🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bích Ngọc - Kerstin Gier & Hồ Kiều Lan (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller] Ebooks Nhóm Zalo BÍCH NGỌC —★— Tác giả: Kerstin Gier Người dịch: Hồ Kiều Lan Phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản Văn Học 2016 ebook©vctvegroup Dành tặng tất cả các cô gái có trái tim ngọt ngào như bánh hạnh nhân trên thế giới này (và tôi muốn nói là tất cả các cô gái, bởi vì mười bốn hay bốn mốt tuổi thì cũng như nhau cả thôi). Hy vọng phủ trên mình những chiếc lông vũ Đậu trên tâm hồn Hát lên giai điệu không lời Và không bao giờ ngơi nghỉ. EMILY DICKINSON[1] Mở đầu Belgravia, London, Ngày 3 tháng Bảy, 1912 “Vết sẹo sẽ rất xấu xí,” Bác sĩ nói mà không ngẩng đầu lên. Paul cười nhăn nhó. “Ừm, dù sao cũng đỡ hơn bị chặt chân chặt tay như quý bà Lo Lắng Thái Quá đã dự đoán.” “Hay nhỉ!” Lucy gắt lên với Paul. “Em không lo lắng thái quá, và còn anh… ngài Đầu Rỗng Vô Tâm, đừng đùa cợt! Anh biết vết thương có thể nhiễm trùng nhanh đến mức nào, và đến lúc ấy thì anh giữ được tính mạng ở thời này là may đấy. Không có kháng sinh, còn bác sĩ thì ngu ngốc và vô dụng.” “Ồ, cảm ơn nhiều nhé,” Bác sĩ đáp, và bôi một thứ thuốc nâu nhờ nhờ lên vết thương vừa khâu xong. Xót như điên, Paul khó khăn lắm mới ghìm được mình không nhăn mặt. Anh chỉ hy vọng sẽ không để dây vết máu trên chiếc tràng kỷ thanh nhã của quý bà Tilney. “Dù sao thì họ cũng không làm khác được.” Lucy gắng điều chỉnh giọng nói cho thân thiện hơn. Cô thậm chí còn cố mỉm cười. Một nụ cười khá u uất, cho dù cô đã cố gắng. “Tôi tin chắc ông đang làm hết khả năng của mình,” Cô nói với ông bác sĩ. “Bác sĩ Harrison là người giỏi nhất đấy,” Quý bà Tilney cam đoan. “Và là người duy nhất có thể nhờ được,” Paul lẩm bẩm. Đột nhiên, anh thấy mệt rũ. Chắc chắn trong thứ nước ngòn ngọt mà ông bác sĩ cho anh uống có thuốc an thần. “Là người kín mồm kín miệng nhất thì đúng hơn,” Bác sĩ Harrison nói. Ông áp một dải băng trắng như tuyết lên tay Paul. “Và thực tình, tôi không tưởng tượng nổi việc chữa trị một vết thương do đâm chém có thể khác đi nhiều trong tám mươi năm tới.” Lucy hít sâu một hơi, và Paul lập tức đoán được sắp xảy ra chuyện gì. Một lọn tóc từ búi tóc trên đỉnh đầu cô roi xuống, cô hung hăng vén nó ra sau tai. “À thì, nhìn chung thì có lẽ là không, nhưng nếu vi khuẩn… òm, là cái lũ sinh vật đơn bào mà…” “Thôi nào, Luce!” Paul ngắt lời cô. “Bác sĩ Harrison biết rất rõ vi khuẩn là gì!” Vết thương vẫn xót kinh khủng, và Paul lại quá mệt, đến nỗi anh chỉ muốn nhắm mắt lại mà ngủ thiếp đi. Nhưng như vậy sẽ khiến Lucy càng thêm lo. Mặc dù ánh mắt cô đang long lên tức giận, anh biết đằng sau đó ẩn giấu nỗi bất an, và, tệ hơn nữa, là nỗi sợ. Vì cô, anh không được để lộ tình trạng tồi tệ hay cảm giác tuyệt vọng của bản thân. Vì vậy, anh nói tiếp: “Dẫu sao chúng ta cũng đang không ở thời Trung cổ; mà ở thế kỷ 20. Đây là thời kỳ của những tiến bộ mở đường trong y học. Máy điện tâm đồ đã thành tin cũ, và mấy năm vừa rồi, người ta đã tìm ra nguyên nhân và cách chữa trị bệnh giang mai.” “Ồ, có ai đó đã để tâm trong giờ thần bí học như một cậu bé ngoan thế nhỉ!” Lucy trông như sắp nổ tung ngay tại chỗ. “Thật là thú vị!” Bác sĩ Harrison góp thêm. “Và năm ngoái cái cô người Pháp Marie Curie mới được trao giải Nobel Hóa học.” “Bà ta phát minh ra cái gì? Bom nguyên tử à?” “Lucy, đôi khi em ngốc thật đấy. Marie Curie tìm ra cách chiết xuất radi…” “Ôi, anh làm ơn im đi!” Lucy khoanh tay lại và bực tức lườm Paul. “Anh có thể giữ các bài giảng đó lại cho mình! Anh! Có! Thể! Đã! Chết! Cho nên anh làm ơn có thể nói cho em biết làm sao em có thể đảo ngược cái thảm họa phía trước chúng ta mà không có anh không?” Giọng cô đột nhiên run lên. “Hay làm sao để em có thể sống tiếp mà không có anh?” “Anh xin lỗi, Công chúa.” Cô không hề biết anh hối lỗi đến mức nào. “Hừ!” Lucy nói. “Anh không cần phải làm cái vẻ mặt chó cún thương tâm đó đâu.” “Cứ nghĩ về những thứ có thể xảy ra chẳng ích gì cả, con gái à,” Quý bà Tilney lắc đầu nói trong khi giúp bác sĩ Harrison cất dụng cụ vào túi. “Mọi thứ sẽ ổn thôi. Paul hơi xui xẻo, nhưng cũng vẫn còn may chán.” “Vâng, phải rồi đấy ạ, đúng ra chuyện này còn có thể tệ hơn nhiều, nhưng thế đâu có nghĩa là mọi thứ đều ổn!” Lucy kêu lên. “Chẳng có gì ổn ẳ cả, chẳng có gì cả!” Mắt cô ầng ậng nước, khiến trái tim Paul muốn tan vỡ. “Chúng ta đã ở đây gần ba tháng và vẫn chưa thực hiện được chút gì theo kế hoạch, chỉ toàn làm ngược lại, khiến vấn đề tồi tệ hơn! Mãi rồi mới có được mớ giấy tờ chết tiệt đó, thế rồi Paul lại cho đi mất!” “Có lẽ anh đã hơi vội vã.” Paul thả đầu roi xuống gối. “Nhưng lúc đó, anh nghĩ như thế là đúng.” Bởi vì lúc đó, anh thấy cái chết gần kính khủng. Cây kiếm của huân tước Alastair đã có thể dễ dàng kết liễu đời anh. Tuy nhiên, anh không thể để Lucy biết được. “Nếu chúng ta có Gideon bên cạnh, vẫn sẽ còn một cơ hội nữa. Ngay khi đọc được mớ giấy tờ đó, cậu ta sẽ hiểu được hai ta đang làm gì và tại sao.” Hoặc là cứ hy vọng thế đi, anh nghĩ. “Nhưng chính chúng ta cũng không biết trong mớ giấy đó có thứ gì. Chúng có thể là mật mã, hoặc là… ôi, anh còn không biết anh vừa đưa cho Gideon cái gì,” Lucy nói. “Ai mà biết huân tước Alastair đã nhét cho anh cái gì, hóa đơn cũ, thư tình, một xấp giấy trắng…” Paul có nghĩ đến việc này từ trước, nhưng chuyện đã rồi. “Đôi lúc em cần phải có niềm tin rằng mọi thứ rồi sẽ ổn cả,” Anh thì thào, ước sao có thể áp dụng điều đó cho chính mình. Việc anh có thể đã đưa cho Gideon những giấy tờ vô dụng đã đủ tệ; nhưng lại còn khả năng thằng bé sẽ đem chúng thẳng tới cho bá tước Saint Germain. Nếu vậy, họ đã ném đi quân át chủ bài duy nhất. Nhưng Gideon nói cậu ta yêu Gwendolyn, và cái cách cậu ta nói cũng khá… thuyết phục. “Cậu ta đã hứa,” Paul cố cất tiếng, nhưng lại chỉ có thể thì thầm khe khẽ. Đằng nào đó cũng sẽ chỉ là nói dối. Anh không có thời gian nghe Gideon trả lời. “Thật đúng là ngu mới muốn câu kết với Liên minh Firenze,” Anh nghe Lucy nói. Mắt anh đã nhắm nghiền. Dù nó là gì đi nữa, thì thứ bác sĩ Harrison cho anh uống phát tác rất nhanh. “Và vâng, em biết, em biết,” Lucy tiếp tục. “Đáng lẽ chúng ta nên tự xử lý vấn đề.” “Nhưng con không phải kẻ sát nhân, con gái à,” Quý bà Tilney nói. “Tự tay giết người với kiếm một người khác làm việc đó thì có khác gì nhau đâu cơ chứ?” Lucy thở dài nói, mặc quý bà Tilney dữ dội phản đối (“Con gái, đừng nói những lời như vậy! Con không bắt ai giết người cả, con chỉ để lộ ra chút thông tin mà thôi!”), đột nhiên, dường như không ai có thể an ủi cô. “Chúng ta đã làm sai hết những gì có thể làm sai, Paul à. Trong suốt ba tháng trời chúng ta chỉ toàn lãng phí thời gian cũng như tiền của Margaret, và chúng ta đã làm liên lụy quá nhiều người.” “Đấy là tiền của huân tước Tilney,” Quý bà Tilney sửa lại, “và con sẽ kinh ngạc khi biết ông ấy thường vung tiền vào cái gì. Đua ngựa với vũ nữ vẫn còn là nhẹ. Ông ấy thậm chí sẽ không để ý thấy một khoản nho nhỏ mà ta đã trích ra để phục vụ cho mục đích của chúng ta. Và nếu có để ý, ta tin rằng ông ấy sẽ đủ lịch sự để không nói gì.” “Về phần mình, tôi không hề hối tiếc vì đã bị lôi kéo,” Bác sĩ Harrison an ủi họ, tươi cười. “Tôi đang bắt đầu thấy cuộc sống khá nhàm chán. Mà không phải ngày nào trong tuần anh cũng được gặp những nhà du hành từ tương lai đến, lại còn biết nhiều về nghề nghiệp của anh hơn cả bản thân anh. Và nói nhỏ giữa chúng ta nhé, cái thái độ tự cao tự đại của mấy quý ông Villiers và Pinkerton-Smythe trong Đội Cận vệ ở đây đủ để khiến bất cứ ai cũng cảm thấy muốn âm thầm nổi loạn.” “Thật đúng vậy,” Quý bà Tilney nói. “Lão Jonathan de Villiers ngạo mạn ấy còn đe dọa sẽ nhốt chặt vợ ở nhà nếu cô ta không thôi đồng cảm với đám đang đấu tranh giành quyền bầu cử cho phụ nữ.” Bà bắt chước một giọng nam cau có. “Tôi băn khoăn không biết sẽ xảy ra điều gì tiếp theo? Quyền bầu cử cho chó chăng?” “À, thì ra đó là lý do khiến bà dọa tát ông ta,” Bác sĩ Harrison nói. “Đó quả là một bữa tiệc trà mà tôi thấy không nhàm chán!” “Cũng không hẳn là vậy. Tôi chỉ nói tôi không thể đảm bảo điều mà bàn tay phải của tôi muốn làm nếu ông ta cứ tiếp tục bình phẩm đại loại như vậy.” “Nếu ông ta cứ tiếp tục nói năng nhảm nhí… đó là nguyên văn lời bà,” Bác sĩ Harrison chỉnh lại. “Tôi vẫn nhớ bởi vì đã rất ấn tượng.” Quý bà Tilney cười lớn và đưa tay cho ông bác sĩ. “Tôi sẽ tiễn ngài ra cửa, bác sĩ Harrison.” Paul gắng sức mở mắt và nhỏm dậy để cảm ơn bác sĩ nhưng không làm nổi. “Mmph… ảm… ơ…,” Anh cố lúng búng. “Có quái quỷ gì trong thứ nước ông đưa anh ấy vậy, bác sĩ?” Lucy gọi với theo bác sĩ Harrison. Ông bác sĩ ra đến cửa lại quay vào. “Chỉ là vài giọt rượu thuốc có pha thuốc phiện y tế thôi. Hoàn toàn vô hại!” Nhưng Paul đã không thể nghe thấy tiếng rít giận dữ của Lucy. Theo tin từ Sở Mật vụ, London có thể sẽ hứng chịu một trận không kích của quân Đức trong vài ngày tới, bởi vậy chúng tôi quyết định lập tức triển khai Giai đoạn Một của quy trình an ninh. Máy đồng hồ sẽ được bảo quản thời hạn không xác định tại phòng lưu trữ, nơi quý bà Tilney, anh trai tôi Jonathan, và tôi sẽ phân nhánh hồi khứ, cắt giảm thời gian du hành xuống còn ba tiếng mỗi ngày. Đến thế kỷ 19 từ phòng lưu trữ không phát sinh vấn đề gì; ban đêm ở đó hiếm người qua lại, Biên niên sử không nhắc đến sự xuất hiện của vị khách nào từ tương lai, vậy nên có thể đoán rằng sự có mặt của chúng tôi chưa bao giờ bị phát hiện. Như tôi đoán định, quý bà Tilney phản đối, bà “không thấy tí logic nào trong lý lẽ của chúng tôi,” nhưng cuối cùng, bà vẫn đành chấp nhận quyết định của Trưởng hội. Thời chiến cần những biện pháp đặc biệt. Chuyến du hành từ buổi chiều hôm nay về năm 1851 diễn ra thông suốt kỳ lạ, có lẽ bởi vợ thân yêu của tôi đã đưa chúng tôi mấy chiếc bánh nướng ngon tuyệt của cô ấy, và vì chưa quên những cuộc tranh luận nảy lửa trong vài dịp khác, chúng tôi tránh những chủ đề như quyền bầu cử của phụ nữ. Quý bà Tilney hết sức tiếc nuối vì đã không thể thăm Great Exhibition ở Hyde Park[2], nhưng do chúng tôi đồng cảm với bà trong vụ này, cuộc trò chuyện không dẫn đến cãi vã. Tuy nhiên, bà đã chứng tỏ tính tình kỳ lạ cùa bản thân qua việc đề nghị rằng từ bây giờ, chúng tôi nên giết thì giờ bằng chơi bài poker. Thời tiết hôm nay: mưa phùn lất phất, nhiệt độ 50°F như mùa xuân. Trích Biên niên sử Đội Cận vệ Ngày 30 tháng Ba, 1916 Báo cáo: Timothy De Villiers, Bộ Nội vụ. “Potius sero quam nunquam” (Livy) CHƯƠNG 1 Mũi kiếm đang chỉ thẳng vào tim tôi, và đôi mắt tên sát nhân giống hai cái hốc đen ngòm đe dọa sẽ nuốt chửng tất cả những gì tới quá gần. Tôi biết mình không thể trốn thoát. Tôi khó nhọc lùi lại vài bước. Gã bám sát tôi. “Ta sẽ xóa bỏ những thứ khiến Chúa phiền lòng khỏi mặt đất!” giọng gã vang lên. “Mặt đất sẽ thấm đẫm máu ngươi!” Tôi có ít nhất là hai câu để trả đũa những lời lẽ đầy tội lỗi kia ngay trên đầu lưỡi. (Thấm đẫm máu ta ư? Ô, mi cứ thử, dưới chân chúng ta là sàn gạch.) Nhưng tôi đang hoảng đến nỗi từ ngữ đông cứng không tuôn ra nổi. Nói cho cùng, lúc này xem ra gã sẽ không thể ưa mấy câu đùa nhẹ của tôi. Mà quả tình, trông gã không hề có tí khiếu hài hước nào cả. Tôi lùi lại thêm một bước, và bị chặn bởi một bức tường. Tên sát nhân cười phá lên. Thôi được, có lẽ gã cũng có khiếu hài hước, chỉ là không giống của tôi lắm. “Chết đi, đồ quỷ dữ!” Gã gào lên, không chút do dự xọc thẳng kiếm vào ngực tôi. Tôi choàng tỉnh giấc, hét lên. Mồ hôi túa đẫm, còn tim thì đau như thể đã bị một lưỡi kiếm xuyên qua. Giấc mơ kinh khủng! Nhưng có gì đáng lạ lắm không nhỉ? Trải nghiệm của tôi ngày hôm qua (và cả ngày hôm trước nữa) không thể nói là có thể khiến tôi thoải mái rúc vào giường và ngủ ngon. Những ý nghĩ không mong muốn xoắn vặn trong não tôi chẳng khác gì cái cây ăn thịt người đang phát điên. Gideon chỉ giả vờ, tôi nghĩ. Hắn không hề yêu tôi. “Cậu ta gần như chẳng phải làm gì để thu hút lũ con gái,” Tôi nghe bá tước Saint Germain nói đi nói lại bằng một giọng ôn tồn trầm trầm. Và “Chẳng có gì dễ đoán hơn phản ứng của một phụ nữ đang yêu.” Ồ, thế sao? Vậy một phụ nữ đang yêu sẽ phản ứng thế nào khi phát hiện ra ai đó vẫn đang nói dối và thao túng mình? Cô ta sẽ mất hàng giờ buôn điện thoại với bạn thân, vậy đó, rồi cô ta sẽ ngồi trong bóng tối, thao thức, tự hỏi rằng thế quái nào mà lúc đầu mình phải lòng hắn, và đã phải khóc muốn trôi cả tròng mắt vì khao khát hắn kinh khủng… Phải rồi, chả cần là một thiên tài mới đoán nổi. Đồng hồ báo thức bên giường tôi hiển thị số 3:10, có lẽ cuối cùng tôi cũng ngủ gật. Thậm chí tôi đã ngủ hơn hai tiếng. Và hẳn có ai đó, mẹ tôi?, đã vào đắp chăn cho tôi, vì tôi vẫn nhớ mình chỉ nằm còng queo, vòng hai tay ôm chặt đầu gối, và nghe thấy tim đập như điên. Xét cho cùng, một trái tim tan vỡ mà cũng đập được thì kỳ lạ thật. “Tớ cảm giác như nó là những mảnh vỡ sắc nhọn đỏ lòm, đang cắt phanh tớ ra từ bên trong cho tới khi tớ chảy hết máu mà chết,” Tôi nói, cố gắng miêu tả trái tim mình cho Leslie (được rồi, nghe cũng sến súa chả kém gì mấy thứ cái gã trong giấc mơ của tôi đã nói, nhưng đôi lúc sự thật đúng là sến súa mà). Leslie thốt lên đềy thương cảm, “Tớ biết cậu cảm thấy thế nào. Khi Max đá tớ, ban đầu tớ tưởng tớ sẽ chết vì buồn. Buồn bã và suy tạng cả loạt. Vì trong những điều thiên hạ nói về tình yêu cũng có chút sự thật đấy: nó di căn đến thận cậu, nó thụi vào dạ dày cậu, nó đập tan tim cậu và… ừm… nó bò quanh gan cậu như rận. Nhưng mà thứ nhất, tất cả rồi sẽ qua; thứ hai, mọi thứ không vô vọng như cậu nghĩ; và thứ ba, tim cậu không phải là thủy tinh.” “Đá, không phải thủy tinh,” Tôi chỉnh nó, và khóc nức nở. “Tim tớ là một viên bảo thạch, và Gideon đập vỡ nó thành hàng ngàn mảnh, đúng như bà Maddy đã tiên đoán.” “Nghe có vẻ hay đấy, nhưng không! Tim được làm từ những thứ hoàn toàn khác, tin lời tớ đi.” Leslie hắng giọng, và trở nên nghiêm túc cứ như thể sắp tiết lộ bí mật quan trọng nhất trong lịch sử thế giới. “Trái tim được làm từ thứ gì đó cứng rắn hơn nhiều. Nó không thể tan vỡ, và cậu có thể nhào nặn lại nó bất cứ lúc nào. Những trái tim được làm từ một công thức bí mật.” Thêm vài cái hắng giọng để tăng phần kịch tính. Tôi nín thở theo phản xạ. “Chúng được làm từ những thứ như bánh hạnh nhân!“Leslie tuyên bố. “Bánh hạnh nhân?” Trong một tích tắc, tôi ngừng khóc và toét miệng cười. “Đúng rồi đó, bánh hạnh nhân,” Leslie nhắc lại với vẻ chân thành chết người. “Loại ngon nhất, với cả đống bột hạnh nhân nghiền.” Tôi suýt bật cười thành tiếng. Nhưng tôi sực nhớ ra ngay mình vẫn là đứa con gái bất hạnh nhất trên thế giới. Tôi sụt sịt mũi, và nói, “Nếu vậy, thì Gideon đã cắn tiệt mất một phần trái tim tớ rồi! Và hắn đã gặm hết cả phần chocolate phủ xung quanh nữa! Cậu phải thấy cái mặt hắn khi mà…” Nhưng trước khi tôi có thể lại khóc tiếp, Leslie thở dài đánh sượt. “Gwenny, tớ ghét phải nói điều này, nhưng trò khóc lóc ăn vạ này chẳng ích lợi gì cả. Cậu cần phải dừng lại!” “Tớ không cố ý,” Tôi nói. “Nó cứ tự bùng lên thôi. Một phút trước tớ vẫn là cô gái hạnh phúc nhất thế giới, và rồi hắn nói với tớ…” “Được rồi, vậy thì Gideon đã cư xử như một thằng khốn,” Leslie ngắt lời tôi, “mặc dù cũng khó hiểu đấy. Ý tớ là, xin chào? Thế quái nào mà bọn con gái đang yêu lại dễ bị thao túng hơn bình thường thế nhỉ? Tớ tưởng phải ngược lại chứ. Lũ con gái đang yêu cứ như bom nổ chậm ấy. Cậu chẳng biết bọn nó sẽ làm gì tiếp theo đâu. Gideon và lão bá tước ái quốc cực đoan kia nhầm to rồi.” “Tớ thực sự đã nghĩ Gideon yêu mình. Cái ý nghĩ rằng hắn chỉ giả vờ thật là…” Xấu tính? Nhẫn tâm? Không có từ ngữ nào miêu tả nổi tâm trạng tôi cả. “Ôi, cưng à, nghe này, vào những hoàn cảnh khác, cậu có thể vùi mình trong đau khổ hàng tuần liền, nhưng bây giờ cậu không thể làm vậy. Cậu cần năng lượng cho những việc khác. Như để sống sót chẳng hạn.” Leslie có vẻ nghiêm khắc khác thường. “Cho nên cậu làm ơn chỉnh đốn lại đi.” “Xemerius cũng nói vậy. Trước khi nó chuồn mất và bỏ tớ lại một mình.” “Con tiểu quỷ vô hình của cậu đúng đấy! Cậu cần tỉnh táo và sắp xếp lại các manh mối. Eo ôi, cái gì vậy? Đợi chút, tớ phải mở cửa sổ. Bertie vừa thả một quả bom thối tàn tệ. Đồ chó hư! Bây giờ thì, tớ nói đến đâu rồi nhỉ? Phải rồi, chúng ta phải tìm xem ông cậu đã giấu cái gì trong nhà.” Leslie hơi lên giọng. “Tớ phải công nhận, hóa ra Raphael cũng có ích. Hắn không ngố như cậu nghĩ đâu.” “Như cậu nghĩ thì có.” Raphael là em trai Gideon, và hắn vừa vào học cùng trường với chúng tôi. Hắn đã phát hiện ra câu đố ông tôi để lại là về tọa độ địa lý. Và nó dẫn thẳng đến nhà tôi. “Tớ cực kỳ muốn biết Raphael đã đào bới được bao nhiêu bí mật về vụ du hành thời gian của Đội Cận vệ và Gideon rồi.” “Có thể nhiều hơn chúng ta đoán,” Leslie nói. “Dù sao thì, hắn cũng không tin chuyện mấy câu đố về tọa độ là trào lưu mới nhất ở London. Nhưng hắn cũng đủ thông minh để không hỏi han thêm gì nữa.” Nó ngập ngừng. “Hắn có đôi mắt khá hấp dẫn đấy.” “Ừa.” Chúng hấp dẫn thật, và điều đó nhắc tôi rằng mắt của Gideon cũng giống hệt thế. Màu xanh lá với hàng lông mi đậm và dày. “Không phải tớ bị ấn tượng hay gì đâu. Chỉ là quan sát thôi.” Anh yêu em mất rồi. Giọng Gideon nghe hoàn toàn nghiêm túc khi anh nói câu ấy, mắt nhìn thẳng vào tôi. Và tôi đã nhìn vào mắt anh, tin từng lời! Nước mắt tôi lại bắt đầu tuôn ra, và tôi gần như chẳng còn nghe thấy Leslie nói gì nữa. “… nhưng tớ mong đấy là một lá thư dài, hay là một dạng nhật ký, trong đó ông cậu giải thích tất cả những gì bọn họ không nói với cậu và thêm thắt chút đỉnh nữa. Rồi chúng ta có thể thôi lần mò trong bóng tối và lập một kế hoạch tử tế…” Đáng lẽ những đôi mắt như thế không nên tồn tại. Hoặc là phải có luật buộc những cậu trai có đôi mắt tuyệt cỡ ấy luôn phải đeo kính râm. Trừ phi họ có thứ gì đó để bù trừ, một đôi tai vểnh to tướng hay một thứ xấu xí đại loại. “Gwenny? Cậu không khóc tiếp đấy chứ, phải không?” Giờ thì Leslie nói nghe giống hệt cô Counter dạy Địa của bọn tôi khi có đứa thưa rằng đã quên làm bài tập. “Cưng à, như thế này không ổn đâu! Cậu phải ngừng ngay lập tức cái việc đào khoét quả tim bằng cái tấn kịch đó! Chúng ta phải…” “Bình tĩnh, ừ, cậu đúng đấy.” Tốn kha khá công sức, nhưng tôi cố gắng trục xuất ý nghĩ về đôi mắt của Gideon ra khỏi đầu và bơm thêm chút tự tin vào giọng nói. Tôi nợ Leslie điều đó. Dù sao thì mấy ngày qua nó cũng là người đã cố xốc tôi đứng dậy. Trước khi dập