🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Mật Tàu Ngầm Ecsoplora
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Viết Linh
BÍ MẬT TÀU NGẦM ÉC-SƠ-PLÔ RA
Khổ sách: 13cmX19cm
Số trang: 222
Thể loại: tình báo khoa học kỹ thuật
Nhà xuất bản Hải phòng – 1985
Đánh máy: tamchec, muatatnang, conguyen, Totochan, BacNguyen, Alice, lemontree123 và 4DHN
https://thuviensach.vn
LỜI GIỚI THIỆU
Sau nền văn minh cổ đại, châu Âu bị giai cấp phong kiến dìm vào đêm, dài trung cổ suốt mười lăm thế kỷ. Nhiều lĩnh vực, trong đó có khoa học kỹ thuật đã bị kìm hãm.
Phát minh ra nghề in, việc dùng chữ đúc kim loại của người Đức Giô han Quy-ten-béc năm 1455 khiến tư tưởng và tri thức được truyền bá nhanh chóng, rộng rãi; sự phát hiện ra châu Mỹ của nhà hàng hải Cri-xtốp Cô lông năm 1490 đã mở rộng sự hiểu biết của con người, đã đánh thắng nhiều
quan niệm lạc hậu. Hai sự kiện này có thể xem là một cái mốc nổi bật đánh dấu chuyển biến nhiều mặt trong đó có khoa học kỹ thuật ở châu Âu. Cả một châu lục từ thời trung cổ bước sang thời đại phục hưng. Từ đây, châu Âu ở vào một giai đoạn sôi nổi với những phát minh có tầm quan trọng đặc biệt dẫn đến sự chuyển mình lớn trong cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất (còn gọi là cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII). Cuộc cách mạng này bắt đầu từ Anh và cũng sôi sục nhất ở nước này.
Để rút ngắn thời gian nghiên cứu và có thể nhanh chóng bắt tay vào sản xuất hàng loạt những mặt hàng quan trọng hòng tranh giành quyền lợi, bọn gián điệp khoa học kỹ thuật và kinh tế đã không ngừng hoạt động với bất kỳ một thủ đoạn nào đã mua bán hoặc đánh cắp những bí mật của nhau đồng thời ra sức tìm mọi cách giấu kín bí mật của mình. Hành động của chúng đã dẫn đến không biết bao nhiêu bi kịch cho những tài năng, những nhà khoa học chân chính, yêu nước và người dân lương thiện.
Cách mạng tháng Mười Nga thành công chẳng những phá vỡ một mắt xích quan trọng trong hệ thống đế quốc mà còn đập tan giấc mộng làm giàu của nhiều tên tư bản nước ngoài, song âm mưu kiếm lời và nhòm ngó tài nguyên đất nước Xô viết của chúng vẫn không giảm. Với lòng yêu nước
https://thuviensach.vn
nồng nàn và ý thức độc lập tự chủ, với tinh thần cảnh giác cao độ, nhân dân và các cán bộ khoa học Liên Xô đã bẻ gẫy mọi ý đồ đen tối của chúng.
Nhân dân Liên Xô là những người đổ máu nhiều nhất trong Đại chiến thế giới lần thứ hai và chính họ đã góp phần lớn vào việc đánh bại chủ nghĩa phát xít nhưng lợi dụng sự thất bại của nước Đức Hít-le, bọn gián điệp Anh, nhất là Mỹ đã giành giật những bí mật quân sự của Đức và bắt đi nhiều nhà bác học Đức mang về nước mình để khai thác chất xám của họ phục vụ mục đích chiến tranh chống nhân loại của chúng. Chúng không từ một thủ đoạn dã man nào để đạt được ý đồ này nhằm rút ngắn thời gian chế tạo và hoàn chỉnh những vũ khí quân sự hiện đại hòng chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa mà sau Đại chiến lần thứ hai, thực sự đã thành một hệ thống ngày càng lớn mạnh.
Với bảy truyện ngắn sinh động, Bí mật tàu ngầm Éc-sơ-plô-ra đã đề cập đến một số sự kiện có thật xảy ra trong thời gian dài ở châu Âu suốt từ thế kỷ XVI đến năm 1945. Vượt khỏi nội dung thường gặp ở một số truyện thuộc thể loại tình báo, Bí mật tàu ngầm Éc-sơ-plô-ra đã cung cấp những tri thức nhất định và giúp người đọc có thái độ đúng khi nhìn nhận cuộc sống, có hành động đúng chống lại âm mưu phá hoại nhiều mặt của kẻ thù và bảo vệ những tài sản quý giá của Tổ quốc.
Xin trân trọng giới thiệu tập truyện với bạn đọc.
NHÀ XUẤT BẢN HẢI PHÒNG
https://thuviensach.vn
NGƯỜI CHẾ TẠO ĐỒ SỨ
Nghe tiếng bánh xe ngựa lọc cọc, Bi-ốt-ghe vội mở mắt choàng tỉnh đậy. Trời! Chẳng lẽ đã sáng rõ đến thế này rồi cơ à? Bi-ốt-ghe dụi mắt, nhìn ra. Quả nhiên ánh nắng đã xiên qua khung cửa sổ chiếu xuống cái giá trên tường dựng bát đĩa. Những cái đĩa xam xám, cũ kỹ ngày thường nom đã xấu xí; giá có ánh nắng rọi vào lại càng phô bầy cái màu xám xịt như bám đầy cáu ghét vậy.
Bi-ốt-ghe tung chăn, xỏ chân vào đôi giầy cũ đã há mõm cứ thế chạy một mạch tới hiệu bào chế thuốc Xoóc-nơ. Bi-ốt-ghe rất biết tính ông chủ mình. Chỉ cần cậu đến chậm độ mười lăm phút hoặc làm điều gì trái ý lão chủ một chút là có thể bị đuổi ngay khỏi hiệu.
Thời buổi khó khăn ở cái vương quốc Xắc-xôm này, công việc thì ít, người làm thì nhiều, bao người có nghề trong tay mà còn thất nghiệp huống chi là lũ trẻ mười ba, mười bốn đi học việc như Bi-ốt-ghe này!
Hiệu thuốc kia rồi! Mấy cánh cửa gỗ đã nhấc ra. Bi-ốt-ghe vội rón rén đi vào. Thì ra bác vú đi ở cho nhà lão Xoóc-nơ, vốn thương chú bé học việc nên đã mở giúp cửa cho cậu. Thấy Bi-ốt-ghe tới, bác ta đang lau dở tấm cửa kính ngoài quầy hàng vội đưa miếng giẻ lau cho Bi-ốt-ghe rồi khẽ đưa mắt vào nhà trong như ra hiệu cho chú bé giúp việc hãy coi chừng.
Quả nhiên chỉ một lúc sau, lúc bác vú vừa xuống bếp thì trong phòng ngủ của ông chủ đã vang lên tiếng ngáp rõ dài, kèm theo là một câu hỏi càu nhàu:
- Cái thằng chết dẫm Bi-ốt-ghe đã đến chưa ấy nhỉ?
Bi-ốt-ghe vội đáp:
- Cháu đã đến rồi ạ! Cháu đang lau tủ kính ạ!
https://thuviensach.vn
- Có nhanh tay lên không mà còn rửa chai lọ chứ! Tao sắp dậy pha thuốc đây! Hừm... - Lão chủ vừa càu nhàu khạc nhổ bừa bãi.
- Vâng ạ! - Bi-ốt-ghe lau xong mặt kính bưng một sọt chai lọ ra bể nước trong sân. Cậu vừa đi vừa mỉm cười sung sướng: “May mà lão ta không biết mình đến muộn”.
Tiếng là học việc ở hiệu bào chế thuốc nhưng có bao giờ Bi-ốt-ghe được pha thuốc. Công việc chủ yếu của cậu tạ là rửa chai lọ, lau chùi dụng cụ, đồ đạc trong hiệu thuốc.
Bi-ốt-ghe thấy thèm cái cảnh được mặc một chiếc áo choàng trắng, đội mũ trắng bỏ một thứ bột thuốc nào đó vào một cái ống đo rồi dùng một chiếc đũa thủy tinh vừa khẽ khuấy đều vừa đổ một thứ thuốc nước khác vào, thế là trong cái ống đo thủy tinh đó: thứ nước xanh màu nước biển tự nhiên bốc khói như sôi lên sùng sục rồi chuyển dần sang màu đỏ tươi. Thế là từ thứ thuốc màu đỏ này, người ta sẽ pha thêm nước cất hoặc cồn vào rồi đổ ra những cái lọ con đem bán. Khách hàng chỉ việc mua về, đem bôi lên chỗ mụn nhọt là khỏi.
“Không biết đến bao giờ, mình mới được đổ thứ thuốc này vào với thứ thuốc kia để pha chế thuốc thành một loại thuốc chữa bệnh”. Bi-ốt-ghe vừa buồn rầu suy nghĩ vừa rửa chai lọ. Có lẽ vì biết được những loại “thuốc” kỳ diệu này, nên Bi-ốt-ghe đã không rửa chai lọ bình thường vì làm như vậy rửa đỡ tốn công, mất nhiều thì giờ. Anh thường ngâm chai lọ vào nước tro bếp một đêm, để rồi sáng hôm sau mới dùng cát, tro để súc kỹ. Những chai thuốc! Có khi thứ thuốc chỉ đáng giá có năm hào thì lão chủ sẽ bán thành năm đồng, nghĩa là tăng giá lên gấp mười lần sau khi đã trang trí vào vỏ chai cho đẹp lên, chú ý từ cái nhãn hiệu dán ngoài tới cái nút chụp giấy bóng đỏ, cắt thành những cái dải nhỏ loăn xoăn rất đẹp.
Không hiểu sao dạo này đi đến đâu, Bi-ốt-ghe cũng nghe người ta nói tới việc chế tạo vàng. Chỉ cần có được “hòn đá triết lý” trong tay, thế là đem bất cứ thứ kim loại gì tới, sắt hay đồng, chì hay thiếc cứ hễ đụng phải là biến ra vàng cả.
https://thuviensach.vn
Chiều nay, Bi-ốt-ghe đi làm về muộn vì mấy ông khách tới mua thuốc chậm. Đóng cửa xong, Bi-ốt-gie rảo bước đi. Tới một cái xó tối hơi khuất ở góc phố, bỗng Bi-ốt-ghe nom thấy có bọc gì của ai đánh rơi ở đó. Cậu cúi xuống nhặt lên và mở ra: một cuốn sách chép tay của một nhà giả kim thuật nào đó dạy cách chế tạo vàng.
Tối hôm đó, cơm nước xong. Bi-ốt-ghe thắp đèn lên, đóng cửa lại đọc ngấu nghiến những dòng chữ chi chít ghi trong cuốn sách.
Bi-ốt-ghe gấp cuốn sách lại, mặt lộ đầy vẻ trầm ngâm suy nghĩ. Trước mắt Bi-ốt-ghe như đang hiện ra một thành phố cổ kính nào đó đường phố thì hẹp đến mức tưởng chừng một chiếc xe ngựa cũng không đi nổi; phố nào cũng ngoằn nghèo hai bên mọc lên hàng dãy nhà nhỏ bé tường mốc xanh rì đang cố chen chúc nhau bằng cách vươn cao những mái nhọn kiểu gô-tich lên trời. Nhà nào nhà nấy cửa đóng im ỉm suốt ngày đêm.
Chỉ những người tinh mắt và để ý theo dõi thật kỹ trong đêm khuya mới thấy thỉnh thoảng có một làn khói xanh huyền ảo bốc lên từ một mái nhà nào đó. Bi-ốt-ghe giở cuốn sách ra xem. Anh chăm chú nhìn vào bên trong một trong những ngôi nhà tỏa khói đó. Bức tranh vẽ nên cảnh một nhà giả kim thuật làm việc trong phòng thí nghiệm.
Đó là một ông lão đã già, râu tóc bạc phơ, trán hói lên tận đầu. Ông ta mặc một chiếc áo dài như một vị tu sĩ, một tay cầm một cái giống như cái muôi không hiểu là đang hứng một chất lỏng gì từ trong một cái vòi thủy tinh đang chảy ra, nhỏ giọt; tay kia của nhà giả kim thuật lại đặt vào một cái bình cát đặt trên lò lửa cháy rừng rực.
Xung quanh ông ta bên phải, bên trái, trên giá cao, trên tường chỗ nào cũng thấy để la liệt những chai lọ, những bình cầu, bình cổ cong, nào ai mà biết được trong đó có đựng chất gì.
Một cái sọ người trắng hếu đặt trên, cái giá gỗ nhỏ lúc nào cũng như nhăn răng ra cười và giương hai hốc mắt sâu hoắm ra nhìn công việc say sưa của nhà giả kim thuật. Mà nào đã hết, còn có những con dơi to, cá sấu,
https://thuviensach.vn
chim cú nhồi rơm, da mốc đen sì càng làm cho nơi này trở nên huyền bí hơn.
Giá như không có tiếng kéo bễ phì phò tại một bếp than hồng gần đấy, thì có lẽ cũng khó mà nhận ra một người giúp việc còn trẻ, hai tay áo xắn cao, mặt đầy mồ hôi nhễ nhại đang nai lưng ra làm. Bên cạnh cũng đủ cả kìm, kẹp nom tựa tựa như một lò rèn nhưng cạnh đấy lại có cối, chầy, thuyền tán, bình, chậu... để trên một cái ghế dài.
Trong một chiếc nồi cất, nước vẫn sôi sùng sục. Đôi mắt nhà giả kim thuật vẫn không rời khỏi cái muôi, hết đổ nó vào bình này lắc lắc; ông ta lại chuyển sang một cái bình khác để khuấy trộn. Thỉnh thoảng ông ta lại giở sách ra tra cứu mà sách càng bày la liệt trên bàn đủ các loại dày, mỏng, to, nhỏ.
Những lúc mệt mỏi, nhà giả kim thuật lại ngả lưng tựa vào chiếc ghế bành, tay sờ vào bộ râu rậm. Rồi ông ta lầm rầm đọc thần chú như cầu xin một đấng thần thánh cao siêu nào đó phù hộ cho ông sớm luyện được ra vàng.
Bi-ốt-ghe thấy vận may đã đến với anh. Mình làm việc ở hiệu thuốc thì thiếu gì chai lọ, bình để pha chế để tìm ra hòn đá triết lý. Trước việc cậu bé giúp việc xin ngủ lại ở ngay hiệu thuốc, lão chủ thấy chẳng có gì là phiền toái cả: hiệu thuốc đến đêm đóng cửa, Bi-ốt-ghe cứ lấy mấy tấm ván ra kê ở giữa nhà mà ngủ cũng chẳng có sao! Hơn nữa, nó lại trông nhà cho.
Vả lại Bi-ốt-ghe tiếng là học việc đấy nhưng thật ra công việc chủ yếu của nó là rửa chai lọ, quét dọn nhà cửa và làm tất cả công việc vặt trong nhà y như kẻ hầu người hạ vậy. Tối đến nhà có khách, có sai nó ra đầu phố mua cân thịt quay hay chai rượu, chắc cũng chẳng khó khăn gì.
Từ ngày Bi-ốt-ghe tới ở hiệu thuốc, Lão chủ cũng phải công nhận đó là một cậu bé hiếu học, tối nào cũng chong đèn đọc sách tới khuya. Hôm nào không đọc sách thì Bi-ốt-ghe tắt đèn đi ngủ sớm chứ không chơi bời, la cà ngoài phố như đám trẻ hư hỏng khác.
https://thuviensach.vn
Nhưng mấy hôm nay có điều hơi lạ là lão chủ rõ ràng nom thấy Bi-ốt ghe tắt đèn đi ngủ từ sớm thế mà ngày hôm sau, cậu học việc này mắt cứ đỏ hoe, rửa chai lọ được một tý đã uể oải, ngáp ngắn ngáp dài. Khi sai Bi-ốt ghe lấy chày cối ra tán một loại thuốc bột, lão chủ để ý thấy cậu học việc này có lúc lại bỏ cả chày ra ngoài... cối mà nghiền: thì ra Bi-ốt-ghe ngủ gật. Thật là… thật là lạ.
Nếu vậy thì... lão chủ bắt đầu nghi ngờ Bi-ốt-ghe. Vậy thì ban đêm hắn đi đâu? Hay hắn làm gì lúc nửa đêm? Việc này phải tìm cho ra lẽ mới được!
Chiều nay, ngay trong lúc pha chế thuốc, lão chủ đã nói dóng cho mọi người biết là lão đi dự tiệc mừng sinh nhật một người bạn, cũng làm nghề bào chế thuốc như lão ở cách xa đây tới mấy chục dặm. Do đó lão sẽ ngủ lại đêm ở đấy và gần trưa mai lão mới về.
Lão còn gọi riêng Bi-ốt-ghe ra một chỗ và bảo:
- Theo như dự báo thời tiết thì tối nay trở trời có thể có mưa, do đó cửa hàng phải cài then chặn kỹ ở phía trong.
Chiều hôm đó, mọi người làm việc ở hiệu bào chế thuốc Xoóc-nơ quả là có nom thấy ông chủ nghỉ việc sớm, ăn mặc khá sang trọng; bước lên xe ngựa, đi dự tiệc.
Nhìn cỗ xe lăn bánh, Bi-ốt-ghe thấy sung sướng trong lòng khi nghĩ tới công việc nghiên cứu của mình đêm nay…
... Sự thật thì lão chủ sau khi đã lên xe ngựa, lão bảo bác đánh xe đưa lão đến một quán rượu cách đấy không xa lắm. Cơm no rượu say xong, tới khuya, lão ta mới lững thững bách bộ quay về. Những người dân ở phố xá đã ngủ say, nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm. Lão đi tới đầu phố và thấy ở cửa hiệu thuốc của mình có ánh đèn hắt ra. Lão rón rén lại gần, ghé mắt vào khe cửa. Quả nhiên dưới ánh đèn lờ mờ, lão nom thấy cậu học việc của mình đang chăm chú nhìn vào cái cân tiểu ly, trên một đĩa cân là những viên, những hạt suyn-phát đồng xanh xanh. Lão tức uất lên tận cổ.
https://thuviensach.vn
Thảo nào ít lâu nay cái bình đựng suyn-phát đồng cứ mỗi ngày một vơi dần. Với ngần kia suyn-phát đồng, lão có thể pha ra hàng trăm lọ thuốc đau mắt. Thế mà tên súc sinh này: thật đúng là “nuôi ong tay áo”. Lão cố nén cơn giận lại để xem tên này còn bày trò gì nữa, thì thấy Bi-ốt-ghe bỏ chỗ suyn-phát đồng này vào một cái bình cổ cong đựng một thứ nước anh ánh vàng đang sủi bọt sôi sùng sục. Phía dưới bình là một cái bếp đèn cồn, ngọn lửa bùng cháy xanh lè.
Thỉnh thoảng Bi-ốt-ghe lại lấy chiếc đũa thủy tinh ngoáy ngoáy vào bình rồi giơ lại gần ngọn đèn để nhìn cho rõ.
Lão xót xa nhìn cái bình thủy tinh mới mua khá đắt tiền mà hàng ngày lão quý như vàng. Loại bình này lão vừa đặt xưởng thủy tinh làm riêng cho lão, theo một kích thước đã quy định sẵn.
Bên cạnh Bi-ốt-ghe thấy bày la liệt những chai lọ đựng hóa chất. Rồi cả lưu huỳnh, chì, kẽm, thiếc và cả thủy ngân nữa.
“Không khéo tên này phá hoại cơ nghiệp nhà mình chắc?”. Lão chủ không nén được nữa, lão đập cửa thình thịch, miệng hét tướng lên:
- Mở cửa ngay! Mở cửa ngay! Bi-ốt-ghe!
