trên cây) đã được vá lại vội vàng bằng một miếng len màu đỏ. “Con có bị cắn không?” Chrestomaci hỏi. “Không ạ,” Julia đáp. “Chén súp làm tụi nó rối rít lên. Con xin phép bacho con đi thay đầm bây giờ ạ .” Nó rời phòng, bước đi chậm rãi và thận trong, với bà Millie đi cùng. Trong khi những người hầu bàn mặt xanh mét đang dọn dẹp chỗ món súp đổ vung vãi. Chrestomanci nói: “Sự hằn thù là thứ ta không muốn thấy trong bàn ăn. Gwendolen, làm ơn lên phòng chơi ngay đi. Phần ăn của con sẽ được đemđến đó.” Gwendolen đứng dậy, bước đi, không nói một lời. Vì Julia và bà Millie không trở lại, bàn ăn có vẻ khá trống trải tối hôm đó. Chỉ còn những cổ phiếu với cổ phần của ông Berbard ở một đầu bàn, và cũng vẫn những pho tượng của thấy Saunders ở bên kia. Cat nhận thấy Gwendolen khá đắc thắng. Con bé cảm thấy cuối cùng cũng gây được ấn tượng nơi Chrestomanci, cho nên nó tấn công trở lại đầy quyết tâm vào hôm chủ nhật. Vào chủ nhật, cả Gia đình diện những bộ đồ đẹp nhất để đi dự Lễ Sángở nhà thờ lang. Phù thuỷ thì chả ưa gì nhà thờ. Và họ cũng chưa chắc gì thi thố được phép thuật ở đó. Nhưng điều này chẳng hề khiến Gwendolen nản lòng. Bà Sharp đã nhiều lần nhận xét như thế khi khoe khoang những tài năng hiếm có của Gwendolen. Gwendolen ngồi kế bên Cat trên dãy ghế của gia đình Chrestomanci, cố tạo hình ảnh một cô bé ngây thơ e lệ trong bộ váy đầm và chiếc nón Chủ Nhật thêu kiểu Anh. Nó lật giở cuốn kinh cầu nguyện cứ như một tín đồ ngoan đạo thứ thiệt. Dân làng thúc cùi chỏ vào nhau và thì thầm về con bé. Điều đó làmGwebdolen khá hài lòng. Nó thích được nổi tiếng. Nó giữ vẻ thánh thiệnvờ vĩnh cho đến khi bài giảng đạo bắt đầu. Ông cha xứ run rẩy bước lên bục giảng đạo và giảng bằng giọng yếu ớt mơ màng của mình. “Vì trong giáo đoàn có những kẻ chưa thánh thiện…” Câu này rõ là có ý gì đó. Rồi vẫn bằng giọng nói yếu ớt mơ màng, cha kể lại những quãng đời chìm nổi trước đây. Trong lúc đó, thấy Saunders đã ngủ gật. Và cả cái ông Bernard cổ phần-và-cổ phiếu cũng thế. Bà mệnh phụ già đeo găng hở ngón cũng gà gật. Chợt một trong những vị thánh trên cửa sổ kính màu ngáp dài, và đưa cây gậy phép lên che miệng một cách trang nhã . Ngài quay sang nhìn vị bên cạnh - một nữ tu sĩ khả kính. Bà mặc một bộ váy xếp thành vô số nếp, trông như một chồng củi. Vị thánh vươn dài cây gậy phép bằng kính màu, khều khều vào vai vị nữ tu. Vị nữ tu nổi sùng, bà bước qua khung cửa của ông thánh và lắc mạnh ông. Cat nhìn thấy cảnh tượng này. Nó thấy vị thánh trên kính màu trong suốt đấm mạnh vào khăn choàng đầu của vị nữ tu, và vị nữ tu liền trả miếng ngay khi vừa ăn cú đấm. Trong khi đó, vị thánh râu rậm kế bên cũng vào cuộc, nhảy ào sang vị bên cạnh - là một vị thánh trông khá vương giả, trên tay cầm mô hình của Lâu đài. Vị thánh vương giả này đánh rơi cái mô hình và, bằng một bước chân thuỷ tinh lấp lánh, nhảy vọt ra để tìm sự chở che