máy, tôi nói với nó rằng tôi đã vui đến cỡ nào khi có nó làm bạn, bất chấp mấy lời lâm ly đó lại khiến tôi rơi nước mắt, lần này thì là vì quá xúc động. “Tớ cũng vậy,” Leslie cam đoan với tôi. “Đời tớ sẽ chán phèo nhạt thếch chết mất nếu không có cậu!” Khi nó cúp máy thì đã suýt soát nửa đêm, và tôi thực sự cảm thấy người ngoai ít phút. Nhưng bây giờ, ba giờ mười phút, tôi rất muốn gọi cho nó và nói lại tất cả từ đầu. Không phải tôi là đồ Minnie Mè nheo. Chỉ là, đây là lần đầu tiên tôi phải chịu cảnh yêu đơn phương. Yêu đơn phương thực sự ấy, ý tôi là vậy. Thứ đó làm người ta đau khổ. Mọi thứ khác đều lùi thành phông nền. Thậm chí sống cũng hết quan trọng. Quả thực, vào lúc đó, tôi nghĩ cái chết cũng không tệ. Tôi không phải là người đầu tiên chết vì tan vỡ trái tim, tôi có bạn đồng hành. Nàng Tiên cá, Juliet, Pocahontas, cả Trà hoa nữ và Hồ điệp Phu nhân nữa, còn bây giờ là tôi, Gwendolyn Shepherd. Tin tốt là tôi có thể bỏ qua mấy thứ kịch tính như dao kéo như Leslie đã gợi ý, bởi vì, với tình trạng bây giờ, tôi cảm thấy mình như đã mắc lao phổi từ tỉ năm trước rồi, và chết vì lao là cách chết ăn ảnh nhất. Tôi sẽ nằm trên giường, xanh xao và xinh đẹp như Bạch Tuyết với mái tóc xõa ra trên gối. Gideon sẽ quỳ bên giường tôi, cảm thấy tiếc nuối, cay đắng vì những gì hắn đã làm khi tôi thì thào lời cuối. Nhưng trước tiên tôi cần đi toilet, khẩn cấp. Trà bạc hà chanh đường là thuốc chữa bách bệnh trong gia đình tôi, và hẳn là tôi đã uống hàng lít. Bởi vì khi tôi về nhà tối hôm qua, mẹ đã lập tức nhận ra rằng tôi không ổn. Cũng chẳng khó để nhận ra điều đó, vì khóc lóc đã khiến tôi nom như một con thỏ bạch tạng. Và nếu tôi bảo mẹ, như Xemerius đã gợi ý, rằng tôi phải băm hành trong limo trên đường từ trụ sở Đội Cận vệ về nhà, thì đừng hòng bà tin. “Có phải đám cận vệ chết tiệt kia làm gì con không? Có chuyện gì vậy?” Bà hỏi, bằng một cách nào đó vừa có vẻ thương hại vừa cực kỳ giận dữ. “Mẹ sẽ làm thịt Falk nếu…” “Chẳng ai làm gì con cả, mẹ à,” Tôi nói nhanh, cố làm mẹ yên tâm. “Và không có chuyện gì cả.” “Cứ làm như mẹ cậu sẽ tin ấy! Sao cậu không thử cái lý do củ hành? Cậu chả bao giờ nghe lời khuyên của tớ cả.” Xemerius giậm cái chân đầy móng vuốt lên sàn. Nó là một cái miệng máng xối bằng đá với một đôi tai to tướng, một đôi cánh dơi, một cái đuôi phủ vảy như đuôi rồng, và hai chiếc sừng nhỏ trên cái đầu mèo. Đáng tiếc là nó chẳng đáng yêu bằng nổi một nửa vẻ ngoài, và không ai ngoài tôi có thể nghe những câu bình luận ác liệt của nó và đáp trả. Ngoài ra, có hai thứ kỳ lạ thuộc về tôi mà tôi buộc phải chung sống. Thứ nhất là tôi có thể thấy quỷ máng xối cùng các loại ma mãnh và nói chuyện với chúng từ khi còn bé. Điều kia còn kỳ hơn, và tôi vẫn không biết về nó cho tới gần hai tuần trước, khi tôi phát hiện ra mình là một trong mười hai nhà du hành thời gian cực kỳ bí mật, tức là những người có thể đi về một điểm nào đó trong quá khứ vài giờ mỗi ngày. Lời nguyền du hành thời gian, ờ, được rồi, đúng ra là một món quà, đáng lẽ phải ám vào bà chị họ Charlotte của tôi, đã được chuẩn bị kỹ lưỡng nên hơi bị siêu vụ này, nhưng cuối cùng thì tôi lại là đứa rút trúng cọng rơm ngắn. Không có lý do gì để ngạc nhiên. Tôi luôn là đứa giữ trên tay lá bài cuối cùng khi chúng tôi chơi Old Maid; nếu cả lớp chơi trò bốc thăm để xem ai sẽ mua quà Giáng sinh cho cô Counter, tôi luôn tóm đúng mẩu giấy có tên cô (nghĩ cho ra mua quà gì tặng một giáo viên địa lý đúng là rất hại não!?); nếu tôi có vé đi hòa nhạc, cứ yên tâm là tôi sẽ lăn ra ốm; và khi nào đặc biệt cần xinh đẹp được mắt một chút, sẽ có một cái mụn to cỡ con mắt thứ ba mọc chễm chệ trên trán tôi. Có một đôi người sẽ không hiểu ngay sự giống nhau giữa mụn và du hành thời gian, họ có thể ghen tị và nghĩ rằng du hành thời gian rất vui, nhưng không có đâu. Nó gây phiền toái, đau tim và còn nguy hiểm nữa. Không thể quên rằng nếu không thừa hưởng cái khả năng ngu ngốc đó thì tôi đã không gặp Gideon và trái tim tôi, dù nó có làm từ bánh hạnh nhân hay không, vẫn sẽ yên ổn. Bởi vì hắn cũng là một trong mười hai nhà du hành thời gian. Một trong vài người còn sống. Bạn không thể gặp mấy người kia đâu, chỉ trừ trong quá khứ. “Con vừa mới khóc,” Mẹ tôi nói bằng giọng rất thực tế. “Đấy, cậu thấy chưa?” Xemerius nói. “Giờ thì mẹ sẽ vắt cậu như vắt chanh cho tới khi hạt bắn ra ngoài. Bà sẽ không để cậu lọt khỏi tầm mắt một giây nào, và chúng ta sẽ đứt luôn cả vụ tìm kho báu tối nay.” Tôi nhăn mặt để nó hiểu rằng hôm nay tôi cũng chẳng còn tâm trạng đi săn kho báu nữa. Người ta phải làm mặt xấu với lũ bạn vô hình nếu không muốn người khác tưởng mình bị điên vì nói chuyện với không khí. “Bảo bà ấy cậu đang thử bình xịt cay xem,” Cục không khí trả lời tôi, “và cậu lỡ làm bắn vào mắt.” Nhưng tôi đã quá mệt để nói dối. Tôi nhìn mẹ với đôi mắt vằn đỏ và liều nói thật. Mình nói đây, tôi nghĩ. “Chỉ là… không, con không thấy ổn lắm. Đó… đại khái là chuyện con gái ấy, mẹ biết không?” “Ôi, con yêu.” “Nếu con điện cho Leslie, con biết mình sẽ thấy khá hơn.” Trước sự kinh ngạc của Xemerius, và cả của tôi, mẹ đã hài lòng với lời giải thích. Mẹ làm trà bạc hà, để bình trà và chiếc cốc chấm bi yêu thích của tôi trên tủ đầu giường, vuốt tóc tôi, rồi để tôi yên thân. Bà thậm chí không hề nhắc nhở tôi về giờ giấc như thường ngày. (“Gwendolyn! Mười giờ hơn rồi, và con đã ôm điện thoại được bốn mươi phút rồi đấy. Mai hai đứa còn gặp nhau ở trường mà.”) Đôi lúc, bà đúng là người mẹ tuyệt nhất thế giới. Tôi thở dài, rồi thò chân ra khỏi giường và lết vào buồng tắm. Bỗng có một làn hơi lành lạnh phả tới. “Xemerius? Cậu có đó không?” Tôi thì thào và lần tìm công tắc. “Còn tùy hoàn cảnh.” Xemerius đang treo ngược người trên chiếc đèn trần hành lang, chớp chớp mắt bởi luồng sáng. “Tớ ở đây chừng nào cậu thôi biến thành cái vòi tưới cây.” Nó rít lên bằng giọng the thé sướt mướt để nhại tôi, khá giống, tôi e là vậy. “Rồi thì hắn nói, tôi không hiểu em đang nói gì, rồi thì tớ nói, có hay không, rồi thì hắn nói, có, nhưng làm ơn đừng khóc nữa…” Nó thở dài như đóng kịch. “Lũ con gái làm tớ ức chế hơn bất cứ loại người nào. Chẳng kém gì nhân viên thuế về hưu, mấy cô bán hàng thêu và các ông chủ tịch hiệp hội làm vườn.” “Tớ không thể đảm bảo gì đâu,” Tôi thì thầm để không dựng cả nhà dậy. “Chúng ta không nên nhắc đến Người Mà Cậu Biết Là Ai Đấy, nếu không thì cái đài phun nước lại hoạt động mất.” “Đằng nào tớ cũng phải nghe tên hắn đến phát ngán lên rồi. Chúng ta làm cái gì hợp lý hơn một chút có được không? Săn kho báu chẳng hạn?” Đi ngủ chắc là hợp lý hơn, nhưng tiếc rằng lúc này tôi đã tỉnh như sáo sậu. “Thôi được, chúng ta có thể bắt đầu, nếu cậu muốn. Nhưng trước tiên tớ phải đi xả đống trà đó đã.” “Gì cơ?” Tôi chỉ vào cửa phòng tắm. “Ô, tớ hiểu,” Xemerius nói. “Tớ sẽ đợi ở đây.” Nhìn trong gương, trông tôi khá khẩm hơn mong đợi. Tuy nhiên lại không hề có triệu chứng lao phổi. Mí mắt tôi hơi sưng, chỉ thế thôi, như thể tôi đã lỡ tay đánh quá nhiều phấn mắt màu hồng. “Cậu ở chỗ nào suốt vậy Xemerius?” Tôi hỏi khi quay ra hành lang. “Không phải là với…” “Với ai?” Xemerius trông có vẻ tức giận. “Cậu đang hỏi tớ về cái người mà chúng ta không được nhắc tên đấy hả?” “Ừ thì, đúng.” Thực sự tôi rất muốn biết Gideon đã làm gì tối qua. Vết thương trên tay hắn ra sao rồi? Và liệu hắn đã nói với ai về tôi chưa? Kiểu như Tất cả là một sự hiểu lầm khủng khiếp. Đương nhiên là tôi yêu Gwendolyn. Tôi đâu có giả vờ khi nói với cô ấy như vậy. “Ồ, không có đâu! Tớ còn lâu mới bị lừa.” Xemerius dang cánh bay xuống sàn. Những khi ngồi trước mặt nhau như thế này, nó không nhô lên quá đầu gối tôi là mấy. “Nhưng tớ không đi ra ngoài. Tớ còn bận nhòm ngó quanh nhà. Nếu có ai tìm được kho báu thì đó chính là tớ. Vì bọn cậu không thể đi xuyên tường; hay là lục lọi ngăn kéo của bà cậu mà không bị tóm.” “Phải, hẳn là cũng có vài lợi ích khi cậu vô hình,” Tôi nói. Tôi không nói rằng Xemerius không thể lục lọi cái gì cả vì móng vuốt ma của nó không mở được ngăn kéo. Tôi không biết con ma nào di chuyển được đồ vật. Hầu hết bọn chúng, khác với Xemerius, thậm chí còn không thở ra nổi một làn hơi lạnh. “Với cả cậu biết là bọn mình đâu có đi tìm kho báu, chỉ là thứ gì đó của ông tớ để lại có thể giúp chúng ta tìm hiểu thêm thôi.” “Căn nhà này đầy rẫy những thứ có thể coi là kho báu. Lại còn bao nhiêu chỗ để giấu nữa,” Xemerius tiếp tục lải nhải, không đếm xỉa gì đến tôi. “Vài bức tường ở tầng một rỗng và có đường hầm chạy bên trong, những đường hầm hẹp đến nỗi cậu biết ngay rằng nó không được xây cho mấy người mông to.” “Thật á?” Đến tôi còn chưa phát hiện ra những lối đi đó. “Làm sao để vào được?” “Cửa vào ở hầu hết các phòng đều bị bít giấy dán tường, nhưng vẫn có một lối đi qua tủ quần áo của bà cô cậu và một lối nữa đằng sau tủ bát đĩa trong phòng ăn. Và một cửa nữa trong thư viện, ẩn sau tủ sách xoắn. À, còn có một đường đi nối từ thư viện và cầu thang lên phòng ông Bernhard, một đường khác dẫn lên tầng hai.” “Chả trách ông Bernhard cứ hay thoắt ẩn thoắt hiện như thế,” Tôi lẩm bẩm. “Chưa hết đâu. Có một chiếc thang trong ống khói to ở chỗ bức tường sát vách nhà 83 bên cạnh. Cậu có thể trèo lên tận nóc nhà. Cậu không vào được ống khói từ nhà bếp nữa đâu, vì lò sưởi cũ bị bịt kín rồi, nhưng vẫn có một đường cửa sập đằng sau tủ đĩa cuối hành lang tầng một, đủ to để cho ông già Noel chui qua, hoặc là ông quản gia quái dị nhà cậu.” “Hoặc là người quét ống khói.” “Rồi lại còn có tầng hầm nữa!” Xemerius giả vờ chưa nghe thấy lời bình luận rất thực tế của tôi. “Hàng xóm nhà cậu có biết căn nhà này có bí mật không, và có một cái hầm chứa nữa ở dưới cái hầm mà ai cũng biết? Tuy nhiên nếu muốn đi tìm thứ gì ở dưới đó thì tốt nhất là cậu đừng có sợ nhện.” “Thế thì chúng ta tìm chỗ khác trước,” Tôi nói, quên rằng phải nhỏ giọng. “Nếu bọn mình biết phải tìm cái gì thì đã dễ rồi.” Xemerius lấy chân gãi cằm. “Ý tớ là, nó có thể là bất cứ thứ gì: con cá sấu nhồi bông trong hốc tường, chai Scotch giấu sau đống sách trong thư viện, bó thư trong ngăn bàn bí mật của bà Maddy nhà cậu, chiếc rương nhỏ ở khoang rỗng trong bức tường gạch…” “Cái rương ở trong tường?” Tôi ngắt lời nó. Nó đang nói đến cái khoang rỗng nào nhỉ? Xemerius hất đầu. “Ôi trời, tớ nghĩ cậu vừa đánh thức em trai rồi kìa.” Tôi quay ngoắt lại. Thằng em mười hai tuổi của tôi, Nick, đang đứng ở ngưỡng cửa phòng nó, hai bàn tay lùa trong mớ tóc đỏ bù xù. “Chị đang nói chuyện với ai thế, Gwenny?” “Nửa đêm rồi,” Tôi thì thào. “Đi về giường đi Nick.” Nick nhìn tôi do dự, và tôi có thể thấy nó đang dần tỉnh ngủ. “Chuyện cái rương trong tường là sao vậy?” “Chị… chị định đi tìm, nhưng chị nghĩ đợi trời sáng sẽ tốt hơn.” ẳ “Vớ vẩn,” Xemerius nói. “Tớ có thể nhìn trong bóng tối chẳng thua gì… ừm, xem nào, một con cú chẳng hạn. Và cậu không thể lục lọi quanh nhà khi mọi người đang tỉnh. Trừ phi cậu muốn có thêm cả đống bạn đồng hành.” “Em có thể mang đèn pin,” Nick nói. “Trong rương có gì?” “Chị cũng không biết.” Tôi nghĩ một lúc. “Có thể là thứ gì đó ông ngoại để lại.” “Ồ,” Nick nói, bắt đầu hứng thú. “Nó được giấu ở đâu?” Tôi nhìn Xemerius dò hỏi. “Tớ thấy nó trong đường hầm đằng sau ông béo có ria, cái ông cưỡi ngựa ấy,” Xemerius nói. “Nhưng ai lại đi giấu bí mật, ý tớ là kho báu, trong một cái rương cũ rích chán ốm nhỉ? Tớ nghĩ con cá sấu có vẻ hứa hẹn hơn. Trời biết nó được nhồi bằng cái gì? Tớ ủng hộ việc rạch bụng nó ra.” Tôi thì không. Tôi nghĩ mình đã gặp con cá sấu đó rồi. “Hãy xem cái rương trước đã. Một cái hốc nghe cũng không tệ đâu.” “Chán ốm, chán ốm, chán ốm!” Xemerius đai đi đai lại. “Có khi là một cụ tổ của cậu đã trốn vợ giấu thuốc lá trong đó… hay…” Rõ ràng nó vừa sực nghĩ ra điều gì đó, vì tự nhiên bỗng cười nhe nhởn. “Hay là một cô hầu gái bị phanh thây vì lầm đường lạc lối!” “Cái rương ở trong đường hầm sau bức tranh ông bác cụ kỵ Hugh,” tôi giải thích cho Nick. “Nhưng…” “Em sẽ lấy đèn pin!” Thằng em tôi đã quay vào phòng. Tôi thở dài. “Sao cậu lại thở dài?” Xemerius đảo mắt. “Cho em cậu đi theo cũng chẳng hại gì.” Nó dang cánh. “Tớ sẽ chạy quanh một vòng cho chắc là cả nhà đã ngủ say. Bọn ta không muốn bà bác mũi nhọn của cậu tóm được trong lúc đi tìm kim cương mà.” “Kim cương nào?” “Hãy suy nghĩ tích cực!” Xemerius đã bay vọt lên không trung. “Cậu chọn cái gì, kim cương hay là thi thể một cô hầu bị sát hại? Đây hoàn toàn chỉ là vấn đề thái độ nhìn nhận. Gặp nhau ở trước ông chú béo cưỡi con ngựa của cậu nhé.” “Chị đang nói chuyện với ma đấy à?” Nick xuất hiện sau lưng tôi. Nó tắt đèn trần hành lang và bật đèn pin. Tôi gật đầu. Nick chưa bao giờ nghi ngờ việc tôi có thể nhìn thấy ma, mà còn ngược lại. Khi nó lên bốn và tôi lên tám, nó thường bảo vệ tôi khi mọi người không tin điều đó. Trước bác Glenda chẳng hạn. Chúng tôi luôn cãi vã khi cùng bác tới Harrods, và tôi trò chuyện với ông gác cửa tốt bụng Grizzle. Ông Grizzle chết đã năm chục năm, nên tất nhiên mọi người đều băn khoăn khi tôi đứng lại lại và bắt đầu luyên thuyên về Hoàng gia (ông Grizzle cực kỳ ngưỡng mộ Nữ hoàng) và về tháng Sáu ẩm ướt bất thường (thời tiết là chủ đề yêu thích thứ nhì của ông Grizzle). Nhiều người qua đường cười giễu tôi, có người thốt lên rằng trí tưởng tượng của trẻ con thật tuyệt (rồi xoa đầu tôi rối bù để nhấn mạnh ý kiến đó), có người lắc đầu, nhưng không ai tức giận như bác Glenda. Bác có vẻ xấu hổ hết mức, ra sức lôi tôi đi và mắng mỏ nếu tôi cố nán lại. Bác nhắc tôi phải noi gương Charlotte (thậm chí từ hồi đó, Charlotte đã hoàn hảo đến mức chị ta chưa bao giờ đánh mất dù chỉ là một cái cặp tăm gài tóc), tệ nhất là, bác dọa cắt món tráng miệng của tôi tối hôm đó. Nhưng mặc dù bác đã thực hiện đúng lời đe đọa ấy (tôi mê món tráng miệng, kể cả mận hầm), tôi vẫn không thể ép mình đi qua ông Grizzle mà không nói gì. Nick luôn cố trợ giúp bằng cách cầu xin bác Glenda buông tôi ra vì ông Grizzle tội nghiệp chẳng có ai để trò chuyện cả, nhưng bác Glenda sẽ khôn khéo đánh bại thằng bé bằng câu hỏi ngọt xớt, “Ồ, Nick bé bỏng, đến khi nào cháu mới hiểu rằng chị cháu chỉ cố gây chú ý thôi hả? Chẳng có ma mãnh nào hết. Cháu có trông thấy con ma nào ở đây không?” Lần nào Nick cũng đành lắc đầu buồn bã, còn bác Glenda cười đắc thắng. Đúng hôm mà bác Glenda quyết định sẽ không dắt chúng tôi đến Harrods nữa, Nick đã bất ngờ thay đổi chiến thuật. Khi đó, còn nhỏ xíu, với đôi má béo phính, nó là một thằng bé thật đáng yêu, với cái giọng ngọng nghịu dễ thương - nó đã đứng đối diện bác Glenda và hỏi, “Bác có biết ông Grizzle đã nói gì với cháu không, bác Glenda? Ông ấy bảo bác là một mụ phù thủy già xấu tính hôi xì!” Tất nhiên là ông Grizzle sẽ không bao giờ nói thế, ông ấy quá lịch sự, còn bác Glenda thì là một khách hàng tuyệt vời, nhưng mẹ tôi đã nói cái gì đó tương tự vào tối hôm trước. Bác Glenda mím chặt môi bỏ đi, kéo theo Charlotte. Còn sau đó, lúc ở nhà, bác đã có một vụ cãi vã nho nhỏ với mẹ tôi, đang rất bực bội vì hai đứa chúng tôi phải tự tìm đường về nhà. Bác Glenda tuyên bố, giọng lạnh như băng, rằng mẹ phải chịu trách nhiệm về cái câu phù thủy bốc mùi kia. Kết quả là chúng tôi không bao giờ được đi mua sắm cùng bác Glenda nữa. Nhưng cho đến tận bây giờ chúng tôi vẫn rất khoái nói hai chữ “hôi xì”. Lớn hơn chút nữa, tôi không còn nói với mọi người rằng tôi có thể nhìn thấy những thứ mà họ không thể trông thấy. Tốt nhất nên như thế, nếu bạn không muốn bị mắng là đồ khùng. Nhưng tôi chưa bao giờ phải giả vờ với Nick, Caroline và Leslie, vì chúng tin vào những con ma của tôi. Tôi không chắc lắm về mẹ và bà Maddy, nhưng ít nhất hai người cũng không cười nhạo tôi. Ngay cả bà Maddy thỉnh thoảng cũng có những tiên đoán kỳ lạ, nên có lẽ bà hiểu cảm giác không có ai tin mình là thế nào. “Nó có tốt không?” Nick thì thầm. Ánh đèn pin của nó nhảy nhót trên những bậc thang. “Ai cơ?” “Con ma của chị, tất nhiên rồi.” “Còn tùy,” Tôi thành thật đáp. “Trông nó thế nào?” “Nó khá đáng yêu. Nhưng nó nghĩ nó nguy hiểm.” Khi chúng tôi nhón chân xuống đến tầng hai của bác Glenda và Charlotte, tôi cố gắng tả Xemerius một cách kỹ nhất. “Hay đấy,” Nick thì thầm. “Một con vật nuôi tàng hình! Em ước gì mình có một con!” “Vật nuôi! Đừng bao giờ nói câu đó khi Xemerius đang ở trong tầm tai!” Tôi hơi hy vọng có thể nghe thấy cô chị họ mình ngáy qua cửa phòng ngủ, nhưng tất nhiên là Charlotte không ngáy. Những người hoàn hảo không phát ra thứ âm thanh kinh tởm đó khi ngủ. Nửa đường xuống tầng tiếp theo, thằng em trai tôi ngáp một cái, khiến tôi lập tức thấy tội lỗi. “Nghe này, Nick, ba rưỡi sáng rồi, và tí nữa em phải đi học đấy. Mẹ sẽ làm thịt chị nếu phát hiện ra chị bắt em thức.” “Em không mệt! Và nếu chị bỏ em bây giờ thì chị thật là xấu tính! Ông giấu cái gì trong rương thế?” “Chị cũng không biết. Có lẽ là một cuốn sách giải thích tất cả mọi thứ cho chị. Không thì ít nhất là một lá thư. Ông là Trưởng Hội kín và lãnh đạo các cận vệ. Ông biết hết về chị, về mấy thứ du hành thời gian này, và trước lúc chết, ông đã biết Charlotte không thừa hưởng gene. Bởi vì chị đã gặp ông trong quá khứ và giải thích mọi chuyện.” “Chị may mắn thật,” Nick thì thầm, rồi nói thêm như thể xấu hổ về bản thân, “Nói thật, em gần như không còn nhớ ông. Nhưng ông luôn tốt bụng và không nghiêm khắc chút nào, ngược lại hoàn toàn với quý bà Arista. Quanh ông luôn thoang thoảng mùi caramel và thứ thảo mộc gì đó.” “Đó là mùi thuốc lá trong tẩu của ông, cẩn thận!” Tôi chặn Nick lại vừa kịp. Bây giờ chúng tôi đã đi quá tầng hai, nhưng trên đường xuống tầng một lại có vài bậc thang dở hơi kẽo kẹt rất to. Hàng năm trời lỉnh xuống bếp vào ban đêm đã dạy tôi cách tránh làm chúng rít lên. Hai đứa cẩn thận tránh qua những chỗ kẽo kẹt, cuối cùng cũng đến trước chân dung ông bác cụ kỵ Hugh. “Xong. Chúng ta đến nơi rồi.” Nick chiếu đèn pin lên mặt kỵ Hugh. “Ông ấy xấu tính quá, đặt tên ngựa của mình là Annie Mập! Cô ngựa đẹp và thon thả, ông ấy mới là cái người trông như con heo có ria mép.” “Chị đồng ý.” Tôi sờ soạng tìm chốt khỏi động cơ cấu mở cánh cửa bí mật đằng sau khung tranh. Như thường lệ, nó hơi bị kẹt. “Mọi người đều ngủ như em bé.” Xemerius hạ cánh trên cầu thang bên cạnh chúng tôi, thở phì phì. “Thực ra thì là mọi người, trừ ông Bernhard. Rõ ràng là ông ấy mắc chứng mất ngủ, nhưng mà đừng lo. Ông ấy đang ăn thịt gà nguội trong bếp và xem phim của Clint Eastwood.” “Tốt.” Bức tranh mở ra với một tiếng rít, để