Nhận ra đúng lão chủ, Bi-ốt-ghe hoảng quá. Cậu luống cuống, chưa biết thu dọn thế nào thì lão chủ đã đẩy được cửa, bước vào. Lão trợn mắt, quát tướng lên:
- Mày làm trò gì thế? Đồ súc sinh! Ra nuôi cái quân này từ trước đến nay, để cho nó phá hại à? Mày có biết cái bình thủy tinh của tao đáng giá bao nhiêu không? Cả gia sản nhà mày cũng không đủ mua được nó đâu!
Bi-ốt-ghe lúng túng đáp:
- Dạ, bẩm ông, cháu đang tìm cách chế ra…. vàng ạ!
- Ối trời ơi! Chế ra vàng? - Lão chủ cười hô hố một lúc rồi mỉa mai nói - Này, mày nói đùa hay nói thật đấy! Chế ra vàng! Đâu đến loại khố rách áo ôm như mày! Nếu chế ra vàng được dễ dàng thì ối người đã làm giàu trước mày rồi. Thế mày có nhớ công việc của mày ở cái cửa hiệu
https://thuviensach.vn
thuốc này không? Rửa chai lọ! Rửa chai lọ! Chỉ có thế thôi! Nếu như mày không bằng lòng với công việc đó thì cuốn gói khỏi đây, ngay lập tức.
Bi-ốt-ghe vốn biết tính lão chủ, hễ đuổi ai là lão đuổi thẳng cánh, đừng hòng lạy van xin xỏ gì cả.
Thế là ngay đêm hôm đó, Bi-ốt-ghe lững thững ra đi, tay xách túi quần áo cũ và cuốn sách dạy về chế tạo vàng.
Biết đi đâu bây giờ? Giữa đêm hôm khuya khoắt thế này? Anh kiếm lấy một cái hàng hiên, ngồi xuống vỉa hè, gục xuống ngủ đi chờ đến sáng hôm sau, quay về nhà.
Trong đêm tối lờ mờ, rõ ràng Bi-ốt-ghe nhìn thấy cổng nhà mình rồi mà anh vẫn còn chần chừ, chưa muốn bước vào.
Vừa lúc đó, bố anh đi làm đêm về, nom thấy con, ông vội hỏi: - Sao con về nhà sớm thế?
Bi-ốt-ghe đành kể hết đầu đuôi câu chuyện cho bố nghe.
Nghe xong, ông bố thở dài, nói:
- Con đã mười bốn, mười lăm tuổi đầu rồi mà vẫn còn dại dột ngây ngô. Vàng là vàng, nếu chế được ra vàng thì ngay đến lão chủ của bố, lão cũng làm được từ lâu rồi. Thôi về nhà, chứ đứng ngoài này làm gì cho nó ốm người ra.
Biết suốt đêm qua, bố mình đi làm về đã mệt nhọc, giờ lại thấy Bi-ốt ghe bị đuổi về, chắc là buồn lắm, anh đành lững thững theo bố bước vào nhà.
Vừa nom thấy Bi-ốt-ghe xách cái túi về, bà mẹ đã thở dài não nuột: - Thế là con bị mất việc rồi à?
Ông bố vội đỡ lời hộ Bi-ốt-ghe:
- Nó... kể ra cũng là một đứa con trai thích nghiên cứu tìm tòi đây, nhưng giờ mà còn định chế ra vàng thì…
https://thuviensach.vn
Bác hàng xóm Vác-ne nghe thấy vậy thì mỉm cười nói với vợ:
- Ra cái cậu này cũng có mộng làm giàu. Kể chế được ra vàng thì ông bố nghỉ việc, không phải đi làm vất vả ở xưởng đúc tiền nữa. Tha hồ mà phong lưu.
Thế là ngay sáng hôm đó, từ cửa miệng bác Vác-ne mà bà con hàng xóm quanh đấy không ai là không biết chuyện Bi-ốt-ghe vì say mê nghiên cứu cách chế tạo vàng nên đã bị lão chủ hiệu thuốc Xoóc-nơ đuổi về.
Hàng ngày đời sống gia đình Bi-ốt-ghe vốn đã túng quẫn rồi, giờ lại phải nuôi thêm một miệng ăn nữa nên càng túng quẫn hơn. Bi-ốt-ghe lại càng đau khổ hơn khi nghe thấy những lời diễu cợt của hàng xóm. Có lần, Bi-ốt-ghe đang ngồi một mình, nhấm nháp một mẩu bánh mì con thì bác Vác-ne chợt nom thấy và bảo:
- Thôi, cậu Bi-ốt-ghe ạ! Hãy ăn tạm mẩu bánh đen đó, chờ cho khi nào chế được vàng rồi thì tha hồ ăn cao lương mĩ vị.
Ba tháng trời ròng rã trôi qua ... Một hôm thấy cảnh gia đình túng thiếu quá, ông bố bèn gọi Bi-ốt-ghe lại và bảo:
- Con ạ! Có lẽ bố đành phải dẫn con đến gặp ông chủ hiệu thuốc để xin việc cho con vậy! Nhưng lần này thì thôi đừng có dại dột mà nghiên cứu, nghiên kiếc gì nữa nhé.
Bi-ốt-ghe buộc lòng, phải lững thững đi theo bố đến hiệu thuốc Xoóc nơ. Tới cửa hiệu, anh phải đứng ở ngoài để bố vào nhà nói trước với lão chủ cái đã. Mãi đến gần nửa giờ sau, lão chủ và bố Bi-ốt-ghe mới quay ra. Chờ cho ông bố cậu học việc về hẳn rồi, lão chủ mới bảo Bi-ốt-ghe vào một căn phòng thâm nghiêm ở nhà lão là nơi có đặt tượng đức chúa Giê-su và các vị thánh tông đồ, đứng giữa những cây nến trắng và bảo:
- Muốn học việc ở đây thì mày phải quỳ xuống thề trước đức Chúa trời là từ nay không được làm những thí nghiệm ma quái, bí mật ở hiệu thuốc Xoóc-nơ này nữa!
https://thuviensach.vn
Bi-ốt-ghe quỳ xuống như một cái máy và lẩm bẩm làm dấu. Nhưng rồi chưa đầy hai tuần lễ sau, vào một đêm thanh vắng, lòng say mê nghiên cứu của anh lại trỗi dậy. Anh lần mò thắp đèn lên và lại lấy cái bình cổ cong ra, đặt những lọ hóa chất xuống cạnh đấy để pha pha chế chế.
Trong lúc anh đang đổ nước cất vào một cái ống đo thủy tinh chưa kịp lấy cái đũa thủy tinh khuấy lên thì bỗng cánh cửa kẹt mở: lão chủ xúng xính trong bộ quần áo ngủ đã cầm đèn bước vào. Lão nghiến răng ken két, nói:
- Hôm quay lại đây, mày đã thề trước Chúa rồi cơ mà!
Bi-ốt-ghe không nói không rằng. Anh hiểu rõ điều gì sẽ đến với anh. Anh vội thu dọn mấy cái quần áo cũ của mình bỏ vào cái túi vải rồi cũng chẳng buồn chào lão chủ nữa, anh mở cửa đi thẳng ra phố. May mà lúc này, trời đã gần sáng.
Bi-ốt-ghe đi lang thang ngoài đường, lòng anh thật rối như canh hẹ. Lúc này biết về đâu bây giờ? Chẳng lẽ về nhà ăn bám vào bố mẹ mà bố mình cũng chẳng có đủ cơm gạo mà nuôi. Đi làm thì không ai mượn. Nghe lão chủ hiệu Xoóc-nơ nói thì hẳn chẳng một hiệu thuốc nào dám mượn mình.
Bi-ốt-ghe đang đi thẫn thờ ngoài đường chợt thấy cỗ xe ngựa đang lững thững đi. Qua khung cửa xe, Bi-ốt-ghe nom rõ hoàng thân Phôn Phiu xten-be. Anh nhớ lại đã có lần anh đem thuốc đến lâu đài của ông ta. Đúng là một tòa lâu đài lộng lẫy, xung quanh mọc đầy hoa, trong lâu đài có tới mấy chục buồng mà một buồng ở đó ít ra cũng rộng bằng cả một hiệu thuốc Xoóc-nơ.
Cỗ xe đang lăn bánh bỗng đứng sững lại. Người đánh xe dù quất mạnh đến mấy, hai con ngựa lồng lên mà xem ra cỗ xe vẫn không nhúc nhích được. Thì ra một bên bánh xe bị sa lầy vào một vũng bùn.
Bác đánh xe xuống xe xắn tay áo vào bắt bánh xe nhưng vẫn không ăn thua gì. Vợ chồng Phôn Phiu-xten-be rón rén mở cửa phía bên kia bước ra.
https://thuviensach.vn
Trong khi hoàng thân, phu nhân còn đang vén tà áo lên rón rén bước đi thì Phôn Phiu-xten-be đã nhận ra Bi-ốt-ghe:
- Đi đâu thế anh bạn trẻ? Hay là đi đem thuốc cho ai sớm vậy? Bi-ốt-ghe rầu rầu nét mặt, đáp:
- Thưa hoàng thân kính mến, tôi không còn làm ở cửa hàng bào chế thuốc Xoóc-nơ nữa!
- Sao vậy? - Hoàng thân ngạc nhiên hỏi - hay là anh chê ông chủ Xoóc-nơ trả lương ít?
- Đâu có thế ạ! - Bi-ốt-ghe bèn kể hết tình đầu cho Phôn Phiu-xten-be nghe.
- Bị mất việc chỉ vì có đầu óc ham nghiên cứu tìm tòi, kể cũng bất công, vô lý thật! - Vị hoàng thân chép miệng như có ý tiếc rẻ - Mà nhất lại là nghiên cứu để chế ra vàng. Hay là thế này nhé! Anh sẽ đến lâu đài của tôi mà làm việc vậy, nhưng liệu anh có đảm bảo là chế được ra vàng không?
Đôi mắt Bi-ốt-ghe sáng hẳn lên:
- Thưa hoàng thân kính mến, nhất định là bảo đảm chứ ạ! Chính tôi bắt được một cuốn sách dạy về cách chế ra vàng.
Vừa lúc đó bánh xe ngựa đã lăn khỏi chỗ lầy. Vị hoàng thân bảo Bi-ốt ghe:
- Thôi nhé! Sáng mai, anh có thể đến đến gặp tôi ở lâu đài.
Bi-ốt-ghe cúi đầu chào, cảm ơn. Lòng anh thấy rộn ràng sung sướng. Đối với anh, trên đời này còn gì hạnh phúc bằng được vùi đầu vào làm việc trong phòng thí nghiệm. Anh có thể say sưa nghiên cứu tới mức quên ăn quên ngủ được.
Nhìn cỗ xe đang mất hút trên quãng đường thẳng tắp, tim anh vẫn còn thấy bồi hồi.
*
https://thuviensach.vn
Phôn Phiu-xten-be: có kẻ nào sống trên đời này mà lại không mơ ước có nhiều vàng bạc châu báu trong tay. Vàng bạc và quyền lực thường đi đôi với nhau. Đã từ lâu vị hoàng thân này mơ ước, với sự giúp đỡ của những người có đầu óc thông thái, rồi đây hắn không phải vất vả gì mà kho vàng trong lâu đài hắn sẽ ngày một đầy ắp lên. Ai mà không muốn làm giàu, ngay cả những bậc nổi tiếng là cao đạo -như bản thân giáo hoàng La-mã cũng mong muốn ngày càng có nhiều vàng. Vua Anh Hen-ri IV chẳng đã từng cho lập những phòng thí nghiệm riêng ở ngay trong hoàng cung để hy vọng các nhà giả kim thuật chế ra vàng là gì. Trước đây giáo hoàng La-mã chẳng đã từng phong cho các tu sĩ kiêm nhà giả kim thuật nổi tiếng vào hàng các vị thánh để làm gì, nếu không vì vàng.
Phôn Phiu-xten-be cũng vậy! Dạo này chi tiêu trong lâu đài mỗi ngày một tăng, khách khứa mỗi ngày một đông, nếu không có cách chế ra vàng thì làm sao có thể bù đắp được cho kho bạc mỗi ngày một hao hụt.
Thật ra thì trước đây Phôn Phiu-xten-be có nghe lão chủ Xoóc-nơ nói lao xao Bi-ốt-ghe. Hoàng thân cho rằng lão Xoóc-nơ là một tay buôn bán keo kiệt không có tầm nhìn xa trông rộng. Nếu vớ được một người say mê nghiên cứu cách chế ra vàng như Bi-ốt-ghe thì dù có phải nuôi Bi-ốt-ghe trong một chục năm ròng rã cũng chẳng sao miễn là cuối cùng có được vàng. Chỉ cần một thỏi vàng là xong xuôi hết! Mà đâu chỉ có một thỏi. Một khi đi nắm được phương pháp điều chế vàng rồi thì lúc đó muốn bao nhiêu mà chẳng có.
Phôn Phiu-xten-be đang ngồi trầm ngâm suy nghĩ thì người hầu bước vào báo cho biết có Bi-ốt-ghe vừa tới.
Phôn Phiu-xten-be khẽ vẫy tay ra hiệu:
- Cho vào!
Nhìn Bi-rốt-ghe mặc bộ quần áo tồi tàn. Vị hoàng thân bảo một người hầu khác vào lấy cho anh một bộ quần áo mới và nói:
- Khác với ông chủ hiệu thuốc của anh, tôi sẽ không tiếc anh một thứ gì, nếu như đúng anh sẽ chế được ra vàng trong tương lai.
https://thuviensach.vn
Bi-ốt-ghe đáp:
- Thưa hoàng thân kính mến, tôi tin là trước sau tôi sẽ chế được ra vàng. Ngay trước đây, tôi phải mày mò trong đêm hôm nghiên cứu vụng trộm, thiếu hẳn mọi phương tiện mà tôi đã thấy le lói nhiều tia hy vọng, huống chi là bây giờ tôi được nghiên cứu đàng hoàng...
- Được, thế giờ anh đi theo tôi! - Phôn Phiu-xten-be đứng dậy đi trước, Bi-ốt-ghe lững thững bước theo sau. Vị hoàng thân này mở cửa chỉ cho Bi ốt-ghe xem một phòng rộng rãi trong lâu đài giờ đã được sửa sang lại và biến thành phòng thí nghiệm với hàng dãy bình lọ thủy tinh trong suốt.
Phôn Phiu-xten-be trao chìa khóa cho Bi-ốt-ghe và bảo:
- Từ nay anh sẽ làm chủ cái phòng thí nghiệm này. Ngoài ra nếu cần mua sắm thứ gì, anh chỉ cần nói với tôi một tiếng là xong.
Rồi chỉ sang căn phòng xinh xắn ngay cạnh đấy, hoàng thân bảo:
- Còn đây là phòng nghỉ của anh. Riêng vấn đề ăn uống hàng ngày, anh không phải bận tâm, nghĩa là chúng tôi ăn uống thế nào thì anh cũng sẽ ăn uống như thế.
Đứng trước phòng thí nghiệm khá đầy đủ tiện nghi, Bi-ốt-ghe lặng hẳn người đi vì sung sướng. Anh thật không ngờ trong đời mình lại có lúc được làm việc như thế này. Bi-ốt-ghe mân mê từng cái bình thủy tinh trong suốt, từng cái cối, từng cái thuyền tán. Hết ngắm nghía những cái bình cổ cong loại đắt tiền, anh lại xem xét cái lò nhỏ có nắp đậy kia đủ đảm bảo giữ được nhiệt độ cao trong một thời gian dài. Ấy là không kể một dãy lọ trên cao chứa đủ thứ: nào là thủy ngân, đồng đỏ, nào là thiếc, chì, nào là lưu huỳnh. Nhìn những cái vò to đựng nước cất đặt trong những cái sọt đan và cái cân tiểu ly thật chính xác, Bi-ốt-ghe biết rằng ngay cả đến hiệu thuốc của lão Xoóc-nơ cũng không có được những thứ này. Một phòng thí nghiệm riêng của mình tha hồ mà nghiên cứu suốt ngày đêm! Bi-ốt-ghe sờ vào bộ quần áo đang mặc: ống tay dài, có nẹp bằng nhung, đúng loại quần áo của những nhà giầu sang quyền quí. Anh còn nghe nói đâu hoàng thân Phôn Phiu-
https://thuviensach.vn
xten-be sắp bảo anh phải đeo cả tóc giả nữa để xứng đáng với chức vị cao quý của một nhà giả kim thuật sống trong lâu đài của hoàng thân…
Tính ra từ hôm Bi-ốt-ghe bị đuổi khỏi hiệu thuốc Xoóc-nơ cho tới nay chưa đầy một tháng. Bi-ốt-ghe ngồi trong xe cùng với hoàng thân Phôn Phiu-xten-be dạo chơi trong phố có một đôi lần mà tiếng đồn về nhà giả kim thuật trẻ tuổi đã vang đi khắp nơi. Chẳng thế mà mỗi khi có khách hàng tới mua thuốc ở cửa hiệu mình thì thế nào lão chủ Xoóc-nơ cũng khoe khoang rối rít với mọi người:
- Này bác, bác có nghe tiếng nhà giả kim thuật trẻ tuổi sống trên lâu đài của hoàng thân Phôn Phiu-xten-be không? Bi-ốt-ghe đấy! Anh ta còn trẻ lắm, chưa đầy hai mươi tuổi học trò cũ của tôi đấy!
Hoặc lão vỗ ngực mình, nói:
- Bác có biết ông thầy của nhà giả kim thuật trẻ tuổi Bi-ốt-ghe là ai không? Chính tôi đấy! Biết bao nhiêu công phu đào tạo ròng rã suốt mấy năm trời. Bi-ốt-ghe rồi đây sẽ nổi tiếng! Kể cũng bõ công mình!
Riêng về phần Bi-ốt-ghe, hình như tất cả những lời đồn đại về anh, anh đều bỏ ngoài tai hết, có thể nói là suốt ngày đêm, Bi-ốt-ghe đều miệt mài làm việc trong phòng thí nghiệm.
Chiều nay hoàng thân Phôn Phiu-xten-be cùng với mấy gia nô đi săn trong rừng về, bắn được một xâu vừa gà gô vừa trĩ. Hoàng thân rất ngạc nhiên khi ngó qua cửa kính phòng thí nghiệm, trước lúc đi săn, ông đã nom thấy Bi-ốt-ghe miệt mài làm việc, giờ đi săn về, trừ bữa cơm ra, nghe người nhà kể lại, ông mới rõ, Bi-ốt-ghe chưa chịu rời khỏi phòng lấy nửa bước.
Trước khi tắm rửa thay quần áo, hoàng thân có bảo người nhà bày một bữa tiệc nhỏ ngay trong vườn. Phôn Phiu-xten-be, đích thân đến gõ cửa phòng thí nghiệm của Bi-ốt-ghe và nói:
- Xin mời nhà giả kim thuật trẻ tuổi ra dự tiệc. Hôm nay có món gà gô nấu nấm.
Hoàng thân âu yếm nhìn Bi-ốt-ghe và nói:
https://thuviensach.vn
- Có lẽ tuần sau, tôi phải mời anh vào rừng đi săn cùng với chúng tôi mới được! Làm việc, nghiên cứu nhiều quá cũng phải có lúc giải trí cho tinh thần sảng khoái chứ!
Bi-ốt-ghe sung sướng nhìn vị ân nhân của mình, lòng đầy cảm kích biết ơn, bữa tiệc tối hôm đó, Bi-ốt-ghe ăn thấy rất ngon miệng. Qua câu chuyện với Phôn Phiu-xten-be trong bữa tiệc, Bi-ốt-ghe càng hiểu thêm hoàng thân vốn là người nhìn xa trông rộng. Chính hoàng thân cũng đã nói với mấy người ngồi uống rượu:
- Việc chế tạo vàng không thể tiến hành trong ngày một, ngày hai được. Công việc phải tính từng năm là ít.
