🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Quyết Học Đâu Nhớ Đó Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Peter C. Brown, Henry L. Roediger III, and Mark A. McDaniel BÍ QUYẾT HỌC ĐÂU NHỚ ĐÓ Bản quyền tiếng Việt © Công ty Cổ phần Sách Alpha, 2015 Chia sẻ ebook : http://downloadsach.com/ Follow us on Facebook : https://www.facebook.com/caphebuoitoi https://thuviensach.vn “Trí nhớ là cội nguồn của mọi sự thông thái.” — Aeschylus, Prometheus bị xiềng Lời tựa Phần lớn chúng ta thường tiếp cận quá trình học hỏi theo những cách thức sai lầm. Nghiên cứu thực nghiệm về phương pháp tiếp thu và ghi nhớ đã chỉ ra rằng, hầu hết những gì vẫn được cho là cẩm nang hữu ích về học tập hóa ra lại chỉ làm hao tổn công sức của chúng ta. Ngay cả những người dành phần lớn thời gian của họ để nghiên cứu như các sinh viên cao đẳng hay sinh viên y khoa cũng áp dụng những kỹ năng còn xa mới được gọi là tối ưu. Trong khi đó, ngành khoa học nhận thức, với 125 năm lịch sử nhưng chỉ thực sự phát triển vài năm gần đây, đã khơi mở một viễn cảnh tươi sáng khi đúc rút ra những chiến lược thực chứng ưu việt nhằm thay thế những thói quen nghiên cứu kém hiệu quả song vẫn được chấp nhận và truyền bá rộng rãi, vốn bắt rễ từ lâu vào các học thuyết, giáo điều và cả tiềm thức con người. Song trên tất cả, điều mấu chốt ở đây là những chiến lược học tập hiệu quả nhất đều không thể dựa vào trực giác. Chúng tôi, Henry Roediger và Mark McDaniel, là những nhà khoa học nhận thức đã dành cả sự nghiệp của mình để nghiên cứu về bản chất của trí tuệ. Cùng với cây bút Peter Brown, chúng tôi đã lập thành nhóm tìm hiểu về cách thức vận hành của trí nhớ và khả năng học hỏi, phần lớn là thông qua những câu chuyện có thật về những cá nhân đã thành công trong cuộc chinh phục tri thức và kỹ năng, hơn là chỉ đơn thuần trích dẫn hay tường thuật lại quá trình nghiên cứu. Những dẫn chứng này đã giúp chúng tôi làm https://thuviensach.vn sáng tỏ được tính hiệu quả vượt trội của những nguyên lý học tập được đúc rút từ các công trình nghiên cứu. Cuốn sách này là kết quả từ sự cộng tác của mười một nhà tâm lý học nhận thức. Năm 2002, trong nỗ lực lồng ghép những hiểu biết về phương pháp học tập góp nhặt được trong nghiên cứu tâm lý học nhận thức vào công cuộc giáo dục, tổ chức James S. McDonnell tại thành phố St. Louis, bang Missouri đã trao giải thưởng “Áp dụng tâm lý học nhận thức vào củng cố thực tiễn giáo dục” cho công trình nghiên cứu của Roediger và McDaniel cùng chín học giả khác, trong đó Roediger đóng vai trò chủ đạo. Các cá nhân đã cùng hợp tác trong mười năm với nỗ lực tìm kiếm cũng như khẳng định tiếng nói chung giữa khoa học nhận thức và khoa học giáo dục, và kết quả trực tiếp của công trình đó đã được phản ánh trong nhiều khía cạnh của cuốn sách này. Các nhà nghiên cứu cũng như tác phẩm của họ được trích dẫn trong cuốn sách đều được chú giải rõ ràng. Công trình của Roediger và McDonnell cũng nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà gây quỹ khác, trong đó có Trung tâm Nghiên cứu hợp nhất về Nhận thức và Trí nhớ trực thuộc Đại học Washington, nơi mà McDonnell là đồng giám đốc. Hầu hết các cuốn sách đều thảo luận chủ đề theo từng kỳ, kỳ này một vấn đề, kỳ sau là vấn đề kế tiếp và tuần tự như thế. Không nằm ngoài chiến lược chung đó, mỗi chương của chúng tôi cũng sẽ đề cập đến các vấn đề mới. Tuy nhiên, chúng tôi cũng áp dụng hai nguyên tắc nghiên cứu cơ bản trong cuốn sách này: các ý chính được nhắc lại đều đặn đan xen với các đề tài mới nhưng có liên quan. Sau khi nắm bắt một vấn đề, nếu người học ôn lại vấn đề đó một cách định kỳ, họ sẽ ghi nhớ nó tốt hơn. Tương tự, nếu họ lồng vào quá trình đó các vấn đề mới, việc tiếp thu sẽ dễ dàng hơn là nghiên cứu các vấn đề theo một trình tự đơn thuần. Do đó, chúng tôi không hề do dự khi đề cập đến các ý tưởng chính nhiều hơn một lần, lặp lại các nguyên lý với các ngữ cảnh khác nhau trong toàn bộ cuốn sách. Điều đó sẽ giúp độc giả ghi nhớ lâu hơn cũng như áp dụng chính những nguyên tắc đó hiệu quả hơn. https://thuviensach.vn Với cuốn sách này, ngay từ bây giờ mỗi người chúng ta có thể tự học hỏi tốt hơn và ghi nhớ lâu hơn. Những giáo viên hay người hướng dẫn hoàn toàn có thể thúc đẩy quá trình học hỏi của người học bằng cách giúp họ nắm vững các nguyên tắc và áp dụng chúng vào thực tiễn nghiên cứu. Cuốn sách này không hề đề cập đến vấn đề cải cách các chính sách giáo dục hay hệ thống trường lớp nhưng rõ ràng, điều đó vẫn hàm ẩn bên trong nội dung. Một ví dụ thực tế là các giảng viên tiên phong trong việc áp dụng các nguyên lý này vào giảng dạy đã nghiêm túc thử nghiệm chúng ở chính các sinh viên tiềm năng của mình. Dưới sự dẫn dắt đó, các sinh viên này đã ứng dụng các nguyên tắc trên vào công cuộc rút ngắn khoảng cách dẫn tới những thành tựu khoa học. Và thành quả đạt được thật đáng ngạc nhiên. Chúng tôi dành tặng cuốn sách này cho các sinh viên và cả những giáo viên cũng như cho mọi độc giả, những người luôn coi việc tiếp thu tri thức một cách hiệu quả là ưu tiên hàng đầu. Đó là những người giữ vai trò đào tạo trong các doanh nghiệp, ngành nghề, hay quân đội; những người lãnh đạo trong các tổ chức chuyên nghiệp với vai trò dẫn dắt các thành viên của mình; và cả những huấn luyện viên. Chúng tôi cũng hướng tới những độc giả trung niên và cao tuổi với châm ngôn học tập là sự nghiệp trọn đời. Chừng nào vẫn còn những ẩn số về năng lực học tập đang chờ được giải đáp, chừng đó vẫn còn vô số những nghiên cứu luôn sẵn sàng cung cấp các nguyên tắc và chiến lược thực tiễn có thể áp dụng ngay lập tức, không tốn chi phí mà mang lại hiệu quả tuyệt vời. https://thuviensach.vn Chương 1. Những lầm tưởng về sự tiếp thu Matt Brown phát hiện ra áp suất dầu của động cơ bên phải tụt đột ngột khi đang điều khiển một chiếc phi cơ động cơ hai thì của hãng Cessna trên bầu trời Harlingen, bang Texas. Đó là một trong những năm đầu trong sự nghiệp phi công của ông. Ông đang đơn độc bay xuyên màn đêm ở độ cao 3.353m để vận chuyển một chuyến hàng khẩn cấp cho một nhà máy ở Kentucky. Nhà máy này đã phải tạm ngừng dây chuyền sản xuất để chờ các bộ phận còn thiếu trong quá trình lắp ráp. Ông hạ độ cao và theo dõi đồng hồ đo dầu, hy vọng có thể đến kịp trạm dừng tiếp nhiên liệu ở Lousiana theo kế hoạch, tại đó máy bay có thể được sửa. Nhưng áp suất dầu vẫn tiếp tục sụt. Matt đã xoay xở với các động cơ pít tông từ lúc ông đủ lớn để cầm một cái cờ lê. Nhờ đó ông biết mình thực sự đang gặp rắc rối. Ông liệt kê và lướt nhanh trong đầu một loạt các phương án. Nếu ông để mặc áp suất dầu tụt xuống quá thấp, động cơ sẽ bị kẹt. Liệu ông có thể bay bao xa trước khi chuyện đó xảy ra? Điều gì sẽ xảy ra nếu ông để mất động cơ? Ông có thể giảm tải phía bên cánh phải? Nhưng liệu ông có thể giữ máy bay ở trên không như thế mãi? Ông hồi tưởng lại những giờ phút chịu đựng trên chiếc Cessna 401. Phải, điều tốt nhất bạn có thể làm khi chỉ còn một động cơ là hạ thấp độ cao. Nhưng ông vẫn còn một lô hàng nhẹ cần chở và máy bay sắp cạn nhiên liệu. Ông tắt động cơ đã tàn tạ bên cánh phải, quay cánh quạt nhằm giảm sức kéo, cùng lúc tăng động cơ cánh trái, bay bằng bánh lái đối diện và lê thêm được mười dặm nữa về phía điểm dừng đã định. Thế đấy, ông đã tiếp đất bằng một cú xoay cánh trái rộng, bởi một lý do đơn giản nhưng cực kỳ mấu chốt: thiếu lực cánh phải, cách duy nhất khiến máy bay có đủ lực nâng để duy trì một độ cao thấp trước khi hạ cánh là thực hiện một cú xoay cánh trái. https://thuviensach.vn Trong khi chúng ta không cần thiết phải tường tận từng hành động của Matt thì dĩ nhiên ông phải hiểu rõ hành vi của mình. Và khả năng tự cứu mình thoát khỏi thảm họa của ông đã làm sáng tỏ điều chúng tôi vẫn luôn muốn đề cập đến trong cuốn sách này khi bàn về vấn đề học hỏi: thu thập kiến thức cũng như kỹ năng và lưu giữ chúng trong trí nhớ để sẵn sàng đối phó với những tình huống trong tương lai: bao gồm cả thách thức và cơ hội. Chúng ta có thể có cùng chung ý kiến về một số khía cạnh bất biến khi đề cập đến vấn đề tiếp thu tri thức: Trước hết, quá trình học tập có hiệu quả luôn đòi hỏi sự ghi nhớ. Có như thế kiến thức thu thập được trong hiện tại mới hữu ích trong tương lai. Hai là, việc học hỏi và ghi nhớ cần được duy trì suốt cuộc đời. Chúng ta không thể hoàn tất bậc giáo dục trung học khi chưa nắm vững các tri thức về ngôn ngữ, toán học, khoa học, cũng như xã hội. Thăng tiến trong sự nghiệp lại tiếp tục đòi hỏi ở chúng ta các kỹ năng chuyên môn và kiến thức đại học. Khi giã từ sự nghiệp, chúng ta kiếm tìm vài sở thích mới. Lúc về già lẩm cẩm, chúng ta chuyển đến những ngôi nhà giản đơn và dễ thích nghi hơn. Khả năng tiếp thu tốt sẽ luôn là một lợi thế cho chúng ta trong mọi giai đoạn của cuộc đời. Thứ ba, học hỏi cũng là một kỹ năng đòi hỏi sự trau dồi và những chiến lược hiệu quả nhất nhiều khi lại trái với lẽ thường. ĐỀ XUẤT CỦA CHÚNG TÔI https://thuviensach.vn Có lẽ bạn không đồng tình với chúng tôi ở khía cạnh thứ ba, nhưng hy vọng cuốn sách này sẽ thuyết phục bạn tin vào điều đó. Một số điều dưới đây, không ít thì nhiều, chưa được sắp xếp theo một danh sách tuần tự, nhưng đó là những đề xuất cơ bản hỗ trợ cho lập luận của chúng tôi và sẽ được đề cập đầy đủ hơn trong những chương sau. Kiến thức sẽ trở nên sâu sắc và được lưu giữ lâu hơn chỉ khi có sự nỗ lực trong quá trình hàm thụ. Học hỏi mà dễ dàng thì chẳng khác gì viết chữ trên nền cát, nay còn mai mất. Chúng ta còn yếu kém trong việc đánh giá khi nào chúng ta ở trạng thái tiếp thu tốt nhất và khi nào không. Khi mọi thứ trở nên khó khăn, chậm chạp và kém hiệu quả, chúng ta thường bị thôi thúc chuyển hướng sang các chiến lược tưởng như hữu ích mà không hề biết rằng kết quả thu được từ việc áp dụng những chiến lược đó nhiều khi chỉ mang tính nhất thời. Cho đến nay, đọc lại bài khóa (rereading text) và ôn tập một cách tập trung (massed practice) một kỹ năng hay kiến thức mới là phương pháp học tập vẫn được người học trong mọi lĩnh vực ưu tiên áp dụng. Nhưng kỳ thực đó cũng là một trong những chiến lược kém hiệu quả nhất. Ôn tập một cách tập trung ở đây hàm nghĩa sự lặp lại liên tục, không ngừng, chuyên chú vào một kiến thức duy nhất nhằm khắc sâu nó vào trí nhớ. Đây là phương pháp kiểu “luyện tập-luyện tập-luyện tập” rất kinh điển. Nhồi nhét kiến thức trước kỳ thi là một ví dụ tiêu biểu. Đọc đi đọc lại hay ôn tập không ngừng làm gia tăng cảm giác về sự nhuần nhuyễn, trôi chảy, điều có thể tạm coi là dấu hiệu của sự tinh thông. Nhưng xét đến tính lưu giữ lâu dài và sự thành thạo đích thực thì chiến lược này chỉ làm hao tổn thời gian. https://thuviensach.vn Phương pháp luyện tập thông qua hồi tưởng (retrieval practice) – khơi gợi lại ký ức về sự việc, khái niệm hay sự kiện – là phương pháp hiệu quả hơn nhiều so với đọc lại. Một ví dụ đơn giản là thẻ học thông minh (flashcard). Quá trình hồi tưởng lại tri thức củng cố khả năng ghi nhớ và hạn chế sự quên lãng. Giải một câu đố đơn giản sau khi đọc bài khóa hay nghe thuyết trình thúc đẩy sự lĩnh hội và ghi nhớ tốt hơn nhiều so với xem lại bài giảng hay các ghi chú về buổi thuyết trình. Não bộ không thể được tăng cường bằng các bài tập thể dục như cơ bắp, nhưng các dây thần kinh tham gia vào quá trình xúc tiến sự tiếp thu sẽ được củng cố khi trí nhớ được triệu hồi và kiến thức được ôn tập. Ôn tập theo chu kỳ sẽ loại bỏ khả năng lãng quên, hỗ trợ khả năng gợi nhớ và đặc biệt thiết yếu nếu bạn muốn nắm bắt hay làm chủ kiến thức. Trong một bài tập, khi bạn tạo khoảng cách giữa những lần luyện tập (space out practice) và đối mặt với chút ít căng thẳng giữa những lần cách quãng, hay xen vào đó hai hay nhiều đối tượng luyện tập khác, quá trình gợi nhớ sẽ trở nên khó khăn và tưởng chừng kém hiệu quả hơn. Nhưng những nỗ lực nhằm khắc phục các trở ngại đó sẽ gia tăng sức sống lâu bền cũng như tính linh hoạt ở khả năng ứng dụng thành quả luyện tập trong những tình huống tương lai. Cố gắng giải quyết khó khăn trước khi được chỉ ra giải pháp cũng là một cách học hỏi hiệu quả, bất chấp những sai lầm có thể xảy ra. Có một quan niệm phổ biến rằng kiến thức sẽ được hấp thụ dễ dàng hơn nếu được truyền đạt phù hợp với cách thức lĩnh hội (learning style) của người học, bằng âm thanh hoặc hình ảnh chẳng hạn. Những nghiên cứu thực nghiệm không hề ủng hộ điều đó. Con người phát triển nhiều loại hình trí tuệ để thích nghi với việc học hỏi, và chúng ta sẽ nâng cao khả năng học https://thuviensach.vn hỏi nếu chịu khó mở rộng giới hạn dạng thức truyền đạt, huy động mọi khả năng và nguồn lực, hơn là bó hẹp sự truyền đạt hay trải nghiệm trong những dạng thức mà chúng ta cảm thấy dễ chấp nhận nhất. Khi thành thạo hơn trong việc đúc rút những nguyên lý hay nguyên tắc cơ bản, những điều tạo nên sự khác biệt giữa các loại vấn đề, bạn sẽ thấy bớt phần khó khăn khi phải đưa ra giải pháp đúng đắn trong những tình huống xa lạ. Luyện tập đan xen và lồng ghép nhiều nội dung đa dạng (interleaved and varied practice) sẽ giúp bạn làm chủ kỹ năng hay kiến thức hơn so với luyện tập liên tục và chuyên chú vào một nội dung. Giả dụ, khi bạn đang ôn tập kỹ năng tính toán khối lượng, dung tích, v.v… bạn chen vào đó các kiến thức về hình khối. Điều này sẽ giúp bạn khỏi bối rối khi gặp một bài tập tính toán liên quan đến một dạng hình học nào đó. Một minh họa khác, kết hợp rèn luyện khả năng nhận dạng các loài chim với năng lực cảm thụ các tác phẩm tranh sơn dầu sẽ giúp bạn trau dồi được vốn hiểu biết cả về sự thống nhất giữa các thuộc tính trong cùng một loại thể lẫn sự khác biệt giữa các loại thể, từ đó củng cố kỹ năng phân loại mà rất có thể sau này bạn sẽ cần tới. Tất cả chúng ta đều dễ sa vào những ảo tưởng. Những ảo tưởng này có thể làm thui chột năng lực đánh giá của chúng ta về những gì ta biết và những gì ta có thể làm. Quá trình kiểm tra thẩm định khả năng khái quát của chúng ta về những gì đã học được. Một phi công đang đối mặt với động cơ bị hỏng trong thiết bị mô phỏng điều kiện bay sẽ nhanh chóng phát hiện ra liệu mình có đang thực hiện đúng quy trình sửa chữa hay không. Gần như trong mọi lĩnh vực, người học có thể đạt tới trình độ thông thạo khi họ sử dụng các bài kiểm tra như một công cụ để xác định và khắc phục điểm yếu. https://thuviensach.vn Mọi tri thức mới đều đòi hỏi phải được xây dựng trên nền tảng từ những hiểu biết trước đó. Bạn cần biết làm thế nào để hạ cánh một chiếc máy bay động cơ hai thì với đủ hai động cơ trước khi học cách tiếp đất chỉ với một trong số chúng còn hoạt động. Để học lượng giác, bạn nhất thiết phải nhớ kiến thức về đại số và hình học. Để biết cách đóng tủ, bạn phải thông hiểu đặc tính của gỗ và các vật liệu cấu thành, cũng như cách ráp ván, bào rãnh, phay mặt, làm mộng. Trong một tác phẩm của Gary Larson, tác giả của loạt tranh biếm họa Far Side, một cậu bé với đôi mắt ốc nhồi đã xin phép thầy giáo: “Thưa thầy Oxborne, em có thể xin nghỉ được không ạ? Em không thể nhét thêm bất kỳ thứ gì vào đầu nữa ạ!” Nếu như bạn chỉ học hỏi như một cái máy sao chép nhắc lại kiến thức một cách đơn thuần, đúng là chẳng mấy chốc khả năng tập trung chú ý và lưu giữ thông tin của bạn sẽ tới mức giới hạn. Tuy nhiên, nếu bạn học hỏi với một sự diễn giải tỉ mỉ (elaboration), khả năng tiếp thu của bạn sẽ là vô hạn. Sự diễn giải tỉ mỉ ở đây ám chỉ quá trình chúng ta diễn đạt lại ý nghĩa của những tài liệu mới bằng ngôn ngữ và cách thức của chính mình cũng như quá trình chúng ta liên hệ chúng với những kiến thức bản thân đã có. Bạn càng diễn giải được nhiều mối liên hệ giữa hiểu biết mới với những kiến thức cũ, bạn càng thấu hiểu triệt để vấn đề, những mối liên hệ bạn tự tạo ra sẽ giúp bạn ghi nhớ chúng lâu hơn. Luồng không khí nóng lưu giữ nhiều hơi ẩm hơn không khí lạnh; để liên hệ điều đó với trải nghiệm thực tế của bản thân, bạn có thể liên tưởng tới phần sau điều hòa luôn bị rỏ nước, hay khí trời mùa hè oi bức luôn trở nên mát mẻ sau một cơn giông bất chợt. Sự bay hơi có tác dụng làm mát: hẳn là bạn biết điều này vì bạn cảm thấy nhà người chú ở Atlanta nóng nực hơn vào một ngày trời nồm so với một ngày khô hanh tại nhà người anh họ ở Phoenix, nơi mà bạn phải cất áo len đi ngay cả trước khi da mình kịp dấp dính. Khi nghiên cứu nguyên lý dẫn truyền nhiệt, bạn cảm nhận được sự truyền nhiệt khi làm ấm bàn tay quanh một cốc ca cao nóng, nhìn ra sự bức xạ trong cách mặt trời ẩn đi trong những ngày đông giá, cắt nghĩa sự đối lưu qua tiếng còi cứu https://thuviensach.vn hộ khi chú bạn âm thầm chậm rãi dõi theo bạn qua những con hẻm ưa thích của ông ở Atlanta. Lồng nội dung kiến thức mới vào một ngữ cảnh rộng hơn (larger context) cũng là một phương pháp hàm thụ hữu ích. Càng biết nhiều chuyện bên lề sử sách, bạn càng hiểu thêm nhiều về lịch sử. Và bạn có thể lý giải ý nghĩa của những câu chuyện đó theo càng nhiều cách, ví như nếu kết nối chúng với những hiểu biết của mình về hoài bão con người và số phận éo le, thì câu chuyện đó càng tồn tại lâu dài trong tâm trí bạn. Tương tự, nếu bạn đang cố gắng tìm hiểu một khái niệm trừu tượng, như nguyên lý về mô men động lượng chẳng hạn, sẽ dễ dàng hơn khi bạn đặt nó vào một trạng huống cụ thể mà bạn đã biết, trong trường hợp này là cách một vận động viên trượt băng nghệ thuật tăng vận tốc xoay tròn khi cô xếp tay lên ngực. Khi một cá nhân học cách rút ra các ý tưởng chính từ một tài liệu mới, tổ chức chúng thành một mô hình tư duy giả định (mental model) và liên hệ mô hình đó với những hiểu biết sẵn có, cá nhân đó tỏ ra có lợi thế đặc biệt trong việc lĩnh hội những kỹ năng phức tạp. Mô hình tư duy giả định nói trên là một phương pháp, trong đó người học xây dựng một mô hình tưởng tượng trong đầu về những sự kiện ngoại cảnh. Hãy thử tưởng tượng trong một trận bóng chày, cầu thủ đánh bóng (batter) đang chờ đợi một cú ném. Anh ta gần như không có lấy một giây để đoán định xem liệu đó là một cú ném vòng cung (curveball), cú ném lừa (changeup) hay bất kỳ thứ gì khác. Vậy anh ta sẽ xử trí thế nào? Trong trường hợp này, vài dấu hiệu tinh vi tỏ ra hữu ích: hướng quay, cách ném của người ném bóng (pitcher) hay vòng xoáy của những đường viền nổi trên quả bóng. Một người đánh bóng giỏi sẽ sàng lọc và loại ra các dấu hiệu cảm quan không cần thiết hay gây xao lãng, chỉ tập trung vào sự biến đổi đường ném bóng và nhờ quá trình luyện tập, anh ta có thể xây dựng những mô hình tưởng tượng đặc trưng tương ứng với các nhóm tín hiệu khác nhau về mỗi cách ném bóng. Anh ta sẽ liên https://thuviensach.vn kết các mô hình này với những kiến thức đã có về tư thế đánh bóng, khu vực đập bóng và di chuyển đến đúng điểm đến của bóng. Từ những điều này, anh ta tiếp tục liên hệ tới mô hình về vị trí của các cầu thủ trong đội: nếu có cầu thủ khác ở vị trí số một và số hai, có thể anh ta sẽ hy sinh để nhường lợi thế cho những người chạy gôn (runner). Nếu có hai người đánh bóng ở vị trí số một và số ba và một người bị loại, anh ta sẽ cố gắng để không người chạy gôn nào tiếp theo bị loại (double play) trong khi vẫn đánh được bóng để người chạy gôn về đích và ghi điểm. Mô hình về vị trí các đồng đội lại được liên kết với mô hình vị trí các cầu thủ đội bạn (họ đang ở vị trí cao hay thấp) cũng như kết nối với các tín hiệu xung quanh từ khu vực dành cho các thành viên trong đội (dugout) tới các điểm mốc (base), từ chỗ các huấn luyện viên đến vị trí của anh ta. Trong một cú đánh bóng tuyệt vời, các mảnh ghép đó được ráp nối hoàn hảo: người đánh bóng kết nối được với trái bóng và hướng nó về một lỗ xa gôn, câu giờ cho đồng đội chạy về gôn. Tóm lại, một cầu thủ chuyên nghiệp sẽ loại ra tất cả các chi tiết gây xao lãng ngoại trừ những yếu tố quan trọng nhất quyết định loại đường ném bóng và cách đối phó với từng loại, xây dựng những mô hình tư duy giả định từ các yếu tố đó đồng thời liên hệ các mô hình này với hiểu biết của mình về các nhân tố thiết yếu khác trong một trận đấu phức tạp. Nhờ đó anh ta sẽ có cơ hội ghi điểm tốt hơn so với một cầu thủ thiếu kinh nghiệm, một người không thể cắt nghĩa một khối lượng thông tin khổng lồ và biến đổi liên tục mà anh ta phải xử lý mỗi khi bước lên gôn nhà (plate). Nhiều người tin rằng khả năng tư duy đã được ấn định ngay từ lúc lọt lòng và khả năng bẩm sinh bị giới hạn của họ phải chịu trách nhiệm cho mọi thất bại trước những thử thách về mặt trí tuệ. Nhưng mỗi khi bạn học được thêm một điều mới là bạn đã thay đổi bộ não của mình – nơi lưu giữ lại những gì được sàng lọc từ trải nghiệm của bạn. Chúng ta bắt đầu cuộc đời của mình với món quà của bộ gen sinh học, điều đó không sai. Nhưng cũng không hề sai khi chúng ta trở nên giỏi giang hơn nhờ quá trình học hỏi và phát triển các mô hình tư duy, thứ mang đến cho chúng ta khả năng suy https://thuviensach.vn luận, giải quyết và sáng tạo. Nói một cách khác, ở một mức độ tương đối bất ngờ, các yếu tố hình thành nên năng lực trí tuệ của chúng ta lại nằm ngay trong tầm kiểm soát của chính chúng ta. Thấu triệt được điều đó sẽ giúp bạn nhìn nhận thất bại như một dấu hiệu của nỗ lực cũng như một nguồn thông tin hữu ích – từ đó khơi gợi nhu cầu đào sâu vấn đề hay áp dụng một chiến lược mới. Nhu cầu xác định khi nào việc tiếp thu trở nên khó khăn cũng rất quan trọng. Để vượt qua trình độ hiện tại của chính mình và hướng tới sự tinh thông đích thực, bạn cần hiểu rằng mọi sự đấu tranh và thất bại là thiết yếu, như trong mọi game hành động hay buổi quảng cáo một chiếc BMX mới. Mắc sai lầm và nỗ lực sửa chữa sai lầm chính là nấc thang dẫn tới một trình độ nhận thức cao hơn. CHỨNG CỨ THỰC NGHIỆM TRONG CUỘC ĐỐI ĐẦU VỚI LÝ LUẬN, HỌC THUYẾT VÀ TRỰC GIÁC Phần lớn cách chúng ta cấu trúc nền giáo dục và đào tạo đều dựa trên các lý thuyết được truyền lại. Các lý thuyết được quyết định bởi sự thừa nhận của chúng ta về điều gì có tác động lớn hơn, những hiểu biết rút ra từ kinh nghiệm cá nhân trên tư cách là các giáo viên, huấn luyện viên, sinh viên hay đơn thuần là ý kiến của số đông. Đa phần cách chúng ta nghiên cứu và học hỏi đều là sự pha trộn của các lý luận, học thuyết và trực giác. Nhưng trong khoảng 40 năm trở lại đây và thậm chí có thể còn kéo dài hơn nữa, các nhà tâm lý học nhận thức đã nghiên cứu và xây dựng nên một hệ thống các bằng chứng giúp làm sáng tỏ tác nhân nào trong số các yếu tố kể trên đóng vai trò ảnh hưởng cũng như phát hiện ra các chiến lược mang lại kết quả. Tâm lý học nhận thức là bộ môn khoa học nền tảng tiến hành tìm hiểu về quá trình bộ não của chúng ta làm việc, cũng như thực hiện các nghiên https://thuviensach.vn cứu thực chứng về cách con người nhận thức, ghi nhớ và suy nghĩ. Nhiều ngành khoa học khác cũng tham gia vào lý giải những bí ẩn của quá trình lĩnh hội tri thức. Các nhà tâm lý học phát triển và các nhà giáo dục đều quan tâm tới những lý thuyết về phát triển con người cũng như phương án ứng dụng những lý thuyết này vào quá trình xây dựng các công cụ giáo dục – như các phương pháp kiểm chứng, tổ chức hướng dẫn (đề cương, minh họa dưới dạng đồ thị, v.v…) và nguồn tài liệu cho từng nhóm học viên đặc biệt (chương trình đào tạo dành cho các học viên yếu kém hay các học viên năng khiếu). Các chuyên gia thần kinh học, với việc sử dụng các kỹ thuật và công cụ mới có tính hình tượng, đã đạt được những bước tiến mới trong việc khám phá ra cơ chế hoạt động của não bộ, cơ quan tiền đề quyết định kết quả của quá trình học hỏi. Nhưng chúng ta vẫn còn một chặng đường dài phải trải qua trước khi các nhà thần kinh học có thể đưa ra phương án cải thiện nền giáo dục hiện tại. Vậy mỗi cá nhân phải làm gì để biết chắc rằng chỉ dẫn nào sẽ mang lại kết quả tốt nhất cho sự học hỏi của bản thân khi chúng được áp dụng đúng cách? Luôn hoài nghi là một phương án khôn ngoan. Tìm ra những lời khuyên chẳng có gì là khó, bạn chỉ cần vài cú nhấp chuột. Nhưng không phải mọi chỉ dẫn đều bắt nguồn từ kết quả của những nghiên cứu, nếu không muốn nói là rất ít. Cũng như không phải tất cả những chỉ dẫn đó đều là kết quả của các cuộc điều tra, những nghiên cứu đáp ứng các tiêu chuẩn khoa học, như là các điều kiện giám sát thích hợp để đảm bảo tính khách quan và khái quát. Những nghiên cứu thực chứng tốt nhất, về bản chất, chính là các thí nghiệm: nhà nghiên cứu phát triển một giả thuyết và kiểm chứng nó qua hệ thống các thí nghiệm, những thí nghiệm này phải đáp ứng các tiêu chuẩn ngặt nghèo về cơ cấu và tính khách quan. Trong chương tiếp theo, chúng tôi sẽ đúc kết những phát hiện của một số lượng không nhỏ các nghiên cứu. https://thuviensach.vn Các nghiên cứu này là kết quả của quá trình nghiền ngẫm và xem xét của cả cộng đồng khoa học trước khi được công bố trên các ấn phẩm chuyên ngành. Chúng tôi đã cùng tham gia vào một số công trình khoa học nhưng số đó không nhiều. Những công trình đó, như chúng tôi thường nói, chỉ là nơi đưa ra những lý thuyết thay vì những kết quả có giá trị khoa học. Để thể hiện quan điểm của mình, bên cạnh những thành quả khoa học đã được kiểm chứng, chúng tôi còn viện tới giai thoại về những con người như Matt Brown, những cá nhân mà công việc của họ đòi hỏi sự thông thạo cả về kiến thức lẫn kỹ năng. Những câu chuyện làm dẫn chứng cho các nguyên tắc cơ bản về cách học hỏi và ghi nhớ cũng được chúng tôi sử dụng triệt để. Chúng ta vẫn đang lầm tưởng về sự tiếp thu Hóa ra phần nhiều những gì chúng ta vẫn áp dụng với tư cách người giảng dạy hay người học tập lại không mấy hiệu quả, song chỉ một vài điều chỉnh nhỏ có thể mang lại những thay đổi bất ngờ. Mọi người thường nghĩ nếu như bản thân tiếp xúc với một tài liệu nào đó đủ lâu, ví như một đoạn bài giảng hay một hệ thống các thuật ngữ trong cuốn sách giáo khoa Sinh học lớp 8, họ có thể ghi nhớ chúng. Nhưng điều đó hoàn toàn sai lầm. Thêm nữa, nhiều giáo viên vẫn tin rằng quá trình học tập sẽ hiệu quả hơn nếu như họ khiến nó trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn. Nhưng phần lớn các nghiên cứu lại chỉ ra điều ngược lại: hành trình tiếp thu càng khó khăn, thành quả tiếp thu càng vững chắc. Nhiều giáo viên hay huấn luyện viên vẫn tin rằng cách hiệu quả nhất để thuần thục một kỹ năng mới là tăng cường nắm bắt, tập trung cao độ và lặp lại liên tục chỉ một kỹ năng đơn nhất cho đến khi bạn làm chủ được nó. Điều đó đã bám rễ trong niềm tin của chúng ta, vì chúng ta chỉ thấy thành quả tức thì của việc thực hành một cách tập trung và dồn dập. Nghiên cứu này đã chỉ ra một điều rõ ràng rằng, những thành quả đạt được nhờ phương pháp rèn luyện tập trung chỉ có tính tạm thời và dễ dàng tan biến. https://thuviensach.vn Phát hiện về sự vô ích của việc đọc lại sách giáo khoa đã giội một gáo nước lạnh lên các nhà giáo dục và các học viên, vì đó là chiến lược số một của hầu hết mọi người – trong đó có hơn 80% sinh viên đại học tham gia khảo sát. Bản thân việc đọc lại cũng là nhiệm vụ trọng tâm chiếm phần lớn quỹ thời gian mà chúng ta dành cho việc học tập. Đọc lại gây ra ba tác hại đối với quá trình tiếp thu. Thứ nhất, nó hoàn toàn chỉ tiêu tốn thời gian. Thứ hai, kiến thức thu được từ việc đọc lại không được lưu giữ lâu trong trí nhớ. Thứ ba, việc đọc lại dễ khiến người học rơi vào trạng thái tự lừa dối mình một cách vô thức, nói cách khác họ dễ lầm tưởng rằng bản thân đã nắm bắt được kiến thức trong khi thực sự họ lại chỉ đang học vẹt. Hàng giờ liền chìm đắm trong việc đọc đi đọc lại dường như khá giống với biểu hiện của sự chuyên cần, nhưng khối lượng thời gian dành cho việc học lại không hề quyết định mức độ tinh thông của người học. Bạn chẳng cần phải nhìn đâu xa để tìm những trung tâm giáo dục hoạt động dựa trên quan niệm cho rằng sự tiếp xúc đơn thuần với tần suất lớn và mức độ tập trung cao độ có thể tạo nên tính hiệu quả trong quá trình tiếp thu tri thức. Hãy cùng xem xét trường hợp của Matt Brown, người phi công, trong ví dụ trước đây. Matt Brown đã nắm bắt khối lượng kiến thức đủ để được thừa nhận bởi bất kỳ hãng kinh doanh hàng không nào sẽ thuê ông làm phi công và chúng tôi đã đề nghị ông mô tả toàn bộ quá trình. Người chủ mới đã gửi ông tới tham dự một khóa huấn luyện kéo dài mười giờ mỗi ngày trong mười tám ngày liên tục. Matt gọi đó là phương pháp hướng dẫn “vòi cứu hỏa”. Bảy ngày đầu tiên, mọi thứ chỉ diễn ra trong phòng học. Ông được chỉ dẫn về tất cả các hệ thống của máy bay: điện, nhiên liệu, không khí, v.v…; cơ chế hoạt động và tương tác của các hệ thống này; cũng như các mức độ an toàn – hỏng hóc của chúng dưới tác động của các yếu tố như áp suất, trọng lực, nhiệt độ và vận tốc. Matt được yêu cầu phải sẵn sàng cho việc tuân theo những mệnh lệnh tức thì về 80 “hành vi trí nhớ”. Các hành https://thuviensach.vn động này phải được thực hiện không do dự, không đắn đo để giữ cho máy bay được ổn định trong trường hợp một trong số hàng tá những sự cố bất thình lình có thể xảy ra như áp suất giảm đột ngột, bộ phận thổi ngược bật mở giữa chuyến bay, một động cơ nào đó bị hỏng hóc hay một vụ chập cháy điện. Matt và các bạn đồng học phải dành hàng giờ chăm chú quan sát những hình minh họa trình chiếu PowerPoint, với bộ não gần như tê liệt, về những hệ thống cơ bản của máy bay. Và rồi một điều thú vị đã xảy ra. Matt kể: “Vào khoảng giữa ngày thứ năm, họ chiếu lên màn hình một sơ đồ về hệ thống nhiên liệu, với cảm biến áp suất, van khóa, bơm phụt, đường vòng, v.v... Bạn phải rất chật vật mới có thể tập trung. Sau đó, một người hướng dẫn hỏi chúng tôi: ‘Đã ai trong số các bạn từng gặp trường hợp đèn cảnh báo bộ lọc nhiên liệu của ống phụt bật sáng trong một chuyến bay rồi?’. Một phi công phía bên kia phòng giơ tay. Người hướng dẫn tiếp: ‘Kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đã xảy ra?’ và thoạt nhiên bạn nghĩ, chà, sẽ ra sao nếu người đó là mình? Anh ta đang bay trên độ cao hơn 900m, và sắp sửa mất cả hai động cơ vì đã nạp loại nhiên liệu không có chất chống đông trong khi bộ lọc của máy bay đang tắc nghẽn vì băng tuyết. Bạn dõi theo câu chuyện, và tin tôi đi, các hình vẽ phác họa cứ như có sức sống, bám chặt lấy tâm trí bạn vậy. Nhiên liệu bay thường có thành phần nước, và khi gặp không khí lạnh ở một độ cao nhất định, nước sẽ đông đặc lại, đóng băng và làm tắc đường dẫn. Do đó, bất cứ khi nào nạp nhiên liệu, bạn phải chọn loại tốt và chắc chắn rằng bạn có thể tìm thấy trên xe chở nhiên liệu một ký hiệu cho biết nó có chứa Prist, hoạt chất chống đông. Và nếu như có bất ngờ nhìn thấy đèn cảnh báo bật sáng giữa hành trình bay, bạn phải nhanh chóng hạ thấp độ cao https://thuviensach.vn để xuống vùng không khí ấm hơn.” Sự tiếp thu trở nên mạnh mẽ hơn trong một ngữ cảnh đáng lo ngại, khi mà lý thuyết trừu tượng được cụ thể hóa và cá nhân hóa. Kể từ đó, tính chất của khóa hướng dẫn thay đổi. Mười một ngày sau là sự kết hợp giữa các bài học trên lớp và thực hành trong môi trường mô phỏng bay. Matt đã mô tả một hình thức tham gia chủ động được triển khai tại đây, điều làm gia tăng tính lâu bền của những kiến thức được học. Người phi công phải vật lộn với máy bay của mình để chứng tỏ sự thành thục với những quy trình vận hành tiêu chuẩn, phản xạ trước những tình huống bất ngờ, tập luyện một cách kỷ luật trong sự phối hợp và đảm bảo tính chính xác của những thao tác phải thực hiện trong khoang lái nhằm đối phó với những tình huống này, chính xác như thể đó đã trở thành bộ nhớ vật lý của họ. Môi trường mô phỏng bay cung cấp sự luyện tập có tính gợi nhớ, cũng như sự ngắt quãng, đan xen và đa dạng hóa đối tượng trong quá trình luyện tập. Nó cũng khơi gợi tối đa các thao tác tư duy mà Matt sẽ sử dụng trên cùng một độ cao trong hành trình thật. Trong môi trường mô phỏng, những lý thuyết trừu tượng sẽ được cụ thể hóa và cá nhân hóa. Môi trường này còn là nơi diễn ra một loạt các thí nghiệm, nhờ đó Matt cũng như những người hướng dẫn có thể đánh giá khả năng phán đoán của họ về những điểm mấu chốt mà Matt cần tập trung để đạt tới sự thành thạo. Trong một số trường hợp, như trong môi trường mô phỏng của Matt, các giáo viên và huấn luyện viên có cách tiếp cận riêng tới những kỹ thuật học hỏi hiệu quả. Nhưng trong thực tế, ở một vài lĩnh vực, những kỹ thuật này có xu hướng trở thành ngoại lệ, và những bài giảng kiểu “vòi cứu hỏa” (hay một cách gọi khác tương đương tùy mỗi người) đều nằm trong số đó. https://thuviensach.vn Trong thực tế, những chỉ dẫn thông thường về những điều cần thực hiện đối với sinh viên rõ ràng là sai lầm. Ví dụ như mục các mẹo để học tốt trên trang báo điện tử của Đại học George Mason đưa ra lời khuyên rằng: “Bí quyết để học tập tốt chính là sự nhắc lại; bạn càng đọc lại tài liệu nhiều lần thì khả năng bạn ghi nhớ nó mãi mãi càng cao.” Một lời khuyên khác trên trang báo điện tử của trường Cao đẳng Dartmouth thì cho rằng: “Chỉ cần bạn có ý định ghi nhớ một điều gì đó thì khả năng cao là bạn sẽ làm được.” Mục tin tức phục vụ cộng đồng đăng tải định kỳ trên tờ St. Louis Post Dispatch đã đưa ra chỉ dẫn về học tập với hình minh họa là một cậu bé đang chúi đầu vào cuốn sách của mình. Dòng chú thích viết: “Tập trung. Tập trung vào một và chỉ một vấn đề duy nhất. Lặp lại, lặp lại, lặp lại. Nhắc lại điều bạn cần nhớ có thể giúp khắc sâu nó vào trí óc của bạn.” Niềm tin vào sức mạnh của việc đọc lại, tính chủ định, sự nhắc lại đã trở nên phổ biến, nhưng kỳ thực có những điều bạn không thể ghi nhớ chỉ đơn giản bằng cách nhắc đi nhắc lại nó. Thủ thuật này chỉ có tác dụng khi bạn tra cứu một số điện thoại, lưu giữ trong đầu lúc nhấn phím điện thoại; chứ không giúp ích gì cho việc lưu giữ kiến thức một cách lâu dài. Ví dụ đơn giản sau đây được lấy cảm hứng từ việc tìm kiếm trên Internet (bạn có thể gõ “penny memory test” để tìm kiếm) và kết quả hiện ra hàng tá các bức tranh về một đồng xu bình thường, trong đó chỉ có một là hình ảnh chính xác về đồng xu. Cho dù đã nhìn thấy đồng xu đó rất nhiều lần trong đời, vẫn thật khó để bạn tự tin khẳng định hình ảnh nào là đúng. Tương tự, trong một nghiên cứu mới đây, các cán bộ giảng dạy và sinh viên học tập tại tòa nhà thuộc khoa Tâm lý học trường Đại học California, Los Angeles (UCLA) được yêu cầu xác định vị trí của những chiếc bình cứu hỏa gần văn phòng của họ nhất. Hầu như tất cả đều không vượt qua được bài kiểm tra này. Một giáo sư, người đã công tác tại UCLA 25 năm, quyết định rời khỏi lớp học để tìm xem đâu là bình cứu hỏa có vị trí gần phòng làm việc của ông nhất. Ông phát hiện ra, thật bất ngờ là nó lại được đặt ngay cạnh cánh cửa, chỉ cách nắm đấm cửa mà ông vẫn xoay mỗi lần vào https://thuviensach.vn phòng vài bước chân. Vậy, theo như trường hợp này, sự tiếp xúc có tính lặp đi lặp lại kéo dài liên tục hàng năm trời cũng chẳng giúp ông biết phải lấy bình cứu hỏa gần nhất ở đâu nếu chẳng may thùng rác của ông bốc cháy. Những bằng chứng trước đó Ý tưởng sai lầm rằng quá trình tiếp xúc lặp đi lặp lại sẽ tạo nên sự ghi nhớ được truyền bá thông qua một loạt điều tra diễn ra từ giữa những năm 1960. Giữa lúc đó, Endel Tulving, một nhà tâm lý học tại Đại học Toronto, bắt đầu thí nghiệm khả năng ghi nhớ danh sách liệt kê các từ vựng tiếng Anh thông thường của mọi người. Trong giai đoạn đầu tiên của thí nghiệm, những người tham gia đơn giản chỉ đọc một bản danh sách liệt kê các từ vựng được ghép theo cặp (ví dụ như “ghế - 9”) trong sáu lần mà không hề biết rằng đó là một bài kiểm tra trí nhớ. Trong mỗi cặp, từ đầu tiên luôn là một danh từ. Sau khi đọc danh sách trên sáu lần, họ được thông báo rằng họ sẽ được phát một bảng danh từ mà họ phải ghi nhớ. Đối với một số người, các danh từ này giống hệt các từ họ đã đọc sáu lần trước đó. Đối với một số khác thì không. Tulving đã phát hiện ra một điều đáng lưu ý: quá trình nhận biết các danh từ của hai nhóm không hề khác nhau – theo như phương pháp thống kê, đường cong nhận thức của hai nhóm là đồng nhất. Trực giác đã gợi ý cho họ, nhưng mặt khác sự tiếp xúc trước đó không hề hỗ trợ gì cho sự gợi nhớ về sau. Sự nhắc lại đơn thuần không giúp ích gì cho sự lĩnh hội. Các công trình của rất nhiều nhà nghiên cứu sau đó tiếp tục đào sâu vấn đề rằng liệu sự tiếp xúc liên tục có tính lặp lại hay khoảng thời gian dài lưu giữ kiến thức trong tư duy có đóng góp gì cho quá trình gợi nhớ về sau không. Và các nghiên cứu này đã xác nhận cũng như hoàn thiện phát hiện trước đó rằng, chỉ sự nhắc lại thì không đủ để làm nên trí nhớ dài hạn. https://thuviensach.vn Những kết quả đó đã thôi thúc các nhà nghiên cứu điều tra về lợi ích của việc đọc lại bài giảng. Trong một bài báo đăng trên tạp chí chuyên ngành Tâm lý học giáo dục đương thời, các nhà khoa học tại Đại học Washington đưa ra báo cáo về một loạt các nghiên cứu họ đã thực hiện trong chính trường đại học của mình và tại Đại học Mexico. Mục đích của các công trình này là xác minh tính đúng đắn của quan niệm cho rằng đọc lại là một phương pháp hữu ích giúp nâng cao khả năng đọc hiểu và ghi nhớ các tác phẩm văn xuôi. Như hầu hết các nghiên cứu, những công trình này dựa trên lập trường của các công trình trước. Trong số đó có không ít tác phẩm đã chỉ ra rằng, khi cùng một bài viết được đọc nhiều lần, các suy luận cũng như mối liên kết giữa các chủ đề cùng xu hướng sẽ được thiết lập. Một số khác chỉ đề xuất những lợi ích hết sức khiêm tốn của việc đọc lại. Những lợi ích này nảy sinh trong hai tình huống khác nhau. Trong tình huống thứ nhất, một số sinh viên đọc tài liệu học tập lần thứ nhất và lặp lại ngay lập tức, trong khi đó những người còn lại chỉ đọc một lần. Liền sau đó cả hai nhóm làm một bài kiểm tra. Nhóm đọc lại hai lần đạt kết quả tốt hơn chút ít so với nhóm còn lại. Tuy nhiên, nếu bài kiểm tra bị trì hoãn sau một khoảng thời gian, lợi ích từ việc đọc lại sẽ trở nên mờ nhạt, khi đó cả hai nhóm cho kết quả như nhau. Trong một tình huống khác, một nhóm học viên đọc tài liệu lần thứ nhất và đợi sau ít ngày thì đọc lại lần thứ hai. Nhóm này, những người đã tiến hành phương pháp ngắt quãng trong quá trình đọc, thực hiện bài kiểm tra tốt hơn nhóm không đọc lại. Các thí nghiệm tiếp theo được tiến hành tại Đại học Washington, nhằm tháo gỡ những nút thắt còn bỏ ngỏ từ những nghiên cứu trước đó, cũng như đánh giá lợi ích của việc đọc lại đối với các sinh viên thuộc nhiều trình độ khác nhau, trong một ngữ cảnh tiếp thu cụ thể tương đương với những tình huống vẫn diễn ra trong các lớp học. Tổng cộng 148 sinh viên tham gia đọc năm đoạn văn khác nhau được trích từ sách giáo khoa và tạp chí Scientific American. Các sinh viên này thuộc hai trường đại học khác nhau; một số có kỹ năng đọc khá tốt, một số tương đối kém; một số chỉ đọc tài liệu một lần, https://thuviensach.vn số còn lại đọc hai lần liên tiếp. Sau đó tất cả cùng trả lời các câu hỏi để cho thấy mình đã học được gì và còn nhớ được gì. Trong các thí nghiệm này, việc đọc lại tài liệu nhiều lần liên tục trong một khoảng thời gian ngắn không hề cho thấy nó là phương pháp học tập triển vọng cho cả hai nhóm, ở cả hai trường đại học và trong mọi điều kiện kiểm chứng. Kỳ thực, các nhà nghiên cứu không phát hiện được bất kỳ lợi ích nào của việc đọc lại trong mọi điều kiện. Vậy, kết luận rút ra ở đây là gì? Việc đọc lại văn bản một lần chỉ có ý nghĩa khi có một khoảng cách hợp lý kể từ lần đọc đầu tiên, nhưng đọc lại nhiều lần liên tục trong một khoảng thời gian ngắn chỉ tiêu tốn thời gian mà lợi ích đem lại thì không đáng kể so với các phương pháp hiệu quả hơn mà lại tốn ít thời gian hơn. Nhưng các cuộc khảo sát với những sinh viên cao đẳng lại xác nhận điều mà các giáo sư đã biết trong một thời gian dài: đánh dấu, gạch chân, nghiền ngẫm các ghi chú và văn bản vẫn là những phương thức học tập phổ biến nhất cho đến nay. Những ảo tưởng về sự hiểu biết Nếu việc đọc lại phần nhiều chẳng mang lại hiệu quả thì tại sao phương pháp này vẫn được đông đảo sinh viên ủng hộ? Có thể một phần là do họ không được chỉ dẫn chuẩn xác. Nhưng có một nguyên nhân khác, đòi hỏi sự xem xét tinh vi hơn về điều đã được học thôi thúc các sinh viên sử dụng phương pháp này. Đó cũng là hiện tượng đã được đề cập trong phần trước: việc tài liệu ngày càng trở nên gần gũi và quen thuộc với người học cũng như khả năng đọc hiểu ngày càng nhuần nhuyễn có thể bồi đắp nên trong họ một ảo tưởng về sự tinh thông. Như bất kỳ giáo sư nào cũng sẽ xác nhận, https://thuviensach.vn các sinh viên nỗ lực thâu tóm chính xác từng từ ngữ họ được nghe trong các bài giảng trên lớp, gắng sức chỉ vì lầm tưởng rằng bản chất thật sự của đối tượng nằm trong cú pháp mô tả nó. Thông thuộc từ ngữ ngữ pháp của một bài giảng hay văn bản không hề đồng nhất với việc thông hiểu ý tưởng hàm ẩn trong đó. Song việc đọc lại lại khiến người học ảo tưởng rằng họ đã nắm bắt được những ý tưởng cơ bản. Đừng để bản thân bị lừa phỉnh. Việc bạn có thể nhắc lại các từ ngữ trong văn bản hay trong các ghi chú về bài giảng không phải dấu hiệu cho thấy bạn hiểu ý nghĩa của vấn đề gửi gắm trong đó, hoàn cảnh ứng dụng, cũng như mối liên hệ giữa chúng với những gì bạn đã biết về cùng một chủ đề. Theo kinh nghiệm của một giảng viên đại học, chẳng có gì khác thường khi cô đáp lại tiếng gõ cửa văn phòng và bắt gặp một sinh viên năm nhất đầy lo lắng, mong muốn được thảo luận với cô về kết quả đáng thất vọng trong bài kiểm tra tâm lý học đại cương đầu tiên của cậu. Sao lại có thể như thế được chứ? Cậu đã tham gia mọi buổi học và chuyên cần ghi chú tỉ mỉ từng bài. Cậu cũng đã đọc bài khóa và đánh dấu những đoạn quan trọng. “Vậy cậu chuẩn bị cho bài kiểm tra như thế nào?”, giảng viên hỏi. Thật kỳ lạ, cậu đã rà soát và đánh dấu các ghi chú, nghiền ngẫm chúng và tài liệu được đánh dấu vài lần đến khi cậu thuộc làu làu tất cả. Vậy mà sau từng ấy nỗ lực cậu lại chỉ nhận được một điểm D cho bài kiểm tra? Vậy cậu đã sử dụng hệ thống các khái niệm chính được chốt lại sau mỗi chương để tự kiểm tra lại chưa? Liệu cậu có thể nhìn một khái niệm như tác nhân kích thích có điều kiện (conditioned stimulus) và định nghĩa nó, sau đó ứng dụng nó vào một đoạn văn? Trong khi đọc, cậu đã nghĩ tới việc biến https://thuviensach.vn các ý chính của văn bản thành chuỗi các câu hỏi và cố gắng giải đáp chúng trong quá trình ôn bài sau đó chưa? Chí ít thì cậu cũng đã diễn đạt lại các ý tưởng mấu chốt bằng chính ngôn ngữ của mình, theo cách cậu đã biết chứ? Cậu có cố liên hệ chúng với những hiểu biết cậu đã có hay không? Cậu có tìm kiếm các ví dụ minh họa ngoài bài giảng không? Câu trả lời là không cho tất cả các vấn đề nêu trên. Cậu tự thấy mình là một sinh viên mẫu mực và vô cùng chăm chỉ nhưng kỳ thực cậu không hề biết cách học tập hiệu quả. Ảo tưởng về sự hiểu biết là một ví dụ của sự thiểu năng nhận thức triết học: chúng ta nhận thức được gì về quá trình nhận thức của bản thân. Đánh giá chính xác về những gì bạn biết và không biết là điều vô cùng thiết yếu đối với quá trình ra quyết định. Vấn đề này đã được Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ – Donald Rumsfeld tổng kết rất hay (và có tính dự đoán) trong một bài báo từ năm 2002 với nội dung đánh giá tóm lược tình hình tình báo Mỹ về khả năng Iraq tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt. Ông nói: “Có những hiểu biết đã được nhận thức; đó là những điều chúng ta biết rằng mình biết. Có những ẩn số đã được nhận thức; có thể nói, đó là thứ chúng ta biết rằng mình không biết. Nhưng còn có những điều chưa biết chưa được nhận thức – những điều chúng ta không hề biết rằng mình không biết.” Đó cũng chính là điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây. Chúng tôi muốn các bạn hiểu rằng những sinh viên không tự kiểm tra kiến thức của mình bằng các câu hỏi vấn đáp (hầu hết các sinh viên thường không làm điều này) có xu hướng đánh giá quá cao mức độ tiếp thu của mình đối với các tài liệu học tập. Tại sao ư? Khi họ nghe một bài giảng hay đọc một bài khóa là chuẩn mực của sự rõ ràng, sự dễ dàng trong việc theo dõi những luận điểm sẽ mang lại cho các sinh viên này cảm giác rằng họ đã hiểu thấu https://thuviensach.vn đáo vấn đề và không cần phải học chúng nữa. Nói cách khác, họ không chủ định tìm hiểu điều họ chưa biết; và khi đối mặt với bài kiểm tra, họ nhận thấy bản thân không thể nhớ lại các ý chính hay áp dụng chúng vào một tình huống mới. Giống như vậy, khi họ đọc đi đọc lại các ghi chú về bài giảng và bài khóa cho đến lúc nhuần nhuyễn, sự trôi chảy sẽ mang lại nhận thức giả tạo rằng họ đã thực sự sở hữu nguồn kiến thức thông qua nắm bắt các nội dung, nguyên tắc và hàm ý cơ bản. Họ tự tin rằng bản thân có thể nhớ lại tất cả chỉ trong khoảnh khắc. Kết quả là ngay cả những sinh viên cần mẫn nhất vẫn vấp phải hai nguy cơ: một là kém tiếp thu trong lĩnh vực mình còn yếu và cần nỗ lực đầu tư công sức bổ sung kiến thức hơn nữa; hai là thiên hướng ưu tiên áp dụng những phương thức học tập dễ dẫn tới cảm giác tiếp thu giả tạo. KIẾN THỨC: KHÔNG PHẢI ĐIỀU KIỆN ĐỦ, NHƯNG LÀ ĐIỀU KIỆN CẦN Albert Einstein từng nói “sáng tạo quan trọng hơn hiểu biết” và dường như ý kiến này được phổ biến rộng rãi trong giới sinh viên đại học. Vậy tại sao họ vẫn chưa thực sự thấu triệt tư tưởng này? Nó là hiện thân của một sự thật hiển nhiên và sâu sắc rằng những thành tựu khoa học, xã hội hay kinh tế của chúng ta bắt nguồn từ đâu nếu không phải từ sự sáng tạo? Bên cạnh đó, tích lũy kiến thức giống với một công việc đòi hỏi sự kiên trì, cần mẫn trong khi sáng tạo lại có vẻ thú vị hơn nhiều. Song, tất nhiên sự tách rời hai yếu tố là không đúng. Bạn sẽ không muốn thấy chiếc áo phông in dòng tuyên ngôn đó được mặc trên người vị bác sĩ phẫu thuật thần kinh của mình hay vị cơ trưởng lái chiếc máy bay chở bạn băng qua Thái Bình Dương. Nhưng tuyên ngôn này về cơ bản đã trở nên phổ biến như đòn phản công trước những hệ thống thi cử được quy chuẩn hóa, cùng nỗi quan ngại rằng những bài thi có tính rập khuôn quá thiên về khả năng học thuộc này sẽ khiến chúng ta phải trả giá bằng chính những kỹ năng trình độ cao. Bất https://thuviensach.vn chấp những nguy hiểm khó lường của hệ thống thi cử rập khuôn, điều chúng ta thực sự nên băn khoăn là làm thế nào để trau dồi nguồn tri thức và sức sáng tạo. Thiếu kiến thức, bạn sẽ không có nền tảng phát triển những kỹ năng trình độ cao như phân tích, tổng hợp và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Về điều này, nhà tâm lý học Robert Sternberg và hai đồng nghiệp đã diễn đạt như sau: “Một người không thể áp dụng hiểu biết đã có vào thực tiễn nếu anh ta không biết cách áp dụng.” Sự thành thạo trong bất kể lĩnh vực gì, từ nấu ăn, chơi cờ đến phẫu thuật não, đều là sự bồi đắp dần dần kiến thức, trí tuệ, khả năng nhìn nhận và kỹ năng. Chúng là thành quả của quá trình rèn luyện đa dạng các kỹ năng mới, cũng như của quá trình đấu tranh, suy ngẫm và cả sự rèn luyện trong tư duy. Ghi nhớ các sự kiện cũng giống như tích trữ vật liệu trên công trường để từ đó xây dựng nên ngôi nhà của bạn. Quá trình xây dựng ngôi nhà đòi hỏi không chỉ kiến thức về máy móc và vật liệu mà còn đòi hỏi cả hiểu biết về các khía cạnh như đặc tính chịu lực của thanh dầm hay hệ thống vì kèo mái nhà, hay định luật Bảo toàn và Chuyển hóa Năng lượng mà nhờ đó người chủ ngôi nhà không phải giải quyết vấn đề ẩm ướt do băng tuyết vào sáu tháng sau đó vì ngôi nhà vẫn được giữ ấm trong khi buồng áp mái vẫn lạnh. Sự thông thạo đòi hỏi cả vốn kiến thức lẫn hiểu biết về cách thức áp dụng chính những kiến thức đó. Khi Matt Brown phải đối mặt với quyết định có nên từ bỏ động cơ cánh phải, ông đang ở trong quá trình xem xét vấn đề, và ông cần hồi tưởng lại quy trình bay với một động cơ bị hỏng cũng như khả năng chịu đựng của máy bay. Nhờ đó ông mới có thể dự đoán liệu mình sẽ rơi tự do trong khoảng không hay gắng gượng một cách vô phương cho đến lúc hạ cánh. Trong năm đầu tiên tại trường y, một nhà thần kinh học tương lai phải ghi nhớ toàn bộ hệ thống thần kinh, xương, cơ, xương cánh tay, nếu không, cô sẽ không thể trở thành một nhà thần kinh học. Tất nhiên thành công của cô https://thuviensach.vn một phần dựa vào sự chuyên cần nhưng đó không phải tất cả. Khám phá ra những chiến lược học tập cho phép cô hấp thụ khối lượng tài liệu khổng lồ trong một hạn định thời gian cũng là một yếu tố góp phần vào thành công đó. BÀI KIỂM TRA: THƯỚC ĐO TRÌNH ĐỘ HAY CÔNG CỤ HỌC TẬP? Chắc chắc có nhiều cách để khơi lên nỗi bức xúc của rất nhiều sinh viên và giáo viên hơn là nói về chuyện thi cử. Đặc biệt, sự gia tăng về mức độ quan trọng của hệ thống đánh giá được tiêu chuẩn hóa trong những năm gần đây đã biến thi cử thành cột thu lôi hứng chịu mọi thất vọng về quá trình hiện thực hóa các mục tiêu giáo dục của quốc gia. Các diễn đàn trực tuyến và giới báo chí bị chất vấn dồn dập bởi người đọc. Họ cáo buộc rằng việc đặt trọng tâm vào hệ thống thi cử nặng về học thuộc sẽ phải đánh đổi bằng khả năng làm chủ tình huống và sức sáng tạo; rằng thi cử gia tăng gánh nặng cho sinh viên và cung cấp một thước đo trình độ sai lệch; v.v… Nhưng nếu chúng ta ngừng coi thi cử là một trong những thước đo trình độ học vấn, nếu chỉ coi nó là công cụ hồi tưởng kiến thức từ trong trí nhớ hơn là một công cụ “kiểm tra”, chúng ta sẽ tự mở ra cho mình một khả năng mới: sử dụng việc kiểm tra như một công cụ học tập. Một trong số những phát hiện nổi bật là về tác dụng của sự hồi tưởng một cách chủ động – thông qua các bài kiểm tra – đối với quá trình tăng cường trí nhớ và quá trình gợi nhớ càng hao tổn nỗ lực bao nhiêu thì tác dụng của nó càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Hãy thử cân nhắc giữa mô hình mô phỏng bay và bài thuyết trình PowerPoint, các câu hỏi tự kiểm tra và việc đọc lại. Hành động hồi tưởng lại kiến thức có hai lợi ích to lớn. Một là, nó nhắc cho bạn về điều bạn biết và không biết, từ đó định hướng cho bạn đâu https://thuviensach.vn là điểm bạn còn yếu kém để tập trung trau dồi hoàn thiện. Hai là, gợi nhớ lại những hiểu biết đã có sẽ cho não bạn cơ hội củng cố lại trí nhớ, tăng cường mối liên hệ giữa những gì đã biết với những gì vừa mới biết thêm, trên cơ sở đó giúp cho sự gợi nhớ lại sau này được dễ dàng hơn. Thực vậy, sự gợi nhớ thông qua kiểm tra làm gián đoạn sự quên lãng. Chúng ta thử xem xét bộ môn khoa học tại một lớp 8 thuộc một trường trung học ở Columbia, bang Illinois. Các nhà nghiên cứu đã sắp xếp một phần tài liệu được dàn trải trong suốt khóa học như là đề cương của bài kiểm tra (có phản hồi) chỉ có tính khảo sát và chiếm ba điểm trong toàn học kỳ. Một phần khác của tài liệu không được đề cập đến trong bài kiểm tra nhưng được ôn lại ba lần. Kiến thức nào sẽ dễ dàng được gợi nhớ lại hơn trong bài kiểm tra diễn ra sau đó một tháng? Điểm trung bình của các sinh viên cho tài liệu được đưa vào bài kiểm tra là A- và cho tài liệu không được kiểm tra nhưng được ôn tập là C+. Trong trường hợp của Matt, ngay cả khi ông đã có thâm niên làm việc mười năm như một phi công ở một doanh nghiệp hàng không tương tự, người chủ mới vẫn củng cố kỹ năng thuần thục của ông sáu tháng một lần thông qua một bộ đề thi sát hạch và mô phỏng bay. Điều đó đòi hỏi Matt phải hồi tưởng lại các thông tin và thao tác cần thiết khi kiểm soát máy bay. Như Matt đã chỉ ra, bạn hiếm khi rơi vào một tình huống khẩn cấp, do đó nếu bạn không luyện tập quy trình thực hiện, sẽ rất khó để giữ nó tươi mới trong trí óc bạn. Trong cả hai trường hợp – nghiên cứu trong lớp học và trải nghiệm của Matt Brown trong chương trình cập nhật kiến thức – đều chỉ ra vai trò quan trọng của sự luyện tập thông qua gợi nhớ trong việc giữ cho kiến thức luôn sẵn sàng khi chúng ta cần đến. Sức mạnh của sự luyện tập có tính hồi tưởng sẽ được đề cập đến trong vai trò chủ đề của chương 2. https://thuviensach.vn Những điều cần ghi nhớ Nhìn chung, chúng ta đang xem xét vấn đề tiếp thu tri thức một cách sai lầm và đưa ra những lời khuyên thiếu chuẩn xác cho những người đi sau. Phần nhiều những gì chúng ta vẫn nghĩ là mình đã biết về cách thức học tập được xây dựng dựa trên niềm tin và trực giác chứ không phải từ chính những nghiên cứu thực nghiệm. Những ảo tưởng thâm căn cố đế về sự hiểu biết chỉ khiến chúng ta hoài công nỗ lực thực hiện những phương pháp không mấy hiệu quả. Như sẽ được chi tiết hóa trong chương 3, điều đó đúng với cả những người đã tham gia vào các cuộc điều tra thực nghiệm và trực tiếp nhận thấy các bằng chứng. Ảo tưởng là những nhà thuyết phục đầy quyền lực. Một trong số những thói quen hữu ích nhất mà người học có thể hình thành và bồi đắp cho mình là thường xuyên tự kiểm tra. Thói quen này sẽ giúp tái xác định nhận thức của họ về điều đã biết và chưa biết. Binh nhì Kiley Hunkler, tốt nghiệp năm 2013 tại trường West Point và giành được học bổng Rhodes, cũng là nhân vật chính của chúng tôi trong chương 8, đã sử dụng cụm từ “ngắm góc phương vị” (shooting an azimuth) để mô tả cách cô sử dụng các bài kiểm tra thực hành nhằm củng cố lại khía cạnh kiến thức trọng tâm trong suốt quá trình học tập của mình. Đối với hành trình đường bộ, đó là thuật ngữ chỉ hành động ở một độ cao nhất định, quan sát một vật thể nằm trên đường chân trời ở hướng đang đi tới và điều chỉnh la bàn theo đó để đảm bảo chắc chắn rằng bạn sẽ vẫn dõi theo được vật thể bạn đã chọn trong lúc đi xuyên qua cánh rừng. Tin tốt là giờ đây chúng ta đã có những chiến lược đơn giản và thực tế mà bất cứ ai cũng có thể sử dụng, tại bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời, để học tốt hơn và nhớ lâu hơn: các hình thức luyện tập thông qua hồi tưởng đa dạng như các bài thi khảo sát hay các bài tự kiểm tra; sự rèn luyện ngắt quãng, trong đó đan xen vào các nội dung thực hành khác nhưng có liên quan tới chủ đề hay kỹ năng chủ đạo; nỗ lực tự giải quyết vấn đề trước khi https://thuviensach.vn được chỉ dẫn giải pháp; đúc rút các nguyên lý và nguyên tắc cơ bản khu biệt các dạng thức vấn đề khác nhau; v.v… Trong những chương tiếp theo, chúng tôi sẽ đi sâu vào mô