lộ vài bậc thang giữa hai bức tường. Chúng dừng lại chừng sáu, bảy bước trước một cánh cửa khác. Cánh cửa này dẫn tới phòng tắm tầng một, và ở phía phòng tắm nó được giấu sau một tấm gương dài. Chúng tôi thường chui vào đoạn đường hầm này chơi, và cũng từng ăn đòn vì ai mà biết được lúc nào có người trong nhà tắm, nhưng hai đứa vẫn chưa phát hiện ra đoạn hành lang bí mật này có công dụng gì. Có lẽ là một cụ tổ nào đó của chúng tôi nghĩ rằng được trốn vào một góc yên tĩnh bất cứ lúc nào mà ông ấy thích thì sẽ rất vui. “Cái rương đâu, Xemerius?” “Bên trái. Giữa mấy bức tường.” Trong ánh sáng mờ mờ, tôi không thấy Xemerius rõ lắm, nhưng nghe thì có vẻ nó đang cậy cái gì đó ra khỏi răng. “Xemerius hơi bị xoắn lưỡi,” Nick nói. “Em sẽ gọi nó là Xemi. Hoặc là Merry. Em có thể vào trong lấy cái rương không?” “Nó ở bên trái,” Tôi nói. “Xoắn cái lưỡi mi ấy,” Xemerius nói. “Shemi hay là Merry, không đời nào! Ta xuất thân từ ròng rõi quể hùng mạnh, và têng của trúng ta…” “Cậu mắc cái gì trong mồm à?” Xemerius nhổ nước bọt và bặm môi. “Hết rồi. Tớ ăn con bồ câu ngủ trên nóc nhà. Lông vũ ngu ngốc.” “Nhưng cậu đâu có ăn được!” “Cậu chả biết quái gì, nhưng cứ thích ý kiến ý cò!” Xemerius đáp, vẻ bị xúc phạm. “Còn chả cho tớ ăn một con bồ câu nhỏ!” “Cậu làm gì ăn được bồ câu,” Tôi nhắc lại. “Cậu là một con ma.” “Tớ là quỷ! Tớ có thể ăn bất cứ thứ gì tớ thích! Có lần tớ đã ăn cả một ông mục sư. Đủ cả áo lễ và các thứ. Tại sao cậu nhìn tớ ngờ vực như thế?” “Hay là cậu canh xem có ai đến không đi?” “Này, sao cậu không tin tớ?” Nick đã trèo xuống những bậc thang dẫn đến phòng tắm và đang chiếu đèn pin dọc theo tường. “Em không thấy gì cả.” “Chiếc rương nằm trong bức tường. Trong cái lỗ hổng ấy, đầu đất,” Xemerius nói. “Và tớ không nói dối. Nếu tớ nói tớ đã ăn một con bồ câu, thì là tớ đã ăn một con bồ câu thật.” “Nó ở trong một cái lỗ trên tường,” Tôi bảo Nick. “Nhưng em có thấy viên gạch lỏng nào đâu.” Thằng em tôi đã quỳ xuống sàn, ấn ấn tay vào tường để kiểm tra. “Xin chào-o-o, tớ đang nói chuyện với cậu đấy!” Xemerius nói. “Cậu đang bơ tớ đấy à, đồ khóc nhè?” Khi tôi không trả lời, nó nói, “Thôi được rồi, thì đó là bồ câu ma. Như nhau cả.” “Bồ câu ma, cậu đang cố tỏ ra vui tính à? Kể cả nếu có bọn bồ câu ma, và tớ chưa bao giờ thấy con nào, cậu vẫn không thể ăn chúng. Ma không thể giết nhau.” “Bức tường này chắc như đá ấy,” Nick nói. Xemerius khịt mũi tức giận. “Thứ nhất, kể cả bồ câu đôi lúc cũng quyết định ở lại trái đất và ám nó, đừng hỏi vì sao. Có lẽ chúng nó còn ân oán chưa giải quyết với một con mèo ở đâu đó. Thứ hai, làm ơn nói cho tớ biết làm sao cậu phân biệt được bồ câu ma với lũ bồ câu khác. Và thứ ba, cuộc đời làm ma của chúng sẽ kết thúc khi tớ ăn chúng. Bởi vì tớ đã nói với cậu không biết bao nhiêu lần rồi, tớ không phải một con ma bình thường. Tớ là quỷ! Có thể tớ không làm được nhiều thứ lắm trong thế giới của cậu, nhưng trong thế giới ma quỷ, tớ cũng là sao đấy. Bao giờ cậu mới chịu hiểu đây?” Nick đứng dậy, giơ chân đá bức tường mấy cái. “Không, chúng ta chẳng làm được gì đâu.” “Ssh! Đừng làm thế, ầm ĩ quá.” Tôi thò đầu vào buồng tắm, và nhìn Xemerius quở trách. “Ờ thì cậu là sao. Tuyệt. Giờ thế nào?” “Ý cậu là sao? Tớ chưa nói câu nào về gạch lỏng nhé.” “Thế thì làm sao chúng ta lấy được cái rương?” “Với búa và dùi đục.” Đó là một câu trả lời rất có ích, chỉ có điều, không phải Xemerius nói, mà là ông Bernhard. Tôi sợ cứng người. Ông Bernhard đứng lù lù ở đó, chỉ cách tôi vài bước chân. Tôi có thể thấy cặp kính gọng vàng của ông lấp lánh trong bóng tối. Và răng ông nữa. Lẽ nào ông đang cười? “Ôi, khỉ!” Xemerius bối rối tới mức nó phun cả nước ra tấm thảm trên bậc thang. “Chắc ông ấy phải hít gà qua mũi thì mới nhanh thế. Hoặc là phim quá dở. Dạo này cậu chẳng thể dựa dẫm vào Clint Eastwood được nữa rồi.” Đen đủi là tôi không thể nói gì ngoài câu: “S… s… sao cơ?” “Một cái búa với một cái dùi sẽ là giải pháp tốt nhất,” Ông Bernhard bình tĩnh nhắc lại. “Nhưng ta muốn gợi ý rằng cháu nên hoãn việc này lại. Chỉ là để không phải đánh thức cả gia đình dậy khi cháu lấy chiếc rương ra khỏi chỗ giấu mà thôi. À, ta cũng thấy cả cậu Nick ở đây nữa.” Ông nhìn vào chùm sáng chiếc đèn pin của Nick mà không chớp mắt. “Chân trần! Hai đứa sẽ ốm chết mất.” Bản thân ông thì đang đi dép trong nhà và mặc một chiếc áo ngủ thanh lịch thêu hai chữ WB, (Walter? William? Wilfred?) tôi luôn nghĩ ông Bernhard là một người không tên. “Sao ông biết bọn cháu đang tìm một chiếc rương?” Nick hỏi. Giọng nó không run, nhưng nhìn đôi mắt mở to của nó, tôi có thể thấy nó cũng sửng sốt chẳng kém gì tôi. Ông Bernhard chỉnh gọng kính. “Ta biết được vì chính ta đã giấu chiếc… ờ… rương kia ở đó. Nó là một chiếc hộp gỗ khảm khá giá trị, một món đồ cổ từ đầu thế kỷ 18, thuộc sở hữu của ông ngoại hai đứa.” “Trong đó có gì thế ạ?” Tôi hỏi, phát hiện ra cuối cùng mình cũng có thể nói được thành tiếng. Ông Bernhard nhìn tôi với ánh mắt khiển trách. “Theo lẽ thường, tất nhiên ta đã không có quyền hỏi câu đó. Ta chỉ đơn giản là giấu chiếc rương theo ủy thác của ông chủ.” “Lão ấy không thể nói như vậy với tớ,” Xemerius cau có. “Không thể, khi mà lão ấy đang chạy quanh chõ mũi vào tất cả mọi chuyện. Và lẻn đến đây sau khi đánh lừa, gây cho người ta cảm giác an toàn giả tạo với món thịt gà nguội. Nhưng mà đều là lỗi của cậu cả đấy, bình tưới cây ngu ngốc ạ! Nếu mà cậu tin tớ thì cái ông già hay mất ngủ kia chẳng bao giờ đánh úp bọn mình như thế này được!” “Ta sẽ, tất nhiên, thấy rất vui khi được giúp các cháu lấy lại chiếc rương,” Ông Bernhard tiếp tục. “Nhưng tốt nhất là lấy nó vào tối nay, khi bà ngoại và bác Glenda của các cháu đến Câu lạc bộ Rotary[3]. Vì vậy, bây giờ ta đề nghị tất cả hãy trở về giường. Dù sao thì sáng mai cả hai đều phải đi học.” “Đúng đấy, thế rồi trong lúc ấy lão ta sẽ đi đào cái thứ đó ra khỏi bức tường,” Xemerius gào lên. “Rồi lão ấy có thể vơ hết đống kim cương và để vài quả óc chó nhăn nheo héo quắt lại cho chúng ta. Tớ biết lắm.” “Đừng có ngốc thế,” Tôi lẩm bẩm. Nếu ông Bernhard muốn làm thứ gì tương tự thì ông đã có thể làm từ lâu rồi, bởi vì không có ai biết gì về chiếc rương cả. Có thứ quái quỷ gì trong đó mà ông ngoại lại muốn xây luôn nó vào tường nhà nhỉ? “Tại sao ông muốn giúp bọn cháu?” Nick hỏi thẳng thừng, vượt trước tôi một bước với câu hỏi ấy. “Bởi vì ta thành thạo cách dùng búa và dùi đục,” Ông Bernhard nói. Rồi ông nói thêm, giọng càng nhỏ thêm, “Và bởi vì, đáng tiếc thay, ông chủ không còn ở đây để giúp Gwendolyn.” Đột nhiên tôi lại thấy khó thở, và phải cố kìm dòng nước mắt đang chực phun ra. “Cảm ơn ông,” Tôi thì thào. “Đừng vui mừng quá sớm. Ta e là chiếc chìa khóa rương đã… bị mất. Và ta thực sự không biết làm sao để dùng búa tạ với một thứ đồ cổ đẹp đẽ và quý giá như thế đây,” Ông Bernhard nói và thở dài. “Nghĩa là ông sẽ không nói với mẹ cháu và quý bà Arista điều gì đúng không?” Nick hỏi. “Không, nếu hai đứa đi ngủ ngay bây giờ.” Tôi thấy răng ông Bernhard lóe lên trong bóng tối một lần nữa trước khi ông quay lưng và bước lên nấc thang. “Buổi tối vui vẻ, và cố ngủ đi một chút nhé.” “Chúc ngủ ngon, ông Bernhard,” Nick và tôi lẩm bẩm. “Lão người xấu già khú!” Xemerius nói. “Lão đừng nghĩ tớ sẽ để lão ra khỏi tầm mắt.” Hoàn hảo, Vòng tròn Huyết hội sẽ tìm thấy, Vĩnh hằng, hòn đá tiên tri sẽ trói chặt. Sức mạnh mới sẽ sống dậy trong người trẻ tuổi vào giây phút ấy, Cho một kẻ bất tử, bởi hắn nắm toàn bộ quyền lực. Nhưng hãy cảnh giác: khi ngôi sao thứ mười hai hiển hiện, Cuộc đời hắn trên mặt đất sẽ trở về đúng lẽ tự nhiên. Và nếu người trẻ tuổi bị hủy hoại, cây sồi sẽ đứng vững Tới tận cùng của thời gian, bắt rễ sâu vào lòng đất. Khi ánh sao tắt, đạỉ bàng sẽ vươn cánh Hoàn thành giấc mộng cổ xưa đầy ma thuật. Một ngôi sao sẽ vụt tắt trên tầng không, Nếu vì tình yêu nó chọn cái chết. Trích mật ký của bá tước Saint Germain. CHƯƠNG 2 “Thế nào?” Cynthia Dale, đứa bạn cùng lớp đứng đóng chắn trước mặt chúng tôi, tay chống nạnh, khuỷu tay khuỳnh khuỳnh, choán cả lối lên tầng. Những đứa cần đi lên phải dạt sang hai bên, càu nhàu vì ùn tắc. Nhưng Cynthia tỉnh bơ. Nó xoắn cái cà vạt đồng phục xấu xí của trường Saint Lennox giữa mấy ngón tay, làm bộ mặt cực kỳ nghiêm trọng. “Có thể biết các cậu định mặc trang phục gì không?” Sinh nhật của nó vào cuối tuần này, và nó đã mời chúng tôi đến bữa tiệc hóa trang hằng năm của mình. Nó làm chúng tôi điên mất. Leslie lắc đầu. “Dạo này có phải cậu bị rồ hơn không hả Cyn? Ý tớ là, ban đầu cậu cũng rồ rồi, nhưng dạo này còn tệ hơn. Người ta không chạy quanh hỏi khách khứa sẽ mặc gì đến tiệc hóa trang đâu!” “Chính xác. Trừ phi cậu muốn ăn tiệc một mình,” Tôi nói, cố lách qua Cynthia. Nhưng tay nó đã phi ra, nhanh như chóp, tóm chặt tay tôi. “Tớ đã nghĩ ra những chủ đề thật thú vị cho tiệc hóa trang của mình, nhưng lúc nào cũng có mấy kẻ phá hoại không tuân theo luật,” Nó nói. “Nhớ buổi tiệc Carnival Động vật không, có đứa đã đến với một cọng lông trên đầu và bảo là hóa trang thành gà? Phải đấy, cậu nên thấy hối lỗi đi Gwenny! Tớ biết đó là ý tưởng của ai.” “Có phải mẹ ai cũng thích làm mặt nạ voi bằng giấy đâu cơ chứ,” Leslie nói. Bực mình thật, tôi chỉ lầm bầm, “Để bọn tớ qua!” Tôi chả buồn nói bữa tiệc của nó là một vấn đề bé nhỏ thế nào với tôi lúc này, nhưng đằng nào tôi cũng muốn mọi người có thể thấy ngay điều đó trên mặt tôi. Gọng kìm trên tay tôi siết lại. “Và rồi còn bữa tiệc Bãi biển Barbie nữa.” Một cái rùng mình thấy rõ chạy dọc sống lưng Cynthia trước khi nó nói ra câu đó, lý do hẳn cũng chính đáng thôi. Nó hít một hơi sâu. “Lần này, tớ muốn có sự đảm bảo. ‘Cỏ xanh thật xanh’ là một chủ đề tuyệt vời, và tớ không muốn ai phá hỏng bữa tiệc này. Cho cậu biết, sơn móng tay màu xanh bóng hay chỉ một cái khăn màu xanh đều không được.” “Nếu tớ cho cậu một con mắt thâm tím thì cậu có để tớ qua không?” Tôi gắt. “Chắc đến bữa tiệc nó cũng kịp chuyển thành màu xanh đấy.” Cynthia giả vờ chưa nghe thấy tôi. “Tớ sẽ đóng vai một cô gái bán hoa với bộ váy xanh lá cây và một cái giỏ hoa xanh. Sarah sẽ đóng một quả ớt xanh. Nó nói bộ cánh của nó sẽ rất tuyệt, nhưng tớ chưa biết gì thêm, vì bỗng nhiên nó phải đi toilet. Gordon sẽ làm một cánh đồng hoa cúc. Nó sẽ trét đầy đất giả lên người.” “Cyn…” Chẳng thể nào tránh nổi nó. “Và Charlotte đặt một bộ váy ở chỗ thợ may, nhưng đó vẫn là bí mật. Phải không, Charlotte?” Chị họ Charlotte của tôi, kẹt cứng giữa một đám học sinh, cố dừng lại, nhưng chị ta vẫn phải đi theo dòng người lên cầu thang. “Không khó đoán lắm đâu,” Chị nói khi đi ngang qua. “Tớ sẽ chỉ nói là có rất nhiều vải tuyn và vài sắc xanh khác nhau. Và có vẻ là tớ sẽ tới cùng Vua Oberon[4].” Chị ta buông câu cuối cùng qua vai. Và chị ta còn nhìn tôi với cái kiểu cười kỳ lạ, y hệt như trong bữa sáng, khi mà tôi muốn ném một quả cà chua vào cái bản mặt đó. “Tốt lắm, Charlotte,” Cynthia nói, vẻ hài lòng. “Mặc đồ xanh và đưa theo một cậu con trai. Đó là kiểu khách mà tớ thích.” Hẳn là cậu trai mà Charlotte dẫn đến không phải là… không, không thể. Gideon sẽ không bao giờ gắn tai nhọn. Có không nhỉ? Tôi nhìn Charlotte lướt qua đám đông như một bà hoàng. Chị ta đã tết mái tóc đỏ óng mượt của mình thành một kiểu đuôi sam hoài cổ, và lũ con gái lớp dưới thì đang nhìn theo với vẻ căm ghét pha lẫn ngưỡng mộ chỉ có thể xuất phát từ lòng ghen tị thuần túy. Sáng mai chắc sẽ có vài kiểu tóc tết dễ thương xuất hiện trên sân trường đây. “Thế các cậu sẽ mặc gì và dẫn theo ai?” Cynthia hỏi. “Bọn này sẽ làm người sao Hỏa tí hon màu xanh, hỡi Nữ chủ tiệc vĩ đại nhất mọi thời đại,” Leslie nói với một cái thở dài. “Và cậu sẽ phải đợi để xem bọn này dẫn ai đến. Đấy là bất ngờ.” “Được thôi,” Cynthia thả tay tôi ra. “Người sao Hỏa xanh tí hơn. Cũng không hấp dẫn lắm, nhưng mà độc đáo. Đừng hòng đổi ý.” Nó tia được nạn nhân tiếp theo mà không buồn chào tạm biệt. “Katie! Chào! Đứng lại đó. Về bữa tiệc của tớ!” “Người sao Hỏa tí hon màu xanh?” Tôi nhắc lại và nhìn sang chỗ góc tường mà James, con ma của trường, hay đứng. Sáng nay ở đó trống không. “Chúng ta phải rũ nó đi bằng cách nào đó chứ,” Leslie nói. “Bữa tiệc của nó! Ai muốn dây vào mấy thứ đó hả?” “Có phải tớ nghe thấy gì đó về một bữa tiệc không? Tớ sẽ đến!” Em trai Raphael của Gideon xuất hiện đằng sau chúng tôi, chen vào giữa hai đứa với vẻ mặt đầy tự tin, kéo tay tội và đặt tay kia lên eo Leslie. Hắn đã buộc cà vạt theo một cách kỳ lạ nào đó. Thực ra thì hắn chỉ thắt nút hai bên lại. “Thế mà tớ cứ nghĩ là người Anh các cậu không thích tiệc tùng lắm! Tại nhớ đến giờ đóng cửa quán rượu và mấy thứ đại loại.” Leslie hất tay hắn ra. “E là tôi phải làm cậu thất vọng rồi. Tiệc hóa trang thường niên của Cynthia không phải loại tiệc cậu thích. Trừ phi cậu thích kiểu tiệc mà bố mẹ soi bàn buffet như diều hâu để không ai có thể pha rượu vào thức uống hay trộn vào đồ tráng miệng.” “Ừa, bố mẹ Cynthia có làm thế, nhưng họ luôn cố chơi vài trò vui vẻ với chúng ta,” Tôi bảo vệ họ. “Và thường thì họ là những người duy nhất khiêu vũ.” Tôi liếc sang Raphael, và nhanh chóng rời mắt đi bởi mặt hắn thực sự rất giống Gideon. “Thực lòng thì, tớ ngạc nhiên là Cyn chưa mời cậu.” “Cậu ta mời rồi.” Raphael thở dài. “Tớ bảo tớ có việc khác. Tớ ghét mấy bữa tiệc có chủ đề để phải ăn diện. Nhưng nếu mà tớ biết hai cậu sẽ đi…” Tôi sắp sửa đề nghị thắt lại cà vạt giúp hắn cho tử tế (nội quy trường khá hà khắc trong vấn đề này), thì hắn đã lại kịp vòng tay qua eo Leslie và vui vẻ nói, “Cậu đã nói với Gwendolyn rằng chúng ta đã tìm ra địa điểm kho báu trong trò chơi kia chưa? Cậu ấy phát hiện ra chưa?” “Rồi,” Leslie nói ngắn gọn. Tôi để ý nó không rũ Raphael ra. “Vậy thì, trò chơi thế nào rồi, mignonne?” “Nó không hẳn là một...” Tôi bắt đầu, nhưng Leslie ngắt lời. “Tôi xin lỗi, Raphael, nhưng cậu không thể chơi nữa,” Nó nói lạnh lùng. ẳ “Sao cơ? Ôi, thôi nào, chẳng công bằng chút nào!” Tôi cũng thấy thế không công bằng lắm. Dù sao thì, chúng tôi không chơi trò chơi mà phải đẩy Raphael tội nghiệp ra ngoài, và cho đến giờ thì hắn vẫn toàn giúp bọn tôi. “Leslie chỉ muốn nói là…” Leslie ngắt lời tôi lần nữa. “Đời là bất công,” Nó nói, thậm chí còn lạnh lùng hơn. “Cậu có thể cảm ơn ông anh cậu về điều đó. Tôi chắc cậu biết rằng chúng ta ở hai bên chiến tuyến của cái thứ mà cậu gọi là trò chơi. Và bọn tôi không thể để cậu truyền thông tin sang cho Gideon được. Cái kẻ, tiện thể, là một tên khôô… một người không được dễ chịu cho lắm.” “Leslie!” Nó điên sao? “Cái gì? Vụ săn kho báu này có liên quan đến anh tớ và du hành thời gian sao?” Raphael đã buông Leslie ra và đứng đó như thể mọc rễ xuống đất. “Anh ấy đã làm gì hai người?” “Đừng có ngạc nhiên thế!” Leslie nói. “Tôi chắc là cậu và Gideon nói với nhau về tất cả mọi thứ.” Nó nháy mắt với tôi, nhưng tôi chỉ có thể nhìn nó chằm chằm, bối rối. “Không, bọn tớ không nói chuyện!” Raphael kêu lên. “Bọn tớ gần như còn không dành chút thời gian nào cùng nhau. Gideon luôn đi đâu đó với các nhiệm vụ bí mật gì gì đó. Và nếu tình cờ có ở nhà thì anh ấy cũng vùi đầu vào đống giấy tờ thần bí, không thì cũng ngồi nhìn chằm chằm vào khoảng không. Hoặc là, tệ hơn nữa, Charlotte sẽ tới và làm tôi phát điên.” Trông hắn buồn đến mức tôi muốn vòng tay ôm hắn một chút, đặc biệt là khi hắn nhỏ giọng nói tiếp, “Tớ cứ nghĩ ta là bạn. Chiều qua tớ còn thấy chúng ta hợp nhau mà.” Leslie, hoặc có lẽ tôi nên gọi là cái tủ lạnh bạn tôi, chỉ nhún vai. “Phải, ngày hôm qua rất tuyệt. Nhưng thành thực nhé. Chúng ta gần như không biết nhau. Cậu không thể nói về tình bạn ngay được.” “Vậy là cậu chỉ đang lợi dụng tớ để tìm hiểu cái tọa độ đó,” Raphael nói, nhìn thẳng vào Leslie, hy vọng con bé sẽ phản đối. “Như tôi đã nói, đời rất bất công.” Rõ ràng, với Leslie câu chuyện đã kết thúc. Nó lôi tôi đi tiếp. “Gwen, chúng ta phải nhanh lên,” Nó nói. “Hôm nay cô Counter sẽ giao đề luận. Và tớ không muốn dính phải chủ đề nghiên cứu đồng bằng châu thổ phía Đông sông Ganges.” Tôi liếc Raphael đang trông có vẻ sửng sốt. Hắn cố cho tay vào túi quần, chỉ để phát hiện ra là quần đồng phục không có túi. “Ôi, Leslie, cậu nhìn hắn kìa!” Tôi nói. “Hoặc là chủ đề dân tộc thiểu số với những cái tên đọc xoắn hết cả lưỡi!” Tôi tóm tay nó như ban nãy Cynthia tóm tay tôi. “Sao vậy?” Tôi thì thầm. “Cậu là một tia nắng rực rỡ, phải không nào? Tại sao phải làm thế với Raphael? Đây là một phần kế hoạch nào đó tớ không biết à?” “Tớ chỉ muốn chơi an toàn thôi.” Leslie nhìn bảng tin qua vai tôi. “Ôi, tuyệt! Có một quảng cáo mới này, thiết kế trang sức! Nhân tiện, nhắc đến trang sức,” Nó nói thêm rồi vạch cổ áo lôi ra một sợi dây chuyền nhỏ, “Nhìn đây! Tớ đang đeo chiếc chìa khóa cậu mang về từ mấy chuyến du hành thời gian, làm mặt dây chuyền. Có tuyệt không? Tớ nói với mọi người đó là chìa khóa mở cửa trái tim mình.” Kỹ thuật đánh lạc hướng của nó không nhằm nhò gì với tôi. “Leslie, Raphael không có lỗi nếu anh hắn là một thằng khốn. Và tớ tin hắn khi hắn nói không biết chút bí mật nào của Gideon. Hắn mới tới Anh và chưa quen ai cả.” “Hẳn là hắn sẽ thấy có cả đống người thích xúm chăm sóc hắn.” Leslie tiếp tục nhìn thẳng về phía trước. Mấy đốm tàn nhang trên mũi nó nhảy nhót trong ánh nắng. “Cậu đợi đó mà xem. Giờ này ngày mai, hắn đã quên hết về tớ rồi, và hắn sẽ gọi một con bé nào đó khác là mignonne.” “Phải, nhưng…” Chỉ khi nhìn thấy vệt phớt hồng trên má Leslie, tôi mới chợt nhận ra. “Ồ, tớ hiểu rồi! Lạnh lùng với em trai hắn chả liên quan gì đến Gideon cả! Chỉ là cậu nhát, sợ bị mê Raphael chứ gì!” “Vớ vẩn. Dù sao thì hắn cũng không phải kiểu tớ thích.” À há. Rõ rồi. Mà tôi là bạn thân nhất của Leslie, tôi biết nó cả tỉ năm rồi, hơn nữa cái câu đó sẽ chẳng lừa được ai, kể cả Cynthia. “Thừa nhận đi, Leslie. Ai sẽ tin điều đó chứ?” Cuối cùng Leslie cũng rời mắt khỏi bảng tin và tặng tôi một nụ cười rộng ngoác. “Thì sao? Chúng ta không thể cùng lúc chịu cảnh nhũn não do hormone, phải không nào? Một trong hai đứa không thể chịu trách nhiệm về hành động của mình đã quá đủ rồi.” “Cảm ơn nhiều.” ẳ “Đúng mà! Cậu chẳng nghĩ đến thứ gì khác được ngoài Gideon, và thế là cậu không thấy tình huống nghiêm trọng thế nào. Cậu cần ai đó tỉnh táo, như tớ chẳng hạn. Và tớ sẽ không đổ trước gã người Pháp đó.” “Ôi, Leslie!” Tôi ôm nó thật chặt. Không ai, không có ai trên thế giới này có một người bạn tuyệt vời, điên rồ, thông minh như tôi đang có. “Nhưng thật tệ nếu vì tớ mà cậu phải từ bỏ cơ hội may mắn được yêu.” “Cậu lại thế rồi, lại bắt đầu nói quá.” Leslie hạ giọng và thở vào tai tôi, “Nếu giống ông anh, hắn sẽ đập tan quả tim tớ sau một tuần là muộn nhất.” “Thì?” Tôi nói, gõ nhẹ một cái lên tay nó. “Nó làm từ bánh hạnh nhân đúng không, nên cậu có thể nặn lại nó bất cứ lúc nào cậu thích!” “Đừng cười tớ. Cái đống tim hạnh nhân đấy là ẩn dụ, và tớ rất tự hào về nó.” “Tất nhiên rồi. Một ngày nào đó lời cậu sẽ được trích dẫn trên toàn thế giới. ‘Trái tim không thể tan vỡ vì chúng làm từ bánh hạnh nhân.’ Trích từ sách Trí thông minh và sự thông thái của Leslie Hay.” “Sai rồi, tôi e là vậy,” Một giọng nói vang lên sau lưng chúng tôi. Đó là thầy tiếng Anh của tôi, thầy Whitman, con người trông quá điển trai so với một thầy giáo. Tôi muốn hỏi thầy biết gì về trái tim phụ nữ, nhưng tốt nhất là không đôi co với thầy Whitman. Giống cô Counter, thầy rất hay giao bài tập làm thêm về những chủ đề chả liên quan, và dù trông thường thường vậy thôi, thầy có thể trở nên nghiêm khắc cực kỳ. “Sai gì cơ ạ?” Leslie hỏi, ném văng sự thận trọng cho gió cuốn. Thầy nhìn chúng tôi, lắc đầu. “Tôi nghĩ chúng ta nên xem lại sự khác nhau giữa ẩn dụ, so sánh, biểu tượng và hình ảnh. Em có thể gọi nó là một phép ẩn dụ để nói về trái tim tan vỡ, nhưng làm sao em phân loại được bánh hạnh nhân?” Trời ạ, ai trên trái đất này quan tâm đến những thứ đó chứ? Và từ khi nào thì lớp học bắt đầu ngoài hành lang vậy? “Một biểu tượng… ờm… một phép so sánh ạ?” Tôi hỏi, đầy hy vọng. Thầy Whitman gật đầu. “Đúng, dù không phải là một so sánh hay,” Thầy nói và cười lớn. Rồi thầy nghiêm túc trở lại. “Em trông có vẻ mệt mỏi, Gwendolyn. Em đã thức cả đêm suy nghĩ, chống lại cả thế giới, tôi nói có đúng không?” Ô, liên quan thật đấy! Và tôi có thể sống sót mà không cần đến cái giọng thương hại kia. Thầy Whitman thở dài. “Tất cả những thứ này có vẻ quá choáng với em.” Thầy xoay xoay chiếc nhẫn triện của Đội Cận vệ trên tay. “Cũng không lạ. Có lẽ bác sĩ White có thể kê cho em thứ thuốc gì đó để ngủ được vào buổi tối.” Tôi ném về phía thầy một cái nhìn tức giận, còn thầy thì gửi tôi một nụ cười khích lệ trước khi quay lưng bước vào lớp học. “Tớ nghe nhầm, hay đúng là thầy Whitman vừa gợi ý cho tớ uống thuốc ngủ đấy?” Tôi hỏi Leslie. “Ngay sau khi bảo trông tớ tệ đến mức nào, tớ nghĩ vậy.” “Đúng kiểu thầy rồi còn gì!” Leslie khịt mũi. “Thầy ấy muốn cậu là con rối của Đội Cận vệ vào ban ngày và đánh thuốc cậu vào ban đêm để cậu khỏi nghĩ ra ý tưởng gì. Hừm, không lừa được chúng ta.” Nó hào hứng gạt một lọn tóc khỏi mặt. “Ta sẽ cho đám Cận vệ đó thấy rằng họ đã đánh giá thấp cậu.” “Ừm,” tôi nghi ngờ nói, nhưng Leslie nhìn tôi với quyết tâm không gì lay chuyển nổi. “Chúng ta sẽ vạch ra kế hoạch thiên tài vào giờ nghỉ đầu tiên trong toilet nữ.” •§• Cuối cùng thì, thầy Whitman đã sai. Tôi không có vẻ mệt mỏi (tôi đã kiểm tra lại trong gương vài lần), và kỳ lạ là tôi cũng không thấy mệt. Sau cuộc săn lùng kho báu ban đêm, tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, và lần này, những cơn ác mộng đã tránh đi. Thậm chí, tôi đã có thể có một giấc mơ đẹp, bởi vì trong những khoảnh khắc kỳ diệu giữa ngủ và thức, tôi thấy tự tin và hy vọng. Mặc dù, đúng là khi tôi tỉnh giấc, sự thật u ám đã trở lại trong tâm trí tôi, trước tiên là: Gideon chỉ giả vờ yêu tôi. Tuy nhiên, một chút hy vọng đó đã sót lại đến sáng nay. Có lẽ bởi vì tồi đã ngủ được vài giờ mà không bị đánh thức. Hoặc cũng có thể vì trong giấc mơ, tôi đã nhớ ra rằng ngày nay lao phổi có thể chữa được. Hoặc cũng có thể chỉ là tuyến lệ của tôi đã cạn kiệt. “Cậu nghĩ việc ban đầu Gideon muốn tớ yêu anh ta, nhưng rồi anh ta đã yêu lại tớ, kiểu lầm lẫn một chút ấy, có thể không?” Tôi thận trọng hỏi Leslie khi hai đứa thu dọn sách vở sau giờ học. Tôi đã tránh chủ đề này suốt cả buổi sáng, để giữ cái đầu được tỉnh táo khi vạch ra kế hoạch thiên tài vĩ đại kia, nhưng bây giờ đành phải nói ra kẻo không tôi sẽ nổ tung mất. “Có,” Leslie nói sau vài giây lưỡng lự. “Thật sao?” Tôi hỏi, ngạc nhiên. “Có thể đó là điều hắn ta muốn nói với cậu tối qua. Ý tớ là, trong phim chúng mình luôn khó chịu vì mấy cái hiểu lầm vớ vẩn chỉ nhằm tăng thêm độ kịch tính đó, mặc dù chỉ cần một vài từ thôi thì mọi chuyện đã được giải quyết ổn thỏa rồi.” “Chính xác! Đó là lúc cậu luôn hét vào màn hình, Hãy nói cho hắn ta đi, đồ con bò đần độn!” Leslie gật đầu. “Nhưng trong phim, luôn có thứ gì đó cản đường. Con chó cắn đứt cáp điện thoại, cô gái kia đột nhiên cảm thấy xấu tính và không truyền tin, mẹ anh chàng thì nói anh ta đã đi California… cậu biết mấy thứ đó đó.” Nó đưa tôi chiếc lược và nhìn thẳng vào tôi trong gương. “Cậu biết đấy, càng nghĩ về điều này, tớ thấy càng ít khả năng hắn có thể yêu cậu.” Mắt tôi nhòa đi vì nhẹ nhõm. “Trong trường hợp đó, hắn vẫn là một tên khốn, nhưng… nhưng tớ nghĩ tớ có thể tha thứ.” “Tớ cũng vậy,” Leslie nói và cười rạng rỡ. “Tớ có mascara chống nước và son bóng đây. Muốn mượn không?” Ừm, đằng nào cũng đâu có hại gì. •§• Chúng tôi là những đứa cuối cùng rời lớp học. Tâm trạng tôi tốt đến mức Leslie thấy nó có trách nhiệm thúc khuỷu tay vào sườn tôi. “Tớ không muốn phủ khăn ướt lên tâm trạng của cậu đâu, nhưng chúng ta có thể sai. Bởi vì chúng ta đã xem quá nhiều phim tình cảm.” “Phải, tớ biết,” Tôi nói. “Ồ, James kìa.” Hầu hết các học sinh đều đã rời đi, nên chỉ còn lại vài đứa băn khoăn tại sao tôi lại nói chuyện với cái hõm tường trống không. “Xin chào, James!” “Một ngày tốt lành, thưa cô Gwendolyn.” Như thường lệ, anh mặc áo đuôi tôm hoa lá, quần chẽn đến đầu gối, tất màu kem. Anh đi một đôi giày kim tuyến có khóa bạc, cà vạt thì được thắt công phu tới mức không thể nào có chuyện anh đã tự tay thắt nó. Điều kỳ lạ nhất về anh là bộ tóc giả xoăn xoăn, đống phấn trét dày và mấy đốm đen đen như nốt ruồi mà anh đã đính lên mặt. Vì một lý do gì đó tôi không thể hiểu nổi, anh gọi đó là nốt ruồi duyên. Không có cái đống đó, và mặc quần áo bình thường, có thể anh sẽ khá đẹp trai. “Cả buổi sáng nay anh đi đâu vậy, James? Chúng ta có hẹn gặp vào giờ nghỉ thứ hai, anh nhớ chứ?” James lắc đầu. “Tôi ghét con sốt này! Và tôi cũng không thích giấc mơ này chút nào, mọi thứ ở đây thật… thật xấu xí!” Anh thở dài nặng nề và chỉ lên trần nhà. “Tên phản nghệ thuật nào đã sơn đè lên những bức tranh trần thế? Cha tôi đã trả hàng đống tiền cho chúng. Tôi thích cô gái chăn cừu ở giữa vô cùng, mặc dù mẹ tôi nói cô ta ăn mặc hở hang quá.” Anh nhìn tôi đầy phê phán, rồi đến Leslie, mắt anh dừng lại khá lâu trên chiếc váy đồng phục xếp nếp và đầu gối chúng tôi. “Ôi, nếu mẹ tôi biết những người trẻ tuổi trong giấc mơ này ăn mặc thế nào, mẹ sẽ hãi hùng lắm. Chính tôi cũng thấy hoảng. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ chìm trong giấc mộng tưởng trụy lạc đến thế này.” Có vẻ James đang có một ngày khá tồi tệ. Ít nhất Xemerius đã quyết định ngồi ở nhà (James ghét Xemerius). Để canh chừng kho báu và ông Bernhard, nó bảo vậy, nhưng tôi ngờ rằng nó muốn đọc sách trộm qua vai bà Maddy. Bà đang đọc dở một cuốn tiểu thuyết lãng mạn, và nó có vẻ thích quyển đấy. “Trụy lạc! Thật là một lời khen dễ thương, James à,” Tôi dịu dàng nói. Từ lâu tôi đã bỏ việc cô gắng giải thích với James rằng anh đã chết khoảng hai trăm ba mươi năm. Tôi đoán là không ai thích nghe mấy tin kiểu đó. “Bác sĩ Barrow lại vừa trích máu tôi, và thậm chí tôi còn uống được vài giọt nước,” Anh nói tiếp. “Tôi đã hy vọng vào một giấc mơ khác, nhưng Chúa ơi, tôi lại ở đây.” “Và em cũng rất vui được gặp anh,” Tôi nói. “Em sẽ nhớ anh kinh khủng nếu anh biến mất.” James nặn ra một nụ cười. “Ừa, sẽ là dối trá khi phủ nhận rằng tôi có một chút cảm tình với em, thưa cô Gwendolyn. Và giờ, chúng ta sẽ bắt đầu buổi học lễ nghi này ở đâu?” “Em e là không có thời gian, nhưng hãy tiếp tục vào ngày mai, được chứ?” Trên cầu thang, tôi ngoảnh lại. “À, mà tiện thể, James này, tên con ngựa yêu thích của anh vào tháng Chín năm 1782 là gì?” Hai thằng con trai đang đẩy một cái bàn có chiếc máy chiếu đặt bên trên xuôi theo hành lang đứng sững lại. Leslie bật cười khúc khích khi chúng đồng thanh hỏi, “Cậu hỏi tớ à?” “Tháng Chín năm ngoái á?” James hỏi. “Hector, tất nhiên rồi. Hector sẽ luôn là con ngựa yêu thích của tôi. Chú ngựa xám tuyệt nhất mà em có thể tưởng tượng.” “Và món ăn yêu thích của anh là gì?” Bọn con trai với cái máy chiếu nhìn tôi y như thể tôi mất trí. Đến James cũng nhíu mày, “Câu hỏi kiểu gì vậy? Giờ tôi không hề muốn ăn chút nào.” “Thôi kệ. Cái đó đợi ngày mai cũng được. Tạm biệt, James.” “Tao là Finley, con bò ngớ ngẩn,” Một tên đẩy máy chiếu nói, còn tên kia cười nhe nhản tiếp, “Còn tên tớ là Adam, nhưng mà này, tớ không phiền đâu! Cậu có thể gọi tớ là James nếu thích.” Tôi phớt lờ bọn chúng, khoác tay Leslie đi. “Vụ gì vậy?” Nó hỏi trên đường xuống cầu thang. “Khi gặp James ở vũ hội, tớ muốn cảnh báo anh ấy việc mắc đậu mùa,” Tôi giải thích. “Anh ấy mới chỉ hai mốt tuổi. Quá trẻ để chết, cậu nghĩ vậy không?” “Tớ không chắc cậu nên can thiệp vào những thứ như vậy,” Leslie nói. “Cậu hiểu ý tớ mà, số phận, vận mệnh, vân vân” “Nhưng phải có lý do gì đó để anh ấy ám tòa nhà này chứ. Có lẽ vận mệnh của tớ là giúp anh ấy.” “Chính xác thì tại sao cậu phải đến cái vũ hội này vậy?” Leslie hỏi. Tôi nhún vai. “Có vẻ là bá tước Saint Germain nói tớ phải làm vậy trong quyển Mật ký dở hơi kia. Để ông ta tìm hiểu tớ hay gì đó.” Leslie nhướng mày. “Hay gì đó?” Tôi thở dài. “Gì cũng được. Dù sao thì, vũ hội được tổ chức vào tháng Chín 1782, nhưng James không dính đậu mùa trước 1783. Nếu được cảnh báo, có thể anh ấy sẽ tới vùng nông thôn chẳng hạn, khi dịch bệnh bùng phát. Hoặc ít nhất là tránh xa nhà Huân Tước Gì Gì Đó nơi anh ấy nhiễm bệnh ra. Tại sao cậu lại cười nhăn nhở như thế?” “Cậu sẽ nói mình đến từ tương lai, và cậu biết anh ta sắp nhiễm đậu mùa, và để làm bằng chứng thì cậu sẽ nói tên con ngựa yêu thích của anh ta?” “Ừm… thì, tớ cũng chưa nghĩ ra chi tiết của kế hoạch.” “Tiêm vắc xin sẽ tốt hơn,” Leslie nói và đẩy cánh cửa dẫn ra vườn trường. “Nhưng thế cũng không dễ hơn.” “Không. Mấy ngày này có cái gì dễ dàng đâu cơ chứ?” Tôi nói và rên lên. “Ôi, khỉ thật!” Charlotte đang đứng bên chiếc limo đưa tôi đến trụ sở của Đội Cận vệ, nơi mà bây giờ tôi phải đến mỗi ngày. Và việc này chỉ có một ý nghĩa: tôi sẽ phải chịu thêm tra tấn bởi điệu minuet, cách nhún chân chào đúng, và ngày tháng của cuộc vây đảo Gibralta[5]. Những hiểu biết có ích cho một ai đó đi dạ hội vào năm 1782, hay ít nhất là mấy ông cận vệ nghĩ vậy. Kỳ lạ thay, vào ngày hôm nay, điều đó chẳng khiến tôi có chút cảm xúc nào cả, ít nhất là vậy. Có lẽ là bởi tôi quá phấn khích với ý nghĩ về cuộc gặp tiếp theo với Gideon. Leslie nheo mắt. “Gã nào đứng với Charlotte kia?” Cô chỉ sang anh chàng tóc đỏ, ngài Marley, một Môn sinh Đệ nhất, người mà điểm nổi bật duy nhất ngoài cái danh hiệu hoành tráng kia là khả năng đỏ mặt ra khắp khuôn mặt và cả hai tai. Anh ta đứng bên Charlotte, cúi đầu. Tôi tiết lộ với Leslie điều đó, rồi nói thêm, “Tớ nghĩ anh ta sợ Charlotte… Nhưng mà vẫn nghĩ chị ta tuyệt lắm.” Charlotte đã trông thấy chúng tôi, liền nôn nóng vẫy tay. “Ít nhất thì màu tóc của họ cũng hợp nhau,” Leslie nói và ôm tôi. “Chúc may mắn. Hãy nhớ những gì chúng ta đã thảo luận, cẩn thận nhé. À, và làm ơn chụp ảnh ngài Giordano kia cho tớ.” “Giordano, chỉ là Giordano thôi, làm ơn,” Tôi nói, giả giọng mũi của ông thầy dạy nhảy. “Gặp lại tối nay nhé.” “Ừ, và Gwenny? Đừng khiến mọi thứ quá dễ dàng cho Gideon, được không?” “Cuối cùng!” Charlotte gắt khi tôi đến bên chiếc xe. “Bọn chị đã đợi ở đây mãi rồi đấy. Với bao nhiêu người nhòm ngó.” “Như thể điều đó sẽ làm phiền chị ấy. Xin chào, ngài Marley, anh khỏe không?” “Ờ. Khỏe. Ờ… cô có khỏe không?” Và anh chàng Marley đã kịp đỏ mặt. Tôi thấy thương anh ta. Tôi cũng dễ đỏ mặt, nhưng với ngài Marley, máu không chỉ đi lên má, mà tai và cổ anh ta cũng trở thành màu cà chua chín. Kinh khủng! “Rất khỏe, tất nhiên rồi,” Tôi nói, mặc dù tôi rất muốn nhìn thấy mặt anh ta nếu tôi nói “tệ như quỷ”. Anh ta mở cửa xe cho chúng tôi, và Charlotte duyên dáng ngồi xuống ghế sau. Tôi ngồi xuống ghế đối diện. Chiếc xe bắt đầu chuyển bánh. Charlotte nhìn ra ngoài cửa sổ, và tôi nhìn chằm chằm vào khoảng không, băn khoăn tự hỏi liệu có nên tỏ ra lạnh lùng và bị xúc phạm khi gặp lại Gideon, hay là hoàn toàn thân thiện nhưng lãnh đạm. Tôi ước mình đã bàn về chuyện đó với Leslie. Khi chúng tôi đi được nửa đường Strand, Charlotte thôi không nhìn quang cảnh nữa mà chuyển sự chú ý sang mấy cái móng tay. Rồi đột nhiên chị ta nhìn lên, soi xét tôi từ đầu đến chân, hung hăng hỏi, “Em đi tiệc của Cynthia với ai?” Chị ta rõ ràng là đang muốn đánh nhau. Thật may chúng tôi đã sắp đến nơi. Chiếc limo đã rẽ vào khu vực đỗ xe trên đường Crown Office. “Hừm,” Tôi nói. “Em cũng chưa quyết định. Hoặc là Ếch Kermit hoặc là Shrek, nếu hắn có thời gian. Còn chị?” “Gideon nói sẽ đi với chị,” Charlotte nói, nhìn tôi đầy ẩn ý. Chắc chắn chị ta đang đợi tôi phản ứng. “Ừm, anh ta thật tốt,” Tôi nói một cách thân thiện, mỉm cười. Việc đấy không khó chút nào, bởi vì bây giờ tôi đã hiểu mọi chuyện với Gideon là như thế nào. “Nhưng chị không biết có nên chấp nhận lời mời của anh ấy không.” Charlotte thở dài, nhưng vẻ ngấm ngầm cảnh giác trong mắt chị ta vẫn như vậy. “Chị chắc anh ấy rất ghét ở cùng chỗ đám trẻ con đó. Anh ấy phàn nàn với chị đủ nhiều về sự ngây thơ và ngô nghê của mấy đứa mười sáu tuổi…” Trong một tích tắc, tôi cân nhắc việc đơn giản là giữ bình tĩnh nói cho chị ta sự thật. Nhưng kể cả nếu tôi có nói thật, hừm, tôi sẽ không cho chị ta sự thỏa mãn khi ghi điểm. Cái gật đầu của tôi rất thông cảm. “Tuy vậy, anh ấy sẽ có người bạn đồng hành trưởng thành và thông thái là chị, Charlotte, và nếu thế mà còn chưa thỏa mãn thì anh ta luôn có thể trò chuyện nghiêm túc với thầy Dale về những hậu quả kinh khủng của việc tiêu thụ đồ uống có cồn ở người trẻ tuổi.” Chiếc xe phanh lại và đậu vào chỗ đỗ xe riêng ở bên ngoài tòa nhà, nơi hàng thế kỷ qua đã là trụ sở của cộng đồng bí mật của Đội Cận vệ. Tài xế tắt động cơ, cùng lúc đó, Marley nhảy vội ra khỏi ghế trước. Tôi mở được cửa sau của xe vừa trước khi anh ta kịp tới. Giờ thì tôi đã hiểu Nữ hoàng phải cảm thấy gì khi bà thậm chí còn không được tự ra khỏi xe. Tôi xách túi trèo ra khỏi xe, phớt lờ bàn tay chìa ra của ngài Marley, và nói một cách vui vẻ nhất có thể, “Em nghĩ xanh lá cũng là màu của Gideon đấy.” À há! Charlotte không nhúc nhích một thớ cơ mặt nào, nhưng vòng này thì tôi đã thắng. Khi đã bước thêm vài bước và chắc chắn là không ai có thể nhìn thấy, tôi cho phép mình nở một nụ cười đắc thắng. Nhưng, trong giây tiếp theo, nụ cười đông cứng trên mặt tôi. Gideon đang ngồi dưới ánh nắng trên những bậc thang dẫn lên cửa trụ sở Đội Cận vệ. Bố khỉ! Tôi quá bận nghĩ một câu trả lời đích đáng cho Charlotte, quên cả quan sát xung quanh. Quả tim bánh hạnh nhân ngu ngốc của tôi không biết nên thắt lại vì khó chịu hay đập nhanh hơn vì vui sướng. Khi Gideon thấy chúng tôi, hắn đứng dậy phủi bụi khỏi chiếc quần jeans. Tôi đi chậm lại, vẫn cố gắng quyết định xem phải đối xử với hắn thế nào. Cách tiếp cận “thân thiện nhưng lãnh đạm” sẽ không thuyết phục lắm nếu môi dưới tôi còn run rẩy. Không may là cách “lạnh lùng nhưng bị xúc phạm vì lý do rất chính đáng” cũng không thể thực hiện được, khi mà xét đến khao khát được ném mình vào vòng tay hắn. Nên tôi cắn cái môi dưới phản chủ và cố tỏ ra vô cảm nhất có thể. Khi tôi đến gần, tôi thỏa mãn khi thấy Gideon cũng đang cắn môi dưới, và hắn cũng có vẻ hồi hộp. Mặc dù hắn cần cạo râu và mái tóc nâu của hắn có vẻ đã được cào qua bằng ngón tay, không thể nào tin được, tôi lại lần nữa bị cái vẻ ngoài ấy hớp mất hồn. Tôi đứng dưới chân cầu thang, cảm thấy do dự, và chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau trong khoảng hai giây. Rồi ánh mắt hắn chuyển tới tòa nhà đối diện, và hắn chào nó. Ít nhất, tôi cũng không thấy rằng hắn đang nói chuyện với mình. Charlotte vượt qua tôi. Chị ta đặt một tay lên cổ Gideon và hôn lên má hắn. “Xin chào,” Chị nói. Phải công nhận là như thế thì duyên dáng hơn rất nhiều so với việc đứng cắm rễ tại chỗ và nhìn chằm chằm một cách ngu ngốc. Qua ánh mắt của ngài Marley, có vẻ tôi hành động như thể sắp sửa ngất xỉu, bởi anh ta hỏi, “Cô có muốn tôi mang túi hộ không, cô Shepherd?” “Không, cảm ơn, tôi ổn,” Tôi nói. Tôi trấn tĩnh lại, nhặt chiếc túi đã rơi xuống đất lên, và bắt đầu cử động lại. Thay vì hất tóc, lướt qua Gideon và Charlotte với một cái nhìn băng giá, tôi trèo lên những bậc thang với sự nhiệt tình của một con sên sắp chết vì tuổi già. Có thể là Leslie và tôi đã xem quá nhiều phim tình cảm. Nhưng rồi Gideon đẩy Charlotte sang một bên và cầm tay tôi. “Tôi có thể nói vài lời với em được không, Gwen?” Hắn hỏi. Tôi nhẹ nhõm đến mức suýt thì khuỵu cả gối. “Tất nhiên rồi.” Marley lo lắng chuyển từ chân này sang chân kia. “Chúng ta đã hơi muộn rồi,” Anh ta lẩm bẩm, tai đỏ rực. “Anh ta đúng đấy,” Charlotte véo von. “Gwenny phải tập nhảy trước khi vượt thời gian, và anh biết Giordano thế nào nếu bị người ta bắt phải đợi rồi đấy.” Tôi không hiểu sao chị ta có thể làm được, nhưng tràng cười như chuông bạc của chị ta nghe khá thật. “Cô ấy sẽ tới trong mười phút nữa,” Gideon nói. “Không thể đợi lúc khác được sao?” “Tôi nói là mười phút nữa.” Giọng Gideon mấp mé sự thô lỗ thẳng thừng, và Marley có vẻ hoảng hốt. Tôi nghĩ tôi cũng vậy. Charlotte nhún vai. “Tùy anh thôi,” Chị ta nói, hất tóc và lướt qua. Chị ta làm khá tốt. Marley ngoan ngoãn đi theo sau. Khi hai người kia đã biến mất vào sảnh trước của tòa nhà, Gideon có vẻ đã quên mất hắn định nói gì. Hắn tiếp tục nhìn căn nhà ngu ngốc đối diện và lấy tay xoa xoa gáy như thể rất căng thẳng. Cuối cùng chúng tôi cùng hít một hơi sâu. “Tay anh thế nào?” Tôi hỏi, cùng lúc đó Gideon cũng hỏi, “Em ổn chứ?” và điều đó khiến chúng tôi cùng bật cười. “Tay tôi vẫn ổn.” Cuối cùng hắn cũng nhìn tôi. Ôi trời, đôi mắt đó! Đầu gối tôi đột nhiên lại thấy yếu ớt, và tôi thấy thật may là Marley không còn ở đây nữa. “Gwendolyn, tôi rất xin lỗi về tất cả những chuyện này. Tôi… tôi hành xử rất vô trách nhiệm. Em không đáng phải chịu đựng những điều như thế.” Trông hắn ảo não đến mức tôi khó có thể chịu nổi. “Tôi cố gọi điện cho em cả trăm lần tối qua, nhưng máy luôn