Nghe thấy vậy, Bi-ốt-ghe càng cảm thấy hạnh phúc khi được nghiên cứu thí nghiệm dưới sự bảo trợ của một vị hoàng thân am tường, biết người biết của.
Năm năm trời đằng đẵng trôi qua... Hàng ngày Bi-ốt-ghe hầu như không mấy khi rời khỏi phòng thí nghiệm. Hình như trước tấm lòng tốt của Phôn Phiu-xten-be, Bi-ốt-ghe, càng say mê nghiên cứu.
Sáu năm...
Tám năm...
Mười năm trời sống trong lâu đài, sáng nay Bi-ốt-ghe rửa mặt, soi mình trước gương, anh thật không ngờ cằm mình đã mọc đầy râu. Người hầu trong lâu đài mang món ăn điểm tâm đến cho anh. Trong lúc ngồi uống nước chè ở bàn, Bi-ốt-ghe nghe tiếng hoàng thân phu nhân từ trên lầu cao vọng xuống lõm bõm:
- Mười năm trời rồi... vàng vẫn chẳng thấy đâu... Mà ngày nào cũng phải cung phụng như một ông hoàng...
Thật ra không phải chỉ hôm nay mà đã gần một năm nay, sống mãi ở đây thỉnh thoảng Bi-ốt-ghe vẫn nghe thấy lời ra tiếng vào về mình. Nào là “nuôi loại người ấy chỉ tốn cơm” nào là “Đó chẳng qua chỉ là một tên lừa đảo!”. Trước những lời bàn tán này. Bi-ốt-ghe không phải là không suy
https://thuviensach.vn
nghĩ nhất là trước tấm lòng tốt của Phôn Phiu-xten-be, Bi-ốt-ghe lại càng suy nghĩ hơn. Sự thật thì Bi-ốt-ghe vẫn làm việc vô cùng hăng say. Có thể nói là tất cả những chỉ dẫn trong cuốn sách dạy về cách chế tạo ra vàng, Bi ốt-ghe đều làm theo rất cẩn thận, tỉ mỉ từng tí một. Thế mà cuối cùng vàng vẫn chẳng thấy đâu cả, Bi-ốt-ghe hiểu rõ trong suốt hơn chục năm trời, hoàng thân nuôi mình tốn kém mất rất nhiều công của, thế mà giờ đây vẫn chưa thấy mình thu được một chút kết quả gì.
Một buổi tối nhân đi qua phòng trà, Bi-ốt-ghe nghe thấy Phôn Phiu xten-be đang thầm thì to nhỏ với một người khách về mình:
- Có thể nói lúc đầu tôi rất quí mến gã ấy nhưng rồi mãi gần đây tôi bắt đầu nghi ngờ. Rất có thể, cuối cùng gã ấy cũng chỉ là một tên lừa đảo.
Nghe thấy vậy, Bi-ốt-ghe choáng váng cả người. Ngay đêm hôm đó, Bi-ốt-ghe về phòng mình thu xếp quần áo chờ mãi tới canh ba, trong lâu đài đèn đóm tắt hết rồi, Bi-ốt-ghe mới rón rén ra đi. Khi bước gần tới cái cổng tò vò đen sì thì từ trong bóng tối trên cao có tiếng của Phôn Phiu-xten-be nói vọng xuống:
- Bi-ốt-ghe! Anh định trốn khỏi đây à?
Bi-ốt-ghe đứng sững người lại. Từ trên cao lại vọng xuống tiếng ngâm nga của Phôn Phiu-xten-be:
“Nợ đời nếu trả chưa xong,
Chim lồng, cá chậu: chớ hòng thoát thân!”
Bi-ốt-ghe toát mồ hôi, đành lúng túng quay về. Ngay sáng hôm sau, hoàng thân đã cho người mời anh lên và bảo:
- Nếu chưa chế tạo ra được vàng thì anh đừng hòng trốn khỏi đây! Đối với anh lúc này, tốt nhất là nên tiếp tục công việc của mình!
Bi-ốt-ghe chưa biết trả lời ra sao thì Phôn Phiu-xten-be nhếch mép cười khẩy:
https://thuviensach.vn
- Xem ra tạo hóa xoay vần không biết thế nào. Hồi anh còn học việc ở nhà lão chủ hiệu thuốc Xoóc-nơ thì anh nghiên cứu thí nghiệm vụng trộm đến nỗi anh bị lão chủ đuổi đi. Giờ ngược lại, anh có phòng thí nghiệm riêng với đầy đủ phương tiện để nghiên cứu thì tự nhiên lại đến lượt anh bỏ đi. Thế là thế nào?
Nói tới đây Phôn Phiu-xten-be nghiêm nét mặt lại chỉ ra ngoài mấy cây bạch dương cao và bảo:
- Hẳn anh đã thừa biết: số phận của các nhà giả kim thuật sẽ được định đoạt như thế nào, nếu không giữ dùng lời cam kết chế tạo ra vàng.
Bi-ốt-ghe giật mình khi nghĩ đến cái giá treo cổ mạ vàng dành riêng cho các nhà giả kim thuật bị xử tử.
- Thưa hoàng thân kính mến, tôi xin cố gắng... một thời gian nữa! Tôi không phải là một tên lừa đảo - Bi-ốt-ghe nói xong vội quay về phòng thí nghiệm của mình làm việc.
Một hôm Bi-ốt-ghe lên gặp hoàng thân Phôn Phiu-xten-be và trình bày thẳng thắn:
- Thưa hoàng thân kính mến, có thể nói hơn hai chục năm qua tôi đã cố gắng hết sức mình nhưng rồi kết quả như thế nào chắc hoàng thân đã rõ.
Phôn Phiu-xten-be cười:
- Thế chẳng hóa ra mấy chục năm trời vừa qua của tôi là công cốc à? Bi-ốt-ghe lúng túng đáp:
- Kính thưa hoàng thân, quả thực là tôi cũng không biết làm gì hơn nữa!
Phôn Phiu-xten-be nói:
- Thôi thì thế này. Dù sao thù cĩng đã mấy chục năm anh vùi đầu trong phòng thí nghiệm để nghiên cứu cách chế ra vàng. Vậy, thì... chẳng lẽ anh không để tại một tí gì cho tôi à? Anh hãy viết cho tôi một cuốn sách nói về tất cả các phương pháp luyện vàng của mình. Anh thấy thế nào?
https://thuviensach.vn
Thấy Bi-ốt-ghe vẫn đứng yên, hoàng thân bảo:
- Để thế tạo ra vàng, anh đã dùng những phương pháp gì thì cứ thế viết ra có gì là khó đâu!
Bi-ốt-ghe biết mình không thể nào từ chối được, anh bèn nhận lời.
Từ hôm đó, tất cả những người trong lâu đài của Phôn Phiu-xten-be đều thấy Bi-ốt-ghe lúi húi trong phòng làm việc của mình cả ngày lẫn đêm để viết sách.
Thế mà cũng phải mất hai năm sau, Bi-ốt-ghe mới viết xong cuốn sách của mình và đệ trình lên hoàng thân Phôn Phiu-xten-be. Đó là một cuốn sách khá dày, viết rất công phu. Chữ Bi-ốt-ghe viết rất đẹp. Xen lẫn vào những trang sách viết có rất nhiều bức tranh vẽ rất tỉ mỉ những dấu hiệu riêng do Bi-ốt-ghe nghĩ ra trong quá trình nghiên cứu.
Lần đầu cầm cuốn sách nói về phương pháp luyện vàng của Bi-ốt-ghe viết, Phôn Phiu-xten-be đọc thử vài trang và chịu không sao hiểu nổi. Chỗ này thì toàn những dấu hiệu loằng ngoằng nom chẳng ra làm sao cả: hết hình tròn có chấm ở giữa, lại tới hình tròn có mũi tên chĩa sang bên phải hoặc bắn chếch lên, rồi cả hình mặt trăng, hình “cặp kính” đeo mắt. Chỗ kia nom mới lại khiếp chứ! Một bộ xương người đứng trên một quả cầu lửa, có lẽ tượng trưng cho mặt trời bùng cháy. Bên trên bàn tay phải của bộ xương là một con chim nom từa tựa như con quạ, rồi lại tới con rồng đang ăn cái đuôi của mình. Phôn Phiu-xten-be hỏi:
- Này ông Bi-ốt-ghe! Hình vẽ với những dấu hiệu này là những cái gì vậy?
Bi-ốt-ghe đáp:
- Thưa hoàng thân, hình tròn có chấm nom tựa mặt trời là biểu thị tượng trưng của vàng, còn bạc tượng trưng là mặt trăng. Chỗ này là biểu tượng ký hiệu của suyn-phát đồng: sắt tượng trưng là sao hỏa...
Vị hoàng thân sốt ruột hỏi:
- Thế còn hình vẽ bộ xương này?
https://thuviensach.vn
Bi-ốt-ghe đáp:
- Thưa hoàng thân, đó là hình vẽ tượng trưng của phản ứng phân hủy các chất khí đốt nóng. Mặt trời rực cháy là sự đốt nóng, sau khi được đốt nóng, trong bình ắt còn đọng lại một chất tro: chính là bộ xương đây. Còn con chim này là chỉ khí bốc ra.
- Rõ rắc rối quá! - Phôn Phiu-xten-be hơi cau mặt lại hỏi - Thế con rồng ăn đuôi này?
Bi-ốt-ghe đáp:
- Thứ bột đen của đi-ô-xýt chì khi đốt nóng với than, nó sẽ biến thành chì và được tượng trưng bằng con rồng đó.
Phôn Phiu-xten-be lắc đầu:
- Sư tử xanh, sư tử đỏ rồi cả vong hồn vua Xa-lô-mông! Ai mà hiểu nổi! Giữa ông vua I-xra-en tài trí thông minh sống trước công nguyên này với việc chế tạo vàng thì liệu có liên quan gì đến nhau?
Bi-ốt-ghe vẫn kiên trì đáp:
- Kính thưa hoàng thân, muốn có vàng: rõ ràng là cần phải có hòn đá triết lý. Ri-ple, một nhà giả kim thuật nổi tiếng đã từng dạy:
“Để chế tạo hòn đá điểm vàng của nhà thông thái, gọi là hòn đá triết lý, các con hãy lấy chì và đốt lên cho đến lúc chì biến thành sư tử xanh. Sau đó hãy đốt mạnh hơn nữa, chì sẽ biến thành sư tử đỏ. Đun sôi sư tử đỏ trên bếp cát với rượu nho chua...”
- Thôi đủ rồi! - Phôn Phiu-xten-be cắt ngang luôn - ông chắc đã đun cả sư tử đỏ lẫn sư tử xanh rồi cả vong hồn Xa-lô-mông nữa mà sao ông vẫn chưa điều chế ra được hòn đá triết lý đó?
Bi-ốt-ghe không trả lời ngay vào câu hỏi của vị hoàng thân, mà vẫn tiếp tục kể về các đơn thuốc của Ri-ple.
Phôn Phiu-xten-be nghe chán tai quay ra quát:
- Quân lính đâu, hãy tống giam ngay lão Bi-ốt-ghe này lại!
https://thuviensach.vn
Ngay chiều hôm đó, tin đồn về nhà giả kim thuật Bi-ốt-ghe bị hoàng thân Phôn Phiu-xten-be tống giam chẳng mấy chốc mà lan ra khắp phố. Từ lúc biết tin này, lão chủ hiệu thuốc Xoóc-nơ hễ gặp khách hàng nào vào mua thuốc, lão đều thông báo cho họ biết chuyện này và không quên nói kèm theo vài lời bình phẩm:
- Cái thằng chó chết Bi-ốt-ghe ấy trước sau cũng chỉ là đồ lừa đảo thôi mà! Cứ nhìn đôi mắt hắn thì đủ biết, lúc nào cũng liếc ngang liếc dọc, như đồ chảo chớp ấy. Ngữ ấy thì kim thuật kim thụt gì!
Ngồi trong nhà tù ở phía sau lâu đài, Bi-ốt-ghe rất buồn, ông cảm thấy sau mấy chục năm nghiên cứu với những phương tiện khá đầy đủ, mình cũng không đến nỗi là kẻ dốt nát lắm, thế mà không hiểu tại sao vẫn chưa chế tạo được ra vàng. Chẳng lẽ đó lại là một cửa ải không thể vượt qua được sao. Bi-ốt-ghe nghĩ bụng: Giá trong suốt thời gian đó, mình để tâm nghiên cứu về một vấn đề gì khác thì rất có thể đã thành công rồi. Nhưng giờ thì đã ngồi tù, Bi-ốt-ghe đưa tay lên sờ cằm đã mọc đầy râu lởm chởm. Không khéo mình đến chết rục xương trong tù mất!
Từ ngày bị tù, hàng ngày Bi-ốt-ghe chỉ được tên lính gác quẳng vào hai mẩu bánh mì đen và lưng một bình nước lã. Chỉ nhìn đến cái bình sành, Bi-ốt-ghe đã cảm thấy ghê người vì nước lạnh và bẩn.
Bỗng một hôm tên lính đến mở khóa lách cách. Nhìn bóng nắng. Bi ốt-ghe biết hãy còn sớm, chưa đến giờ ăn. Ông lo là có thể bị dẫn ra giá treo cổ nhưng tên lính đã cười với Bi-ốt-ghe nói nhỏ:
- Số ông lại đến vận đỏ rồi!
- Sao thế? - Bi-ốt-ghe ngạc nhiên hỏi lại - anh định dẫn tôi đi đâu thế? Tên lính nói:
- Ông được thả rồi! Nghe nói đâu chính hoàng đế Áp-gút-xtơ dũng mãnh hạ lệnh cho hoàng thân Phôn Phiu-xten-be phải thả ông ra.
Bi-ốt-ghe quay lại hỏi:
- Rồi tôi sẽ đi đâu?
https://thuviensach.vn
- Người ta sẽ dùng ông vào việc gì đấy, cũng hệ trọng chẳng kém gì việc chế tạo vàng đâu!
Bi-ốt-ghe lại trở về phòng riêng của mình. Mãi mấy hôm sau ông mới rõ lý do tại sao ông được tha. Thì ra cái tin ông bị hoàng thân Phôn Phiu xten-be tống giam, qua cửa miệng lão chủ hiệu thuốc Xoóc-nơ, chẳng mấy chốc mà lan đi khắp nơi, rồi đến tai cả bá tước Xiếc-gao-den. Vốn là một người đã biết chuyện Bi-ốt-ghe và phần nào hiểu được tài năng của nhà khoa học này, đã mấy lần Xiếc-gao-den định cứu Bi-ốt-ghe nhưng ông biết rõ tính cương quyết của hoàng thân Phôn Phiu-xten-be. Bá tước Xiếc-gao den bèn vào cung để trình bày với hoàng đế Áp-gút-xtơ về việc này, bá tước nói:
- Theo thần nghĩ thì trên đời này thiếu gì những thứ quý hơn vàng. Thế mà không hiểu sao thiên hạ cứ đổ xô vào việc nghiên cứu chế tạo vàng.
Hoàng đế Áp-gút-xtơ vội hỏi:
- Thế theo ý khanh thì hiện nay có thứ gì quý hơn vàng?
Bá tước Xiếc-gao-đen bèn chỉ luôn vào cái bình sứ để trên một cái bàn bằng đá cẩm thạch và nói:
- Chẳng hạn như cái bình sứ này. Nó đâu có nặng được một cân. Thế mà hoàng thượng phải mua nó bằng một cân rưỡi vàng đấy.
Hoàng đế Áp-gút-xtơ gật gù nói:
- Khanh nói quả đúng thật! Chỗ vàng dùng để mua cái bình sứ này thừa đủ để nuôi một gia đình sáu người sống trong vài ba năm. Mà có khanh nhắc tới giá trị của đồ sứ nên làm trẫm nghĩ tới trong cung điện của nhà vua Pháp có một cái bình sứ châu Á mà trẫm nghe nói đâu tính ra phải đổi cả gia sản của một bá tước ở phía bắc xứ Noóc-măng-đi đấy!
Bá tước Xiếc-gao-den chép miệng nói:
- … Giá như mình có cách gì học được lấy nghề làm đồ sứ nhỉ? Nếu không học được thì tìm cách đánh cắp lấy bí mật của họ!
https://thuviensach.vn
- Đánh cắp bí mật? - Hoàng đế Áp-gút-xtơ mỉm cười - Khanh tưởng chuyện dễ dàng lắm à? Châu Á xa xôi mà nghe nói đâu ở Trung Quốc để giữ bí mật một số nghề, nhà vua bên đó đã ra lệnh nghiêm trị kẻ nào để lọt “bí mật quốc gia” ra nước ngoài. Chẳng hạn như nghề nuôi tằm: kẻ nào đem tằm hoặc trứng tằm ra khỏi Trung Quốc nếu bị bắt sẽ bị chém đầu. Trong hoàn cảnh bảo vệ chặt chẽ như vậy nên mặc dầu ở châu Á đã có một số nghề như nghề in chẳng hạn mà châu Âu vẫn phải xoay mò từ đầu. Cho nên ở Đức khi Quy-ten-béc tìm ra cách in, Âu châu vẫn phải công nhận Quy-ten-béc là ông tổ nghề in.
Bá tước Xiếc-gao-den nói:
- Thưa hoàng thượng, giá như chúng ta cũng biết được nghề làm đồ sứ chẳng hạn, thì vương quốc Xắc-xôm này chẳng bao lâu sẽ trở nên giàu có, độc quyền bán đồ sứ ra khắp châu Âu.
Hoàng đế Áp-gút-xtơ cười khà khà:
- Khanh nói nghe dễ dàng quá! Ở xứ Xắc-xôm này đã có ai biết nghề sứ đâu mà bảo sản xuất được đồ sứ.
Bá tước Xiếc-gao-den nói:
- Thưa hoàng thượng, giờ ta chỉ còn có cách là tự mày mò đi tìm trở lại những bí mật của phát minh ấy! Như Quy-ten-béc vậy.
- Ai sẽ làm việc này? - Hoàng đế Áp-gút-xtơ hỏi - Việc tìm tòi phát minh đâu phải chuyện giản đơn.
- Thưa hoàng thượng, thần biết ngay trong vương quốc ta có người có thể làm được việc này! - Bá tước Xiếc-gao-den nói - Đó là nhà giả kim thuật Bi-ốt-ghe, hiện nay ông ta đang bị hoàng thân Phôn Phiu-xten-be giam giữ. Nếu như hoàng thượng cứu được nhà giả kim thuật này ra khỏi lâu đài của Phôn Phiu-xten-be, thần sẽ xin đón ông ta về ở lâu đài của thần.
Hoàng đế Áp-gút-xtơ gật gù:
- Ý của khanh rất hay mà cùng hợp với ta. Nhất là trong vương quốc ta có vùng Mây-xen là nơi có loại đất sét trắng rất mịn, đẹp... nếu dùng nặn đồ
https://thuviensach.vn
sứ hẳn sẽ đẹp lắm nhưng cái khó khăn cơ bản là phải làm sao đây tìm cách chế tạo được ra men sứ!
Bá tước Xiếc-gao-den đáp:
- Thưa hoàng thượng, thần tin chắc là Bi-ốt-ghe có thể làm được…
Từ ngày được bá tước Xiếc-gao-den ra lệnh cho Bi-ốt-ghe để tâm nghiên cứu về đồ gốm, tự nhiên trong đầu Bi-ốt-ghe nảy ra khá nhiều suy nghĩ. Trước hết Bi-ốt- ghe cảm thấy dù sao việc này, ông cũng thấy nó dễ dàng hơn việc chế tạo vàng. Đành rằng trong một thời gian dài ông đã húc đầu vào tường, tưởng cuối cùng đến phải chết dưới giá treo cổ, dù đó là cái giá treo cổ mạ vàng nhưng trong những chuỗi ngày đó chẳng phải là Bi-ốt ghe đã tìm ra khá nhiều điều bổ ích rất mới lạ đối với ông.