tả từng chiến lược kể trên. Thêm vào đó, tiếp thu là một quá trình có sự lặp lại, đòi hỏi bạn phải xem xét kiến thức đã học trước đó cũng như cập nhật và kết nối chúng với những tri thức mới. Đó cũng là lý do chúng tôi xoay quanh các chủ đề này vài lần trong suốt cuốn sách. Kết thúc chương 8, chúng tôi sẽ tổng kết các lời khuyên và đưa ra ví dụ cụ thể về cách thức ứng dụng các công cụ này vào thực tiễn học tập và làm việc. https://thuviensach.vn Chương 2. Để học hỏi, hãy hồi tưởng! Mike Ebersold gọi đến phòng cấp cứu bệnh viện trong một buổi chiều muộn của năm 2011 để kiểm tra tình hình sức khỏe của một người thợ săn hươu ở Wisconsin. Trước đó, người này được phát hiện đang nằm bất tỉnh trên một cánh đồng ngô. Phần sau đầu anh ta bị chảy máu và có giả thiết cho rằng những người tìm thấy anh ta đã trượt chân trong lúc di chuyển và khiến phần đầu anh va vào vật gì đó. Ebersold là một nhà thần kinh học. Vết thương của người thợ săn khiến một phần não anh ta bị phòi ra ngoài và Ebersold nhận ra đó là một vết đạn. Người thợ săn tỉnh lại trong phòng cấp cứu, nhưng khi được hỏi, anh ta chẳng hề biết gì về việc mình đã bị thương. Sau này, khi thuật lại câu chuyện, Ebersold nói: “Ai đó từ xa đã bắn vào sau đầu người đàn ông, làm rạn hộp sọ và viên đạn găm sâu vào não khoảng 2,5cm. Đó chắc hẳn là một khẩu 12 gauge nhưng từ khoảng cách nào thì có Chúa mới biết. Khoảng cách đó ước chừng cũng tương đối, nếu không viên đạn hẳn đã đi sâu hơn.” Ebersold cao, gầy. Các tiền bối trong gia đình ông có thể kể đến các vị thủ lĩnh Dakota tên Wapasha và những nhà buôn lông thú tên Rocque. Những thương nhân này cư trú ở một phần thung lũng sông Mississippi, nơi sau này anh em nhà Mayo đã xây dựng bệnh viện thực hành nức tiếng của họ. Trong suốt quá trình học tập chính thức của mình, ông đã trải qua bốn năm ở trường cao đẳng, bốn năm tại trường y và bảy năm cho khóa đào tạo chuyên khoa thần kinh. Nền tảng kiến thức cũng như kỹ năng ông lĩnh hội https://thuviensach.vn được tại đó đã được mở rộng và đào sâu thêm nhờ các khóa học y khoa kế tiếp, các buổi thảo luận với đồng nghiệp, cũng như quá trình thực hành tại bệnh viện Mayo và một vài nơi khác. Ông mang trong mình phong thái khiêm tốn đúng chất Trung Tây, trái ngược hẳn với sự nghiệp rực rỡ cùng một danh sách dài các nhân vật nổi tiếng mong được ông trực tiếp điều trị khi mắc bệnh. Khi Tổng thống Ronald Reagan cần được điều trị các chấn thương sau một cú ngã ngựa, Ebersold đã tham gia vào ca phẫu thuật và cả quá trình chăm sóc hậu phẫu. Khi Sheikh Zayed bin Sultan Al Nahyan, Tổng thống của Liên hiệp các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất, cần một ca phục hồi xương sống yêu cầu kỹ thuật tinh vi, Mike Ebersold cùng những người có vẻ như đại diện cho một nửa lực lượng chính phủ và an ninh của đất nước này chuyển đến định cư ở Rochester trong suốt thời gian ông tiến hành các phương pháp chữa trị và giám sát quá trình phục hồi của Tổng thống Zayed. Sau một thời gian dài làm việc ở Mayo, Mike trở về phục vụ tại bệnh viện Wisconsin, vì cảm giác gắn bó và mong muốn tri ân nơi mình đã trải qua những năm tháng học tập đầu tiên. Người thợ săn không may trúng một viên đạn 12 gauge chắc hẳn đã không thể sống sót nếu như Mike không làm việc vào ngày hôm đó. Viên đạn đã xâm nhập vào vùng hộp sọ ngay phía trên một xoang tĩnh mạch lớn, một đường dẫn cấu tạo bởi các mô mềm làm nhiệm vụ dẫn lưu giữa các khoang bên trong não bộ. Khi kiểm tra tình trạng của người thợ săn, từ kinh nghiệm của mình, Ebersold biết rằng khi mổ phanh vết thương, khả năng cao là ông sẽ thấy tĩnh mạch này bị đứt. Như ông đã miêu tả lại: Bạn tự nhủ: “Bệnh nhân này cần được phẫu thuật. Vết thương đã khiến một phần não bộ bị hở. Chúng tôi phải làm sạch vết thương và phục hồi phần đó hết mức có thể, nhưng trong quá trình tiến hành rất có thể chúng tôi sẽ chạm vào tĩnh mạch chủ và sẽ gây ra hậu quả hết sức trầm trọng.” Bạn điểm qua trong đầu một danh sách các khả năng. Bạn cho rằng: “Có thể tôi https://thuviensach.vn cần phải truyền máu cho bệnh nhân này,” nên bạn phải chuẩn bị sẵn một lượng máu. Bạn xem xét các bước, A, B, C và D. Bạn bố trí ê kíp phẫu thuật, báo trước với họ những tình huống có thể gặp phải. Toàn bộ quá trình này, khá giống với thao tác chuẩn bị của một cảnh sát trước khi yêu cầu một tài xế dừng xe. Bạn hiểu những gì được viết trong sách và bạn đã từng thực hành tất cả các bước này. Sau đó bạn tiến vào phòng mổ và ngay lúc này bạn vẫn đang trong trạng thái còn thời gian để suy xét mọi thứ. Bạn nói: “Được thôi, tôi không muốn chỉ đi vào đó và gắp viên đạn ra vì như vậy có thể dẫn đến tình trạng xuất huyết nghiêm trọng. Điều tôi cố gắng làm là tháo gỡ tình thế khó khăn và khai thông mọi thứ. Bởi vậy tôi đã sẵn sàng cho mọi tình huống xấu và sau đó tôi sẽ lấy viên đạn ra.” Hóa ra viên đạn và mảnh xương đã găm vào tĩnh mạch như một cái nút. Một may mắn khác cho người thợ săn. Nếu vết thương không tự bịt vào như thế ngay lúc nạn nhân nằm trên cánh đồng, anh ta sẽ chẳng sống thêm được hai hay ba phút. Khi Ebersold gắp viên đạn và những mảnh xương vỡ, tĩnh mạch được mở nút sẽ khiến máu trào ra. “Trong vòng năm phút, bạn đã mất đến hai đơn vị máu hoặc nhiều hơn nữa và ngay lúc này bạn cần thoát ra khỏi trạng thái suy xét, chuyển sang trạng thái tiến hành các phương án. Các thao tác giờ đây mang tính phản xạ và máy móc. Bạn biết sẽ có hiện tượng chảy máu rất nhiều, bởi thế bạn chỉ có rất ít thời gian. Bạn chỉ đang nghĩ: ‘Tôi phải khâu một đường quanh cơ quan này và nhờ những kinh nghiệm trước đây, tôi biết tôi phải thực hiện điều đó một cách đặc biệt.’” Tĩnh mạch được nhắc đến ở đây, chỉ bằng cỡ ngón tay út của người trưởng thành, với một đoạn dài khoảng 3,8cm bị đứt vài chỗ. Ở hai đầu các vết đứt cần được thắt lại, nhưng đồng thời, ông hiểu rất rõ cấu trúc dẹt https://thuviensach.vn mong manh đó: bạn không thể chỉ đơn giản khâu xung quanh, vì khi bạn thắt nó lại, các mô mềm sẽ vỡ và chỉ khâu sẽ gây rò rỉ. Một cách khẩn trương và máy móc, ông viện đến một kỹ thuật mà ông đã phát minh ra trong sự cấp thiết của những ca phẫu thuật liên quan đến tĩnh mạch trước kia. Ông cắt hai mẩu cơ nhỏ từ phần da người bệnh đã bị phanh ra trong quá trình phẫu thuật, gắn chúng vào vị trí và khâu hai đầu của tĩnh mạch đã bị đứt với chúng. Các nút cơ này đã giúp đóng tĩnh mạch mà không phá hỏng hình dạng tự nhiên hay làm hư hại các mô của nó. Đó là giải pháp Mike đã dạy chính mình – ông nói, bạn sẽ không tìm thấy nó được ghi chép lại ở bất cứ đâu, nhưng thật không quá khi nói rằng lại đến đúng lúc bạn cần nó. Trong khoảng 60 giây diễn ra việc ghép nối, bệnh nhân mất 200ml máu, nhưng khi các nút bịt vào đúng vị trí, máu ngừng chảy. “Một số người không thể chịu được việc đóng kín tĩnh mạch. Họ sẽ bị tăng huyết áp não vì máu không được lưu thông phù hợp. Nhưng bệnh nhân này là một trong số ít người may mắn có thể thích nghi được với điều đó.” Người thợ săn ra viện sau một tuần. Anh ta bị giảm thị lực ngoại biên vài phần nhưng thay vào đó vẫn hồi phục một cách đáng ngạc nhiên sau cuộc chạm trán với tử thần. SUY NGẪM CŨNG LÀ MỘT HÌNH THỨC RÈN LUYỆN Chúng ta có thể rút ra kết luận gì từ câu chuyện về cách học tập và ghi nhớ? Trong thần kinh học (hay trong mọi khía cạnh của đời sống kể từ khi bạn lọt lòng), có một loại hình tiếp thu xuất phát từ sự phản ánh kinh nghiệm cá nhân. Ebersold đã mô tả điều này: Rất nhiều lần, trong khi phẫu thuật, tôi bất ngờ vấp phải một vấn đề nan giải nào đó, khiến tôi trằn trọc suy ngẫm cả đêm về những gì đã xảy ra và những điều tôi có thể làm sau khi về nhà. Như trường hợp một vết khâu cần https://thuviensach.vn cải tiến chẳng hạn. Làm thế nào tôi có thể tạo một nốt kim lớn hơn hay nhỏ hơn bằng mũi kim của mình, hay các mũi khâu có nên gần nhau hơn không? Điều gì sẽ xảy ra nếu như tôi điều chỉnh nó theo cách này hay cách khác? Và vào ngày hôm sau, tôi sẽ kiểm nghiệm xem liệu nó có cải thiện được gì không. Ngay cả khi tôi không có cơ hội làm điều đó, ít nhất tôi cũng đã suy nghĩ về nó, và khi làm vậy tôi không chỉ điểm lại kiến thức tôi đã học được từ những bài giảng hay từ việc quan sát người khác tiến hành phẫu thuật; mà tôi còn bổ sung thêm vào đó những phát hiện của cá nhân mình, những điều tôi đã bỏ lỡ trong quá trình được đào tạo. Suy ngẫm có thể bao hàm một số hoạt động nhận thức có tác dụng củng cố sự tiếp thu: phục hồi trong trí nhớ những kiến thức và sự huấn luyện trước đó, liên kết chúng với những trải nghiệm mới và hình dung trước cũng như diễn tập trong tư duy những tình huống khác bạn có thể gặp trong tương lai. Đó chính là dạng thức suy ngẫm đã thúc đẩy Ebersold thử nghiệm kỹ thuật mới để phục hồi xoang tĩnh mạch sau đầu người bệnh, một kỹ thuật ông đã từng thực hành trong đầu và trong phòng phẫu thuật cho đến khi nó trở thành một quy trình xử lý có tính phản xạ, thứ mà bạn có thể tin tưởng khi máu từ vết thương của người bệnh phun ra với lưu lượng 200ml mỗi phút. Để chắc chắn rằng kiến thức mới sẽ sẵn sàng khi cần đến, Ebersold đã chỉ ra: “bạn ghi nhớ theo danh sách những gì sẽ khiến bạn lo lắng trong một tình huống được đưa ra: bước A, B, C và D, rồi bạn luyện tập chúng. Và đến một lúc nào đó, khi bạn lâm vào một tình huống ngặt nghèo, vấn đề không còn là cân nhắc các bước đi nữa, mà là ngay lập tức thực hiện hành động chính xác như một phản xạ tức thì. “Các thao tác này sẽ không thể trở https://thuviensach.vn thành phản xạ trừ khi bạn liên tục hồi tưởng lại nó. Giống như một tay đua xe đang trong tình thế ngặt nghèo hay một tiền vệ đang di chuyển lắt léo để tránh sự truy cản của đối phương, bạn phải hành động như một phản xạ trước khi kịp có thời gian để suy nghĩ. Nhớ lại và thực hành, lặp đi lặp lại các thao tác này. Điều đó là vô cùng quan trọng.” HIỆU QUẢ CỦA VIỆC KIỂM TRA Một chuỗi hạt không thể thiếu nút thắt. Không có nút thắt thì không có vòng cổ, không có túi xách kết bằng cườm và cũng không có những tấm thảm rực rỡ. Sự hồi tưởng chính là nút thắt của trí nhớ. Lặp đi lặp lại hành động hồi tưởng giúp sắp xếp lại trí nhớ và thêm vào đó những chi tiết móc nối giúp chúng ta nhớ lại nhanh hơn. Ngay từ năm 1885, các nhà tâm lý học đã thí điểm “đường cong quên lãng” và minh họa sinh động về nó. Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng ta nhanh chóng mất tới 70% những gì chúng ta nghe thấy và đọc được. Tiếp đó, quá trình quên lãng bắt đầu giảm tốc, khoảng 30% còn lại mờ nhạt đi một cách chậm dần, nhưng điều rút ra ở đây rõ ràng là: Làm thế nào để chặn đứng quá trình quên lãng mới chính là thách thức trọng tâm trong việc cải thiện phương pháp học tập của chúng ta. Tác dụng của sự hồi tưởng với tư cách một công cụ học tập được giới tâm lý học biết đến dưới dạng tác động của sự kiểm tra. Các loại hình kiểm tra sát hạch phổ biến nhất thường được sử dụng để đánh giá năng lực học tập và xếp lớp tại các trường học, nhưng từ lâu chúng ta vẫn biết rằng hành vi hồi tưởng kiến thức từ trí nhớ có tác dụng hỗ trợ người học nhớ lại kiến thức cũ một cách dễ dàng hơn trong tương lai. Aristotle đã viết trong một https://thuviensach.vn bài luận của ông về trí nhớ: “Luyện đi luyện lại cách nhớ một sự vật sẽ tăng cường trí nhớ.” Francis Bacon và nhà tâm lý học William James cũng từng đề cập đến hiện tượng này. Ngày nay, nhờ các nghiên cứu thực nghiệm mà chúng ta hiểu được rằng luyện tập khả năng hồi tưởng cải thiện kết quả học tập tốt hơn nhiều so với sự tiếp xúc liên tục và lặp lại với các tài liệu nguyên bản. Đó là tác dụng của sự kiểm nghiệm hay còn được biết đến là tác động của sự ôn tập thông qua hồi tưởng. Để phát huy hiệu quả tối đa, sự hồi tưởng phải được lặp đi lặp lại, theo các giai đoạn bị cách quãng; như thế, nó sẽ thúc đẩy chúng ta nỗ lực hơn để nhận thức thấu đáo vấn đề thay vì chỉ đơn thuần mô tả lại một cách vô thức mà không động não. Dường như quá trình lặp lại sự hồi tưởng giúp ký ức được liên kết và sắp xếp lại bằng một hình thức thống nhất trong não bộ, cũng như củng cố và gia tăng những lộ trình tư duy, nhờ đó mà kiến thức có thể được triệu hồi trong tương lai. Trong vài thập kỷ gần đây, các nghiên cứu đã xác nhận điều mà Mike Ebersold cũng như mọi tiền vệ, phi công dày dạn kinh nghiệm và cả những chuyên gia nhắn tin tuổi vị thành niên đều biết nhờ kinh nghiệm của mình rằng quy trình lặp lại sự hồi tưởng có thể ghi dấu kiến thức và kỹ năng trong tư duy của bạn nhiều đến mức chúng trở thành phản xạ: bộ não triển khai hành động trước khi bạn kịp có thời gian để suy nghĩ. Nhưng bất chấp các nghiên cứu và kinh nghiệm cá nhân khẳng định sức mạnh lớn lao của việc kiểm tra như một công cụ học tập, trong mô hình giáo dục truyền thống, các giáo viên và học sinh vẫn hiếm khi ứng dụng các bài sát hạch theo cách đó, những kỹ thuật học hỏi vẫn ít được biết đến và tận dụng. Và có lẽ còn lâu chúng mới được sử dụng đúng cách. https://thuviensach.vn Năm 2010, tờ New York Times đăng tải về một điều tra khoa học. Trong đó, một nhóm sinh viên đọc một đoạn văn bản rồi làm một bài kiểm tra yêu cầu họ nhớ lại những gì họ đã đọc. Kết quả đáng kinh ngạc là những thông tin còn lưu lại sau một tuần của nhóm này nhiều hơn 50% so với nhóm còn lại, bao gồm những sinh viên không bị kiểm tra. Điều đó dường như là một tin vui, nhưng đây là cách rất nhiều bình luận trực tuyến đón nhận nó: “Lại một lần nữa người viết nhầm lẫn giữa sự nhận thức và sự tái hiện thông tin.” “Cá nhân tôi muốn hạn chế tối đa các bài kiểm tra, đặc biệt là để xếp hạng trên lớp. Gồng mình học tập trong một môi trường áp lực chẳng thể giúp gì cho việc lưu giữ kiến thức.” “Chẳng ai cần quan tâm liệu các bài kiểm tra có thể tăng cường khả năng ghi nhớ hay không. Con cái chúng ta không thể gánh thêm bất kỳ bài kiểm tra nào nữa.” Nếu theo bạn sự ghi nhớ không thích hợp với những giải pháp phức tạp thì cũng đừng nói điều đó với nhà thần kinh học. Sự thất vọng của nhiều người về hệ thống thi cử tiêu chuẩn hóa, nặng tính “thăm dò” và chỉ nhắm vào mục đích duy nhất là đánh giá trình độ học vấn là có thể hiểu được; nhưng nó còn khiến chúng ta nhìn nhận sai lệch về kiểm tra, không thấy được kiểm tra là một trong những công cụ học tập tiềm năng sẵn có. Đặt sự tích lũy và ghi nhớ những kiến thức cơ bản vào sự đối lập với sự phát triển khả năng tư duy sáng tạo là một lựa chọn sai lầm. Cả hai đều cần được trau dồi. Hiểu biết sẵn có của người học về một đề tài càng nhiều thì khả năng https://thuviensach.vn sáng tạo của anh ta trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh càng cao. Kiến thức chẳng là gì nếu không có sự khéo léo và sức sáng tạo, nhưng nếu sáng tạo mà thiếu nền tảng kiến thức thì chẳng khác gì xây một ngôi nhà trên một nền móng không vững vàng. KHẢO SÁT TÍNH HIỆU QUẢ CỦA SỰ KIỂM TRA TRONG MÔI TRƯỜNG THÍ NGHIỆM Ý tưởng về tác dụng của các bài kiểm tra được đặt trên nền móng vững chắc từ các nghiên cứu thực nghiệm. Mở đầu là cuộc điều tra quy mô lớn đầu tiên được công bố vào năm 1917. Học sinh ở các lớp 3, 5, 6 và 8 được học những bản tiểu sử vắn tắt trích từ Who’s Who in America1. Theo hướng dẫn, một số em dành nhiều thời gian nghiên cứu và nhẩm thầm nội dung tài liệu. Một số khác chỉ đơn thuần đọc lại và xem xét. Kết thúc quá trình, tất cả các em được yêu cầu viết ra những gì mình còn nhớ. Bài khảo sát trí nhớ được lặp lại sau 3-4 tiếng. Tất cả các nhóm có hành vi nhẩm lại cho kết quả tốt hơn nhóm các em không nhẩm lại mà chỉ xem xét tài liệu. Kết quả tốt nhất thuộc về nhóm dành tới 60% thời gian học vào việc nhẩm lại. Nghiên cứu đáng chú ý thứ hai được công bố vào năm 1939, tiến hành khảo sát 3.000 học sinh lớp 6 trên toàn bang Iowa. Các em được đọc một bài báo 600 từ rồi làm vài bài kiểm tra vào các thời điểm khác nhau trước kỳ thi cuối cùng diễn ra sau đó hai tháng. Thí nghiệm này đưa ra hai kết quả thú vị: bài kiểm tra đầu tiên bị trì hoãn càng lâu thì học sinh càng nhanh quên; và thứ hai, khi một học sinh làm một bài kiểm tra, quá trình quên sẽ gần như ngừng lại và điểm số học sinh đó đạt được trong các bài thi tiếp sau giảm không đáng kể. https://thuviensach.vn Vào khoảng những năm 1940, giới nghiên cứu chuyển hướng quan tâm của mình sang sự lãng quên, và các cuộc khảo sát về tiềm năng ứng dụng việc kiểm tra như một dạng luyện tập có tính khơi gợi trí nhớ cũng như một công cụ học tập không còn được ưu tiên nữa. Việc ứng dụng sự kiểm tra như là một công cụ nghiên cứu cũng cùng chung số phận: vì kiểm tra chặn đứng và “tiêu diệt” sự quên lãng, nên bạn không thể sử dụng nó như thước đo sự quên lãng. Sự hào hứng với những nghiên cứu về tác dụng của các bài kiểm tra lại nổi lên vào năm 1967 với sự ra mắt của một công trình khoa học mới. Các đối tượng nghiên cứu được giao một danh sách gồm 36 từ. Số lượng từ họ học được nhờ lặp lại các bài kiểm tra sau lần tiếp xúc đầu tiên với bản danh sách bằng với số lượng từ họ tiếp thu được nhờ nghiên cứu đơn thuần. Các kết quả này đã chỉ ra rằng, kiểm tra kiến thức có tác dụng ngang ngửa với xem xét vấn đề trong việc hỗ trợ quá trình nhận thức. Điều đó đã thách thức những quan niệm thông thường vẫn được thừa nhận rộng rãi, lôi kéo sự quan tâm của các nhà nghiên cứu quay trở lại với ý tưởng về tiềm năng của kiểm tra như một công cụ học tập và châm ngòi cho một cơn bột phát tức thời trong giới nghiên cứu về tác dụng của các bài kiểm tra. Năm 1978, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, học hành một cách tập trung cao độ (nhồi nhét) mang lại điểm số cao trong một bài kiểm tra tức thì nhưng lại khiến người học nhanh quên hơn so với luyện tập thông qua hồi tưởng. Trong bài sát hạch thứ hai diễn ra hai ngày sau bài sát hạch đầu tiên, những người áp dụng phương pháp học nhồi nhét đã quên tới 50% những gì họ nhớ được trong lần kiểm tra thứ nhất. Trong khi đó con số này chỉ dừng lại ở 13% đối với những người dành lượng thời gian tương tự cho việc