🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bị Theo Dõi - Bí Mật An Ninh Mạng - Edward Snowden & Đăng Thư (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller] Ebooks Nhóm Zalo Giới thiệu Edward Snowden sinh tại Thành phố Elizabeth, Bắc Carolina. Anh là một kỹ sư hệ thống máy tính lành nghề, từng làm sĩ quan của Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) và làm nhà thầu cho Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSA). Anh đã nhận được nhiều giải thưởng về dịch vụ công, bao gồm giải Right Livelihood, giải “Người thổi còi” của Đức, giải Ridenhour cho Câu chuyện Sự thật và huy chương Carl von Ossietzky từ Liên đoàn Nhân quyền Quốc tế. Hiện anh là chủ tịch hội đồng quản trị của Tổ chức Tự do Báo chí. Bị theo dõi (tựa gốc: Permanent Record) mô tả về thời thơ ấu của Snowden và thời gian anh làm việc tại CIA, NSA cũng như động cơ khiến anh tiết lộ hoạt động giám sát hàng loạt của các cơ quan này. Những tiết lộ của Snowden đã tạo nên cuộc tranh luận trên quy mô toàn cầu về hoạt động giám sát. Cuốn tự truyện này được viết một cách dí dỏm, duyên dáng, đầy đam mê, hấp dẫn với nhiều bí mật được phanh phui. Đây là một cuốn tự truyện quan trọng trong thời đại kỹ thuật số của chúng ta và chắc hẳn sẽ khiến chúng ta lưu tâm hơn về quyền tự do cá nhân trong không gian mạng. Acknowledgement Tặng L “Snowden không đưa bất kỳ ‘bom tấn’ mới nào vào cuốn sách của mình, nhưng lại mang đến cho chúng ta một cuốn hồi ký dễ đọc về việc lớn lên với Internet, nguồn cơn cho hành động của anh, và nhìn vào cách chính phủ đã thể hiện sự giám sát kể từ khi anh tiết lộ.” - Greg Myre, NPR News “... Hấp dẫn... Phần kết sách là bản mô tả thú vị về cách Snowden thu thập chứng cứ về các công cụ và phương pháp mà NSA đã tạo ra để tuân thủ những đơn đặt hàng ‘một lần duy nhất’ mà họ đã nhận từ các chính trị gia của họ sau sự kiện 11/9... Anh cũng thẳng thắn nói về những cảm xúc dằn vặt mà dự án bí mật này áp lên anh, đặc biệt là nỗi đau khổ khi phải bất chợt từ bỏ người yêu của mình, Lindsay, mà chẳng thể cho cô bất kỳ cảnh báo nào về những gì anh sẽ làm. Nếu bất cứ ai nghĩ rằng “tuýt còi” là việc dễ dàng, thì có lẽ họ chưa từng kinh qua.” - John Naughton, The Observer (UK) Bị theo dõi là nỗ lực lật ngược hướng ống nhòm và mang đến bức chân dung của một người đàn ông - một người tuýt còi?, người tiết lộ?, người chống đối? hay một gián điệp? - người đã bước đi trên mặt đất, trong những ngày này dưới cái tên Edward Snowden... Vậy nên cuốn tự truyện của anh cũng rất bộc trực và đáng khâm phục. Anh đã đánh liều giả định rằng độc giả không chỉ quan tâm đến hành động ngông cuồng vốn mang lại danh tiếng lẫn tai tiếng cho mình, mà còn đến sự hình thành nhân cách của anh, cũng như quá trình hiểu biết về công nghệ, hoạt động gián điệp, sự theo dõi và nhân quyền... Bị theo dõi có phần chạm đỉnh sớm hơn Snowden nghĩ, và hơn cả độc giả kỳ vọng. Bộ phim truyền hình riêng tư về những phát hiện và khám phá bản thân của anh, về những khao khát ban đầu của anh dành cho các hệ thống và tính xác thực, về sự trỗi dậy của lòng yêu nước ở cả giai đoạn ngây thơ lẫn muộn màng, về cuộc phiêu lưu của anh như một người làm việc bình thường với tâm trí phi thường, và, trên hết, sự hình thành bất lực một cuộc khủng hoảng đạo đức của chính anh - tất cả những điều này làm cho cuốn sách trở nên đáng đọc. - Jonathan Lethem, The New York Review of Books Khi xem qua những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời Snowden, vốn nhằm mục đích bối cảnh hóa quyết định cuối cùng của anh là lấy tài liệu từ cơ sở NSA ở Hawaii, nơi anh đang làm việc, bạn sẽ thấy tựa đề này như một thước phim trinh thám. Nếu những tiết lộ đến từ Snowden mang tính bùng nổ, thì việc anh kể lại những tiết lộ của họ là một cao trào. Mọi việc đều hướng đến những khoảnh khắc mà anh hồi hộp chờ đợi các nhà báo đến phòng khách sạn của mình để trao các tài liệu tuyệt mật và vội vàng tìm vị trí an toàn, có liên quan đến cuộc chạm trán với FSB của Nga sau khi tiết lộ... Mặc dù khó có thể thay đổi suy nghĩ của mọi người về hành động của Snowden, Bị theo dõi chính là là nỗ lực của “người tuýt còi” trong việc nêu lên câu chuyện của chính anh. - Matt Burgess, Wired Các chữ viết tắt ACLU (American Civil Liberties Union): Liên minh Dân quyền Mỹ. CASL (Center for Advanced Study of Language): Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ cao cấp. CERN (Conseil Européen pour la Recherche Nucléaire): Hội đồng nghiên cứu Hạt nhân châu Âu. CIA (Central Intelligence Agency): Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ. DA (Directorate of Administration): Tổng cục Hành chính. DI (Directorate of Intelligence): Tổng cục Tình báo. DIA (Defense Intelligence Agency): Cơ quan Tình báo quốc phòng. DO (Directorate of Operations): Tổng cục Tác chiến. DS (Directorate of Support): Tổng cục Hậu cần. DST (Directorate of Science and Technology): Tổng cục Khoa học - Kỹ thuật. FBI (The Federal Bureau of Investigation): Cục điều tra Liên bang. FCC (Federal Communications Commission): Ủy ban truyền thông Liên bang. FISC (Foreign Intelligence Surveillance Court): Tòa Giám sát Tình báo Nước ngoài. FPF (Freedom of the Press Foundation): Tổ chức Tự do Báo chí. FSB (Federal Security Service): Tổng cục An ninh Liên bang Nga. GCHQ (Government Communications Headquarters): Tổng bộ Thông tin Chính phủ. IC (Intelligence Community): Cộng đồng Tình báo Mỹ. IRS (The Internal Revenue Service): Sở Thuế vụ. JCITA (Joint Counterintelligence Training Academy): Học viện Liên kết Đào tạo Phản gián. JWICS (Joint Worldwide Intelligence Communications System): Hệ thống Liên kết Thông tin Tình báo Toàn cầu. NSA (National Security Agency): Cơ quan An ninh quốc gia Hoa Kỳ. NTOC (National Threat Operations Center): Trung tâm Tác chiến Nguy cơ quốc gia. PTC (Pacific Technical Center): Trung tâm kỹ thuật Thái Bình Dương. SCIF (Sensitive Compartmented Information Facility): Cơ sở Thông tin Đặc biệt Nhạy cảm. SCS (Special Collection Service): Vụ Thu thập Đặc biệt. TAO (Tailored Access Operations): Ban Tác chiến Truy cập Chuyên biệt. Lời tựa Tôi tên Edward Joseph Snowden. Tôi từng làm việc cho chính phủ, nhưng bây giờ tôi làm việc cho công chúng. Tôi mất gần ba mươi năm mới nhận ra rằng có sự khác biệt giữa hai điều ấy, và nhận thức đó khiến tôi gặp một chút rắc rối ở cơ quan. Vì vậy, tôi bây giờ lại dành thời gian của mình để cố bảo vệ công chúng tránh khỏi con người đã từng là tôi - một gián điệp của Cơ quan Tình báo Trung ương (Central Intelligence Agency - CIA) và Cơ quan An ninh Quốc gia (National Security Agency - NSA), một chuyên viên kỹ thuật trẻ tuổi bình thường lúc đó đang quyết chí xây dựng một thế giới mà bản thân tin chắc sẽ tốt đẹp hơn. Sự nghiệp của tôi trong Cộng đồng Tình báo Mỹ (Intelligence Community - IC) chỉ kéo dài bảy năm ngắn ngủi, một giai đoạn mà giờ đây tôi ngạc nhiên nhận ra là chỉ dài hơn một năm so với khoảng thời gian tôi sống lưu vong kể từ đó ở một xứ sở mình không lựa chọn. Thế nhưng, trong suốt bảy năm ấy, tôi đã tham gia vào cuộc thay đổi quan trọng nhất trong lịch sử gián điệp Mỹ - thay đổi từ việc theo dõi cá nhân có mục tiêu sang việc theo dõi toàn bộ nhiều dân số quốc gia không từ một ai. Tôi đã giúp sức thực hiện về mặt công nghệ để cho một chính phủ duy nhất thu thập mọi thông tin liên lạc kỹ thuật số của cả thế giới, lưu trữ chúng vô thời hạn, và mặc sức tìm kiếm trong nguồn dữ liệu ấy. Sau biến cố 11/9, Cộng đồng IC bị dằn vặt vì tội không bảo vệ được nước Mỹ, vì đã để cho cuộc tấn công tàn khốc và hủy diệt nhất kể từ trận Trân Châu Cảng xảy ra trên đất nước này ngay trong phiên canh gác của họ. Để phản ứng lại, các nhà lãnh đạo IC đã tìm cách xây dựng một hệ thống sẽ giúp họ không bao giờ mất cảnh giác nữa. Nền tảng của hệ thống này sẽ phải là công nghệ, một điều xa lạ với đội quân tình báo toàn những người thuộc chuyên ngành khoa học chính trị và thạc sĩ quản trị kinh doanh. Cánh cửa đưa đến các cơ quan tình báo bí mật nhất đã mở toang cho các chuyên viên kỹ thuật trẻ như tôi. Và thế là dân rành máy tính đã thừa hưởng cả trái đất. Nếu như lúc ấy tôi có am hiểu điều gì thì đó chính là máy tính, vì vậy tôi thăng tiến nhanh chóng. Ở tuổi hai mươi hai, tôi đã được NSA cấp chứng nhận an ninh tối mật đầu tiên cho một công việc ở vị trí tận cùng của sơ đồ tổ chức. Chưa đầy một năm sau, tôi đã ở CIA, làm kỹ sư hệ thống với quyền truy cập rộng khắp vào một số mạng máy tính nhạy cảm nhất hành tinh. Người duy nhất giám sát tôi là một ông chuyên dành thời gian trực để đọc tiểu thuyết gián điệp của Robert Ludlum và Tom Clancy. Các cơ quan này đã phá vỡ mọi quy tắc của chính họ trong việc săn tìm người giỏi kỹ thuật để tuyển dụng. Theo lệ thường thì họ sẽ không bao giờ tuyển những người không có bằng cử nhân, hoặc như sau này, người được tuyển ít nhất phải có bằng cao đẳng, cả hai bằng ấy tôi đều không có. Đáng lý ra, tôi thậm chí còn không bao giờ được phép bước vào tòa nhà đó. Từ năm 2007 đến 2009, tôi được bố trí ở Sứ quán Hoa Kỳ tại Geneva như một trong những chuyên viên kỹ thuật hiếm hoi được điều động dưới vỏ bọc ngoại giao, với nhiệm vụ đưa CIA tiến vào tương lai bằng cách đưa các trạm châu Âu của cơ quan này lên mạng, số hóa và tự động hóa hệ thống mạng mà chính phủ Hoa Kỳ sẽ sử dụng để làm gián điệp. Thế hệ của tôi không chỉ thiết kế lại công việc tình báo; mà đã định nghĩa lại toàn bộ khái niệm tình báo. Đối với chúng tôi, đó không phải là những cuộc gặp gỡ lén lút hay những hộp thư bí mật, mà chính là dữ liệu. Đến năm hai mươi sáu tuổi, tôi trở thành nhân viên trên danh nghĩa của hãng Dell, nhưng một lần nữa lại làm việc cho NSA. Việc hợp đồng tuyển dụng như vậy đã trở thành vỏ bọc của tôi, cũng giống như hầu hết mọi điệp viên thiên về công nghệ trong đội quân này. Tôi được phái đến Nhật Bản, nơi tôi đã giúp thiết kế một hệ thống gần như là phương tiện sao lưu dự phòng dữ liệu toàn cầu của NSA - một hệ thống mạng bí mật đồ sộ đảm bảo rằng ngay cả khi cơ quan đầu não có tan thành tro bụi trong một vụ nổ hạt nhân thì vẫn không hề mất một dữ liệu nào. Vào lúc đó, tôi không hiểu được rằng việc thiết kế một hệ thống lưu trữ vĩnh viễn hồ sơ về cuộc đời của mọi con người lại chính là một sai lầm khủng khiếp. Tôi trở về Hoa Kỳ ở tuổi hai mươi tám và được thăng chức rất cao vào nhóm liên lạc kỹ thuật phụ trách mối quan hệ của hãng Dell với CIA. Công việc của tôi là ngồi cùng với những người đứng đầu các bộ phận kỹ thuật của CIA để thiết kế và bán giải pháp cho bất kỳ vấn đề nào họ có thể nghĩ ra. Nhóm của tôi đã giúp CIA xây dựng một loại kiến trúc điện toán mới - “đám mây”, công nghệ đầu tiên cho phép mọi nhân viên, bất kể đang ở đâu, truy cập và tìm kiếm được bất kỳ dữ liệu nào họ cần, bất kể khoảng cách. Tóm lại, việc quản lý và kết nối dòng thông tin đã nhường chỗ cho việc tìm kiếm cách lưu trữ thông tin đó mãi mãi, rồi việc này lại tiếp tục nhường chỗ cho việc bảo đảm sao cho nguồn thông tin này luôn sẵn sàng và có thể tìm kiếm được ở bất kỳ nơi đâu. Tôi bắt đầu hình dung ra được các kế hoạch này khi ở Hawaii, nơi tôi chuyển đến theo hợp đồng mới với NSA ở tuổi hai mươi chín. Cho đến lúc đó, tôi vẫn miệt mài làm việc theo ằ tôn chỉ cần Phải Biết, chứ không hiểu được mục đích tích tụ đằng sau các nhiệm vụ chuyên môn, tách biệt của mình. Chỉ đến khi tới xứ thiên đường Hawaii, tôi cuối cùng mới ở vào vị trí có thể thấy được mọi công việc tôi làm liên kết với nhau ra sao, mới thấy chúng ăn khớp như những bánh răng của một cỗ máy khổng lồ để tạo ra một hệ thống theo dõi toàn cầu đại quy mô. Sâu trong một đường hầm dưới cánh đồng dứa - nguyên là nhà máy chế tạo phi cơ thời Trân Châu Cảng - tôi ngồi trước một máy tính trạm cuối mà từ đó tôi thực tế có quyền truy cập không giới hạn vào các thông tin liên lạc của gần như mọi người trên trái đất - mọi đàn ông, phụ nữ và trẻ em nào đã từng bấm số một máy điện thoại hoặc chạm vào một chiếc máy tính. Trong số đó có khoảng 320 triệu công dân Mỹ đồng bào tôi, những người đang sống cuộc sống thường ngày của mình nhưng lại bị theo dõi một cách phi pháp, một hành động vi phạm trắng trợn không chỉ với Hiến pháp Hoa Kỳ, mà còn với các giá trị cơ bản của mọi xã hội tự do. Sở dĩ bạn đang đọc cuốn sách này là vì tôi đã làm một điều nguy hiểm đối với một người ở cương vị như mình: Tôi quyết định nói ra sự thật. Tôi đã thu thập các tài liệu nội bộ của IC làm bằng chứng về việc phạm pháp của chính phủ Hoa Kỳ và chuyển cho các nhà báo, những người đã xem xét và công bố chúng trước một thế giới rúng động bàng hoàng. Cuốn sách này nói về những gì dẫn đến quyết định ấy, những nguyên tắc tinh thần và đạo đức đã tác động đến điều này, và cách chúng đã hình thành - như vậy cũng có nghĩa là cuốn sách nói về cuộc đời tôi. Cái gì tạo nên cuộc đời? Nhiều hơn những gì ta nói; thậm chí còn nhiều hơn những gì ta làm. Cuộc đời cũng là những gì ta yêu, những gì ta tin. Với tôi, điều tôi yêu và tin nhất là sự kết nối, sự kết nối của con người, và những công nghệ giúp đạt được điều đó. Những công nghệ ấy bao gồm sách vở, tất nhiên. Nhưng với thế hệ tôi, sự kết nối nói chung có nghĩa là Internet. Trước khi bạn giật mình thối lui, vì quá biết rõ sự điên rồ độc hại lan tràn khắp cái hang ổ đó trong thời đại chúng ta, xin hãy hiểu rằng đối với tôi, khi tôi biết được điều ấy thì Internet đã là một thứ rất khác xưa. Thời trước, Internet là một người bạn, và là một bậc cha anh. Đó là một cộng đồng không có ranh giới hay hạn chế, một tiếng nói với hàng triệu người, các bộ lạc đa dạng sống khá thân tình bên nhau trên một miền biên ải chung đã được định cư nhưng không ai lợi dụng, mỗi thành viên bộ lạc được tự do chọn danh tính, lai lịch và tập quán của riêng mình. Ai cũng đeo mặt nạ, thế nhưng cái văn hóa ẩn-danh-qua-nhiều-tên-gọi này lại tạo ra nhiều sự thật hơn là giả dối, bởi vì nó mang tính sáng tạo và hợp tác hơn là thương mại và cạnh tranh. Chắc chắn là có xung đột, nhưng điều này lại ít hơn là thiện chí và hảo ý - một tinh thần tiên phong đích thực. Như vậy bạn sẽ hiểu khi tôi nói rằng không thể nhận ra Internet ngày nay. Điều đáng chú ý là sự thay đổi này lại là một lựa chọn có ý thức, kết quả của một nỗ lực có hệ thống từ phía một số ít kẻ có đặc quyền. Cuộc đổ xô ban đầu nhằm biến thương mại thành thương mại điện tử đã nhanh chóng dẫn đến tình trạng bong bóng, và rồi, ngay sau khi bước sang thiên niên kỷ mới, đã vỡ tan. Sau đó, các công ty biết được rằng những người lên mạng lại ít quan tâm đến việc chi tiêu hơn là việc chia sẻ, và các công ty nhận ra là có thể kiếm tiền từ chính sự kết nối con người mà Internet đã giúp tạo nên. Nếu như phần lớn những điều mọi người muốn làm trên mạng là chuyện họ có thể nói với gia đình, bạn bè và người lạ về những gì họ đang dự định, và chuyện họ được nghe những gì gia đình, bạn bè và người lạ đáp lại, vậy thì các công ty chỉ cần tìm ra cách để đặt mình vào giữa những trao đổi xã hội đó và biến chúng thành lợi nhuận. Đây là khởi đầu chủ nghĩa tư bản do thám, và kết thúc hình thức Internet như tôi đã biết. Giờ đây, chính thế giới web sáng tạo đã sụp đổ, vì vô số website cá nhân, tốt đẹp, khó làm, đã bị đóng. Những hứa hẹn về sự thuận tiện đã khiến mọi người đánh đổi các trang web cá nhân của mình - thứ đòi hỏi phải liên tục tốn nhiều công sức duy trì - để lấy một trang Facebook và một tài khoản Gmail, vẻ bề ngoài của quyền sở hữu rất dễ nhầm lẫn với thực tế của quyền sở hữu. Vào lúc đó, chúng ta rất ít ai hiểu được điều này, nhưng mọi thứ mà chúng ta đang tiếp tục chia sẻ đều không còn thuộc về chúng ta nữa. Các công ty thương mại điện tử đã thất bại vì họ không tìm ra được bất cứ thứ gì chúng ta quan tâm muốn mua; nhưng các công ty tiếp nối bây giờ lại có một sản phẩm mới để bán. Sản phẩm mới đó là Chúng Ta. Những gì ta quan tâm, các hoạt động ta làm, những địa điểm ta đến, bao điều ta mong muốn - mọi điều về bản thân mà ta đã tiết lộ, dù có ý thức hay không, đều đang bị lén lút theo dõi và bán, để trì hoãn cái cảm giác bị xâm phạm không thể tránh khỏi mà hầu hết chúng ta mãi đến bây giờ mới nhận ra. Và việc theo dõi này lại tiếp tục được tích cực khuyến khích, thậm chí còn được tài trợ bởi một đội quân các chính phủ tham lam muốn giành lấy lượng thông tin khổng lồ này. Vào đầu những năm 2000, ngoài các trang đăng nhập và giao dịch tài chính, hầu như không có bất kỳ thông tin trực tuyến nào được mã hóa, điều đó có nghĩa là trong nhiều trường hợp, các chính phủ thậm chí không cần phải mất công tiếp xúc các công ty để biết khách hàng của các công ty này đang làm gì. Họ tha hồ theo dõi cả thế giới mà không cần phải nói với một ai cả. Hoàn toàn bất chấp hiến chương lập quốc, chính phủ Mỹ đã trở thành con mồi của chính sức cám dỗ này, và sau khi đã nếm hoa trái của thứ cây độc ấy thì sa vào một cơn mê cuồng bất tận. Trong bí mật, chính phủ nước này tự cho mình quyền theo dõi hàng loạt, một thẩm quyền mà nhìn chung làm khổ người vô tội nhiều hơn là kẻ có tội. Mãi đến khi tôi hiểu rõ hơn việc theo dõi này và những tác hại của nó, tôi mới bị ám ảnh với nhận thức rằng công dân chúng ta - không chỉ công dân của một quốc gia mà là của cả thế giới - chưa bao giờ được cho một lá phiếu hay thậm chí một cơ hội để bày tỏ ý kiến của mình trong tiến trình đó. Hệ thống theo dõi gần như khắp mọi nơi ấy đã được lập ra không những không được chúng ta đồng ý, mà còn tiến hành theo cách cố tình che giấu không cho chúng ta biết mọi khía cạnh của các chương trình nó thực hiện. Ở mọi giai đoạn, các thể thức thay đổi và hậu quả của chúng đều được giấu kín với mọi người, kể cả với hầu hết các nhà lập pháp. Tôi biết trông cậy vào ai đây? Tôi biết nói với ai đây? Ngay cả việc hé lộ sự thật, ngay cả với một luật sư hay thẩm phán hay với Quốc hội, cũng bị xem là tội nghiêm trọng đến mức chỉ cần phác họa cơ bản về những sự kiện tổng quát nhất cũng đủ lãnh án chung thân trong một nhà tù liên bang. Tôi đã hoang mang, và rơi vào tâm trạng u ám trong lúc phải vật lộn với lương tâm của mình. Tôi yêu đất nước tôi, và tôi tin vào việc phục vụ công dân - toàn bộ gia đình tôi, toàn bộ dòng họ tôi suốt nhiều thế kỷ, đầy những con người, cả nam lẫn nữ, đã dành cả cuộc đời để phục vụ đất nước này và công dân của nó. Bản thân tôi đã tuyên thệ phục vụ không phải cho một cơ quan, thậm chí không phải cho chính phủ, mà là cho nhân dân, để củng cố và bảo vệ Hiến pháp, mà sự bảo đảm quyền tự do dân sự hiến định đã bị vi phạm trắng trợn. Thế mà tôi không chỉ dính líu đến sự vi phạm đó: Tôi đã tham gia vào điều đó. Tất cả những công việc ấy, tất cả những năm tháng ấy - tôi đã làm việc cho ai? Làm thế nào tôi có thể cân bằng được lời cam kết giữ bí mật của mình với các cơ quan tuyển dụng tôi và lời thề mà tôi đã tuyên thệ trước các nguyên tắc lập quốc của nước Mỹ? Tôi phải có bổn phận lớn hơn đối với ai, hoặc với điều gì? Đến lúc nào thì tôi buộc phải vi phạm pháp luật vì những nguyên tắc đạo lý? Tôi đã có câu trả lời khi ngẫm nghĩ về những nguyên tắc đó. Tôi nhận ra rằng việc đứng ra tiết lộ với các nhà báo về mức độ lộng hành của đất nước tôi sẽ không phải là việc ủng hộ bất kỳ hành động cực đoan nào, như là phá hoại chính phủ, hay thậm chí là phá hoại Cộng đồng IC. Việc làm này sẽ là sự trở về với những mưu cầu lý tưởng mà chính phủ và IC đã tự đề ra. Nền tự do của một quốc gia chỉ có thể được đo lường bằng sự tôn trọng các quyền công dân của nước ấy và tôi tin rằng những quyền này trên thực tế là những mốc giới hạn của quyền lực nhà nước, xác định chính xác nơi nào và khi nào chính phủ không được xâm phạm vào địa hạt của các quyền miễn trừ cá nhân hoặc riêng biệt mà trong thời Cách mạng Mỹ được gọi là “quyền tự do”, và trong thời Cách mạng Internet, được gọi là “quyền riêng tư”. Đã sáu năm kể từ khi tôi bước ra lên tiếng, vì tôi đã chứng kiến mức độ cam kết của cái gọi là các chính phủ tiên tiến trên toàn thế giới về việc bảo vệ quyền riêng tư này ngày một giảm sút, điều mà tôi coi là - và Liên Hiệp Quốc coi là - một quyền con người cơ bản. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian đó, sự giảm sút này chỉ càng tiếp diễn trong lúc các nền dân chủ lại thoái trào thành chủ nghĩa dân túy độc tài. Không nơi nào mà sự thoái trào này rõ ràng cho bằng mối quan hệ của các chính phủ với báo chí. Những nỗ lực phá hoại uy tín báo chí của các viên chức dân cử đã được hỗ trợ và xúi giục bằng một cuộc tấn công toàn diện vào nguyên tắc của sự thật. Những gì là thật đang được pha trộn một cách có chủ đích với những điều giả trá, thông qua các công nghệ có khả năng mở rộng kiểu pha trộn đó thành một sự hỗn loạn toàn cầu chưa từng có. Tôi không xa lạ gì với tiến trình này, bởi vì việc tạo ra điều không có thực luôn là ngón nghề đen tối nhất của Cộng đồng tình báo. Cũng chính các cơ quan ấy, chỉ trong khoảng thời gian tôi làm việc cho họ thôi, đã thao túng thông tin để tạo ra một cái cớ cho chiến tranh - và sử dụng các chính sách bất hợp pháp và bộ máy tòa án trong bóng tối để cho phép việc bắt cóc người trở thành “dẫn độ đặc biệt”, việc tra tấn trở thành “thẩm vấn tăng cường”, và việc theo dõi hàng loạt trở thành “thu thập đại trà” - họ đã có lúc không ngần ngại gọi tôi là điệp viên hai mang của Trung Quốc, điệp viên tay ba của Nga, và tệ hơn nữa: “tên nhãi ranh tuổi 8x”. Họ đã có thể nói gì cũng được, và nói tha hồ, chủ yếu là vì tôi từ chối biện hộ cho bản thân. Từ lúc tôi bước ra lên tiếng cho đến hiện tại, tôi đã kiên quyết không bao giờ tiết lộ bất kỳ chi tiết nào về đời sống cá nhân mà có thể gây thêm đau khổ cho gia đình và bạn bè mình, những người đang chịu quá đủ khổ sở vì những nguyên tắc của tôi. Chính vì ngại làm tăng thêm nỗi đau khổ ấy mà tôi do dự khi viết cuốn sách này. Rốt cuộc đối với tôi, việc quyết định bước ra đưa bằng chứng về hành động sai trái của chính phủ lại dễ dàng hơn việc quyết định, ở đây, thuật lại câu chuyện đời mình. Những điều lộng hành mà tôi đã chứng kiến đòi hỏi tôi phải hành động, nhưng chẳng có ai viết hồi ký vì họ không thể cưỡng lại được tiếng gọi của lương tâm. Đó là lý do tôi đã cố gắng xin phép mọi thành viên trong gia đình, bằng hữu và đồng nghiệp, những người được nêu tên, hoặc có thể nhận dạng công khai theo cách khác, trong những trang sách này. Cũng giống như tôi từ chối tự nhận vai trò người phán quyết duy nhất về quyền riêng tư của ai khác, tôi không hề nghĩ rằng một mình tôi có thể chọn lựa bí mật nào của nước Mỹ có thể công bố và bí mật nào không nên. Vì thế, tôi chỉ tiết lộ các tài liệu của chính phủ cho các nhà báo mà thôi. Số lượng tài liệu mà tôi tiết lộ trực tiếp cho công chúng thực tế là con số 0. Tôi tin, giống như những nhà báo ấy tin, rằng chính phủ có quyền giấu kín một số thông tin. Ngay cả một nền dân chủ minh bạch nhất thế giới cũng được phép hạn chế thông tin, chẳng hạn, danh tính của các đặc vụ bí mật và các hoạt động của quân đội quốc gia trên chiến trường. Cuốn sách này không hề có những bí mật nào như vậy. Kể lại câu chuyện cuộc đời tôi đồng thời bảo vệ quyền riêng tư của những người thân yêu của mình và không tiết lộ những bí mật chính đáng của chính phủ là một việc không hề đơn giản, nhưng đó là việc tôi phải làm. Giữa hai ranh giới trách nhiệm đó chính là vị trí của tôi. Phần MỘT 1 Nhìn qua cửa sổ THỨ ĐẦU TIÊN TÔI TỪNG “HACK” là giờ đi ngủ. Thật bất công khi bị ba má bắt phải đi ngủ - trước khi họ đi ngủ, trước khi chị tôi đi ngủ, khi tôi thậm chí còn chưa mệt mỏi. Chút bất công nhỏ bé đầu tiên của cuộc đời. Nhiều đêm trong khoảng 2.000 đêm đầu tiên của đời tôi đã kết thúc bằng những hình thức bất phục tùng dân sự: khóc lóc, năn nỉ, mặc cả, cho đến khi - vào đêm thứ 2.193, đêm tôi tròn sáu tuổi - tôi khám phá ra việc hành động trực tiếp. Những người có thẩm quyền đâu màng đến những lời kêu gọi cải cách, và tôi cũng đâu phải con nít mới sinh hôm qua. Tôi vừa có một trong những ngày tuyệt vời nhất trong cuộc đời non trẻ của mình, đầy đủ bạn bè, tiệc vui, lại có nhiều quà tặng nữa, và tôi sẽ không để cho ngày hôm ấy kết thúc chỉ vì những người khác phải về nhà. Thế là tôi bắt đầu lén lút chỉnh tất cả các đồng hồ trong nhà cho lui lại vài giờ. Đồng hồ của lò vi ba thì dễ vặn lùi giờ hơn so với đồng hồ trên bếp, chỉ là vì tôi dễ với tới hơn thôi. Khi những người có thẩm quyền không hay biết - trong sự thờ ơ vô tận của họ - tôi vừa phát cuồng lên vì quyền năng của mình, vừa nhảy nhót lòng vòng quanh phòng khách. Tôi, bá chủ của thời gian, sẽ không bao giờ bị bắt đi ngủ nữa. Tôi được tự do. Và thế là tôi ngủ thiếp luôn trên sàn nhà, sau khi rốt cuộc đã nhìn thấy hoàng hôn vào ngày 21 tháng 6, ngày hạ chí, ngày dài nhất trong năm. Lúc tôi thức dậy, các đồng hồ trong nhà một lần nữa khớp giờ với đồng hồ đeo tay của ba. ₀O₀ Nếu thời buổi này có ai mất công chỉnh đồng hồ đeo tay, thì làm sao họ biết chỉnh giờ theo cái gì? Nếu bạn giống như hầu hết mọi người hiện nay, bạn sẽ chỉnh đồng hồ theo thời gian trên chiếc smartphone của mình. Nhưng nếu bạn nhìn vào chiếc điện thoại ấy, ý tôi là thực sự nhìn kỹ, đi sâu vào các tùy chọn trong phần cài đặt hệ thống, cuối cùng bạn sẽ thấy giờ phút của điện thoại được “chỉnh tự động”. Điện thoại của bạn cứ lâu lâu lại âm thầm - không một tiếng động - hỏi hệ thống mạng của nhà cung cấp dịch vụ: “Này, mấy giờ rồi?”. Hệ thống mạng lại tiếp tục hỏi một mạng lưới lớn hơn, rồi mạng này lại đi hỏi một hệ thống khác còn lớn hơn nữa, và cứ thế chuyển tiếp qua hàng loạt tháp phát sóng và đường dây cho đến khi câu hỏi được gửi tới những bá chủ đích thực của thời gian, một Máy chủ Thời gian Mạng (Network Time Server) được vận hành hoặc tham chiếu theo các đồng hồ nguyên tử đặt ở những nơi như Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Hoa Kỳ, Viện Khí tượng và Khí hậu Liên bang ở Thụy Sĩ và Viện Công nghệ Thông tin và truyền thông Quốc gia ở Nhật Bản. Hành trình dài vô hình đó, được hoàn thành trong một phần rất nhỏ của giây, cho nên bạn sẽ không thấy số 12:00 báo nhấp nháy trên màn hình điện thoại của bạn những lúc bạn bật lại nguồn sau khi máy hết pin. Tôi sinh năm 1983, lúc kết thúc một thế giới mà ở đó mọi người phải tự chỉnh đồng hồ cho mình. Đó là năm Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ chia đôi hệ thống các máy tính được kết nối nội bộ, tạo ra một mạng để sử dụng cho cơ sở quốc phòng, gọi là MILNET và một mạng khác cho công chúng, gọi là Internet. Trước khi năm 1983 chấm dứt. Các quy tắc mới đã xác định ranh giới của không gian ảo này, tạo ra Hệ thống tên miền (Domain Name System) mà chúng ta vẫn sử dụng ngày nay - nào là .gov, .mil, .edu, và tất nhiên là có .com - và các mã quốc gia được ấn định cho thế giới còn lại: .uk, .de, .fr, .cn, .ru, và cứ thế. Vậy là Nước Mỹ của tôi (và cả tôi nữa) đã có một lợi thế, một bước đi trước. Tuy nhiên, phải mất sáu năm nữa World Wide Web mới được phát minh, và khoảng chín năm nữa nhà tôi mới có một chiếc máy tính gắn modem có thể kết nối với thế giới Web. Tất nhiên, Internet không phải là một thực thể duy nhất, mặc dù chúng ta hay coi nó là như thế. Về mặt kỹ thuật, thực tế là có nhiều mạng mới được sinh ra mỗi ngày trên cụm mạng truyền thông kết nối toàn cầu mà bạn - và khoảng ba tỷ người khác, hay khoảng 42% dân số thế giới - sử dụng thường xuyên. Dù vậy, tôi sẽ sử dụng thuật ngữ này theo nghĩa rộng nhất của nó, để hàm ý một mạng lưới chung của nhiều mạng lưới kết nối đại đa số các máy tính trên thế giới với nhau thông qua một tập hợp nhiều giao thức chung. Một số bạn có thể e ngại rằng mình chẳng hiểu giao thức là cái thứ quái quỷ gì, nhưng tất cả chúng ta lâu nay vẫn sử dụng nhiều giao thức đấy. Hãy xem các giao thức như là ngôn ngữ cho các máy móc, những quy tắc chung mà chúng phải tuân theo để hiểu nhau. Nếu bạn ở độ tuổi của tôi, hẳn bạn còn nhớ là phải gõ “http” vào thanh địa chỉ của trình duyệt trước một địa chỉ website. Việc này liên quan đến Hypertext Transfer Protocol (Giao thức truyền siêu văn bản), ngôn ngữ bạn sử dụng để truy cập World Wide Web, tập hợp khổng lồ các trang mạng chủ yếu dựa trên văn bản nhưng cũng có khả năng âm thanh và video như Google và YouTube và Facebook. Mỗi lần bạn kiểm tra email, bạn sử dụng một ngôn ngữ như IMAP (Internet Message Access Protocol - Giao thức truy cập thư tín Internet), SMTP (Simple Mail Transfer Protocol - Giao thức chuyển thư đơn giản) hoặc POP3 (Post Office Protocol - Giao thức bưu điện). Việc truyền tập tin qua Internet là dùng FTP (File Transfer Protocol - Giao thức truyền tập tin). Và với quy trình định giờ trên điện thoại của bạn mà tôi đã nói, những tinh chỉnh liên tục đó được nạp về thông qua NTP (Network Time Protocol - Giao thức thời gian mạng). Tất cả các giao thức này được gọi là giao thức ứng dụng và chỉ bao gồm một hệ giao thức trong vô vàn các hệ giao thức trên mạng. Ví dụ, để cho dữ liệu trong bất kỳ giao thức ứng dụng nào trong số này có thể vượt qua Internet và chuyển giao đến máy tính để bàn, máy tính xách tay hoặc điện thoại của bạn, trước tiên, nó phải được đóng gói bên trong một giao thức vận chuyển chuyên biệt - hãy liên tưởng đến cách thức mà dịch vụ bưu chính rùa bò muốn ta gửi thư và những bưu phẩm trong phong bì và hộp đựng theo kích thước tiêu chuẩn của họ. TCP (Transmission Control Protocol - Giao thức điều khiển chuyển giao) được sử dụng để định tuyến các trang web và email, cùng nhiều ứng dụng khác. Còn UDP (User Datagram Protocol - Giao thức gói dữ liệu người dùng) được sử dụng để định tuyến các ứng dụng thời gian thực, đòi hỏi cấp tốc, chẳng hạn như điện thoại Internet và phát thanh-truyền hình trực tiếp. Có nói bao nhiêu về cách hoạt động nhiều lớp của môi trường mà trong thời thơ ấu của tôi được gọi là không gian mạng, Net, Infobahn và Siêu xa lộ Thông tin cũng không thể đầy đủ, nhưng điểm cốt yếu là như thế này: Các giao thức đó đã cho chúng ta phương tiện để số hóa và đưa lên mạng gần như toàn bộ những gì trên đời mà chúng ta không ăn được, uống được, mặc được hoặc ở được. Internet đã trở nên gần như không thể thiếu đối với cuộc sống của chúng ta giống như không khí, mà rất nhiều thông tin liên lạc phải đi qua bầu không khí này. Và như tất cả chúng ta ai cũng được nhắc nhở - mỗi lần các luồng thông báo từ mạng xã hội cho ta biết về một bài đăng có gắn thẻ (tag) ta với nội dung nhạy cảm - việc số hóa một điều gì đó chính là lưu trữ nó, dưới một hình thức sẽ tồn tại mãi mãi. Đây là điều khiến tôi chú ý khi nhớ lại thời thơ ấu, nhất là chín năm đầu đời không có Internet: Tôi không thể chịu trách nhiệm cho mọi chuyện đã xảy ra vào thời đó, bởi vì tôi chỉ biết trông cậy vào trí nhớ của mình. Làm gì có dữ liệu. Khi tôi còn nhỏ, “kinh nghiệm không thể nào quên” không phải là một lời mô tả về công nghệ theo nghĩa đen đầy đe dọa, mà là một cụm từ hình tượng sôi nổi quen dùng để nói về tầm quan trọng: những tiếng bi bô, những bước chập chững, những chiếc răng gãy đầu tiên; cũng như lần đầu biết đi xe đạp. Thế hệ tôi là thế hệ cuối cùng trong lịch sử nước Mỹ và có lẽ trong cả lịch sử thế giới mà điều nói trên là đúng - thế hệ cuối cùng không bị số hóa, thế hệ có tuổi thơ không ở trên đám mây điện toán mà chủ yếu bị mắc kẹt trong các định dạng analog như nhật ký viết tay với ảnh chụp phim Polaroid và băng video VHS, những hiện vật hữu hình và không hoàn hảo, sẽ hư hỏng theo thời gian và có thể bị hư mất, không thể cứu vãn. Việc học hành của tôi được thực hiện trên giấy với bút chì và cục tẩy, chứ không phải trên các máy tính bảng nối mạng lưu lại từng phím tôi nhấn. Những đợt nhổ giò vụt lớn của tôi không bị theo dõi bởi các ngôi nhà công nghệ thông minh, mà đánh dấu bằng những vết dao khắc trên khung cửa gỗ của ngôi nhà nơi tôi lớn lên. ₀O₀ Chúng tôi sống trong một ngôi nhà xưa bề thế xây bằng gạch đỏ nằm trên một bãi cỏ nhỏ rợp bóng cây sơn thù du và mùa hè vương vãi những bông hoa mộc lan trắng; bãi cỏ này thường làm chỗ trốn cho tôi bò quanh cùng những chú lính nhựa. Ngôi nhà có lối bố trí khác thường: cửa chính nằm trên tầng một, đi lên bằng một cầu thang gạch đồ sộ. Tầng này là không gian sinh hoạt chính, với nhà bếp, phòng ăn và phòng ngủ. Bên trên tầng chính này là căn gác bụi bặm, nhện giăng được dùng làm nhà kho và nghiêm cấm tôi vào, nơi lai vãng của những sinh vật mà má khiến tôi hy vọng đó là lũ sóc, còn ba lại khăng khăng rằng đó là lũ ma sói hút máu sẽ nuốt chửng bất cứ đứa trẻ nào dại dột dám liều mạng đi lên. Tầng trệt gần như là một tầng hầm hoàn chỉnh - điều hiếm thấy ở Bắc Carolina, nhất là khi nhà nằm rất gần bờ biển. Các tầng hầm hay bị ngập lụt, và tầng hầm nhà tôi đương nhiên là ẩm ướt quanh năm, bất kể máy hút ẩm và máy bơm thoát nước hoạt động liên tục. Vào lúc gia đình tôi dọn đến ở, phía sau tầng chính đã được mở rộng và chia thành phòng giặt ủi, phòng tắm, phòng ngủ của tôi và một phòng sinh hoạt gia đình có trang bị TV và ghế xa-lông. Tầm nhìn từ phòng ngủ của tôi bao quát được phòng sinh hoạt này qua một khung cửa sổ nằm ở nơi ngày trước vốn là bức tường phía ngoài ngôi nhà. Cửa sổ này vốn từng nhìn ra bên ngoài, bây giờ lại nhìn vào bên trong. Gần như suốt bao năm gia đình tôi sống trong ngôi nhà đó ở Elizabeth City, phòng ngủ này là phòng của tôi, và khung cửa sổ ấy cũng thuộc về tôi. Dù cửa sổ có một bức màn, nhưng nó không tạo được bao nhiêu sự riêng tư, nếu có. Như tôi còn nhớ, hoạt động ưa thích của tôi hồi nhỏ là kéo màn sang một bên và nhìn trộm qua cửa sổ về phía phòng sinh hoạt. Có thể nói, từ thời xa xôi mà tôi nhớ được, hoạt động ưa thích của tôi là theo dõi. Tôi theo dõi chị tôi, Jessica, người được phép thức khuya hơn tôi và xem những bộ phim hoạt hình mà tôi không được xem vì còn quá bé. Tôi theo dõi má tôi, Wendy, người mỗi tối hay ngồi trên xa-lông để vừa xếp đồ giặt vừa xem tin thời sự. Nhưng người tôi theo dõi nhiều nhất chính là ba tôi, Lon - hay, như mọi người gọi ông theo kiểu miền Nam là Lonnie - người chiếm dụng phòng sinh hoạt vào những giờ nửa đêm về sáng. Ba tôi ở trong Lực lượng Tuần duyên, mặc dù lúc đó tôi chẳng hề hiểu chút gì về điều đó. Tôi biết là có lúc ba tôi mặc quân phục và có lúc lại không. Ông đi sớm và về muộn, thường hay mang về nhà những thứ máy móc mới lạ - chiếc máy tính khoa học TI-30 của hãng Texas Instruments, chiếc đồng hồ bấm giờ Casio có dây đeo, chiếc loa đơn lẻ cho dàn máy hát stereo gia đình - có món ông cho tôi xem, và có món ông giấu tôi. Bạn có thể hình dung được tôi quan tâm đến món nào hơn. Một đêm nọ, ngay sau giờ phải đi ngủ, thứ máy móc tôi quan tâm nhất đã đến. Tôi đang nằm thiu thiu trên giường thì nghe tiếng chân ba từ ngoài sảnh đi vào. Tôi liền đứng trên giường, kéo màn qua một bên, và ngóng chờ. Ba đang ôm một chiếc hộp bí ẩn, kích thước gần bằng chiếc hộp đựng giày và từ trong đó ông lấy ra một vật màu be trông như một khối gạch, thòi ra những sợi cáp đen dài ngoằn ngoèo như những xúc tu của loài quái vật biển sâu nào đó từng xuất hiện trong một cơn ác mộng của tôi. Làm việc chậm rãi và cẩn thận - đó một phần là vì thói quen làm mọi việc theo kiểu kỹ sư đã được rèn luyện của ông, một phần là cố không làm ồn - ba tôi tháo các sợi dây cáp và kéo căng một sợi từ đằng sau chiếc hộp đó qua tấm thảm lông xù và nối vào lưng máy TV. Sau đó, ông cắm một dây cáp khác vào ổ điện trên tường phía sau ghế xa-lông. Đột nhiên TV bỗng sáng lên và khuôn mặt ba tôi cũng bừng sáng theo. Thông thường, buổi tối ông chỉ ngồi trên đi văng, khui mấy chai nước ngọt Sun Drop rồi xem những người trên TV chạy quanh một sân bóng, nhưng lần này thì khác. Chỉ trong chốc lát thôi là tôi nhận ra ngay điều kinh ngạc nhất trong cả cuộc đời, dù phải thừa nhận là ngắn ngủi: Ba đang điều khiển những gì diễn ra trên TV. Tôi đã thấy tận mắt chiếc Commodore 64 - một trong những bộ máy vi tính gia đình đầu tiên trên thị trường. Tất nhiên, tôi nào biết máy vi tính là cái gì, chứ đừng nói là biết ba tôi đang dùng cái máy đó để chơi trò chơi hay làm việc. Ba tươi cười và tỏ vẻ thích thú nhưng ông cũng đang hết sức cố gắng với những gì đang diễn ra trên màn hình bằng sự chuyên chú tập trung như những lúc ông làm những việc liên quan đến máy móc khác trong nhà. Tôi chỉ biết một điều thôi: bất cứ việc gì ba đang làm, tôi cũng muốn làm theo. Sau đó, hễ ba tôi bước vào phòng sinh hoạt để chuẩn bị sử dụng khối gạch màu be đó thì tôi lại đứng trên giường, kéo màn, và theo dõi những việc kỳ thú của ông. Một đêm nọ, màn hình hiện ra một quả bóng đang rơi xuống và một thanh ngang ở phía dưới; ba tôi đã phải di chuyển thanh ngang đó theo chiều ngang để hứng quả bóng, làm cho nó nảy lên, và đánh sập một bức tường gạch đủ màu (trò Arkanoid). Một đêm khác, ba ngồi trước một màn hình toàn những viên gạch đủ màu có nhiều hình dạng khác nhau; chúng cứ tuôn rơi xuống, và trong lúc những viên gạch này rơi, ông di chuyển và xoay chúng để sắp thành những hàng ngay ngắn, và khi hàng đã sắp đủ thì nó lập tức biến mất (trò Tetris). Nhưng tôi thực sự chỉ hoang mang về điều ba tôi đang làm - giải trí hay liên quan đến công việc của ông - khi tôi lén nhìn qua cửa sổ một đêm nọ và thấy ba đang lái máy bay. Ba tôi là người luôn luôn khiến tôi thích thú khi chỉ cho tôi thấy những chiếc trực thăng thực sự của Căn cứ Không quân Lực lượng Tuần duyên khi chúng bay ngang nhà, bây giờ ông đang lái chiếc trực thăng của riêng ông ngay tại đây, ngay trước mặt tôi, trong phòng sinh hoạt gia đình. Ba cho máy bay cất cánh từ một căn cứ nhỏ, có cả một lá cờ Mỹ nhỏ xíu phấp phới, chiếc máy bay phóng vào một bầu trời đêm đen đầy sao lấp lánh, rồi ngay lập tức rơi xuống đất. Ba đã khẽ thốt lên một tiếng át luôn tiếng kêu của tôi, nhưng ngay khi tôi nghĩ cuộc vui đã kết thúc, ba lại quay trở về căn cứ nhỏ có lá cờ tí xíu, cho máy bay cất cánh thêm lần nữa. Đó chính là trò Choplifter! và cái dấu cảm thán kia không chỉ gắn liền với tên gọi trò chơi, mà cũng gắn liền với trải nghiệm chơi. Choplifter! thật là hồi hộp. Tôi lại liên tục chứng kiến những chuyến xuất kích từ phòng sinh hoạt nhà mình bay lên một mặt trăng hoang vu bằng phẳng, bắn và bị bắn bởi những chiếc phản lực cơ và thiết giáp của địch quân. Chiếc trực thăng tiếp tục hạ cánh và cất cánh, trong lúc ba cố gắng giải cứu một đám đông người đột ngột hiện ra và đưa họ đến nơi an toàn. Đó là cảm nhận thuở ban đầu của tôi về ba: ông là một anh hùng. Khi lần đầu tiên chiếc trực thăng tí hon đáp xuống nguyên vẹn chở đầy những con người bé xíu, tiếng reo phát ra từ chiếc ghế xa-lông đúng là khá lớn. Ba tôi quay phắt về hướng cửa sổ để xem có làm tôi thức giấc không, và ông bắt gặp tôi ngay tại trận. Tôi nhảy lên giường, kéo chăn lên, và nằm thật im trong lúc bước chân nặng nề của ba tiến đến phòng tôi. Ông gõ nhẹ vào cửa sổ. “Quá giờ đi ngủ rồi, nhóc. Con vẫn còn thức à?” Tôi nín thở. Đột ngột, ba mở cửa sổ ra, thò tay vào phòng ngủ của tôi, bế tôi lên - còn nguyên cả tấm chăn trùm kín người - và lôi tôi vào trong phòng sinh hoạt. Mọi chuyện xảy ra quá nhanh, đôi chân tôi thậm chí còn chưa chạm xuống thảm. Chưa kịp hiểu ra thì tôi đã thấy mình ngồi trong lòng ba làm phi công phụ cho ông. Tôi còn quá nhỏ và quá mừng rỡ nên nào hay biết rằng chiếc cần điều khiển mà ba đưa cho tôi đâu có cắm vào máy. Có hề chi, điều quan trọng là tôi đang được lái máy bay cùng với ba. ₀O₀ 2 Bức tường vô hình ELIZABETH CITY là một thành phố cảng cỡ trung bình, trông hơi kỳ lạ với cốt lõi lịch sử vẫn còn tương đối nguyên vẹn. Giống như hầu hết các khu định cư ban đầu khác của Mỹ, thành phố này hình thành quanh những vùng sông nước, trong trường hợp này là quanh các bờ sông Pasquotank - tên tiếng Anh của con sông này lại là một kiểu phiên âm sai lạc một từ thổ ngữ của bộ tộc da đỏ Algonquin, vốn có nghĩa là “nơi dòng nước chia nhiều nhánh”. Sông này chảy từ vịnh Chesapeake, qua các đầm lầy ở biên giới Virginia-Bắc Carolina, rồi đổ vào cửa sông Albemarle Sound cùng với sông Chowan, sông Perquimans và các sông khác. Bất cứ khi nào tôi nghĩ đến việc cuộc sống mình có thể đã rẽ hướng về đâu, tôi lại nhớ đến lưu vực sông ấy: bất kể dòng nước từ đầu nguồn có chảy theo đường nào, cuối cùng nó vẫn đến cùng một điểm cuối. Dòng họ nhà tôi luôn gắn liền với biển, nhất là phía bên má tôi. Bà là hậu duệ trực tiếp của những người Anh Thanh giáo đến nước Mỹ trên chiếc tàu Mayflower - ông tổ đầu tiên của bà trên những bờ biển này là John Alden, thợ đóng thùng của tàu Mayflower. Ông ấy kết hôn với một nữ hành khách cùng tàu tên Priscilla Mullins, cô gái có điểm nổi bật đáng ngại là người phụ nữ độc thân duy nhất trong độ tuổi kết hôn ở trên chiếc tàu đó, và do đó là người phụ nữ độc thân duy nhất trong độ tuổi kết hôn của toàn bộ thế hệ di cư đầu tiên ở Thuộc địa Plymouth. Tuy nhiên, việc thành đôi lứa của John và Priscilla vào dịp Lễ Tạ ơn suýt nữa đã không bao giờ xảy ra, vì sự phá rối của người đứng đầu Thuộc địa Plymouth là Myles Standish. Standish si mê Priscilla và việc Priscilla cự tuyệt rồi cuối cùng kết hôn với John, đã trở thành cơ sở cho một tác phẩm văn chương mà tôi luôn được nhắc đến trong suốt thời tuổi trẻ: bài thơ thuật sự The Courtship of Miles Standish (Cuộc đeo đuổi ái tình của Miles Standish) của thi sĩ Henry Wadsworth Longfellow (bản thân nhà thơ lại là hậu duệ của dòng họ Alden-Mullins): Gian phòng im ắng chỉ nghe tiếng ngòi bút hối hả của chàng niên thiếu, Bận rộn viết những thư từ quan trọng, để gửi theo chiếc tàu Mayflower, Đã sẵn sàng ra khơi ngày mai, hoặc muộn nhất là hôm sau nữa, mong thay! Chuyến trở về cùng bao tin dữ của mùa đông khủng khiếp ấy, Những lá thư của Alden, và toàn nhắc tên cô gái Priscilla, ắ Toàn nhắc tên và tiếng thơm của nàng trinh nữ Thanh giáo Priscilla! Elizabeth, con gái của John và Priscilla, là đứa bé di dân đầu tiên chào đời ở New England. Má tôi, cũng tên là Elizabeth, là hậu duệ trực tiếp của bà này. Tuy nhiên, do dòng dõi cơ hồ chỉ toàn truyền qua phụ nữ, nên gần như cứ sau một đời lại phải đổi họ khác - với một người họ Alden kết hôn với một người họ Pabodie kết hôn với một người họ Grinnell kết hôn với một người họ Stephens kết hôn với một người họ Jocelin. Những tổ tiên chuyên nghề đi biển của tôi đã giong buồm dọc theo bờ biển của nơi bây giờ là Massachusetts đến Connecticut và New Jersey - vừa theo các hải trình thương mại vừa tránh né hải tặc giữa vùng Tân thuộc địa và biển Caribbe - cho đến khi nhánh tộc họ Jocelin, với cuộc chiến tranh Cách mạng Mỹ bùng nổ, đã chọn Bắc Carolina làm nơi định cư. Amaziah Jocelin, cũng viết là Amasiah Josselyn trong nhiều biến thể khác, là người chỉ huy chiến thuyền đánh thuê và là một anh hùng chiến tranh. Là thuyền trưởng của chiếc tàu ba buồm, mười đại bác The Firebrand, ông được ghi công bảo vệ mũi Cape Fear. Sau khi Mỹ độc lập, ông trở thành người của Hải quân Hoa Kỳ, một sĩ quan quân nhu của Cảng Wilmington. Tại đây, ông lập ra phòng thương mại đầu tiên, mà thú vị thay ông lại gọi là “Sở thông tin”. Gia đình Jocelin và con cháu của họ - những người mang họ Moore và Hall và Meyland và Howell và Steven và Reston và Stokley - những người hợp thành phần dòng họ còn lại phía bên má tôi đã chiến đấu trong mọi cuộc chiến của lịch sử nước Mỹ, từ cuộc Chiến tranh Cách mạng và Nội chiến (trong đó các họ hàng ở Carolina đã chiến đấu cho phe Liên minh miền Nam chống lại anh em bà con theo phe New England/Liên bang miền Bắc), cho đến cả hai cuộc thế chiến. Dòng họ tôi là dòng họ luôn đáp lại tiếng gọi của trách nhiệm. Ông ngoại tôi, người tôi gọi là Pop, được nhiều người biết đến với danh xưng Chuẩn đô đốc Edward J. Barrett. Lúc tôi sinh ra thì ông là phó chỉ huy bộ phận kỹ thuật hàng không, Sở chỉ huy Tuần duyên, ở thủ đô Washington. Ông sẽ tiếp tục giữ nhiều chức vụ chỉ huy kỹ thuật và tác chiến khác nhau, từ đảo Governors ở thành phố New York, cho tới đảo Key West ở bang Florida, nơi ông làm giám đốc Lực lượng Đặc nhiệm Liên ngành miền Đông (một lực lượng phối hợp nhiều cơ quan, nhiều quốc gia do Tuần duyên Hoa Kỳ lãnh đạo, chuyên ngăn chặn buôn lậu ma túy ở vùng biển Caribbe). Lúc đó tôi không biết Pop còn được thăng chức cao đến đâu, chỉ biết là các nghi thức chào mừng chỉ huy theo thời gian sẽ càng lúc càng phức tạp hơn, với những bài diễn văn dài hơn và những chiếc bánh lớn hơn. Tôi còn nhớ món quà lưu niệm mà đội pháo binh của một dịp như thế đã cho tôi: một vỏ đạn 40mm, còn nóng và khét lẹt thuốc súng, vừa được bắn để chào mừng vinh dự của Pop. Rồi còn Lon, ba tôi nữa, lúc tôi sinh ra thì ba đang là sĩ quan chuyên viên của Trung tâm Huấn luyện Kỹ thuật Hàng không Lực lượng Tuần duyên ở Elizabeth City, là người thiết kế chương trình giảng dạy kiêm giảng viên