Bi-ốt-ghe tự an ủi: “Biết đâu mình cũng vậy, vàng không chế tạo được nhưng nếu, tìm được ra cách làm đồ gốm chẳng hạn, thì dù sao cũng còn có ích”.
Đồ gốm: thật ra trước đây, Bi-ốt-ghe đã từng nghe nói ở Âu châu hình như đã có một nhà khoa học nào đó chế tạo ra được đồ gốm. Thôi đúng rồi: nhà bác học Đéc-na Pa-lít-xy ở Pháp, nhưng dĩ nhiên ông ta sẽ chôn giấu, trong lòng tất cả những điều bí mật về biện pháp kỹ thuật đó, cũng như những nhà làm đồ sứ châu Á trước đây đã từng giữ bí mật việc này khiến các nhà phát minh Âu châu lại phải tự lần mò lấy để tìm cho ra.
Từ ngày được về sống trong lâu đài của bá tước Xiếc-gao-den, Bi-ốt ghe lại vùi đầu suốt ngày trong phòng thí nghiệm để nghiên cứu về đồ sứ.
Ông sai đắp riêng hẳn một cái lò nhỏ để nung thí nghiệm. Lần đầu cầm trong tay cái vò nặn rất khéo bằng thứ đất sét trắng ở Muy-xen. Bi-ốt ghe đưa vào lò nung. Vò nung xong rõ ràng có bền chắc hơn nhưng đem đựng nước vẫn chảy.
Nhìn những bình sứ hoa đẹp, Bi-ốt-ghe biết rằng: trước khi tìm ra được nước men bóng đẹp màu sắc sặc sỡ như thế nào thì ít nhất cũng phải tìm bằng được một nước men đơn giản dù là xấu xí cũng được nhưng ít
https://thuviensach.vn
nhất nó cũng phải phủ lên mặt sành một lớp màng mỏng, cứng chắc bóng loáng và trong suốt để mỗi khi đựng nước, nước sẽ không thấm, chảy được ra ngoài. Bi-ốt-ghe nhận thấy bất cứ loại vò hay chậu đất sét nào muốn nung không bị nứt nẻ thì phải trộn thêm với cát vì chính những hạt cát nhỏ bé này trộn đều trong đất sét khi nung sẽ tạo thành một cái khung rắn chắc và nhờ có cái khung này mà khi nung nước trong đất sét có bốc hơi nhưng vẫn không thể làm cho vò hay chậu bị co lại quá mạnh thành méo mó hay nứt nẻ. Bi-ốt-ghe bèn lấy muối trộn với cát rồi khuấy đều hòa vào nước. Ông lấy một cái chổi nhỏ mịn dúng vào thứ dung dịch này quét nhẹ lên mặt vò trước khi nung.
Quả nhiên khi dỡ cái vò trong lò ra, Bi-ốt-ghe sờ vào vò thấy mịn và bóng, đổ nước vào, nước không thấm ra ngoài.
Trước khi quét thứ “men” này lên, vò đất sét dù có chuyển thành vò sành nhưng nó vẫn không rắn chắc và thấm nước vì nhìn bằng mắt thường người ta cũng dễ thấy thành vò có nhiều lỗ xốp, hổng giữa các hạt sét. Giờ đây nhờ có “men” mà khi cho vào lò nung nóng, muối sẽ chảy ra, để cùng với cát và đất sét tạo nên một lớp men mịn mà, đặc sệt ngăn không cho nước thấm qua được.
Thí nghiệm đầu tiên thành công đã làm Bi-ốt-ghe thấy phấn khởi. Rồi đây, nếu như khéo tìm ra được những loại muối kim loại khác thích hợp hơn chẳng hạn như chì, thiếc, phen-xpát, ti-tan... thì rất có thể Bi-ốt-ghe sẽ có được những nước men đẹp hơn, tốt hơn.
Các loại bình, vò, bát, đĩa, liễn, lọ... nặn bằng loại đất sét lấy ở Muy xen nung xong kìn kìn chuyển tới lâu đài của bá tước Xiếc-gao-den. Vấn đề bây giờ là phải tìm sao cho ra được một hỗn hợp các chất phen-xpát, các đi ô-xýt chì, thiếc, ti-tan... đem tráng vào các loại bình, vò, bát, đĩa... này rồi đưa vào lò nung ở một nhiệt độ cao hơn mà thôi.
Bi-ốt-ghe lại mày mò nghiên cứu. Lúc nào người ta cũng thấy ông lúi húi trong phòng thí nghiệm lúc thí nghiệm thứ bột xam xám này, lúc thì tán
https://thuviensach.vn
một loại bột óng ánh trắng hoặc xanh biếc kia đem trộn với nhau rồi hòa với nước, quét lên một cái lọ khác đưa vào lò nung.
Một hôm dỡ lò, Bi-ốt-ghe tìm thấy một cái lọ màu xanh nhạt, nước men bóng nhưng có lẽ vì quét thứ nước có hòa hỗn hợp một số chất kim loại không đều hoặc nung lửa không đều nên lớp men chỗ dầy chỗ mỏng, chỗ đậm chỗ nhạt, nom rõ ràng thứ nước men láng bóng chưa đều tuy nhiên đã tạo thành một màu sắc thiên nhiên khá đẹp.
Lại có những bình hoa quét nước men đã đều, nung trong lò vẫn giữ được độ nóng đều nhưng vì khi ngọn lửa cháy to; những bụi đá trong lò nổ bắn vào làm hỏng cả nhưng bình hoa rất đẹp. Bi-ốt-ghe đã nảy sinh ra ý nghĩ làm cho mỗi một cái lọ hoặc bình hoa một cái “áo” bọc ngoài. Đó là một cái “hộp” bằng đất chịu lửa. Khi nung nóng, cái vỏ này vẫn chịu được nhiệt độ cao không vỡ, lọ hoa đựng ở trong vẫn nóng đều đủ để nung chảy lớp men. Nhờ có vỏ “áo” bọc ngoài nên nước men láng bóng đều không gợn một vết xước nhỏ hoặc bị mảnh đất đá trong lò bắn phải.
Hôm đầu, bá tước Xiếc-gao-den nom thấy chiếc bình sứ tráng men màu da trời láng bóng, bá tước vội nói luôn với Bi-ốt-ghe:
- Này, ông Bi-ốt-ghe, có lẽ tôi phải vào ngay hoàng cung bây giờ để đệ trình lên hoàng thượng chiếc bình sứ này cho người mừng.
Bi-ốt-ghe vội giãy nảy lên, đáp:
- Thưa bá tước, công việc nghiên cứu của tôi đã được hoàn thiện đâu.
- Thì cũng coi như thành công bước đầu! - Bá tước Xiếc-gao-den vẫn đem cái bình đi.
Ngay ngày hôm sau, bá tước Xiếc-gao-den đã tìm gặp Bi-ốt-ghe và bảo:
- Đức hoàng thượng rất hài lòng về việc nghiên cứu của ông và người có nhờ tôi chuyển tới tay ông một bức thư.
Bi-ốt-ghe sung sướng bóc thư ra xem, thì ra hoàng đế Áp-gút-xtơ chúc mừng thành công của Bi-ốt-ghe và mời ông ngay tối nay cùng với bá tước
https://thuviensach.vn
Xiếc-gao-den vào cung dự tiệc.
Bá tước Xiếc-gao-den nói:
- Có lẽ giờ ông nên nghỉ tay sửa soạn quần áo. Buổi chiều tôi sẽ cùng với ông đi xe ngựa vào hoàng cung thăm hoàng thượng.
Ngay sau đó, Bi-ốt-ghe lại lấy ra một cái lọ nhỏ tráng men màu tím hồng mà ông vừa lấy trong lò ra. Lau chùi sạch sẽ xong, ông lấy một mảnh lụa mới bọc lấy cái lọ xếp vào một cái hộp gỗ, chèn kỹ để đem đi tiến hoàng thượng.
Lần đầu tiên vào dự tiệc trong hoàng cung, ngồi cùng với các bá tước, hoàng thân, quý tộc và nhiều nhà quyền quí khác, Bi-ốt-ghe đâm ra lúng túng.
Lúc hoàng đế Áp-gút-xtơ đứng dậy nâng cốc chúc mọi người khi hướng cốc rượu về phía Bi-ốt-ghe, người có nói:
- Chúng ta hãy nâng cốc chúc mừng nhà giả kim thuật Bi-ốt-ghe người đã phát minh ra đồ sứ ở vương quốc Xắc-xôm này! Chúa lại phù hộ cho vương quốc chúng ta có được loại đất sét tốt ở Mây-xen, như vậy hẳn rồi đây đồ xứ của vương quốc Xắc-xôm này sẽ nổi tiếng khắp thế giới.
Tiếng cốc chạm nhau lanh canh. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía Bi ốt-ghe làm cho nhà giả kim thuật đã đỏ mặt, lại càng lúng túng đỏ mặt hơn.
Trong bữa tiệc mọi người chuyền tay nhau xem những chiếc bình, lọ sứ của Bi-ốt-ghe mới sản xuất ra. Người nào cũng không hết lời ca ngợi. Theo lời giới thiệu của bá tước Xiếc-gao-den, khách dự tiệc càng ngạc nhiên hơn nữa khi biết hầu hết những bát đĩa liễn sứ dùng trên bàn bữa nay đều do bàn tay của Bi-ốt-ghe làm ra.
Bữa tiệc gần tàn. Trước lúc các quan khách sắp sửa ra về thì hoàng đế Áp-gút-xtơ cho mời Bi-ốt-ghe lại gần để người ban cho một túi vàng tặng thưởng, Bi-ốt-ghe rưng rưng cảm động khi đỡ lấy túi vàng. Hoàng đế Áp gút-xtơ nói với Bi-ốt-ghe:
https://thuviensach.vn
- Này khanh, liệu khanh có biết rằng phương pháp chế tạo đồ sứ của khanh hiện nay được coi như một bí mật quốc gia trọng đại không? Tuyệt đối không thể để lọt ra ngoài phương pháp chế tạo đồ sứ này được. Tóm lại là ngay ngày mai, khanh và một vài người giúp việc nữa sẽ được mời vào sống trong cung và làm việc ngay ở đó. Người thay trẫm trông coi công việc này vẫn là bá tước Xiếc-gao-den.
Đêm hôm đó, rời hoàng cung ra về. Bi-ốt-ghe ôm túi vàng ngồi trong xe ngựa, bên cạnh bá tước Xiếc-gao-den, Bi-ốt-ghe biết mình đã được nhà vua trọng thưởng nhưng đồng thời ông càng cảm thấy lờ mờ là mình bắt đầu mất quyền tự do kể từ ngày mai.
Hoàng cung rộng rãi xây dựng rất đẹp nhưng quả là chốn thâm nghiêm thật! Lâu đài nào nom cũng nguy nga tráng lệ, kể cả lâu đài của Bi-ốt-ghe và mấy người giúp việc cũng vậy. Xung quanh nơi ở có tới mấy tầng lính gác. Có lúc Bi-ốt-ghe thấy mình như một bá tước giầu sang, có cả lính gác ở ngoài nhưng có lúc ông lại thấy mình chẳng khác gì một tên tù bị giam lỏng cả.
Với một cái lò nung không to lắm, công việc của Bi-ốt-ghe và mấy người giúp việc là làm sao sản xuất, cho dù những mặt hàng đồ sứ dùng trong cung: bát đĩa, lọ, bình, vò, liễn, thống sứ... Từ ngày Bi-ốt-ghe sản xuất ra được đồ sứ, hoàng đế Áp-gút-xtơ không những chẳng phải bỏ một món tiền lớn để mua đồ sứ của nước ngoài mà hoàng đế còn có thể hạ lệnh cho Bi-ốt-ghe sản xuất những mặt hàng đặc biệt: khi thì chiếc bình hoa, lúc lại chiếc lọ sứ để gửi làm quà biếu các nhà vua láng giềng. Hễ tặng phẩm gửi đến nước nào thì nhà vua nước ấy lại gửi thư hết lời ca ngợi thứ đồ sứ Xắc-xôm này. Trong số những bức thư này, có một nhà vua khuyên hoàng đế Áp-gút-xtơ nên gửi một số mặt hàng tới dự triển lãm hội chợ ở Lai-xích vào năm 1707 sắp tới. Hoàng đế Áp-gút-xtơ nhận thấy đó là một ý kiến hay. Người bèn trao đổi với bá tước Xiếc-gao-den hạ lệnh cho Bi-ốt-ghe chuẩn bị sẵn một số mặt hàng mới để dự triển lãm. Quả nhiên, sau khi cho gửi một số mặt hàng đi dự triển lãm, khách hàng từ nhiều nước ở Âu châu tới dự triển lãm không ngớt lời ca ngợi đồ xứ Xắc-xôm. Khi hội chợ bế
https://thuviensach.vn
mạc, gian hàng trưng bày đồ sứ của vương quốc Xắc-xôm đã được tặng bằng khen và rất nhiều khách hàng ở các nước muốn đặt mua một số mặt hàng thông dụng.
Được tin này, hoàng đế Áp-gút-xtơ cho mời bá tước Xiếc-gao-den tới và bảo:
- Này bá tước thử suy nghĩ xem. Khách hàng ở nhiều nước trên thế giới rất thích một số mặt hàng sứ của ta, trẫm thấy rằng cái lò nung của Bi ốt-ghe đặt trong hoàng cung quá nhỏ bé; hàng sản xuất chẳng được là bao. Ấy là không kể lại phải chuyển đất sét từ Mây-xen về rất lách cách và tốn kém. Ý bá tước thấy thế nào?
- Thưa hoàng thượng, ý của thần từ mấy tháng trước cũng định tâu lên hoàng thượng để xin lập hẳn một công xưởng sản xuất đồ sứ của hoàng gia ở ngay Mây-xen.
Nghe bá tước Xiếc-gao-den trình bày, hoàng thượng Áp-gút-xtơ gật gù nói:
- Ý bá tước thật trùng với ý của trẫm, nhưng có điều cốt thiết phải bàn là hiện nay ở vùng này chỉ có độc một vương quốc mình là có được nghề sứ. Trước đây vì Bi-ốt-ghe và mấy người giúp việc còn sản xuất đồ sứ ở ngay trong cung nên việc giữ bí mật còn dễ dàng. Giờ đưa về Mây-xen lập thành công xưởng số thợ thuyền sẽ đông hơn, kẻ ra người vào tấp nập khó bề giữ gìn được.
Bá tước Xiếc-gao-den đáp:
- Thưa hoàng thượng, tất cả những điều bí mật đều nằm cả ở Bi-ốt ghe, còn thợ thuyền dù đông mấy cũng chỉ là những người giúp việc mà thôi! Do đó, muốn giữ bí mật về nghề này, chỉ cần tăng cường canh gác kỹ nơi làm việc của Bi-ốt-ghe. Một, hai vọng gác không xong thì tăng lên ba vọng, lính tráng tuần tra thường xuyên.
Hoàng đế Áp-gút-xtơ nói:
https://thuviensach.vn
- Thôi việc này, trẫm lại giao cho bá tước thay mặt trẫm trông coi cả cái công xưởng này.
Từ ngày rời hoàng cung về xây dựng công xưởng sản xuất đồ sứ ở Mây-xen, Bi-ốt-ghe hiểu ngay nghề sứ này đang có cơ phát triển ở vương quốc Xắc-xôm. Nhìn mấy cái lò nung được xây dựng to hơn trước. Bi-ốt ghe càng thấy lo lắng. Trong khi nghiên cứu đồ sứ của nước ngoài Bi-ốt ghe đã thấy rõ người thợ làm đồ sứ bên đó lại kiêm luôn cả nghệ sĩ trang trí. Cứ nhìn phong cảnh vẽ trên những chiếc bình sứ thì đủ rõ: một cánh chim bay giữa khoảng trời mây bao la, một con thuyền nhỏ bé lênh đênh mặt nước, một ông lão quắc thước trán hói, da mặt hồng hào tay cầm gậy trúc đứng bên một cô tiên, xiêm áo thướt tha, cạnh đấy là mấy dòng bay bướm nét thanh tú đen nhánh.
Bi-ốt-ghe gọi đó là những bức tranh màu trên sứ. Từ nếp áo, sắc mặt từng người đến mây, nước, mỗi thứ đều có một màu sắc riêng biệt. Tại sao ông quan này lại mặt trắng, ông quan kia mặt xanh, ông tướng này mặt đỏ? Tất cả những điều này đều làm cho Bi-ốt-ghe suy nghĩ. Nếu như nắm được bí quyết này thì hẳn người thợ đồ xứ Xắc-xôm cũng có thể vẽ được những bức tranh dựa theo các danh họa như Ra-pha-en, Mi-ken-lăng-giơ và ngay cả chân dung của hoàng đế Áp-gút-xtơ dũng mãnh.
Hoàng thân Phôn Phiu-xten-be hoặc bá tước Xiếc-gao-den hoặc bất cứ một vị hoàng thân, bá tước nào hẳn sẽ vô cùng sung sướng khi nhận được một chiếc bình sứ trên có mang chân dung mình. Thế nhưng trước khi có được những chiếc bình sứ tuyệt tác muôn màu sặc sỡ đó, phải hoàn thiện bằng được nghệ thuật chế tạo ra đồ sứ trắng phôi đã. Muốn vẽ hoa lá, những cánh bướm muôn màu sặc sỡ, những con hươu nai lông vàng ngơ ngác... công việc trước tiên là phải tạo ra được một cái nền: đó là sứ men trắng như ngọc. Trong khi những người thợ nề xây dựng tường cao bao quanh công xưởng thì Bi-ốt-ghe vẫn cặm cụi nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Cho nên khi chiếc lò nung đầu tiên vừa làm xong, ngay mẻ đầu, dỡ bình, lọ ở lò ra Bi-ốt-ghe đã có được những chiếc bình bằng sứ trắng rất đẹp.
https://thuviensach.vn
Lần đầu tiên cầm hai chiếc bình sứ trên tay, bá tước Xiếc-gao-den không sao nhận ra được đâu là bình sứ Trung Quốc, đâu là bình sứ của Bi ốt-ghe vừa sản xuất ra xong.
- Đồ sứ của ta giờ đây không thua kém gì đồ sứ châu Á - Bá tước Xiếc-gao-den nói với Bi-ốt-ghe. - Tôi tin rằng rồi đây đồ sứ của chúng ta cũng sẽ trở nên nổi tiếng, trên thế giới cho mà xem. Công lao này là nhờ ở ông cả, ông Bi-ốt-ghe ạ!
Nói tới đây, Xiếc-gao-den lấy một chiếc túi gấm đựng đầy tiền vàng đưa cho Bi-ốt-ghe và bảo:
- Đây là món tiền thưởng của hoàng đế người định trao tặng ông từ sau hội chợ Lai-xich nhưng chưa có dịp thuận tiện. Giờ ông nhận cho.
Bá tước Xiếc-gao-den tưởng sẽ nhìn thấy đôi mắt Bi-ốt-ghe ánh lên vì sung sướng khi đón nhận những đồng tiền vàng này nhưng bá tước chỉ thấy Bi-ốt-ghe thầm thì cảm ơn, bàn tay hững hờ đỡ lấy túi vàng.
Bi-ốt-ghe cho thợ dỡ lò ra, ông cầm từng cái lọ, từng cái bình đưa lại gần mắt ngắm cho kỹ. Hết ngắm nghía ông lại đưa tay sờ mó kỹ nước men nhẵn bóng, nom y hệt một nghệ sỹ thưởng thức tác phẩm của mình.