luyện tập theo phương pháp hồi tưởng thay vì nhồi nhét đơn thuần. https://thuviensach.vn Một nghiên cứu sau đó lại hướng vào tìm hiểu việc thực hiện các bài kiểm tra nhiều lần có tác động như thế nào tới trí nhớ dài hạn của các đối tượng. Những sinh viên được nghe một câu chuyện có điểm tên 60 vật cụ thể. Những sinh viên được sát hạch lần đầu tiên ngay sau khi nghe nhớ được 53% số lượng vật thể, nhưng con số này giảm xuống chỉ còn 39% trong lần sát hạch tiếp theo diễn ra sau đó một tuần. Mặt khác, một nhóm sinh viên nghiên cứu cùng một tài liệu nhưng không được sát hạch cho đến tận một tuần sau đó. Nhóm này chỉ nhớ được 28%. Vậy, một lần kiểm tra có thể gia tăng khả năng lưu giữ kiến thức tới 11% sau một tuần. Nhưng liệu có mối liên hệ gì giữa tác động của từ ba lần kiểm tra với tác động của một lần kiểm tra? Một nhóm sinh viên khác trải qua ba lần kiểm tra sau sự tiếp xúc ban đầu với tài liệu. Kết quả sau một tuần họ có thể nhớ 53% số vật thể – tương đương với kết quả của bài kiểm tra đầu tiên được thực hiện bởi nhóm chỉ làm một bài kiểm tra. Thật vậy, nhóm sinh viên thực hiện ba lần sát hạch đã “miễn nhiễm” với sự quên lãng so với nhóm làm một bài kiểm tra. Và nhóm làm một bài kiểm tra nhớ được nhiều hơn những sinh viên không bị kiểm tra lần nào ngay sau khi tiếp xúc với tài liệu. Vậy, nhìn chung sự luyện tập có tính hồi tưởng diễn ra nhiều lần cho tác dụng lớn hơn so với chỉ luyện tập một lần, đặc biệt là khi có một khoảng cách giữa các lần kiểm tra. Các nghiên cứu về sau cũng đồng tình với điều này. Trong một cuộc khảo sát khác, các nhà nghiên cứu cho thấy khi một đối tượng bị yêu cầu điền các chữ cái còn thiếu vào một từ, người này sẽ nhớ từ đó tốt hơn. Xem xét một bảng các cặp từ vựng chẳng hạn. Ví dụ như đối với foot-shoe, những người học cặp từ nguyên vẹn có khả năng ghi nhớ thấp hơn so với những người học cặp từ này qua một gợi ý tương đối rõ ràng kiểu foot-s_ _e. Thí nghiệm này mô tả khái niệm mà các nhà nghiên cứu gọi là “tác động phát sinh”. Nỗ lực khiêm tốn nhất cần có để đưa ra câu trả lời từ gợi ý trong lúc học cũng có thể củng cố khả năng ghi nhớ từ được dùng làm đối tượng kiểm tra sau đó (shoe). Một điều thú vị là nghiên cứu này đã mang đến một phát hiện mới. Nếu sự hồi tưởng bị gián đoạn và trì https://thuviensach.vn hoãn bởi 20 cặp từ khác xen vào thì hiệu quả ghi nhớ sẽ cao hơn là tiến hành kiểm tra ngay sau khi học cặp từ đầu tiên. Do đâu mà có hiện tượng đó? Một luận cứ đã gợi ý rằng càng nhiều nỗ lực được huy động để ghi nhớ thì trí nhớ càng được củng cố. Các nhà nghiên cứu bắt đầu băn khoăn liệu thời gian biểu của các bài kiểm tra có ý nghĩa gì không? Câu trả lời là có. Khi sự luyện tập thông qua hồi tưởng bị ngắt quãng và cho phép sự quên lãng xen vào giữa các lần kiểm tra, khả năng kiến thức được lưu giữ dài hạn sẽ cao hơn là khi ta thực hiện luyện tập một cách tập trung và dồn dập. Từ đó các nhà nghiên cứu bắt đầu tìm kiếm cơ hội đưa công trình khảo sát của mình ra khỏi phòng thí nghiệm và vào các lớp học, với chất liệu nghiên cứu chính là các tài liệu vẫn được sử dụng tại các trường học. KHẢO SÁT TÍNH HIỆU QUẢ CỦA SỰ KIỂM TRA TRONG “MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN” Năm 2005, chúng tôi và các đồng nghiệp có cuộc gặp gỡ với Roger Chamberlain, hiệu trưởng một trường trung học ở Columbia, bang Illinois, với một đề xuất. Những tác dụng tích cực của sự luyện tập theo phương thức hồi tưởng đã được mô tả nhiều lần trong các môi trường thí nghiệm có sự kiểm soát, nhưng hầu như chưa từng được áp dụng trong môi trường lớp học thông thường. Liệu ngài hiệu trưởng, các giáo viên, học sinh và phụ huynh của trường Trung học Columbia có sẵn sàng trở thành đối tượng của một nghiên cứu nhằm khảo sát cơ chế tác dụng của các bài kiểm tra trong “môi trường tự nhiên” không? https://thuviensach.vn Chamberlain quan tâm và hứng thú với vấn đề này vì đó không chỉ là vấn đề về việc ghi nhớ. Mục đích của ông là phát triển những phương thức học tập ở trình độ cao hơn – phân tích, tổng hợp và áp dụng vào các em học sinh, như ông vẫn đang thực hiện. Ông cũng chú ý tới các giáo viên, một đội ngũ cán bộ giảng dạy năng động, nhiệt huyết với các giáo trình và phương pháp truyền thụ đa dạng mà ông không hề muốn can thiệp. Mặt khác, kết quả của cuộc nghiên cứu có thể mang tính xây dựng và việc tham gia vào công trình khảo sát này sẽ mang lại các loại bảng thông minh và phím nhấn – những hệ thống trả lời tự động – cho các lớp học của những giáo viên tham gia giữa lúc ngân sách dành cho công nghệ hiện đại ở các lớp học thực sự còn rất hạn chế. Patrice Bain, một giáo viên dạy môn xã hội học lớp 6, rất hào hứng với cuộc thử nghiệm. Đối với các nhà nghiên cứu, cơ hội được làm việc trong các lớp học luôn vô cùng hấp dẫn, các điều kiện mà trường học đặt ra cũng có thể chấp nhận được: việc khảo sát sẽ chỉ xâm phạm ở mức tối thiểu bằng cách tiếp cận các giáo trình, kế hoạch học tập, dạng thức đề thi và phương pháp giảng dạy hiện tại. Các sách giáo khoa khác cũng được sử dụng. Điểm khác biệt duy nhất diễn ra trong lớp học là thỉnh thoảng các bài kiểm tra ngắn được đưa ra. Cuộc khảo sát sẽ diễn ra trong ba học kỳ (một năm rưỡi), thông qua một vài chương trong sách giáo khoa Xã hội học, bao gồm các chủ đề như Ai Cập, Đồng bằng Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại. Dự án chính thức được ra mắt vào năm 2006. Và nó đã tỏ ra là một quyết định đúng đắn. Pooja Agarwal, trợ lý dự án, đã thiết kế riêng một bộ câu hỏi về môn xã hội học cho các lớp 6 tham gia khảo sát. Loạt câu hỏi này sẽ kiểm tra các em học sinh về gần một phần ba kiến thức được truyền đạt bởi giáo viên. Những bài kiểm tra này là “vô thưởng vô phạt” và không có tính quyết định, tức là điểm số của chúng sẽ không ảnh hưởng đến việc xếp loại học https://thuviensach.vn lực. Giáo viên được miễn tham gia vào các bài kiểm tra này để họ không biết phần nào trong tài liệu sẽ xuất hiện trong bài kiểm tra. Vào đầu buổi học sẽ có một bài kiểm tra về kiến thức trong tài liệu mà các em học sinh đã được yêu cầu đọc trước nhưng chưa được đưa ra thảo luận. Bài kiểm tra thứ hai diễn ra vào cuối buổi học, sau khi giáo viên đã truyền đạt trọn vẹn kiến thức của buổi học ngày hôm đó. Và 24 giờ trước bài kiểm tra về toàn chương lại có một bài sát hạch kiểm tra việc ôn tập của học sinh. Vấn đề là, trong bài kiểm tra cuối kỳ, nếu như các em học sinh đạt kết quả tốt hơn với các kiến thức đã xuất hiện trong những bài thi ngắn, thì người ta vẫn có thể lý luận rằng sự tiếp xúc đơn thuần với kiến thức được lặp lại qua các câu hỏi mới chính là nguyên nhân của sự tiếp thu vượt trội chứ không phải sự luyện tập có tính gợi nhớ. Để loại bỏ khả năng này, một số kiến thức không được đưa vào kiểm tra được bố trí xen kẽ cùng với phần kiến thức có trong bộ câu hỏi, dưới dạng những nhận định đơn giản không yêu cầu sự hồi tưởng, kiểu như “Sông Nile có hai nhánh chính: sông Nile trắng và sông Nile xanh.” Các kiến thức được đưa vào bài kiểm tra ngắn tại một số lớp học nhưng tại các lớp còn lại, học sinh chỉ được học lại các kiến thức này. Thời gian cho các bài kiểm tra trong mỗi buổi học chỉ có vài phút. Sau khi giáo viên rời khỏi lớp, Agarwal trình chiếu câu hỏi lên bảng trước cả lớp và đồng thời đọc chúng lên trước các em học sinh. Mỗi trang trình chiếu là một câu hỏi hoặc một nhận định về một sự kiện nào đó dưới dạng lựa chọn kết quả từ nhiều đáp án. Khi một câu hỏi xuất hiện trên một trang trình chiếu, học sinh sẽ sử dụng phím nhấn (một loại điều khiển từ xa cầm tay giống điện thoại di động) để xác nhận lựa chọn của mình: A, B, C hay D. Khi tất cả đã trả lời, đáp án chính xác được đưa ra, cung cấp thông tin phản hồi bao gồm cả nhận xét và sửa lỗi sai. (Mặc dù các giáo viên không có mặt trong những bài kiểm tra kiểu này, nhưng ở những trường hợp thông https://thuviensach.vn thường, các giáo viên giám sát các bài kiểm tra sẽ ngay lập tức thấy được học sinh nắm bắt bài học được đến mức nào và họ sử dụng các kết quả đó để định hướng cho quá trình thảo luận và nghiên cứu sâu hơn.) Các bài kiểm tra kết thúc môn học được các giáo viên đưa ra dưới dạng bài thi tự luận cuối mỗi học kỳ và cả cuối năm học. Các em học sinh đã được học tất cả những kiến thức xuất hiện trong các đề thi này thông qua các bài học thông thường trên lớp do giáo viên hướng dẫn, qua bài tập về nhà, bài tập thực hành, v.v… Ngoài ra, các em còn được kiểm tra ba lần về một phần ba lượng kiến thức trong tài liệu và tiếp xúc với một phần ba còn lại qua học thêm cũng với tần suất ba lần. Lượng kiến thức không được kiểm tra hay xem xét theo cách truyền thống và những gì học sinh đang đọc đã có thể cân bằng. Các kết quả rất thú vị: so với phần kiến thức không được kiểm tra, các em đạt điểm cao hơn ở phần kiến thức đã xuất hiện trong các bài kiểm tra ngắn. Hơn thế, những kiến thức được ôn lại dưới dạng các nhận định về sự kiện có thật nhưng không được sát hạch cũng không cho kết quả tốt hơn so với các kiến thức không được ôn lại. Một lần nữa, kết quả cho thấy việc đọc đơn thuần không mang lại tác dụng gì. Năm 2007, cuộc khảo sát được mở rộng thêm ở môn khoa học tại các lớp 8, trên phạm vi các kiến thức về di truyền học, thuyết tiến hóa và nguyên tử. Với cùng phương thức kiểm tra như trên, các kết quả nhận về cũng ấn tượng theo hướng tương tự. Kết thúc ba học kỳ, điểm trung bình của các học sinh lớp 8 là 79% (C+) cho phần kiến thức không được kiểm tra, so với 92% (A-) cho phần kiến thức xuất hiện trong các lần kiểm tra ngắn. https://thuviensach.vn Các bài kiểm tra cho thấy hiệu quả ở kỳ thi cuối năm diễn ra sau đó tám tháng như một sự xác nhận cho rất nhiều những nghiên cứu trong môi trường thí nghiệm trước đó về lợi ích lâu dài của sự luyện tập theo phương pháp hồi tưởng. Không nghi ngờ gì nữa, hiệu quả sẽ cao hơn khi sự luyện tập này được tiếp tục và duy trì trong các tháng giữa quá trình, chẳng hạn như một lần mỗi tháng. Kết luận rút ra từ các nghiên cứu đó đã củng cố thêm cho lòng nhiệt huyết của các giáo viên trường Trung học Columbia. Một thời gian dài sau khi ngừng tham gia vào cuộc khảo sát, môn xã hội học lớp 6 của Patrice Bain vẫn tiếp diễn hằng ngày theo đúng lịch trình gồm các bài kiểm tra trước và sau buổi học cùng một bài sát hạch ôn lại trước khi bước vào bài kiểm tra cho toàn chương. Một giáo viên Lịch sử lớp 8 không tham gia vào cuộc khảo sát, Joh Wehrenberg, đã liên kết mô hình luyện tập thông qua hồi tưởng với lớp học của mình dưới nhiều hình thức, trong đó có cả kiểm tra, cũng như cung cấp các công cụ trực tuyến khác trên trang mạng của mình, như thẻ ghi nhớ thông tin hay các trò chơi. Chẳng hạn, sau khi đọc các đoạn văn về lịch sử chiếm hữu nô lệ, các học sinh của ông được yêu cầu viết ra 10 sự kiện về sự nô dịch mà các em chưa hề biết cho đến khi đọc sách. Như vậy bạn chẳng cần đến các công cụ điện tử hiện đại để luyện tập sự hồi tưởng. Bảy học sinh lớp 6 và lớp 7 cần nâng cao kỹ năng đọc hiểu đã tham dự lớp học tiếng Anh của Michelle Spivey. Các em đang đọc một câu chuyện thú vị trong cuốn sách đọc hiểu. Mỗi học sinh được mời đọc to một đoạn. Khi một học sinh bị vấp, cô Spivey sẽ yêu cầu em đó đọc lại. Khi em học sinh đã đọc đúng, cô kiểm tra cả lớp bằng cách yêu cầu các em giải thích ý nghĩa của văn bản và những diễn biến trong tư duy của các nhân vật. Chỉ có sự tham gia của gợi nhớ và diễn giải sâu thêm; lại một lần nữa công nghệ không cần thiết. https://thuviensach.vn Các bài kiểm tra trong thí nghiệm được thực hiện ở trường Trung học Columbia không hề khó. Kết thúc quá trình nghiên cứu, quan điểm của các học sinh về vấn đề này cũng được khảo sát. 64% học sinh cho hay các bài kiểm tra làm giảm nhẹ sự căng thẳng của các em về bài thi sau mỗi chương và 89% các em cảm nhận được sự cải thiện trong việc tiếp thu kiến thức. Các em bộc lộ sự thất vọng trong những buổi học không có sự tham gia của phím nhấn, vì hoạt động này khá thú vị và phá tan không khí nhàm chán của các bài giảng. Khi được phỏng vấn về kết quả nghiên cứu, hiệu trưởng Chamberlain chỉ trả lời đơn giản: “Phương pháp luyện tập có tính gợi nhớ có tác động quan trọng lên quá trình tiếp thu của trẻ. Điều đó khiến chúng tôi nhận thức được giá trị to lớn của phương pháp này cũng như khuyến khích các giáo viên liên kết nó với những kỹ thuật giảng dạy của họ.” Liệu phương pháp này có hiệu quả tương tự với những đối tượng ở lứa tuổi lớn hơn? Andrew Sobel là giáo viên trong một lớp kinh tế chính trị quốc tế tại Đại học Washington ở St. Louis. Đó là một khóa học dành cho khoảng 160 đến 170 sinh viên, hầu hết là sinh viên năm nhất và năm hai. Sau vài năm ông nhận thấy ngày càng nhiều sinh viên vắng mặt ở giảng đường. Trong một buổi lên lớp bất kỳ giữa học kỳ, 25-35% sinh viên vắng mặt, trong khi vào các buổi học đầu kỳ, con số này có thể chỉ là 10%. Ông cho hay, đây không phải là vấn đề của riêng lớp ông. Rất nhiều các giảng viên cung cấp tài liệu trình chiếu cho sinh viên, nên họ ngừng lên lớp. Sobel ngăn chặn điều đó bằng cách thu lại tài liệu của mình, nhưng dẫu vậy thì đến gần cuối kỳ, nhiều sinh viên vẫn nghỉ học. Kế hoạch học tập của mỗi lớp bao gồm https://thuviensach.vn hai bài thi chính, một bài thi giữa kỳ và một bài thi cuối kỳ. Sobel đã thay thế hai bài thi quan trọng này bằng chín bài kiểm tra bất chợt với hy vọng sẽ làm gia tăng số lượng sinh viên đến lớp. Các sinh viên rất nên tham dự đầy đủ các buổi học vì các bài kiểm tra không được báo trước này sẽ quyết định xếp loại cho cả khóa học. Kết quả thật đáng buồn. Qua một học kỳ, một phần ba hoặc hơn thế số sinh viên xin bảo lưu. “Theo những nhận xét về quá trình giảng dạy thì tôi thực sự bị tẩy chay,” Sobel kể. “Lũ trẻ ghét điều đó. Nếu chúng không làm tốt bài kiểm tra, thay vì chỉ nhận một điểm xấu, chúng sẽ không thể qua môn. Đối với những sinh viên phải học lại, tôi nhận thấy sự phân chia rõ ràng giữa những người thực sự tham gia lớp học và học tập, và những người không làm điều đó. Tôi thấy mình đưa ra những điểm A+, điều tôi chưa bao giờ làm trước đây, và điểm C cũng nhiều hơn.” Từng ấy kết quả trái ngược với mong đợi không cho ông lựa chọn nào khác ngoài việc chấm dứt thí nghiệm và quay trở lại với khuôn mẫu cũ, những bài giảng với hai bài thi giữa kỳ và cuối kỳ. Tuy nhiên, vài năm sau đó, sau khi nghe một bài thuyết trình về lợi ích của các bài kiểm tra với quá trình học tập, ông đã đưa thêm một bài thi chính thứ ba vào kỳ học để kiểm nghiệm tác động của nó lên sự tiếp thu của sinh viên. Họ tiếp thu tốt hơn, nhưng không nhiều như ông hy vọng và vấn đề bỏ học vẫn tiếp diễn. Ông xoay xở và thay đổi kế hoạch học tập một lần nữa. Lần này ông thông báo rằng sẽ có chín bài kiểm tra trong suốt học kỳ đồng thời thông báo luôn thời gian sẽ diễn ra đối với từng bài. Không kiểm tra bất chợt, không thi giữa kỳ và cuối kỳ, vì ông không muốn phí thời gian giảng bài. https://thuviensach.vn Trái với nỗi lo rằng số lượng sinh viên ghi danh vào lớp học sẽ sụt giảm thảm hại một lần nữa, kỳ thực con số này lại tăng nhẹ. “Không giống như những bài kiểm tra bất chợt mà lũ trẻ ghét cay ghét đắng, những bài kiểm tra này đều được quy định trước trong bản kế hoạch học tập. Nếu các sinh viên bỏ lỡ bài kiểm tra thì đó là lỗi của chúng. Chúng thấy thoải mái với điều đó.” Sobel hài lòng khi thấy số lượng sinh viên lên lớp tăng đáng kể. “Chúng sẽ vắng mặt vào một số buổi không có bài kiểm tra, đặc biệt là vào học kỳ mùa xuân, nhưng chúng sẽ tham dự các buổi kiểm tra.” Giống như khóa học, những bài kiểm tra cũng có tính tích lũy và những câu hỏi cũng tương tự như trong các bài thi trước đây ông đưa ra, nhưng chất lượng bài kiểm tra trước thời điểm giữa kỳ tốt hơn nhiều so với những gì trước kia ông nhận được cho bài thi giữa kỳ. Sau năm năm áp dụng hình thức mới, ông thực sự thừa nhận nó. “Chất lượng các buổi thảo luận trên lớp tăng. Tôi nhận thấy sự thay đổi lớn trong các bài luận. Tất cả chỉ nhờ việc thay đổi từ ba bài thi thành chín bài kiểm tra.” Trước khi kỳ học kết thúc, ông thu thập các đoạn văn viết về các khái niệm được trình bày trên lớp, đôi khi là một bài luận cả trang và chất lượng có thể sánh với những gì ông thu được ở các lớp trình độ cao hơn. “Ai cũng có thể tự thiết kế cấu trúc này. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng, tôi đã có thể truyền thụ cho sinh viên nhiều kiến thức hơn nếu tôi thực hiện nó từ nhiều năm trước. Điều thú vị khi áp dụng chiến lược kiểm tra là giờ đây tôi đã nhận ra nó cũng hiệu quả như tôi nghĩ về khả năng giảng dạy của chính mình vậy. Hoạt động giảng dạy của tôi chỉ là một bộ phận cấu thành sự tiếp thu của sinh viên, và còn rất nhiều điều phải làm với cách tôi cơ cấu nó, thậm chí có thể còn nhiều hơn thế.” Trong khi đó, số lượng sinh viên ghi danh vào lớp học của ông đã lên tới 185 người và vẫn còn tiếp tục gia tăng. https://thuviensach.vn KHÁM PHÁ CÁC SẮC THÁI Ví dụ về Andy Sobel là một giai thoại và gần như chỉ phản ánh được một loạt những ảnh hưởng có lợi, đặc biệt là những hiệu quả có tính tích lũy. Đó là những hiệu quả được tích tụ lại như lợi ích cộng dồn khi kiến thức trong khóa học được dẫn truyền theo một hình thức kiểm tra xuyên suốt toàn bộ học kỳ. Tuy nhiên, kinh nghiệm của ông phù hợp với các nghiên cứu thực nghiệm được thiết kế để tách biệt những tác dụng và sắc thái của sự kiểm tra. Ví dụ, trong một thí nghiệm, các sinh viên cao đẳng tiến hành nghiên cứu các tài liệu về nhiều chủ đề khoa học, sau đó họ tham gia vào một bài kiểm tra trí nhớ ngay sau khi tiếp xúc với tài liệu hoặc sau khi ôn lại tài liệu. Sau hai ngày, những sinh viên làm bài kiểm tra đầu tiên nhớ được nhiều hơn so với những người chỉ đơn thuần ôn lại tài liệu (68% so với 54%). Sau một tuần khoảng cách này vẫn được duy trì (56% so với 42%). Một thí nghiệm khác đã cho thấy rằng, sau một tuần nhóm sinh viên chỉ nghiên cứu tài liệu quên những gì ban đầu họ đã nhớ được với tỷ lệ cao nhất là 52%, trong khi đối với những sinh viên thuộc nhóm trải qua bài kiểm tra, con số này chỉ là 10%. Việc đưa ra phản hồi nhằm sửa chữa những đáp án sai cho các câu hỏi trong bài kiểm tra có ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu của người học như thế nào? Các nghiên cứu cho thấy thông tin phản hồi sẽ giúp củng cố việc lưu giữ kiến thức nhiều hơn là chỉ thực hiện kiểm tra đơn thuần. Và, một điều thú vị hơn nữa là một vài chứng cứ còn chỉ ra rằng, trì hoãn quá trình đưa ra phản hồi cho kết quả tiếp thu tốt hơn so với phản hồi ngay lập tức. Khám phá này dường như trái ngược với những gì chúng ta thường thấy nhưng nó lại thống nhất với phát hiện của các nhà nghiên cứu về cách https://thuviensach.vn chúng ta học các bài tập vận động, như thực hiện một cú đẩy bóng lên rổ ở gần hay đánh quả bóng gôn về phía một bãi cỏ ở xa. Đối với quá trình nắm bắt các kỹ năng vận động, sự thử nghiệm có sai sót kết hợp với sự trì hoãn các phản hồi là một phương pháp có vẻ kỳ lạ nhưng lại hiệu quả hơn là thử nghiệm và sửa chữa thông qua phản hồi ngay lập tức. Phản hồi tức thì có thể được hình dung như những chiếc bánh phụ ở một chiếc xe đạp: người học sẽ nhanh chóng trở nên phụ thuộc vào sự điều chỉnh liên tục trong suốt quá trình. Trong trường hợp áp dụng với các kỹ năng vận động, một lý thuyết cho rằng khi một phản hồi được đưa ra thì ngay lập tức, nó sẽ trở thành một phần của bài tập, bởi vậy, trong một thực tế diễn ra sau đó, sự thiếu vắng thông tin phản hồi sẽ tạo ra một chỗ trống trong mô hình đã được thiết lập, từ đó cản trở quá trình thực hiện. Một ý kiến khác lại cho rằng sự ngắt quãng thường xuyên của phản hồi tạo nên tính biến thiên cho các giai đoạn học tập, ngăn cản sự thiết lập một mô hình triển khai cố định. Trong lớp học, chậm trễ đưa ra thông tin phản hồi cũng mang đến hiệu quả tiếp thu tốt hơn việc ngay lập tức đưa ra nhận xét. Trong trường hợp của các sinh viên nghiên cứu tài liệu về các đề tài khoa học, một số được xem lại tài liệu ngay khi họ được yêu cầu trả lời các câu hỏi liên quan. Việc này thực sự cung cấp cho họ sự phản hồi liên tục ngay trong bài kiểm tra, tương tự như khi họ làm một bài kiểm tra được tham khảo tài liệu. Một nhóm khác làm bài kiểm tra mà không được sử dụng tài liệu và họ chỉ được xem lại tài liệu cũng như được hướng dẫn xem xét các đáp án sau khi quá trình kiểm tra đã kết thúc. Tất nhiên, nhóm sinh viên sử dụng tài liệu đạt kết quả cao nhất trong bài kiểm tra này, nhưng những người nhận thông tin phản hồi chỉnh sửa sau khi hoàn tất bài kiểm tra lưu giữ kiến thức tốt hơn trong bài kiểm tra lần sau. Thông tin phản hồi chậm trễ trong các bài thi viết có thể hữu ích vì nó mang đến cho người học sự luyện tập bị ngắt quãng, https://thuviensach.vn một phương pháp cải thiện khả năng duy trì kiến thức sẽ được thảo luận trong chương kế tiếp. Phải chăng một số phương thức luyện tập thông qua gợi nhớ cho hiệu quả tiếp thu lâu dài hơn các phương thức khác? Các bài kiểm tra đòi hỏi người học cung cấp đáp án, kiểu như một bài luận, một bài kiểm tra yêu cầu các câu trả lời ngắn hay bài tập đơn giản với các thẻ từ vựng đều có vẻ hiệu quả hơn những bài kiểm tra yêu cầu nhận thức đơn giản như lựa chọn đáp án đúng trong nhiều phương án cho sẵn hay chọn đúng/sai. Tuy nhiên, ngay cả dạng bài lựa chọn đáp án đúng, như các bài kiểm tra được sử dụng tại trường Trung học Columbia, cũng mang lại lợi ích to lớn. Trong khi nhìn chung bất kỳ dạng thức luyện tập có tính hồi tưởng nào cũng có tác dụng tốt với sự tiếp thu thì dường như ở đây có một gợi ý rằng dạng luyện tập nào đòi hỏi nhiều nỗ lực nhận thức hơn sẽ cho hiệu quả lưu giữ kiến thức tốt hơn. Phương pháp luyện tập có tính hồi tưởng đã được đầu tư nghiên cứu trong những năm gần đây, và những nghiên cứu này đều phân tích rằng trong một lớp học, ngay cả một bài kiểm tra đơn lẻ cũng có thể mang lại sự cải thiện lớn về điểm số của bài thi cuối kỳ, cũng như lợi ích đối với việc học tập gia tăng tỷ lệ thuận với số lượng các bài kiểm tra. Bất kỳ khi nào một lý thuyết khoa học chỉ ra quá trình lặp lại sự hồi tưởng có thể củng cố trí nhớ ra sao thì các nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy hiệu quả của quá trình đó là có thật: hành vi phục hồi lại một ký ức tác động đến trí nhớ, khiến quá trình khơi gợi lại chính ký ức đó trở nên dễ dàng hơn trong tương lai. Với vai trò là một phương pháp học tập, luyện tập có tính hồi tưởng được ứng dụng rộng rãi ra sao? Một cuộc khảo sát cho thấy phần lớn các sinh viên đại học không nhận thức được tác dụng của phương pháp này. https://thuviensach.vn Trong một cuộc khảo sát khác, chỉ 11% sinh viên cho biết họ có sử dụng nó. Ngay cả khi thực hiện báo cáo về quá trình tự kiểm tra, hầu hết các sinh viên đều nói mục đích của họ là tìm ra điều bản thân chưa biết, từ đó họ có thể học được nhiều điều hơn từ tài liệu. Đó là một cách hoàn toàn hợp lý trong việc vận dụng các bài kiểm tra nhưng rất ít người trong số họ nhận ra rằng chính sự hồi tưởng là nhân tố tạo ra sự ghi nhớ tốt hơn. Phải chăng các bài kiểm tra được lặp lại chỉ đơn giản là động lực thúc đẩy việc học vẹt? Trên thực tế, các nghiên cứu chỉ ra rằng, so với việc đọc lại đơn thuần, các bài kiểm tra hỗ trợ tốt hơn cho quá trình liên hệ kiến thức với những ngữ cảnh và vấn đề mới, đồng thời giúp người học cải thiện khả năng ghi nhớ và khôi phục lại các kiến thức liên quan dù kiến thức đó không được kiểm tra. Điểm này cần được nghiên cứu sâu hơn, song dường như sự luyện tập có tính hồi tưởng có thể khiến thông tin trở nên dễ tiếp cận hơn khi ta cần tới chúng trong những tình huống khác nhau. Liệu các bạn sinh viên có duy trì phương pháp kiểm tra như một công cụ học tập? Nhìn chung họ thường không thích ý tưởng về các bài kiểm tra và cũng chẳng khó để nhận ra lý do, đặc biệt là đối với các bài thi có tính quyết định như bài thi giữa kỳ hay cuối kỳ, khi mà điểm số đi cùng những hệ quả quan trọng. Nhưng trong mọi nghiên cứu về thái độ của các bạn sinh viên với chế độ kiểm tra vào cuối học kỳ, những sinh viên được kiểm tra thường xuyên đánh giá mức độ yêu thích đối với khóa học của họ cao hơn so với những người tham dự các bài kiểm tra kém thường xuyên hơn. Những người hay thực hiện các bài kiểm tra tiếp thu được tối đa lượng kiến thức khi kết thúc học kỳ và không cần phải học nhồi nhét trước các kỳ thi. Việc làm một bài kiểm tra có tác động như thế nào đến quá trình học tập diễn ra sau đó? Sau một kỳ thi, các sinh viên dành nhiều thời gian hơn để https://thuviensach.vn ôn tập lại kiến thức bị bỏ lỡ và họ học được nhiều hơn từ đó so với các bạn đồng học khác, những người chỉ ôn tập mà không sát hạch lại kiến thức đó. Những sinh viên chú trọng vào việc đọc lại trong chiến lược học tập của mình mà không đề cao sự tự kiểm tra tỏ ra quá tự tin vào kiến thức của mình. Những sinh viên đã được kiểm tra có lợi thế gấp đôi so với những người còn lại: họ có nhận định chính xác hơn về những gì mình biết và không biết, đồng thời họ có thể củng cố những hiểu biết đã tích lũy được từ sự tập luyện có tính gợi nhớ. Liệu có còn những lợi ích khác, gián tiếp và sâu xa hơn của việc thường xuyên tiến hành những bài kiểm tra trên lớp học mà không tính điểm? Bên cạnh tác dụng củng cố khả năng tiếp thu và ghi nhớ, hình thức kiểm tra này còn cải thiện tình trạng đến lớp của sinh viên. Nó khiến các bạn sinh viên nghiên cứu nhiều hơn trước mỗi buổi học (vì họ biết họ sẽ bị kiểm tra), gia tăng số lượng sinh viên trong mỗi buổi học (trường hợp có bài kiểm tra cuối buổi) và cho phép sinh viên xác định được họ đã học được những gì và họ phải tập trung ôn lại kiến thức ở phần nào. Đó là liều thuốc hóa giải cho sự lầm tưởng thứ được gọi là thuộc mặt chữ, kết quả của việc đọc đi đọc lại tài liệu, với sự nắm bắt vấn đề. Các bài kiểm tra thường xuyên vô thưởng vô phạt giúp sinh viên giảm bớt căng thẳng trước kỳ thi thông qua sự đa dạng hóa và các kết quả được đưa ra trên một mẫu lớn hơn nhiều: không có bài kiểm tra đơn lẻ nào có giá trị quyết định. Và phương thức kiểm tra này cho phép người hướng dẫn xác định được những lỗ hổng kiến thức của sinh viên, trên cơ sở đó điều chỉnh hoạt động giảng dạy của mình để lấp đầy chúng. Những lợi ích từ các bài kiểm tra không mang lại rủi ro này vẫn được tích lũy trong cả hai mô hình: giảng dạy trực tuyến hay trên lớp học. Những điều cần ghi nhớ https://thuviensach.vn Quá trình luyện tập bằng cách tái hiện kiến thức hay kỹ năng mới từ trí nhớ là một công cụ tiềm năng hỗ trợ cho việc học tập và lưu giữ kiến thức. Ý tưởng này đúng trong mọi trường hợp khi mà bộ não phải ghi nhớ và sau đó tái hiện lại một điều gì đó – những sự kiện, quan niệm phức tạp, cách thức giải quyết vấn đề, kỹ năng vận động. Sự hồi tưởng một cách khó khăn khiến hiệu quả tiếp thu và ghi nhớ trở nên mạnh mẽ hơn. Chúng ta dễ dàng bị cám dỗ bởi niềm tin rằng quá trình tiếp thu dễ dàng hơn sẽ cho hiệu quả tốt hơn, nhưng các nghiên cứu lại chỉ ra điều ngược lại: khi tư duy phải hoạt động, kiến thức sẽ được ghi nhớ tốt hơn. Bạn càng hao tổn nhiều công sức để nhớ lại những gì đã học, miễn là bạn thành công, thì khả năng ghi nhớ và duy trì những hiểu biết đó của bạn càng trở nên tốt hơn. Sau một bài kiểm tra đầu tiên, sự trì hoãn trong quá trình tiếp tục thực hiện tập luyện thông qua hồi tưởng có tác dụng củng cố khả năng ghi nhớ hơn so với sự luyện tập tức thì, vì sự khôi phục kiến thức chậm trễ đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn. Lặp lại quá trình hồi tưởng những gì đã học không chỉ gia tăng mức độ bền bỉ của trí nhớ mà còn giúp tri thức có thể được phục hồi dễ dàng hơn, trong nhiều tình huống đa dạng hơn và ứng dụng được cho nhiều loại vấn đề hơn. Tuy phương pháp học tập trung nhồi nhét có thể mang lại điểm số tốt hơn trong một bài kiểm tra tức thì, nhưng lợi thế đó sẽ mờ nhạt nhanh chóng vì nếu chỉ đọc lại tài liệu thì sau đó người học sẽ dễ quên hơn hình thức luyện tập có tính gợi nhớ. Hình thức này mang lại những lợi ích dài hạn. https://thuviensach.vn Đưa một bài kiểm tra (luyện tập có tính hồi tưởng) vào một lớp học một cách đơn giản có thể mang đến sự cải thiện lớn về điểm số của bài thi cuối kỳ và lợi ích tiếp tục gia tăng tỷ lệ thuận với tần suất các bài kiểm tra trên lớp. Các bài kiểm tra không cần phải được khởi xướng bởi người hướng dẫn. Các bạn sinh viên có thể rèn luyện khả năng nhớ lại kiến thức của mình ở mọi nơi, không nhất thiết là qua các bài kiểm tra trên lớp. Thử nghĩ đến thẻ ghi chữ số, hay cách các học sinh lớp 2 học phép tính nhân, những phương pháp này cũng có thể được áp dụng cho người học lớn tuổi để tự kiểm tra kiến thức của mình về nguyên tử, toán học hay pháp luật. Tự kiểm tra dường như không mấy hấp dẫn khi nó tốn công hơn đọc lại, nhưng như đã đề cập ở trên, càng nhiều nỗ lực hao tổn trong quá trình hồi tưởng, càng nhiều kiến thức sẽ được ghi nhớ. Những sinh viên thực hiện các bài kiểm tra thực hành thâu tóm vấn đề tốt hơn những sinh viên chỉ đọc lại tài liệu. Tương tự, những bài thi như thế cho phép người hướng dẫn phát hiện những lỗ hổng kiến thức hay nhận thức sai lầm ở sinh viên và điều chỉnh hoạt động giảng dạy của mình để sửa chữa chúng. Cung cấp cho sinh viên những nhận xét có tính điều chỉnh sau các bài kiểm tra ngăn họ ghi nhớ những ý tưởng thiếu chính xác mà họ đã hiểu sai về tài liệu và mang đến những kiến thức có giá trị thông qua những đáp án chính xác. Các sinh viên tham gia các lớp học có kết hợp những bài kiểm tra không có tính quyết định hay không mang lại rủi ro dần dần trở nên hứng https://thuviensach.vn thú với việc luyện tập. Những người được kiểm tra thường xuyên cũng yêu thích khóa học của họ hơn. Vậy còn những quan ngại ban đầu của hiệu trưởng Roger Chamberlain về các bài kiểm tra được áp dụng tại trường Trung học Columbia rằng chúng có thể chẳng giúp ích được gì hơn ngoài việc cổ xúy lối học vẹt? Chúng tôi hỏi ông điều này sau khi cuộc khảo sát được hoàn tất. Ông ngẫm nghĩ giây lát rồi nói: “Điều tôi thực sự hài lòng là: một số học sinh có khả năng đánh giá, tổng hợp và áp dụng một khái niệm vào những mô hình khác nhau. Đối với nhóm này, khi các em có nền tảng từ kiến thức và khả năng ghi nhớ, những khả năng này sẽ trở nên hiệu quả hơn rất nhiều; nhờ đó các em sẽ không phải phí thời gian xem xét lại và tìm hiểu xem từ đó có ý nghĩa gì hay khái niệm kia nói về điều gì. Nó cho phép các em tiến tới một trình độ cao hơn.” https://thuviensach.vn Chương 3. Kết hợp các phương pháp luyện tập Có thể trực giác không mách bảo bạn rằng luyện tập có tính hồi tưởng là một công cụ mạnh mẽ hơn so với xem xét lại hay đọc lại, nhưng hầu hết chúng ta đều công nhận tầm quan trọng của thử nghiệm này trong lĩnh vực thể thao. Đó là điều mà chúng ta gọi là “luyện tập-luyện tập-luyện tập”. Vậy thì, nghiên cứu sau đây có thể sẽ khiến bạn ngạc nhiên. Tại một lớp học thể dục, một nhóm trẻ tám tuổi tập ném các bao đựng đậu vào rổ. Nửa số trẻ tập trung ném vào một chiếc rổ ở cách xa họ 0,9m. Nửa còn lại tập ném vào cả những chiếc rổ ở cự ly 0,6m lẫn cự ly 1,2m. Sau 12 tuần, tất cả các em cùng làm một bài kiểm tra ném vào một chiếc rổ ở cách xa 0,9m. Những em làm tốt nhất tính đến thời điểm đó là những em đã tập ném với rổ ở cự ly 0,6m hay 1,2m nhưng chưa hề tập với những chiếc rổ ở cự ly 0,9m. Tại sao vậy? Chúng ta sẽ quay trở lại với những bao đựng đậu, nhưng trước hết hãy cùng nhìn lại một cách tương đối thấu đáo về một ý tưởng hoang đường vẫn được truyền bá rộng rãi về cách thức chúng ta học hỏi. Ý TƯỞNG HOANG ĐƯỜNG VỀ PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TẬP DỒN DẬP Hầu hết chúng ta đều tin rằng thành quả tiếp thu sẽ tốt hơn nếu bạn nghiên cứu vấn đề một cách chuyên tâm cao độ: chiến lược luyện tập-luyện tập-luyện tập được cho là sẽ khắc sâu một kỹ năng vào trí nhớ của bạn. https://thuviensach.vn Niềm tin vào sự tập trung rèn luyện lặp đi lặp lại một kỹ năng duy nhất với tần suất lớn cho tới khi hoàn toàn nắm bắt được nó đã trở nên phổ biến trong giới giáo viên, vận động viên, huấn luyện viên và cả sinh viên. Các nhà nghiên cứu gọi hình thức luyện tập này là “tập trung” (massed). Có một sự thật đơn giản là khi chúng ta luyện tập dồn dập như thế, có thể chúng ta sẽ nhận thấy việc này tạo nên sự khác biệt. Và niềm tin của chúng ta bắt nguồn từ sự thật đó. Tuy nhiên, bất chấp những điều mắt thấy tai nghe ấy, chúng ta đã đặt niềm tin nhầm chỗ. Nếu quá trình lĩnh hội tri thức được định nghĩa bằng việc tiếp nhận một kiến thức hay kỹ năng mới và năng lực áp dụng sau đó thì việc chúng ta tiếp nhận một kiến thức nào đó nhanh thế nào chỉ là một phần của vấn đề. Liệu kiến thức này có còn ở đó khi bạn cần sử dụng chúng trong cuộc sống thường nhật hay không? Trong khi luyện tập đóng vai trò thiết yếu với nhận thức và ghi nhớ thì các cuộc khảo sát đã cho thấy quá trình tập luyện còn trở nên hiệu quả hơn nhiều khi nó bị ngắt quãng thành các giai đoạn riêng biệt. Thông thường, những thành quả tức thì sinh ra nhờ rèn luyện tập trung là hiển nhiên và rõ rệt, nhưng sự quên lãng nhanh chóng diễn ra sau đó thì không hề dễ thấy. Sự luyện tập ngắt quãng, biến thiên và xen kẽ các nội dung học tập khác nhau sẽ tạo ra khả năng nắm bắt tốt hơn, ghi nhớ lâu hơn và ứng dụng linh hoạt hơn. Nhưng những lợi ích này có cái giá của nó: khi việc luyện tập bị ngắt quãng, đan xen và biến đổi, nó sẽ đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn. Bạn sẽ chỉ cảm thấy tốn công sức hơn mà chưa thể nhìn thấy lợi ích sinh ra từ những gì mình đã bỏ ra. Với hình thức luyện tập này, quá trình tiếp thu tưởng như chậm hơn, và bạn không đạt được sự cải thiện nhanh chóng hay xác nhận tức thì như bạn vẫn thường nhận được khi rèn luyện một cách tập trung. Ngay cả trong các nghiên cứu mà những người tham gia cho thấy những kết quả vượt trội từ quá trình học tập bị cách quãng, chính bản thân họ cũng không hề nhận thức được sự tiến bộ; họ vẫn tin rằng bản thân nắm bắt kiến thức tốt hơn từ những tài liệu được tập trung ôn luyện dồn dập. https://thuviensach.vn Gần như ở mọi nơi bạn thấy, bạn đều có thể tìm ra những ví dụ về sự tập luyện dồn dập: các trại hè nâng cao trình độ ngoại ngữ, những trường đại học đưa ra mô hình giáo dục tập trung vào một môn học duy nhất với cam kết sẽ đẩy nhanh tiến độ học tập của sinh viên, những hội thảo liên miên về giáo dục dành cho các giảng viên mà tại đó quá trình đào tạo được cô đúc lại trong một cuối tuần duy nhất. Nhồi nhét kiến thức trước các kỳ thi cũng là một dạng rèn luyện tập trung. Nó có vẻ là một phương pháp hiệu quả và có thể giúp bạn duy trì đến vài ngày tiếp sau kỳ thi giữa kỳ, nhưng hầu hết kiến thức sẽ trôi tuột khỏi trí nhớ của bạn từ rất lâu trước khi bạn phải làm bài thi cuối kỳ. Tạo khoảng cách giữa các kỳ luyện tập có vẻ ít hiệu quả hơn bởi lẽ sự quên lãng sẽ xen vào đó và bạn phải làm việc cật lực hơn để nhớ lại những khái niệm. Chẳng có vẻ gì là bạn đang làm chủ được kiến thức. Điều mà bạn không nhận thức được lúc ấy chính là những nỗ lực bạn thêm vào là tác nhân khiến khả năng tiếp thu của bạn trở nên mạnh mẽ. CÁCH QUÃNG QUÁ TRÌNH LUYỆN TẬP Những lợi ích từ việc tạo khoảng cách giữa các giai đoạn luyện tập hẳn còn phải trải qua một thời gian dài nữa mới được chứng thực nếu không có một ví dụ sinh động về một cuộc khảo sát có sự tham gia của 38 vị bác sĩ nội trú. Họ nghiên cứu một loạt bốn bài học về vi phẫu thuật: làm thế nào để gắn lại các mạch siêu nhỏ. Mỗi bài học gồm một số hướng dẫn với các bài tập thực hành tiếp sau. Một nửa số bác sĩ hoàn thành cả bốn bài học trong một ngày đúng như thời khóa biểu tại chức thông thường. Số còn lại hoàn tất bốn bài có nội dung tương tự nhưng là từng bài một với một tuần nghỉ giữa các bài. https://thuviensach.vn Trong bài thi diễn ra sau học kỳ cuối một tháng, những người học theo từng bài cách nhau một tuần