môn điện tử. Ba thường xuyên đi vắng, để má ở nhà nuôi chị em tôi. Để chúng tôi có ý thức trách nhiệm, má đã cho chúng tôi làm những việc vặt trong nhà; để dạy chúng tôi biết đọc chữ, bà dán nhãn lên các ngăn kéo tủ quần áo của chúng tôi với nội dung là những thứ chứa bên trong - VỚ, ĐỒ LÓT. Bà thường đặt chị em tôi lên chiếc xe trẻ con hiệu Red Flyer và kéo hai đứa đến thư viện trong vùng, nơi tôi lập tức chạy thẳng tới gian sách yêu thích, gian mà tôi gọi là “Mái móc to”1. Mỗi lần má hỏi tôi xem thử tôi thích loại “mái móc to” nào thì tôi lại nói không ngừng: “Xe ben với xe lu với xe nâng với cần cẩu với... “ “Hết chưa, con?” “Ồ”, tôi lại nói tiếp, “với cả máy trộn xi-măng với máy ủi với... ” Má thích thử sức tôi bằng những bài toán đố. Ở siêu thị Kmart hay Winn Dixie, bà thường cho tôi chọn lựa sách và mô hình xe hơi với xe tải rồi mua cho tôi nếu tôi tính nhẩm được giá tổng cộng các món này. Suốt thời thơ ấu của tôi, má không ngừng gia tăng độ khó, ban đầu thì bắt tôi ước tính và làm tròn tới số tiền gần nhất, rồi tới bắt tôi tính ra số đô-la và xu chính xác, và sau đó là bắt tôi tính 3 phần trăm số tiền đó rồi cộng thêm vào tổng số. Tôi đã bối rối trước thử thách sau cùng này - không phải vì bài toán mà là lý do. “Tại sao vậy chứ?” “Cái đó gọi là tiền thuế”, má tôi giải thích. “Mọi thứ chúng ta mua, chúng ta đều phải đóng ba phần trăm cho chính phủ”. “Họ làm gì với nó?” “Con thích đường sá phải không, nhóc? Con thích cầu cống phải không?” bà nói. “Chính phủ dùng tiền đó để sửa chữa cầu đường. Họ dùng tiền đó mua đầy sách cho thư viện”. Một thời gian sau, tôi đâm lo rằng kỹ năng làm toán vừa chớm nở của tôi đã bị hỏng, khi tổng số tiền tôi tính nhẩm ra lại không khớp với những con số trên màn hình của máy tính tiền. Nhưng một lần nữa, má tôi giải thích. “Họ đã tăng thuế doanh thu rồi. Bây giờ con phải thêm bốn phần trăm nữa”. “Vậy bây giờ thư viện sẽ có thêm nhiều sách hơn?” Tôi hỏi. “Hy vọng vậy đi”, má tôi nói. Bà tôi sống cách chúng tôi vài con phố, đối diện nhà máy Carolina Feed & Seed Mill và một cây hồ đào cao ngất. Sau khi kéo căng chiếc áo của mình để làm thành giỏ đựng đầy quả hồ đào rụng, tôi thường đi tới nhà bà và nằm trên thảm cạnh một kệ sách dài thâm thấp. Bạn đồng hành thường lệ của tôi là cuốn Ngụ ngôn Aesop và, có lẽ là cuốn Truyện thần thoại Bulfinch yêu thích. Tôi sẽ lật qua các trang sách, chỉ tạm ngừng để bóp vỏ mấy hạt hồ đào trong lúc mê mải với những con thần mã, những mê cung chằng chịt và những yêu nữ Gorgon đầu tóc là những con rắn chuyên biến người thành đá. Tôi kính phục Odysseus và khá thích các vị thần như Zeus, Apollo, Hermes và Athena, nhưng vị thần tôi ngưỡng mộ nhất chính là Hephaestus: vị thần xấu xí của lửa, hỏa sơn, thợ rèn và thợ mộc, vị thần của những người thích táy máy sửa chữa các thứ. Tôi tự hào vì biết viết đúng tên Hy Lạp của thần này và vì biết là Vulcan, cái tên La Mã của Hephaestus, được đặt cho hành tinh quê nhà của nhân vật Spock trong bộ phim truyền hình Star Trek. Cái tiền đề cơ bản của những thánh thần Hy La ấy luôn khiến tôi thắc mắc. Tuốt trên đỉnh một ngọn núi nào đó, có một nhóm thần nam thánh nữ gần như suốt cuộc đời vô tận của họ chỉ toàn mâu thuẫn với nhau và chỉ chuyên do thám công việc của loài người. Thỉnh thoảng, khi họ nhận ra có chuyện gì đó gây tò mò hay làm bực mình thì họ lại ngụy trang thành cừu, thiên nga, hay sư tử, và rời khỏi các vách núi Olympus xuống trần điều tra và can thiệp. Mỗi lần thần thánh bất tử tìm cách áp đặt ý chí của họ và xen vào chuyện của người phàm tục thì thường là có tai họa - luôn luôn sẽ có ai đó bị chết đuối, hoặc bị sét đánh, hoặc bị biến thành cây cối. Có lần, tôi cầm lên một cuốn sách có hình minh họa về huyền thoại vua Arthur và các hiệp sĩ, và thấy mình đọc về một ngọn núi huyền thoại khác, núi này ở xứ Wales. Nó là thành trì của tên khổng lồ bạo chúa Rhitta Gawr, y không chịu chấp nhận rằng thời đại cai trị của mình đã qua và trong tương lai thế giới sẽ được cai trị bởi các vị vua loài người, những kẻ mà y cho là nhỏ bé và yếu đuối. Quyết giữ quyền lực cho mình, y bèn hạ sơn, tấn công hết vương quốc này đến vương quốc khác và đánh bại bao đội quân người. Cuối cùng, y đã chiến thắng và tiêu diệt sạch mọi vị vua của xứ Wales và Scotland. Sau khi giết chết, y cắt lìa những bộ râu của họ và dệt thành một chiếc áo choàng, khoác lên người như một chiến tích đẫm máu. Sau đó y quyết định thách thức vị vua hùng mạnh nhất của nước Anh, vua Arthur, đưa ra một sự lựa chọn: hoặc là Arthur tự cắt đứt bộ râu của mình và đầu hàng, hoặc Rhitta Gawr sẽ chặt đầu nhà vua và tự tay cắt lìa bộ râu. Tức giận vì sự ngạo mạn này, Arthur lên đường đến thành trì trên núi của Rhitta Gawr. Nhà vua và tên khổng lồ gặp nhau trên ngọn núi cao nhất và giao chiến suốt nhiều ngày, cho đến khi Arthur bị thương nặng. Ngay lúc Rhitta Gawr túm tóc nhà vua và chuẩn bị chặt đầu, Arthur vận hết sức lực cuối cùng đâm phập thanh kiếm huyền thoại vào con mắt của tên khổng lồ, khiến y ngã lăn ra chết. Arthur cùng các hiệp sĩ sau đó bắt đầu chất một tháp đá trên xác chết của Gawr làm mộ phần, nhưng việc chưa xong thì trời đổ tuyết. Lúc họ ra đi, chiếc áo choàng dệt bằng râu đầy máu của người khổng lồ đã trở thành màu trắng trinh nguyên. Ngọn núi ấy tên là Snaw Dun, có một chú thích nói rằng đây là từ tiếng Anh cổ của “snow mound” (đồi tuyết). Ngày nay, Snaw Dun được gọi là núi Snowdon. Là một hỏa sơn đã tắt từ lâu, ở độ cao khoảng 1.085 mét, nó là đỉnh núi cao nhất xứ Wales. Tôi còn nhớ cảm giác khi bắt gặp tên mình trong ngữ cảnh này - thật là rộn ràng xúc động - và cách viết cổ ấy đã cho tôi cảm nhận cụ thể đầu tiên rằng thế giới này lâu đời hơn tôi, thậm chí lâu đời hơn cả ba má tôi. Cái tên này gắn liền với những kỳ tích anh hùng của Arthur, Lancelot, Gawain, Percival, Tristan, và các Hiệp sĩ Bàn tròn khác lại càng khiến tôi tự hào - cho đến khi tôi biết rằng những kỳ tích ấy không phải là lịch sử, mà chỉ là huyền thoại. Nhiều năm sau, với sự giúp đỡ của má, tôi đã lùng sục thư viện với mong muốn tách bạch huyền thoại với thực tế. Tôi phát hiện ra rằng Lâu đài Stirling ở Scotland từng được đổi tên thành Lâu đài Snowdon, để vinh danh chiến công này của vua Arthur, trong một nỗ lực muốn củng cố quyền lên ngôi trị vì nước Anh của người Scotland. Tôi hiểu ra, thực tế hầu như luôn lộn xộn và ít đáng hãnh diện hơn chúng ta tưởng, nhưng lạ lùng thay, về mặt nào đó nó cũng thường hấp dẫn hơn huyền thoại. Trước khi phát hiện ra sự thật về vua Arthur, từ lâu tôi đã bị ám ảnh bởi một thể loại truyện mới và khác biệt, hay đúng hơn, một lối kể chuyện mới và khác biệt. Vào Giáng sinh năm 1989, chiếc máy trò chơi điện tử Nintendo xuất hiện trong nhà. Tôi hoàn toàn mê mẩn cái bàn điều khiển hai tông màu xám đó tới mức bà má hốt hoảng của tôi phải đặt ra quy định: Tôi phải đọc xong một cuốn sách thì bà mới thuê cho một trò chơi mới. Các trò chơi điện tử thời đó rất đắt đỏ, và, sau khi đã thành thạo các trò chơi đi kèm với bàn điều khiển đó - chỉ là một chiếc hộp chứa trò Super Mario Bros, và trò Duck Hunt - tôi háo hức với những thử thách mới. Trở ngại duy nhất là, ở tuổi lên sáu, tôi không thể đọc nhanh bằng tốc độ tôi chơi hết một trò chơi. Đó là lúc bắt đầu những màn “hack” non nớt khác của tôi. Tôi bèn mang từ thư viện về nhà những cuốn sách mỏng hơn, và có nhiều ằ tranh ảnh hơn. Có những cuốn bách khoa bằng hình về các phát minh, với những hình vẽ kỳ quái về những chiếc xe đạp có bánh xe vĩ đại và các quả khí cầu, cùng những cuốn truyện tranh mà mãi sau này tôi mới biết là những bản giản lược truyện của Jules Verne và H. G. Wells dành cho trẻ em. Cái máy NES (Nintendo Entertainment System) đó - cái máy chơi game Nintendo 8 bít xoàng xĩnh nhưng tài tình - chính là việc học thực sự của tôi. Từ trò chơi The Legend of Zelda, tôi biết thế giới này tồn tại là để được khám phá; từ trò Mega Man, tôi biết rằng những kẻ thù vẫn có nhiều điều để mình học hỏi; và từ trò Duck Hunt, chà, Duck Hunt đã dạy tôi rằng ngay cả khi có kẻ cười nhạo những thất bại của ta thì không có nghĩa là ta phải bắn vào mặt họ. Nhưng cuối cùng, chính trò Super Mario Bros, đã dạy cho tôi điều mà có lẽ vẫn là bài học quan trọng nhất đời tôi. Tôi hoàn toàn nói thật đấy. Tôi muốn bạn xem xét điều này một cách nghiêm túc. Super Mario Bros., phiên bản 1.0, có lẽ là kiệt tác mọi thời đại của các trò chơi có màn hình cuộn một phía. Khi trò chơi bắt đầu, Mario đang đứng hẳn về phía trái khung hình mở màn huyền thoại, và anh chàng chỉ có thể đi theo một hướng: Anh chàng chỉ có thể di chuyển sang phải. Mario phải vượt qua tám màn chơi, mỗi màn chơi có bốn cấp độ khó, mọi cấp độ đều bị khống chế về thời gian, cho đến khi anh chàng gặp tên Bowser độc ác và giải thoát Công chúa Toadstool đang bị giam cầm. Suốt cả ba mươi hai cấp độ, Mario phải đứng trước cái mà nói theo ngôn ngữ chơi game là “bức tường vô hình”, thứ không cho phép anh chàng đi lùi. Không có quay lại, chỉ có đi tiếp - cho anh em Mario và Luigi, cho tôi và cho bạn. Đời chỉ cuốn theo một hướng, đó là hướng của thời gian, và bất kể ta có cố gắng đi xa đến đâu, bức tường vô hình ấy vẫn sẽ luôn ở sau lưng ta, cắt lìa ta với quá khứ, buộc ta phải lao vào chốn vô minh. Một đứa trẻ lớn lên ở một thành phố nhỏ bang Bắc Carolina trong những năm 1980 phải ý thức được cái chết từ đâu đó chứ, vậy tại sao không học từ hai anh em thợ ống nước dân Ý di cư thích ăn nấm mọc trong ống cống kia? Một ngày kia, hộp băng Super Mario Bros, chơi quá mức của tôi không chạy được, bất kể tôi có ra sức thổi phù phù vào khe hộp bao nhiêu đi nữa. Thời đó ta phải làm như thế, hoặc làm những cách ta nghĩ mình phải làm: Ta phải thổi vào khe hở của hộp băng trò chơi cho sạch hết bụi bặm, mảnh vụn, và lông chó mèo vốn hay tích tụ ở đó. Nhưng tôi có thổi chừng nào, cả vào khe hộp băng lẫn vào khe cắm băng trên bàn điều khiển, màn hình TV vẫn không hiển thị trò chơi mà chỉ toàn đốm và vệt sáng, thật không yên tâm chút nào. Giờ nghĩ lại, cái máy Nintendo ấy có lẽ chỉ bị lỗi ở một tiếp điểm kết nối, nhưng mới lên bảy, tôi thậm chí còn không biết tiếp điểm kết nối là gì cho nên đã tuyệt vọng não nề. Tệ hại nhất là ba tôi lại vừa rời nhà theo một chuyến công tác của Lực lượng Tuần duyên, phải hai tuần nữa mới trở về giúp tôi sửa cái máy game này. Tôi biết là không hề có thủ thuật co giãn thời gian kiểu Mario nào hay những đường ống nào mà chui vào đó để làm cho hai tuần lễ ấy trôi qua nhanh hơn được, thế là tôi quyết tự mình sửa chữa. Nếu thành công, tôi biết ba tôi sẽ phục lăn. Tôi đi ra ga-ra tìm hộp đồ nghề bằng sắt màu xám của ba. Tôi đã xác định là muốn biết cái máy game bị trục trặc gì thì trước tiên tôi phải tháo tung nó ra. Về cơ bản, tôi chỉ bắt chước, hay cố bắt chước, chính những động tác mà ba thường làm mỗi lần ông ngồi ở chiếc bàn trong nhà bếp sửa chữa đầu máy video hay cái máy cát-xét của gia đình - trong mắt tôi, đây là hai loại máy gia dụng gần giống cái máy game Nintendo nhất. Tôi mất một giờ để tháo tung bàn điều khiển ra, bằng hai bàn tay nhỏ xíu chưa biết phối hợp, cố sức dùng một cây tua-vít đầu dẹp để vặn những con ốc bốn chấu, nhưng cuối cùng tôi cũng làm được. Cái bàn điều khiển ấy bên ngoài là màu xám đơn sắc, buồn tẻ, nhưng bên trong lại đủ màu rực rỡ. Trông như cả một cầu vồng bằng dây điện và những ánh vàng ánh bạc lấp lánh tỏa ra từ một bảng mạch xanh như màu cỏ. Tôi vặn chặt chỗ này mấy cái, nới lỏng chỗ kia mấy cái - gần như là hú họa - và thổi phù phù vào từng bộ phận. Sau đó, tôi lau sạch tất cả bằng khăn giấy. Rồi tôi lại phải thổi vào bảng mạch lần nữa để tống những vụn khăn giấy đã mắc kẹt vào chỗ mà tôi bây giờ đã biết là các chân tiếp xúc. Khi tôi đã lau sạch và sửa chữa xong thì tới lúc lắp ráp lại. Con chó vàng giống Labrador của nhà tôi, Treasure, chắc là đã nuốt mất một trong những con ốc nhỏ xíu, hoặc con ốc có lẽ đã lạc ở đâu trong tấm thảm hoặc dưới gầm ghế xa-lông. Và chắc chắn là tôi đã không ráp các thành phần lại đúng như cách ban đầu khi tôi chưa tháo ra, bởi vì chúng không lắp vừa vào trong vỏ máy game. Cái nắp vỏ cứ liên tục bật ra, thế là tôi thấy mình cứ cố lèn chặt các thành phần xuống, giống như khi ta cố cài một chiếc va-li nhồi nhét căng phồng. Cuối cùng, cái nắp khớp vào vị trí, nhưng chỉ ở một cạnh. Cạnh kia lại nhô lên, và tôi cố ấn cho nó vào đúng khớp thì lại làm cho cạnh ban đầu bật ra. Tôi làm đi làm lại mãi một lúc lâu, rồi cuối cùng tôi bỏ cuộc và cắm điện vào máy. Tôi nhấn nút Power - và không thấy gì. Tôi nhấn nút Reset - và không thấy gì. Đó là hai nút duy nhất trên bàn điều khiển. Trước khi tôi sửa chữa, đèn báo cạnh bên hai nút này luôn ửng sáng đỏ rực, nhưng bây giờ cả đèn ằ báo cũng tắt luôn. Máy game chỉ nằm trơ ra đó, méo mó và vô dụng, còn tôi ngập tràn cảm giác tội lỗi và lo sợ. Ba tôi, khi ông trở về sau chuyến đi cùng Lực lượng Tuần duyên, sẽ chẳng tự hào gì về tôi: Ba sẽ nhảy lên đầu tôi như tên người nấm ác độc Goomba trong trò Super Mario Bros. Nhưng tôi không sợ ba giận bằng sợ ba thất vọng. Đối với những người ngang hàng, ba tôi là một kỹ sư hệ thống điện tử, một bậc thầy chuyên về điện tử hàng không. Đối với tôi, ba là một nhà khoa học điên rồ trong gia đình, người cố gắng tự tay sửa mọi thứ - ổ cắm điện, máy rửa chén, bình đun nước nóng và máy lạnh. Tôi thường làm người phụ việc cho ba những lúc ba cho phép, và trong quá trình đó tôi đã biết được cả niềm vui thể chất của công việc tay chân và niềm vui trí tuệ của môn cơ học căn bản, cùng với những nguyên lý điện tử nền tảng - sự khác biệt giữa điện áp và dòng điện, giữa công suất và điện trở. Mọi công việc hai cha con cùng đảm trách thường sẽ kết thúc bằng việc sửa chữa thành công hoặc một lời nguyền rủa, khi ba tôi ném món đồ không thể cứu vãn qua đầu phòng bên kia, cho rơi vào chiếc thùng các tông chứa những-thứ-không-thể-không-hỏng. Tôi chưa bao giờ phê phán ba về những thất bại ấy - tôi luôn nể phục vì ông đã dám liều mình thử sức một phen. Khi ba trở về và biết được tôi đã làm những gì với chiếc máy trò chơi, ông không nổi giận, điều này khiến tôi vô cùng ngạc nhiên. Nhưng ba cũng không hẳn vui, ông chỉ nhẫn nại. Ông giải thích rằng việc hiểu tại sao các thứ bị hỏng và hỏng như thế nào cũng quan trọng như việc hiểu được bộ phận nào bị hỏng: biết được nguyên do và cách thức thì ta sẽ ngăn ngừa được những trục trặc tương tự về sau. Ba lần lượt chỉ vào từng bộ phận của bàn điều khiển, vừa giải thích tên gọi cũng như chức năng của nó, và nó tương tác với các bộ phận khác ra sao để góp phần làm cho cơ chế bộ máy vận hành chính xác. Chỉ có cách phân tích cơ chế của từng bộ phận riêng lẻ thì ta mới xác định được liệu thiết kế của nó có giúp nó thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả nhất hay không. Nếu đúng là hiệu quả nhất thì bộ máy chỉ bị trục trặc, vậy thì ta sửa chữa nó. Còn không thì ta phải thay đổi để làm cho cơ chế hoàn thiện hơn. Đây là quy trình đúng đắn duy nhất để làm công việc sửa chữa, theo lời ba tôi, và không được tùy ý làm sao cũng được - thực tế, đây là trách nhiệm cơ bản của ta đối với công nghệ. Giống như mọi bài học ba tôi dạy, bài học này có nhiều cách áp dụng rộng rãi ngoài công việc trước mắt. Rốt cuộc, đây chính là bài học về nguyên tắc tự lực, điều mà ba tôi khăng khăng rằng nước Mỹ đã lãng quên vào một lúc nào đó giữa tuổi thơ của ba và tuổi thơ của tôi. Nước Mỹ của ằ chúng ta bây giờ là một nước mà chi phí thay thế một cái máy hỏng bằng cách mua một kiểu máy đời mới lại rẻ hơn chi phí nhờ người chuyên môn sửa chữa. Thực tế là chỉ điều đó thôi đã hầu như đảm bảo được sự thống trị của công nghệ, cái quyền lực ấy được duy trì không phải bởi bản thân công nghệ mà là bởi chính sự thiếu hiểu biết của mọi người vốn đang sử dụng công nghệ hằng ngày nhưng lại không hiểu biết về nó. Không chịu tự tìm hiểu về cách hoạt động và bảo trì cơ bản thiết bị mà mình lệ thuộc chính là đã thụ động chấp nhận quyền thống trị đó và đồng ý với các điều kiện của nó: khi thiết bị hoạt động thì ta hoạt động, nhưng khi thiết bị tê liệt thì ta cũng tê liệt. Vật sở hữu của ta lại chiếm hữu ta. Hóa ra tôi có lẽ chỉ làm gẫy một mối hàn nào đó mà thôi, nhưng để tìm ra chính xác cái nào, ba tôi cần phải dùng một thiết bị kiểm tra đặc biệt mà ông có quyền sử dụng ở phòng nghiên cứu trong căn cứ Tuần duyên. Tôi cứ nghĩ ba sẽ mang cái thiết bị kiểm tra đó về nhà, nhưng không hiểu sao ba lại đưa tôi đến nơi làm việc của ông. Tôi nghĩ là ba chỉ muốn cho tôi xem phòng nghiên cứu ấy. Chắc ba cho rằng tôi đã sẵn sàng. Tôi chưa sẵn sàng. Tôi chưa hề đến chỗ nào choáng ngợp như thế. Ngay cả thư viện. Ngay cả gian hàng điện tử Radio Shack trong khu mua sắm Lynnhaven. Điều tôi nhớ nhất là những chiếc màn hình. Phòng nghiên cứu này tối lờ mờ và vắng lặng, một công trình xây dựng màu be và màu trắng theo tiêu chuẩn chung của chính phủ, nhưng ba tôi chưa kịp bật đèn lên thì tôi đã ngây người ra trước quãng sáng phập phồng màu xanh lá cây điện tử trong phòng. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là “Sao ở đây lại có quá nhiều TV thế?”, rồi tiếp theo đó là “Tại sao tất cả TV đều bật cùng một kênh?”. Ba tôi giải thích rằng những chiếc máy này không phải là TV mà là máy tính - là computer - mặc dù tôi đã từng nghe tới cái từ này rồi nhưng không biết nó có nghĩa gì. Lúc đầu tôi cứ tưởng rằng những màn hình hiển thị ấy - các monitor - chính là những chiếc máy tính. Ba tiếp tục đưa tôi đi xem, từng chiếc máy một, và cố giảng giải cho biết chức năng của chúng: cái này xử lý tín hiệu radar, còn cái này để chuyển tiếp tín hiệu vô tuyến, còn cái kia là để giả lập các hệ thống điện tử trên máy bay. Thật tình tôi chẳng hiểu được tới một nửa những gì ba nói. Những máy tính này hầu như tân tiến hơn mọi loại máy tính sử dụng trong khu vực kinh tế tư nhân thời ấy, cơ hồ vượt xa mọi tưởng tượng của tôi. Tất nhiên vào lúc đó, bộ xử lý của các máy tính này phải mất trọn năm phút mới khởi động xong, màn hình chỉ có một màu, và chẳng có loa để phát hiệu ứng âm thanh hay âm nhạc. Tuy nhiên, những hạn chế đó chỉ càng khiến chúng tăng thêm phần ấn tượng. Ba đặt tôi ngồi phịch lên một chiếc ghế, nâng ghế cao lên cho đến khi tôi vừa tầm với tới bàn làm việc, và một khối nhựa hình chữ nhật nằm trên bàn. Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy mình ngồi trước một bàn phím. Ba chưa bao giờ cho tôi gõ lên chiếc máy tính Commodore 64 của ông, và thời gian trước màn hình của tôi chỉ thu hẹp trong những máy trò chơi điện tử với bàn điều khiển có mục đích nhất định. Còn những máy tính này đây là đồ chuyên nghiệp, đa năng, không phải máy chơi game, và tôi không biết cách làm cho chúng hoạt động. Không có bộ điều khiển, không có cần bấm, không có súng bắn - phương tiện giao tiếp duy nhất với bộ máy đó là cái khối nhựa dẹp có nhiều hàng phím in chữ số và chữ cái. Các chữ cái được sắp xếp theo một thứ tự khác với thứ tự tôi đã được học ở trường. Chữ cái đầu tiên không phải là A mà là Q, theo sau là W, E, R, T và Y. Ít ra thì các chữ số vẫn theo thứ tự mà tôi đã được học. Ba bảo tôi là mỗi phím trên bàn phím này đều có mục đích - mỗi chữ cái, mỗi chữ số - và cách kết hợp các phím này cũng có mục đích. Và cũng giống như với các nút trên bộ điều khiển hoặc cần bấm chơi game, nếu ta có thể nghĩ ra cách kết hợp đúng thì có thể làm được nhiều chuyện thần kỳ. Để minh họa, ba với tay qua người tôi, gõ một lệnh, rồi nhấn phím Enter. Một cái gì đó hiện ra ngay trên màn hình mà bây giờ tôi đã biết đó là một trình soạn văn bản. Kế đến, ba chộp lấy một mẩu giấy ghi chú Post-it với cây bút, viết nguệch ngoạc mấy chữ cái và chữ số, rồi bảo tôi gõ vào bàn phím đúng y như thế trong lúc ba đi sửa chiếc máy trò chơi Nintendo bị hỏng. Ba vừa đi là tôi bắt đầu chép lại những chữ viết nguệch ngoạc của ông trên màn hình bằng cách gõ mổ cò vào bàn phím. Là đứa trẻ thuận tay trái được nuôi dạy để trở thành người thuận tay phải, tôi lập tức thấy đây là cách viết chữ tự nhiên nhất mà tôi từng gặp. 10 INPUT “WHAT IS YOUR NAME?”; NAME$ 20 PRINT “HELLO,” + NAMES + “!” Nghe có vẻ dễ đối với bạn, nhưng bạn không phải con nít. Tôi là đứa con nít đó. Tôi là một đứa trẻ với những ngón tay mũm mĩm, ngắn ngủn, thậm chí còn chưa biết dấu ngoặc kép là gì, chứ đừng nói là tôi phải giữ phím Shift mới gõ được cái dấu đó. Sau rất nhiều lần mày mò và rất nhiều lần sai lầm, cuối cùng tôi gõ xong được dòng lệnh ấy. Tôi nhấn Enter và trong chớp nhoáng, cái máy tính hỏi tôi một câu: WHAT IS YOUR NAME? (Bạn tên gì?) Tôi bị mê hoặc ngay. Mẩu giấy ghi chú của ba không bảo tôi phải làm gì kế tiếp, cho nên tôi quyết định trả lời, và nhấn anh bạn mới Enter này lần nữa. Đột nhiên, không biết từ đâu, trên màn hình tự viết ra dòng chữ HELLO, EDDIE! màu xanh lá cây phóng xạ bềnh bồng trên nền đen. Đây là bài học vỡ lòng của tôi về lập trình và máy tính nói chung: một bài học về việc các bộ máy này làm những gì chúng làm bởi vì có ai đó bảo chúng phải làm thế, bằng một cách thức rất đặc biệt, rất cẩn thận. Và ai đó thậm chí có thể là đứa trẻ bảy tuổi. Gần như ngay lập tức, tôi hiểu ra được những giới hạn của các máy chơi game. Khả năng của chúng rất hạn hẹp so với máy tính. Nintendo, Atari, Sega - tất cả đều khống chế bạn trong các cấp độ chơi và những màn chơi mà bạn có thể tiến lên, hay thậm chí chơi thắng, nhưng không hề thay đổi. Chiếc máy Nintendo được sửa xong đã quay lại với phòng sinh hoạt gia đình, nơi ba và tôi chơi thi với nhau những trò chơi tay đôi như Mario Kart, Double Dragon và Street Fighter. Đến lúc đó, tôi đã giỏi hơn ba rất nhiều trong những trò này - môn chơi đầu tiên mà tôi tỏ ra thành thạo hơn ba - nhưng thỉnh thoảng tôi để cho ba thắng tôi. Tôi không muốn ba nghĩ rằng tôi là đứa vô ơn. Tôi không phải là lập trình viên bẩm sinh, và tôi chưa bao giờ thấy mình giỏi môn này. Nhưng trong khoảng mười năm sau đó, đúng là tôi dần dần đủ khả năng để trở nên nguy hiểm. Cho đến ngày nay, tôi vẫn thấy quy trình đó thật kỳ diệu: gõ các lệnh bằng đủ thứ ngôn ngữ lạ lùng mà bộ xử lý sau đó sẽ chuyển thành một trải nghiệm không chỉ dành sẵn cho tôi mà còn cho tất cả mọi người. Tôi đã bị mê hoặc với ý nghĩ là chỉ một lập trình viên thôi cũng có thể viết ra một chương trình máy tính vạn năng, một thứ vượt khỏi mọi