Chợt Bi-ốt-ghe đặt cái bình xuống bàn, ông nhớ lại trước đây hồi còn nhỏ đã có lần ông đánh vỡ một cái lọ, hôm đó ông bị mẹ mắng sa sả, suốt mấy hôm sau mẹ ông vẫn day dứt về chuyện cái lọ mà giờ nghĩ lại, nào nó có đẹp đẽ quý giá gì đâu? Một cái lộ sành xấu xí có chỗ đất nung còn sống, nham nhở... Sao ta không nghĩ tới chuyện đem biếu mẹ mình một cái bình đẹp nhỉ, để bà cụ cắm hoa.
Chưa chi Bi-ốt-ghe đã tưởng tượng ra cái lúc bố mẹ ông già lụ khụ, lưng còng gần như cúi gục xuống, rung rung hai bàn tay nhăn nheo ra đỡ lấy cái bình.
Bi-ốt-ghe vội đi kiếm một cái hộp, khẽ đặt cái bình vào rồi lấy vỏ bào nhét xung quanh. Ông đang định hôm nào nghỉ rỗi rãi, ông sẽ đưa cái bình đẹp về biếu mẹ.
https://thuviensach.vn
Bi-ốt-ghe đưa chiếc bình về phòng riêng của mình rồi, ông còn rất cẩn thận bỏ vào tủ khóa kín lại.
Qua khung cửa sổ, Bi-ốt-ghe nom thấy bóng dáng một tên lính lảng vảng đi ngoài xa, ông chợt nhớ ra: mình đâu có quyền ra khỏi đây, mình đâu có quyền được trao tận tay cái bình này cho mẹ mình? Nghĩ tới đây, Bi ốt-ghe thấy đau nhói trong lòng. Bất giác ông thở dài. Không sao, thiếu gì cách: ta có thể nhờ ngay bác đánh xe ngựa, làm gì mà bác ta lại chẳng chuyển giúp hộ mình cái bình hoa này về quê hương. Mà không hiểu ở quê mình mùa này vụ nho đã hái hết chưa? Ngôi nhà cũ ai sửa lại? Mấy cây sồi trước nhà có còn hay không? Bi-ốt-ghe chạnh lòng nhớ tới quê hương.
Có lúc ông mơ ước được về ngôi nhà cũ, ngồi ngay xuống cái bậc thềm mát lạnh, nghe tiếng cót két múc nước dưới giếng, dùng ngay bữa ăn trưa dưới bóng mát dàn nho, dù đó chỉ là một bữa ăn đạm bạc chỉ có một mẩu bánh với đĩa xúp bắp cải không có tí váng mỡ nào.
Tất cả những điều giản đơn này ai cũng có quyền hưởng một cách dễ dàng thì đối với Bi-ốt-ghe chúng đã trở thành những điều mơ ước. Thật lạ lùng.
Hôm nay lại đến lượt tên lính Ốp-dơ-xen đến gác.
Tên này vừa có vẻ ốm yếu, vừa lười. Đến phiên hắn gác, hắn thường đặt lưng dựa vào tường rồi gục đầu xuống ngủ.
Có lần thấy Ốp-dơ-xen ngồi ôm súng ngủ, Bi-ốt-ghe lại gần, khẽ vỗ vai hắn và bảo:
- Này anh bạn! Anh bạn sao lại ngủ kỹ thế?
Mới đầu Ốp-dơ-xen cứ tưởng tên cai đốc gác đến kiểm tra mình, gã đã sợ, nhưng rồi nhận ra “nhà ông đồ men” thì hắn há hốc mồm ra cười nhe cả mấy cái răng khểnh nói:
- Không sợ ông ạ! Xung quanh đây có mấy thằng lính gác cơ mà! Với lại ông có phải là người tù đâu.
https://thuviensach.vn
Nghe nhắc đến hai chữ “người tù”, Bi-ốt-ghe không khỏi chạnh lòng nghĩ đến số phận mình. Đúng là mình bị tù thật, không được rời khỏi đây nửa bước. Bạn bè, họ hàng chẳng một ai được đến thăm hỏi. Quê hương bản quán, hàng chục năm trời cũng chẳng được về, nghĩ tới đây bất giác Bi
ốt-ghe thở dài đánh sượt một cái:
- Không phải người tù, mà lại hóa ra người tù.
Nghe thấy vậy, Ốp-dơ-xen nhìn ông và bảo:
- Ông là người tù thế nào được! Chẳng qua là nhà vua và bá tước muốn chúng tôi bảo vệ ông đấy thôi chứ tù nào mà lại có loại tù được cơm bưng nước rót, ngày đủ ba bữa thế này! Muốn gà quay, ngỗng quay; có gà quay, ngỗng quay, rồi rượu ngon... Giá ông có ăn mỗi bữa cả một con lợn sữa quay, uống mỗi bữa một vò rượu cũng được. Quần áo thì toàn một loại dạ ấm đắt tiền. Ông có biết hàng ngày tôi được ăn uống những gì không? Lưng một cà mèn súp loãng, lủng củng một cục xương, tí bắp cải chua với một mẩu bánh mì đen.
Bi-ốt-ghe cười, nói:
- Này, thế giờ tôi đổi cho anh vậy, ngay bây giờ.
Bi-ốt-ghe vừa nói vừa lần tay cởi cúc áo ngoài. Ốp-dơ-xen vội xua tay, hối hả nói:
- Nhưng mà tôi có biết làm được những cái bát đĩa đẹp như của ông đâu!
Vừa lúc đó một người hầu bưng vào một cái khay đầy thức ăn để lên bàn. Bữa ăn hôm nay. Bi-ốt-ghe đã cất hẳn một chai rượu vang và bọc già nửa con gà quay vào một mảnh giấy đưa cho Ốp-dơ-xen trước khi hắn thay phiên gác.
Từ công xưởng sản xuất đồ sứ ở Mây-xen những cái sọt đựng hàng được kìn kìn chở ra, chuyển đi khắp nơi.
Trưa nay ở xưởng về nhà nghỉ, Bi-ốt-ghe đưa mắt nhìn vào quyển lịch treo trên tường và chợt nhận ra ngày hôm nay đúng là ngày sinh nhật của
https://thuviensach.vn
mình. Trời! Quên khuấy đi mất! Sao ta không tổ chức một bữa tiệc rõ to vào ngày hôm nay nhỉ! Đối với một nhà phát minh ra đồ sứ thì kể tổ chức một bữa tiệc linh đình mừng ngày sinh nhật chắc cũng được chứ sao! Rồi bạn bè đến chúc mừng. Trên một dãy bàn dài trải khăn bàn thêu đăng-ten trắng toát, sẽ bày la liệt những món sơn hào hải vị đựng trong những bát đĩa tráng men loại quý nhất, cạnh những chai rượu nho sông Ranh là những bình quý đựng hoa. Thế rồi mọi người cùng đứng dậy, chạm cốc chúc mừng nhau, tiếng cười nói, tiếng mở nút rượu, tiếng từng tràng vỗ tay...
Trời! Sao hôm nay ở đây lại quả vắng lặng thế này, một buổi trưa im ắng giống như những buổi trưa khác.
Anh em thợ thuyền đã nghỉ. Có lẽ trong xưởng chỉ còn mấy ống cao của lò nung còn nghi ngút khói.
Một bữa tiệc linh đình với bạn bè đông đủ tới dự, với Bi-ốt-ghe điều này hẳn không bao giờ có thể có được, ngay cả đến lúc mình nhắm mắt buông xuôi.
Bi-ốt-ghe nằm ngả người xuống đệm đang lim dim mắt định ngủ thì chợt nghe thấy tiếng lịch kịch phía cửa, Bi-ốt-ghe nhìn ra thì thấy tên lính Ốp-dơ-len đang đưa mắt nhìn ra xung quanh xem có ai không rồi hắn đưa vào một cái khay nhỏ trong đặt một cái phong bì rất đẹp. Ốp-xơ-den nói:
- Thưa ông, có một ông khách nhà tôi chuyển đến ông chiếc phong bì này!
- Cảm ơn ông nhé! - Bi-ốt-ghe cầm chiếc phong bì mở ra xem. Ông gần như lặng người đi khi nhận ra đó là một tấm danh thiếp của một người lạ, tự xưng là bá tước Đi-xmắc, nước Phổ gửi tới chúc mừng sinh nhật của Bi-ốt-ghe.
Đi-xmắc là ai? Sao vị bá tước này lại nắm vững được cả ngày sinh của mình?
Tay Bi-ốt-ghe như vẫn còn run run, ông thấy xúc động thực sự. Có lẽ trong đời mình, đây là lần đầu tiên ông nhận được một tấm danh thiếp chúc
https://thuviensach.vn
mừng sinh nhật. Bức danh thiếp in rõ đẹp và trang trí công phu, rõ ràng là vị bá tước này chỉ đặt in một bức danh thiếp mà thôi.
Đi-xmắc là ai? Hẳn đó phải là một vị bá tước giàu sang có một tâm hồn phóng khoáng cao thượng! Nếu như ông ta biết rõ ngày sinh của mình thì hẳn ông ta chắc biết rõ cả số phận hẩm hiu của mình hiện nay. Làm cách nào để gặp được ông ta bây giờ nhỉ? Ít ra cũng phải có một đôi lời cảm ơn chứ! Bi-ốt-ghe đưa mắt tìm tên lính nhưng hắn đã lẻn ra từ lúc nào.
Bi-ốt-ghe nằm xuống nghĩ miên man. Không rõ vị bá tước nước Phổ kia định làm quen với mình để làm gì đây?
Bi-ốt-ghe vớ chai rượu trên bàn rót ra cốc uống một hơi rồi bước vào phòng thí nghiệm. Đối với ông, cách giải buồn tốt nhất là làm việc, làm việc...
Nghe tiếng kèn đồng rúc từng hồi dài, lẫn với tiếng vó ngựa, tiếng chó sủa, Bi-ốt-ghe biết ngay là bá tước Xiếc-gao-den đang đi săn ở một khu rừng gần đây. Quả nhiên chỉ một lát sau, bá tước đã bước vào xưởng cùng với một người bạn. Xiếc-gao-den biết rõ. Bi-ốt-ghe đang làm việc trong phòng thí nghiệm. Những lúc ấy bá tước thường tránh, không bước vào phòng để Bị-ốt-ghe nghiên cứu được yên tĩnh. Hai vị bá tước đi thăm khắp nơi trong xưởng.
Người bạn của Xiếc-gao-den rất muốn vào thăm Bi-ốt-ghe nhưng vì thấy cửa đóng kín nên lại thôi. Khi bước qua cửa trước, vị bá tước này thấy Bi-ốt-ghe cứ nhìn mình chằm chằm. Ông bèn hỏi Xiếc-gao-den:
- Này ông bạn! Tại sao nhà giả kim thuật của bá tước cứ nhìn tôi chằm chặp thế? Hay là ông ta nghi tôi có bỏ vào túi vài ba cái bình sứ gì chăng?
Bá tước Xiếc-gao-den cười:
- Đâu phải thế!
Rồi chỉ vào bộ quần áo chẽn bó sát người bạn, Xiếc-gao-den nói: - Rất có thể, ông ta thích bộ quần áo đi săn của bá tước đấy!
https://thuviensach.vn
- Nếu vậy thì bá tước mua luôn cho ông ta một bộ! Nghe bạn nói. Xiếc-gao-den bảo - Có thể nói là tôi chẳng tiếc ông ta một thứ gì! Lúc nào bá tước thử vào thăm phòng ông ta ở mà xem. Thảm len rải trong phòng, bộ đồ nước bằng pha lê viền vàng, ghế bọc bằng da bò... có thể nói là Bi-ốt ghe muốn gì được nấy. Chính hoàng đế Áp-gút-xtơ cũng ra lệnh cho tôi phải trọng đãi ông ta hết sức, chỉ trừ một điều: không cho ông tá để lộ bí mật làm đồ sứ ra ngoài. Có thể nói như thế này: Bi-ốt-ghe sống ở đây như một ông hoàng mà cũng như một người tù giam lỏng vậy.
Tiếng hai người trò chuyện bay tới tai Bi-ốt-ghe lõm bõm câu được câu chăng. Nhưng khi hai người đi khỏi tiếng vó ngựa, tiếng kèn đồng, tiếng chó sủa lại như gợi lên cho Bi-ốt-ghe cảnh một khu rừng bạt ngàn, lộng gió với thảm cỏ xanh rì, tiếng suối, róc rách chảy, bóng những chú hươu nai tung bốn chân rạp mình xuống chạy như bay để tránh những họng súng của bọn đi săn, nghĩ tới cuộc sống tù túng của mình, ông thấy cuộc đời ngoài kia phóng khoáng, tự do biết bao.
Ngày mai đã là ngày lễ các Thánh, ở quê Bi-ốt-ghe vào ngày này, nhà thờ đã tấp nập nhiều người ra vào. Chuông nhà thờ đã dóng dả rung ngay từ chiều hôm nay. Thế mà ở đây yên tĩnh. Thợ thuyền trong công xưởng chiều được về sớm để ngày mai nghỉ việc đi dự lễ nhà thờ. Đối với Bi-ốt-ghe, ông sợ nhất những ngày chủ nhật và ngày lễ vì chính những ngày đó, ông càng cảm thấy trống trải cô đơn, tù túng nhất.
Ông lại chạnh lòng nghĩ đến mẹ và ý muốn biếu mẹ một chiếc bình sứ trước đây. Bao nhiêu năm tháng trôi qua, chiếc bình sứ để đâu vẫn còn đó! Ông cảm thấy công việc của mình như vô nghĩa. Tại sao ông lại không có quyền làm những chiếc bình sứ cho tất cả mọi người mà chỉ làm riêng cho nhà vua và bá tước Xiếc-gao-den để họ kiếm lời trong khi trên đời này mẹ ông và không biết bao nhiêu người khác không đủ tiền mua để dùng. Lúc này, Bi-ốt-ghe thèm có một người bạn để nói chuyện. Rượu ngon không thiếu, chim ngói, gà quay, thỏ hầm không thiếu, chỉ thiếu bạn hiền để trò chuyện tâm sự. Bỗng có tiếng lộc cộc đi vào. Bi-ốt-ghe nhìn ra. Đi theo sau lên lính gác là bác thợ cạo, cứ quen lệ, một tháng hai lần, bác ta lại xách cái
https://thuviensach.vn
hòm đồ nghề vào xưởng. Bi-ốt-ghe tranh thủ hỏi thăm tình hình ngoài phố: Chợ búa ra sao, giá cả thế nào, những chuyến xe ngựa từ Mây-xen đi các nơi hàng ngày vẫn đông khách chứ?
Chờ cho tên lính đi khỏi, bác thợ cạo bèn rút ở cái nắp hộp xà phòng cạo râu ra đưa cho Bi-ốt-ghe một bức thư viết vào một mảnh giấy chỉ nhỏ bằng nửa bàn tay mà lời và ý thật dồi dào, bóng gió. Người viết bức thư đó chẳng phải ai xa lạ mà vẫn là bá tước Đi-xmắc.
Ngồi vào ghế Bi-ốt-ghe ngắm mình vào chiếc gương soi trước mắt. Ông thật không ngờ mình lại chóng già đến thế! Mái tóc đã bạc phơ, bộ râu cũng trắng như cước. Thì ra mải mê làm việc trong phòng thí nghiệm, tuổi già xộc đến lúc nào không biết.
Dễ thường, mình cũng chẳng còn sống được bao năm nữa, mà kéo dài cuộc sống tù túng thế này, đâu có gọi là sống được. Chưa bao giờ Bi-ốt-ghe lại khao khát tự do như thế này.
Chính vì mình đã già yếu rồi nên mới càng cần được sống trong tự do phóng khoáng. Sống một năm tự do còn hơn kéo dài cả cuộc đời trong tù túng.
Bi-ốt-ghe gạt đống đơn đặt hàng từ khắp nơi tới tấp gửi về xưởng Mây-xen. Họ đặt nào là loại bình hoa loại to men trắng, nào là loại thống sứ để trồng cây cảnh, nào là loại đĩa bầu dục có thể đựng gọn một con cá chiều dài gần một thước.
Nhìn trước nhìn sau không có ai, Bi-ốt-ghe bèn bóc thư ra xem rõ nhanh rồi châm lửa đốt luôn. Ngoài ra Bi-ốt-ghe còn cẩn thận vò nát cả tro thư đổ vào sọt. Tim ông bắt đầu đập mạnh.
Qua một số thư từ trước đây, Bi-ốt-ghe vẫn chờ đợi ngày hôm nay. Vì thế ông đã chuẩn bị sẵn tất cả những tài liệu gì mà ông đã ghi chép được trong quá trình tìm ra men sứ, kể cả phương pháp chế tạo và một số nguyên vật liệu cần thiết. Ngay cả kiểu lò nung, ông cũng vẽ lại khá tỷ mỷ. Bi-ốt ghe cảm thấy chỉ với những tài liệu quý giá này, một người thợ nặn đất bình thường cũng có thể sản xuất đồ sứ được.
https://thuviensach.vn
Đúng như kế hoạch thì đêm nay khoảng mười một giờ, Ốp-dơ-xen sẽ tới gác. Hắn sẽ tìm cách hoặc chuốc rượu hoặc đánh lừa hai tên lính gác rồi đưa Bi-ốt-ghe men theo lối nhà kho, bắc thang lên nóc nhà tới phía sau lò nung. Tại đây, Bi-ốt-ghe sẽ trao cho người do Đi-xmắc cử tới tất cả bí mật của nghề làm đồ sứ. Như vậy, chẳng bao lâu nữa tất cả mọi người đều biết làm đồ sứ. Hoàng đế Áp-gút-xtơ và bá tước Xiếc-gao-den sẽ không còn độc quyền nữa. Đến khi ấy, chắc chắn ông sẽ được tự do. Ông sẽ về quê hương, sẽ đi thăm thú khắp nơi trong nước cho bõ những ngày tù túng, sẽ truyền bá nghề làm đồ sứ cho mọi người. Bi-ốt-ghe bồi hồi nghĩ đến những lò sứ nhan nhản khắp nơi. Đây đó, chốn đồng bằng, nơi thảo nguyên, từ thành thị đến thôn xã, ông đi trong mùi khói lò luyện sứ, các chợ búa la liệt đồ sứ. Và bạn bè, người thân của ông - những người nghèo khổ đã một thời không dám nghĩ đến việc sắm một chiếc bình sứ - giờ cũng có một vài đồ sứ trong nhà. Những chiếc bình sứ đẹp đẽ giờ không còn vô giá và bí ẩn đối với họ nữa…
Ngoài trời, đêm tối đang xuống dần. Mấy tên lính gác vẫn kiên nhẫn đi đi lại lại. Sau khi xem lại gói tài liệu một lần nữa, Bi-ốt-ghe lên giường nằm. Ông cố chợp mắt ngủ lấy sức nhưng không sao nhắm mắt được.
Mỗi tiếng động nhỏ trong xưởng đều làm cho Bi-ốt-ghe giật mình. Nhìn lên bầu trời lấm tấm mấy vì sao xa xa, Bi-ốt-ghe mừng thầm đêm nay hẳn có cơ trốn thoát nơi này. Tiếng đồng hồ tích tắc đầu giường càng làm cho Bi-ốt-ghe thao thức. Chẳng lẽ cứ dong đèn mãi thế này không tiện, Bi
ốt-ghe tắt phụt đèn đi, nằm xuống trằn trọc mãi.
Cuối cùng rồi đồng hồ cũng chỉ mười giờ bốn mươi nhăm phút. Chỉ còn mười lăm phút nữa, Ốp-dơ-xen sẽ có mặt ở đây và dĩ nhiên mọi việc sẽ ổn thỏa.
Bi-ốt-ghe vớ chiếc áo ấm mặc vào người rồi xỏ chân vào đôi giày vải để lát nữa lần bước trên mái ngói sẽ không gây tiếng động.
Đúng mười một giờ. Vẫn không thấy động tĩnh gì, Bi-ốt-ghe đứng dậy khẽ đi đi lại lại trong phòng. Ông bỗng ngồi xuống tự an ủi:
https://thuviensach.vn
“Mười một giờ mới là giờ Ốp-dơ-xen đổi gác. Mười hai giờ mới là giờ hành động cơ mà”.