bận.” Tôi băn khoăn tự hỏi rằng đây có phải lúc để rút gọn cuộc nói chuyện này và buông mình vào vòng tay. Gideon chăng. Nhưng Leslie đã dặn tôi không nên khiến mọi thứ dễ dàng cho hắn. Thành ra tôi chỉ nhướng mày và đợi. “Tôi không muốn tổn thương em, làm ơn hãy tin điều đó,” Hắn nói, và rõ ràng là hắn thực lòng, giọng hắn khàn hẳn đi. “Tối qua trông em buồn và thất vọng kinh khủng.” “Cũng không tệ đến thế,” Tôi khẽ nói. Tôi nghĩ mình có thể được tha thứ vì lời nói dối này. Cũng không cần nhắc đến đống nước mắt tôi đã nhỏ xuống và khao khát mãnh liệt được chết vì lao phổi. “Em chỉ… nó khá là đau…” (Hay đấy, câu này là câu nói giảm của thế kỷ!”) “Cũng khá đau khi nghĩ anh luôn giả vờ, ý em là những nụ hôn, rồi nói anh yêu em…” Tôi bắt đầu thấy ngượng, nên tôi dừng lại. Hắn, nếu có thể, trông còn ăn năn hơn. “Tôi hứa sẽ không có gì như thế xảy ra nữa.” Ý hắn là gì? Tôi không hiểu. “Hừm, bây giờ em đã biết rồi, nên tất nhiên nó sẽ không có tác dụng lần nữa đâu,” Tôi nói, chắc giọng hơn một chút. “Và giữa anh với em, đằng nào đó cũng là một kế hoạch ngu xuẩn. Những người đang yêu không dễ bị thao túng hơn bất cứ ai khác, còn lâu ấy! Với cái đống hormone chạy loạn kia, anh sẽ không bao giờ biết được họ sẽ làm gì tiếp theo.” Dù sao thì, tôi cũng là bằng chứng sống của điều đó đây. “Nhưng người ta sẽ làm những thứ mà họ thường sẽ không bao giờ làm, vì tình yêu.” Gideon đưa tay lên như thể để vuốt má tôi, rồi hắn thả xuống. “Nếu em đang yêu, người kia đột nhiên có vẻ quan trọng hơn cả bản thân em.” Nếu tôi không biết gì hơn, tôi suýt thì nghĩ hắn sắp khóc. “Em sẽ hy sinh… có lẽ đó là ý của ngài bá tước.” “Em không nghĩ bá tước biết mình đang nói về cái gì,” Tôi nói đầy khinh miệt. “Nếu anh hỏi em, lão chẳng phải là người anh có thể gọi là chuyên gia tình yêu, và về hiểu biết của lão về trí óc phụ nữ, nó… nó thật là thảm hại!” Còn giờ thì hôn em đi; em muốn biết liệu râu mới mọc có ngứa không. Một nụ cười thắp sáng khuôn mặt Gideon. “Em có thể đúng,” Hắn nói, hít một hơi sâu như ai đó có một vật nặng rơi khỏi trái tim. “Tôi vui là chúng ta đã làm rõ chuyện đó. Chúng ta sẽ luôn là bạn tốt, phải không?” Cái gì? “Bạn tốt?” Hắn nhắc lại, và đột nhiên miệng tôi khô khốc. “Những người bạn tốt biết mình có thể tin tưởng và nhờ cậy người kia,” Hắn thêm vào. “Việc em tin tôi rất quan trọng.” Phải mất vài giây, nhưng rồi cuối cùng tôi cũng hiểu ra rằng vào một lúc nào đó trong cuộc trò chuyện này, chúng tôi đã rẽ sang những ngả đường khác nhau. Điều Gideon cố nói không phải là “làm ơn tha thứ cho anh, anh yêu em,” mà là “hãy làm bạn tốt.” Và tất cả mọi thằng ngốc đều biết đó là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Điều đó nghĩa là hắn chưa từng yêu tôi. Điều đó có nghĩa là Leslie và tôi đã xem quá nhiều phim lãng mạn. Điều đó có nghĩa là… “Đồ khốn!” tôi hét lên. Nỗi tức giận, nỗi tức giận chói lòa, nóng bỏng tuôn chảy trong tôi, mãnh liệt tới mức nó khiến giọng tôi lạc đi. “Thật quá giỏi! Làm sao anh dám? Một ngày anh hôn tôi và nói anh yêu tôi; ngày tiếp theo anh nói anh xin lỗi vì đã phun ra những lời dối trá kinh khủng như thế, và rồi anh muốn tôi tin anh sao?” Giờ Gideon cũng đã nhận ra chúng tôi đã nói chuyện theo kiểu ông nói gà bà nói vịt. Nụ cười biến mất khỏi mặt hắn. “Gwen…” “Tôi có thể nói với anh điều này không? Tôi tiếc tất cả những giọt nước mắt tôi khóc vì anh!” Tôi cố hét vào mặt hắn, nhưng tôi thất bại thảm hại. “Và anh không cần tưởng tượng rằng có nhiều nước mắt lắm đâu!” Tôi chỉ có thể thốt lên. “Gwen!” Gideon cố nắm tay tôi. “Ôi, Chúa ơi! Tôi thật xin lỗi. Tôi không muốn… làm ơn!” Làm ơn cái gì? Tôi giận dữ lườm hắn. Hắn không biết mình đang làm mọi chuyện tệ hơn sao? Và hắn nghĩ rằng vẻ cầu xin trong mắt hắn có thể thay đổi thứ gì? Tôi muốn quay đi, nhưng Gideon nắm chặt cổ tay tôi. “Gwen, nghe tôi này. Còn cả một quãng đường phía trước chúng ta, và việc ta sát cánh bên nhau là vô cùng quan trọng. Tôi… tôi rất mến em, tôi muốn chúng ta…” Hẳn là hắn sẽ không nói lại điều đó. Không phải cái thứ nhảm nhí về bạn tốt. Nhưng hắn nói lại chính xác cái câu đó. “… làm bạn tốt. Em không hiểu sao? Trừ phi chúng ta có thể tin tưởng nhau…” Tôi giằng tay khỏi hắn. “Làm như tôi muốn làm bạn với một kẻ như anh!” Giờ thì giọng tôi đã quay lại, và nó to đến mức bọn bồ câu tán loạn bay khỏi mái nhà. “Anh không hề biết chút nào về tình bạn cả!” Và đột nhiên tất cả thật dễ dàng. Tôi hất tóc, xoay gót, và lướt đi. Bạn phải nhảy khỏi vách đá, và tự chắp cho mình đôi cánh trên đường rơi. RAY BRADBURY[6] CHƯƠNG 3 Hãy vẫn là bạn nhé, ý tôi là, đó thực sự là kết thúc! “Cậu dám cá rằng một nàng tiên sẽ chết mỗi lần ai đó nói câu ấy ở bất cứ nơi nào trên thế giới này không?” Tôi hỏi. Tôi nhốt mình trong phòng vệ sinh nữ và gọi cho Leslie, và tôi đang gắng hết sức để không hét lên, mặc dù chỉ nửa giờ sau cuộc nói chuyện của tôi với Gideon, đó là điều tôi vẫn muốn làm. “Hắn nói hắn muốn cậu làm bạn,” Leslie chỉnh tôi. Như thường lệ, nó để ý từng chữ một. “Như nhau cả mà,” Tôi nói. “Không. Ý tớ là có, có lẽ.” Leslie thở dài. “Tớ không hiểu. Cậu có chắc cậu đã để hắn nói hết không? Như trong phim Mười điều em ghét về anh…” “Tớ có để anh ta nói hết mà. Thật đen đủi, phải nói thêm như vậy.” Tôi nhìn giờ. “Ôi khỉ. Tớ nói với ông George là sẽ trở lại sau một phút.” Tôi liếc nhìn bóng mình trong tấm gương bên trên chiếc bồn rửa kiểu cũ. “Ôi, khỉ!” Tôi nói lần nữa. Có hai vòng tròn đỏ ửng trên má tôi. “Tớ nghĩ tớ bị dị ứng gì đó rồi.” “Chỉ do tức giận thôi,” Là chẩn đoán của Leslie khi tôi nói với nó điều vừa nhìn thấy. “Mắt cậu thì sao? Có phải chúng đang lóe lên đầy nguy hiểm?” Tôi nhìn chằm chằm vào hình ảnh phản chiếu của mình, “Ừ, kiểu thế. Trông tớ hơi giống Helena Bonham Carter đóng Bellatrix Lestrange trong Harry Potter. Khá đe dọa.” “Nghe ổn đấy. Nghe này, giờ cậu hãy ra ngoài đó và dùng hết sức mình phóng ánh mắt đó vào mọi người, được chứ?” Tôi ngoan ngoãn gật đầu và hứa sẽ làm vậy. Sau cuộc điện thoại, tôi thấy khá hơn một chút, mặc dù nước lạnh cũng không thể rửa trôi cơn tức của tôi hay hai cái đốm tròn đỏ ửng trên má. Nếu ông George có băn khoăn tại sao tôi đi lâu đến vậy, ông cũng không thể hiện ra. “Mọi thứ ổn chứ?” Ông tốt bụng hỏi. Ông đã đợi tôi ngoài phòng ăn cũ. “Mọi thứ đều ổn cả!” Tôi liếc qua cánh cửa, nhưng không hề có dấu hiệu nào của Giordano và Charlotte, thậm chí khi mà tôi đã quá muộn giờ học. “Cháu chỉ cần… ờm, đánh thêm chút phấn hồng.” Ông George cười. Ngoài những nếp nhăn do cười quanh khóe mắt và miệng, không có gì trên khuôn mặt tròn thân thiện của ông cho thấy ông đã ngoài bảy mươi. Anh sáng phản chiếu lại trên cái đầu hói của ông khiến tôi nghĩ đến chiếc bát được đánh bóng tới khi nó phát sáng. Tôi không thể dừng được mà phải cười lại với ông. Ông George luôn khiến tôi an tâm hơn. “Thật đấy ạ. Ông đánh phấn đó vào đây này,” Tôi nói, chỉ vào hai dấu tròn đỏ rực trên má. Ông George chìa tay ra cho tôi. “Đi nào, cô bé dũng cảm,” Ông nói. “Ông đã nói với họ chúng ta sẽ xuống tầng để xuyên thời gian.” Tôi nhìn ông ngạc nhiên. “Còn Giordano và chính sách thuộc địa thế kỷ 18 thì sao ạ?” Ông George cười nhẹ. “Nói thế này nhé: ông dùng khoảng thời gian ngắn ngủi trong lúc cháu ở phòng vệ sinh để nói với Giordano rằng hôm nay cháu không có thời gian tham gia buổi học.” Ôi, ông George tốt bụng! Dường như ông là người duy nhất trong các Cận vệ quan tâm tới tôi như một con người thực sự. Mặc dù nhảy minuet một chút có lẽ sẽ khiến tôi bình tĩnh hơn. Như kiểu một số người xả cơn giận bằng cách đấm bao cát. Hoặc là tới phòng thể hình. Mặt khác, bây giờ tôi cũng chẳng cần cái nụ cười ngạo mạn của Charlotte cho lắm. “Máy đồng hồ đang đợi,” Ông nói tiếp. Tôi vui vẻ khoác tay ông George. Lần đầu tiên, tôi mong đợi đến lúc được xuyên thời gian, những giờ du hành về quá khứ có kiểm soát, và không chỉ để trốn tránh cái thực tại kinh khủng, đồng nghĩa với Gideon. Bởi vì chuyến đi ngược thời gian ngày hôm nay là điểm mấu chốt trong kế hoạch thiên tài mà Leslie và tôi nghĩ ra. Nếu nó diễn ra như chúng tôi mong đợi. Trên đường xuống tầng hầm, ông George và tôi đi ngang qua trụ sở Cận vệ. Cũng khó để hiểu rõ nơi này, nhất là khi nó chiếm đến vài tòa nhà. Có quá nhiều thứ để xem, đến mức khi bước đi trong những hành lang quanh co, bạn sẽ dễ dàng nghĩ đây là một viện bảo tàng. Hằng hà sa số những bức tranh, những bản đồ cổ, những tấm thảm thêu tay, và nguyên cả bộ sưu tập kiếm treo trên tường. Đồ sứ quý giá, sách bìa da, nhạc cụ cổ bày trong tủ kính, và hàng đống rương và hộp gỗ khảm. Trong những hoàn cảnh khác, tôi rất muốn được xem trong đó có thứ gì. “Ta không biết mấy về mỹ phẩm, nhưng nếu cháu muốn xả giận về Gideon với ai đó, thì, ta cũng là một người biết lắng nghe đây,” Ông George nói. “Về Gideon?” Tôi chậm rãi nói, như thể tôi phải cố nghĩ xem Gideon là ai. “Ồ, mọi thứ giữa cháu và Gideon đều ổn.” Thế đó! Tôi đấm bức tường khi đi qua. “Chúng cháu là bạn, chẳng còn gì cả. Chỉ là bạn.” Không may là từ đấy nói ra chẳng dễ chút nào. Đại khái thì tôi đã nghiến răng khi nói cái từ đó ra. “Bản thân ta cũng từng có thời mười sáu tuổi, Gwendolyn.” Ông George hiền hậu nhìn tôi. “Và ta hứa ta sẽ không nói ta cảnh báo cháu rồi. Mặc dù ta đã làm vậy…” “Cháu chắc hẳn ông là một chàng trai rất tốt hồi mười sáu tuổi.” Thật khó để tưởng tượng ông George lừa ai đó bằng cách hôn cô ta và nói những lời không thật lòng. Em chỉ cần ở trong cùng một căn phòng và tôi sẽ cần chạm vào em và hôn em. Tôi cố gắng rũ bỏ ký ức về lúc Gideon nhìn tôi bằng cách giậm chân thật mạnh. Mấy món đồ sứ trong tủ kính rung lên lanh canh. Phải. Ai cần nhảy điệu minuet để xả giận chứ? Thế này là được rồi. Mặc dù đập một trong mấy cái bình đắt tiền kia sẽ có tác dụng tốt hơn. Ông George liếc sang tôi vài lần, nhưng cuối cùng ông chỉ siết tay tôi và thở dài. Thỉnh thoảng chúng tôi đi qua những bộ giáp, và như thường lệ, tôi có cảm giác rằng mình đang bị giám sát. “Không có ai trong mấy bộ áo giáp đó chứ, phải không ông?” Tôi thì thầm với ông George. “Một anh môn sinh nào đó không thể đi toilet cả ngày, phải không ạ? Cháu cảm giác có ai đó đang nhìn chúng ta.” “Không,” Ông George cười nhẹ. “Nhưng đằng sau tấm che mặt trên mũ có lắp máy quay. Có lẽ vì thế mà cháu có cảm giác bị theo dõi.” Ồ. Máy quay an ninh. Ít nhất tôi cũng không cần thương mấy cái máy quay. Khi tới lượt cầu thang đầu tiên, tôi chợt nhớ ra ông George đã quên một thứ. “Ông không muốn bịt mắt cháu sao?” “Ta nghĩ hôm nay chúng ta có thể bỏ qua chuyện đó,” Ông George nói. “Không có ai ở đây để phản đối, phải không nào?” Tôi nhìn ông, ngạc nhiên. Bình thường tôi phải đi cả quãng đường với một chiếc khăn đen buộc trên mắt, vì đội Cận vệ không muốn tôi tìm được đường xuống chỗ họ cất máy đồng hồ, thứ giúp kiểm soát việc du hành thời gian. Vì một lý do nào đó, họ nghĩ nếu tôi biết đường, tôi sẽ chôm nó, cái việc tất nhiên là hoàn toàn vớ vẩn. Tôi không chỉ nghĩ nó rất kỳ bí, ý tôi là, nó chạy bằng máu cơ mà! Bạn thấy sao! Tôi không hề biết làm sao để vận hành đống bánh răng, đòn bẩy và chốt đó. Nhưng tất cả các Cận vệ đều hoang tưởng về khả năng bị trộm. Lý do có lẽ là bởi trước đây đã có hai máy đồng hồ. Gần mười bảy năm trước, chị họ Lucy của tôi và bạn trai Paul, số Chín và Mười trong Vòng tròn Thập nhị, những nhà du hành thời gian, đã biến mất với một trong hai cái máy. Đến giờ tôi vẫn chưa tìm ra lý do họ trộm nó. Nhưng đằng nào thì tôi cũng đang mò mẫm trong bóng tối với tất cả cái vụ du hành này. “Ồ, và tiện thể, Madame Rossini nhờ ta bảo cháu rằng bà ấy đã chọn một màu khác cho váy dạ hội của cháu. E là ta đã quên mất đó là màu gì rồi, nhưng ta chắc cháu sẽ trông rất xinh đẹp.” Ông George cười. “Mặc dù Giordano vẫn luôn nói với ta, không biết bao nhiêu lần rồi, về những lỗi lầm mà cháu chắc chắn sẽ mắc phải ở thế kỷ 18.” Tim tôi đập rộn lên. Tôi phải tới buổi vũ hội đó với Gideon, và tôi không thể tưởng tượng mình có thể có tâm trạng để nhảy minuet với hắn mà không thực sự phá hỏng cái gì. Chân hắn chẳng hạn. “Sao phải vội ạ?” Tôi hỏi. “Ý cháu là, từ quan điểm của chúng ta, tại sao vũ hội nhất thiết phải vào tối ngày mai? Tại sao chúng ta không thể đợi vài tuần? Rốt cuộc thì, chắc chắn là vũ hội sẽ được tổ chức vào đúng ngày đó trong năm 1782, bất kể chúng ta đến đó vào ngày nào?” Ngoài Gideon, câu hỏi này đã mắc trong đầu tôi được một thời gian rồi. “Bá tước Saint Germain đã tính toán chính xác khoảng thời gian nên để trôi qua trong hiện tại giữa các lần viếng thăm ngài,” Ông George nói, để tôi xuống cầu thang trước. Càng đi sâu vào mê cung trong tầng hầm, mùi ẩm mốc càng mạnh hơn. Trên các bức tường dưới này không có tranh ảnh, và mặc dù các cảm biến chuyển động đảm bảo rằng đèn sẽ được bật lên ở những nơi chúng tôi đi qua, những lối đi hai bên đều chìm trong bóng tối mịt mùng chỉ sau vài thước. Vài người không hề xuất hiện lại cho tới vài ngày sau tại những khu khác trong thành phố, xa khỏi Temple. Nhưng đó cũng chỉ là lời đồn thổi. “Nhưng mà tại sao bá tước lại nói bắt buộc phải là ngày mai? Và tại sao đội Cận vệ phải theo lệnh ông ta một cách mù quáng như vậy?” Ông George không trả lời câu đó. Ông chỉ thở dài nặng nề. “Cháu chỉ nghĩ là nếu chúng ta lùi lại một vài tuần, ờm, bá tước sẽ không hề biết được, phải không?” Tôi nói. “Bá tước ngồi đó trong năm 1782, và thời gian cũng chẳng trôi chậm hơn với ông ta được. Nhưng khi đó cháu có thể từ từ học đống minuet đó, và thậm chí cháu có thể sẽ biết ai đang vây thành Gibralta rồi, vậy tại sao?” Tôi thích gạt vấn đề về Gideon ra ngoài hơn. “Rồi không ai sẽ phải lảm nhảm mãi với cháu, và e sợ những lỗi lầm cháu sẽ mắc phải ở vũ hội, trong trường hợp cách cư xử của cháu để lộ ra rằng cháu đến từ tương lai. Vậy nên tại sao bá tước nhất quyết phải là ngày mai, trong dòng thời gian của chúng ta, khi cháu tới vũ hội?” “Phải, tại sao?” Ông George lẩm bẩm. “Như thể ngài sợ cháu vậy. Và sợ những gì cháu có thể tìm ra nếu có thêm thời gian.” Phòng Giả kim thuật không còn xa nữa. Trừ phi tôi nhầm, hẳn là nó ở quanh lối rẽ tiếp theo. Nên tôi đi chậm lại. “Sợ cháu ư? Ông ta bóp cổ cháu mà không chạm vào cháu, và nhờ biết đọc ý nghĩ, ông ta biết rõ rằng cháu sợ ông ta, chứ không phải ngược lại.” “Ngài bóp cổ cháu? Mà không chạm vào người?” Ông George dừng bước và nhìn tôi chằm chằm. Trông ông có vẻ sửng sốt. “Trời đất. Gwendolyn, tại sao trước đây cháu không nói với chúng ta? “Liệu ông có tin cháu không?” Ông George vuốt tay qua mảng đầu hói và định mở miệng nói gì đó khi chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân tới gần và một cánh cửa nặng nề đóng sập. Trông ông George hơi hoảng hốt, hoảng hốt hơn tôi nghĩ, dẫn tôi hướng tới chỗ phát ra âm thanh, và rút một chiếc khăn đen khỏi túi áo khoác. Đó là Falk de Villiers, chú của Gideon và là Trưởng Hội kín, hăng hái bước đi dọc theo hành lang. Nhưng ông ta cười khi thấy chúng tôi. “À, cháu đây rồi. Marley tội nghiệp vừa gọi đến văn phòng để hỏi cháu đi đâu, vậy là ta nghĩ ta nên đi xem một chút.” Tôi chớp mắt và đưa tay lên dụi, như thể ông George vừa mới tháo cái bịt mắt ra, nhưng rõ ràng đó là chuyện diễn trò không cần thiết, vì Falk de Villiers thậm chí còn không để ý. Ông mở cánh cửa vào phòng máy đồng hồ, từng có thời là phòng Giả kim thuật. Falk có lẽ chỉ già hơn mẹ tôi khoảng một tuổi và rất ưa nhìn, như tất cả các thành viên nhà de Villiers tôi đã gặp. Tôi luôn nghĩ về ông như con sói đầu đàn. Mái tóc dày của ông đã sớm bạc đi và tạo nên một sự tương phản thú vị với đôi mắt xanh ngọc bích. “Đó, cậu thấy chưa, Marley? Không có ai mất tích cả,” Ông vui vẻ nói với Marley vốn đang ngồi trên một chiếc ghế trong phòng đặt máy đồng hồ, và giờ thì nhảy dựng lên, lo lắng bẻ đốt ngón tay. “Tôi chỉ… tôi nghĩ, để cẩn thận…” Anh ta lắp bắp. “Tôi xin lỗi, thưa ngài…” “Không, không, ta rất vui khi thấy cậu coi trọng trách nhiệm của mình đến vậy,” Ông George nói, và Falk hỏi, “Ngài Whitman đâu rồi? Chúng ta có hẹn uống trà với Dean Smythe, và ta định đón anh ta.” “Ông ấy vừa rời khỏi,” Marley nói. “Họ nói họ rất cần gặp ông ấy.” “Phải rồi, vậy thì ta đi đây. Ta có thể bắt kịp anh ta trên đường. Ông đi chứ, Thomas?” Sau khi liếc nhanh sang tôi, ông George lắc đầu. “Và ta sẽ gặp lại nhau vào ngày mai, Gwendolyn. Khi cháu tới buổi vũ hội lớn.” Nhưng được nửa đường ra khỏi cửa, Falk quay lại và nói như thể tình cờ, “À, và gửi lời chào của ta đến mẹ cháu nhé, Gwendolyn. Cô ấy vẫn ổn chứ?” “Mẹ cháu? Vâng, bà vẫn ổn.” “Thật vui khi nghe vậy.” Chắc trông tôi có vẻ khá hoang mang, bởi ông hắng giọng và thêm vào, “Ngày nay không phải bà mẹ độc thân và làm việc toàn thời gian nào cũng có cuộc sống dễ dàng đâu, nên ta rất mừng cho cô ấy.” Giờ thì tôi cố tình trông hoang mang. “Hoặc, hoặc là có lẽ cô ấy không còn một thân một mình nữa? Một phụ nữ hấp dẫn như Grace hẳn sẽ gặp rất nhiều đàn ông, nên là có lẽ có một ai đó…” Falk nhìn tôi đầy mong đợi, như khi tôi cau mày bối rối, ông nhìn đồng hồ và kêu lên, “Ôi, quá muộn rồi. Ta thực sự phải đi đây.” “Có phải ông ấy vừa đặt câu hỏi không?” Tôi nói khi Falk đã đóng cửa lại sau lưng. “Phải,” Ông George và Marley nói cùng lúc, và Marley đỏ mặt. “Ờ,” anh ta nói tiếp, “ít nhất thì với tôi, có vẻ ông ấy muốn biết mẹ cô có bạn trai chưa,” Anh ta lẩm bẩm. Ông George cười lớn. “Falk nói đúng đó, đã muộn rồi. Nếu muốn Gwendolyn làm được xong chút bài tập nào vào tối nay, chúng ta cần đưa cô ấy về quá khứ ngay bây giờ. Chúng ta nên chọn năm nào, Gwendolyn?” Như đã thống nhất với Leslie, tôi nói thản nhiên nhất có thể, “Cháu không bận tâm đâu. Hôm trước cháu đã về năm 1956, đúng không nhỉ, có phải 1956 không ạ? Lúc đó không có chuột trong hầm. Thậm chí nó khá là thoải mái.” Tất nhiên tôi không thở ra chữ nào về cuộc gặp gỡ bí mật với ông ngoại trong căn hầm không chuột thoải mái. “Cháu còn học thêm được từ mới tiếng Pháp mà không phải run rẩy sợ hãi suốt cả buổi.” “Không vấn đề,” George nói. Ông mở một cuốn sổ lớn, trong khi Marley đẩy tấm thảm treo tường che đi chiếc két cất máy đồng hồ. Tôi cố nhòm qua vai ông George trong khi ông lật qua các trang giấy, nhưng tấm lưng rộng của ông chắn hết tầm nhìn. “Xem nào. Đó là ngày 24 tháng Bảy năm 1956,” Ông George nói. “Cháu dành cả buổi chiều ở đó và trở lại lúc sáu rưỡi tối.” “Sáu rưỡi cũng được đấy ạ,” Tôi nói, ngoéo ngón tay cầu mong kế hoạch sẽ khả thi. Nếu tôi có thể