ràng buộc của luật lệ hay quy định, ngoại trừ những yếu tố về cơ bản có thể quy thành nguyên nhân và kết quả. Giữa những gì nhập vào máy tính và những gì máy tính xuất ra có một mối quan hệ hoàn toàn logic. Nếu đầu vào của tôi bị lỗi thì đầu ra sẽ bị lỗi; nếu đầu vào của tôi hoàn hảo thì đầu ra của máy tính cũng vậy. Trước đó, tôi chưa bao giờ trải qua bất cứ điều gì mà lại hết sức nhất quán và công bằng như thế, hết sức vô tư rạch ròi như thế. Chiếc máy tính sẽ mãi mãi đợi lệnh của tôi, nhưng ngay lúc tôi gõ Enter là nó sẽ xử lý ngay, không hề thắc mắc. Không có người thầy nào từng kiên nhẫn đến thế, nhưng lại sẵn sàng đến thế. Không có nơi nào khác - chắc chắn không phải ở trường, và thậm chí không phải ở nhà - mà tôi cảm thấy mình được nắm quyền kiểm soát như vậy. Đối với tôi - cũng như đối với biết bao đứa trẻ thông minh, có khiếu kỹ thuật của thiên niên kỷ mới - việc một tập hợp câu lệnh hoàn hảo sẽ luôn luôn thực hiện hoàn hảo cùng một tác vụ dường như là một sự thật có tính cứu vớt bền vững duy nhất của thế hệ chúng tôi. ₀O₀ 3 Cậu bé ở Beltway GẦN ĐẾN SINH NHẬT LÊN CHÍN của tôi thì nhà tôi chuyển từ Bắc Carolina đến Maryland. Tôi ngạc nhiên nhận ra rằng cái tên của tôi đã đi trước. Khắp hạt Anne Arundel, nơi nhà tôi dọn đến, ở đâu cũng thấy “Snowden”, mặc dù phải mất một thời gian tôi mới hiểu tại sao. Richard Snowden là thiếu tá người Anh đã đến địa phận Maryland này vào năm 1658 với niềm tin là sự đảm bảo của Lord Baltimore về quyền tự do tôn giáo cho cả người Công giáo lẫn Tin lành cũng sẽ được mở rộng cho những người theo Giáo Hữu Hội (The Quakers). Năm 1674, em của Richard là John cũng đi theo anh, John đồng ý từ bỏ vùng Yorkshire để rút ngắn án tù vì đã truyền đạo Quakers. Khi con tàu của William Penn, tàu Welcome, đi ngược sông Delaware vào năm 1682, John là một trong số ít người châu Âu ra chào đón. Trong số các cháu nội của John, có ba người về sau phục vụ cho Quân đội Lục địa trong cuộc chiến tranh Cách mạng. Do tín hữu Quakers là những người theo chủ nghĩa hòa bình, họ bị cộng đồng khiển trách vì quyết định tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập này, nhưng lương tâm của họ đòi hỏi họ phải xem xét lại chủ nghĩa hòa bình của mình. William Snowden, tổ tiên trực hệ phía ba tôi, là đại úy, bị người Anh bắt làm tù binh trong trận Fort Washington ở New York, và chết trong cảnh giam cầm tại một trong những nhà tù khét tiếng vốn là nhà máy đường mía ở Manhattan. (truyền thuyết kể rằng người Anh đã giết hại tù binh bằng cách ép họ phải ăn cháo trộn với thủy tinh nghiền nhỏ). Vợ ông, bà Elizabeth, nhũ danh Moor, là vị cố vấn được quý trọng của tướng Washington, và là mẹ của một John Snowden khác - một chính trị gia, kiêm sử gia và chủ báo ở Pennsylvania có con cháu phân tán về phía nam để sinh sống trên đất đai tài sản của bà con họ Snowden ở Maryland. Hạt Anne Arundel bao gồm hầu như trọn 1.976 mẫu đất rừng mà vua Charles Đệ Nhị đã cấp cho gia đình Richard Snowden vào năm 1686. Các doanh nghiệp mà dòng họ Snowden này lập ra ở đây gồm có xưởng cơ khí Patuxent Iron Works, một trong những xưởng rèn quan trọng nhất của thuộc địa Mỹ và là nơi sản xuất chính các loại đạn đại bác và đạn súng trường, và đồn điền Snowden Plantation, một trại canh nông và nuôi bò sữa do các cháu nội của Richard Snowden trông coi. Sau khi phục vụ trong Đạo quân Maryland anh hùng của Quân đội Lục địa, họ trở về đồn điền này, sống hoàn toàn đúng theo những nguyên tắc tự lập tự cường, và đã bãi bỏ thói quen sở hữu nô lệ của dòng họ khi trả tự do cho hai trăm nô lệ châu Phi gần một thế kỷ trước cuộc Nội chiến. Ngày nay, những đồng ruộng của dòng họ Snowden thời xưa bị chia cắt bởi đại lộ Snowden River Parkway, một con đường bốn làn xe buôn bán sầm uất với các chuỗi nhà hàng cao cấp và đại lý xe hơi. Gần đó, xa lộ Route 32/Patuxent Freeway dẫn thẳng đến Fort George G. Meade, căn cứ quân sự lớn thứ hai trong cả nước và là bản doanh của NSA. Trên thực tế, Fort Meade được xây dựng trên mảnh đất từng thuộc quyền sở hữu của bà con dòng họ Snowden của tôi, và chính phủ Hoa Kỳ hoặc mua lại (theo một chuyện lưu truyền) hoặc là chiếm đoạt của họ (theo một câu chuyện khác). Lúc ấy, tôi đâu biết gì về lịch sử này: Ba má tôi nói đùa rằng mỗi khi có ai mới chuyển đến đây thì tiểu bang Maryland lại thay đổi tên trên các biển hiệu. Họ thấy chuyện đó buồn cười nhưng tôi lại thấy đáng sợ. Hạt Anne Arundel chỉ cách Elizabeth City hơn 250 dặm một chút qua ngã xa lộ liên bang I-95, thế nhưng nó tưởng chừng lại là một hành tinh khác. Nhà tôi đã đổi bờ sông rợp lá để chọn một vỉa hè bê-tông, và đổi một ngôi trường nơi tôi được yêu mến và có tiếng là học giỏi để chọn một nơi mà tôi liên tục bị chế nhạo vì đeo kính cận, vì thói quen không thích thể thao, và nhất là vì giọng nói của tôi - giọng nói kéo dài rặt miền Nam đã khiến đám bạn học mới gọi tôi là “thằng đần”. Tôi rất nhạy cảm về giọng nói của mình tới mức ở trong lớp, tôi không chịu mở miệng nói và ở nhà, tôi bắt đầu luyện tập một mình cho đến khi có thể phát âm nghe được “bình thường” - hay ít ra là cho đến khi tôi không đọc cái tên môn học nhục nhã của tôi là môn “Anh dzăng” hay nói rằng tôi bị tờ giấy bén cứa vào “ngón tai” của mình. Nhưng suốt thời gian đó, cũng chính cái việc sợ không dám nói chuyện tự do đã khiến điểm số của tôi trong lớp sa sút nặng nề, và một số giáo viên đã quyết định cho tôi kiểm tra IQ như một cách chẩn đoán xem trí óc tôi có bị rối loạn khả năng học tập như họ nghĩ không. Khi điểm số của tôi ổn trở lại, tôi nhớ là chẳng ai xin lỗi tôi một lời, họ chỉ toàn tống thêm cho tôi những “bài tập tăng cường”. Thực tế là chính những giáo viên đã nghi ngờ khả năng học tập của tôi bây giờ lại bắt đầu khó chịu vì tôi thích mở miệng nói. Nhà mới của tôi nằm ở vành đai Beltway, tên thường gọi trước đây của Xa lộ Liên bang 495, con đường cao tốc bao quanh thủ đô Washington, nhưng bây giờ cái tên ấy lại dùng để gọi cái bán kính bùng nổ rộng lớn và mở rộng liên tục của các cộng đồng ngày đi làm xa tối về ngủ ở quanh thủ đô quốc gia, trải dài về phía bắc đến Baltimore, Maryland, và phía nam đến Quantico, Virginia. Cư dân của những vùng ngoại thành này hầu như toàn phục vụ cho chính phủ Hoa Kỳ hoặc làm việc cho một trong những công ty làm ăn với chính phủ. Nói thẳng ra, những cộng đồng ấy không có lý do nào khác để tồn tại. Chúng tôi sống ở Crofton, Maryland, lưng chừng giữa Annapolis và thủ đô Washington, ở rìa phía tây của hạt Anne Arundel, nơi các khu phát triển dân cư đều xây theo kiểu nhà thời Liên bang lập quốc vách ốp nhựa tấm giả gỗ và mang những cái tên giả cổ lạ lùng như Crofton Towne, Crofton Mews, The Preserve, The Ridings. Bản thân Crofton là một cộng đồng được quy hoạch nằm gọn quanh các đường cong của sân golf Crofton Country Club. Nhìn trên bản đồ, nó trông giống hệt bộ não của con người, với những con đường cuộn xoắn và xếp nếp quanh nhau như những gờ rãnh của vỏ não. Nhà tôi ở đường Knights Bridge Turn, một đường nhánh rộng, thoai thoải toàn những ngôi nhà tam cấp, có đường lái xe rộng đi vào và ga-ra chứa được hai chiếc xe. Ngôi nhà chúng tôi sống là căn thứ bảy tính từ một đầu đường nhánh này, cách đầu đường kia bảy căn nữa - nhà tôi nằm ngay chính giữa. Tôi có một chiếc xe đạp Huffy có bộ đế mười líp và cùng với chiếc xe này là một tuyến đường đi phát báo, giao tận nhà tờ Capital, một nhật báo lâu đời xuất bản ở Annapolis, việc giao báo hằng ngày càng lúc càng thất thường đến đáng ngại, nhất là vào mùa đông, đặc biệt là đoạn giữa đại lộ Crofton Parkway và đường Route 450, con đường này khi đi qua khu vực chúng tôi lại mang một tên khác: Defense Highway - Xa lộ Quốc phòng. Đối với ba má tôi, đây là một giai đoạn đầy hứng khởi. Crofton là một bước tiến cho họ, cả về kinh tế và xã hội. Các con đường rợp bóng cây và ở đây hầu như không có tội phạm, còn số dân cư đa văn hóa, đa chủng tộc, đa ngôn ngữ - điều phản ánh sự đa dạng của Cộng đồng ngoại giao và tình báo Beltway - đều khá giả và có học vấn. Sân sau nhà tôi về cơ bản là một sân golf, với các sân tennis nằm gần ngay đó, và tiếp nối bằng những hồ bơi kích thước chuẩn Olympic. Đi lại cũng vậy, Crofton là nơi lý tưởng. Ba chỉ mất bốn mươi phút để tới sở làm với chức vụ mới là sĩ quan chuyên viên của Phòng Kỹ thuật Hàng không tại Sở chỉ huy Tuần duyên, lúc đó được đặt tại Buzzard Point ở phía nam Washington DC, kế bên căn cứ Fort Lesley J. McNair. Còn má tôi chỉ mất chừng hai mươi phút để đi làm công việc mới ở NSA, sở chỉ huy của cơ quan này - xây kiểu hình hộp theo phong cách vị lai, trên nóc có các nhà chứa radar bọc đồng để bảo toàn tín hiệu liên lạc - chính là trái tim của căn cứ Fort Meade. Với người ngoài cuộc, tôi phải nhấn mạnh mãi một điều: kiểu tuyển dụng này là bình thường. Hàng xóm bên trái nhà tôi làm việc cho Bộ Quốc phòng; hàng xóm bên phải làm trong Bộ Năng lượng và Bộ Thương mại. Có một thời gian, gần như mọi cô gái ở trường mà tôi phải lòng đều có cha làm trong FBI. Fort Meade chỉ là nơi má tôi làm việc, cùng với khoảng 125.000 nhân viên khác, trong đó có khoảng 40.000 người cư trú tại chỗ, nhiều người sống cùng gia đình. Căn cứ này là nhà của hơn 115 cơ quan chính phủ, ngoài ra còn có lực lượng từ cả năm binh chủng quân đội. Bạn sẽ hiểu rõ hơn nếu biết rằng tại hạt Anne Arundel, dân số chỉ hơn nửa triệu, nhưng cứ tám trăm người thì có một người làm việc cho ngành bưu điện, cứ ba mươi người thì có một người làm việc cho hệ thống trường công, và cứ bốn người thì có một người làm việc hoặc phục vụ trong một doanh nghiệp, cơ quan hoặc chi nhánh có liên quan với Fort Meade. Căn cứ này có bưu điện, trường học, sở cảnh sát và sở cứu hỏa riêng. Trẻ em trong khu vực, cả con cái nhà binh lẫn con thường dân, đều đổ về căn cứ này hằng ngày để học đánh golf, tennis và bơi lội. Dù nhà tôi sống bên ngoài căn cứ, má tôi vẫn sử dụng các cửa hàng quân nhu ở đây như cửa hàng tạp hóa của chúng tôi, để dự trữ nhiều món hàng. Bà cũng đã tận dụng cửa hàng PX, hay Post Exchange, của căn cứ, như một cửa hàng đầy đủ mọi thứ để mua các loại quần áo tiện dụng và quan trọng nhất là miễn thuế cho hai đứa con đang lớn nhanh không ngừng là chị em tôi. Với những độc giả không lớn lên trong môi trường tương tự, có lẽ cách tốt nhất là hãy hình dung Fort Meade và vùng xung quanh căn cứ này, nếu không nói là toàn bộ khu vực Beltway, như một kiểu thành phố công ty bùng phát khổng lồ. Đó là nơi mà nền văn hóa đồng nhất của nó có nhiều điểm tương đồng với Thung lũng Silicon, chẳng hạn, chỉ khác một điều là sản phẩm của khu vực Beltway không phải là công nghệ mà là chính phủ. Tôi cũng phải nói thêm rằng cả ba má tôi đều có chứng nhận an ninh tối mật, nhưng má tôi còn phải qua cuộc kiểm tra toàn diện bằng máy dò nói dối - một biện pháp kiểm tra an ninh cấp cao hơn mà những người trong quân đội không bị bắt buộc. Điều buồn cười là má tôi hoàn toàn chẳng có điểm nào giống gián điệp cả. Bà là nhân viên của một công ty bảo hiểm và phúc lợi độc lập, chuyên phục vụ các nhân viên của NSA - chủ yếu là cung cấp các dịch vụ hưu trí. Nhưng dù vậy, để xử lý các thủ tục nhận tiền trợ cấp, má tôi phải chịu sự kiểm tra kỹ lưỡng như thể bà sắp nhảy dù xuống rừng già nào đó để tổ chức đảo chính. Cho tới tận bây giờ tôi vẫn không biết rõ về nghề nghiệp của ba tôi, và sự thiếu hiểu biết của tôi ở đây thực sự là không bất bình thường. Trong thế giới tôi lớn lên, đúng là không ai nói về công việc của mình - không chỉ với con cái, mà còn với nhau nữa. Đúng là nhiều người lớn xung quanh tôi, về mặt pháp lý, đã bị cấm thảo luận về công việc của họ, ngay cả với người trong gia đình, nhưng theo tôi, lời giải thích chính xác hơn nằm ở bản chất kỹ thuật của công việc họ làm và ở đòi hỏi chuyên biệt hóa của chính phủ. Dân công nghệ lại hiếm khi nhận thức được việc những dự án mà họ được giao sẽ được ứng dụng rộng rãi hơn và những ẩn ý trong chủ trương của các dự án này. Và công việc đang vắt sức họ lại thường đòi hỏi kiến thức chuyên môn đến mức trong bữa tiệc nướng thịt ngoài trời mà đem chuyện đó ra nói thì lần sau sẽ chẳng ai mời tới chơi nữa, bởi vì chẳng ai buồn nghe. Bây giờ nhìn lại, có lẽ đó là những gì đã đưa đẩy chúng tôi đến đây. ₀O₀ 4 Người Mỹ lên mạng NHÀ TÔI CHUYỂN ĐẾN CROFTON chẳng bao lâu thì ba đã mang về chiếc máy tính để bàn đầu tiên của chúng tôi, chiếc Compaq Presario 425, giá niêm yết 1.399 đô-la nhưng được mua với giá giảm trừ cho quân đội, và ngay từ đầu, trước sự bực bội của má, nó được đặt ngay chính giữa bàn ăn. Từ lúc xuất hiện, chiếc máy tính ấy và tôi không thể tách rời. Nếu trước đây tôi đã không thích ra ngoài đá bóng loanh quanh, thì bây giờ ngay cả ý tưởng đó cũng có vẻ lố bịch. Ra ngoài chơi chẳng có gì ý nghĩa cho bằng những gì tôi có thể tìm thấy bên trong máy tính kềnh càng xám xịt này, với cấu hình CPU Intel 486 tốc độ 25 MHz lúc đó dường như là nhanh không tưởng tượng nổi và ổ cứng 200 megabyte cơ hồ chứa được vô tận. Và cái này mới hay nè, nó có màn hình màu - chính xác là một monitor màu 8 bít - có nghĩa là nó có thể hiển thị tới 256 màu khác nhau. (Thiết bị hiện tại của bạn rất có thể hiển thị tới hàng triệu màu sắc). Chiếc máy Compaq này đã trở thành người bạn đồng hành không rời của tôi - người anh em thứ hai, và mối tình đầu của tôi. Nó bước vào đời tôi đúng vào thời kỳ mà tôi vừa mới khám phá ra một bản ngã độc lập và mới biết rằng nhiều thế giới khác có thể đồng thời tồn tại bên trong thế giới này. Quá trình khám phá đó hấp dẫn đến nỗi tôi nghiễm nhiên công nhận điều đó và thậm chí quên luôn cả gia đình và cuộc sống mà tôi vốn có, ít nhất là trong một khoảng thời gian. Nói cách khác, tôi đang trải qua giai đoạn khó khăn ban đầu của tuổi dậy thì. Nhưng đây là một tuổi dậy thì công nghệ hóa, và những thay đổi to lớn mà nó đã tác động đến tôi, theo một cách nào đó, cũng đang tác động đến mọi người, khắp mọi nơi. Ba má tôi luôn phải réo gọi bảo tôi chuẩn bị đi học, nhưng thường là tôi không nghe. Họ cứ réo tôi tắm rửa để ăn tối, nhưng thường là tôi giả vờ không nghe. Và bất cứ khi nào tôi bị nhắc nhở rằng chiếc máy tính này là máy dùng chung chứ không phải của riêng tôi thì tôi sẽ rời chỗ ngồi của mình với vẻ miễn cưỡng đến mức khi ba, má hoặc chị tôi thay phiên nhau sử dụng, họ sẽ phải bắt buộc tôi đi ra ngoài cho khuất mắt, kẻo tôi lại mặt ủ mày ê lởn vởn sau lưng họ rồi khuyên bảo này nọ - chỉ cho chị tôi biết các lệnh macro và phím tắt xử lý văn bản trong lúc chị đang viết bài nghiên cứu, hoặc chỉ cho ba má tôi những mẹo làm bảng biểu khi họ đang cố gắng tính toán mức thuế phải đóng. Tôi thường hối thúc họ làm xong việc của họ cho nhanh, để tôi có thể quay lại với việc của mình, quan trọng hơn nhiều - như là chơi trò Loom. Khi công nghệ đã phát triển, các trò chơi liên quan đến đánh bóng bàn và máy bay trực thăng - loại game ba tôi từng chơi trên chiếc máy Commodore giờ trở thành cổ lỗ sĩ - đã không còn hấp dẫn được những ai biết rằng trong tâm hồn của mỗi người dùng máy tính là một người đọc sách, một kẻ khao khát không chỉ những cảm giác mạnh mà là những câu chuyện. Các trò chơi trên máy Nintendo, Atari và Sega thô sơ thời thơ ấu của tôi, với các cốt truyện đại khái như là giải cứu tổng thống Hoa Kỳ thoát khỏi đám ninja hắc đạo (và đây là một ví dụ có thật), giờ nhường chỗ cho các trò tái hiện chi tiết những câu chuyện cổ xưa mà tôi thường lần giở qua các trang sách trong lúc đang nằm trên thảm ở nhà bà ngoại. Loom là trò chơi về Cộng đồng của những người thợ dệt mà các vị trưởng lão ở đây (được đặt theo tên ba vị thần Vận mệnh của Hy Lạp là Clotho, Lachesis và Atropos) đã tạo ra một khung cửi bí mật kiểm soát được thế giới này, hoặc nói theo kịch bản của trò chơi, nó sẽ thêu dệt “những hoa văn có sức ảnh hưởng tinh vi vào trong chính cơ cấu của thực tại”. Khi một cậu bé khám phá ra quyền lực của khung cửi, cậu ta buộc phải lưu lạc, và mọi thứ trở nên hỗn loạn cho đến khi thế giới này xác định rằng một cỗ máy định mệnh bí mật, nói cho cùng, có lẽ chẳng phải là một ý tưởng hay ho gì mấy. Thật khó tin, hẳn rồi. Nhưng chỉ là trò chơi thôi mà. Dù vậy, ngay từ cái tuổi non nớt ấy, tôi đã có ấn tượng sâu sắc rằng cỗ máy dệt được dùng đặt tên cho trò chơi Loom chính là một hình tượng nào đó cho cái máy tính mà tôi đang chơi. Những sợi chỉ ngũ sắc cầu vồng của khung cửi giống như mớ dây điện đủ màu trong lòng máy tính, và sợi chỉ xám lẻ loi báo trước một tương lai vô định trong thế giới game cũng giống như sợi dây cáp điện thoại dài màu xám phát xuất từ phía sau máy tính và kết nối nó với thế giới bao la rộng lớn ngoài kia. Đối với tôi, đó là điều kỳ diệu có thật: chỉ với sợi dây này, chiếc modem và thẻ cắm mở rộng của hãng Compaq, và một máy điện thoại đang hoạt động, tôi có thể quay số và kết nối với một thứ mới mẻ gọi là Internet. Độc giả nào sinh ra sau năm 2000 có lẽ sẽ thấy chuyện này chẳng có gì mà ầm ĩ, nhưng tin tôi đi, đó là một phép màu kinh khủng vào thời ấy. Ngày nay, việc kết nối được coi là đương nhiên. Smartphone, máy tính xách tay, máy tính để bàn, mọi thứ đều kết nối, luôn luôn. Kết nối với chính xác những gì? Bằng cách nào? Chuyện ấy không quan trọng. Bạn chỉ cần nhấn vào biểu tượng mà người thân lớn tuổi của bạn gọi là “cái nút Internet” và bùm, bạn có đủ hết: tin tức, giao bánh pizza tận nhà, âm nhạc liên tục và video liên tục mà ngày xưa ta phải cần đến TV và rạp xi-nê mới xem được. Thế nhưng hồi đó, chúng tôi phải cuốc bộ lên dốc cả đi lẫn về, từ nhà đến trường và ngược lại, và phải cắm modem trực tiếp vào ổ cắm trên tường, bằng đôi tay của cậu bé mười hai tuổi. Tôi không nói rằng thời đó tôi đã am hiểu Internet là gì, hay biết chính xác mình đã kết nối với nó bằng cách nào, nhưng tôi thật sự đã hiểu rõ sự kỳ diệu của nó. Bởi vì hồi ấy, khi ra lệnh cho máy tính kết nối, ta sẽ tiến hành cả một quá trình mà chiếc máy tính sẽ kêu bip bip và rú rít như một đàn rắn bị kẹt xe, và sau đó - hoặc chờ đợi cả đời, hoặc ít nhất là cả mấy phút - ta có thể nhấc bất kỳ điện thoại nào khác trong nhà trên một đường dây phụ và thực sự nghe được các máy tính đang nói chuyện. Dĩ nhiên, ta làm sao hiểu chúng nói gì với nhau, bởi vì chúng đang nói bằng một ngôn ngữ máy được truyền với tốc độ lên tới mười bốn nghìn xung nhịp mỗi giây. Tuy nhiên, ngay cả sự khó hiểu đó cũng là một dấu hiệu rõ ràng đến đáng kinh ngạc cho thấy các cuộc gọi điện thoại không còn chỉ dành cho các bà chị đang tuổi thiếu nữ. Việc truy cập Internet, và sự xuất hiện của Web, đối với thế hệ chúng tôi, chính là vụ nổ Big Bang khai sinh vũ trụ hay vụ nổ Tiền kỷ Cambri khai sinh sự sống trên Trái Đất. Nó đã thay đổi bước đường đời của tôi, cũng như cuộc sống của mọi người. Từ khoảng mười hai tuổi, tôi đã cố gắng dành mọi khoảnh khắc không ngủ để lên mạng. Bất cứ lúc nào không lên mạng được, tôi lại bận rộn trù tính cho lần kết nối kế tiếp. Internet là thánh địa của tôi; Web trở thành giàn leo trèo của tôi, căn nhà trên cây của tôi, thành trì của tôi, lớp học không tường vách của tôi. Nếu có thể lên mạng, tôi càng trở nên ít vận động hơn. Nếu có thể lên mạng, tôi càng trở nên xanh xao hơn. Dần dần, tôi không còn ngủ vào ban đêm và thay vào đó là ngủ vào ban ngày ở trường. Điểm số của tôi lại rơi tự do trở lại. Tuy vậy, tôi chẳng lo lắng về chuyện học hành sa sút ở trường, và tôi cũng không chắc là bố mẹ tôi có lo không. Nói cho cùng, kiến thức mà tôi học được trên mạng có vẻ tốt hơn và thậm chí còn thiết thực hơn cho các triển vọng nghề nghiệp tương lai của tôi hơn bất cứ thứ gì trường học dạy. Ít ra đó là điều tôi không ngừng nói với ba má. Óc tò mò của tôi tưởng chừng như cũng bao la như chính Internet vậy: một không gian vô tận luôn tăng theo cấp số nhân, những trang web liên tục tăng lên từng ngày, từng giờ, từng phút, về các vấn đề mà tôi không hề hay biết, về các vấn đề mà tôi chưa từng nghe nói tới - thế nhưng ngay lúc tôi thực sự nghe nói tới chúng thì tôi lại ngày một hình thành niềm mong muốn khôn thỏa để biết cặn kẽ các vấn đề ấy, không màng chi đến chuyện nghỉ ngơi, ăn uống, hay thậm chí là đi vệ sinh. Khao khát của tôi tất nhiên không chỉ giới hạn trong các đề tài kỹ thuật nghiêm túc như cách sửa chữa ổ đĩa CD-ROM. Tôi cũng dành nhiều thời gian trên các trang mạng về chơi game để tìm kiếm những mã chơi ăn gian (cheat code) để được bất tử trong các trò Doom và Quake. Nhưng nhìn chung, tôi cũng choáng ngợp bởi chính số lượng thông tin có sẵn tức thì đến mức tôi không còn biết đâu là nơi kết thúc một đề tài và bắt đầu một đề tài khác. Một khóa học cấp tốc về cách tự lắp ráp máy tính cho riêng mình đã dẫn đến khóa học cấp tốc khác về cấu trúc bộ xử lý, với những cuộc ngao du bên lề vào các trang thông tin về võ thuật, súng, xe thể thao, và - nói thẳng ra luôn - các trang khiêu dâm nhè nhẹ. Đôi khi tôi có cảm giác rằng mình phải biết hết mọi thứ và chưa biết được hết thì tôi sẽ không rời khỏi mạng. Chẳng khác gì tôi đang chạy đua với công nghệ, giống như kiểu một số bạn cùng trang lứa xung quanh tôi đang thi với nhau xem đứa nào sẽ nhổ giò cao nhất, hay đứa nào sẽ mọc râu trước. Ở trường, bao quanh tôi toàn một lũ nhóc con, một số ở nước ngoài đến đây, những đứa đúng là đang cố gắng hòa nhập và thường mất công tốn sức để tỏ ra mình “ngầu”, để bắt kịp xu hướng. Nhưng chuyện có chiếc mũ két No Fear mới nhất và biết cách uốn cong vành mũ chỉ là trò chơi trẻ con - đúng nghĩa là trò trẻ - so với những gì tôi đang làm. Tôi thấy việc theo cho kịp tất cả các trang mạng và những trang hướng dẫn tự học lại là một nhu cầu vô cùng lớn lao, tới mức tôi đâm ra oán trách ba má mỗi lần họ - do trường gửi về một phiếu báo điểm quá kém hay do một lần tôi bị nhà trường phạt cấm túc - bắt buộc tôi phải rời khỏi máy tính vào một buổi học tối. Tôi không chịu nổi khi bị tước bỏ những đặc quyền đó, vì cứ lo lắng nghĩ rằng mỗi khoảnh khắc không lên mạng là mình sẽ bỏ sót càng lúc càng nhiều tài liệu đang xuất hiện. Sau nhiều lần ba má cảnh cáo và hăm dọa không cho đụng tới máy tính nữa, cuối cùng tôi mới chịu thua và in ra bất cứ tập tin nào đang đọc và mang những trang giấy in bằng máy in kim lên giường đọc. Tôi thường tiếp tục học bằng những bản in giấy đó đến khi ba má tôi đi ngủ, và lúc đó tôi mới rón rén bước trong bóng tối, lo sợ cánh cửa mở sẽ kêu ken két và những