Vừa lúc đó có bóng một tên lính lù lù cầm súng đi lại. Hẳn là Ốp-dơ xen rồi!
Chờ cho tên lính sắp lại gần, Bi-ốt-ghe bèn lấy tài liệu ra, rón rén lại gần cửa khẽ hỏi:
- Ốp-dơ-xen phải không?
Bóng đen khẽ đáp:
- Ốp-dơ-xen bị cảm lạnh đột ngột rồi, tôi phải gác thay cho hắn, mà ông cầm cái gói gì thế?
- À… bọc quần áo cũ định cho anh ấy đấy!
Tên lính đáp:
- Thôi ông để mai đưa cũng được!
Bi-ốt-ghe thở phào nhẹ nhõm:
- Ừ, thôi để mai vậy!
Chờ cho tên lính gác quay đi, Bi-ốt-ghe mới ngồi thừ ra. Ốp-dơ-xen ốm! Biết làm thế nào bây giờ? Đây là dịp may hiếm có. Chẳng lẽ lại để mất thời cơ này! Hay là ta cứ thử liều một chuyến xem sao. Đường ngang ngõ tắt trong xưởng xem ra cũng không đến nỗi rắc rối lắm. Chỉ ngại mình tuổi già sức yếu leo trèo khó khăn nhất là đi lại trên nóc nhà lại mò mẫm trong đêm tối.
Mà nếu ở lại… Liệu tên lính lúc nãy có nghi ngờ gì không? Nếu sáng mai hắn báo cho Xiếc-gao-den thì có lẽ suốt đời ta vẫn bị quản thúc mất.
Vừa lúc đó hình như có ám hiệu gõ vào tường ba tiếng, hẳn xe ngựa đã tới và người của bá tước Đi-xmắc đang tìm cách liên lạc với Ốp-dơ-xen. Bi-ốt-ghe vội đứng dậy lần bước đi. Vừa được một đoạn, Bi-ốt-ghe đã nom thấy bóng tên lính lù lù ngồi dưới một gốc cây. Không hiểu hắn thức hay ngủ, chỉ biết hắn ngồi thừ một chỗ. Thế này thì còn đi vào đâu được nữa.
https://thuviensach.vn
Lại có tiếng gõ chỗ lò nung, Bi-ốt-ghe cầm một hòn sỏi khẽ ném về phía bên phải. Quả nhiên thấy động, tên lính nhổm dậy vác súng lững thững đi về phía đó, chờ cho hắn vừa quay ra, Bi-ốt-ghe vội men theo bóng tối. Lần bước mãi, vượt qua một vọng gác nữa, cuối cùng Bi-ốt-ghe cũng tới được nhà kho. Tiếc là không có thang. Bi-ốt-ghe vội khẽ gõ vào tường ba tiếng, tức thời có tiếng đáp luôn.
- Thang! - Bi-ốt-ghe khẽ nói vọng ra ngoài như vậy.
Chỉ một lát sau đã có một sợi dây thừng to ném vào. Bi-ốt-ghe nắm lấy đầu dây nhưng vì sức yếu, ông loay hoay mãi vẫn không leo được. Nhưng rồi ông cũng bíu chặt được vào đầu dây cho người ở phía ngoài kéo dần lên. Lên tới nóc nhà, không hiểu bị lúng túng thế nào mà Bi-ốt-ghe bước hụt một cái làm xô mái, ngói rơi loảng xoảng. Dưới chân tường có tiếng chân rầm rập kèm theo tiếng quát rõ to:
- Ai làm gì trên đó?
Dù Bi-ốt-ghe cố nằm yên nhưng rồi mấy tên lính canh đã đốt đuốc lên soi rõ người nằm trên mái ngói.
Phía ngoài có lẽ vì thấy động nên người đánh xe ngựa đã ra roi cho cỗ xe ngựa lao vút đi trong đêm tối. Một phát súng nổ từ vọng gác ngoài. Sau đó nổ liền hai phát súng nữa. Có tiếng bước chân chạy rầm rập ngoài phố. Tiếng xe ngựa tự nhiên câm bặt.
Bi-ốt-ghe tỉnh dậy đã thấy mình nằm trong nhà giam, tay chân đều bị trói. Quờ tay ra xung quanh toàn đá giá lạnh, tự nhiên ông cảm thấy rét run lên cầm cập. Trong bóng tối, Bi-ốt-ghe cũng không phân biệt nổi là ngày hay đêm nữa. Ông chú ý lắng nghe, nhưng cũng không thấy một tiếng động nào vọng đến cả. Bi-ốt-ghe khẽ cựa quậy, mình mẩy đau ê ẩm. Ông cảm thấy hình như những khớp xương trong người sắp rời ra. Chợt có tiếng kẹt cửa. Một vệt sáng lờ mờ từ trên cao hắt xuống. Có tiếng quát:
- Lên đây!
https://thuviensach.vn
Bi-ốt-ghe nhổm dậy hướng theo phía cửa sắt hé mở, lần bước lên bậc thang đá trơn nhầy nhụa.
Ánh sáng trên mặt đất có làm cho Bi-ốt-ghe lóa mắt đi trong giây lát. Ông đi theo tên lính và chỉ một lát sau đã bước vào một căn phòng: bá tước Xiếc-gao-den đã ngồi sẵn ở đó chờ ông:
- Thế nào, đêm qua ông định đi đâu vậy? - Bá tước Xiếc-gao-den khẽ hất hàm hỏi Bi-ốt-ghe. - Ông hãy trả lời cho tôi biết chứ!
Bi-ốt-ghe vẫn đứng yên. Xiếc-gao-den sai tên lính cởi trói cho ông xong rồi đưa cái ghế tới cho ông ngồi.
Bá tước Xiếc-gao-den lại hỏi:
- Thế nào, ông định trao bí mật chế tạo đồ sứ cho ai?
Bi-ốt-ghe không hé răng nói một câu. Chẳng lẽ hắn đã biết chuyện rồi hay sao?
Bá tước Xiếc-gao-den khẽ đưa mắt cho tên lính dẫn vào một người to lớn mà Bi-ốt-ghe chưa hề gặp mặt bao giờ. Xiếc-gao-den chỉ người lạ mặt nói với Bi-ốt-ghe:
- Đây là người của bá tước Đi-xmắc ở vương quốc Phổ đêm hôm qua được cử sang để đón ông. Không may chiếc xe ngựa bị giữ lại. Điều này chứng tỏ, trước đây ông đã liên lạc nhiều lần với Đi-xmắc. Ông định trao toàn bộ tài liệu về phương pháp chế tạo đồ sứ cho Đi-xmắc.
Xiếc-gao-den mở ngăn kéo lấy ra toàn bộ tài liệu mà Bi-ốt-ghe định mang đi nhưng không thoát.
- Không còn tang chứng nào hùng hồn hơn nữa. Và dĩ nhiên ông cũng không thể cãi vào đâu được nữa! Người của Đi-xmắc thú nhận chúng là những tên gián điệp chuyên ăn cắp những bí mật kỹ thuật.
Nghe đến đây, Bi-ốt-ghe giật mình. Xiếc-gao-den lại gần Bi-ốt-ghe và hỏi:
https://thuviensach.vn
- Ông sống chưa đủ sung sướng hay sao? Hoàng đế Áp-gút-xtơ trọng đãi ông như vậy vẫn chưa đủ hay sao? Ít ra ông cũng trả lời tôi lấy một tiếng cho tôi biết chứ!
Bi-ốt-ghe nói chậm rãi song dõng dạc:
- Tôi muốn phục vụ nhân dân quê hương tôi chứ không muốn phục vụ cho riêng ai.
Bá tước Xiếc-gao-den cười khẩy chỉ tay vào một chiếc giá treo cổ mạ vàng mới dựng ở cuối lâu đài:
- Số phận của bọn giả kim thuật lừa đảo đã được định sẵn. Dù sao thì ông vẫn sướng hơn kẻ khác: treo cổ dưới giá mạ vàng.
Bi-ốt-ghe nhìn cái giá treo cổ không hề sợ hãi. Xiếc-gao-den nói tiếp:
- Trước khi bước lên giá treo cổ, ông có thể sống thêm ít ngày nữa! - Đột ngột Xiếc-gao-den quát tên lính. - Dẫn hắn đi!
Vừa về đến nhà giam thì Bi-ốt-ghe ngã gục xuống vì mệt mỏi, toàn thân giá lạnh như vừa được vớt dưới băng giá lên. Câu nói lúc nãy của Xiếc-gao-gien như một gáo nước lạnh dội vào người làm ông choáng váng. Hóa ra Đi-xmắc chẳng qua cũng chỉ là một tên bá tước, một tên gián điệp lừa lọc. Điều này nghĩ kỹ hoàn toàn đúng. Hắn ta chẳng qua cũng cùng một giuộc với Xiếc-gao-den. Trong khi Bi-ốt-ghe lại muốn hiến trí tuệ cho cả dân tộc mình. Mệt mỏi, chán chường, Bi-ốt-ghe bị ốm nặng, mê man không biết gì. Ông cảm thấy sức khỏe của mình mỗi lúc một giảm sút. Một ngày nào đó, có lẽ cũng không xa, ông sẽ nhắm mắt nằm xuống.
Mỗi khi tỉnh ông đều nghĩ có nên mang bí mật làm đồ sứ lên thiên đường hay không? Ông thấy không thể như thế được.
Phải truyền lại bí mật này cho nhân dân, cho người đời sau mới được. Nhưng truyền cho ai bây giờ? Đi-xmắc là một bài học đau đớn cho ông. Ông không thể hướng về những kẻ như Đi-xmắc. Cơ-rít-tốp Hôn-gơ chăng? Rõ ràng bác ấy là người giúp việc gần gũi của mình trong việc nghiên cứu về đồ sứ nhưng liệu bác ta có xứng đáng để ta truyền lại cái
https://thuviensach.vn
nghề quý giá này chăng? Hay là nhà khoa học Na-mít. Với tài học rộng, vốn hiểu biết sâu sắc, Bi-ốt-ghe tin là Na-mít có thể trở thành người kế tục công việc của mình được. Hãy truyền lại cho Na-mít một bí mật vô cùng quan trọng: cách làm bóng đồ sứ. Còn nửa phần đầu cơ bản: cách làm đồ sứ, ta sẽ truyền lại cho Hác-ten-mê. Được đấy! Hác-ten-mê là người ta có thể tin cậy được. Ta sẽ sẽ không viết ra giấy. Ta thề từ nay sẽ không để lại một dấu vết nhỏ gì trên giấy cả. Những người học trò thân tín của ta sẽ được truyền lại nghề này bằng cách học nhập tâm vậy. Chỉ có cách này mới đảm bảo bí mật nhất.
Nghĩ được như vậy, ông lão Bi-ốt-ghe cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm hẳn. Bi-ốt-ghe tự an ủi mình: “Thể xác ta dù bị giam cầm, nhưng dù sao đầu óc phát minh của ta vẫn được tự do, thoát khỏi mấy bức tường cao ngất này!”
Đêm hôm đó là một đêm Bi-ốt-ghe ngủ ngon nhất sau nhiều đêm trằn trọc mãi.
Một tháng rồi hai tháng trôi qua, bí mật chế tạo đồ sứ không chỉ còn ở Bi-ốt-ghe nữa, nó đã đến với Na-mít, Hác-ten-mê… Khi tên lính mở cửa nhà giam thì Bi-ốt-ghe chỉ còn thoi thóp thở, toàn thân nóng như lửa.
Cho tới một hôm, theo như thường lệ, tên lính gác đưa cơm vào trại giam thì nhà giả kim thuật tài năng kia chỉ còn là một cái xác không hồn đã giá lạnh tự bao giờ. Nhưng những gì ông truyền lại cho người đời sẽ vượt khỏi chấn song sắt đến với mọi người, đến với nhân dân.
>> id="calibre_pb_5">> >> > >
NHỮNG CHUYẾN RA ĐI CỦA PHÔ-LÊ
Cầm thanh thép lên tay hết lật đi lật lại để ngắm cho kỹ, chủ xưởng Phô-lê ở Xtua-Brít-giơ khẽ lắc đầu tỏ ý không bằng lòng. Kể ra ở khắp U oóc-sét-téc-sai-rơ không một ai mà không biết ông chủ xưởng rèn này đang
https://thuviensach.vn
mơ ước có một thứ thép tốt. Theo Phô-lê thì thép tốt phải “dẻo” khi nấu chảy thì thoạt tiên nó ở thể nửa chảy, sau đó mới biến thành thép lỏng. Tiếc rằng thứ thép mơ ước này khắp nước Anh không đâu tìm ra.
Trong những năm phát triển công nghiệp ở Anh, Phô-lê đã thấy rõ: rồi đây trong tương lai gang, thép, sắt sẽ là những kim loại được loài người dùng nhiều nhất. Phô-lê hiểu rằng với một chủ lò rèn như anh, chỉ cần nắm được một trong ba thứ này cũng đã đòi hỏi phải có một chí khí cao rồi. Phô-lê chọn thép.
Làm nghề rèn nên Phô-lê càng biết rõ một điều là thép bền hơn đồng tới mấy chục lần, chịu được nóng, chịu được a-xít mà giá lại rẻ hơn đồng, hơn chì… Giá như có phép lạ gì chế biến được sắt thép ở ngay Xtua-brít giơ này thôi là sẽ có biết bao nhiêu chuyện xảy ra.
Phô-lê vẫn thường nói với bạn bè quen thuộc:
- Giá tìm ra được cách gì để có được loại thép Anh tốt thì dù có mất cả cái gia sản này tôi cũng bằng lòng.
Một buổi chiều, như thường lệ, Phô-lê với lấy cây vi-ô-lông treo trên tường khẽ kéo một bản nhạc.
Nghe tiếng nhạc nhè nhẹ, buồn buồn, ưu tư, một người đi qua vốn biết những điều trăn trở của Phô-lê bèn đứng chân tại nhà Phô-lê và nói:
- Kể ra có đánh đổi cái gia sản này lấy được bí mật loại thép quý cũng không có gì là quá đáng cả!
Phô-lê treo cây đàn lên tường nói:
- Tôi sẵn sàng đánh đổi đấy, nhưng thưa quý khách biết làm cách nào bây giờ? Mong quý khách làm ơn chỉ giúp cho tôi xin đa tạ.
Ông khách lạ vuốt lại mái tóc sẫm cho khỏi xõa xuống trán rồi nói:
- Nếu ông cứ ngồi nhà mà rên rỉ nỉ non thì dù có rỏ nước mắt suốt cả đời mình cũng chẳng làm nên cơm cháo gì. Giờ đây chỉ có cách rời khỏi đất Anh “tìm thầy học đạo”. Trên thế giới này thiếu gì những cái hay cái lạ.
https://thuviensach.vn
Chỉ riêng một châu Âu, thép của Bỉ, của Đức, của Bô-he-mơ, của Ý, của Tây Ban Nha… thiếu gì những cái họ hay họ giỏi hơn mình.
- Thật là một ý kiến hay! Phô-lê nắm chặt lấy tay người khách hỏi. - Chẳng hay ông tên là gì ạ?
Người khách khẽ nhíu lông mi đen nhánh lại, lim dim cặp mắt xanh biếc mỉm cười nói:
- Ông chỉ cần biết tôi là một người Anh! Thế là đủ.
Khách nói xong, đứng dậy cáo từ ra đi.
Phô-lê tiễn ra tận cửa, đưa mặt nhìn theo mãi. Cho tới khi người đó đi khuất hẳn sau dàn nho nhà bác Lê-ông Ôn-tơ mới thôi. Nghe giọng nói và nhất là nhìn mái tóc sẫm cùng với đôi mắt xanh. Phô-lê đoán chừng ông khách lạ này có lẽ thuộc giống người Xen-tơ ở miền Coóc-uên, một quận phía Tây nước Anh.
Câu nói của người khách lạ không khỏi làm Phô-lê suy nghĩ. Gần như suốt đêm đó, anh ta không ngủ được.
Sang châu Âu? Bỏ lại cả xưởng rèn: không sao cả! Có được thứ thép tốt thì chẳng lo sống nghèo khổ. Nhưng bỏ cả vợ, con ra đi biết bao giờ cho học được nghề? Phô-lê trằn trọc mãi. Mãi gần sáng, anh mới đánh thức vợ dậy để bàn cho kỹ. Chị vợ hiền lành chỉ một mực đáp:
- Tùy anh, anh suy nghĩ cho chín đi rồi muốn làm thế nào thì làm.
Sáng nay Phô-lê từ biệt vợ con bè bạn lên đường. Chân đi đất, đầu trần không mũ, Phô-lê mặc một bộ quần áo rách vá ở hai đầu gối, anh cười rồi vui vẻ nói với mọi người:
- Thế nào, các bạn thử xem tôi đã giống một người hát rong chưa? Nói xong Phô-lê cắp cây đàn vào nách lên đường.
Tối hôm đó, dừng chân tại một quán trọ bên đường, Phô-lê vẫn không ngủ được mặc dầu cả ngày anh đi đã mệt. Anh thấy nhớ nhà một cách lạ lùng: từ xưởng rèn, tiếng bệ thổi phì phò, tiếng búa đập xuống đe chan chát,
https://thuviensach.vn
tiếng con khóc, rồi dàn nho, giếng nước, tiếng bước chân đàn cừu… Bất giác Phô-lê không cầm nổi nước mắt.
Thép! Chỉ vì một nước thép mà Phô-lê rời bỏ cả quê hương ra đi… *
Từ thủ đô Bơ-ruy-xen-lơ đi về phía nam chừng ba chục ki-lô-mét, không một ai là không biết tiếng Đơ-rao-tinh. Ông ta là chủ một xưởng máy có lò đúc thép. Thứ thép của ông ta khá tốt.
Phô-lê tìm tới một quán trọ ở gần lò đúc thép của Đơ-rao-tinh. Từ đó lúc nào trong quán cũng réo rắt tiếng đàn của Phô-lê. Chủ quán chỉ tính tiền trọ vì từ ngày Phô-lê tới ở, quán mỗi ngày một đông khách. Rượu, cà phê thì vẫn hai thứ ấy. Thức nhắm thì cũng chẳng có thứ gì hơn. Có lẽ nhờ tiếng đàn mà cánh thợ thuyền của ông Đơ-rao-tinh kéo đến mỗi ngày một đông. Còn Phô-lê, bất cứ lúc nào hạ cây đàn xuống là anh lại nhớ tới nhiệm vụ chính của mình.
Dĩ nhiên Phô-lê vốn hiểu rõ gang do còn chứa một số tạp chất có hại như các-bon, lưu huỳnh, phốt-pho… nên thường bị giòn mà muốn chế tạo ra được các thứ máy móc, dụng cụ thì đòi hỏi phải có một thứ kim loại nào đó vừa dẻo, vừa dai và phải cứng nữa, do đó phải luyện gang thành thép.
Cái bí mật là nằm ở chỗ luyện gang thành thép.
Một tuần lễ trôi qua… Chiều nay, cũng như mọi ngày cây đàn trong tay Phô-lê như nhảy nhót theo một điệu múa nhộn nhịp Tây Ban Nha. Phô lê đưa mắt nhìn ra xung quanh: khán giả vẫn ngần ấy bộ mặt quen thuộc. Anh hạ cây đàn bắt đầu ngâm nga:
“Nếu số phận anh đây phải chết!
Bóng đêm dày ta quyết đón ngày
Như em yêu quý đắm say…”
Chợt có tiếng một người reo lên:
- Sếch-xpia!
https://thuviensach.vn
- Đúng! Phô-lê đáp - Mấy câu thơ này trích trong vở kịch “Ăn miếng trả miếng” của Sếch-spia.