trở lại đúng thời điểm mình rời đi, ông ngoại sẽ vẫn ở dưới đó, và tôi sẽ không tốn thời gian đi tìm ông. “Ta nghĩ tốt nhất là nên để thành sáu giờ ba mốt,” Ông George nói. “Ta không muốn cháu đâm phải bản thân mình.” Marley, người đã đặt chiếc rương chứa máy đồng hồ lên bàn và giờ thì đang lấy cái máy to khoảng cỡ chiếc đồng hồ đặt trên lò sưởi ra khỏi lớp bọc bằng nhung, lẩm bẩm, “Nhưng nói đúng ra, ở đó chưa phải là ban đêm. Ngài Whitman nói…” “Phải, chúng ta đều biết ngài Whitman luôn tuân theo luật,” Ông George nói trong lúc loay hoay với mấy cái bánh răng. Giữa những hình hoa văn màu, hành tinh, động vật và cây cối là những viên bảo thạch khảm vào bề mặt chiếc máy kỳ lạ, to và sáng tới mức bạn sẽ thấy chúng hẳn phải là đồ giả, giống như những hạt cườm mà em gái tôi hay nghịch. Mỗi nhà du hành thời gian trong Hội Thập nhị đều có một viên đá biểu trưng riêng. Của tôi là viên hồng ngọc, còn viên kim cương, to đến mức nó có thể đáng giá cả một tòa chung cư ở khu West End London, “thuộc về” Gideon. “Tuy nhiên, tôi nghĩ chúng ta cũng đủ lịch thiệp không để một quý cô trẻ tuổi phải ngồi một mình trong một cái hầm giữa lúc đêm hôm, cậu thấy phải không, Leo?” Marley bối rối gật đầu. “Leo?” Tôi hỏi. “Tên hay đấy.” “Viết tắt cho Leopold,” Anh ta nói, đôi tai đỏ rực lên như đèn chiếu hậu của ô tô. Anh ta ngồi xuống, đặt cuốn sổ ghi chép trước mặt và mở nắp chiếc bút mực. Dòng chữ nhỏ rõ ràng, ghi lại một loạt những ngày tháng, giờ giấc và tên người rõ ràng là của anh ta. “Mẹ tôi nghĩ cái tên đó rất xấu, nhưng theo truyền thống, những người con trai cả trong gia đình chúng tôi đều được gọi là Leopold.” “Leo là hậu duệ trực hệ của Nam tước Miroslav Alexander Leopold Rakoczy,” Ông George giải thích, quay lại và nhìn thẳng vào mắt tôi trong giây lát. “Cháu biết chứ, người đồng hành huyền thoại của bá tước Saint Germain, được biết đến trong Biên niên sử với cái tên Báo đen.” Tôi ngạc nhiên vô cùng. “Ồ, thật vậy sao?” Trong tâm trí, tôi so sánh Marley với Rakoczy xanh xao, gầy gò, chủ nhân của đôi mắt đen đã khiến tôi sợ hãi. Nhưng tôi thực sự không biết liệu mình có nên nói với Marley rằng anh ta thật may mắn khi không có vẻ ngoài của ông cụ tổ mờ ám, hay phải nói rằng mái tóc đỏ, khuôn mặt tròn ủm và đống tàn nhang kia trông còn tệ hơn. “Cô thấy đấy, ông tôi…” Marley bắt đầu nói, nhưng ông George nhanh chóng ngắt lời anh ta. “Ta chắc hẳn ông cậu sẽ rất tự hào về cháu mình,” Ông kiên quyết nói. “Nhất là khi ông biết cậu đã vượt qua bài kiểm tra.” “Ngoại trừ bài Sử dụng Vũ khí Truyền thống,” Marley nói. “Cháu chỉ được chấm là đạt yêu cầu trong môn đó.” “Ồ, ngày nay chẳng mấy khi người ta cần đến nó. Sử dụng Vũ khí Truyền thống là môn học lỗi thời rồi.” Ông George chìa tay ra cho tôi. “Đây rồi, Gwendolyn. Đến năm 1956 nào. Ta đã cài máy đồng hồ đến đúng ba giờ rưỡi. Ôm chặt cặp vào và nhớ là đừng để lại thứ gì trong hầm khi trở lại, cháu nhớ chưa? Marley sẽ đợi cháu ở đây.” Tôi ôm chặt cái cặp bằng một tay và đưa ông George tay kia. Ông đặt ngón trỏ của tôi vào một lỗ hổng nhỏ xíu trên thân máy. Một cây kim xuyên qua da thịt tôi, viên hồng ngọc sáng lên và bao trùm căn phòng trong thứ ánh sáng đỏ rực. Tôi nhắm mắt lại, đợi chờ con choáng váng đưa mình đi. Giây lát sau, khi tôi mở mắt, Marley và ông George đã biến mất, cả cái bàn cũng vậy. Ở đây tối hơn, căn phòng chỉ có một bóng điện duy nhất để thắp sáng, và ông ngoại Lucas của tôi đang đứng trong luồng sáng nhìn tôi khó hiểu. “Cháu… cháu, vậy là nó không có tác dụng sao?” Ông kêu lên, thảng thốt. Vào năm 1956, ông mới ba hai tuổi, và trông ông không hề giống ông già tám mươi tuổi mà tôi biết thuở nhỏ. “Cháu biến mất ngay ở đó, và bây giờ cháu lại ở đây.” “Đúng vậy,” Tôi nói đầy tự hào, cố kìm nén không nhào vào ôm lấy ông. Cũng giống như những lần gặp khác: chỉ cần nhìn thấy ông, tôi đã thấy như có một cục nghẹn trong cổ. Ông ngoại mất khi tôi mười tuổi, và thật tuyệt, nhưng cũng thật buồn, khi gặp ông sáu năm sau lễ tang. Buồn không phải bởi vì khi gặp trong quá khứ, ông mới chỉ là một bản chưa hoàn thiện lắm của người ông tôi từng biết, mà là bởi tôi hoàn toàn xa lạ với ông. Ông không hề biết mình đã bao nhiêu lần cho tôi ngồi trên đùi, hay là khi cha tôi mất, ông an ủi tôi bằng cách kể chuyện cho tôi nghe, và chúng tôi luôn chúc nhau ngủ ngon bằng thứ ngôn ngữ tự phát minh không có ai hiểu được. Ông không biết tôi yêu ông nhường nào, và tôi không thể nói ra. Không ai muốn nghe mấy thứ kiểu đó từ một người chỉ ngồi với họ vài giờ. Tôi cố hết sức quên đi cục nghẹn dâng trong cổ mình. “Với ông, có lẽ mới có khoảng một phút trôi qua, nên là cháu tha thứ cho việc ông chưa thể cạo đống ria mép đó đi. Nhưng với cháu thì đã là vài ngày sau rồi, và đủ thứ chuyện đã xảy ra.” Ông Lucas vuốt ria và cười. “Vậy là cháu… hừm, thông minh đấy, cháu gái à.” “Vâng, cũng thông minh ra phết, phải không ạ? Nhưng thực ra thì đấy là ý tưởng của Leslie bạn cháu. Nhờ vậy bọn cháu có thể đảm bảo rằng chúng ta sẽ gặp nhau và không phải phí chút thời gian nào.” “Và ta thì chưa kịp nghĩ xem sẽ làm gì tiếp theo. Ta mới chỉ bắt đầu nghĩ về cuộc gặp vừa qua. Ông nghiêng đầu soi xét tôi. “Ừ, trông cháu cũng khác đi. Cháu không có cái cặp tóc kia, và bằng cách nào đó trông cháu có vẻ gầy hơn.” “Cảm ơn ông,” Tôi nói. “Đó không phải lời khen. Trông cháu khá tệ đấy.” Ông tiến lại gần và săm soi tôi cẩn thận. “Mọi thứ vẫn ổn chứ?” Ông dịu dàng hỏi. “Mọi thứ đều ổn,” Tôi định nói thật vui vẻ, nhưng tôi phát hoảng khi thấy mình bật khóc. “Mọi thứ đều ổn,” Tôi nức nở. “Ôi trời,” Ông Lucas nói, vụng về vỗ lưng tôi. “Tệ thế sao?” Trong vài phút, tôi chẳng thể làm gì khác ngoài việc để nước mắt chảy ròng ròng. Và tôi cứ nghĩ mình đã kiểm soát được bản thân rồi chứ! Tức giận với các xử sự của Gideon sẽ là một phản ứng đúng đắn, rất dũng cảm và trưởng thành. Và trên phim, sự tức giận trông sẽ hay hơn là cái vụ khóc lóc này. Tôi e là Xemerius đã đúng khi so sánh tôi với cái đài phun nước trong nhà. “Bạn!” Cuối cùng tôi cũng sịt mũi, bởi ông xứng đáng được nghe một lời giải thích. “Hắn ta muốn bọn cháu làm bạn. Và muốn cháu tin hắn.” Ông Lucas cúi đầu và cau mày, trông có vẻ bối rối. “Và điều đó khiến cháu khóc bởi vì…?” “Bởi vì ngày hôm qua hắn nói hắn yêu cháu!” Nếu có thể, trông ông Lucas còn bối rối hơn trước. “Hừm, đó cũng không phải một cách tệ để bắt đầu tình bạn.” Nước mắt tôi khô cong như thể có ai đó vừa ngắt điện đài phun nước. “Ông ngoại! Đừng ngốc thế chứ!” Tôi kêu lên. “Thoạt tiên hắn hôn cháu, rồi cháu phát hiện ra đó chỉ là chiến thuật và thao túng, rồi hắn lại nghĩ ra cái trò chúng-ta-làm-bạn-nhé đó!” “Ồ. Ta hiểu. Thật là… thật là một tên vô lại!” Ông Lucas trông chưa thuyết phục lắm. “Thứ lỗi cho ta hỏi mấy câu ngớ ngẩn, nhưng ta hy vọng cháu đang không nói về cậu chàng Villiers kia? Số Mười một, viên Kim cương?” “Đúng đấy ạ,” Tôi nói. “Chính là hắn.” Ông ngoại rên lên. “Ôi, thật sao! Lũ choai choai! Như thể tất cả những việc này còn chưa đủ phức tạp!” Ông ném cho tôi một chiếc khăn tay, cầm cái cặp của tôi và nói, “Khóc thế là đủ rồi. Chúng ta có bao nhiêu thời gian?” “Máy đồng hồ được cài đặt để đưa cháu về lúc mười giờ tối theo thời gian ở đây.” Hài hước thay, khóc lóc lại tốt cho tôi hơn nhiều so với việc tức giận rất người lớn kia. “Ông có gì ăn không ạ? Cháu hơi đói.” Ông Lucas cười to. “Thế thì chúng ta nên lên tầng, con gà bé nhỏ à, và tìm cho cháu cái gì đó để mổ. Dưới này chật kinh khủng. Và ta phải gọi về nhà và báo mình sẽ về muộn.” Ông mở cửa. “Đi nào, và cháu có thể kể mọi thứ trên đường đi. Và nếu có ai nhìn thấy cháu, đừng quên cháu là em họ Hazel của ta.” •§• Gần một tiếng sau, chúng tôi ngồi trong văn phòng của ông Lucas, nghĩ lung đến mức dường như khói đang phun ra từ hai lỗ tai. Trước mặt hai người là hàng đống giấy với những ghi chú loằng ngoằng, hầu hết là ngày tháng, những hình tròn, mũi tên và dấu hỏi, cùng với những cuốn sách bìa da (Biên niên sử Đội Cận vệ trong vài thập kỷ qua) và một đĩa bánh quy. Bất kể thời nào, có vẻ Đội Cận vệ luôn có thừa thứ này. “Quá nhiều thông tin, quá ít thời gian để suy nghĩ,” Ông Lucas nói hết lần này đến lần khác. Ông đi đi lại lại không ngừng trong phòng, vò đầu bứt tai. Mặc cho tất cả những thứ ông đã vuốt lên để giữ mượt mái tóc, những sợi tóc bắt đầu chổng ra khắp nơi. “Cháu nghĩ ta có thể giấu gì trong chiếc rương đó?” “Có thể là một cuốn sách chứa tất cả những thông tin cháu cần,” Tôi nói. Chúng tôi đã đi qua một anh chàng đứng gác trên cầu thang mà không gặp trở ngại gì. Anh ta ngủ ngon lành, y hệt như trong chuyến thăm trước của tôi, và mùi rượu tỏa ra từ anh ta đủ để khiến những người đi qua cũng thấy lâng lâng. Trên thực tế, Đội Cận vệ có vẻ ít nghiêm khắc hơn trong năm 1956. Không ai nghĩ việc ông Lucas ở lại tăng ca hay cô em họ Hazel từ quê lên tới bầu bạn với ông là lạ. Mà buổi tối ở Temple cũng không hẳn là đông đúc. Ông George trẻ tuổi rõ ràng là đã về nhà, kể cũng tiếc thật. Tôi đã muốn gặp lại ông. “Một cuốn sách, hừm, có thể lắm,” Ông Lucas nói, trầm ngâm nhấm nháp một chiếc bánh quy. Ba lần, ông suýt nữa thì châm một điếu xì gà, nhưng tôi đã giật nó khỏi tay ông. Tôi không muốn lại bốc mùi xì gà khi quay về. “Mật mã và tọa độ cũng có lý đấy, ta thích đoạn đó, và nó có vẻ giống ta. Ta luôn luôn mềm lòng trước những mật mã. Chỉ là, làm sao Lucy và Paul biết được nó ở trong cái thứ… trong quyển Ngựa vàng?” “Kỵ sĩ Xanh, ông ạ,” Tôi kiên nhẫn nói. “Cuốn sách ở trong thư viện của ông, và mẩu giấy có mật mã được kẹp giữa các trang sách. Có lẽ Lucy và Paul đã để lại đó.” “Điều đó không hợp lý. Nếu họ biến mất vào quá khứ trong năm 1994, vậy tại sao họ lại để một cái rương trong tường nhà rất nhiều năm sau như vậy?” Ông dừng bước và cúi xuống bên mấy cuốn sách. “Thứ này làm ta điên mất! Cháu biết cảm giác khi mà giải pháp đã trong tầm với rồi không? Ước gì máy đồng hồ cho phép vượt thời gian tới tương lai. Khi đó cháu có thể tự phỏng vấn ta.” Đột nhiên, tôi nảy ra một ý tưởng, và nó hay tới mức tôi rất muốn vỗ lưng mình một cái. Tôi nghĩ về điều ông ngoại đã kể cho tôi trong lần gặp trước. Theo ông, Lucy và Paul, chán nản với thời gian phân nhánh hồi khứ họ phải dành ở nơi này, đã du hành xa hơn vào quá khứ và thấy nhiều thứ thú vị, như một buổi diễn Hamlet năm 1602, thời Shakespeare còn sống. “Cháu biết rồi!” Tôi kêu lên và nhảy múa ăn mừng một chút. Ông tôi cau mày. “Cháu biết cái gì cơ?” Ông hỏi đầy hứng thú. “Giả sử ông đưa cháu về xa hơn trong quá khứ với máy đồng hồ này thì sao?” Tôi phấn khởi nói. “Thế thì cháu có thể gặp Lucy và Paul và hỏi họ.” Ông Lucas ngẩng đầu lên. “Và cháu sẽ gặp họ khi nào? Chúng ta không biết họ đang trốn ở thời điểm nào.” “Nhưng chúng ta biết thời điểm họ tới thăm ông ở đây. Nếu cháu gặp họ lúc ấy, chúng ta có thể thảo luận mọi thứ cùng nhau…” Ông ngoại ngắt lời tôi. “Nhưng khi họ tới đây vào năm 1948 và 1949 từ năm 1992 và 1993,” Ông gõ vào mấy tờ ghi chú và miết ngón tay dọc các mũi tên khi nhắc đến những năm ấy, “khi đó, Lucy và Paul cũng không biết đầy đủ, và họ đã nói cho ta tất cả những gì mình biết. Không, nếu muốn gặp họ, tốt nhất là nên gặp lúc họ đã chạy trốn với máy đồng hồ.” Ông lại gõ gõ mấy tờ giấy. “Như thế thì hợp lý hơn. Bất cứ thứ gì khác cũng chỉ khiến ta thêm rối.” “Vậy thì… Vậy thì cháu sẽ đi về năm 1912, khi cháu gặp họ tại nhà quý bà Tilney ở Eaton Place.” “Đó cũng là một khả năng nhưng nó không hề khả thi nếu xét về mặt thời gian.” Ông Lucas nhìn đồng hồ với vẻ mặt u ám. “Cháu còn không xác định nổi ngày tháng, chưa kể đến thời điểm trong ngày nữa. Và cũng không thể quên rằng chúng ta phải nhận dạng máu của cháu vào máy đồng hồ, nếu không cháu sẽ không thể dùng nó để vượt thời gian.” Ông lại vò đầu bứt tóc. “Và cuối cùng cháu sẽ phải tự mình đi từ đây đến Belgravia, và vào năm 1912 thì việc đó không đơn giản chút nào… Ôi, và chúng ta còn cần trang phục nữa chứ… không, kể cả với ý chí sắt đá nhất thế giới, việc này không thể được hoàn thành trong thời gian ngắn ngủi như vậy. Chúng ta phải nghĩ ra thứ gì khác. Giải pháp đang ở trên đầu lưỡi ta rồi. Ta chỉ cần thêm thời gian thôi, và có lẽ là một điếu xì gà nữa…” Tôi lắc đầu. Tôi sẽ không bỏ cuộc dễ dàng như thế. Tôi biết đây là một ý hay. “Chúng ta có thể đưa máy đồng hồ đến trước cửa nhà quý bà Tilney ở thời hiện tại, và rồi cháu sẽ phân nhánh thẳng về năm 1912, như thế sẽ tiết kiệm được khối thời gian, phải không ông? Và còn trang phục thì… tại sao ông lại nhìn cháu như thế?” Đột nhiên, mắt ông Lucas mở lớn. “Ôi, Chúa ơi!” Ông thì thầm. “Phải rồi!” “Gì ạ?” “Máy đồng hồ! Cháu gái, cháu là một thiên tài!” Ông Lucas đi vòng qua bàn và ôm chặt tôi. “Cháu là thiên tài?” Tôi nhắc lại. Giờ thì lại đến lượt ông ngoại nhảy múa vì vui sướng. “Đúng! Và ta cũng là thiên tài! Thiên tài, bộ đôi chúng ta, bởi vì giờ chúng ta đã biết trong chiếc rương kia giấu thứ gì!” Hừm, tôi thì không. “Vậy nó là thứ gì?” “Máy đồng hồ!” Ông Lucas kêu lên. “Máy đồng hồ?” Tôi lặp lại. “Chỉ là logic thôi. Mặc cho Lucy và Paul đã lôi nó đến thời kỳ nào, bằng cách nào đó, nó đã trở lại với ta, và ta đã giấu nó. Cho cháu! Trong nhà của ta. Không độc đáo lắm, nhưng rất hợp lý!” “Ông nghĩ vậy sao?” Tôi do dự nhìn ông chằm chằm. Nghe thật là xa xôi, nhưng mà trước giờ thì logic cũng không phải điểm mạnh của tôi. “Tin ta đi, cháu gái, ta biết là ta đúng mà!” Sự phấn khích trên gương mặt ông Lucas biến thành một cái cau mày. “Tất nhiên việc này mở ra vô số khả năng mới. Giờ thì chúng ta phải suy nghĩ thật kỹ.” Ông liếc nhìn đồng hồ một lần nữa. “Chết tiệt, chúng ta cần thêm thời gian.” “Cháu có thể cố khiến họ đưa cháu về năm 1956 trong lần phân nhánh tiếp theo,” Tôi nói. “Chỉ là, chúng ta không thể gặp nhau vào chiều mai, vì đó là khi cháu phải đến vũ hội gặp bá tước lần nữa.” Ý nghĩ này ngay lập tức khiến tôi thấy nôn nao, và không chỉ do Gideon. “Không, không, không!” Ông Lucas kêu lên. “Không được đâu. Chúng ta phải đi trước một nước trước khi cháu đối mặt với bá tước.” Ông xoa trán. “Nghĩ, nghĩ, nghĩ đi nào!” “Ông không thấy đống khói phun ra từ tai cháu sao? Cả tiếng đồng hồ vừa qua cháu chả làm gì ngoài ngồi đó và nghĩ ngợi,” Tôi an ủi ông, nhưng rõ ràng là vừa rồi ông đang tự lẩm bẩm một mình. “Đầu tiên ta phải nhận dạng máu của cháu vào máy đồng hồ. Cháu sẽ không thể tự làm vậy mà không có sự giúp đỡ vào năm 2011; nó quá phức tạp. Rồi ta phải chỉ cháu cách cài đặt máy.” Lại một cái nhìn lo lắng hướng về phía chiếc đồng hồ. “Nếu ta gọi bác sĩ bây giờ, anh ta có thể tới trong tầm nửa tiếng, và đấy là nếu chúng ta đủ may mắn để tìm thấy anh ta ở nhà… Vấn đề duy nhất là, làm sao để giải thích lý do ta muốn lấy máu của em họ Hazel? Hồi Lucy và Paul ở đây, bọn ta đã lấy máu của họ một cách công khai, vì mục đích khoa học, nhưng cháu lại ẩn danh ở đây, và phải giữ nguyên tình trạng này, không thì…” “Từ từ đã,” Tôi ngắt lời ông. “Chúng ta không thể tự lấy máu sao?” Ông Lucas nhìn tôi tò mò. “Ừm, ta được huấn luyện thành thạo nhiều kỹ năng, nhưng với mấy cái kim thì ta vô dụng. Thật lòng mà nói, ta còn không chịu nổi khi nhìn thấy máu. Nó đảo lộn ruột gan ta…” “Cháu có thể tự lấy máu mình,” Tôi nói. “Thật sao?” Ông có vẻ ngạc nhiên. “Ở thời cháu người ta dạy học sinh dùng kim tiêm ở trường sao?” “Không, ông ngoại à, họ không dạy,” Tôi sốt ruột nói, “nhưng chúng cháu cũng được học là nếu ông tự lấy dao khía một nhát vào người, máu sẽ chảy. Ông có con dao nào không?” Ông Lucas ngập ngừng, “Ừm, ta không biết liệu đó có phải một ý hay.” “Được thôi, cháu cũng có một con.” Tôi mở cặp và lôi cái hộp kính mà Leslie đã giấu con dao gọt hoa quả của Nhật, đề phòng tôi bị tấn công khi vượt thời gian và cần vũ khí. Trông ông vô cùng sửng sốt khi tôi mở chiếc hộp ra. “Trước khi ông hỏi, không, đây không phải đồ dùng học tập thường thấy vào năm 2011,” Tôi nói. Ông Lucas nuốt ực một cái, rồi ông ưỡn thẳng lưng và nói, “Được thôi. Vậy thì hãy tới Long điện, trên đường thì tạt qua phòng y tế để nhặt một cái ống nghiệm.” Ông liếc nhìn đống Biên niên sử vứt trên bàn và với một quyển kẹp vào dưới cánh tay. “Ta sẽ mang thứ này theo. Và bánh quy nữa. Cho thần kinh của ta! Cháu nhớ đừng quên túi.” “Nhưng tại sao chúng ta lại đến Long điện?” Tôi nhét cái hộp kính vào cặp và đứng dậy. “Đó là chỗ máy đồng hồ.” Ông Lucas đóng cửa sau lưng tôi và lắng nghe động tĩnh trong hành lang, nhưng tất cả đều yên ắng. “Nếu có gặp ai, chúng ta sẽ nói ta đang dẫn cháu đi tham quan tòa nhà nhé, được chứ, em họ Hazel?” Tôi gật đầu. “Ý ông là người ta chỉ vứt cái máy chỏng chơ ở đó thôi sao? Ở thời của cháu, họ khóa nó trong két dưới tầng hầm để phòng trộm.” “Đền thờ của nó trong Long điện cũng được khóa chứ, tất nhiên rồi,” Ông Lucas nói, thúc giục tôi bước xuống cầu thang. “Nhưng chúng ta không thực sự sợ lũ trộm. Thậm chí còn không có người mang khả năng vượt thời gian để dùng nó. Sự náo nhiệt đã qua đi từ nhiều năm trước rồi, khi mà Lucy với Paul phân nhánh tới đây. Hiện tại, máy đồng hồ không phải ưu tiên của Đội Cận vệ. Mà kể ra như thế thì cũng may cho cháu và ta.” Tòa nhà vắng vẻ thấy rõ, mặc cho ông Lucas nhỏ giọng thì thầm với tôi rằng nó không bao giờ hoàn toàn trống trải. Tôi tiếc nuối nhìn ra buổi tối mùa hè ấm áp ngoài cửa sổ. Tiếc vì tôi không thể bước ra ngoài và khám phá năm 1956 cẩn thận hơn. Ông Lucas để ý cái nhìn của tôi và cười, nói, “Tin ta đi, ta cũng muốn ngồi chỗ nào đó thư thái với cháu và hút một điếu xì gà lắm, nhưng chúng ta có việc phải làm.” “Ông nên bỏ xì gà đi, ông ngoại à. Hút thuốc hại cho sức khỏe lắm. Và làm ơn, cạo đám ria mép kia đi ông. Nó không hợp với ông chút nào.” “Suỵttt,” Ông Lucas thì thầm. “Nếu ai đó nghe cháu gọi ta là ông ngoại, chúng ta sẽ phải giải thích hết hơi đấy.” Nhưng chúng tôi không hề gặp ai, và vài phút sau, khi bước vào Long điện chúng tôi có thể thấy mặt trời chập tối vẫn lấp lánh trên dòng Thames bên ngoài khu vườn và những bức tường. Long điện năm 1956 vẫn đẹp đến ngỡ ngàng như năm 2011, với tầm vóc khổng lồ, những ô cửa sổ lớn, và những bức phù điêu mỹ lệ trên tường, và, như mọi khi, tôi ngửa đầu chiêm ngưỡng con rồng vĩ đại uốn mình trên trần nhà quanh chiếc đèn chùm như thể sắp sửa vút lên không trung. Ông Lucas chốt cửa. Trông ông còn lo lắng hơn tôi, và tay ông run rẩy khi lấy chiếc máy đồng hồ ra khỏi điện thờ, một cái tủ nhỏ, và đặt nó lên chiếc bàn giữa Long điện. “Khi gửi