tấm ván sàn bên cầu thang sẽ kêu cọt kẹt. Tôi sẽ không bật đèn và tự định hướng theo quầng sáng của trình bảo vệ màn hình, tôi sẽ đánh thức máy tính dậy và lên mạng, dựng những cái gối áp vào máy để bóp nghẹt tiếng quay số của modem và tiếng rít càng lúc càng tăng của quá trình kết nối. Làm sao tôi giải thích được chuyện này với một người không sống vào thời đó? Những độc giả trẻ tuổi của tôi, với tiêu chuẩn mới mẻ hơn của họ, có thể cho rằng Internet thời đầu quá chậm chạp, Web thời đầu quá xấu xí và không có gì hay. Nhưng nghĩ thế là lầm. Thời ấy, lên mạng là sống một cuộc đời khác, hầu hết đều coi đó là một cuộc đời tách biệt và khác với Đời Thực. Cái ảo và cái thực lúc ấy vẫn chưa được nhập một. Và từng người dùng tự họ phải xác định xem cái thực kết thúc ở đâu và cái ảo bắt đầu từ đâu. Chính điều đó mới hết sức kích thích: sự tự do tưởng tượng ra một cái gì hoàn toàn mới, sự tự do làm lại từ đầu. Những gì Web 1.0 có thể thiếu trong yếu tố tiện dụng và ý thức thiết kế, sẽ được bù đắp bội phần bằng khả năng thúc đẩy thử nghiệm và sự độc đáo trong cách thể hiện, và nhấn mạnh vào tính sáng tạo ưu việt của cá nhân. Chẳng hạn, một trang web điển hình trên mạng GeoCities có thể có nền nhấp nháy xen kẽ giữa màu xanh lục và xanh dương, có dòng chữ màu trắng như một dòng phụ đề đầy cảm thán - Read This First!!! (Đọc Cái Này Trước!!!) - chạy ngang ngay chính giữa màn hình dưới một hình gif động là con chuột hamster đang nhảy múa. Nhưng đối với tôi, tất cả những điều kỳ quặc vụng về và những đặc điểm của sản phẩm nghiệp dư ấy hoàn toàn cho thấy rằng trí thông minh dẫn dắt đằng sau trang web đó là của con người, và riêng biệt. Các giáo sư khoa học máy tính và các kỹ sư hệ thống, các sinh viên chuyên ngành ngữ văn làm đêm kiếm thêm và các nhà kinh tế chính trị gia xa-lông bất tài vô tướng ai cũng vui vẻ chia sẻ những nghiên cứu và niềm xác tín của họ - không vì bất kỳ sự đền đáp tài chính nào, mà chỉ để giương cờ đại nghĩa thu phục nhân tâm. Cho dù đại nghĩa đó là PC hay Mac, chế độ ăn chay thực dưỡng hay bãi bỏ án tử hình, tôi đều quan tâm. Tôi quan tâm bởi vì họ hăng hái. Say sưa. Thậm chí ta có thể liên lạc với nhiều người trong số những kẻ kỳ lạ và tài giỏi này và họ rất vui lòng trả lời những câu hỏi của tôi thông qua các mẫu điền nội dung (“nhấp vào đường dẫn này hoặc sao chép và dán đường dẫn vào trình duyệt”) và các địa chỉ email (@usenix.org, @frontier.net) được cung cấp trên trang mạng của họ. Gần đến thiên niên kỷ mới, thế giới mạng ngày càng tập trung và hợp nhất, khi cả chính phủ lẫn doanh nghiệp nơi nơi đều đẩy nhanh nỗ lực can thiệp vào những gì vốn luôn là một mối quan hệ chủ yếu là ngang hàng. Nhưng trong một khoảng thời gian ngắn ngủi và đẹp đẽ - một giai đoạn mà, thật may mắn cho tôi, lại gần như hoàn toàn diễn ra đồng thời với tuổi thiếu niên của tôi, Internet chủ yếu được tạo ra bởi con người và vì con người. Mục đích của nó là để khai sáng, chứ không phải kiếm tiền, và nó ằ được quản lý bằng một tập hợp tạm thời các quy tắc chung thay đổi liên tục hơn là theo các điều khoản thỏa thuận dịch vụ mang tính chất lợi dụng, được thực thi trên toàn cầu. Cho đến ngày nay, tôi vẫn coi thế giới mạng những năm 1990 là tình trạng vô chính phủ lý thú và thành công nhất mà tôi từng trải qua. Tôi đã tích cực tham gia vào các hệ thống bảng thông báo (bulletin-board system - BBS) trên nền tảng Web. Trong các BBS này, ta có thể chọn một tên người dùng (username) và gõ bất kỳ nội dung nào muốn đăng tải, hoặc là thêm vào một cuộc thảo luận nhóm có sẵn hoặc là khởi xướng một cuộc thảo luận mới. Mỗi và mọi nội dung trả lời bài viết của ta sẽ được sắp xếp theo chuỗi. Hãy tưởng tượng chuỗi email dài nhất bạn đã từng tham gia, nhưng ở đây là công khai. Các BBS này cũng là các ứng dụng tán gẫu, như Internet Relay Chat, cũng cùng một kiểu trải nghiệm làm ta thỏa mãn ngay lập tức giống như các hình thức tin nhắn tức thời ngày nay. Ở đó ta có thể thảo luận bất kỳ chủ đề nào trong thời gian thực, hoặc ít ra là gần với thời gian thực như một cuộc trò chuyện qua điện thoại, chương trình phát thanh trực tiếp, hoặc thời sự truyền hình. Hầu hết các cuộc nhắn tin và tán gẫu trên mạng của tôi thời ấy là để tìm kiếm câu trả lời cho những thắc mắc của tôi về cách tự lắp ráp máy tính riêng, và những câu trả lời tôi nhận được đều hết sức có ý tứ và thấu đáo, hết sức hào phóng và ân cần, một điều không thể tưởng tượng vào thời nay. Những câu hỏi hoảng sợ của tôi - về việc tại sao một chipset nào đó mà tôi đã dành dụm tiền ba má cho để mua hình như lại không tương thích với cái bo mạch chủ tôi đã mua dịp Giáng sinh - sẽ đưa đến một bài giải thích dài hai ngàn từ và lời khuyên của một nhà khoa học máy tính ngạch chuyên gia ở đầu bên kia nước Mỹ. Không phải xào lại từ bất kỳ cuốn sách hướng dẫn sử dụng nào, phản hồi này được soạn thảo dành riêng cho tôi, để xác định từng bước một các sự cố cho đến khi tôi giải quyết xong. Tôi lúc đó mười hai tuổi, và người trao đổi qua lại với tôi là một người lớn không quen biết ở xa tít tắp, thế nhưng người ấy lại đối xử với tôi như một người ngang hàng bởi vì tôi đã thể hiện lòng tôn trọng đối với công nghệ. Tôi cho rằng sự văn minh này, hoàn toàn khác xa với những màn ném đá hèn hạ trên mạng xã hội hiện nay của chúng ta, có được là do việc lên mạng thời đó rất khó khăn. Nói cho cùng, những người duy nhất trong các BBS này là những người có khả năng hiện diện ở đó - những người hết sức muốn có mặt ở đó - những người có trình độ và đam mê, bởi vì Internet của những năm 1990 không phải là thứ nhấp chuột một cái là có ngay. Chỉ việc đăng nhập thôi đã phải tốn không ít công sức. Có lần, một mạng BBS nào đó mà tôi tham gia đã cố điều phối tổ chức các cuộc gặp gỡ trực tiếp của các thành viên thường xuyên trên khắp đất nước: ở Washington DC, ở New York, ở Triển lãm Điện tử Tiêu dùng tại Las Vegas. Sau khi bị thúc ép khá ráo riết phải tham dự - và hứa hẹn những buổi tối no say - cuối cùng tôi đành phải nói tuổi mình ra cho mọi người biết. Tôi sợ là một số người có trao đổi qua lại có thể sẽ ngừng giao tiếp với tôi trên mạng, nhưng trái lại, phải nói là họ càng khích lệ tôi hơn. Tôi được họ gửi cho thông tin cập nhật từ triển lãm điện tử này và hình ảnh các danh mục sản phẩm ở đó; một anh chàng còn đề nghị gửi qua bưu điện cho tôi mấy linh kiện máy tính cũ, miễn phí. ₀O₀ Tôi có thể đã cho các thành viên BBS biết tuổi của mình, nhưng tôi chưa bao giờ nói ra tên thật, bởi vì một trong những niềm vui lớn nhất của những nền tảng này là ở trên đó tôi không cần phải là chính tôi. Tôi có thể là bất cứ ai. Các tính năng ẩn danh hoặc dùng tên giả vừa mang lại cân bằng vừa điều chỉnh sự mất cân bằng cho tất cả các mối quan hệ. Tôi có thể ẩn nấp hầu như dưới mọi danh hiệu, hay như thường gọi, và đột nhiên biến thành một phiên bản già hơn, cao hơn. Đàn ông hơn chính mình thật sự. Tôi thậm chí có thể có nhiều cái tôi khác nhau. Tôi đã tận dụng tính năng này bằng cách mỗi lần lại sử dụng một hiện thân khác trên các mạng BBS không chuyên nghiệp để hỏi những điều mà tôi thấy đó là những thắc mắc nghiệp dư. Kỹ năng máy tính của tôi đã tiến bộ nhanh đến nỗi thay vì tự hào về tất cả những bước tiến và đạt được, tôi lại thấy xấu hổ vì sự thiếu hiểu biết trước đây của mình và không muốn dính dáng đến nó nữa. Tôi muốn tách bạch những cái tôi khác nhau của mình. Tôi tự nhủ rằng cái đứa xưng danh là Squ33ker đã rất ngớ ngẩn khi “nó” đặt ra câu hỏi về tính tương thích của chipset thời xa lắc, từ lâu, thứ Tư tuần trước. Với mọi đặc tính hợp tác xã hội, văn hóa tự do kiểu tập thể chủ nghĩa này, tôi sẽ không giả vờ rằng chuyện tranh đua trên BBS là không tàn nhẫn, hoặc dân cư trên đó - hầu như toàn nam giới, không đồng tính, và hăng máu - không có chuyện lâu lâu lại bùng nổ những cuộc cãi vã tàn bạo và vặt vãnh. Nhưng khi không có ai dùng tên thật cả thì những người tuyên bố căm ghét ta không phải là những con người thật. Họ đã không biết bất cứ điều gì về ta ngoài những gì ta đã tranh luận và cách ta tranh luận. Nếu, hay đúng hơn là khi, một trong những lý lẽ của ta gây ra cơn thịnh nộ nào đó trên mạng thì ta chỉ cần bỏ cái tên giả đang sử dụng đi và khoác một cái mặt nạ khác, dưới vỏ bọc của nó, ta thậm chí có thể tham gia vào trò a dua chỉ trích, tấn công vào cái hiện thân ảo mà ta đã chối bỏ như thể đó là một kẻ xa lạ. Cái cảm giác ấy đôi lúc nó lâng lâng nhẹ nhõm không sao tả xiết. Trong những năm 1990, Internet vẫn chưa thành nạn nhân của tội lỗi lớn nhất trong lịch sử kỹ thuật số: những biện pháp của cả chính phủ lẫn doanh nghiệp để liên kết, càng mật thiết càng tốt, hiện thân trên mạng của người dùng với nhân thân pháp lý trong đời thực của họ. Trẻ em đã từng có thể lên mạng và nói những câu ngu ngốc nhất hôm nay mà không phải chịu trách nhiệm cho những lời lẽ đó vào ngày mai. Điều này có thể khiến bạn không thấy đó là một môi trường lành mạnh nhất để lớn lên, thế nhưng đó lại chính là môi trường duy nhất mà bạn có thể lớn lên - tôi nói như vậy với ý là những cơ hội cắt đứt quá khứ của Internet thời kỳ đầu thực sự đã khuyến khích tôi và những người cùng thế hệ thay đổi những quan điểm sâu sắc nhất của mình, thay vì phải cố thủ và bảo vệ chúng khi bị thách thức. Khả năng làm mới lại bản thân mình có nghĩa là ta không bao giờ phải miễn cưỡng chọn phe, hay kết bè kết phái vì sợ uy tín của mình bị phương hại không thể cứu vãn. Những sai lầm nhanh chóng bị trừng phạt nhưng cũng nhanh chóng được sửa chữa đã giúp cho cả cộng đồng lẫn “người vi phạm” tiếp tục đi tới. Đối với tôi, và với nhiều người, điều này giống như sự tự do. Nếu muốn, hãy tưởng tượng rằng bạn có thể thức dậy mỗi sáng và chọn một cái tên mới và một gương mặt mới cho cả thế giới biết. Hãy tưởng tượng rằng bạn có thể chọn là một giọng nói mới và những ngôn từ mới để lên tiếng, tựa hồ “cái nút Internet” thực sự là một nút “reset” cuộc đời bạn. Trong thiên niên kỷ mới, công nghệ Internet sẽ chuyển sang những mục đích rất khác: ép buộc ta phải trung thành với ký ức, nhất quán với nhân thân, và hết sức tuân thủ theo ý thức hệ. Nhưng thời đó, ít nhất là trong một giai đoạn, Internet đã bảo vệ chúng ta bằng cách lãng quên những vi phạm và tha thứ những tội lỗi của chúng ta. Tuy nhiên, những cuộc gặp gỡ ban đầu quan trọng nhất của tôi trong việc tự thể hiện bản thân trên mạng đã diễn ra không phải trên các mạng BBS mà ở trong một địa hạt huyền ảo hơn: những vùng đất và ngục thất giả thời phong kiến của những trò chơi nhập vai, đặc biệt là các trò MMORPG (massively multiplayer online role-playing games - trò chơi nhập vai trực tuyến nhiều người chơi đồng loạt). Để chơi trò Ultima Online, vốn là MMORPG yêu thích của tôi, tôi phải tạo ra và khoác lấy một hiện thân thay thế, tức là “alt”. Tôi có thể chọn, chẳng hạn, làm phù thủy hoặc chiến binh, thợ thiếc hoặc kẻ trộm, và tôi có thể chuyển đổi giữa các “alt” này một cách tự do thoải mái không thể có trong cuộc đời thực, những định chế trong đời thực thường coi mọi khả năng biến hóa đều là đáng ngờ. Tôi đã lang thang trong thế giới game của ultima trong vai trò của một trong nhiều hiện thân ảo của mình, tương tác với hiện thân ảo của người khác. Khi tôi đã quen biết các “alt” khác, qua việc cộng tác với họ trong một số nhiệm vụ trò chơi nào đó, có lúc tôi bỗng nhận ra rằng mình đã từng biết “alt” này trước đây rồi, dưới những hiện thân ảo khác, và đồng thời họ cũng có thể cảm nhận y như vậy về tôi. Họ đã đọc những nội dung nhắn tin của tôi và đoán ra được, thông qua một cụm từ đặc trưng mà tôi thường dùng, hoặc một nhiệm vụ cụ thể mà tôi đề nghị, rằng tôi - người hiện thời đang là cô nàng tên Shrike đóng vai hiệp sĩ, chẳng hạn - cũng chính là hoặc đã từng là anh chàng tự xưng là Corwin đóng vai nhà thơ, và cũng là anh chàng tự xưng là Belgarion đóng vai thợ rèn. Đôi khi tôi chỉ xem những tương tác này như là cơ hội để đùa vui, nhưng thường thì tôi coi đó là những dịp ganh đua, đo lường thành công của mình bằng việc tôi có thể xác định được nhiều “alt” của một bạn chơi khác hơn là họ có thể nhận ra “alt” của tôi hay không. Các cuộc thi thố để xác định xem tôi có thể vạch mặt người khác mà không bị vạch mặt hay không đòi hỏi tôi phải cẩn thận, không sa vào bất kỳ dạng thức nhắn tin nào có thể làm lộ tung tích, đồng thời phải vừa giao chiến với người khác, vừa luôn canh chừng những cách thức qua đó có thể vô tình tố cáo hiện thân đích thực của họ. Mặc dù các vai trong Ultima mang rất nhiều tên, nhưng về cơ bản, chúng được sắp xếp ổn định theo tính chất của vai trò vốn đã được xác định rõ ràng, thậm chí là mẫu điển hình, và gắn chặt vào trật tự xã hội đã thiết lập trong trò chơi tới mức khiến việc chơi trò này có lúc chẳng khác gì ta đang thực hiện một nghĩa vụ công dân. Sau một ngày học hành hoặc làm việc có vẻ như vô nghĩa và không thỏa mãn, việc dành buổi tối chơi trò này trong vai thầy thuốc hay người chăn cừu, nhà giả kim đắc lực hay đạo sĩ, có thể khiến ta cảm thấy như mình đang làm một chuyện hữu ích có ý nghĩa. Thế giới tương đối ổn định của Ultima - một sự phát triển liên tục theo các luật lệ và quy tắc ứng xử xác định - đảm bảo rằng “alt” nào cũng đều có nhiệm vụ cụ thể theo vai trò, và sẽ được đánh giá theo khả năng, hoặc sự sẵn sàng, làm tròn nhiệm vụ và hoàn thành những kỳ vọng của xã hội về chức năng của từng “alt”. Tôi yêu những trò chơi như thế cùng những cuộc đời khác mà các game đó đã cho tôi sống, mặc dù tình yêu này không làm cho các thành viên khác trong nhà tôi cảm thấy thoải mái gì. Trò chơi, đặc biệt là loại trò chơi nhiều người chơi đồng loạt, nổi tiếng là tốn thời gian, và tôi đã tốn quá nhiều giờ chơi Ultima tới mức hóa đơn điện thoại nhà tôi tăng cao chót vót và không ai gọi điện tới được. Đường dây luôn luôn bận. Chị tôi, khi đó đang ở tuổi trăng tròn, đâm ra tức giận khi phát hiện ra rằng cuộc đời trên mạng của tôi đã khiến chị ấy bỏ lỡ một số tin đồn quan trọng ở trường trung học. Tuy nhiên, chị nhanh chóng đoán ra là chị chỉ cần trả thù bằng cách nhấc điện thoại lên là đứt kết nối Internet ngay. Tiếng rít của modem sẽ ngừng, và thậm chí chị chưa kịp nghe được âm hiệu quay số bình thường thì từ trên lầu đã nghe tiếng tôi hét toáng vọng xuống. Nếu bạn bị gián đoạn ở giữa lúc đọc tin tức trên mạng chẳng hạn, bạn luôn có thể quay lại và đọc tiếp ở bất cứ đoạn nào bạn đã ngừng trước đó. Nhưng nếu bạn bị gián đoạn trong khi chơi một game mà bạn không thể tạm dừng hoặc lưu lại - bởi vì một trăm ngàn người khác đang chơi trò này cùng lúc với bạn - thì bạn toi đời. Bạn có thể đang cực kỳ sung sướng, một hiệp sĩ giết rồng huyền thoại có lâu đài và quân đội riêng, nhưng chỉ sau ba mươi giây ĐỨT MẠNG là bạn sẽ thấy mình kết nối lại với một màn hình xám ngắt mang lời ai điếu tàn khốc: YOU ARE DEAD - BẠN ĐÃ CHẾT. Tôi bây giờ hơi xấu hổ khi nhớ lại ngày ấy vì đã coi trọng điều này quá mức, nhưng tôi không thể tránh né được sự thật là, vào lúc đó, tôi có cảm tưởng như thể chị tôi muốn hủy hoại cuộc đời tôi - nhất là vào những lần chị nhất định thu hút ánh mắt của tôi từ đầu phòng bên kia và mỉm cười trước khi nhấc ống nghe của máy điện thoại dưới nhà, không phải vì chị ấy muốn gọi điện mà chỉ vì chị muốn nhắc cho tôi nhớ ai là người làm chủ tình thế. Ba má đã quá chán ngán với những trận khẩu chiến của chị em tôi đến mức họ đã làm một chuyện nuông chiều hiếm thấy. Họ đã chuyển gói thuê bao Internet nhà tôi từ thanh toán tính theo phút sang gói thanh toán cố định truy cập không giới hạn, và lắp thêm một đường dây điện thoại thứ hai. Hòa bình đã mỉm cười trên ngôi nhà chúng tôi. ₀O₀ 5 Hack - Phá bỏ áp đặt MỌI THIẾU NIÊN đều là những người phá bỏ áp đặt, một kiểu “hacker” nào đó. Họ phải như vậy, chỉ vì họ không thể biện hộ được trong nhiều hoàn cảnh của cuộc sống. Họ nghĩ họ là người lớn, nhưng người lớn nghĩ họ là con nít. Nếu có thể, bạn hãy nhớ lại những năm niên thiếu của chính mình. Bạn cũng là một “hacker”, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trốn tránh sự giám sát của cha mẹ. Về cơ bản, bạn đã chán ngấy với chuyện bị đối xử như một đứa trẻ. Hãy nhớ lại cảm giác của bạn khi bất cứ ai lớn tuổi hơn và lớn xác hơn đều tìm cách kiểm soát bạn, làm như là tuổi tác và tầm vóc đồng nghĩa với uy quyền vậy. Lúc này hay lúc khác, cha mẹ, giáo viên, huấn luyện viên, trưởng hướng đạo sinh và giáo sĩ của bạn, ai cũng đều lợi dụng vị trí của họ để xâm phạm cuộc sống riêng tư của bạn, áp đặt kỳ vọng của họ vào tương lai của bạn, và ép buộc bạn phải tuân thủ theo các tiêu chuẩn của quá khứ. Bất cứ khi nào những người lớn này thay thế những hy vọng, ước mơ và mong muốn của chính bạn bằng những điều áp đặt của họ, họ luôn nói là họ làm thế là “vì lợi ích của chính em/cháu/con” hay “chỉ muốn điều tốt nhất cho em/cháu/con”. Và dẫu điều này có khi cũng đúng thì tất cả chúng ta đều nhớ những lần nó sai - khi những lời như “ta đã nói trước rồi” không đủ sức mạnh và câu “rồi có ngày em/cháu/con phải cám ơn ta” nghe rất giả dối. Nếu bạn đã từng qua tuổi thiếu niên, chắc chắn bạn đã nghe đầy tai những lời sáo rỗng tương tự, và do đó, luôn bị thua thiệt vì mất cân bằng quyền lực. Dần lớn lên là dần nhận ra mức độ mà cuộc sống của ta bị chi phối bởi các hệ thống luật lệ, các hướng dẫn mơ hồ, và các quy tắc ngày càng không thể chịu nổi đã áp đặt cho ta mà không có sự đồng ý của ta, và chúng có thể thay đổi ngay lập tức bất cứ lúc nào. Thậm chí còn có một số quy tắc mà ta chỉ biết được sau khi mình đã vi phạm. Nếu bạn mà giống như tôi, bạn phải uất ức, phẫn nộ lắm. Nếu bạn mà giống như tôi, cận thị, gầy ốm và về tuổi tác gần như chỉ mới qua tuổi lên mười khi bạn lần đầu tiên bắt đầu thắc mắc về chuyện chính trị. Ở ằ Ở trường, bạn được thông báo rằng trong hệ thống chính trị Mỹ, công dân đồng ý được cai trị bởi những người ngang hàng với mình thông qua quyền bầu cử. Đấy là nền dân chủ. Nhưng nền dân chủ chắc chắn không nằm trong giờ học lịch sử Hoa Kỳ của tôi, nơi mà nếu các bạn cùng lớp được bỏ phiếu bầu thì thầy Martin sẽ bị mất việc. Thay vào đó, thầy Martin lại đặt ra các quy định cho môn lịch sử Hoa Kỳ, cô Evans đặt ra các quy định cho môn tiếng Anh, thầy Sweeney đặt ra các quy định cho môn khoa học, thầy Stockton đặt ra các quy định cho môn toán, và tất cả các giáo viên đó liên tục thay đổi quy định để có lợi cho bản thân và khuếch trương tối đa quyền lực của họ. Nếu một giáo viên không muốn cho bạn đi vệ sinh, tốt hơn hết là bạn nên nín. Nếu một giáo viên hứa sẽ đi tham quan Bảo tàng Smithsonian nhưng sau đó hủy bỏ vì một lỗi vi phạm tưởng tượng, họ sẽ không có lời giải thích nào cả ngoài việc nêu ra thẩm quyền rộng lớn của họ và việc duy trì trật tự thích hợp. Ngay từ thời đó, tôi đã nhận ra rằng bất kỳ sự phản đối nào đối với hệ thống này đều khó khăn, phần lớn là vì việc thay đổi quy định để phục vụ lợi ích của đa số sẽ liên quan đến việc thuyết phục những người đề ra quy định phải tự đặt họ vào thế bất lợi có chủ đích. Cuối cùng, đó là lỗ hổng nghiêm trọng hoặc lỗi thiết kế được cố tình tích hợp vào mọi hệ thống, trong cả chính trị lẫn công nghệ điện toán: Những người tạo ra các luật lệ không hề có động cơ để chống lại chính họ. Điều thuyết phục tôi rằng, ít nhất, trường học cũng là một hệ thống bất hợp pháp, chính là việc nó không công nhận bất kỳ sự bất đồng chính đáng nào. Tôi có thể biện hộ cho mình đến khi khan cả tiếng, hoặc tôi đành phải chấp nhận sự thật rằng ngay từ đầu tôi không hề có tiếng nói. Tuy nhiên, sự chuyên chế nhân từ của trường học, giống như tất cả các chế độ chuyên chế, đều có hạn sử dụng ngắn. Đến một thời điểm nhất định, việc phủ nhận quyền hành trở thành sự tự do phản kháng, mặc dù tuổi thiếu niên lại rất hay nhầm lẫn giữa phản kháng với thoát ly hoặc thậm chí là quá khích. Những cách bộc lộ thông thường nhất cho một thiếu niên nổi loạn đều vô dụng đối với tôi, bởi vì tôi lúc đó thấy mình quá ngon nên không thèm làm những trò phá hoại, nhưng lại chưa đủ ngầu để cần tới ma túy. (Cho tới bây giờ, tôi thậm chí chưa bao giờ say rượu hay hút một điếu thuốc lá nào). Thay vào đó, tôi bắt đầu “hack”, bắt đầu phá bỏ áp đặt - mà vẫn theo cách đúng mực nhất, lành mạnh nhất và có tính giáo dục nhất mà tôi biết để cho trẻ em khẳng định quyền tự chủ và nói chuyện với người lớn một cách bình đẳng. Giống như hầu hết các bạn cùng lớp, tôi không thích các quy tắc nhưng lại sợ vi phạm. Tôi biết cách hoạt động của hệ thống này: Khi giáo viên sai lầm mà bạn góp ý thì bạn bị cảnh cáo; khi giáo viên không nhận lỗi mà bạn đối đầu với họ thì bạn bị cấm túc; ai đó quay cóp bài thi của bạn, và mặc dù bạn không có ý cho họ quay cóp, bạn vẫn bị cấm túc và kẻ gian lận kia bị cấm thi. Đây là nguồn gốc của mọi vụ hack: nhận thức về mối liên kết hệ thống giữa đầu vào và đầu ra, giữa nguyên nhân và kết quả. Bởi vì hack không chỉ thuộc lãnh vực máy tính - nó tồn tại bất cứ nơi nào có quy tắc áp đặt. Để hack một hệ thống đòi hỏi phải hiểu rõ các quy tắc của nó hơn cả những người tạo ra hoặc đang vận hành hệ thống đó, và khai thác mọi khe hở có thể tấn công giữa cách những người ấy muốn hệ thống hoạt động ra sao và cách hệ thống thực sự hoạt động, hoặc có thể làm cho nó hoạt động như vậy. Khi tận dụng những lợi thế vô tình này, các hacker không vi phạm các quy tắc mà là chỉ ra lỗi của chúng. Con người bẩm sinh đã biết nhận ra các dạng thức. Mọi lựa chọn của chúng ta đều được mách bảo bởi rất nhiều giả định, cả bằng kinh nghiệm lẫn bằng logic, phát sinh một cách vô thức và hình thành một cách ý thức. Ta sử dụng các giả định này để đánh giá kết quả tiềm năng của mỗi lựa chọn, và ta gọi khả năng thực hiện tất cả những điều này, nhanh chóng và chính xác, là trí thông minh. Nhưng ngay cả những người thông minh nhất trong chúng ta cũng dựa vào những giả định mà ta chưa hề đưa ra kiểm chứng - và vì chúng ta lựa chọn, nên những lựa chọn của ta thường có sai sót. Người nào biết rõ hơn, hoặc suy nghĩ nhanh hơn và chính xác hơn chúng ta, đều có thể tận dụng những sai sót đó để tạo ra những kết quả mà ta không hề ngờ tới. Trong việc hack, không cần biết bạn là ai, chỉ cần biết bạn suy luận ra sao, chính tính chất bình đẳng đó khiến cho việc hack trở thành một phương pháp đáng tin cậy để đối phó với kiểu các nhân vật quyền lực quá tin tưởng vào sự chính