thể hiện sự vượt trội so với các đồng nghiệp trên mọi tiêu chuẩn đánh giá – thời lượng để hoàn thành một ca phẫu thuật, số lượng các động tác tay, gắn lại thành công động mạch chủ bị đứt còn đang đập của một con chuột sống. Khoảng cách giữa hai nhóm thật ấn tượng. Các bác sĩ nội trú hoàn thành bốn bài học trong một ngày đạt điểm thấp hơn trên mọi tiêu chuẩn, không những thế 16% trong số họ còn hủy hoại động mạch của con chuột đến mức không thể cải thiện và ca phẫu thuật không thể hoàn thành. Vì sao sự rèn luyện bị cách quãng lại hiệu quả hơn rèn luyện tập trung liên tục? Có vẻ như khả năng ghi nhớ kiến thức lâu dài đòi hỏi một sự củng cố, trong đó các dấu tích của ký ức (mô tả của não bộ về kiến thức mới thu nạp) được gia cố, định nghĩa và liên hệ với kiến thức trước đó – quá trình này diễn ra trong nhiều giờ và có thể là vài ngày. Sự rèn luyện tập trung dồn dập dựa trên trí nhớ ngắn hạn. Tuy nhiên, sự tiếp thu có tính bền vững lại đòi hỏi thời gian cho quá trình diễn tập trong tư duy và những quá trình củng cố khác. Vì vậy, phương pháp tập luyện cách quãng có hiệu quả hơn. Những nỗ lực tăng thêm nhằm phục vụ cho quá trình khôi phục lại kiến thức sau một chút quên lãng có tác dụng tái tạo sự củng cố và tăng cường trí nhớ. Chúng tôi sẽ khảo sát kỹ lưỡng một vài trong số các lý thuyết về quá trình này trong chương tiếp theo. LỒNG GHÉP ĐỐI TƯỢNG TRONG QUÁ TRÌNH LUYỆN TẬP Lồng ghép từ hai chủ đề hay kỹ năng trở lên vào quá trình luyện tập cũng là một công cụ đắc lực thay thế phương pháp rèn luyện tập trung, và đây là một minh họa nhanh về điều đó. Hai nhóm học sinh được hướng dẫn cách tính thể tích của bốn loại hình không gian (hình lăng trụ tam giác, hình https://thuviensach.vn cầu, hình quạt cầu, một nửa hình nón). Sau đó, một nhóm làm các bài tập thực hành được thu thập và phân loại theo dạng (lần lượt thực hành bốn bài toán yêu cầu tính thể tích một hình lăng trụ tam giác, sau đó là bốn bài toán về hình cầu, v.v…). Nhóm còn lại cũng giải các bài toán tương tự, nhưng với thứ tự bị trộn lẫn (đan xen) chứ không phải theo trình tự tập hợp theo từng dạng. Sau những gì chúng tôi đã trình bày, các kết quả có thể sẽ không còn khiến bạn ngạc nhiên. Trong suốt quá trình luyện tập, trung bình các em học sinh giải các bài toán được tập hợp theo dạng (chính là hình thức rèn luyện tập trung) chính xác đến 89%, so với 60% của nhóm làm bài tập đã được trộn lẫn. Nhưng trong bài kiểm tra cuối cùng diễn ra sau đó một tuần, những học sinh đã thực hành giải các bài tập đã được phân theo dạng chỉ đạt độ chính xác trung bình là 20%; trong khi với những em còn lại, những người đã thực hiện luyện tập theo hình thức đan xen thì tỷ lệ chính xác này lên tới 63%. Sự pha trộn các dạng bài tập, điều đã nâng kết quả bài sát hạch cuối cùng lên một tỷ lệ đáng kể là 215%, thực sự lại là yếu tố cản trở trong giai đoạn đầu của quá trình tiếp thu. Bây giờ, giả sử bạn là chuyên viên đào tạo của một công ty. Bạn đang cố gắng huấn luyện các nhân viên thực hiện một quy trình mới phức tạp bao gồm mười thao tác. Phương pháp điển hình để tiến hành điều đó là đào tạo thao tác thứ nhất, lặp lại nhiều lần cho đến khi học viên hiểu rõ nó. Sau đó bạn chuyển sang thao tác thứ hai, lặp lại bước hai, khiến học viên nắm vững nó và cứ thế. Trình tự này có thể giúp thúc đẩy tốc độ tiếp thu. Vậy phương pháp rèn luyện với sự đan xen thì sao? Bạn thực hành thao tác thứ nhất ít lần, rồi chuyển sang thao tác thứ tư, rồi quay sang thao tác thứ ba, sau đó đến thao tác thứ bảy, và cứ thế. (Ở chương 8, chúng tôi sẽ bàn về cách Hãng bảo hiểm Farmers Insurance đào tạo các nhân viên đại lý mới bằng một hệ thống các bài tập được sắp xếp theo mô hình xoắn ốc. Trong mô hình này, các dữ liệu về các kỹ năng chính sẽ được quay vòng theo một thứ tự ngẫu nhiên với các lớp nghĩa và ngữ cảnh mới được thêm vào mỗi lượt chuyển tiếp.) https://thuviensach.vn Tiến trình tiếp nhận kiến thức khi áp dụng hình thức luyện tập đan xen dường như diễn ra chậm hơn so với luyện tập dồn dập. Các giáo viên và cả học sinh đều nhận thấy sự khác biệt này. Họ có thể thấy sự thông thạo của mình về mỗi yếu tố đến chậm hơn, trong khi lợi ích lâu dài bù đắp cho điều đó thì lại không hề bộc lộ rõ ràng. Vì thế, việc đan xen các đối tượng trong luyện tập không được ưa chuộng và hiếm khi được sử dụng. Các giáo viên không thích cách này vì độ trễ của nó. Các bạn sinh viên thì thấy nó rắc rối: họ chỉ vừa mới bắt đầu xử lý một tài liệu mới và chưa kịp hiểu nó thì đã phải chuyển sang một tài liệu khác. Nhưng các nghiên cứu lại cho thấy rõ ràng rằng, bạn sẽ thấu triệt và ghi nhớ kiến thức lâu hơn nếu lồng ghép quá trình luyện tập thay vì thực hành một cách tập trung dồn dập. ĐA DẠNG HÓA ĐỐI TƯỢNG TRONG QUÁ TRÌNH LUYỆN TẬP Vậy còn cuộc khảo sát với các bao đựng đậu, trong đó những học sinh làm tốt nhất lại chưa từng thực hành cú ném ở cự ly 0,9m, cự ly mà các em khác lại tập trung rèn luyện thì sao? Nghiên cứu với các bao đựng đậu kể trên tập trung vào khả năng làm chủ các kỹ năng vận động, nhưng nhiều bằng chứng chỉ ra rằng những nguyên lý cơ bản này cũng áp dụng vào các kỹ năng về nhận thức. Ý tưởng cơ bản ở đây là việc luyện tập có tính đa dạng – giống như khi bạn ném các bao đựng đậu vào các rổ ở những cự ly khác nhau – sẽ cải thiện khả năng chuyển đổi kiến thức lĩnh hội được trong tình huống này và ứng dụng nó thành công vào một tình huống khác. Bạn mở rộng hiểu biết về mối liên hệ giữa các điều kiện khác nhau và các động thái cần thiết để xử lý chúng; bạn nhận thức ngữ cảnh rõ ràng hơn và phát triển một “vốn ngôn ngữ hành https://thuviensach.vn động” linh hoạt hơn – những động thái khác nhau áp dụng cho các tình huống khác nhau. Liệu tác động của sự rèn luyện một cách đa dạng (như trường hợp luyện tập với những chiếc rổ ở cự ly 0,6m và 1,2m) có đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu của các nhiệm vụ cụ thể (chiếc rổ ở cự ly 0,9m)? Đó sẽ là chủ điểm của những nghiên cứu sâu hơn. Các bằng chứng ủng hộ lý thuyết về sự luân chuyển các nội dung trong quá trình luyện tập đã và đang được đồng tình bởi các nghiên cứu hình ảnh học thần kinh hiện nay. Các công trình này đề xuất rằng, các hình thức luyện tập khác nhau tương thích với các phần khác nhau trên não bộ. Quá trình nắm bắt các kỹ năng vận động bằng cách luyện tập một cách đa dạng là loại hình có tính thử thách về nhận thức cao hơn hình thức luyện tập dồn dập, và có vẻ nó được củng cố bởi một khu vực nhất định trên não. Khu vực này chịu trách nhiệm xử lý một quy trình khó khăn hơn phục vụ cho việc học hỏi các kỹ năng vận động ở trình độ cao hơn. Mặt khác, khi bạn học hỏi các kỹ năng vận động bằng cách rèn luyện tập trung, quá trình đó được hỗ trợ bởi một khu vực khác trên não bộ. Khu vực này được sử dụng cho việc tiếp thu những kỹ năng vận động dễ dàng và ít đòi hỏi tư duy hơn. Kết luận rút ra ở đây là những kiến thức gặt hái được thông qua hình thức thực hành tập trung dồn dập nhưng kém thử thách hơn được mã hóa theo một ngôn ngữ đơn giản và tương đối nghèo nàn. Trong khi đó, kiến thức tích lũy được nhờ luyện tập đa dạng và khó khăn hơn sẽ huy động nhiều năng lực tư duy hơn và được lập trình linh hoạt hơn. Điều đó khiến các thành quả này có thể được ứng dụng rộng rãi hơn. Trong giới vận động viên, luyện tập dồn dập đã trở thành nguyên tắc trong một thời gian dài: thực hiện cú đá bổng, đẩy bóng vào gôn từ cự ly 60m, tập cú ve trái, chuyền trong khi đang rê bóng: lần nữa, lần nữa và lần nữa – để thuần thục và rèn luyện chúng thành “trí nhớ cơ bắp” của bạn, như chính khái niệm đã chỉ ra. Những lợi ích của quá trình luyện tập một cách https://thuviensach.vn biến thiên các kỹ năng vận động đã gặt hái được sự đồng tình rộng rãi, dù có phần chậm chạp. Hãy xem xét cú sút một chạm trong môn khúc côn cầu. Đó là khi bạn nhận được bóng và ngay lập tức chuyền cho một đồng đội đang di chuyển xuống khu vực dưới của sân băng, khiến cho đối thủ mất thăng bằng và không thể gây sức ép cho người giữ bóng. Khi còn là trợ lý huấn luyện viên của đội Los Angeles Kings, Jamie Kompon có thói quen hướng cả đội tập cú sút một chạm từ cùng một vị trí trên sân. Ngay cả khi sự di chuyển này bị chen vào bởi một chuỗi liên tiếp các chuyển động khác trong quá trình luyện tập, nếu bạn chỉ tập cú sút này từ đúng một vị trí trên sân hay trong đúng một chuỗi động tác có trình tự cố định thì chẳng khác gì bạn chỉ đang tập ném bao đựng đậu vào một chiếc rổ ở cách xa 0,9m. Giờ đây Kompon đã thay đổi phương pháp huấn luyện của mình. Chúng tôi có cuộc trò chuyện khi ông vừa chuyển sang đội Chicago Blackhawks. Kompon và đội của ông đã đoạt cúp Stanley, liệu có sự trùng hợp nào ở đây không? Những lợi ích của việc tập luyện một cách đa dạng đối với tư duy nhận thức thay vì với các kỹ năng vận động đã được chỉ ra trong một thí nghiệm gần đây. Thí nghiệm này áp dụng cùng một ý tưởng với bài kiểm tra về các túi đựng đậu nhưng được điều chỉnh cho thích hợp với nội dung nghiên cứu là quá trình học hỏi các vấn đề về nhận thức: Trong trường hợp này, các em học sinh làm những bài tập về phép đảo chữ – nghĩa là, các em phải sắp xếp lại các chữ cái thành các từ có nghĩa (tmoce thành comet). Một số đối tượng nghiên cứu làm lặp đi lặp lại nhiều lần cùng một dạng bài về một cách đảo chữ, trong khi số khác tập làm nhiều cách đảo chữ cho một từ. Khi tất cả được kiểm tra với cùng một phép đảo chữ mà nhóm thứ nhất đã ôn tập, nhóm thứ hai lại cho kết quả tốt hơn! Những lợi ích tương tự cũng phát sinh khi bạn rèn luyện để có thể xác định các loài cây, phân biệt các nguyên tắc của án lệ hay nắm vững một chương trình máy tính mới. https://thuviensach.vn PHÁT TRIỂN CÁC KỸ NĂNG PHÂN BIỆT So với việc luyện tập dồn dập, một lợi thế quan trọng của sự đan xen, lồng ghép và đa dạng hóa là chúng có thể giúp chúng ta học hỏi tốt hơn về cách đánh giá tình huống và phân biệt các dạng vấn đề, lựa chọn cũng như áp dụng giải pháp chính xác từ một loạt các khả năng. Trong toán học, sự tập trung được áp dụng vào cấu trúc các bài học trong sách giáo khoa: mỗi chương được dành riêng cho một dạng toán cụ thể, kiến thức mà bạn sẽ học trên lớp và sau đó luyện tập bằng cách giải các bài tập, như 20 bài tập về nhà chẳng hạn, trước khi chuyển sang chương sau. Chương kế tiếp lại là một dạng toán khác, và bạn lại mải mê chìm đắm vào việc học tập và rèn luyện theo hướng tập trung tương tự. Bạn cứ tiến hành đều đặn như thế, hết chương này sang chương khác, trong suốt học kỳ. Nhưng sau đó, vào kỳ thi cuối kỳ, kỳ lạ chưa, các dạng toán bị xáo trộn hết cả: bạn nhìn chăm chăm lần lượt vào từng bài, tự hỏi mình phải sử dụng thuật toán nào đây? Nó ở chương 5, 6 hay 7? Khi học tập theo hình thức tập trung hay lặp lại, bạn không được thực hành quy trình phân loại có tính phản biện. Nhưng đó lại chính là cách thức mà cuộc sống hằng ngày vẫn thường diễn ra: những cơ hội và thách thức ập đến bất ngờ, không theo một trình tự nào hết. Để mang lại giá trị thực tiễn cho những hiểu biết của mình, chúng ta phải thành thạo trong việc nhận thức “vấn đề này thuộc loại nào” để có thể lựa chọn và áp dụng một giải pháp phù hợp. Một số nghiên cứu đã mô tả những tác dụng ngày càng hoàn thiện của kỹ năng phân biệt có được thông qua quá trình rèn luyện đan xen và đa dạng. Đó là một cuộc khảo sát về kỹ năng quy các tác phẩm hội họa về với các họa sĩ sáng tạo ra chúng và một khảo sát về kỹ năng xác định và phân loại chim. https://thuviensach.vn Các nhà nghiên cứu bước đầu dự đoán rằng, thực hành tập trung cách xác định các tác phẩm của từng họa sĩ (tức là tập trung nghiên cứu nhiều ví dụ về tác phẩm của một họa sĩ trước khi chuyển sang nghiên cứu các ví dụ về tác phẩm của một họa sĩ khác) sẽ là công cụ đắc lực nhất giúp sinh viên học cách xác định các đặc điểm trong phong cách của từng nghệ sĩ. Luyện tập khả năng tập trung vào các tác phẩm của từng họa sĩ, mỗi lần một họa sĩ, sẽ cho phép các sinh viên ghép các tác phẩm với các tác giả chính xác hơn, so với phương pháp tiếp xúc đan cài, lồng ghép các tác phẩm của nhiều họa sĩ khác nhau. Theo quan điểm này thì sự đan xen có vẻ quá khó khăn và phức tạp; sinh viên sẽ không thể tìm ra các khía cạnh có liên quan. Song những nhà nghiên cứu này đã sai lầm. Việc sinh viên phát hiện ra những điểm tương đồng giữa các tác phẩm của một họa sĩ thông qua rèn luyện tập trung tỏ ra kém hữu ích hơn việc phát hiện ra những điểm khác biệt giữa các tác phẩm của các nghệ sĩ khác nhau thông qua rèn luyện đan xen lồng ghép. Sự đan cài cải thiện khả năng phân biệt và mang lại kết quả cao hơn trong bài kiểm tra về ghép các tác phẩm tương ứng với các tác giả diễn ra sau đó. Nhóm đã thực hiện việc rèn luyện theo phương pháp đan xen cũng tỏ ra khá hơn trong việc ghép tên các tác giả với những ví dụ mới liên quan đến sản phẩm của họ. Những sinh viên này chưa hề được tiếp xúc với các ví dụ này trong giai đoạn học tập. Bất chấp những kết quả này, các sinh viên tham gia vào những thí nghiệm kể trên vẫn khăng khăng bảo vệ phương pháp thực hành tập trung, với luận điệu rằng nó giúp ích cho bản thân họ hơn. Thậm chí sau khi họ làm bài sát hạch và lẽ ra họ đã có thể rút ra từ chính quá trình thực hành của mình rằng đan xen là chiến lược hữu ích hơn trong học tập, họ vẫn trung thành với niềm tin rằng việc thực hành một cách tập trung vào việc quan sát các bức tranh của một họa sĩ thì cho hiệu quả tốt hơn. Những lý lẽ hoang đường về tác dụng của luyện tập tập trung thật khó để lật đổ, ngay cả khi chính bạn được tiếp xúc trực tiếp với những bằng chứng. https://thuviensach.vn Tác dụng của sự luyện tập đan xen, lồng ghép trong việc hoàn thiện khả năng phân biệt đã được tái xác nhận trong các cuộc khảo sát về quá trình học cách phân loại những loài chim của các bạn sinh viên. Thử thách ở đây phức tạp hơn ta vẫn tưởng. Cuộc khảo sát chỉ định 20 họ chim khác nhau (họa mi đỏ, nhạn, hồng tước, sẻ, v.v…) Trong từng họ, các bạn sinh viên được giới thiệu 12 loài (họa mi đỏ nâu, họa mi đỏ mỏ cong, họa mi đỏ Bendire’s, v.v…) Khi xác định họ của một chú chim, bạn cần xem xét một loạt các đặc điểm như kích thước, bộ lông, động tác, địa bàn sinh sống, hình dạng mỏ, màu mắt, v.v… Một khó khăn trong việc nhận dạng một chú chim là có nhiều đặc điểm phổ biến giữa các thành viên thuộc cùng một họ nhưng không phải là tất cả các loài chim thuộc họ đó đều có chung đặc điểm này. Ví dụ, không phải tất cả họa mi đỏ đều có mỏ dài và hơi cong. Có một số đặc điểm là điển hình của một họ nhưng không xuất hiện ở mọi thành viên, nó đóng vai trò là đặc điểm nhận dạng duy nhất của họ đó. Vì nguyên tắc phân loại chỉ có thể dựa trên những đặc trưng riêng biệt này chứ không phải dựa vào việc xác định những đặc điểm (một đặc điểm có thể áp dụng cho mọi thành viên) nên phân loại chim yêu cầu nắm bắt các khái niệm và đưa ra đánh giá, chứ không đơn giản là ghi nhớ các đặc trưng. Luyện tập đan xen và đa dạng tỏ ra hữu ích hơn phương thức tập trung trong việc thông thạo các khái niệm nền tảng phục vụ cho việc thống nhất cũng như khu biệt các loài và họ. Từ một trong những khảo sát trên, có thể đi đến kết luận, sự gợi nhớ và nhận biết đòi hỏi “kiến thức dựa trên thực tế”, được xem như một trình độ thấp hơn của nhận thức so với “kiến thức có tính khái niệm”. Kiến thức có tính khái niệm đòi hỏi sự hiểu biết về mối tương quan giữa các yếu tố cơ bản trong một cấu trúc rộng lớn hơn. Mối tương quan đó cho phép các yếu tố cùng phát huy chức năng. Kiến thức có tính khái niệm là yêu cầu bắt buộc phục vụ cho quá trình phân loại. Theo đuổi logic này, một số người đã bao biện rằng, rèn luyện kỹ năng gợi nhớ lại các sự kiện và ví dụ minh họa sẽ không thể đảm nhiệm vai trò mà một phương pháp hỗ trợ quá trình lĩnh https://thuviensach.vn hội các đặc điểm chung, điều không thể thiếu để đạt tới những trình độ cao hơn của hành vi trí tuệ. Những nghiên cứu về kỹ năng phân loại chim đã chỉ ra điều ngược lại: những chiến lược học tập giúp các bạn sinh viên có thể nhận dạng và phân biệt các nguyên mẫu (các đặc tính tương đồng của các thành viên trong họ) có thể giúp họ nắm bắt các loại đặc trưng ngữ cảnh và chức năng. Các đặc trưng này giúp quá trình hàm thụ của người đọc vượt xa khỏi những dạng thức kiến thức đơn giản và vươn tới trình độ nhận thức cao hơn. CẢI THIỆN KHẢ NĂNG LĨNH HỘI NHỮNG KIẾN THỨC PHỨC TẠP ở CÁC SINH VIÊN Y KHOA Điểm khác biệt giữa những kiến thức đơn giản, dễ hiểu về các sự kiện, hiện tượng và những hiểu biết uyên thâm cho phép người học ứng dụng linh hoạt những thành quả của sự học hỏi. Chúng có thể tương đối mơ hồ với phần lớn mọi người. Nhưng Douglas Larsen, một nhà khoa học làm việc tại trường Y thuộc Đại học Washington ở St. Louis, đã tìm được sự cộng hưởng trong đó. Theo ông, những kỹ năng bắt buộc để tiến hành phân loại các loài chim cũng tương tự như những kỹ năng một bác sĩ cần có khi chẩn đoán cho một bệnh nhân. “Sự đa dạng có vai trò quan trọng vì nó giúp chúng ta nhìn thấy nhiều phương diện hơn trong những điều chúng ta có thể đối chiếu,” ông nói. “Điều này rất phổ biến trong y học, nếu ta nhìn nhận mỗi lần đến khám của bệnh nhân là một bài sát hạch. Có nhiều tầng ký ức hiển hiện cũng như tiềm ẩn liên quan đến khả năng phân biệt giữa các triệu chứng và xác định mối tương quan giữa chúng.” Trí nhớ tiềm ẩn là cách bạn tự động hồi tưởng lại những kinh nghiệm trong quá khứ khi cắt nghĩa một hiện tượng mới. Ví dụ, người bệnh đến gặp bạn với một câu chuyện. Khi lắng nghe họ, bạn sàng lọc một cách có ý thức trong thư viện tư duy của mình để tìm ra điều gì là phù hợp, đồng thời vẫn vô thức thăm dò các kinh https://thuviensach.vn nghiệm đã trải qua để hiểu xem bệnh nhân đang nói gì với bạn. “Sau đó bạn được phép đưa ra quyết định,” Larsen nói. Larsen là một nhà khoa học thần kinh bệnh nhi. Công việc của ông là thăm khám cho bệnh nhân tại các bệnh viện và trung tâm chữa trị