Lucy và Paul về quá khứ, đó là một cuộc phiêu lưu vĩ đại. Chúng ta đã rất vui,” Ông nói. Tôi nghĩ đến Lucy và Paul, và gật đầu. Phải, tôi mới gặp họ có một lần ở nhà quý bà Tilney, nhưng tôi cũng có thể hiểu ý ông. Thật ngu ngốc, cùng lúc đấy tôi lại nghĩ đến Gideon. Niềm vui của hắn trong những chuyến du hành cũng là giả tạo sao? Hay chỉ có những lúc hắn vờ yêu tôi? Tôi nhanh chóng đem con dao Nhật và cái điều tôi sắp sửa làm với nó đặt lên phía trước trong đầu. Và đoán đi, nó có hiệu quả. Ít nhất thì tôi cũng không bật khóc. Ông ngoại lau tay vào quần. “Ta bắt đầu thấy hơi già cho mấy cuộc phiêu lưu kiểu này rồi,” Ông nói. Mắt tôi rời đến chiếc máy đồng hồ. Với tôi, nó giống y hệt chiếc máy đã đưa tôi đến đây, một thiết bị đầy những nút gạt, đòn bẩy, ngăn kéo, bánh răng và mím vặn, tất cả đều được khắc hoa văn. “Ta không ngại cháu phản đối ta đâu,” Ông Lucas nói, nghe giọng hơi có vẻ tổn thương. “Cái gì đó kiểu như ông quá trẻ để thấy già chẳng hạn!” “Ồ. Vâng, tất nhiên rồi. Mặc dù bộ ria đó làm ông già đi hàng thập kỷ.” “Arista nói nó khiến ta có vẻ nghiêm túc và giống mấy chính khách.” Tôi nhướng mày đầy ẩn ý, và người ông trẻ tuổi của tôi, tự lẩm bẩm với chính mình, cúi xuống bên cỗ máy. “Giờ thì, nhìn cho cẩn thận nhé: cháu đặt thời gian với chục cái bánh xe nho nhỏ này. Và trước khi cháu hỏi tại sao lại có nhiều thế, thì chúng ta đặt thời gian theo số La Mã, hy vọng là cháu biết.” “Cháu nghĩ vậy.” Tôi lôi một cuốn vở và một cái bút ra khỏi cặp. Không viết ra thì không đời nào tôi nhớ được hết đống này. “Và cháu cài thứ này,” Ông Lucas nói, chỉ vào một bánh răng khác, “thành tháng mà cháu muốn. Nhưng mà coi chừng, với cái này, vì một lý do nào đó, mà chỉ có cái này thôi nhé, chúng ta sử dụng một hệ thống lịch Celtic cổ mà trong đó tháng thứ nhất là tháng Mười một, thành ra tháng Mười là tháng thứ mười hai.” Tôi đảo mắt. Thật đúng là Đội Cận vệ mà! Từ lâu tôi đã ngờ rằng họ luôn thích phức tạp hóa vấn đề chỉ để tự nâng tầm quan trọng. Nhưng tôi nghiến răng, và sau khoảng hai mươi phút, tôi cũng nhận ra những thứ này không phải trò phù thủy, miễn là hiểu được nguyên lý của hệ thống. “Giờ cháu làm được rồi.” Tôi ngắt lời khi ông chuẩn bị nói lại từ đầu và đóng sổ lại. “Giờ thì chúng ta phải nhận dạng máu của cháu. Và rồi… đã muộn lắm chưa nhỉ?” “Việc cháu không mắc lỗi khi cài đặt máy đồng hồ là rất quan trọng…” Ông Lucas đang nhìn con dao Nhật với vẻ ác cảm khi tôi lôi nó ra khỏi bao. “Không thì cháu sẽ hạ cánh ở một nơi nào… thời nào đó khác. Ôi, Chúa ơi, con dao đó kinh khủng quá. Cháu sẽ làm thế thật sao?” “Tất nhiên là có rồi ạ.” Tôi xắn ống tay lên. “Cháu chỉ không biết cắt chỗ nào là tốt nhất thôi. Một vết cắt trên bàn tay sẽ gây chú ý khi cháu trở về. Và chúng ta sẽ không lấy được quá vài giọt từ đầu ngón tay.” “Không đâu, nếu cháu cưa sắp đứt cả ngón ra,” Ông Lucas nói với một cái rùng mình. “Lúc đó cháu sẽ chảy máu như kiểu lợn bị chọc tiết ấy. Có lần ta đã làm vậy…” “Cháu nghĩ cháu sẽ cắt cánh tay. Sẵn sàng chưa?” Thật buồn cười là ông Lucas còn sợ hơn cả tôi. Ông ngoại khó nhọc nuốt một cục nghẹn và giữ chặt tách trà in hình hoa lá để đựng máu của tôi. “Không phải ở đó có một cái động mạch chủ sao? Ôi, Chúa ơi, đầu gối ta bải hoải hết cả rồi. Cháu sẽ chảy máu đến chết ở cái năm 1956 này chỉ vì sự cẩu thả của ông ngoại mình.” “Vâng, động mạch cũng to đấy, nhưng ông sẽ phải cứa theo chiều dọc thì mới chảy máu đến chết được. Ít nhất là cháu đọc được thế. Họ bảo có rất nhiều vụ tự tử không thành, và mấy người đó được phát hiện và cứu sống, nhưng lần tiếp theo thì họ đã biết làm thế nào cho đúng.” “Lạy Chúa!” Ông Lucas kêu lên. Bản thân tôi cũng thấy hơi nao nao, nhưng không còn lựa chọn nào khác. Thời điểm tuyệt vọng cần biện pháp tuyệt vọng, như Leslie vẫn nói. Tôi ngó lên vẻ mặt sửng sốt của ông Lucas và hạ lưỡi dao xuống cánh tay, cách cổ tay chỉ vài phân. Tôi lướt nó qua da mà không ấn mạnh tay. Đúng ra thì đó chỉ là thử nghiệm, nhưng tôi cắt sâu hơn mình tưởng, và đường chỉ đỏ dần loang ra. Cơn đau, cái cảm giác nóng rát, bắt đầu chỉ giây lát sau. Một dòng máu nhỏ đều đặn chảy vào chiếc tách trà trong đôi tay run rẩy của ông Lucas. Tuyệt hảo. “Cắt thịt như cắt bơ,” Tôi nói, ấn tượng. “Leslie bảo thế. Con dao này đúng là sắc chết người.” “Cất nó đi,” Ông Lucas khăng khăng. Ông trông như thể sắp nôn ngay được. “Trời đất, cháu quả là một cô gái dũng cảm, một thành viên dòng họ Montrose đích thực. Đúng như phương châm đúng đắn của gia đình…” ẳ Tôi cười khúc khích. “Vâng, hẳn là cháu thừa hưởng từ ông.” Nụ cười của ông Lucas trông hơi gượng gạo. “Đau lắm không cháu?” “Tất nhiên là có rồi,” Tôi nói. “Thế đã đủ chưa ạ?” “Ừ, thế này chắc chắn là đủ rồi,” Ông Lucas ọe một cái. “Ông muốn cháu mở cửa sổ không?” “Được rồi.” Ông đặt chiếc tách xuống bên máy đồng hồ và hít một hơi sâu. “Phần còn lại thì đơn giản.” Ông nhặt chiếc ống nghiệm lên. “Ta chỉ cần nhỏ ba giọt máu của cháu vào hai cái lỗ này, thấy không, ngay dưới con quạ nhỏ xíu này và hai dấu âm dương? Rồi ta vặn bánh xe và ấn cái cần này xuống. Được rồi đó. Cháu nghe thấy không?” Bên trong máy đồng hồ, vài chiếc bánh răng bắt đầu chuyển động. Có vài tiếng răng rắc, lách cách và ù ù, rồi không khí có vẻ nóng lên. Viên hồng ngọc nháy nháy, tiếng những chiếc bánh răng tắt dần, rồi tất cả lại yên tĩnh. “Thật kỳ lạ, phải không?” Tôi gật đầu, và cố lờ đi đống da gà da vịt đang nổi ầm ầm. “Giờ thì máu của tất cả những người du hành thời gian ngoại trừ Gideon đã được nhận diện trong chiếc máy đồng hồ nguyên gốc, phải không ạ? Điều gì sẽ xảy ra nếu máu của hắn cũng được nhận diện?” Tôi đã gập chiếc khăn tay của ông Lucas lại và ép lên miệng vết thương. “Ngoại trừ việc chẳng ai biết chắc nó là gì, thông tin này được xếp vào hàng tuyệt mật,” Ông nói. Chút màu sắc đã trở lại trên mặt ông. “Mỗi cận vệ phải quỳ xuống và thề sẽ không bao giờ nhắc đến bí mật với bất cứ ai ngoài hội kín. Anh ta phải thề trên mạng sống của mình.” “Ồ.” Ông Lucas thở dài. “Nhưng để ta nói cho cháu điều này… ta khá là yếu đuối trong chuyện phá bỏ mấy lời thề.” Ông chỉ vào một ngăn nhỏ trên máy đồng hồ, trang trí bởi một ngôi sao mười hai cánh. “Có điều này là chắc chắn này: khi máu của mười hai người mang gene được nhận dạng, một quy trình trong máy đồng hồ sẽ được hoàn thành, và thứ gì đó sẽ xuất hiện trong chiếc ngăn này. Lời tiên tri nhắc đến ‘tinh chất’ dưới ngôi sao mười hai cánh, hay, cũng có thể hiểu là viên đá tạo vàng. Bảo thạch sẽ hội tụ, hương vị thời gian sẽ bao trọn màn đêm, một khi thời gian gắn kết những người anh em, một kẻ sẽ trường sinh bất tử.” “Bí mật chỉ có thế thôi sao?” Tôi nói, thất vọng. “Lại là mấy thứ mơ hồ khó hiểu.” “Ừm, nếu cháu đặt các manh mối lại với nhau, mọi thứ khá rõ ràng đấy chứ. Dưới ánh sáng ngôi sao mười hai cánh, mọi đau ốm bệnh tật sẽ biến thật xa. Có vẻ nếu được dùng đúng, thứ mà máy đồng hồ tạo ra sẽ chữa được mọi bệnh tật của loài người.” Nghe thế còn được. “Vậy thì, trong trường hợp đó, cháu hy vọng tất cả đống rắc rối này là đáng giá,” Tôi lẩm bẩm, nghĩ đến sự ám ảnh của Đội Cận vệ với những bí mật và mớ nghi thức luật lệ rối rắm của họ. Nếu một phương thuốc chữa bách bệnh là thành quả, ta cũng có thể hiểu tại sao đám người đó lại tự đề cao bản thân như vậy. Phải rồi, chờ đợi vài trăm năm cho một phương thuốc kỳ diệu như thế cũng đâu có hề gì. Và bá tước Saint Germain chắc chắn sẽ được trọng vọng vì đã tìm ra nó. Giá mà ông ta không phải con người kinh khủng đến thế… “Nhưng Lucy và Paul nghi ngờ rằng liệu chúng ta có nên tin vào giả thuyết đá tạo vàng,” Ông Lucas nói, như thể đọc được ý nghĩ của tôi. “Chúng nói rằng một kẻ đã không ghê tay giết hại cụ tổ của mình chắc gì đã có chút tốt đẹp nào trong tâm hồn.” Ông hắng giọng. “Máu ngừng chảy chưa?” “Chưa ạ, nhưng cũng bắt đầu ngớt đi rồi.” Tôi giơ tay lên để đẩy nhanh quá trình. “Và giờ thì chúng ta làm gì? Liệu cháu có nên thử?” “Lạy Chúa, đây đâu có phải một cái xe mà lái thử,” Ông Lucas nói, vặn vẹo mấy ngón tay. “Sao lại không?” Tôi hỏi. “Chẳng phải ý tưởng ban đầu là vậy sao?” “À, ừ,” Ông nói, nheo mắt săm soi cuốn sổ đã mang theo. “Có lẽ cháu đúng. Ít nhất thì chúng ta cũng có thể chắc chắn là nó hoạt động, dù thời gian không còn nhiều cho lắm.” Đột nhiên ông phấn khởi trở lại. Ông nghiêng người mở cuốn Biên niên sử. “Chúng ta phải cẩn thận chọn một ngày nào đó, để làm sao cho cháu không đột nhiên hạ cánh giữa một cuộc họp của Hội. Hay là để cháu đừng chạm mặt anh em Villiers. Họ dành hàng giờ phân nhánh hồi khứ ở Long điện.” “Cháu có thể gặp quý bà Tilney không? Một mình ấy?” Tôi lại có một ý tưởng tuyệt vời. “Tốt nhất là năm nào đó sau 1912.” “Ta tự hỏi như thế liệu có phải là khôn ngoan.” Ông Lucas lật giở những trang sách. “Chúng ta không muốn làm sự thể thêm rắc rối.” “Nhưng chúng ta không thể bỏ lỡ những cơ hội ít ỏi này,” Tôi kêu lên, nghĩ đến những gì Leslie luôn nhắc tôi. Tôi phải tận dụng mọi cơ hội, nó nói vậy, và hơn hết là nghĩ được bao nhiêu câu hỏi thì tôi phải cố hỏi cho hết. “Ai mà biết được khi nào cơ hội tiếp theo sẽ tới?” Tôi hỏi. “Trong rương có thể có thứ gì đó khác, và nó sẽ đem lại tiến triển gì. Ông và cháu gặp nhau lần đầu tiên năm nào nhỉ?” “Ngày 12 tháng Tám năm 1948, mười hai giờ trưa,” Ông Lucas nói, chúi mũi vào cuốn Biên niên sử. “Ta sẽ không bao giờ quên.” “Chính xác, và để đảm bảo là ông không bao giờ quên, cháu sẽ viết nó ra,” Tôi nói. À há, mình đúng là thiên tài, tôi nghĩ. Tôi hí hoáy viết lên một trang vở. Kính gửi huân tước Lucas Montrose – Khẩn!!! 12 tháng Tám năm 1948, 12h trưa. Phòng giả kim thuật. Làm ơn tới một mình. Gwendolyn Shephern. Tôi xé trang giấy và gập lại. Ông tôi ngước nhìn lên một thoáng. “Ta có thể gửi cháu về năm 1852, 16 tháng Hai lúc nửa đêm. Quý bà Tilney phân nhánh tới đó từ chín giờ sáng ngày 25 tháng Mười hai năm 1929,” Ông lẩm bẩm. “Thật đáng thương, bà ấy còn không dành nổi một ngày Giáng sinh yên ổn ở nhà. Ít nhất thì họ còn đưa bà một cái đèn dầu. Nghe này, ở đây có viết: 12:30 P.M.: Quý bà Tilney trở về từ năm 1852, có vẻ rất phấn khởi. Dưới ánh đèn dầu, bà đã móc xong hai chú lợn con cho buổi từ thiện vào Đêm Thứ mười hai, với chủ đề năm nay là Cuộc sống Thôn dã.” Ông quay lại nhìn tôi. “Lợn con móc tay! Cháu tưởng tượng nổi không? Tất nhiên, bà ấy có thể được một phen hết hồn khi cháu đột nhiên nhảy ra từ giữa không trung. Chúng ta có phải mạo hiểm thế này không?” “Kỵ ấy chỉ có một cây kim móc, và theo cháu nhớ thì chúng không có đầu nhọn.” Tôi cúi xuống bên máy đồng hồ. “Được rồi, đầu tiên là năm. 1852, bắt đầu với M đúng không nhỉ? MDCCCLII. Và tháng Hai là số ba trong cái lịch Celtic ông vừa nói, không, là bốn chứ…” “Cháu làm cái gì vậy? Chúng ta phải băng vết cắt đó vào và suy nghĩ trước đã.” “Không có thì giờ đâu ông,” Tôi nói. “Ngày… đặt ngày bằng cái cần này đúng không?” Ông Lucas nhìn qua vai tôi đầy lo lắng. “Đừng nhanh thế! Ngày tháng phải được đặt chính xác hoàn toàn, không thì… không thì…” Trông ông lại có vẻ nôn nao. “Và cháu không bao giờ được ôm máy đồng hồ, nếu làm vậy cháu sẽ đem nó cùng về quá khứ luôn đấy. Và rồi cháu sẽ không thể trở về.” “Như Lucy và Paul,” Tôi thì thầm. “Hãy chọn khoảng thời gian ba phút, để cho an toàn. Từ mười hai rưỡi đến mười hai giờ ba mươi ba phút sáng nhé. Sau đó bà ấy có thể thảnh thơi ngồi móc mấy con lợn kia. Nếu bà ấy có ngủ thì đừng đánh thức, không thì bà ấy đau tim mất.” “Nếu vậy thì họ sẽ phải ghi lại trong Biên niên sử chứ?” Tôi ngắt lời ông. “Khi cháu gặp quý bà Tilney, cháu có ấn tượng kỵ ấy là một con người khá mạnh mẽ chứ không phải kiểu hay ngã ngất này nọ.” Ông Lucas dời chiếc máy đồng hồ ra bên cửa sổ và đặt nó xuống đằng sau tấm rèm. “Ta có thể đảm bảo là không có thứ đồ đạc nào quanh đây. Không cần đảo mắt. Timothy de Villiers từng hạ cánh xuống một cái bàn và gãy chân đấy.” “Vậy thì giả sử quý bà Tilney đang đứng đây mơ màng nhìn ra ngoài cửa sổ? Ôi đừng nhìn cháu như thế! Cháu chỉ đùa thôi, ông ngoại.” Tôi nhẹ nhàng ấn ông sang một bên, quỳ xuống trước máy, và mở cái nắp nhỏ bên dưới viên hồng ngọc. Ngón tay tôi vừa khít. “Đợi một chút! Vết thương của cháu!” “Ba phút nữa chúng ta có thể khám xét nó. Lúc đó gặp lại,” Tôi nói, hít một hơi sâu và ấn ngón tay xuống cây kim. Cảm giác đi tàu lượn quen thuộc xâm chiếm tôi, và khi thứ ánh sáng đỏ rực bắt đầu lan tỏa còn ông Lucas thì nói, “Nhưng ta vẫn phải…”, mọi thứ nhòa đi trước mắt tôi. Trong khi người ta đồn quân Jacobite đã tới Derby và hiện đang hành quân hướng về London, chúng tôi đã chuyển đến trụ sở mới. Thật sự hy vọng rằng báo cáo về 10.000 quân Pháp dưới trướng Hoàng tử Charles Edward Stuart, Kẻ Cướp Ngôi (được dân chúng biết đến là Hoàng tử Bonnie Charlie), là sai, để chúng tôi có thể ăn mừng một lễ Giáng sinh an lành trong thành phố. Không thể tưởng tượng ra một nơi nào phù hợp hơn cho Đội Cận vệ ngoài tòa Temple cổ kính. Rốt cuộc thì, chính các Hiệp sĩ Đền thánh cũng là người canh giữ những bí mật vĩ đại. Nhà thờ Temple không chỉ nằm gần trụ sở cũ, mà những mê cung của nó còn nối liền với tòa nhà kia. Chính thức thì chúng tôi sẽ triển khai các hoạt động chuyên môn từ Temple, nhưng tại đây cũng sẽ có nơi ở cho các môn sinh và khách khứa, và tất nhiên là cho những người hầu, cùng một số phòng thí nghiệm Giả kim thuật. Cũng rất vui dược nói rằng những lời phỉ báng của huân tước Alastair (xem báo cáo ngày 2 tháng Mười hai) đã không thể phá hủy mối quan hệ tốt đẹp giữa bá tước Saint Germain và Hoàng tử xứ Wales và rằng, nhờ sự bảo trợ của ngài, chúng tôi đã có thể mua được tòa nhà này. Lễ chuyển giao các tài liệu mật long trọng giữa bá tước Saint Germain và các thành viên Nội vụ sẽ diễn ra lại Long điện vào hôm nay. Trích Biên niên sử Đội Cận vệ 18 tháng Mười hai, 1745 Tường thuật bởi: Ngài Oliver Newton, Bộ Nội vụ. CHƯƠNG 4 Tôi mất vài giây để làm quen với nguồn ánh sáng mới. Long điện chỉ được thắp sáng bởi một ngọn đèn dầu đặt trên bàn. Những gì tôi nhìn thấy trong ánh sáng yếu ớt mà ấm áp là một bức tranh về cuộc sống yên bình: một chiếc rổ, vài cuộn len hồng hồng, một ấm trà trong chiếc giỏ ủ, và một chiếc cốc trang trí hoa hồng. Và quý bà Tilney, người đang ngồi móc, hạ tay xuống khi nhìn thấy tôi. Rõ ràng là kỵ già hơn so với lần gặp trước, với những sợi bạc lẫn trong mái tóc đỏ uốn gọn gàng. Dù vậy, kỵ vẫn mang vẻ oai nghiêm, xa cách như bà ngoại tôi. Và trông kỵ không có vẻ gì là sắp rú lên hay xông tới vung cây kim móc vào mặt tôi. “Giáng sinh vui vẻ,” Kỵ nói. “Giáng sinh vui vẻ,” Tôi đáp lời, hơi ngơ ngác. Trong phút chốc, tôi không biết phải nói gì tiếp theo, nhưng rồi tôi trấn tĩnh. “Đừng lo, cháu không muốn lấy máu của kỵ hay gì đó đâu.” Tôi bước ra khỏi cái bóng của tấm rèm. “Ồ, chúng ta đã giải quyết xong vụ máu me đó từ lâu rồi, Gwendolyn,” Quý bà Tilney nói với một chút quở trách, như thể tôi phải biết kỵ đang nói về điều gì. “Ta vẫn băn khoăn không biết bao giờ cháu sẽ lại xuất hiện. Cháu uống trà chứ?” “Không ạ, cảm ơn kỵ. Xem nào, cháu e mình chỉ có vài phút thôi.” Tôi bước tới gần và đưa bà mẩu giấy. “Ông ngoại cháu phải nhận được thứ này để… ừm, để mọi chuyện có thể diễn ra như nó đã xảy ra. Việc này rất quan trọng.” “Ta hiểu.” Quý bà Tilney nhận lấy tờ giấy và chậm rãi gấp nó lại. Trông kỵ không có chút khó chịu. “Tại sao kỵ lại chờ cháu?” Tôi hỏi. “Vì cháu bảo ta không được sợ hãi khi cháu tới thăm. Không may là cháu không nói khi đó là khi nào, nên ta đã đợi hàng năm trời để cháu đến và dọa ta.” Kỵ cười khẽ. “Nhưng mà móc mấy chú lợn này có tác dụng xoa dịu rất tốt. Thực lòng mà nói, nó có thể dễ dàng khiến cháu ngủ gật vì buồn chán.” Tôi có một câu “Dù sao thì thế cũng có ích,” đầy lịch sự trên đầu lưỡi, nhưng khi liếc nhìn chiếc rổ, tôi thốt lên, “Ôi, chúng thật đáng yêu!” Và chúng đáng yêu thật đấy. Lũ lợn đáng yêu hơn tôi tưởng nhiều, như những món đồ chơi mềm mại, và rất giống thật. “Lấy một con đi,” Quý bà Tilney nói. “Kỵ nói thật sao?” Tôi nghĩ đến Caroline và cho tay vào rổ. Lũ lợn đều mềm và xù bông lên. “Len lông dê và cashmere,” Quý bà Tilney nói với giọng tự hào. “Ta chưa bao giờ dùng thứ gì khác. Hầu hết mọi người đều móc với len lông cừu, nhưng mà thứ đó gây ngứa ngáy vô cùng.” “Ồ, vâng. Cảm ơn kỵ!” Ôm chú lợn hồng xinh xinh vào ngực, tôi dành một thoáng để sắp xếp lại ý nghĩ. Chúng tôi nói đến đâu rồi nhỉ? Tôi hắng giọng. “Khi nào chúng ta lại gặp nhau ạ? Ý cháu là, ở trong quá khứ ấy?” “Năm 1912. Mặc dù đó không phải là lần tới ở bên ta.” Kỵ thở dài. “Những ngày tháng ấy mới náo động làm sao…” “Ôi, khỉ!” Dạ dày tôi lại trèo lên tàu lượn. Tại sao chúng tôi không chọn một khung thời gian dài hơn cơ chứ? “Nếu vậy thì, kỵ biết nhiều hơn cháu,” Tôi vội vàng nói. “Không có thời gian nói chi tiết, nhưng mà… có lẽ kỵ có thể cho cháu xin vài lời khuyên tốt?” Tôi đã lùi vài bước về phía cửa sổ, ra khỏi quầng sáng ngọn đèn. “Lời khuyên?” “Vâng. À, mấy thứ kiểu như là: hãy cảnh giác với…?” Tôi nhìn bà đầy hy vọng. “Cảnh giác cái gì?” Quý bà Tilney nhìn lại tôi với vẻ hy vọng y chang. “Đó là thứ cháu không biết! Cháu phải cảnh giác với thứ gì?” “Sandwich bò hun khói, thứ đó là một, và quá nhiều ánh sáng mặt trời. Nó hại da lắm,” Quý bà Tilney nói đầy chắc chắn, rồi kỵ nhòe đi trước mắt tôi và tôi trở về năm 1956. Sandwich bò hun khói, ôi Chúa ơi! Đáng nhẽ tôi phải hỏi tôi cần cảnh giác với ai, không phải với cái gì. Nhưng quá muộn rồi. Tôi đã mất cơ hội. “Cái quái gì vậy?” Ông Lucas kêu lên khi nhìn thấy con lợn. Phải, và thay vì tận dụng mọi giây quý giá để lấy thông tin từ quý bà Tilney, tôi đã ngu ngốc dành thời gian vào một thứ đồ chơi màu hồng. “Nó là một con lợn móc, ông ngoại à, ông có thể thấy nó mà,” Tôi mệt mỏi nói. Tôi thực sự rất thất vọng về bản thân! “Lông dê và cashmere. Những người khác dùng thứ lông cừu ngứa ngáy.” “Dù sao thì cuộc thí nghiệm của chúng ta cũng thành công,” Ông Lucas nói, lắc đầu. “Cháu có thể dùng chiếc máy đồng hồ, và chúng ta có thể hẹn gặp một ngày khác. Trong nhà ta.” “Mọi thứ kết thúc nhanh quá,” Tôi kêu lên đầy ai oán. “Cháu không tìm hiểu thêm được thứ gì cả!” “Ít nhất cháu cũng có một… ừm, một con lợn, và quý bà Tilney không bị đau tim. Hay là có?” Tôi lắc đầu trong vô vọng. “Tất nhiên là không rồi.” Ông Lucas gói máy đồng hồ vào chiếc khăn nhung và đem nó lại chỗ đền thờ. “Đừng lo. Thế này chúng ta sẽ có đủ thời gian đưa cháu xuống hầm và tiếp tục lên kế hoạch trong