đáng của hệ thống hiện hành tới mức họ không hề nghĩ tới chuyện đưa nó ra kiểm chứng. Dĩ nhiên, những điều này nhà trường đâu có dạy tôi. Tôi đã học trên mạng. Internet đã cho tôi cơ hội theo đuổi mọi chủ đề mình quan tâm, và mọi điều liên kết giữa các chủ đề ấy, không bị ràng buộc bởi tiến độ của các bạn cùng lớp và các thầy cô của tôi. Tuy nhiên, tôi càng dành nhiều thời gian trên mạng thì việc học ở trường của tôi càng lúc càng giống như những giờ ngoại khóa. Mùa hè tôi lên mười ba tuổi, tôi quyết tâm không bao giờ quay lại, hoặc ít nhất là giảm tối đa những gắn bó với lớp học. Tuy vậy, tôi không biết làm sao thu xếp được chuyện đó. Mọi kế hoạch tôi nghĩ ra đều có khả năng phản tác dụng. Nếu tôi bị bắt quả tang bỏ lớp, ba má sẽ thủ tiêu các đặc quyền máy tính của tôi; nếu tôi quyết định bỏ học luôn, họ sẽ chôn xác tôi sâu trong rừng và nói với hàng xóm là tôi đã trốn khỏi nhà. Tôi đã phải nghĩ ra một cách phá bỏ áp đặt nào đó - và rồi, vào ngày đầu năm học mới, tôi đã tìm ra. Thực tế mà nói, cách thức đó gần như được trao thẳng vào tay tôi. Khi bắt đầu mỗi môn học, các giáo viên đã phân phát đề cương bài giảng của họ, nêu rõ các tài liệu cần phải nắm bao quát, các bài đọc bắt buộc, và lịch trình những bài kiểm tra viết, kiểm tra miệng và bài tập phải làm thêm. Ngoài ra, họ còn cho chúng tôi biết cách họ xếp hạng học sinh, về cơ bản là giải thích cách họ tính toán thứ bậc các điểm A, B, C và D. Tôi chưa hề gặp những thông tin như thế này. Những chữ số và chữ cái của họ giống như một phương trình xa lạ đã gợi ra một giải pháp cho vấn đề của tôi. Sau giờ học hôm đó, tôi ngồi xem đề cương bài giảng và tính toán, xem phần nào trong mỗi môn mà tôi có thể bỏ qua luôn mà vẫn hy vọng đủ điểm lên lớp. Như môn lịch sử Hoa Kỳ chẳng hạn. Theo đề cương, các bài kiểm tra miệng có giá trị điểm số là 25 phần trăm, các bài kiểm tra viết là 35 phần trăm, các bài luận là 15 phần trăm, các bài tập về nhà là 15 phần trăm, và việc tham gia thảo luận trong lớp - thứ xếp loại chủ quan trong mọi môn học - là 10 phần trăm. Do tôi thường làm tốt các bài kiểm tra miệng và kiểm tra viết mà không cần phải học quá nhiều, tôi có thể coi các phần này là một nhóm điểm số gộp chung chắc chắn ít tốn thời gian. Tuy nhiên, các khóa luận và bài tập về nhà là những thứ mất thời gian chủ yếu: những gánh nặng giá trị thấp mà phí tổn cao đối với Thời Giờ Của Tôi. Qua những con số đó, tôi biết là nếu tôi không làm bất kỳ bài tập về nhà nào nhưng vẫn làm ngon lành mọi thứ khác, cuối cùng thì tôi vẫn có điểm tích lũy là 85, điểm B. Nếu tôi không làm bất kỳ bài tập về nhà hoặc bài luận nào nhưng vẫn làm ngon lành mọi thứ khác, cuối cùng thì tôi vẫn có điểm tích lũy là 70, điểm C. Còn 10 phần trăm điểm tham gia thảo luận trong lớp sẽ là vùng đệm của tôi. Ngay cả khi giáo viên cho tôi zero điểm ở phần này - nếu họ diễn dịch sự tham gia của tôi là sự phá rối - thì tôi vẫn xoay xở được 65 điểm, điểm D trừ. Tôi vẫn lên lớp được. Các hệ thống của thầy cô tôi đã mắc lỗi trầm trọng. Tôi có thể sử dụng những hướng dẫn của họ về cách đạt được điểm cao nhất như là những hướng dẫn về cách đạt được tự do cao nhất - một chìa khóa để tránh làm những chuyện tôi không thích làm mà vẫn tà tà qua phà. Ngay khi nghĩ ra điều này thì tôi ngưng luôn không thèm làm bài tập về nhà nữa. Mỗi ngày đều là niềm hạnh phúc, kiểu hạnh phúc mà những ai đủ tuổi để đi làm và đóng thuế đều không được hưởng, cho đến khi thầy Stockton hỏi tôi trước cả lớp tại sao tôi không nộp khoảng nửa tá bài tập về nhà đã giao. Tôi lúc ấy vẫn còn quá khờ khạo - và nhất thời quên rằng nếu tôi tiết lộ cách “hack” của mình thì tôi đã tự tước bỏ một lợi thế - tôi vui vẻ nói ra cách tính toán của mình với giáo viên toán ấy. Tiếng cười của đám bạn cùng lớp chỉ kéo dài trong một thoáng rồi chúng cũng bắt đầu viết nguệch ngoạc, tính toán xem cả chúng nữa, có thể có được một cuộc sống thoải mái như sau khi làm xong bài tập về nhà hay chăng. “Thông minh lắm, Eddie”, thầy Stockton nói, rồi tươi cười chuyển sang bài học kế tiếp. Tôi là thằng nhóc thông minh nhất trường - cho đến khoảng hai mươi bốn giờ sau, khi thầy Stockton phát đề cương bài giảng mới. Đề cương này viết rằng bất kỳ học sinh nào đến cuối học kỳ không nộp hơn sáu bài tập về nhà thì sẽ tự động lãnh điểm E. Thông minh lắm, thầy Stockton à. Sau đó, hết giờ học thầy kéo tôi ra chỗ khác nói riêng, “Em nên sử dụng đầu óc của mình để nghĩ cách làm sao làm bài tốt hết sức chứ đừng nghĩ cách tránh né làm bài. Em rất có tiềm năng, Ed. Nhưng thầy nghĩ là em không biết rằng điểm số của em bây giờ sẽ đi theo em đến hết cuộc đời. Em phải bắt đầu nghĩ đến việc bị lưu hồ sơ vĩnh viễn đi”. ₀O₀ Không bị trói buộc vào những bài tập về nhà, ít nhất là trong một thời gian, và vì vậy với nhiều giờ rảnh rỗi hơn, tôi cũng làm một số chuyện hack thông thường khác - trên máy tính. Tôi càng làm thì càng lên tay. Ở hiệu sách, tôi hay lật qua các trang tạp chí hacker được photocopy mờ nhòe và bấm kim thành tập, mang những cái tên như 2600 và Phrack, tiếp thu các kỹ thuật công bố trong đó, và trong quá trình này tiếp thu luôn chính kiến phản kháng độc tài của các tạp chí này. Tôi lúc đó đang ở dưới cùng của thứ bậc kỹ thuật, một tên gà mờ tập hack bằng chương trình do người viết khác - một “script kiddie” - làm việc với những công cụ mà tôi không am hiểu, hoạt động theo các nguyên tắc vượt ngoài trình độ của tôi. Khi cuối cùng tôi quả thực đã thành thạo ít nhiều, mọi người vẫn hỏi tôi tại sao tôi không nhào ra vét sạch nhiều tài khoản ngân hàng hay đánh cắp số thẻ tín dụng. Câu trả lời thành thật là lúc đó tôi còn quá trẻ và ngu ngốc đến mức không biết rằng đó là một lựa chọn, chứ đừng nói là tôi biết làm gì với những món tiền ăn cắp đó. Tất cả những gì tôi muốn, tất cả những gì tôi cần, tôi đều đã có miễn phí. Thay vào đó, tôi đã nghĩ ra những cách đơn giản để hack một số trò chơi, cho mình thêm mạng sống trong game và để tôi làm những chuyện như nhìn xuyên qua tường. Ngoài ra, hồi đó cũng không có nhiều tiền trên Internet, ít nhất là không phải theo tiêu chuẩn ngày nay. Việc làm gần với tội ăn cắp nhất mà những người tôi biết hoặc những gì tôi đọc đã nói đến chính là “phreaking”, trò hack để gọi điện thoại chùa không tốn tiền. Ví dụ, nếu bạn hỏi một số hacker có tầm cỡ tại sao họ lại xâm nhập vào một mạng tin tức lớn mà chẳng làm chuyện gì có ý nghĩa hơn là thay thế các dòng tít bằng một hình GIF quái đản tuyên bố tài nghệ của Baron von Hackerface để rồi trong vòng chưa đầy nửa giờ sau đã bị gỡ xuống, câu trả lời sẽ tương tự như câu trả lời của một nhà leo núi khi được hỏi lý do leo lên đỉnh Everest: “Bởi vì nó ở đó”. Hầu hết các hacker, đặc biệt là những người trẻ tuổi, không nhắm tới mục đích tìm kiếm lợi lộc hay quyền lực, mà là tìm kiếm ranh giới tận cùng tài năng của họ và mọi cơ hội để chứng minh rằng những gì bất khả thi đều có thể thực thi. Tôi còn trẻ dại, và mặc dù óc tò mò của tôi không nhằm mục đích gì, giờ nghĩ lại, nó cũng bộc lộ khá nhiều về mặt tâm lý, vì một số nỗ lực hack ban đầu đều hướng đến việc làm giảm bớt các cơn hoảng loạn thần kinh của tôi. Càng biết rõ về sự mong manh của việc bảo mật máy tính, tôi càng lo lắng hơn về những hậu quả khi tin tưởng vào bộ máy bị lỗi. Lúc tôi còn thiếu niên, vụ hack đầu tiên chuốc lấy rắc rối là vụ liên quan đến một nỗi sợ hãi đột nhiên xâm chiếm tâm trí: nguy cơ của một thảm họa hạt nhân thiêu hủy toàn bộ. Lúc đó tôi đang đọc mấy bài viết về lịch sử của chương trình hạt nhân Mỹ, và chưa kịp nhận ra, thì chỉ bằng vài cú nhấp chuột, tôi đã thấy mình vào website của Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos, cơ sở nghiên cứu hạt nhân của Hoa Kỳ. Đó đúng là cách hoạt động của Internet: ta nổi cơn tò mò, và các ngón tay hoạt động nhanh hơn bộ óc. Nhưng thình lình, tôi thấy nỗi hoảng hốt của mình là đúng: Tôi phát hiện ra một lỗ hổng bảo mật rành rành ở website của cơ quan nghiên cứu khoa học và phát triển vũ khí lớn nhất và quan trọng nhất nước. Về cơ bản, điểm dễ bị tấn công của nó là phiên bản ảo của một cánh cửa không khóa: một cấu trúc thư mục mở. Tôi sẽ giải thích. Hãy tưởng tượng tôi gửi cho bạn một đường liên kết để tải về một tập tin .pdf, tập tin này được cất giữ trên trang riêng của nó trong một website có nhiều trang. Đường dẫn URL hay địa chỉ Web cho tập tin này thường sẽ là một cái gì đó giống như website.com/files/pdfs/filename.pdf. Rồi, do cấu trúc của một đường dẫn URL bắt nguồn trực tiếp từ cấu trúc thư mục, mỗi phần của URL này đại diện cho một “nhánh” riêng biệt của “cây” thư mục. Trong trường hợp này, trong thư mục của website.com là một thư mục nhiều tập tin, bên trong thư mục này có một thư mục con chứa nhiều tập tin PDF, nằm ở trong đó là filename.pdf - tập tin cụ thể mà bạn đang tìm kiếm để tải về. Ngày nay, hầu hết các website sẽ chỉ cho bạn truy cập đến tập tin cụ thể ấy mà thôi, và giấu kín cấu trúc thư mục. Nhưng vào cái thời sơ khai đó, ngay cả những website quan trọng cũng được tạo ra và điều hành bởi những người mới làm quen với công nghệ, và họ thường để cấu trúc thư mục mở toang, điều đó có nghĩa là nếu bạn rút gọn đường dẫn URL - bạn chỉ cần đổi nó thành thứ gì đó như website.com/files - là bạn có thể truy cập mọi tập tin trên website này, pdf hay mọi thứ khác, kể cả những thứ không nhất thiết dành cho khách viếng thăm. Đây là trường hợp của website Los Alamos. Trong cộng đồng hacker, trò này về cơ bản chỉ là trò hack đầu tiên của con nít - một tiến trình dò tìm hoàn toàn sơ đẳng gọi là “dirwalking hay “lần theo thư mục”. Và đó đúng là chuyện tôi đã làm: Tôi dò thật nhanh từ tập tin đến thư mục con lên trên thư mục cấp cao hơn rồi quay trở lại, một chú nhóc lang thang tự do qua các thư mục mẹ. Trong vòng nửa giờ sau khi đọc một bài báo về mối đe dọa của vũ khí hạt nhân, tôi đã tình cờ sa vào một kho các tập tin vốn chỉ dành cho các nhân viên đã được chứng nhận an ninh của phòng thí nghiệm này. Tất nhiên, các tài liệu tôi truy cập được nào phải là các sơ đồ mật để chế tạo một thiết bị hạt nhân trong ga-ra nhà tôi. (Và đằng nào thì những bản vẽ thiết kế đó đã có sẵn trên hơn chục website hướng dẫn tự làm rồi chứ có phải không đâu). Thay vào đó, những gì tôi truy cập được lại liên quan đến những bản ghi nhớ liên ngành và các thông tin cá nhân khác của nhân viên. Dù vậy, là một chú nhóc bỗng dưng lo hoảng về những đám mây hình nấm trên chân trời, và đặc biệt lại là con cái nhà binh, tôi đã làm những gì tôi nghĩ mình phải làm: Tôi thông báo với một người lớn. Tôi đã gửi một email cho người quản trị web của phòng thí nghiệm để giải thích về lỗ hổng bảo mật này, và chờ đợi một phản hồi không bao giờ đến. Mỗi ngày đi học về tôi đều truy cập website đó kiểm tra xem cấu trúc thư mục đã thay đổi chưa, và nó vẫn như cũ - chẳng có gì thay đổi, ngoại trừ mức độ sửng sốt và phẫn nộ của tôi. Cuối cùng tôi cầm điện thoại, đường dây thứ hai trong nhà, và gọi đến số máy phòng hướng dẫn thông tin đã được liệt kê ở cuối website phòng thí nghiệm Los Alamos. Một người trực tổng đài bắt máy, và ngay khi bà ấy lên tiếng là tôi bắt đầu lắp bắp. Thậm chí tôi nghĩ là mình chưa nói hết cụm từ “cấu trúc thư mục” thì đã nghẹn giọng. Nhân viên tổng đài cắt lời tôi bằng một câu cộc lốc “Xin giữ máy chờ bộ phận CNTT (Công nghệ thông tin)”, và trước khi tôi kịp cảm ơn thì bà ấy đã chuyển máy đến một hộp thư thoại. Đến lúc nghe được tiếng bip vang lên, tôi đã lấy lại chút ít tự tin, và với thanh quản ổn định hơn, tôi để lại một lời nhắn. Bây giờ tôi chỉ còn nhớ tôi kết thúc lời nhắn ấy như thế nào - lòng nhẹ nhõm, và lặp lại tên tôi cùng số điện thoại. Tôi nhớ là tôi thậm chí còn đánh vần cái tên Snowden của mình, giống như cha tôi đôi lúc vẫn làm, theo cách đọc bảng chữ cái của quân đội: “Sierra November Oscar Whiskey Delta Echo November”. Rồi tôi gác máy và tiếp tục cuộc sống, với một tuần lễ gần như chỉ toàn kiểm tra website của Los Alamos. Ngày nay, với khả năng tình báo không gian mạng của chính phủ, bất cứ ai kết nối vào máy chủ Los Alamos vài chục lần mỗi ngày thì gần như chắc chắn sẽ trở thành một đối tượng đáng quan tâm. Nhưng thời đó, tôi chỉ đơn thuần là một người quan tâm. Tôi không thể hiểu nổi - chẳng ai lo ngại gì sao? Nhiều tuần trôi qua - và một tuần có thể lâu như một tháng đối với một chú nhóc - cho đến một tối nọ, ngay trước bữa ăn, điện thoại reo vang. Má tôi, đang ở trong bếp làm bữa tối, đã nhấc máy lên. Tôi đang ngồi trước máy tính trong phòng ăn thì tôi nghe thấy cuộc điện thoại này là dành cho tôi: “Vâng, ờ ờ, Snowden có ở nhà”. Rồi, “Xin hỏi ai gọi đến ạ?” Đang ngồi trên ghế, tôi quay lại và thấy má đang đứng kề bên, điện thoại áp vào ngực. Mặt bà tái ngắt không còn hột máu. Má run rẩy. “Con đã làm gì?” Tiếng thì thầm của má gấp rút một cách ai oán mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ, và tôi đâm hoảng. Nếu biết thì tôi đã nói với má rồi. Thay vào đó, tôi hỏi, “Ai gọi thế?” “Los Alamos, phòng thí nghiệm hạt nhân”. “Ôi, ơn trời”. Tôi nhẹ nhàng nạy điện thoại ra khỏi tay má và đỡ bà ngồi xuống. “Xin chào?” Ở Ở đầu dây bên kia là một đại diện có giọng nói thân thiện của bộ phận CNTT Los Alamos, người cứ gọi tôi là ông Snowden. Ông ta cảm ơn tôi đã thông báo vấn đề đó và cho tôi hay là họ đã sửa chữa lại rồi. Tôi cố kiềm chế để không hỏi ông ấy sao lâu quá vậy - tôi cố kiềm chế để không với tới chiếc máy tính và lập tức kiểm tra website đó. Má không rời mắt khỏi tôi. Bà đang cố gắng xâu kết câu chuyện, nhưng chỉ nghe được một phía cuộc điện đàm. Tôi giơ một ngón tay cái cho má thấy, và rồi, để trấn an má hơn nữa, tôi giả giọng nói già dặn hơn, nghiêm túc và trầm trầm một cách thiếu thuyết phục, rồi giải thích như cái máy với người đại diện CNTT những điều ông ấy đã biết rõ: Tôi phát hiện ra vấn đề thư mục liên thông đó như thế nào, tôi đã trình báo ra sao, và việc tôi không nhận được phản hồi nào cho đến bây giờ. Tôi đã kết thúc bằng câu, “Tôi rất cảm ơn ông đã gọi điện cho tôi. Hy vọng là tôi đã không gây ra rắc rối nào”. “Không hề”, người đại diện CNTT nói, rồi hỏi tôi sống bằng nghề gì. “Thực sự là không làm gì hết”, tôi nói. Ông ấy hỏi tôi có đang tìm việc làm không và tôi nói, “Trong suốt năm học, tôi rất bận, nhưng tôi có rất nhiều kỳ nghỉ và mùa hè thì rảnh rỗi”. Đó là lúc ông ấy chợt hiểu ra, và biết ông đang nói chuyện với một đứa thiếu niên. “Chà, nhóc con” ông nói, “cháu đã có thông tin liên lạc của tôi. Hãy nhớ liên lạc khi cháu lên mười tám tuổi. Còn bây giờ hãy đưa máy cho quý bà dễ thương tôi đã nói chuyện lúc nãy”. Tôi trao điện thoại cho bà mẹ lo lắng của tôi và bà ôm máy quay lại nhà bếp đang mù mịt khói. Những món ăn tối đã bị cháy, nhưng tôi đoán người đại diện CNTT đã dành cho tôi toàn những lời khen ngợi cho nên mọi hình phạt mà tôi đã tưởng tượng đều tan biến sạch. ₀O₀ 6 Không hoàn thành TÔI KHÔNG NHỚ RÕ THỜI TRUNG HỌC LẮM, vì tôi ngủ hết phần lớn thời gian ở lớp, để bù lại bao đêm thức trắng trước máy tính. Ở trường trung học Arundel, hầu hết các thầy cô của tôi đều không bận tâm đến thói quen ngủ vặt của tôi, mặc kệ, miễn là tôi đừng ngáy, mặc dù vẫn có vài người tàn nhẫn, không hài lòng, tự cho là họ có nhiệm vụ phải luôn đánh thức tôi - bằng tiếng rít của viên phấn hoặc tiếng đập của cục tẩy - và phục kích tôi bằng một câu hỏi: “Cậu đang nghĩ gì đó, cậu Snowden?” Tôi nhấc đầu lên khỏi mặt bàn, ngồi thẳng trên ghế, ngáp, và tôi phải trả lời trong lúc mấy đứa cùng lớp cố nín cười. Sự thật là tôi thích những khoảnh khắc này, một trong những thử thách lớn nhất mà trường trung học ban tặng cho. Tôi thích bị bắt bí phải trả lời ngay, đang lúc còn ngây ngất và mụ mẫm, trước ba mươi cặp mắt và đôi tai đang hướng về tôi và chờ đợi tôi thất bại, trong khi tôi tìm kiếm một manh mối trên bảng đen đang viết nửa chừng. Nếu tôi có thể suy nghĩ thật nhanh để đưa ra một câu trả lời tốt thì tôi sẽ thành huyền thoại. Nhưng nếu quá chậm, tôi lúc nào cũng có thể nói một câu bông đùa - bông đùa bao giờ cũng có ích. Trong trường hợp xấu nhất hạng, tôi sẽ ấp úng, và đám bạn cùng lớp sẽ nghĩ tôi là đồ ngu. Kệ chúng. Bạn nên luôn để mọi người đánh giá thấp bạn. Bởi vì khi mọi người đánh giá sai trí thông minh và năng lực của bạn, họ chỉ toàn bộc lộ ra điểm yếu của chính họ - những lỗ hổng trong phán đoán của họ cần phải để cho mở toang nếu như sau này bạn muốn cưỡi trên con ngựa rực lửa lộn nhào qua, và rửa sạch vết nhơ bằng thanh gươm công lý. Tôi nghĩ rằng khi còn niên thiếu, tôi đã quá mê đắm với cái ý tưởng rằng những vấn đề quan trọng nhất đời đều có tính nhị phân, có nghĩa là một câu trả lời sẽ luôn luôn Đúng và mọi câu trả lời còn lại đều Sai. Tôi nghĩ hồi đó tôi bị mê hoặc theo mô hình lập trình máy tính, lãnh vực mà những câu hỏi chỉ có thể được trả lời theo một trong hai cách: 1 hoặc 0, phiên bản mã máy của Có hoặc Không, Đúng hoặc Sai. Ngay cả những câu hỏi trắc nghiệm trong các bài kiểm tra và bài thi của tôi cũng có thể được giải quyết thông qua cách lý luận nhị phân đối nghịch. Nếu tôi không lập tức nhận ra ngay một câu trả lời có thể là đúng, tôi luôn có thể thử thu hẹp các lựa chọn của mình bằng tiến trình loại trừ, tìm kiếm những từ như “luôn luôn” hay “không bao giờ”, và tìm kiếm các ngoại lệ không có căn cứ. Tuy nhiên, đến gần cuối năm lớp 9, tôi đụng phải một kiểu bài tập rất khác - một câu hỏi không thể trả lời bằng cách điền vào các ô trắc nghiệm bằng bút chì số 2, mà phải dùng phép tu từ: những câu trọn vẹn trong những đoạn văn trọn vẹn. Nói một cách đơn giản, đó là một bài luận văn, với một đề bài mở: “Hãy viết một bài tự thuật về bản thân em không dưới 1.000 từ”. Tôi đã được người lạ ra lệnh phải tiết lộ suy nghĩ của tôi về đề tài có lẽ là duy nhất mà tôi không hề nghĩ tới: đề tài về tôi, bất kể hắn là ai. Tôi không sao làm được. Tôi bí. Tôi đã nộp giấy trắng và nhận được lời phê “Không hoàn thành”. Vấn đề của tôi, giống như chính đề bài luận văn ấy, là sự riêng tư. Tôi không thể “viết một bài tự thuật về bản thân” vì cuộc sống của tôi lúc đó quá xáo trộn. Lý do là gia đình tôi đang tan vỡ. Ba má tôi sắp ly hôn. Mọi chuyện xảy ra quá nhanh. Ba chuyển đi nơi khác sống còn má rao bán ngôi nhà ở Crofton, và sau đó cùng chị em tôi dọn tới một căn hộ, rồi đến một chung cư trong một khu mới xây dựng ở Ellicott City gần đó. Tôi có mấy đứa bạn từng bảo tôi rằng ta chưa thực sự trưởng thành chừng nào ta chưa mất cha mất mẹ, hoặc bản thân ta chưa làm cha làm mẹ. Nhưng điều mà không ai từng nói đến là, đối với nhiều đứa trẻ ở một độ tuổi nhất định, chuyện cha mẹ ly hôn giống như cả hai điều trên đang xảy ra cùng một lúc. Đột nhiên, hai biểu tượng bất khả xâm phạm của thời thơ ấu biến mất. Thay vào đó, nếu như còn có ai để thay thế, là một con người khác thậm chí còn mất mát nhiều hơn ta, đầy nước mắt và thịnh nộ, một người khao khát sự trấn an của ta rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn. Nhưng đâu có ổn, ít nhất là trong một khoảng thời gian. Trong lúc đợi tòa án xem xét quyền nuôi con và quyền thăm viếng, chị tôi lao vào nộp đơn ghi danh các trường đại học, được nhận, và bắt đầu đếm ngược từng ngày cho đến khi chị vào Đại học Bắc Carolina ở Wilmington. Chị ấy ra đi đồng nghĩa với việc tôi mất luôn mối ràng buộc gần gũi nhất với cái đã từng là gia đình của chúng tôi. Tôi đã phản ứng bằng cách thu mình lại. Tôi cố sức ép mình trở thành một con người khác, thay hình đổi dạng với chiếc mặt nạ của bất cứ vai trò nào mà những người tôi quan tâm cần có vào thời điểm đó. Trong gia đình, tôi đáng tin cậy và chân thành. Giữa bạn bè, vui vẻ và vô tư. Nhưng khi một mình, tôi lại thầm lặng, thậm chí ủ ê, và không ngừng lo ngại rằng chính mình là một gánh nặng. Tôi bị ám ảnh bởi tất cả những chuyến đi xe đến Bắc Carolina mà tôi đã từng kêu ca, tất cả những lễ Giáng sinh mà tôi đã phá hỏng vì mang về nhà một phiếu điểm học sinh kém, tất cả những lần tôi không chịu ngắt mạng để làm việc nhà. Mọi chuyện ầm ĩ tôi từng gây ra hồi nhỏ cứ lóe lên trong tâm trí tôi như những thước phim hiện trường vụ án, bằng chứng cho thấy tôi phải chịu trách nhiệm cho những gì đã xảy ra giữa ba má tôi. Tôi đã cố gắng vứt bỏ cảm giác tội lỗi bằng cách phớt lờ cảm xúc của mình và giả vờ như mình có thể tự lập tự chủ, cho đến khi tôi cố tạo một ấn tượng giống như mình đã trưởng thành sớm. Tôi không còn nói là tôi “đang chơi” với máy tính, và bắt đầu nói rằng tôi “đang làm việc” trên máy. Chỉ cần thay đổi những từ đó, mà không thay đổi chút nào những gì mình vẫn làm lâu nay, là đã tạo ra sự khác biệt trong cách người khác, và là chính tôi nữa, nhìn nhận về tôi. Tôi không còn tự xưng là “Eddie” nữa. Từ giờ trở đi, tôi là “Ed”. Tôi đã có chiếc điện thoại di động đầu tiên mà tôi đeo vào thắt lưng như một người đàn ông trụ cột gia đình. May mắn bất ngờ của tổn thương tinh thần này - cơ hội để làm mới lại bản thân - đã dạy cho tôi hiểu rõ hơn thế giới bên ngoài bốn bức tường nhà mình. Tôi ngạc nhiên thấy rằng tôi càng xa cách với hai người lớn yêu thương tôi nhất thì tôi càng gần gũi những người khác, những người đối xử với tôi như bạn ngang hàng. Những người dìu dắt đã dạy tôi lái thuyền buồm, hướng dẫn tôi võ thuật, huấn luyện tôi nói trước công chúng, và cho tôi sự tự tin để đứng trên sân khấu - tất cả những người ấy đều góp phần dưỡng dục tôi. Tuy nhiên, vào đầu năm lớp 10, tôi bắt đầu mệt mỏi quá mức và ngủ gục nhiều hơn bình thường - không chỉ ở trường thôi đâu, mà bây giờ ngay cả khi ngồi trước máy tính. Tôi thường thức dậy lúc nửa đêm trong tư thế gần như ngồi thẳng đứng, màn hình trước mặt tôi đầy những chữ vô nghĩa vì tôi đã thiếp đi mê mệt đè lên bàn phím. Chẳng mấy chốc, các khớp xương của tôi đau nhức, các hạch sưng lên, lòng trắng hai mắt chuyển sang màu vàng, và tôi quá kiệt sức không rời khỏi giường được, ngay cả khi đã ngủ một mạch mười hai tiếng hoặc hơn. Sau khi rút từ cơ thể tôi ra một lượng máu rất nhiều, ngoài sức tưởng tượng của tôi, cuối cùng bác sĩ chẩn đoán là tôi mắc bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng. Đó là một căn bệnh khiến tôi vừa suy nhược trầm trọng vừa nhục nhã ê chề, chủ yếu là vì bệnh này thường bị nhiễm qua chuyện mà đám bạn cùng lớp gọi là “móc nối”, và ở tuổi mười lăm thì chuyện “móc nối” duy nhất tôi từng làm chỉ liên quan đến cái