thực hành của trường đại học. Ông là một người bận rộn: ngoài việc khám chữa bệnh, ông còn giám sát quá trình đào tạo các bác sĩ. Ông giảng dạy, và khi có thời gian, ông cộng tác với các nhà tâm lý học nhận thức để tiến hành nghiên cứu về phương pháp giáo dục trong y học. Ông đảm nhiệm tất cả những vai trò đó với mục đích tái cấu trúc và củng cố giáo trình đào tạo bộ môn thần kinh trẻ em trong trường y. Hẳn là bạn sẽ dự đoán, trường y áp dụng một loạt các kỹ thuật giảng dạy. Ngoài các bài giảng trên lớp và trong phòng thí nghiệm, các bạn sinh viên còn được thực hành quy trình hồi sức và các thao tác khác trên những hình nộm công nghệ cao trong ba trung tâm mô phỏng được duy trì bởi trường y. Mỗi “bệnh nhân” được nối với các máy theo dõi. Chúng cũng có nhịp tim, huyết áp và đồng tử có thể co giãn. Các hình nộm này cũng có thể nghe và nói nhờ một người điều khiển luôn quan sát và vận hành chúng từ một phòng ở phía sau. Trường cũng tận dụng các “bệnh nhân tiêu chuẩn”, những diễn viên diễn theo kịch bản và bộc lộ những triệu chứng mà các sinh viên phải chẩn đoán. Trung tâm này được thiết lập như một trung tâm chữa bệnh thực hành thông thường và các sinh viên phải thể hiện sự thông thạo trong mọi lĩnh vực khi đối diện với một bệnh nhân, từ cung cách thăm khám bên giường bệnh, các kỹ năng kiểm tra sức khỏe và lưu ý việc đặt ra một loạt các câu hỏi thích hợp để có thể đưa ra các chẩn đoán và kế hoạch điều trị. https://thuviensach.vn Từ những nghiên cứu về các phương pháp giảng dạy này, Larsen đã rút ra những kết luận thú vị. Điều thứ nhất và dường như khá hiển nhiên là: bạn thể hiện tốt hơn trong bài sát hạch về khả năng khám bệnh trong một trung tâm y học thực hành nếu như bạn đã từng có kinh nghiệm về việc này. Chỉ đọc bệnh án thôi là chưa đủ. Tuy nhiên, trong những bài thi tự luận cuối kỳ, cả những sinh viên y khoa đã từng thực hành kiểm tra sức khỏe bệnh nhân lẫn những người mới được học thông qua các bài kiểm tra tự luận đều đạt kết quả như nhau. Lý do là trong một bài thi tự luận, các bạn sinh viên được giao sẵn một kết cấu để xem xét và được yêu cầu cung cấp những thông tin cụ thể. Khi khám bệnh, bạn phải tự mình tìm ra mô hình tư duy phù hợp và các bước để làm theo. Kinh nghiệm thực hành các bước này với bệnh nhân thực sự hay bệnh nhân mô phỏng đều mang lại hiệu quả cải thiện quá trình thực hiện tốt hơn so với việc bạn chỉ đọc tài liệu. Nói cách khác, hình thức luyện tập có tính gợi nhớ tỏ ra hiệu quả nhất là hình thức phản ánh điều bạn đang làm trong hiện tại với những hiểu biết sau đó. Không phải là điều bạn biết, mà chính cách bạn thực hành những hiểu biết đó mới là yếu tố quyết định tác dụng của chúng sau này. Như một châm ngôn trong thể thao, “tập luyện như thể bạn đang thi đấu và bạn sẽ thi đấu như lúc bạn tập luyện.” Kết luận này phù hợp với những nghiên cứu khác về phương pháp học tập, và với một số kết luận thực tiễn về quy trình huấn luyện tinh vi hơn được áp dụng trong khoa học và công nghiệp. Trong những lĩnh vực này, các hình thức mô phỏng được ứng dụng ngày càng rộng rãi, không chỉ cho những phi công, sinh viên y khoa, mà cả các cảnh sát, người lái tàu và những người hoạt động trong các lĩnh vực đòi hỏi sự thông thạo những kiến thức và kỹ năng phức tạp mà bạn có thể kể tên. Trong những lĩnh vực này, sự thuần thục có vai trò quyết định mức độ rủi ro. Với những trường hợp như thế, nghiên cứu sách vở thôi chưa đủ, rèn luyện trong thực tiễn cần thiết hơn nhiều. Thứ hai, trong khi nghiên cứu nhiều bệnh án phức tạp về nhiều căn bệnh khác nhau đóng vai trò quan trọng trong quá trình mở rộng hiểu biết https://thuviensach.vn của một sinh viên y khoa, thì việc nhấn mạnh thái quá vào sự phức tạp này lại mang đến nguy cơ chú trọng không đúng mức tới sự luyện tập có tính gợi nhớ và lặp lại những triệu chứng cơ bản – những triệu chứng điển hình của một căn bệnh biểu hiện trên hầu hết các bệnh nhân mắc bệnh này. “Có một nhóm các căn bệnh nhất định chúng tôi muốn các bạn nắm rõ,” Larsen nói. “Do đó chúng tôi sẽ yêu cầu các bạn khám nhiều lần cho các bệnh nhân tiêu chuẩn và nhận xét quá trình thực hiện của chính các bạn cho đến khi nắm rõ và khiến chúng tôi thấy rằng, ‘Tôi thực sự làm tốt điều đó.’ Vấn đề không phải là chúng ta áp dụng chiến lược này hay chiến lược kia, sự đa dạng hay sự lặp lại. Chúng tôi cần chắc chắn rằng chúng ta đang ở trong trạng thái cân bằng phù hợp. Chúng tôi cũng nhận ra rằng đôi khi chúng ta sa vào cái bẫy của sự quen thuộc. ‘Tôi từng nhìn thấy rất nhiều bệnh nhân mắc bệnh này, tôi không muốn tiếp tục gặp họ nữa.’ Nhưng kỳ thực, sự rèn luyện có tính gợi nhớ và được lặp lại đóng vai trò thiết yếu giúp hình thành trí nhớ dài hạn, đồng thời cũng là một chiến lược tập huấn quan trọng. Khía cạnh quan trọng thứ ba là những kinh nghiệm thực tế. Đối với một bác sĩ, quá trình khám bệnh cung cấp một chu kỳ tự nhiên về luyện tập có tính gợi nhớ bị cách quãng, sự lồng ghép đan xen và đa dạng hóa. “Có quá nhiều thao tác y khoa dựa trên những hiểu biết có tính kinh nghiệm. Đó là lý do vì sao sau hai năm học chúng tôi bắt đầu đưa các bạn sinh viên ra khỏi lớp học và đặt họ vào môi trường chữa trị thực tế. Một câu hỏi lớn là, làm thế nào để kết hợp giữa kiến thức và kinh nghiệm? Chúng ta đã bỏ lỡ quá nhiều trải nghiệm. Điều gì khiến chúng ta nhận ra kinh nghiệm nào trong số đó đáng để ta học hỏi?” https://thuviensach.vn Một hình thức luyện tập giúp chúng ta học hỏi từ những kinh nghiệm đã được nhà giải phẫu thần kinh Mike Ebersold mô tả trong chương 2, là suy ngẫm. Một số người có thói quen suy nghĩ nhiều hơn những người khác, do đó Doug Larsen đã mở rộng nghiên cứu sang cách bạn có thể xây dựng những suy nghĩ của mình như một phần thiết yếu của quá trình rèn luyện, giúp sinh viên thực hiện quá trình suy nghĩ như một thói quen. Ông đang tiến hành một thí nghiệm, trong đó ông yêu cầu các sinh viên soạn những bản tóm tắt hằng ngày và hằng tuần về những gì họ đã làm, làm như thế nào và cả những gì họ có thể làm khác đi để cải thiện kết quả lần sau. Ông phát hiện ra rằng, có khả năng những suy nghĩ thường nhật của họ, giống như một hình thức luyện tập hồi tưởng một cách ngắt quãng, có vai trò quan trọng trong thực tiễn ứng dụng các phương pháp chữa trị không kém gì các hình thức kiểm tra và thi cử trong việc trau dồi năng lực của các sinh viên trong trường y. Vậy còn các bài giảng trên lớp, hay các khóa đào tạo tại chức điển hình được rút ngắn lại trong vài ngày thì sao? Theo tính toán của Larsen, các thực tập sinh tại trường của ông dành 10% thời gian tại các hội thảo để lắng nghe các bài giảng. Đó có thể là một bài thuyết trình về các căn bệnh chuyển hóa, về các căn bệnh truyền nhiễm khác nhau hay về các loại thuốc. Diễn giả dùng máy chiếu và bắt đầu đi từ đầu đến cuối bài giảng. Thường thì các bác sĩ sẽ được phục vụ bữa trưa. “Cân nhắc đến lượng kiến thức có thể bị quên lãng, tôi thấy chán nản vì chúng ta đã phung phí quá nhiều tài nguyên vào một hoạt động, mà theo các nghiên cứu về quá trình học tập thì cái cách nó đang được thực hiện bị đánh giá là thiếu hiệu quả. Các sinh viên y khoa và bác sĩ nội trú tham dự các hội thảo này mà không hề xem lại tài liệu đã sử dụng thêm một lần nào nữa. Vấn đề ở đây không chỉ là xác suất xảy ra một tình huống ngẫu nhiên trong tương lai khi mà họ sẽ khám cho một bệnh nhân mắc chứng bệnh liên quan https://thuviensach.vn tới chủ đề của hội thảo đó. Mặt khác, họ không nghiên cứu tài liệu và tất nhiên họ cũng chẳng hề bị kiểm tra về các kiến thức được đề cập trong tài liệu đó, họ chỉ đơn thuần ngồi nghe rồi ra về.” Larsen muốn chứng kiến ít nhất một hành động gì đó được thực hiện nhằm cản trở quá trình quên lãng: một bài kiểm tra cuối buổi thảo luận là bước mở đầu cho quá trình rèn luyện trí nhớ một cách ngắt quãng. “Thực hiện các bài kiểm tra như là một phần của sự tiến bộ và chương trình giảng dạy. Mỗi tuần bạn đều biết bạn sẽ nhận được qua email mười câu hỏi mà bạn cần giải đáp.” Ông thắc mắc: “Chúng ta đang làm gì để cấu trúc những hệ thống giáo dục và đào tạo có thể ngăn chặn hay chí ít là can thiệp vào quá trình quên lãng vẫn đang xảy ra. Và làm thế nào để chắc chắn rằng mọi trường học trong hệ thống giáo dục đều ủng hộ và sử dụng chúng một cách thống nhất, điều mà chúng ta đang cố gắng đạt đến? Quan điểm hiện tại vẫn nghiêng về các chương trình đào tạo mà trong đó các bác sĩ nội trú chỉ thuần túy học theo phương thức đọc chép: bạn phải có giáo trình, bạn phải có hội thảo và chấm hết. Họ tổ chức những buổi thảo luận lớn, họ điều động cả một đội ngũ giảng dạy thuyết trình tại đó. Và cuối cùng, thành quả thực sự mà chúng ta đạt được là vô cùng nhỏ bé.” NHỮNG NGUYÊN TẮC NÀY CÓ THỂ ĐƯỢC ÁP DỤNG RỘNG RÃI Những trận bóng tại các trường đại học có vẻ không phải là một nơi phù hợp để tìm kiếm một hình mẫu học tập, nhưng cuộc đối thoại của chúng tôi https://thuviensach.vn với huấn luyện viên Vince Dooley về chế độ luyện tập tại trường Đại học Gieorgia lại mang đến một tình huống thú vị. Dooley là một nhân vật đầy quyền lực trong giới này. Trên vai trò huấn luyện viên trưởng của đội tuyển bóng đá Bulldogs từ năm 1964 đến 1988, ông đã tích lũy được một bề dày thành tích đáng kinh ngạc với 201 trận thắng, chỉ có 77 trận thua và 10 trận hòa, sáu lần đoạt danh hiệu của liên đoàn thể thao và một lần đoạt cúp quốc gia. Ông tiếp tục làm việc như giám đốc Trung tâm Huấn luyện Vận động viên của trường đại học, nơi ông xây dựng một trong số những chương trình huấn luyện ấn tượng nhất cả nước. Chúng tôi phỏng vấn huấn luyện viên Dooley về cách các cầu thủ cố gắng đạt tới trình độ thành thạo mọi kỹ thuật phức tạp của môn bóng đá. Ý tưởng của ông về huấn luyện và đào tạo xoay quanh một chu kỳ hằng tuần kéo dài từ trận đấu được tổ chức vào thứ Bảy này cho đến trận đấu diễn ra vào thứ Bảy kế tiếp. Có rất nhiều điều cần nắm vững trong khoảng thời gian tương đối ngắn này: nghiên cứu lối chơi của đối thủ qua các bài học trên lớp, thảo luận về các chiến lược tấn công và phòng thủ nhằm đánh bại họ, áp dụng kết quả của các buổi thảo luận vào quá trình luyện tập trên sân, phân tích các chiến lược biến chúng thành thao tác di chuyển của từng cá nhân và thử nghiệm, liên kết các đội hình thành một chỉnh thể thống nhất và tiếp tục lặp lại các bước di chuyển đó cho đến khi chúng trở nên thuần thục, nhuần nhuyễn. Song song với tất cả quá trình đó, các cầu thủ phải luôn duy trì các kỹ năng cơ bản ở phong độ đỉnh cao: phong tỏa, cản phá, đón bóng, đưa bóng vào, di chuyển bóng. Dooley tin rằng, thứ nhất bạn phải duy trì luyện tập liên tục các kỹ thuật nền tảng, vĩnh viễn, để giữ chúng luôn sắc sảo, nếu không bạn sẽ kiệt sức; nhưng điều thứ hai bạn cần biến đổi quá trình tập https://thuviensach.vn luyện vì lặp lại quá nhiều sẽ khiến mọi thứ trở nên nhàm chán. Các huấn luyện viên của từng vị trí làm việc riêng với từng cầu thủ của họ về các kỹ năng cụ thể và sau đó là về cách họ chơi ở vị trí đó trong quá trình tập của cả đội. Có điều gì khác? Ở đây họ đang tập luyện cho một trận đấu bóng. Vấn đề nằm ở chỗ mỗi cầu thủ phải nắm vững chiến thuật thi đấu của mình. Họ có những trận đấu đặc biệt với sự triển khai của cả đội, điều làm nên thắng thua khác biệt trong trận đấu chính thức. Theo lời kể của Dooley, những trận đấu đặc biệt này đóng vai trò tương tự như hình mẫu của quá trình học tập bị gián đoạn: họ chỉ luyện tập vào các ngày thứ Năm, do đó luôn có một tuần nghỉ giữa các kỳ luyện tập, và các trận đấu thì diễn ra không theo trình tự cố định. Với từng ấy điều được thực hiện, chẳng có gì ngạc nhiên khi bí quyết quan trọng làm nên thành công của đội bóng là một thời khóa biểu chi tiết hằng tuần và hằng tháng, trong đó có sự lồng ghép giữa các yếu tố cá nhân với sự tập luyện của cả đội. Mỗi ngày tập luyện bắt đầu bằng việc tập trung hoàn toàn vào các kỹ năng cơ bản của các cầu thủ ở từng vị trí. Tiếp đó, các cầu thủ tập theo từng nhóm nhỏ, tiến hành thao diễn lối chơi trong đó có sự kết hợp của vài vị trí. Các phần này dần được kết hợp và thực hành bởi cả đội. Họ cùng lúc làm chậm hoặc đẩy nhanh tốc độ trận đấu, rèn luyện cả về tư duy lẫn thể chất của cầu thủ. Trước giữa tuần, cả đội sẽ đấu những trận chính thức với phong độ cao nhất. “Bạn đang nắm bắt nhanh và bạn phải phản ứng nhanh,” Dooley nói. “Nhưng khi gần tới trận đấu chính thức, bạn lại giảm tốc. Đây là lúc tiến hành một dạng diễn tập không có sự tiếp xúc thể chất. Về cơ bản mọi trận đấu đều bắt đầu theo cùng một cách, nhưng rồi đối phương sẽ tạo nên https://thuviensach.vn những thay đổi. Vì vậy bạn phải có khả năng thích ứng với những thay đổi đó. Bạn bắt đầu hành động và nói: ‘Nếu họ phản ứng như thế, thì đây là điều bạn sẽ làm.’ Bạn điều chỉnh để thích nghi. Nếu bạn thực hiện điều đó đủ nhiều trong những tình huống khác nhau, thì dù trên sân có xảy ra bất kỳ tình huống nào bạn đều có thể ứng phó tốt.” Một cầu thủ làm chủ chiến thuật thi đấu của mình như thế nào? Anh ta trở về và hình dung lại các trận đấu trong đầu. Có thể anh ta sẽ xem xét chúng từ đầu đến cuối. Cường độ rèn luyện thể chất không thể quá căng thẳng, nếu không bạn sẽ kiệt sức, Dooley nói: “do vậy nếu như bạn phải tiến hành bước này hay chuyển hướng sang bước khác cho một trận đấu, bạn có thể diễn tập nó trong đầu, chỉ cần nghiêng người như thể bạn đang thực sự làm điều đó. Và rồi, nếu xảy ra điều gì đó cần điều chỉnh, bạn vẫn có thể thực hiện nó trong đầu. Bạn mô phỏng những điều có thể xảy ra bằng cách đọc chiến thuật, thao diễn trong đầu, có thể tiến hành một hai bước trong số đó. Bởi thế, hình thức diễn tập này được bổ sung vào quá trình đào tạo trong lớp học và trên sân cỏ.” Họ tổ chức các cuộc họp cuối cùng giữa những tiền vệ vào sáng thứ Bảy, xem xét kế hoạch trận đấu và thử hình dung trong đầu diễn biến từ đầu đến cuối. Các huấn luyện viên có thể lên mọi phương án phản công họ muốn về một trận đấu có tính giả thuyết, nhưng khi tiến hành trận đấu, quyền định đoạt lại nằm trong tay các tiền vệ. Huấn luyện viên Dooley sử dụng mọi phương pháp luyện tập để dẫn dắt đội bóng của mình: sự hồi tưởng, đa dạng hóa nội dung luyện tập, tư duy và phân tích kỹ lưỡng. Các tiền vệ dày dạn kinh nghiệm nghiên cứu trận đấu thứ Bảy – mường tượng ra diễn tiến từ đầu đến cuối trận đấu, các phản ứng, https://thuviensach.vn điều chỉnh – tương tự với cách những nhà phẫu thuật thần kinh có thâm niên diễn tập quy trình sẽ thực hiện trong phòng phẫu thuật. Những điều cần ghi nhớ Đây là một bản tóm tắt ngắn gọn về những gì chúng ta được biết về hình thức rèn luyện tập trung và những hình thức thay thế nó. Các nhà khoa học sẽ còn tiếp tục đào sâu nghiên cứu nhằm làm giàu thêm hiểu biết của nhân loại về vấn đề này. Chúng ta vẫn nuôi dưỡng niềm tin sâu sắc rằng bản thân sẽ học tốt hơn nếu chúng ta tập trung vào một vấn đề duy nhất và kiên nhẫn tập luyện. Không những thế niềm tin này còn liên tục được khẳng định nhờ những tiến bộ rõ rệt đến từ quá trình “luyện tập-luyện tập-luyện tập”. Nhưng các nhà khoa học gọi sự luyện tập được tăng cường trong giai đoạn tiếp nhận kỹ năng này bằng thuật ngữ “hiệu quả tức thời” và phân biệt nó với “hiệu quả của những hành vi đã trở thành thói quen cơ bản”. Những kỹ xảo đích thực làm nên sức mạnh của thói quen như cách quãng, lồng ghép và đa dạng hóa dẫn tới việc trì hoãn quá trình tiếp nhận một cách rõ ràng cũng như không thể mang đến sự tiến bộ trong quá trình luyện tập, điều giúp khuyến khích và trao cho chúng ta thêm sức mạnh để nỗ lực hơn nữa. Nhồi nhét kiến thức, một hình thức tập luyện tập trung, được ví như hiện tượng ăn uống vô độ dẫn đến phải rửa ruột (binge-and-purge). Kiến thức được hấp thu cũng nhiều, nhưng phần lớn đều trôi tuột đi chỉ trong một thời gian ngắn. Những hành vi đơn giản kiểu này làm gián đoạn quá trình học tập và tập luyện theo từng đợt, tạo ra khoảng cách thời gian https://thuviensach.vn (quãng nghỉ) giữa các đợt đó giúp gia tăng tính hiệu quả của cả sự tiếp thu và ghi nhớ, quả thực đã làm nên sức mạnh có tính thói quen. Bạn đang băn khoăn một quãng nghỉ kéo dài khoảng chừng bao lâu? Câu trả lời rất đơn giản: đủ để sự rèn luyện không trở thành sự lặp lại. Hoặc ít nhất là đủ thời gian cho một vài sự quên lãng chen vào. Một chút lãng quên giữa các giai đoạn có thể là một điều tích cực, nếu nó khiến bạn phải cố gắng hơn trong luyện tập, nhưng bạn sẽ không muốn quên nhiều đến mức phải nghiên cứu lại tài liệu mới khôi phục được kiến thức. Khoảng thời gian giữa các giai đoạn ôn luyện tạo điều kiện cho trí nhớ được củng cố. Dường như giấc ngủ đóng một vai trò to lớn trong việc củng cố trí nhớ, do vậy duy trì ít nhất một ngày nghỉ giữa các lần luyện tập sẽ có tác dụng rất tốt. Vài dụng cụ đơn giản như một bộ thẻ học chữ số có thể cung cấp ví dụ về sự cách quãng đó. Giữa những lần lặp lại của một tấm thẻ riêng lẻ bất kỳ, bạn tiếp cận với nhiều tấm thẻ khác. Nhà khoa học Đức Sebastian Leitner đã phát triển một bộ các tấm thẻ của chính ông để phục vụ cho việc ôn luyện theo hình thức cách quãng. Hệ thống này còn được biết tới là chiếc hộp Leitner. Bạn hãy thử tưởng tượng nó giống như một loạt những chiếc hộp, mỗi chiếc bao gồm bốn tấm thẻ có ghi thông tin. Trong chiếc hộp đầu tiên là những tấm thẻ ghi kiến thức (như các bản nhạc không đánh số, các nước đi trong môn khúc côn cầu hay các từ vựng trong tiếng Tây Ban Nha). Các kiến thức này cần được ôn tập thường xuyên vì chúng thường khiến bạn nhầm lẫn. Hộp thứ hai chứa những tấm thẻ ghi những thông tin là sở trường của bạn và bạn ôn tập với chiếc hộp này ít hơn so với chiếc đầu tiên, có lẽ chỉ khoảng một nửa. Những tấm thẻ trong chiếc hộp thứ ba được ôn tập ít hơn so với những tấm thẻ trong hộp thứ hai, và cứ thế. Nếu bạn bỏ lỡ một câu hỏi, đọc nhầm bản nhạc, nhầm lẫn về cú đẩy bóng một chạm, bạn chuyển nó sang chiếc hộp mà bạn sẽ ôn tập thường xuyên hơn. Ý https://thuviensach.vn