khi đợi cháu vượt thời gian trở về. Mặc dù nếu cái tên Cantrell vô dụng kia đã ngủ thì chúng ta cũng không biết phải ăn nói thế nào đây.” •§• Tôi thấy khá vui khi hạ cánh tại phòng máy đồng hồ trong thời của mình. Mặc dù chuyến đi để lấy chú lợn hồng kia (tôi đã nhét nó vào cặp) không đem lại mấy lợi ích, nhưng ông Lucas và tôi đã vạch ra một kế hoạch khôn ngoan. Nếu đúng là chiếc máy đồng hồ cũ ở trong cái rương kia, chúng tôi sẽ không phải dựa vào may rủi nữa. “Có việc gì đặc biệt không?” Marley hỏi. Ờ, để xem nào: tôi dành cả buổi chiều lên kế hoạch mưu phản với ông ngoại, phá vỡ đủ thứ luật lệ. Chúng tôi nhận diện máu của tôi vào máy đồng hồ, và rồi tôi trở về năm 1852 để lên kế hoạch mưu phản với quý bà Tilney. Được rồi, tôi không thực sự lên kế hoạch mưu phản gì với kỵ cả, nhưng dù sao thì đó cũng là một cuộc gặp trái phép. “Thi thoảng cái bóng đèn nháy vài cái,” Tôi nói, “và tôi học thuộc lòng từ vựng tiếng Pháp.” Marley cúi xuống bên cuốn nhật ký, và với nét chữ nhỏ chỉn chu của mình, anh ta viết 19h43, Hồng ngọc trở về từ năm 1956, hoàn thành bài tập ở đó, bóng đèn nhấp nháy. Tôi nén một tiếng cười khúc khích. Anh ta cứ phải ghi mọi thứ thật chi tiết! Tôi đồ là anh ta thuộc cung Xử nữ. Nhưng giờ đã quá muộn. Hy vọng mẹ tôi chưa bảo Leslie về nhà trước khi tôi về tới nơi. Tuy nhiên, Marley không có vẻ gì là vội vàng cả. Anh ta vặn cái nắp bút vào chậm rãi đến phát điên. “Tôi có thể tự tìm đường ra,” Tôi nói. “Không, cô không được làm thế,” Anh ta cảnh giác nói. “Tất nhiên tôi sẽ hộ tống cô ra xe.” Marley đóng cuốn nhật ký và đứng dậy. “Và tôi sẽ phải bịt mắt cô, cô biết tôi phải làm vậy mà.” Tôi thở dài để anh ta thắt dải khăn đen quanh đầu. “Tôi vẫn không hiểu vì sao mình không được biết đường đến căn phòng này.” Ngoại trừ việc là tôi đã thuộc nằm lòng nó rồi. “Bởi vì điều đó được nhắc đến trong Biên niên sử,” Marley nói, nghe có vẻ ngạc nhiên. “Cái gì cơ?” Tôi thốt lên. “Tên tôi trong Biên niên sử, và mấy người đó nói tôi không được biết đường tới đây và quay lại? Sao lại không?” Giờ thì giọng Marley lộ rõ vẻ không thoải mái. “Đúng ra thì tên cô sẽ không có ở đó, không thì trong những năm qua viên hồng ngọc kia, ý tôi là cô Charlotte, tất nhiên, sẽ không…” Anh ta hắng giọng rồi im bặt, và tôi nghe tiếng mở cửa. “Cho phép tôi,” Anh ta nói, nắm lấy cánh tay tôi. Anh ta dẫn tôi ra hành lang. Tôi không nhìn thấy gì, nhưng tôi chắc chắn là anh ta lại bắt đầu đỏ bừng mặt mũi. Tôi thấy mình như đang đi cạnh một cái lò sưởi. “Chính xác thì họ nói gì về tôi trong đó?” Tôi hỏi. “Xin lỗi, nhưng tôi thực sự không thể… tôi đã nói quá nhiều rồi.” Bạn như có thể nghe thấy anh ta vặn vẹo hai bàn tay, hay ít nhất là cái tay không nắm lấy tôi. Và anh chàng này tự nhận mình là hậu duệ của Rakoczy nguy hiểm! Cứ như đùa! “Đi mà, Leo,” Tôi nói, cố gắng thân thiện hết mức có thể. “Xin lỗi, nhưng cô sẽ không biết thêm được điều gì từ tôi.” Cánh cửa nặng nề chốt lại sau chúng tôi. Marley thả tay tôi ra để khóa nó, cảm tưởng như mất đến cả chục phút đồng hồ, trong khi tôi cố gắng tiết kiệm thời gian bằng cách bước thêm một bước, cũng không dễ dàng lắm với hai mắt bị bịt kín. Marley lại túm lấy tay tôi, và thật may, vì tôi có thể đâm thẳng vào tường nếu không có người dẫn. Tôi quyết định nịnh hót anh ta. Chẳng chết ai được. Có lẽ tí nữa anh ta sẽ rò rỉ thêm thông tin. “Anh biết không, tôi đã gặp cụ tổ anh rồi đấy.” Đúng ra thì tôi đã chụp ảnh ông ta, nhưng rủi là tôi không thể khoe với Marley. Anh ta sẽ mách chuyện tôi mang những vật cấm về quá khứ. “Thật sao? Tôi ghen tị với cô. Hẳn là nam tước có một tính cách ấn tượng.” “Ừm, phải, rất ấn tượng.” Quá đúng luôn ấy chứ! Lão già điên rồ đáng sợ! “Ông ấy hỏi tôi về Transylvania, nhưng không may, tôi chẳng biết gì mấy về nơi đó cả.” “Phải, sống cuộc đời tha hương hẳn là rất khó khăn,” Marley nói. Rồi sau đó anh ta rú lên một tiếng “eek!” chói tai. Chuột, tôi nghĩ, và trong lúc hoảng loạn, tôi giật cái khăn bịt mắt ra. Nhưng không phải một con chuột đã khiến Marley rú lên. Đó là Gideon. Vẫn râu ria như chiều nay, thực ra thì còn nhiều râu hơn, nhưng đôi mắt hắn sáng và thận trọng. Và điển trai vô cùng cực. “Chỉ là tôi thôi,” Hắn nói, miệng cười cười. “Tôi có thể thấy điều đó,” Marley cằn nhằn. “Anh khiến tôi sợ chết khiếp.” Tôi cũng thế. Môi dưới tôi lại bắt đầu run rẩy, và tôi bặm môi, cố gắng bắt cái thứ ngu xuẩn đó ngừng lại. “Cậu có thể về nhà rồi. Tôi sẽ đưa Gwendolyn ra xe,” Gideon nói, giơ tay ra cho tôi như thể anh ta chắc chắn tôi sẽ nắm lấy. Tôi cố trông ngạo mạn hết mức có thể với mấy chiếc răng cắm chặt vào môi dưới, có lẽ trông tôi giống một con hải ly, một con hải ly ngạo mạn chẳng hạn, và mặc kệ tay hắn. “Không được,” Marley nói. “Việc của tôi là hộ tống cô Gwendolyn ra - ááá!” Anh ta nhìn tôi chằm chằm, vẻ mặt kinh hoảng. “Ôi, cô Gwendolyn, sao cô lại tháo khăn? Điều đó là trái luật.” “Tôi cứ tưởng anh nhìn thấy chuột,” Tôi nói, ném một cái nhìn u ám về phía Gideon. “Tôi cũng chẳng sai lắm.” “Nhìn xem anh đã làm gì này!” Marley buộc tội. “Tôi không biết mình có thể… luật nói rằng… Và nếu chúng ta…” “Đừng cứng nhắc thế, Marley. Đi nào, Gwen, ra xe thôi.” “Nhưng anh không thể… tôi phải…” Marley lắp bắp. “Và… Và… Và anh không có quyền nói tôi phải làm gì…” “Vậy thì cứ đi mách tội tôi đi.” Gideon nắm tay và kéo tôi theo. Tôi định phản kháng, nhưng rồi nhận ra rằng như thế sẽ chỉ tốn thêm thời gian. Chúng tôi có thể sẽ đứng đó kèn cựa nhau đến tận sáng mai. Vậy nên tôi để hắn dẫn mình đi, ngoái lại nhìn Marley đầy hối lỗi. “Gặp anh sau, Leo.” “Phải, chính xác. Gặp anh sau, Leo,” Gideon nói. “Anh… Vụ này chưa xong đâu,” Marley lắp bắp đằng sau chúng tôi. Mặt anh ta sáng như ngọn hải đăng trong căn hầm tối. “Không, chắc chắn rồi, chúng tôi đang run rẩy vì sợ hãi đây.” Gideon dường như không bận tâm việc Marley có thể nghe thấy hắn bồi thêm, “Tên huênh hoang ngu ngốc.” Tôi đợi tới khi rẽ sang một con đường khác rồi rũ tay Gideon ra, và bước nhanh hơn đến mức tôi như đang chạy. “Muốn tham gia Thế vận hội lắm sao?” Gideon hỏi. Tôi quay ngoắt lại đối mặt với hắn. “Anh muốn gì?” Leslie sẽ rất tự hào về cách tôi quát vào mặt hắn. “Tôi đang vội.” “Tôi chỉ muốn chắc rằng em đã hiểu lời xin lỗi của tôi lúc chiều.” Giọng hắn không còn chút châm chọc. Nhưng giọng tôi thì không thế. “Ừa, tôi hiểu,” Tôi khịt mũi. “Tức là tôi sẽ không chấp nhận nó.” “Gwen…” “Được rồi, anh không cần nói anh rất thích tôi nữa. Đoán coi, tôi cũng đã thích anh. Thực ra thì tôi đã rất thích anh. Nhưng giờ thì tôi không thế nữa.” Tôi chạy nhanh hết mức có thể lên chiếc cầu thang xoắn, và kết quả là tôi hết cả hơi khi lên tới nơi. Tôi muốn vắt mình qua lan can mà thở. Nhưng tôi sẽ không để lộ sự yếu ớt của mình như vậy. Nhất là khi Gideon chẳng mấy khó khăn mà đuổi kịp tôi. Nên là tôi chạy tiếp, tới khi hắn nắm lấy cổ tay tôi và bắt tôi đứng yên. Tôi nhăn mày khi ngón tay hắn siết vào miệng vết thương. Nó bắt đầu chảy máu. “Em ghét tôi cũng được thôi, thật đấy, không vấn đề gì cả,” Gideon nói, nghiêm túc nhìn thẳng vào mắt tôi. “Nhưng tôi đã phát hiện ra những điều khiến sự hợp tác giữa hai ta trở nên vô cùng cần thiết. Để em… để chúng ta có thể giữ nguyên mạng mà thoát ra khỏi vụ này.” Tôi cố giằng tay ra, nhưng hắn chỉ siết tay chặt hơn. “Những điều gì?” Tôi hỏi, mặc dù tôi thà hét lên “Oái!” còn hơn. “Tôi không biết chính xác, chưa hẳn. Nhưng có thể tôi đã sai về Lucy và Paul và ý định của họ. Nên việc quan trọng bây giờ là em…” Hắn ngừng lại, thả tôi ra, và nhìn xuống lòng bàn tay. “Có phải đó là máu?” Chết tiệt. Tôi không được tỏ vẻ tội lỗi. “Chẳng có gì đáng nói cả. Tôi cắt phải tay vào tờ giấy ở trường sáng nay. Bám vào chủ đề đi. Trừ phi anh nói cụ thể hơn,” Nghĩ ra câu đó, tôi tự hào kinh khủng! “Tôi sẽ không hợp tác với anh trong việc quái gì cả.” Gideon cố cầm lấy tay tôi lần nữa. “Đây, vết cắt đó trông kinh quá. Để tôi coi nào… Chúng ta nên tới gặp bác sĩ White. Có lẽ ông ấy vẫn ở trong tòa nhà.” “Chắc ý anh là anh không muốn nói thêm gì về cái thứ anh phát hiện ra chứ gì.” Tôi giơ tay tránh ra, không cho hắn kiểm tra vết thương. “Bởi vì chính tôi cũng chưa biết phải nghĩ như thế nào,” Gideon nói. Và giống như ông Lucas, hắn thêm vào bằng một giọng đầy tuyệt vọng, “Tôi cần thêm thời gian!” “Ai không cần thêm chứ?” Tôi cất bước. Chúng tôi đã tới xưởng của Madame Rossini, và cửa lớn không còn xa nữa. “Tạm biệt, Gideon. Gặp anh ngày mai, không may là vậy.” Tôi bí mật đợi hắn giữ tôi lại một lần nữa, nhưng hắn không làm vậy. Hắn cũng không đuổi theo tôi. Tôi rất muốn nhìn thấy vẻ mặt hắn, nhưng tôi không quay lại. Dù sao thì, làm thế cũng thật là ngu ngốc, bởi nếu vậy thì hắn sẽ thấy những giọt nước mắt lại chảy dài trên má tôi. •§• Nick đợi tôi trước cửa nhà. “Cuối cùng!” Nó kêu lên. “Em muốn bắt đầu mà không có chị, nhưng ông Bernhard bảo là phải đợi. Ông đã đảm bảo cái cần giật nước của toilet trong buồng tắm xanh bị hỏng để không ai dùng nó, và ông ấy bảo là phải gỡ gạch lát ra để tháo cái bồn chứa nước. Bọn em còn chốt cánh cửa bí mật từ bên trong nữa. Thông minh đấy chứ?” “Rất thông minh.” “Nhưng mà tầm một tiếng nữa quý bà Arista với bác Glenda đã về rồi, và thể nào họ cũng bảo ông ấy hoãn việc sửa chữa đến mai.” “Vậy thì mình phải nhanh tay lên.” Tôi ôm nhanh nó một cái và đặt một nụ hôn lên mớ tóc đỏ bờm xờm của nó. Việc đó thì lúc nào tôi cũng có thời gian! “Em chưa kể với ai đấy chứ?” Trông Nick hơi xấu hổ. “Chỉ có Caroline thôi. Nó quá… ôi, chị biết nó luôn ngửi ra là có chuyện gì đó mà, và nó hỏi nhiều kinh khủng. Nhưng nó sẽ im lặng và giúp chúng ta đánh lạc hướng mẹ, bà Maddy và chị Charlotte.” “Đặc biệt là Charlotte,” Tôi nói, tự nói với mình nhiều hơn là với Nick. “Họ đều đang ở phòng ăn trên gác. Mẹ đã mời chị Leslie ở lại ăn tối.” Trong phòng ăn, mọi người vừa mới rời khỏi bàn. Tức là bà Maddy đã tới ngồi trên chiếc ghế bành bên lò sưởi và ghếch chân lên trong khi ông Bernhard và mẹ dọn dẹp bàn ăn. Mọi người đều vui khi thấy tôi, trừ Charlotte. Ôi dào, có lẽ chị ấy chỉ rất giỏi giấu sự vui mừng thôi. Xemerius lướt xuống từ trên đèn chùm và kêu lên, “Cuối cùng, cậu đây rồi! Tớ suýt thì chết vì chán.” Mặc dù đồ ăn vẫn còn tỏa ra thứ mùi thơm ngon lành và mẹ bảo là đã để dành thứ gì đó nóng cho tôi, tôi hào hùng tuyên bố rằng mình không đói vì đã ăn ở Temple. Dạ dày tôi thắt lại đầy tức giận trước lời dối trá khủng khiếp này, nhưng tôi không thể phí thì giờ thỏa mãn nó. Leslie nhìn tôi cười nhe răng. “Cà ri ngon lắm. Tớ ăn không thể ngừng được. Mẹ tớ đang trải qua giai đoạn thích thử nghiệm. Kể cả con chó của tớ cũng không nuốt nổi mấy món thực dưỡng mẹ tớ nấu những ngày này.” “Dù vậy, trông cậu khá là… ừm, cứ nói là được nuôi dưỡng khá tốt đi,” Charlotte gắt. Chị ta tết tóc và vấn lên, nhưng vài lọn tóc nhỏ đã rơi xuống và ôm lấy khuôn mặt chị trông rất xinh. Làm sao một người có thể vừa xinh đẹp vừa xấu tính đến thế? “Chị thật may mắn. Ước gì em cũng có một con chó,” Caroline nói. “Hay bất cứ loại vật nuôi gì cũng được.” “Đừng bận tâm. Chúng ta có Nick rồi,” Charlotte nói. “Thế cũng gần như là có một con khỉ.” “Đừng quên chị, cái đồ nhện độc xấu tính!” Nick nói. “Nói hay lắm, anh bạn trẻ!” Xemerius reo lên, lại trèo lên đèn chùm. Nó vỗ tay. Mẹ vẫn giúp ông Bernhard xếp đĩa bẩn vào thang máy rửa bát. “Con biết là chúng ta không thể có vật nuôi vì bác Glenda dị ứng với động vật mà Caroline.” “Chúng ta có thể kiếm một con chuột chũi trụi lông mà,” Caroline nói. “Thế còn hơn là không có gì.” Charlotte mở miệng rồi lại ngậm lại, rõ ràng là bởi chị ta không nghĩ ra cái gì xấu để nói về chuột chũi trụi lông. Bà Maddy đã ngồi thoải mái trên ghế của mình. Bà mơ màng chỉ lên gò má tròn hồng hào, “Hôn bà bác già của cháu đi nào, Gwendolyn. Thật tiếc là mấy ngày nay chúng ta gặp cháu ít quá. Hôm qua ta mơ về cháu, nhưng phải nói rằng đó không phải một giấc mơ đẹp…” “Bà kể cho cháu sau được không?” Khi hôn bà, tôi thì thầm. “Và bà có thể giúp cháu giữ Charlotte tránh khỏi buồng tắm xanh được không?” Lúm đồng tiền của bà Maddy sâu thêm, và bà nháy mắt với tôi. Đột nhiên, trông bà lại tình như sáo. Mẹ, đang có cuộc hẹn với một người bạn, có tâm trạng tốt hơn hẳn mấy ngày trước. Không còn vẻ mặt lo lắng, không còn thở dài sườn sượt khi nhìn thấy tôi. Điều khiến tôi ngạc nhiên là mẹ thậm chí còn cho phép Leslie ở lại muộn hơn một chút và tha cho chúng tôi bài giảng thường lệ về sự nguy hiểm khi đi xe buýt vào tối muộn. Tuyệt hơn là mẹ còn bảo Nick có thể giúp ông Bernhard sửa nhà tắm đến lúc nào cũng được. Caroline là người duy nhất xui xẻo. Con bé bị đuổi lên đi ngủ. “Nhưng con muốn ở đó khi mọi người phát hiện kh… khi mọi người gỡ bồn nước ra,” nó cầu khẩn, nén lại vài giọt nước mắt khi không thể làm mẹ mềm lòng. “Giờ chị cũng sẽ lên giường,” Charlotte bảo Caroline. “Với một cuốn sách hay.” “Dưới bóng ngọn núi Ma cà rồng,” Xemerius nói. “Chị ta đang tới trang 413, khi anh chàng Christopher St. Ives trẻ tuổi, mặc dù anh ta cũng bất tử nữa, đưa được nàng Mary Lou xinh đẹp lên giường.” Tôi nhìn nó kỳ lạ, và trước sự ngạc nhiên, đột nhiên trông nó hơi xấu hổ. “Tớ chỉ nhòm một chút thôi, thật đấy,” Nó nói, nhảy từ đèn chùm xuống bệ cửa sổ. Bà Maddy nhanh chóng tấn công Charlotte bằng một tuyên bố. “Ồ, cháu yêu, ta hy vọng cháu có thể bầu bạn với ta trong phòng nhạc một lúc,” Bà nói. “Ta rất muốn chơi sắp chữ.” Charlotte đảo mắt. “Lần trước chúng ta đã phải đá bà khỏi trò chơi vì bà cứ khăng khăng có từ mèo tai.” “Có chứ sao không. Đó là một con mèo có tai.” Bà Maddy đứng dậy và cầm tay Charlotte. “Nhưng hôm nay ta không phiền đâu nếu cháu nói từ đó không được tính.” “Chim mùa xuân và nước bò cũng thế,” “Ồ, nhưng chắc chắn là có một chú chim mùa xuân mà, cháu yêu,” Bà Maddy nói, nháy mắt với tôi lần nữa. Tôi ôm mẹ trước khi về phòng với Leslie. “Và tiện thể, con phải gửi lời chào của Falk de Villiers tới mẹ. Ông ấy muốn biết liệu mẹ có bạn trai chưa.” Đáng nhẽ tôi nên giữ cái tin nhắn cho tới khi Charlotte và bà Maddy rời khỏi phòng, bởi vì hai người đó đứng khựng lại, cắm rễ tại chỗ, và nhìn mẹ đầy hứng thú. “Cái gì?” Mẹ hơi đỏ mặt. “Và con nói với ông ấy cái gì?” “À, con nói là mẹ không hẹn hò với ông nào từ lâu lắm rồi, và người gần đây nhất thì hay cãi cọ mỗi khi ông ta nghĩ mẹ không nhìn.” “Con không hề nói thế!” Tôi cười, “Không, con không nói thế.” “Ồ, hai đứa đang nói về tên chủ nhà băng điển trai mà Arista muốn gả cháu cho sao, Grace? Ngài Itchman[7],” Bà Maddy nói. “Cá là hắn có rận hay gì đó.” Leslie cười khúc khích. “Tên anh ta là Hitchman, bà Maddy.” Mẹ tôi xoa xoa cánh tay, run rẩy. “Cũng may là cháu chưa bao giờ tìm ra liệu vụ chấy rận kia có phải thật không. Vậy thì con bảo ông ấy cái gì? Falk ấy, ý mẹ là vậy.” “Chẳng có gì cả,” Tôi nói. “Mẹ muốn con hỏi liệu ông ấy có bạn gái chưa vào lần gặp tiếp theo không?” “Đố con dám,” Mẹ nói. Rồi bà cười và thêm vào. “Anh ta không có đâu. Tình cờ mẹ biết được từ một người bạn. Cô ấy có một người bạn biết Falk khá rõ… không phải là mẹ hứng thú hay gì đâu.” “Không, tất nhiên là không rồi!” Xemerius nói. Nó bay khỏi bệ cửa sổ và hạ cánh xuống giữa bàn ăn. “Chúng ta chuyển đề tài được chưa?” •§• Nửa tiếng sau, Leslie đã được cập nhật đầy đủ các diễn biến mới nhất, và Caroline trở thành chủ nhân một chú lợn móc len màu hồng, đồ cổ hàng thật, từ năm 1929. Khi tôi kể về xuất xứ của chú lợn, con bé ấn tượng vô cùng và nói nó sẽ đặt tên chú lợn của mình là Margaret, theo tên quý bà Tilney. Nó vui vẻ ôm chặt Margaret và chìm vào giấc ngủ khi mọi thứ yên tĩnh trở lại. Ngoại trừ tiếng búa và đục của ông Bernhard, tất nhiên rồi. Ngồi ở đâu trong nhà cũng nghe thấy được. Chúng tôi sẽ không bao giờ bí mật gỡ nổi một viên gạch ra khỏi tường. Và ông Bernhard với Nick cũng không thể bí mật đem chiếc rương lên phòng tôi nữa. Bà Maddy bước vào ngay sau họ. “Bà ấy tóm được bọn em trên cầu thang,” Nick nói đầy hối lỗi. “Và ngay lập tức nhận ra chiếc rương nhỏ đó,” Bà Maddy nói. Bà có vẻ phấn khích. “Ôi, nó thuộc về anh trai Lucas của ta! Nó ngự ở trong thư phòng hàng năm trời, và rồi, ngay trước khi anh ấy mất, nó biến mất luôn. Nên là ta nghĩ ta có quyền biết các cháu định làm gì với nó.” Ông Bernhard thở dài. “E là chúng ta không còn lựa chọn nào khác,” Ông bảo tôi. “Quý bà Arista và cô Glenda sắp về nhà tới nơi rồi.” “Phải, vậy nên ta là lựa chọn tốt hơn trong hai kẻ xấu, đúng không nào?” Bà Maddy cười đầy tự mãn. “Miễn là Charlotte không biết chuyện gì đang xảy ra,” Leslie nói. “Đừng lo, con bé đã tức giận bỏ về phòng vì ta đặt từ kéo bài xuống.” “Thứ mà mọi người đều biết là kéo để cắt bài,” Xemerius nói. “Thiết yếu trong mỗi gia đình.” Bà Maddy quỳ xuống bên chiếc rương và vuốt ve cái nắp đầy bụi. “Cháu tìm thấy nó ở đâu vậy?” Ông Bernhard nhìn tôi dò hỏi, và tôi nhún vai. Dù sao thì bà ấy cũng ở đây, chúng tôi cũng nên kể cho bà toàn bộ câu chuyện “Tôi đã xây nó vào trong tường, theo chỉ dẫn của anh trai bà,” Ông Bernhard đường hoàng nói. “Đó là buổi tối ngay trước ngày mất của ông ấy.” “Buổi tối ngay trước ngày mất?” Tôi lặp lại. Cái này cũng là tin mới với tôi. “Và có gì trong này?” Bà Maddy muốn biết. Bà lại đứng dậy, nhìn quanh tìm chỗ ngồi. Vì không thấy chỗ nào khác, bà ngồi xuống bên Leslie trên mép giường tôi. “Đúng đó, đó là câu hỏi trọng yếu,” “Câu hỏi trọng yếu,” Ông Bernhard nói, “là làm sao chúng ta có thể mở chiếc rương. Bởi chìa khóa đã biến mất, cùng với nhật ký của huân tước Montrose, trong vụ trộm.” “Vụ trộm nào ạ?” Leslie và Nick đồng thanh. “Tên trộm đột nhập vào ngày diễn ra tang lễ ông ngoại các cháu,” Bà Maddy giải thích. “Trong khi mọi người đang tiễn biệt ông ở nghĩa trang. Thật là một ngày buồn bã, phải không, ông Bernhard thân mến?” Bà hỏi, nhìn lên ông. Ông lắng nghe mà không để lộ chút cảm xúc. Câu chuyện nghe có vẻ quen quen. Theo như tôi nhớ, những tên trộm đã bị đánh động và bỏ trốn trước khi chúng có thể chôm bất cứ thứ gì. Nhưng khi tôi nói thế với Nick và Leslie, bà Maddy phản đối. “Không, không, thiên thần nhỏ của ta. Cảnh sát chỉ cho rằng không có thứ gì bị mất bởi vì tất cả tiền bạc, khế ước ngôi nhà này, và các trang sức quý giá đều an toàn trong két.” “Và điều đó chỉ có lý khi thứ lũ trộm nhắm tới là các cuốn nhật ký,” Ông Bernhard nói. “Khi đó, ta cho phép bản thân đề đạt giả thuyết này với cảnh sát, nhưng không ai tin ta. Hơn nữa, không có dấu hiệu nào cho thấy