modem kết nối Internet mà thôi. Việc học hoàn toàn bị lãng quên, tôi liên tục vắng mặt ở lớp, và ngay cả điều đó cũng không làm tôi thấy vui thú. Ngay cả một chế độ ăn toàn kem cũng không làm tôi vui thú. Tôi hầu như không còn sức để làm bất cứ điều gì ngoài việc chơi các game máy tính mà ba má đã mua cho - người nào cũng cố mang đến trò hay hơn, trò mới hơn, cứ như ba má đang tranh đua nhau để làm tôi hăng hái hơn hoặc giảm nhẹ mặc cảm có lỗi của họ về việc ly hôn. Khi không còn cả hơi sức để điều khiển cần bấm chơi game, tôi tự hỏi tại sao mình còn sống. Nhiều lúc tôi thức dậy mà không nhận ra được môi trường xung quanh. Phải mất một lúc tôi mới mường tượng ra mình đang ở đâu trong cái bóng tối âm u này, nhà chung cư của má hay căn hộ một phòng ngủ của ba, và tôi không hề nhớ gì về việc mình được xe đưa đi đưa về giữa hai nơi này. Ngày nào cũng như ngày nấy. Mơ hồ như một màn sương mịt mù. Tôi nhớ có đọc bài tiểu luận The Conscience of a Hacker (Lương tâm của hacker) hay còn gọi là The Hackers Manifesto (Tuyên ngôn hacker), cuốn Snow Crash (Tuyết lở) của Neal Stephenson, và cả đống truyện của J.R.R. Tolkien, ngủ gục giữa chừng và lẫn lộn các nhân vật với hành động, cho đến khi tôi nằm mơ thấy nhân vật Gollum ở bên giường bệnh của tôi rên rỉ, “Cậu chủ, cậu chủ, thông tin phải được công khai”. Trong khi tôi cam chịu tất cả những giấc ngủ mê sảng, cái ý nghĩ tôi phải bắt kịp việc học ở trường lại đúng là ác mộng thực sự. Sau khi tôi bỏ lớp khoảng bốn tháng, tôi nhận được một lá thư từ trường trung học Arundel thông báo rằng tôi phải học lại lớp 10. Có thể nói là tôi đã bị sốc, nhưng ngay khi đọc thư, tôi nhận ra rằng mình đã biết trước điều này là không thể tránh khỏi và đã lo sợ suốt nhiều tuần lễ rồi. Viễn cảnh trở lại trường, chứ đừng nói đến việc lặp lại hai học kỳ, là điều không thể tưởng tượng được với tôi, và tôi sẵn sàng làm mọi cách để tránh điều đó. Ngay lúc mà bệnh hạch của tôi phát triển thành chứng trầm cảm toàn diện, chính cái thông báo của nhà trường đã khiến tôi thoát khỏi khủng hoảng. Đột nhiên tôi đứng dậy và mặc một bộ đồ khác không phải đồ ngủ ở nhà. Đột nhiên tôi lên mạng và cầm điện thoại, tìm kiếm các lợi điểm của hệ thống giáo dục này, tìm kiếm một cách “hack”. Sau một chút nghiên cứu và rất nhiều mẫu đơn phải điền, giải pháp của tôi đã đến trong hộp thư trước cửa: Tôi đã tìm cách cho mình được nhận vào trường cao đẳng. Rõ ràng, bạn không cần phải có bằng tốt nghiệp trung học mới ghi danh được. Cao đẳng cộng đồng Anne Arundel (Anne Arundel Community College - AACC) là một cơ sở ở địa phương, chắc chắn không có tên tuổi như trường của chị tôi, nhưng nó cũng được việc. Quan trọng nhất là trường này được công nhận chính thức. Tôi mang giấy báo nhập học đến trình ban giám hiệu trường trung học của tôi, và họ, vừa tò mò vừa không che giấu được cảm giác nửa chịu đựng nửa vui mừng, đã đồng ý cho tôi ghi danh. Tôi học các lớp ở trường cao đẳng này hai ngày một tuần, gần như đó là toàn bộ thời gian mà tôi có thể xoay xở để ngồi thẳng thớm mà học hành. Bằng cách theo các môn học vượt cấp lớp, tôi sẽ không phải khổ sở trong suốt niên khóa mà tôi sẽ lưu ban. Tôi học nhảy luôn. Trường AACC cách nhà khoảng hai mươi lăm phút, và mấy lần đầu tiên tôi tự lái xe đi học đúng là nguy hiểm - tôi là người lái xe mới lấy bằng, kẻ hầu như không thể tỉnh táo trước vô-lăng. Tôi đến lớp rồi sau đó đi thẳng về nhà để ngủ. Tôi là người nhỏ tuổi nhất lớp, và thậm chí có thể là nhỏ tuổi nhất trường này, hết là một vật lạ mang tính biểu tượng lại thành một bộ mặt gây lúng túng. Việc học này, cùng với sức khỏe đang hồi phục, đồng nghĩa với việc tôi ít ra ngoài giao du. Thêm nữa, vì AACC là một ngôi trường chỉ đến học rồi về chứ không có đời sống sinh viên sôi nổi. Dù vậy, tôi thấy hợp với ngôi trường vô danh này, cũng như các môn học, đúng là hầu hết đều thú vị hơn nhiều so với bất cứ những gì tôi đã ngủ gật cho qua thời gian ở trung học Arundel. ₀O₀ Trước khi tôi đi xa hơn và rời khỏi trường trung học mãi mãi, phải nói là tôi vẫn còn mắc nợ bài luận văn đó, bài bị phê là “Không hoàn thành”. Bài văn tự thuật của tôi. Tôi càng lớn tuổi, đề văn ấy càng ray rứt tôi hơn, thế nhưng chuyện viết cho được bài văn đó vẫn không dễ dàng hơn chút nào. Thực tế là, không người nào với một lai lịch như tôi lại có thể thoải mái viết tự truyện. Rất khó viết khi đã dành phần lớn cuộc đời để tránh bị nhận dạng, rồi lại quay ngoặt hoàn toàn và chia sẻ “những tiết lộ cá nhân” trong một cuốn sách. Cộng đồng Tình báo cố gắng khắc sâu vào nhân viên của họ một chuẩn mực về tính vô danh, một dạng tính cách như trang giấy trắng để in hằn lên đó sự bí mật và ngón nghề mạo danh. Bạn phải rèn luyện bản thân để trở nên kín đáo, bề ngoài và giọng điệu giống như mọi người khác. Bạn sống trong một ngôi nhà bình thường nhất, lái chiếc xe bình thường nhất, mặc quần áo bình thường như bao người. Sự khác biệt là bạn cố tình làm điều đó: sự bình thường, những điều thông thường, chính là vỏ bọc của bạn. Sự bình thường lại là phần thưởng éo le cho một sự nghiệp phủ nhận bản thân mà không có vinh quang nào được công nhận: Cái vinh quang thầm lặng này không đến trong khi làm việc, mà là sau đó, ằ khi bạn có thể quay trở lại giữa mọi người và thuyết phục được họ tin rằng bạn là người bình thường như họ. Mặc dù có một số thuật ngữ tâm lý học phổ thông hơn và chắc chắn là chính xác hơn để gọi dạng phân thân này, tôi thường xem đây là một kiểu mã hóa con người. Như trong mọi tiến trình mã hóa, tài liệu gốc - cá tính cốt lõi của bạn - vẫn tồn tại, nhưng trong một hình thức bị xáo trộn và khóa kín. Phương trình cho phép sự mã hóa này là một tỷ lệ thức đơn giản: Bạn càng biết nhiều về người khác thì bạn càng biết ít về bản thân mình. Sau một thời gian, bạn có thể quên mất những điều bạn thích và thậm chí là không thích. Bạn có thể mất luôn chính kiến riêng, cùng với bất kỳ và mọi sự tôn trọng dành cho quá trình tác động chính sách mà bạn có thể đã kinh qua. Mọi thứ đều bị gộp chung thành một vì công việc này, một công việc khởi đầu bằng chối bỏ cá tính và kết thúc bằng chối bỏ lương tâm. “Nhiệm vụ trên hết”. Suốt nhiều năm tôi đã sử dụng một số hình thức của những điều nói trên để giải thích việc tôi trung thành với quyền riêng tư, và việc tôi không thể hoặc không muốn chỉ trích cá nhân. Mãi đến bây giờ, khi tôi đã rời khỏi Cộng đồng IC cũng lâu gần bằng khoảng thời gian tôi ở trong đó, tôi mới nhận ra rằng: như thế chưa đủ. Nói cho cùng, lúc tôi nộp giấy trắng bài luận đó, tôi nào phải là gián điệp - thậm chí tôi còn chưa phải cạo râu. Trái lại, tôi là một đứa trẻ có tập tành trò gián điệp được một thời gian - một phần là qua những trải nghiệm trên mạng với các hiện thân trong trò chơi nhập vai, nhưng hơn hết thảy là qua việc đối phó với sự im lặng và những lời nói dối sau khi ba má tôi ly hôn. Với sự rạn nứt đó, chúng tôi đã trở thành một gia đình của những kẻ che giấu bí mật, những kẻ giỏi tránh né và lẩn trốn. Ba má tôi giấu bí mật với nhau, với tôi và với chị tôi. Chị tôi và tôi cuối cùng cũng giấu bí mật riêng tư luôn, khi vào ngày cuối tuần một đứa sẽ ở với ba còn một đứa sẽ ở với má. Một trong những thử thách khó khăn nhất mà một đứa trẻ có cha mẹ ly hôn phải đối mặt là bị cha hoặc mẹ gặng hỏi về cuộc sống mới của người kia. Má tôi thường vắng nhà nhiều đợt, quay lại chuyện hẹn hò. Ba tôi đã cố gắng hết sức để lấp đầy khoảng trống, nhưng có lúc ông nổi nóng vì quá trình ly hôn kéo dài và tốn kém. Hễ xảy ra chuyện đó thì dường như tôi thấy vai trò của hai cha con đã đảo ngược. Tôi phải tỏ ra kiên quyết và đối đầu với ông ấy, phải tranh luận với ông ấy. ẳ Thật đau đớn khi viết ra điều này, dù không hẳn là vì các sự việc trong giai đoạn này đều đau đớn khi nhớ lại mà là vì chúng hoàn toàn không cho thấy sự đứng đắn trong bản chất của ba má tôi - hay cho thấy là, vì thương con cái, họ cuối cùng đã có thể chấm dứt tranh cãi, hòa giải trong sự tôn trọng lẫn nhau, và ai cũng đều bình an thành đạt như thế nào. Kiểu thay đổi này là liên tục, bình thường và nhân bản. Nhưng một bài văn tự thuật lại bất biến, một tài liệu cố định về một con người không ngừng thay đổi. Đây là lý do tại sao câu chuyện hay nhất mà ai đó có thể kể về bản thân mình lại không phải là lời bày tỏ mà là một cam kết - cam kết với những nguyên tắc mà họ coi trọng, và với viễn kiến về mẫu người mà họ hy vọng sẽ trở thành. Tôi đã ghi danh vào trường cao đẳng cộng đồng để tiết kiệm thời gian cho bản thân sau một giai đoạn trắc trở, không phải vì tôi muốn tiếp tục học lên cao hơn. Nhưng tôi đã cam kết với chính mình rằng tôi ít nhất phải hoàn thành chương trình trung học. Cuối cùng tôi đã làm tròn lời hứa vào một ngày cuối tuần, khi lái xe đến một trường công lập gần Baltimore để làm bài thi cuối cùng mà tôi từng làm cho tiểu bang Maryland: kỳ thi lấy bằng phát triển Giáo dục phổ thông (GED), mà chính phủ Hoa Kỳ công nhận là có tiêu chuẩn tương đương với bằng tốt nghiệp trung học. Tôi còn nhớ mình rời khỏi phòng thi, lòng nhẹ nhõm hơn bao giờ hết, sau khi đã trả xong hai năm học mà tôi còn nợ tiểu bang chỉ bằng cách tham gia một kỳ thi hai ngày. Cứ như một trò “hack”, nhưng nó còn ý nghĩa hơn thế. Đó là: Tôi đã làm đúng như tôi nói. ₀O₀ 7 11 tháng Chín TỪ NĂM MƯỜI SÁU TUỔI, tôi gần như sống một mình. Khi má tôi lao mình vào công việc thì thường là cả căn hộ của bà thuộc về tôi. Tôi tự đặt ra lịch trình riêng, tự nấu ăn và tự giặt đồ. Tôi chịu trách nhiệm cho mọi việc ngoại trừ thanh toán hóa đơn. Tôi đã có một chiếc Honda Civic đời 1992 màu trắng và bởi vì ai cũng làm như thế nên tôi hay lái xe khắp tiểu bang trong lúc nghe nhạc rock indie trên đài 99.1 WHFS - “Now Hear This” là một trong những câu khẩu hiệu nổi tiếng của đài này. Tôi không giỏi chuyện sống như bình thường lắm, nhưng tôi đang cố gắng. Cuộc sống của tôi trở thành một vòng loanh quanh, đi theo một tuyến đường giữa nhà tôi, trường cao đẳng, và bạn bè, đặc biệt là một nhóm mới mà tôi gặp trong lớp tiếng Nhật. Tôi không rõ là mất bao lâu chúng tôi mới nhận ra cả bọn đã hợp thành một nhóm, nhưng đến học kỳ thứ hai thì bọn tôi đến lớp để gặp nhau hơn là để học ngôn ngữ. Cũng phải nói đây là cách tốt nhất để “tỏ ra bình thường”: chơi chung với những người khác thường như mình, nếu không phải là khác thường hơn. Họ hầu hết đều là những họa sĩ và nhà thiết kế đồ họa đầy khát vọng bị ám ảnh bởi anime, tức phim hoạt hình Nhật Bản, lúc đó đang gây tranh cãi. Tình bạn càng thân thiết thì cả tôi cũng đâm ra quen thuộc với các thể loại phim anime, cho đến khi tôi có thể huyên thuyên nêu ra những ý kiến tương đối có hiểu biết về một loạt phim mới đã cùng xem với các tựa đề như Grave of the Fireflies, Revolutionary Girl Utena, Neon Genesis Evangelion, Cowboy Bebop, The Vision of Escaflowne, Rurouni Kenshin, Nausicaa of the Valley of the Wind, Trigun, The Slayers, và phim tôi thích nhất là Ghost in the Shell. Một trong những người bạn mới này, tôi sẽ gọi cô ấy là Mae - một phụ nữ lớn tuổi hơn tôi, hơn nhiều lắm, ở độ tuổi hai mươi lăm hoàn toàn trưởng thành. Cô ấy gần như là thần tượng đối với cả đám chúng tôi, vì cô là họa sĩ đã có tác phẩm xuất bản và cuồng cosplay - trò hóa trang như nhân vật trong phim truyện. Mae là bạn luyện đàm thoại tiếng Nhật của tôi và cô ấy cũng điều hành một doanh nghiệp thiết kế Web thành công, tôi rất nể khi biết được chuyện này. Tôi sẽ gọi doanh nghiệp đó là Squirrelling Industries, tôi đặt tên là “squirrel” (con sóc) vì Mae có nuôi mấy con sóc bay và thỉnh thoảng cô mang chúng theo trong một chiếc túi Crown Royal màu tím. Đó là chuyện tôi trở thành một người làm việc tự do như thế nào: Tôi bắt đầu làm thiết kế web cho cô gái tôi đã gặp trong lớp. Mae, hoặc tôi đoán là doanh nghiệp của cô ấy, đã thuê tôi làm chui với mức lương rất hậu hĩnh vào lúc đó là 30 đô-la/giờ, trả tiền mặt. Vấn đề là liệu có bao nhiêu giờ tôi thực sự được trả công. Tất nhiên, Mae lẽ ra có thể trả công cho tôi bằng những nụ cười - vì tôi đã yêu, đã si mê cô ấy như điếu đổ. Mặc dù tôi không khéo che giấu điều đó lắm, nhưng tôi chắc là Mae cũng không phiền lòng, bởi vì tôi không bao giờ trễ hạn hoàn thành hay thậm chí là luôn giúp cô ấy không sót một việc nào, dù là nhỏ nhất. Ngoài ra, tôi là người học rất nhanh. Trong một công ty chỉ có hai người, bạn phải có khả năng làm mọi thứ. Dù tôi có thể, và đã thực sự, xúc tiến công việc của Squirrelling Industries ở bất kỳ đâu - nói cho cùng, đó là vấn đề làm việc trên mạng - Mae thích tôi đến văn phòng, ý tôi là nhà cô ấy, một ngôi nhà phố hai tầng mà cô ấy sống chung với chồng, một người đàn ông thông minh và thanh lịch mà tôi sẽ gọi là Norm. Phải, Mae đã có chồng. Hơn nữa, ngôi nhà phố mà cô và Norm sống nằm ngay rìa phía tây nam của căn cứ Fort Meade, nơi Norm làm việc - anh ta là chuyên viên ngôn ngữ của không quân được phân công về NSA. Tôi không biết việc mở doanh nghiệp ngay tại nhà có hợp pháp hay không khi nhà của bạn là tài sản của liên bang nằm trong một cơ sở quân sự, nhưng là một thiếu niên say mê một phụ nữ đã có chồng và cũng là bà chủ của mình, tôi đúng là không khắt khe lắm với chuyện phép tắc. Bây giờ thì hầu như không thể tưởng tượng nổi chứ hồi đó có thể nói là bất kỳ ai cũng ra vào Fort Meade dễ dàng. Đâu phải toàn là cọc chắn với hàng rào và chốt gác rào kín dây thép gai như bây giờ. Tôi hoàn toàn có thể chạy thẳng vào căn cứ quân sự nơi đặt cơ quan tình báo bí mật nhất thế giới này trong chiếc Civic ‘92 của tôi, cửa sổ hạ xuống, radio mở to, mà không cần phải dừng lại ở một cổng nào để trình thẻ chứng minh. Gần như cứ nửa tháng một lần vào ngày cuối tuần là một phần tư lớp học tiếng Nhật của tôi lại tụ họp ở ngôi nhà nhỏ của Mae, phía sau sở chỉ huy NSA để xem phim anime và sáng tác truyện tranh. Đó là chuyện rất bình thường, vào cái thời đã qua khi cái câu “Đây là đất nước tự do mà, không phải sao?” rất thường nghe thấy trong mọi sân trường và mọi hài kịch tình huống. Vào những ngày làm việc, tôi ló mặt tới nhà Mae vào buổi sáng, lái xe vào con phố cụt nhà cô sau khi Norm đã đi tới NSA làm việc, và tôi ở lại đó suốt cả ngày, cho đến gần giờ tan sở của Norm. Những lần Norm và tôi tình cờ đụng độ nhau trong suốt khoảng hai năm tôi làm việc cho vợ anh ta, thì Norm, xét cho cùng, vẫn luôn ân cần và rộng lượng với tôi. Lúc đầu, tôi ằ cho rằng anh ta không biết gì về chuyện tôi si mê Mae, hoặc là anh ta coi thường khả năng quyến rũ của tôi tới mức mặc kệ cho tôi một mình với vợ anh. Nhưng có một hôm, khi chúng tôi tình cờ gặp nhau - anh ta đi, tôi đến - Norm lịch sự nói rằng anh ta có để một khẩu súng trên bàn ngủ. Squirrelling Industries, thực tế chỉ là Mae và tôi, gần như là điển hình của các công ty khởi nghiệp dưới tầng hầm trong thời kỳ bùng nổ thương mại điện tử, các doanh nghiệp nhỏ tranh nhau cơm thừa canh cặn trước khi tất cả phá sản hết. Cách hoạt động của nó là một công ty lớn - một hãng sản xuất ô tô, chẳng hạn - sẽ thuê một công ty quảng cáo hoặc công ty PR lớn xây dựng website cho họ và nói chung là để tô điểm bộ mặt của họ trên Internet. Công ty lớn đó thường không biết gì về chuyện làm web, còn công ty quảng cáo hoặc công ty PR thường chỉ biết nhiều hơn một chút - vừa đủ để đăng một bản mô tả công việc và rao vặt tìm người thiết kế Web trên một trong những cổng thông tin việc làm tự do lúc đó đang nở rộ. Sau đó, các doanh nghiệp mẹ giám đốc-bố nhân viên - hay trong trường hợp này, sếp là gái lớn có chồng, lính là trai trẻ độc thân - sẽ đấu thầu các công việc này, và sự cạnh tranh dữ dội tới mức giá chào mời luôn bị hạ thấp đến nực cười. Người thắng thầu lại còn phải trích một khoản trả phí cho cổng thông tin việc làm thì rốt cuộc số tiền còn lại chỉ đủ cho một người lớn sống sót, chứ đừng nói đến việc nuôi một gia đình. Ngoài việc tiền thù lao ít ỏi, lại còn nỗi nhục không được ghi công: những người làm tự do hiếm khi nhắc tới những dự án họ đã làm, bởi vì công ty quảng cáo hoặc công ty PR sẽ tuyên bố tự triển khai tất cả trong nội bộ. Tôi đã biết nhiều về thế giới, đặc biệt là thế giới kinh doanh, nhờ có Mae làm sếp. Cô ấy lõi đời đến kinh ngạc, làm việc siêng năng gấp đôi so với những người cùng nghề để thành đạt trong một ngành khi đó chủ yếu dành cho đàn ông, nơi mà cứ hai khách hàng thì có một kẻ quyết lừa gạt bạn làm không công. Cái văn hóa bóc lột tùy tiện này đã khuyến khích những người làm việc tự do tìm cách dò ra những kẽ hở trên toàn hệ thống, và Mae có tài sử dụng các mối quan hệ riêng tới mức không cần các cổng thông tin việc làm. Cô ấy cố gắng loại bỏ những người trung gian và bên thứ ba và giao dịch trực tiếp với những khách hàng lớn nhất có thể. Mae làm việc này rất tuyệt, nhất là khi đã có tôi lo phần kỹ thuật, nên cô ấy tập trung hoàn toàn vào khía cạnh kinh doanh và nghệ thuật. Cô sử dụng tài vẽ minh họa của mình vào việc thiết kế logo và cung cấp các dịch vụ thương hiệu cơ bản. Còn về phần tôi, các phương pháp và kỹ thuật lập trình khá đơn giản nên tôi có thể học cấp tốc, và công việc dẫu có thể lặp đi lặp lại phát chán, tôi cũng không phàn nàn. Tôi còn hoan hỉ nhận ngay cả việc viết ằ mã nguồn bằng chương trình Notepad++ tầm thường nhất. Tuyệt vời sao những gì bạn làm vì tình yêu, nhất là khi tình yêu ấy không được đáp lại. Tôi không khỏi tự hỏi liệu có phải Mae đã biết rõ về tình cảm của tôi dành cho cô ấy bao lâu nay, và chỉ đơn thuần là lợi dụng điều đó để sao cho có lợi nhất cho cô. Nhưng nếu tôi chỉ là con mồi thì tôi là một con mồi tự nguyện, và thời gian làm việc cho cô ấy cũng giúp tôi kiếm tiền kha khá. Dù vậy, làm việc với Squirrelling Industries khoảng một năm thì tôi thấy tôi phải hoạch định cho tương lai của mình. Ngày càng khó bỏ qua những chứng chỉ chuyên ngành cho lĩnh vực CNTT. Hầu hết các lời rao tuyển dụng và hợp đồng cho những việc cấp cao hơn đều bắt đầu yêu cầu ứng viên phải được chính thức công nhận bởi các công ty công nghệ lớn như IBM và Cisco trong việc sử dụng và bảo trì các sản phẩm của họ. Ít nhất, đó là ý chính của một quảng cáo trên radio mà tôi vẫn nghe phát đi phát lại. Một hôm, khi tôi đi làm về sau khi nghe mẩu quảng cáo ấy hẳn phải đến cả trăm lần, tôi thấy mình đã quay số 1-800 và đăng ký khóa học lấy chứng chỉ Microsoft đang được dạy ở học viện Computer Career Institute thuộc Đại học Johns Hopkins. Toàn bộ hoạt động này, từ học phí cao tới mức đáng ngại đến địa điểm học là một “trường vệ tinh”, thay vì tại trường đại học chính, đều phảng phất mùi lừa đảo, nhưng tôi bất cần. Đây là một áp phe giao dịch trắng trợn - cho phép Microsoft đánh thuế vào nhu cầu đang tăng ào ạt của người làm CNTT, còn đám quản lý nhân sự thì giả vờ như một mảnh giấy đắt tiền có thể giúp phân biệt được dân chuyên nghiệp thứ thiệt với bọn bất tài bịp bợm, và những kẻ vô danh như tôi sẽ ghi câu thần chú “John Hopkins” vào lý lịch của mình rồi nhảy lên hàng đầu đường dây tuyển dụng. Ngành công nghệ này vừa phát minh ra cái kiểu chứng nhận đó thì các loại chứng chỉ như thế đã nhanh chóng trở thành một thứ tiêu chuẩn công nghệ. “Chứng chỉ A+” có nghĩa là bạn có thể bảo trì và sửa chữa máy tính. “Chứng chỉ Net+” có nghĩa là bạn có thể xử lý một số việc kết nối mạng cơ bản. Nhưng những chứng nhận này chỉ là những cách để trở thành người làm việc trong bộ phận hỗ trợ khách hàng thôi. Những mảnh giấy đắt giá nhất đều được tập hợp dưới cái tên chung là loạt chứng chỉ chuyên môn của Microsoft (Microsoft Certified Professional). Có chứng chỉ chuyên môn MCP sơ cấp; có chứng chỉ quản trị hệ thống MCSA (Microsoft Certified Systems Administrator) trình độ cao hơn, và tấm giấy chứng nhận uy tín kỹ thuật cao nhất là kỹ sư hệ thống MCSE (Microsoft Certified Systems Engineer). Đây là lá bùa hộ mệnh, là tấm giấy đảm bảo chuyện Ở kiếm cơm. Ở mức thấp nhất của cấp thấp, mức lương khởi điểm của một người có chứng chỉ MCSE là 40.000 đô-la một năm, một khoản tiền mà - vào đầu thiên niên kỷ mới và ở tuổi mười bảy - tôi thấy ngạc nhiên kinh khủng. Nhưng tại sao không? Cổ phiếu Microsoft lúc ấy đang giao dịch với giá trên 100 đô-la, và Bill Gates vừa được mệnh danh là người giàu nhất thế giới. Về chuyên môn kỹ thuật, chứng chỉ MCSE không phải là thứ dễ có nhất, nhưng nó cũng không đòi hỏi những gì mà hầu hết các hacker tự trọng phải coi đó là thiên tài kiệt xuất. Về thời gian và tiền bạc, muốn đeo đuổi chứng chỉ này phải tốn kém không ít. Tôi đã phải qua bảy kỳ thi riêng biệt, mỗi lần thi tốn 150 đô-la, và phải đóng khoảng 18.000 đô-la tiền học phí cho Hopkins cho toàn bộ hệ thống các lớp dự bị, những lớp mà - đúng như chờ đợi - tôi đã bỏ ngang, và chọn cách dự thi lấy chứng chỉ luôn sau khi tôi đã chán ngấy chuyện theo học. Rủi thay, trường Hopkins lại không hoàn trả học phí cho tôi. Với các thời hạn thanh toán khoản vay học phí của tôi đang kéo đến, tôi bây giờ đã có một lý do thực tế hơn để dành thời gian cho Mae: tiền. Tôi xin cô ấy cho tôi thêm giờ làm. Mae đồng ý và yêu cầu tôi bắt đầu làm vào 9 giờ sáng. Đó là một giờ cực kỳ sớm, đặc biệt là đối với một người làm việc tự do, đó là lý do tôi lái xe nhanh vì trễ giờ vào một sáng thứ Ba. Tôi đang nhấn ga trên đường Route 32 dưới bầu trời xanh màu Microsoft, cố gắng không dính vào bất kỳ bẫy tốc độ nào. Với chút may mắn, tôi sẽ đến được nhà Mae vào khoảng 9 giờ 30, và - với cửa sổ quay kính xuống và một bàn tay thò ra ngoài hứng gió - tôi tưởng chừng hôm nay là một ngày may mắn. Tôi đã vặn radio mở to chương trình ý kiến thính giả và đang chờ đợi nghe tin thời sự trong lúc rời khỏi dòng xe cộ. Ngay lúc tôi sắp rẽ sang đường tắt Canine Road để vào Fort Meade thì tôi nghe đài phát bản tin cập nhật về một vụ tai nạn máy bay ở thành phố New York. Mae ra mở cửa và tôi đi theo lên cầu thang, từ lối vào tối lờ mờ đến văn phòng chật chội bên cạnh phòng ngủ của cô. Chẳng có đồ đạc gì nhiều: chỉ có hai cái bàn làm việc của chúng tôi đặt cạnh nhau, một bản vẽ để cô sáng tác, và một cái lồng cho những con sóc của cô. Mặc dù tôi hơi rối trí vì bản tin vừa nghe, chúng tôi còn công việc phải làm. Tôi buộc mình phải tập trung vào trách nhiệm trước mắt. Tôi còn đang mở các tập tin dự án trong một trình soạn thảo văn bản đơn giản - chúng tôi thời đó còn lập trình web bằng tay - thì điện thoại reo. Mae cầm máy. “Cái gì? Thật sao?” Do chúng tôi