Lúc này đám đông rẽ ra, một người ăn mặc sang trọng bước vào. Phô lê nhận ra ngay Đơ-rao-tinh. Anh kính cẩn cúi đầu chào.
- Này, anh bạn nghệ sĩ quê hương của Sếch-xpia! Bấy lâu nay anh đã làm mê hoặc những người thợ của tôi rồi đấy!
Phô-lê hơi đỏ mặt vì lời khen của ông Đơ-rao-tinh:
- Cảm ơn những lời khen của ông.
Đơ-rao-tinh gật gù nói:
- Này, anh bạn! Liệu một hôm nào đấy, anh có thể vào tận lò thép của tôi biểu diễn cho anh em thợ thuyền xem được không?
- Thưa ông nhất định là được rồi! - Phô-lê nói - Và trước hết tôi muốn hân hạnh được đến thăm ông.
- Dĩ nhiên là được rồi! - Nói xong Đơ-rao-tinh vui vẻ quay ra.
Sáng nay Đơ-rao-tinh vừa tỉnh dậy, còn đang lim dim mắt thì nghe thấy tiếng nhạc từ trong vườn như đang tan dần trong màn sương sớm. Lão ta vẫn nằm yên. Nhận ra tiếng đàn quen thuộc của Phô-lê, Đơ-rao-tinh không muốn nhúc nhích người, sợ gây thành tiếng động mạnh.
Chờ cho tiếng đàn dứt hẳn, Đơ-rao-tinh mới nhỏm dậy.
Có lẽ vì hàng ngày bận bịu nhiều với công việc nên những buổi sáng như hôm nay đối với Đơ-rao-tinh thật là hiếm có.
Khi Phô-lê ôm cây đàn bước vào thì Đơ-rao-tinh đã ngồi chờ sẵn, trên bàn đặt một cái ví dầy cộp.
Đơ-rao-tinh nói:
- Cuộc đời nghệ sĩ nay đây mai đó của anh hẳn là thú vị lắm? Phô-lê đáp:
- Thưa ông, quả đúng thế!
https://thuviensach.vn
Đơ-rao-tinh khẽ hỏi:
- Thế chuyến này anh định ngao du tận đâu?
Phô-lê đặt cây đàn lên bàn nói:
- Tôi chỉ cốt đến thăm ông và học lấy nghề của ông.
Đơ-rao-tinh ngạc nhiên hỏi lại:
- Anh bạn không nói đùa đấy chứ?
Phô-lê đáp thật thà:
- Thưa đúng nói thật đấy ạ!
Đơ-rao-tinh nhìn những ngón tay của Phô-lê, lão vẫn chưa hết nghi ngờ “làm gì có chuyện ấy! Một nghệ sĩ tài tử với cái nghề nấu thép này có cái gì dính líu đến nhau đâu nhỉ?”
Không thấy Đơ-rao-tinh nói gì, Phô-lê nói:
- Tôi sẽ vô cùng sung sướng nếu được làm học trò của ông trong cái nghề nấu thép này.
Đơ-rao-tinh không nói gì mà mở ví đưa tiền ra cho Phô-lê:
- Dù sao thì anh bạn cũng phải cầm lấy ít tiền mà chi tiêu trên mảnh đất Bỉ này chứ?
Phô-lê xua tay:
- Cảm ơn ông, tôi vẫn còn tiền. Điều quan trọng nhất là lời yêu cầu của tôi liệu có được ông chấp nhận hay không?
- Được thôi! Đơ-rao-tinh nhún vai nói. - Nhưng làm cái nghề này vất vả lắm. Tuy nhiên nếu như anh muốn thật bụng học nó thì cũng được.
Đơ-rao-tinh trả lời như vậy vì lão cho rằng, chẳng qua là anh chàng này muốn vào thăm xưởng máy đây chứ cái công nghiệp này đâu phải chuyện dễ dàng học được, nếu không phải là người có trình độ chuyên môn.
Đơ-rao-tinh gật gù nói tiếp:
https://thuviensach.vn
- Thôi được rồi! Dù sao anh bạn cũng ở lại đây ăn điểm tâm với tôi sáng nay đã rồi sáng mai anh bạn vào thăm tôi trong xưởng máy và dĩ nhiên lúc đó nếu anh muốn đem theo cây đàn cũng được.
Người nhà lúc này đã bưng ra bánh pa-tê và cà phê sữa. Đơ-rao-tinh lẩm bẩm nói:
- Luyện thép! Tôi thật không ngờ cái nghề của tôi mà lại được một người nước ngoài đầu tiên tới đây học tập. Luyện thép… biết giải thích nó như thế nào nhỉ? Có thể nói tóm gọn được như thế này: luyện thép là dùng bằng cách nào đó bỏ tất cả những chất có hại trong gang ra và cuối cùng thu được loại thép tốt.
Phô-lê gật đầu khẽ đáp “Vâng” nhưng trong bụng lại nghĩ “Điều này về nguyên lý thì ai mà chẳng biết, cái khó là bí mật của việc “dùng bằng cách nào đó” để có được thép tốt”.
Vừa lúc đó, có khách tới, Phô-lê đứng dậy ra về trong lòng vẫn thấy tiếc rẻ. Phô-lê lững thững đi, về tới quán trọ lúc nào không biết.
Riêng bác chủ quán hơi lấy làm lạ: hình như cái nhà ông nhạc sĩ này hôm nay có điều gì vui mà cứ luôn miệng hát suốt ngày, bữa ăn lại gọi thêm cả một cốc rượu nữa.
Đối với Phô-lê, chuyến đi này quả là bổ ích thật!
Anh em thợ thuyền trong xưởng đón tiếp Phô-lê niềm nở đã đành, mà ngay cả ông chủ xem ra cũng chẳng tỏ ra giấu giếm gì cả. Lão ta dẫn Phô-lê đi thăm khắp nơi trong xưởng. Gặp cái gì chưa rõ, Phô-lê đều hỏi đến nơi đến chốn.
Qua những câu hỏi của nghệ sĩ Anh này, Đơ-rao-tinh nghĩ hình như anh bạn này trước đây cũng có làm nghề gì dính líu đến nghề này hay ít ra cũng có biết sơ qua về nghề này.
“Hay là hắn ta thật bụng đi học bí mật nghề luyện thép Bỉ này chăng?” Song Đơ-rao-tinh lại cho rằng: chẳng qua là mình quá lo xa thế thôi chứ giá
https://thuviensach.vn
có nắm được tường tận những bí mật ở đây cũng khó mà có thể thực hiện được điều đó.
Còn Phô-lê, anh chú ý theo dõi từng việc nhỏ ở đây, không bỏ qua một chi tiết nào cả. Những người thợ tốt bụng họ không hề tiếc anh một điều gì.
Trưa hôm đó, lão chủ quán rất ngạc nhiên thấy ông nghệ sĩ khách trọ đi lẫn trong đám thợ thuyền từ trong xưởng thép về.
Về nhà trọ Phô-lê cố nhớ lại trong đầu óc mình để ghi chép lại trên giấy đúng như mọi chi tiết đã được dịp quan sát kỹ mấy hôm nay.
Trước hết Phô-lê vẽ lại lò nấu thép. Có lẽ nó nguyên là một thân lò chõ đúc gang, tường lát gạch chịu lửa dày, ngoài bọc vỏ tôn dày, thân lò hình trụ, cao khoảng một mét và đường kính bằng độ nửa chiều cao. Ống hút tựa như một cái thùng phuy nhỏ bằng tôn đục thủng hai đầu.
Phô-lê vẽ tiếp ghi lò, anh nhớ mặt ghi hình tròn nhưng lại do hai ghi hình bán nguyệt chắp lại, thành ghi cách nhau hai mươi mi-li-mét. Ngoài ra còn có bốn cái trụ đỡ ghi lò giống nhau đúc bằng gang.
Tất cả những gì dính líu tới cách chạy lò, Phô-lê đều ghi chép lại thật cẩn thận: từ chất mẻ nấu đến đốt mẻ nấu. Nếu tính theo thứ tự chất mẻ nấu từ mặt ghi trở lên thì Phô-lê thấy có chừng một sọt vỏ bào hay củi khô chẻ nhỏ dùng làm mồi lửa rồi độ tám cục than hoa, một sọt than gầy rồi đến tám sọt than gầy nữa chất đầy miệng thân lò, cỡ to chất dưới, cỡ nhỏ chất lên trên.
Phô-lê đặc biệt chú ý tới lúc đốt mẻ nấu: giai đoạn đầu nhóm lò chỉ lâu chừng nửa giờ đến một giờ. Khi nào trên miệng ống hút bắt đầu xuất hiện khói xanh tức là thấy hết khói trắng và khói đen thì người ta lấy một tấm tôn đậy miệng ống hút lại, chỉ cần để hở một vài lỗ nhỏ đủ để than trong lò âm ỉ cháy còn thì lấy đất trét kín các khe hở giữa nắp và miệng ống hút lại.
Sang giai đoạn hai: hầm than, ba giờ sau khi nhóm lò, nếu thấy lỗ thăm dưới rực hồng, lỗ thăm giữa còn tối là tốt, thì chỉ việc chất than gầy vào lên tới nửa chiều cao ống hút, nhớ đậy nắp miệng ống lại.
https://thuviensach.vn
Giai đoạn hai này kết thúc vào lúc lỗ thăm trên hoàn toàn rực hồng, vào quãng từ bẩy, tám giờ sau khi nhóm lò.
Vào giai đoạn ba ra than, cần chú ý rắc tro hay cát lên mặt đất xung quanh ghi để than nóng đỏ không gặp lạnh đột ngột dễ nở vỡ. Than nóng đỏ được cào ra và dùng bình tưới nước làm nguội. Ra than thì mặt ghi cào sạch ngay, hạ thân lò xuống vị trí cũ, đợi nguội, khi thân lò hết hồng chuyển sang đen thì tiếp tục chạy mẻ thứ hai, một ngày như vậy chỉ nên làm hai mẻ.
Câu nói của Đơ-rao-tinh như vẫn còn văng vẳng bên tai Phô-lê:
- Nhiệt độ lò nhớ khống chế cho lên chậm, sau độ tám, chín giờ lỗ thăm trên rực hồng khoảng 1.100 độ. Nhớ đừng để nhiệt độ lên nhanh quá mà than cháy tốn nhiều, dễ nứt vỡ vì hơi ẩm và các chất trong than bốc ra quá nhanh và sẽ vỡ cục than.
Đơ-rao-tinh còn chỉ vào cục than nhiệt luyện và bảo:
- Cục than chỉ cần cháy sém một lớp bên ngoài là được, không yêu cầu cháy tới ruột. Tốt nhất là chọn được cục than ít vết nứt to nhưng nhiều vết rạn nhỏ li ti thì càng tốt.
Phô-lê nhẩm tính nếu mỗi mẻ lò này sản xuất được hai trăm ki-lô-gam thì mỗi ngày hai mẻ sẽ được tới bốn trăm ki-lô-gam.
Sớm nay bầu trời sập sùi như sắp mưa, Phô-lê ngồi trầm ngâm một mình trong quán trọ. Bác thợ lò Ê-xê-ki-en có lẽ là người hiểu rõ nỗi lòng của Phô-lê ngay từ ngày đầu anh đặt chân tới quán này. Thật ra thì chẳng riêng gì Phô-lê mà Ê-xê-ki-en vốn rất mến những người có chí khí, có quyết tâm cao, nhất là nếu người đó lại xuất thân từ người lao động chân lấm tay dầu. Vừa nom thấy Ê-xê-ki-en bước vào, Phô-lê làm ra vẻ như không nom thấy, lẩm bẩm nói một mình:
- Thép Bỉ tốt thật!
Ê-xê-ki-en gật đầu đáp:
- Đúng! Thép Bỉ có tốt nhưng chưa phải là tốt nhất ở Âu châu!
https://thuviensach.vn
Phô-lê vội hỏi:
- Thế theo bác thì còn loại thép ở đâu tốt nữa?
Ê-xê-ki-en gật gù:
- Theo tôi thì nước Đức từ xưa đến nay vốn có trình độ kỹ nghệ cao. Nhất định là thép của họ phải tốt.
Những câu nói của Ê-xê-ki-en không khỏi làm Phô-lê suy nghĩ. Không khéo lại phải sang Đức một chuyến mới được.
Theo như Phô-lê ngẫm nghĩ thì một khi đi học nghề, nếu không có sáng tạo thêm thì nghề mình làm giỏi mấy cũng khó có thể bằng thầy được. Nếu sau này thứ thép Anh có tốt bằng thép Bỉ thì chưa chắc đã có thể cạnh tranh được với thép Bỉ. Và Phô-lê sang Đức.
*
Miền Rua đây rồi!
Phô-lê đi mãi và có cảm tưởng đúng là mình lạc vào xứ than: chỗ nào cũng giếng than, núi than, chỗ nào cũng ống khói tỏa mù mịt khắp trời.
Hết Đoóc-mun rồi đến Bô-sum, Bu-e, Et-xen, Đuy-xen-đoóc-phơ… Phô-lê tưởng tới Đui-dơ-bua, một hải cảng trên sông Ranh chắc sẽ dễ chịu hơn ở đây bụi than cũng bay mù trời…
Đui-dơ-bua, thành phố chính của cả miền Rua này chính là nơi Phô-lê cần dừng chân lại để tìm thầy học nghề.
Với cây đàn của mình, Phô-lê dễ dàng làm quen được với một anh thợ Đức tên là Oen-lơ-béc. Ngay từ hôm đầu, Oen-lơ-béc đã bảo Phô-lê:
- Người Đức vốn yêu âm nhạc.
Phô-lê đáp luôn:
- Người Anh vốn quý loại thép tốt, đấy mới chỉ là ý kiến của cá nhân tôi lúc này.
Sau đó Phô-lê rủ rỉ tâm sự với bạn:
https://thuviensach.vn
- Cuộc sống lang thang nay đây mai đó của tôi nghĩ lại cũng chán. Cuộc đời một con người trước sau rồi cũng phải bỏ neo tại một hải cảng nào đó chứ.
Oen-lơ-béc hỏi:
- Thế anh định làm ăn sinh sống ở đây chắc?
Phô-lê gật đầu, đáp:
- Đúng thế! Tôi muốn làm cái nghề luyện thép của anh. Liệu anh có thể giúp đỡ cho tôi được không?
- Có thể được! - Oen-lơ-béc nói. - Nhưng có lẽ anh nên đóng vai một người dân Đức từ miền khác tới đây tìm việc làm thì hơn. Điều này, anh phải giữ kín mới được!
Sáng hôm sau, Oen-lơ-béc dẫn Phô-lê tới gặp một viên cai tên là Các lơ Ê-ghe. Có lẽ vì mấy xưởng này đang cần thợ nên Phô-lê xin vào học việc xem ra cũng không có gì khó khăn lắm.
Cứ như con mắt của Các-lơ Ê-ghe thì những ngày đầu, anh chàng học việc ở miền Ca-vi-e này tỏ ra rất chăm chỉ nhưng chỉ ít lâu sau, anh ta hay la cà chỗ này một tí chỗ kia một tí. Viên cai bắt đầu chê trách anh ta, nhưng được cái Phô-lê là một người học việc khôn khéo. Từ đó, Phô-lê lúc nào cũng tìm cách bám sát lấy Oen-lơ-béc và những người thợ giỏi tay nghề ở đây, Phô-lê nhớ lấy những điều theo anh thì dù là nhỏ nhặt nhưng lại khá quan trọng, chẳng hạn như muối nhúng thép.
Phải chăng như lời nói của Oen-lơ-béc thì nhúng thép vào trong muối này chừng dăm phút sau đem ra ngoài không khí để nguội hoàn toàn, cách làm này vừa rẻ mà lại giảm khỏi bị nứt vênh.
Đã nhiều lần Phô-lê định tới thăm lò nung nhưng Oen-lơ-béc có ý gàn lại và bảo:
- Trước sau rồi anh cũng tới được đó nhưng lúc đầu nên thận trọng một chút. Riêng tôi, tôi cảm thấy giọng nói của anh chẳng giống mấy với giọng nói miền Ba-vi-e cả.
https://thuviensach.vn
Phô-lê lo lắng hỏi:
- Biết làm thế nào bây giờ? Nếu như chẳng may tên đội Các-lơ Ê-ghe phát hiện ra điều đó thì sao?
Oen-lơ-béc nói:
- Thì lúc ấy anh phải chuồn khỏi đây tức khắc. Còn từ nay trở đi anh hạn chế càng ít nói được càng tốt và hết sức chú ý tới những vấn đề nhỏ nhặt. Có khi chỉ cần một điều nhỏ nhặt đó là một người thợ cừ có thể sống ung dung suốt cả một đời người được.
Phô-lê sốt ruột nói:
- Tôi sẽ nghe theo lời khuyên của anh nhưng sau đây, theo anh tôi nên học hỏi điều gì?
- Vấn đề tôi các dụng cụ bằng loại thép ở đây.
Nói xong Oen-lơ-béc đứng dậy, chùi bàn tay dính dầu vào một miếng giẻ. Vừa lúc đó Các-lơ Ê-ghe lững thững đi tới. Oen-lơ-béc khẽ nháy mắt ra hiệu cho bạn. Cả hai cùng lúi húi làm việc có vẻ say sưa lắm. Đôi mắt Phô-lê không rời khỏi công việc của Oen-lơ-béc. Tên cai cũng chỉ thủng thỉnh đi qua chứ không hề dừng lại soi mói gì cả.
Phô-lê hết sức chú ý tới những yêu cầu khi tôi các dụng cụ bằng loại thép này. Phô-lê theo dõi tỉ mỉ và để ý thấy khi bị nung mặt ngoài, loại thép này dễ bị bong vảy nên người ta phải dùng chất bảo vệ.
Vấn đề còn lại bây giờ là phải làm sao đây để cố gắng lấy được ít ra là một vài chất bảo vệ.
Oen-lơ-béc đưa cho Phô-lê xem một thanh thép nữa. Phô-lê lấy một miếng giẻ sạch lau qua một lượt và hỏi bạn:
- Tôi muốn xin anh thanh thép này để làm kỷ niệm có được không? Oen-lơ-béc không nói gì chỉ khẽ gật đầu.
Nhìn loại thép này, Phô-lê biết ngay đó là loại vật liệu dùng làm dụng cụ cắt gọt thì rất tốt, làm việc được tới năm, sáu trăm độ.
https://thuviensach.vn
Vậy thì trong loại thép này có chứa những gì để có được những tính chất rất đặc biệt như vậy?
Phô-lê vội hỏi Oen-lơ-béc, anh thợ Đức đáp:
- Câu hỏi này tôi sẽ trả lời anh sau nhưng riêng tôi, theo kinh nghiệm làm việc ở đây tôi biết, nếu như tên Các-lơ Ê-ghe lừ lừ đi qua chỗ nào mà không hé răng lấy một lời là anh hãy coi chừng đó.
Phô-lê hỏi:
- Cùng lắm là tôi sẽ chuồn khỏi đây? Theo anh thì trên thế giới còn nước nào có thứ thép quý nữa?
Oen-lơ-béc nói:
- Ý, Tây Ban Nha… Cứ như tôi nghĩ: một người có chí như anh, với cây đàn hẳn không sợ chết đói thì anh có thể đi một vòng khắp thế giới kỳ cho học được nghề thành tài mới thôi.
Quả đúng như Oen-lơ-béc nói: chỉ nửa giờ sau Phô-lê bị tên cai Các-lơ Ê-ghe gọi lên và chất vấn anh về cái giọng nói không phải Ba-vi-e. Phô-lê biết ngay, trước sau thế nào cũng bị tên này gây rắc rối. Tìm cách ở lại bây giờ cũng hơi lôi thôi. Phô-lê bèn quay về chỗ làm việc khẽ nói nhỏ với Oen-lơ-béc:
- Đúng như anh nói. Tên cai vừa gọi tôi. Có lẽ tôi phải theo đúng lời anh khuyên đây. Anh làm sao cho tôi biết được thứ mà tôi đã đề nghị với anh nhiều lần, nếu được cả thứ thuốc tôi thì tốt.