đang ngồi rất gần nhau, tôi có thể nghe được tiếng nói của chồng cô. Và anh ta đang hét lên. Sắc mặt Mae chuyển sang hoảng hốt, và cô mở một trang web tin tức trên máy tính. Chiếc TV duy nhất trong nhà lại ở tầng dưới. Tôi cũng đang đọc tường thuật trên mạng về chiếc máy bay đâm vào một trong hai tòa tháp đôi của World Trade Center, thì nghe Mae nói, “Rồi. Ôi. Được rồi” và gác máy. Cô quay sang tôi. “Một chiếc máy bay thứ hai vừa đâm vào tháp kia”. Cho đến lúc đó, tôi vẫn tưởng rằng đó là một tai nạn. Mae nói, “Norm nghĩ là họ sẽ đóng cửa căn cứ này”. “Sao, đóng cửa?” tôi nói. “Thật chứ?” Tôi vẫn chưa hình dung được mức độ của những gì vừa xảy ra. Tôi đang suy nghĩ về việc đi lại của mình. “Norm nói cậu nên về nhà. Anh ấy không muốn cậu bị mắc kẹt lại”. Tôi thở dài, và lưu lại công việc chưa kịp bắt đầu. Ngay lúc tôi đứng dậy ra về, điện thoại lại reo, và lần này cuộc trò chuyện còn ngắn hơn nữa. Mae tái nhợt. “Thật không thể tin nổi”. Hỗn loạn, lộn xộn: những hình thức kinh hoàng cổ xưa nhất của chúng ta. Cả hai từ đều nói đến sự sụp đổ của trật tự và sự hoảng loạn ào ra lấp đầy khoảng trống. Chừng nào còn sống thì tôi vẫn còn nhớ mãi cảnh mình tìm đường thối lui ngược lên Canine Road - con đường đi qua sở chỉ huy NSA - sau khi Lầu năm góc bị tấn công. Sự điên loạn tràn ra từ những tòa nhà cao bọc kính đen của cơ quan này, một dòng thác người la hét, điện thoại di động reo vang, và những chiếc ô-tô rồ máy trong bãi đậu xe rồi tranh nhau phóng ra đường. Vào thời điểm xảy ra vụ khủng bố tồi tệ nhất lịch sử Hoa Kỳ, các nhân viên của cơ quan tình báo truyền tin chính yếu của cộng đồng IC Mỹ (NSA) đã bỏ việc cả hàng ngàn người và tôi bị cuốn vào cơn lũ ấy. Giám đốc NSA Michael Hayden đã ra lệnh di tản khi gần như cả nước này còn chưa biết chuyện gì xảy ra. Sau này, NSA và CIA - cũng đã cho tất cả di tản khỏi sở chỉ huy của họ vào ngày 11/9 ngoại trừ một nhóm thiết yếu - lại hay giải thích hành vi của họ bằng cách viện dẫn một mối lo ngại rằng một trong hai cơ quan này có tiềm năng, có khả năng, có thể sẽ là mục tiêu của chiếc máy bay thứ tư và cũng là cuối cùng bị cướp, Chuyến bay 93 của United Airlines, thay vì nói là Nhà Trắng hoặc Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ. Chắc chắn là tôi không hề nghĩ đến những mục tiêu khả dĩ tiếp theo trong lúc tôi nhích từng chút qua rừng xe kẹt, khi ai ai cũng đồng loạt cố lấy xe của mình trong cùng một bãi đậu xe. Tôi đã không nghĩ về điều gì cả. Điều tôi làm vào lúc đó - thời điểm mà bây giờ tôi nhớ lại như một khoảnh khắc cô đúc lại - là ngoan ngoãn đi theo những tràng còi xe náo loạn (tôi không nghĩ là mình đã từng nghe thấy tiếng còi xe trong một cơ sở quân sự Mỹ), rồi những chiếc máy radio lệch pha rú lên tin tức về tòa tháp phía nam của World Trade Center đã sụp đổ trong lúc những người lái xe vừa dùng hai đầu gối điều khiển vô-lăng vừa quýnh quáng bấm vào phím quay số lại trên điện thoại của họ. Bây giờ tôi vẫn còn cảm nhận rõ điều đó - sự trống rỗng hiện hữu mỗi khi cuộc gọi của tôi bị rớt sóng do mạng di động quá tải, và dần dần nhận ra rằng, khi bị cắt lìa khỏi thế giới này và sa vào cảnh kẹt xe chen chúc chật cứng, thì cho dù tôi đang cầm tay lái, tôi cũng chỉ là một khách đi nhờ. Những ngọn đèn tín hiệu trên đường Canine Road nhường chỗ cho con người, lực lượng cảnh sát đặc biệt của NSA, đứng ra điều khiển giao thông. Trong những giờ, những ngày và những tuần kế tiếp, họ sẽ được tăng cường bằng những đoàn xe Humvees trên nóc gắn súng máy, bảo vệ những rào chắn và chốt gác mới. Trong số những biện pháp an ninh mới này, nhiều biện pháp đã trở thành vĩnh viễn, được bổ sung thêm bằng vô vàn cuộn dây thép gai và camera giám sát lắp đặt ào ạt. Với mọi cách bảo vệ như thế, việc tôi quay lại căn cứ này và lái xe ngang qua NSA càng lúc càng khó khăn - cho đến ngày tôi được tuyển vào làm ở đó. Những thứ trang sức như thế của cái gọi là Cuộc chiến chống khủng bố không phải là lý do duy nhất khiến tôi từ bỏ Mae sau ngày 11/9, nhưng chắc chắn là chúng có một vai trò nhất định. Những biến cố ngày hôm đó đã khiến cô bàng hoàng. Theo thời gian, chúng tôi ngừng làm việc chung và dần dần xa cách. Thỉnh thoảng tôi có nói chuyện với Mae, chỉ để thấy rằng cảm xúc của mình đã thay đổi và bản thân tôi cũng thay đổi. Đến khi cô bỏ Norm và chuyển đến California thì cô đã giống như một người xa lạ với tôi. Ngay cả cô cũng hết sức bất bình với cuộc chiến này. ₀O₀ 8 12 tháng Chín HÃY THỬ NHỚ sự kiện gia đình lớn nhất mà bạn đã từng tham gia – có lẽ là một cuộc đoàn tụ gia đình. Có bao nhiêu người ở đó? Có lẽ 30, 50? Dù tất cả họ cùng hợp thành gia đình bạn, có khả năng là bạn không thực sự có cơ hội để biết từng thành viên một. Nhà nhân chủng học Robin Dunbar của Anh đã đưa ra một con số ước tính nổi tiếng, gọi là số Dunbar, về số lượng mối quan hệ mà ta có thể duy trì một cách có ý nghĩa trong cuộc sống; con số đó chỉ là 150. Bây giờ hãy nhớ lại thời đi học. Có bao nhiêu người trong lớp của bạn ở tiểu học, và ở trung học? Bao nhiêu người trong số đó là bạn hữu, và bao nhiêu người khác mà bạn chỉ biết là người quen, và bao nhiêu người khác nữa mà bạn chỉ còn nhớ mặt? Nếu bạn đi học ở Mỹ, cứ tạm cho con số đó là một ngàn. Chắc chắn là con số này sẽ kéo giãn ranh giới của điều mà bạn có thể nói là tất cả “người thân quen của ta” nhưng có khả năng là bạn vẫn cảm thấy có sự gắn bó với họ. Gần ba ngàn người đã chết vào ngày 11/9. Hãy tưởng tượng mọi người bạn yêu thương, mọi người bạn quen biết, thậm chí là mọi người có một cái tên quen thuộc hoặc chỉ là một khuôn mặt quen thuộc - và hãy tưởng tượng họ đã biến mất. Hãy tưởng tượng những ngôi nhà hoang vắng. Hãy tưởng tượng ngôi trường trống vắng, những lớp học trống vắng. Tất cả những người bạn từng sống cùng, và những người đã cùng hợp thành giềng mối cuộc sống hằng ngày của bạn, hoàn toàn không còn tồn tại nữa. Những biến cố của ngày 11/9 đã để lại nhiều lỗ hổng. Lỗ hổng trong gia đình, lỗ hổng trong cộng đồng. Lỗ hổng trên mặt đất. Bây giờ, hãy nghĩ tới điều này: hơn một triệu người đã thiệt mạng trong quá trình phản ứng của Mỹ. Hai thập niên kể từ ngày 11/9 ấy là một chuỗi dài phá hoại của nước Mỹ bằng cách tự hủy hoại nước Mỹ, với việc ban hành các chính sách bí mật, luật lệ bí mật, tòa án bí mật và các cuộc chiến bí mật, mà ảnh hưởng tai hại của việc này - ngay chính sự tồn tại của việc này - thì chính phủ Hoa Kỳ lại không ngừng xếp loại bí mật, không ngừng phủ nhận, chối bỏ, và xuyên tạc. Sau khi trải qua khoảng một nửa thời gian đó làm nhân viên của Cộng đồng tình báo Hoa Kỳ và khoảng nửa thời gian còn lại sống lưu vong, tôi biết rõ hơn hầu hết mọi người rằng các cơ quan này thường xuyên phạm sai lầm như thế nào. Tôi cũng biết việc thu thập và phân tích thông tin tình báo có thể định hình việc sản xuất thông tin đánh lạc hướng và thông tin tuyên truyền như thế nào, và Mỹ thường xuyên sử dụng những biện pháp đó để chống lại cả đồng minh lẫn kẻ thù - và có lúc chống lại chính công dân của mình. Nhưng dù biết thế, tôi vẫn khó mà chấp nhận được ngay chính quy mô và tốc độ của sự thay đổi này. Từ một nước Mỹ vốn cố gắng tự khẳng định bằng sự tôn trọng có cân nhắc và có biểu hiện trước những bất đồng quan điểm, bây giờ lại thành một nhà nước tăng cường an ninh với lực lượng cảnh sát được quân sự hóa đòi hỏi sự tuân thủ, vừa rút súng vừa ban hành cái mệnh lệnh phải hoàn toàn phục tùng đang vang lên ở mọi thành phố: “Không được chống cự”. Đây là lý do mỗi lần tôi cố thấu hiểu những gì xảy ra trong hai thập niên qua thì tôi lại nhớ về tháng Chín ấy - nhớ cái ngày xuất phát điểm ấy và hậu quả tức thì của nó. Nhớ lại mùa thu ấy tức là đối mặt với một sự thật đen tối hơn những lời dối trá đã liên kết Taliban với al-Qaeda và vẽ vời ra kho vũ khí hủy diệt hàng loạt không có thật của Saddam Hussein. Rốt cuộc, điều đó có nghĩa là đương đầu với thực tế là cuộc tàn sát này và những chuyện lộng hành đánh dấu tuổi thành niên của tôi không chỉ được sinh ra trong cơ quan hành pháp và tình báo, mà còn trong tâm tư của mọi người Mỹ, kể cả tôi. Tôi nhớ lại cảnh mình đang cố thoát khỏi đám đông nhân viên gián điệp hoảng loạn chen nhau chạy trốn khỏi Fort Meade ngay khi tòa tháp phía bắc của World Trade Center sụp đổ. Khi đã ra được xa lộ, tôi cố gắng một tay lái xe, một tay nhấn phím điện thoại, gọi bừa cho bất kỳ người nhà nào nhưng không sao kết nối được. Cuối cùng tôi cũng liên lạc được với má tôi, vào giai đoạn này bà đã thôi làm việc ở NSA và đang làm thư ký cho các tòa án liên bang ở Baltimore. Những nơi này, ít ra, cũng không di tản. Giọng nói của má làm tôi sợ, và đột nhiên điều duy nhất quan trọng trên đời này đối với tôi là trấn an bà. “Con không sao. Con đã ra khỏi căn cứ”, tôi nói. “Nhà mình không có ai ở New York phải không?” “Má không biết... Má không biết. Má chưa liên lạc được với bà ngoại”. “Pop đang ở Washington thì phải?” “Có thể ông ngoại đang ở trong Lầu năm góc, má chỉ biết thế”. Nghe thế tôi muốn tắt thở luôn. Đến năm 2001 thì Pop - ông ngoại tôi - đã thôi làm việc ở Lực lượng Tuần duyên và hiện là một viên chức cấp cao của FBI, một trong những người đứng đầu bộ phận hàng không ở đây. Như vậy có nghĩa là ông dành nhiều thời gian trong nhiều tòa nhà cơ quan liên bang trên khắp thủ đô và vùng phụ cận. Tôi chưa kịp nghĩ ra lời trấn an nào thì má tôi nói. “Có ai gọi ở đường dây kia. Có thể là bà ngoại. Má gác máy đây”. Khi má không gọi lại, tôi đã liên tục bấm số máy của bà nhưng không thể kết nối, tôi đành về nhà chờ đợi, ngồi trước chiếc TV mở to oang oang trong lúc tôi liên tục cập nhật các mạng tin tức. Chiếc modem mới dùng đường cáp truyền hình ở nhà đã nhanh chóng chứng tỏ khả năng phục hồi tốt hơn mọi vệ tinh viễn thông và tháp phát sóng đang nghẽn mạch trên cả nước. Má tôi lái xe từ Baltimore về nhà; chuyến xe ì ạch giữa dòng giao thông hoảng loạn. Bà về đến nhà trong nước mắt, nhưng chúng tôi ở trong số những người may mắn. Pop vẫn an toàn. Khi chúng tôi gặp lại ông bà ngoại sau đó, có rất nhiều chuyện để nói - những dự định Giáng sinh, những dự định năm mới - nhưng không hề thấy ai nhắc tới Lầu năm góc và hai tòa tháp World Trade Center. Ngược lại, ba tôi lại kể với tôi một cách sống động về ngày 11/9 của ông. Ba đang ở Sở chỉ huy Tuần duyên khi tòa tháp đôi bị tấn công, thế là ba cùng ba sĩ quan đồng sự rời khỏi văn phòng trong Cục điều hành Tác chiến để tìm một phòng họp có màn hình để họ có thể xem tường thuật tin tức. Một sĩ quan trẻ chạy xuống sảnh, đi ngang qua họ và nói, “Chúng vừa oanh tạc Lầu năm góc”. Thấy vẻ mặt không tin của họ, viên sĩ quan trẻ lặp lại, “Tôi nói nghiêm túc... Chúng vừa oanh tạc Lầu năm góc”. Ba tôi hấp tấp chạy tới khung cửa sổ dài bằng cả bức tường cho phép nhìn thấu tận bên kia sông Potomac, và khoảng hai phần năm tòa nhà Lầu năm góc đang bốc lên cuồn cuộn những đám khói đen dày đặc. Ba càng kể nhiều về hồi ức này thì tôi càng tò mò với câu: “Chúng vừa oanh tạc Lầu năm góc”. Mỗi lần ông kể tới đó, tôi nhớ là mình đã ngẫm nghĩ, “Chúng?” Ai là “chúng”? Nước Mỹ lập tức phân chia thế giới thành “Ta” và “Chúng”, và mọi người hoặc là theo “Ta” hoặc là chống lại “Ta”, như tổng thống Bush đã nói một cách đáng ghi nhớ khi những đống đổ nát vẫn còn âm ỉ cháy. Dân chúng trong khu phố tôi treo những lá cờ Mỹ mới tinh, như thể cho thấy họ chọn phe nào. Mọi người tích trữ những chiếc cốc giấy Dixie màu đỏ, trắng và xanh rồi nhét chúng qua mọi hàng rào lưới mắt cáo trên mọi cầu vượt của mọi xa lộ từ nhà má tôi đến nhà ba tôi, để sắp thành chữ những câu như ĐOÀN KẾT LÀ SỨC MẠNH và HỢP LỰC MÃI KHÔNG QUÊN. Thỉnh thoảng tôi có đến một trường tập bắn và bây giờ bên cạnh những tấm bia cũ, những bảng hồng tâm và hình bóng đen phẳng dẹp, là hình nộm của những người quấn khăn kiểu Ả Rập. Những khẩu súng mòn mỏi chờ đợi bao năm sau lớp kính bụi bặm của tủ trưng bày giờ được đánh dấu ĐÃ BÁN. Người Mỹ cũng xếp hàng để mua điện thoại di động, hy vọng sẽ được báo trước về cuộc tấn công kế tiếp, hoặc ít ra có thể nói lời vĩnh biệt từ trên một chuyến bay bị không tặc chiếm đoạt. Gần một trăm ngàn nhân viên gián điệp quay lại các cơ quan làm việc với ý thức rằng họ đã thất bại trong công việc chính yếu của mình, đó là bảo vệ nước Mỹ. Hãy nghĩ đến cảm giác tội lỗi mà họ đang chịu đựng. Họ có cùng một nỗi tức giận như bao người, nhưng họ cũng cảm thấy có tội. Việc đánh giá những sai lầm của họ có thể để sau. Điều quan trọng nhất ngay lúc này là họ phải tự chuộc lỗi. Trong khi đó, các lãnh đạo của họ lại đang bận rộn vận động xin những nguồn ngân sách đặc biệt và quyền hạn đặc biệt, tận dụng hiểm họa khủng bố này để bành trướng khả năng và chức trách ngoài sức tưởng tượng, không chỉ của công chúng mà của cả những người đóng dấu phê duyệt. Ngày 12 tháng Chín là ngày đầu tiên của một kỷ nguyên mới, mà nước Mỹ đối mặt với một quyết tâm thống nhất, được củng cố bởi ý thức yêu nước mới hồi sinh và thiện chí cùng lòng cảm thông của thế giới. Giờ nhìn lại, đất nước tôi lẽ ra có thể làm được rất nhiều điều với cơ hội này. Nước Mỹ lẽ ra đừng xem khủng bố là một hiện tượng thần học giả định, mà là một tội ác đích thực. Nước Mỹ lẽ ra phải sử dụng khoảnh khắc đoàn kết hiếm hoi này để củng cố các giá trị dân chủ và nuôi dưỡng khả năng phục hồi trong một Cộng đồng toàn cầu hiện đang liên kết. Thay vào đó, nước Mỹ gây chiến. Điều hối tiếc lớn nhất đời tôi là đã ủng hộ quyết định đó một cách mù quáng theo phản xạ. Tôi đã phẫn nộ, phải, nhưng đó chỉ là khởi đầu của một quá trình trong đó cảm xúc đã triệt tiêu những suy xét lý trí. Tôi đã chấp nhận mọi luận điệu được giới truyền thông rao bán như là sự thật, và tôi lặp đi lặp lại những điều đó như thể đang được trả tiền để làm công việc đó. Tôi muốn làm người giải phóng. Tôi muốn giải thoát những người bị áp bức. Tôi ôm ghì lấy cái sự thật được dựng lên vì lợi ích của nhà nước, mà trong lúc bức xúc tôi đã nhầm lẫn với lợi ích của đất nước. Cứ như mọi chính kiến cá nhân nào tôi đã từng có đều bị sụp đổ - tinh thần chống lại định chế của hacker mà tôi tiếp thu trên mạng, và lòng yêu nước phi chính trị mà tôi được thừa hưởng từ ba má, cả hai đều bị xóa khỏi hệ thống của tôi - và tôi đã được khởi động lại thành một một phương tiện báo thù tự nguyện. Điều đau đớn nhất của nỗi nhục này chính là việc phải thừa nhận rằng sự biến đổi đó thật dễ dàng biết bao, và tôi đã chào đón nó thật hăng hái biết bao. Tôi nghĩ là tôi muốn tham gia vào một cái gì đó. Trước biến cố 11/9, tôi đã phân vân về việc nhập ngũ vì thấy điều này có vẻ vô nghĩa, hoặc đúng là nhàm chán. Những người tôi biết từng nhập ngũ đều tòng quân trong trật tự thế giới sau Chiến tranh Lạnh, từ lúc sụp đổ của Bức tường Berlin cho tới các cuộc tấn công năm 2001. Trong khoảng thời gian đó, trùng hợp với tuổi trẻ của tôi, nước Mỹ không có kẻ thù. Đất nước mà tôi lớn lên là siêu cường toàn cầu duy nhất, và mọi thứ dường như đều thịnh vượng và ổn định rồi - ít ra là đối với tôi, hoặc những người như tôi. Không còn biên cương mới nào để chinh phục hay các vấn đề dân sự lớn lao nào để giải quyết, ngoại trừ những vấn đề trên mạng. Các cuộc tấn công ngày 11/9 đã thay đổi tất cả. Rốt cuộc, bây giờ đã có một cuộc chiến. Nhưng các lựa chọn của tôi đều khiến tôi nản lòng. Tôi tưởng là tôi có thể phục vụ đất nước tốt nhất khi ngồi trước thiết bị đầu cuối của một hệ thống mạng, nhưng một công việc CNTT bình thường lại có vẻ quá thoải mái và an toàn trong thế giới mới đầy xung đột bất cân xứng này. Tôi mong là mình có thể làm chuyện gì đó như trong phim hoặc trên TV - những màn “hacker đấu hacker” với hàng hàng máy chủ nháy đèn cảnh báo virus, theo dõi kẻ thù và chặn đứng mọi mưu đồ. Thật không may cho tôi, các cơ quan chính yếu làm công việc đó - NSA, CIA - có yêu cầu tuyển dụng đã quy định rõ từ nửa thế kỷ trước và thường cứng nhắc đòi người ứng tuyển phải có bằng đại học theo truyền thống, tức là cho dù ngành công nghệ xem các tín chỉ cao đẳng AACC của tôi và các chứng chỉ kỹ thuật hệ thống mạng MCSE là chấp nhận được, chính phủ lại không chịu. Tuy nhiên, càng đọc nhiều trên mạng, tôi càng nhận ra thế giới sau ngày 11/9 là một thế giới ngoại lệ. Các cơ quan đã hình thành rất nhiều và rất nhanh, đặc biệt là về mặt kỹ thuật, tới mức những nơi này có khi miễn trừ yêu cầu bằng cấp cho cựu quân nhân. Đó là lúc tôi quyết định nhập ngũ. Bạn có thể nghĩ rằng quyết định của tôi là hợp lý, hoặc là đương nhiên, xét theo lai lịch quân đội của gia đình tôi. Nhưng nó không hợp lý và không đương nhiên. Với việc nhập ngũ, tôi đã nổi loạn chống lại cả cái di sản lâu đời lẫn việc tôi tiếp nối di sản đó - bởi vì sau khi nói chuyện với những người tuyển quân từ mọi binh chủng, tôi quyết định gia nhập lục quân, cái tổ chức có những lãnh đạo mà một số người trong gia đình Lực lượng Tuần duyên của tôi luôn coi là những kẻ điên rồ của quân đội Hoa Kỳ. Khi tôi báo với má, bà khóc mấy ngày liền. Tôi biết tốt nhất là đừng cho ba tôi hay, ông đã nói dứt khoát trong những lần đưa giả thuyết ra bàn luận là tôi đi lính thì chỉ lãng phí tài năng kỹ thuật của tôi mà thôi. Tôi hai mươi tuổi; tôi biết mình đang làm gì. Ngày tôi đi, tôi viết cho ba tôi một lá thư - thư viết tay, chứ không đánh máy - giải thích quyết định của tôi, và luồn dưới khe cửa căn hộ của ông. Thư kết thúc bằng một câu mà tới giờ vẫn khiến tôi mắc cỡ. “Con rất tiếc, thưa ba”, tôi đã viết, “nhưng đây là điều tối cần thiết cho sự phát triển bản thân con”. ₀O₀ 9 Quân trường TÔI NHẬP NGŨ, nói như khẩu hiệu nhà binh, để được trọn vẹn là mình, và cũng vì lục quân không phải là Tuần duyên. Cũng thuận lợi khi tôi đạt điểm khá cao trong các bài thi đầu vào để xét điều kiện được hưởng cơ hội sau khi hoàn thành huấn luyện: trở thành trung sĩ Lực lượng Đặc biệt, theo con đường mà những người tuyển quân gọi là chương trình 18 X-Ray, vốn được thiết kế để bổ sung hàng ngũ cho những đơn vị cơ động nhỏ đang chiến đấu cam go nhất trong các cuộc chiến ngày càng mờ ám và khác biệt của nước Mỹ. Chương trình 18 X-Ray là một khích lệ đáng kể, bởi vì theo truyền thống trước ngày 11/9, tôi sẽ phải tại ngũ rồi mới có cơ may tham dự các khóa học chuyên môn hết sức khắt khe của Lực lượng Đặc biệt. Cơ chế mới hoạt động bằng cách sàng lọc trước các binh sĩ tương lai, xác định ai có trình độ cao nhất về thể lực, trí tuệ, và khả năng học ngôn ngữ - những người có thể đạt yêu cầu - và dùng các điều kiện khích lệ về huấn luyện đặc biệt và thăng cấp nhanh chóng để tuyển mộ những ứng viên triển vọng mà có khả năng sẽ đầu quân nơi khác. Tôi phải bỏ ra vài tháng tập chạy bộ đến lả người để chuẩn bị - tôi có sức khỏe rất tốt nhưng luôn ghét chạy bộ - thì người tuyển quân mới gọi tới báo rằng giấy tờ của tôi đã được duyệt: Tôi được nhận rồi, tôi đã thành công. Tôi là ứng viên đầu tiên mà ông ta từng đăng ký cho chương trình này, và tôi có thể nghe thấy niềm tự hào và vui mừng trong giọng nói ông ta khi ông bảo tôi là xong giai đoạn huấn luyện, rất có thể tôi sẽ được mang lon trung sĩ Truyền tin, Kỹ thuật hoặc Tình báo của Lực lượng Đặc biệt. Rất có thể. Nhưng trước tiên, tôi phải trải qua khóa huấn luyện cơ bản ở Fort Benning, bang Georgia. Xe buýt, máy bay rồi lại xe buýt, tôi luôn ngồi cạnh một anh chàng suốt hành trình từ Maryland xuống Georgia. Anh ta to con như voi, một lực sĩ kềnh càng phải nặng hơn trăm ký là ít. Anh ta nói không ngừng, hết mô tả cách anh ta sẽ tát vào mặt sĩ quan huấn luyện nếu tay sĩ quan này dám chửi rủa anh, lại chuyển sang giới thiệu các chế độ dùng thuốc steroid mà tôi nên theo để tăng cường cơ bắp hữu hiệu nhất. Tôi chắc là anh ta đã nói liên tu bất tận cho đến khi chúng tôi đến khu huấn luyện Sand Hill ở Fort Benning - giờ nhớ lại tôi mới nhận ra khu này tên là Sand Hill (đồi cát) nhưng thực tế chẳng có nhiều cát đến mức đó. ằ Các sĩ quan huấn luyện đón chúng tôi bằng một cơn giận dữ phủ đầu và đặt cho chúng tôi những biệt danh dựa trên những vi phạm đầu tiên và những lỗi lầm nghiêm trọng, như bước xuống xe buýt mà mặc áo hoa hòe sặc sỡ, hay là có cái tên có thể sửa đổi chút ít thành một cái gì đó buồn cười hơn. Chẳng mấy chốc, tôi đã là Snowflake còn anh bạn chung ghế của tôi trở thành Daisy và anh ta chỉ còn biết tức tối nghiến răng chịu đựng - không ai dám siết chặt nắm đấm cả. Khi các sĩ quan huấn luyện thấy Daisy và tôi đã quen nhau rồi, và tôi là đứa nhẹ cân nhất trong trung đội, cao 1,7 mét và nặng 56 kg, còn anh ta nặng cân nhất, họ quyết định tự giải trí bằng cách ghép cặp chúng tôi với nhau càng nhiều càng tốt. Tôi vẫn còn nhớ bài huấn luyện khiêng đồng đội, một bài tập mà bạn phải cõng một đồng đội coi như là bị thương vượt qua một quãng đường dài bằng một sân bóng bằng cách dùng một số phương pháp khác nhau như “kéo cổ”, “lính cứu hỏa” và nhất là cách “bồng cô dâu” rất hài hước. Khi tôi phải cõng Daisy thì bạn không thấy tôi đâu bên dưới tấm thân kềnh càng của anh. Trông cứ như Daisy đang lơ lửng, mặc dù tôi ở bên dưới đang toát mồ hôi và nguyền rủa, căng người cố hất cái mông khổng lồ của anh ta sang phía bên kia vạch đích trước khi tôi gục ngã. Daisy sau đó thường bật cười đứng dậy, nhấc bổng tôi lên quấn quanh cổ anh như chiếc khăn ướt, rồi nhảy lon ton đi tới chằng khác gì đứa trẻ lò cò trong rừng. Người chúng tôi luôn bẩn thỉu và ê ẩm, nhưng sau vài tuần tôi đã có sức khỏe tốt nhất chưa từng thấy. Vóc người nhẹ cân của tôi, ban đầu có vẻ là một tai họa, đã sớm trở thành lợi thế, bởi phần lớn những gì chúng tôi tập luyện là những bài tập trọng lượng cơ thể. Daisy không thể leo dây thừng, trong khi tôi leo thoăn thoắt như con sóc chuột. Anh ta vất vả cố kéo tấm thân kinh khủng của mình lên trên xà ngang cho đủ số lần hít xà đơn tối thiểu, trong khi tôi có thể làm gấp đôi số lần ấy chỉ bằng một cánh tay. Anh ta ráng hít đất chừng năm cái là đổ mồ hôi, trong khi tôi có thể vừa hít đất vừa vỗ tay, hoặc chỉ chống bằng một ngón cái. Khi chúng tôi làm các bài kiểm tra hít đất trong hai phút, họ phải ngăn tôi lại sớm vì đã đạt điểm tối đa. Đi bất kỳ đâu, chúng tôi cũng phải đi theo kiểu duyệt binh - hoặc là chạy. Chúng tôi chạy liên tục. Hàng dặm trước khi ăn, hàng dặm sau khi ăn, xuống những con đường và cánh đồng và quanh đường tập chạy, trong lúc sĩ quan huấn luyện ê a hò dô giữ nhịp: Ta đến sa mạc tràn lan khủng bố