Oen-lơ-béc gật đầu.
Chiều hôm đó trong lúc đang thu dọn đồ nghề thì Phô-lê nhận được một mảnh giấy nhỏ nói về những thành phần của loại thép này. Phô-lê liếc mắt đọc qua thấy hàng trên có năm chữ:
C W V Cr Fe
Hàng dưới thấy có:
P18 0,75%...
https://thuviensach.vn
Vừa lúc đó có tiếng người đi vào. Thì ra Oen-lơ-béc. Oen-lơ-béc đưa cho Phô-lê một cái hộp nhỏ và nói khẽ vào tai:
- Thời gian nung: bắt buộc anh phải cố nhớ lấy, còn đây là hai thứ thuốc để tôi.
Oen-lơ-béc vừa đi khỏi, Phô-lê vội vã đóng cửa lại. Anh mở cái hộp ra xem thì thấy một loại dầu máy, một loại muối khi nấu chảy giữ ở nhiệt độ bốn, năm mươi độ.
*
Phô-lê lại tới được Tua-ranh, một trong ba thành phố lớn nhất của nước Ý. Đây là một miền phì nhiêu giàu có của nước Ý. Xa xa, dãy núi An pơ đang cố vươn cao những đỉnh trắng tuyết lấp lánh. Ở đây có những vải vóc, tơ lụa, hàng dệt khá đẹp rồi giấy, thực phẩm, nhưng thứ mà Phô-lê cần lại không phải là những mặt hàng trưng bày nhan nhản ở đây.
Với kinh nghiệm của hai chuyến đi trước, Phô-lê lọt được vào làm việc trong một xưởng luyện thép ở Tua-ranh. Lần này Phô-lê tỏ ra khôn ngoan hơn: trong khi học tập, thu thập những điều bổ ích nhất về kỹ thuật luyện thép ở vùng Bắc Ý này, Phô-lê đã chuẩn bị sẵn để khi cần thiết sẽ khăn gói lên đường sang Tây Ban Nha.
Và Tây Ban Nha, đất nước đã một thời tung hoành trên các đại dương với những hạm đội vô địch, đất nước ấy cũng là đất nước của sắt, thép, súng đạn.
Phô-lê tới thủ đô Ma-đơ-rít vào đúng dịp lễ Pác-cơ. Vào cái quãng cuối tháng ba đầu tháng tư này thủ đô Tây Ban Nha như vắng lặng hẳn đi: các cơ quan và cả hiệu buôn đều đóng cửa im ỉm. Mọi người dân ở đây như dồn cả vào nhà thờ, nến cháy lung linh soi rõ khuôn mặt những con chiên đang hướng về phía đức chúa Giê-su lầm rầm cầu nguyện.
Đi chỗ nào, Phô-lê cũng đụng phải các cố đạo và bà sơ… Trong khi các con chiên kéo nhau cả về quảng trường Puy-éc-ta-đen-xôn, trung tâm
https://thuviensach.vn
của Ma-đơ-rít thì Phô-lê đi ngược lại dòng người tới một góc phố tìm một cái bàn đá chỉ hướng hỏi thăm về phía Nam.
Với cây đàn của mình, Phô-lê dễ dàng làm quen với một người thợ luyện thép tên là Gôn-xa-lét mặc dầu anh ta rất thạo về đàn ghi-ta.
Gôn-xa-lét là một tay thợ cừ. Anh nhận Phô-lê là em họ, do đó Phô-lê xin vào làm việc không có gì là khó khăn lắm. Trong công việc, Phô-lê không còn ngỡ ngàng như hồi mới sang Bỉ nữa.
Hồi ở Anh, Phô-lê và một số bạn trong nghề rèn thường vẫn cho rằng trong lò luyện gang, thép… phải dùng các cục than lớn thì nước gang nấu ra mới tốt, nhiệt độ mới cao. Nhưng ở đây, Phô-lê nhận thấy Gôn-xa-lét chỉ dùng độc một loại than nhỏ xấp xỉ từ hai mươi đến bốn mươi mi-li-mét để nấu.
Thấy Phô-lê cứ nhìn như dán vào những cục than, Gôn-xa-lét nói:
- Dùng loại than nhỏ này để nấu thì… - Gôn-xa-lét chỉ vào ngọn lửa lan đều khắp rồi nói - rõ ràng là tăng được tiết diện cháy và do đó tốc độ cháy của than cũng tăng lên.
Gôn-xa-lét lại chỉ vào bụng lò nói:
- Khi nào than xuống đến bụng lò gang thì than cũng cùng cháy và cháy gần hết. Do than cháy hoàn toàn nên nhiệt lượng than thu được lớn, than đỡ hao phí, giảm được than mà nước gang ra vẫn tốt…
Gôn-xa-lét cảm thấy anh bạn Phô-lê là một con người khá thông minh sớm nắm được nghề nghiệp. Nhưng một buổi sáng chủ nhật khi Gôn-xa-lét tỉnh dậy, đã không thấy anh bạn thông minh đâu cả. Trên bàn chỉ có một lá thư của Phô-lê từ biệt anh và hẹn sẽ có ngày gặp nhau.
*
Đã sáu năm lưu lạc giang hồ, Phô-lê hết qua Bỉ lại sang Đức, hết Bô he-mơ lại sang Bắc Ý rồi Tây Ban Nha, cuối cùng mãi hôm nay Phô-lê mới trở về nước Anh.
https://thuviensach.vn
Dừng chân bên bờ sông Thêm-dơ, Phô-lê khẽ cúi xuống soi mình nhìn dòng nước: nom anh có già đi thật, nước da nâu hồng, mái tóc vàng không còn óng đẹp như xưa. Anh quờ tay sang bên cạnh khẽ đụng phải cây đàn đã cũ, mặt đàn có chỗ đã rạn nứt. Vỏ hộp đàn mất hẳn màu nâu bóng: giờ đã xây xát: Giá không có ít sơn gắn lại thì chưa chừng hộp đàn đã vỡ tan từ lâu rồi.
Phô-lê không khỏi chạnh lòng nhớ nhà, anh vớ lấy cây đàn khẽ kéo một bài dân ca cổ. Chiều hôm đó, dừng chân tại một quán nhỏ bên đường, Phô-lê mua lấy ít lương thực dự trữ rồi anh lại rảo bước ra đi…
… U-oóc-sét-téc-sai-rơ kia rồi! Tim Phô-lê đập thình thịch… Anh nhớ tới bá tước Giêm Tuýt-lo ở Ấn Độ về, rồi Ê-đi Hây-li ở Nam Phi về, xe cộ chất đầy hòm xiểng vàng bạc châu báu. Còn anh, ngoài cây đàn ra không có lấy một đồng tiền vàng nào. Của đáng tội anh có đem về được năm mẩu thép mẫu lấy từ năm nước đã đi qua. Thế thôi! Ngay cả bộ quần áo anh mặc trên người cũng không còn lành lặn.
Xtua-bơ-rít-giơ kia rồi!
Người đầu tiên nom thấy Phô-lê là Phát-xtơ, một bạn cũ cùng học thời nhỏ.
- Trời! Tôi cứ ngỡ anh không có dịp quay về đây nữa! - Phát-xtơ ôm chầm lấy bạn hôn lấy hôn để, bộ râu rậm của anh chạm cả vào má Phô-lê.
- Nhất định là phải về chứ! Phô-lê nói - Còn vợ, con tôi, còn bạn bè tôi nữa chứ!
Phát-xtơ dừng lại một bước để ngắm bạn cho kỹ rồi hỏi:
- Thế nào, sau mấy năm chu du thiên hạ như vậy, anh đã đem được gì về nào?
- Vàng bạc châu báu thì không có nhưng… Phô-lê chỉ vào hai cánh tay và đầu mình nói - Khối óc và bàn tay. Rồi đây tôi tin rằng thứ thép Anh của chúng ta nhất định sẽ nổi tiếng trên thế giới.
Chợt có tiếng kêu:
https://thuviensach.vn
- Bố ơi! Bố! Bố đã về!
Phô-lê nhìn ra: Đuýt-tê. Anh thật không ngờ sau sáu năm xa cách, đứa con thứ tư của anh lại chóng lớn đến thế.
Tối hôm đó tại ngôi nhà của Phô-lê, bạn bè tới thăm nườm nượp. Có kẻ tới nhìn trước nhìn sau không thấy một chút của nả gì trong nhà, bèn bỏ ra về và không khỏi xì xào về anh chàng Phô-lê ngông cuồng.
Chỉ có cô vợ Phô-lê là hiểu anh hơn. Qua ánh mắt của chồng, cô cảm thấy một niềm tin mãnh liệt vào cơ đồ mai sau.
Phô-lê khẽ hỏi vợ:
- Tôi đi chuyến này mục đích thế nào chắc cô đã biết! Giờ cô thử thu vén xem còn đồng vốn nào, ta bắt tay luôn vào việc. Xây dựng một cái lò luyện thép.
Cô vợ dốc tất cả tiền vốn còn lại, tuy không nhiều nhặn lắm nhưng được cái bạn bè cũ, mỗi người giúp cho một ít nên cuối cùng, cũng đâu vào đấy cả.
Một số bạn bè cũ làm việc với Phô-lê giờ lại quay về giúp anh.
Dù muốn hay không thì xưởng thép của Phô-lê bắt đầu hoạt động cũng gây cho những người ở gần đó một niềm hy vọng mới. Rồi đây nếu không phải là trên khắp nước Anh thì ít ra ở vùng này cũng sẽ có được một loại thép dẻo tốt. Người ta thấy Phô-lê lúc đứng chỗ này, lúc đứng chỗ kia nhưng khi mẻ thép đầu tiên sắp sửa ra lò thì Phô-lê không rời lò lấy nửa bước.
Suốt đêm hôm trước, anh thao thức không ngủ được. Xem ra anh còn sốt ruột hơn cả lần vợ đẻ đứa con đầu lòng.
Thật ra chẳng riêng gì một mình Phô-lê và những người trong xưởng thép mà tất cả những người ở gần đó và một số người có quan tâm đến việc này đều bị thu hút vào đó.
https://thuviensach.vn
Con mắt mọi người đều dồn cả vào lò nấu chảy, thoạt tiên nó ở thể nửa chảy, sau đó mới biến thành thép lỏng…
… Trong khi mọi người chuyền tay nhau xem thanh thép và trầm trồ khen ngợi nào là thép dẻo nào là rèn cán được dễ dàng thì chỉ duy có Phô-lê là xem ra không được vui.
Phô-lê đang ngồi trầm ngâm hút thuốc một mình thì Phát-xtơ bước vào, chìa mấy thanh thép cũ ra đối chiếu với thanh thép mới nói:
- Kìa! Sao anh không vui lên thế? Thứ thép này hơn hẳn thép của ta. Phô-lê đặt điếu thuốc xuống, khẽ lắc đầu nói:
- Tốt hơn thép cũ thì đã đành nhưng vẫn chưa phải là thứ thép tôi mong muốn.
Sau đó Phô-lê phân tích rõ ràng cho bạn xem từng ưu điểm nổi bật của mỗi loại thép Đức, thép Bỉ, thép Ý, thép Tây Ban Nha… Theo như mong ước của Phô-lê thì thứ thép Anh phải có được đầy đủ tất cả những ưu điểm đó. Tối hôm đó, chờ cho mọi người về hết, Phô-lê mới ngồi tính toán lại xem tất cả những điều mình học được đã áp dụng một cách đúng đắn vào đây chưa?
Đêm đã khuya, thấy Phô-lê hãy còn thức, cô vợ tưởng chồng xúc động về thành công của mẻ thép đầu tiên nên không dám bước vào phòng. Mãi tới khi thấy đồng hồ điểm dõng dạc hai tiếng, cô mới lại gần chồng, khẽ đặt tay vào vai hỏi:
- Sao anh thức khuya vậy?
Phô-lê ngước mắt nhìn vợ:
- Nếu như ngày mai anh lại phải xa em và các con, em sẽ tính sao? Cô vợ ngạc nhiên hỏi lại:
- Thế anh đi sáu năm vẫn chưa đủ hay sao?
Phô-lê đáp:
https://thuviensach.vn
- Anh cảm thấy phải đi một chuyến nữa. Hình như trong từng khâu nào đó vẫn còn vấn đề trục trặc hay vướng mắc gì đó.
Không thấy vợ nói gì, Phô-lê nắm lấy tay vợ dịu dàng nói:
- Lần này anh sẽ đi chóng thôi, không đến sáu năm đâu nhưng thể nào anh cũng đi.
Cô vợ rân rấn nước mắt nói:
- Anh có biết không? Gia sản nhà ta đã khánh kiệt không còn đồng nào. Ở nhà chỉ còn độc một mình em, con cái ai lo?
Phô-lê an ủi vợ:
- Em đừng lo! Có được thứ thép gió Anh thì gia sản ta không lo thiếu, con cái sẽ làm nên danh giá. Chuyến này anh quay về, sẽ đầy đủ tất cả.
Cô vợ thôi không khóc nữa. Cô cứ ngồi yên để chồng thấm cho mình những giọt nước mắt lăn trên má.
Sáng hôm sau, mọi người ai cũng biết tin Phô-lê lại lên đường. Lần này anh không còn phải đóng vai một nghệ sĩ lang thang với cây đàn vi-ô lông cũ kỹ nữa. Anh đi với một quyết tâm: gặp bằng được những thầy học cũ của mình để hỏi lại một số vấn đề còn thiếu sót trong kỹ thuật.
Chuyến thứ hai của Phô-lê không dài và vất vả như chuyến đi đầu tiên nhưng sau đó, khi Phô-lê trở về rõ ràng xưởng thép của anh đã thu được kết quả khá tốt. Ngay mẻ thép ra lò đầu tiên, mọi người đã phải công nhận đúng thứ thép tốt mà Phô-lê hằng mong ước từ bao năm nay.
Cầm một thanh thép mẫu, sau khi đã kiểm tra kỹ lưỡng chất lượng Phô-lê sung sướng nói với mọi người:
- Thứ thép gió này giờ mới xứng đáng gọi là thép Anh. Giờ thì ta có thể sản xuất thép gió đem bán ra khắp châu Âu được rồi!
Xưởng thép của Phô-lê mỗi ngày một phát triển rộng, khắp nơi tới tấp gửi đơn đặt hàng mua thứ thép Anh này. Cũng may mà đứa con thứ ba của
https://thuviensach.vn
Phô-lê là Lo Phô-lê cùng với em là Lo Đuýt-lê cũng có thể giúp bố trông nom được một phần công việc.
Chiều nay, lúc Phô-lê ở lò thép quay về phòng giám đốc, chợt nhận thấy một lá thư từ Bỉ gửi sang.
Đó là thư của Ê-xê-ki-en, một người bạn ở Bỉ nói cho biết: lần đầu tiên thấy trên thị trường châu Âu xuất hiện loại thép Anh tốt hơn thép Bỉ, Đơ-rao-tinh đã nghĩ ngay tới người nghệ sĩ Anh ăn mặc rách rưới với cây đàn vi-ô-lông cũ kỹ.
Trong lá thư Ê-xi-ki-en còn khuyên Phô-lê nên giữ gìn bí mật của việc chế tạo ra thép Anh.
Đọc tới đây, Phô-lê mỉm cười, gấp bức thư lại nghĩ thầm trong bụng: “một khi mình đã biết được bí mật kỹ thuật của kẻ khác thì không đời nào mình lại để kẻ khác đoạt lấy bí mật kỹ thuật của mình được!”.
Phô-lê cảm thấy các ông chủ xưởng thép ở nước ngoài đã coi Phô-lê như một kẻ thù nguy hiểm.
Phô-lê đang định đứng dậy, chợt nhận thấy có một cái phong bì to của Bộ kỹ nghệ Anh đặt gần lọ mực pha lê. Phô-lê mở ra đọc lướt qua rõ nhanh: đó là giấy mời tối nay tới dự tiệc tại Bộ kỹ nghệ.
Vừa lúc ấy, bác cai Bin-tơn bước vào, đặt xuống trước mặt Phô-lê một bọc giấy đen và một tờ biên bản, nói:
- Thưa ông, vừa rồi ở xưởng thép chúng ta vừa thoát khỏi một tai nạn khủng khiếp.
Phô-lê hơi biến sắc mặt đi, hất hàm hỏi:
- Có chuyện gì vậy, bác cai?
Bin-tơn mở bọc giấy đen ra, lấy một cục to nom từa tựa như một cục nhựa đen:
- Anh thợ lò Lớt-vi-len trong lúc cho than vào lò chợt nhận ra cục này! Đó là một loại chất nổ có kẻ phá hoại để lẫn trong than. Chỉ cần chậm năm
https://thuviensach.vn
giây nữa, cả lò thép có thể phải ngừng hoạt động.
Phô-lê cầm gói chất nổ lên ngắm nghĩa rõ kỹ, lát sau mới gật gù nói:
- Loại này chế tạo ở Tây Ban Nha, thì ra những ông chủ thép nước ngoài không từ bỏ một thủ đoạn nào để làm hại người đồng nghiệp của mình cả.
Phô-lê xem xong tờ biên bản rồi nói với Bin-tơn:
- Tôi sẽ ký giấy thưởng mười ngày lương cho Lớt-vi-len nhưng có điều bác cần nhắc nhở mọi người là phải hết sức đề phòng bọn phát hoại nước ngoài.
Bin-tơn vừa ra xong, Phô-lê càng ngẫm nghĩ càng thấy mình có tầm nhìn xa. Không phải ngẫu nhiên mà Phô-lê lại phải bỏ ra một số tiền để nuôi hẳn một số người cảnh vệ trong nhà máy. Mới hôm qua thôi, đội cảnh vệ này đã bắt được một người đàn ông chuyên vào xưởng thép mua giấy lộn bán cho một cửa hàng sách cũ người Ý tên Tô-lét-xti. Mặc dầu chưa có bằng cớ gì xác đáng nhưng Phô-lê cũng cảm thấy: biết đâu người Ý lại chẳng tìm cách moi bí mật của Phô-lê?
Chiều nay ở xưởng thép về, Phô-lê thay quần áo và cũng chẳng kịp kể lại những gì xảy ra ở xưởng cho vợ con nghe nữa. Phô-lê sửa soạn đi dự tiệc.
Bà vợ biết tin chồng tối nay đi dự tiệc nên ngay từ chiều đã mở tủ tìm lại bộ quần áo đẹp nhất để tối nay hai vợ chồng cùng mặc. Cỗ xe ngựa được bác xà ích lau bóng lộn.
Vì nhờ vợ ở nhà chuẩn bị sẵn từ trước nên trời vừa sập tối cỗ xe đã nằm chực sẵn ngoài đường, ngay trước cổng.
Hai vợ chồng Phô-lê đang định bước lên xe ngựa thì chợt nghe tiếng roi vút đen đét: một cỗ xe ngựa khác vừa đi tới.
Bà vợ Phô-lê nhận ra cỗ xe bốn ngựa kiểu mới của Nam tước Xlây-be. Nam tước phu nhân vừa mở cửa xe vừa vẫy tay chào hai người:
https://thuviensach.vn
- Chào ông bà chủ. Mời ông bà sang ngồi xe tôi cho tiện.
Phô-lê khẽ gật đầu chào cảm ơn, chưa biết đáp thế nào thì bà vợ Phô lê đã nói với chồng:
- Hay chúng mình sang ngồi cùng xe với nam tước cho vui. Em muốn tâm sự với nam tước phu nhân về con đường danh lợi của em.
Phô-lê quay sang bảo bác xà ích của mình:
- Lát nữa, bác đến đón chúng tôi cũng được.
Bác xà ích vâng rồi bước lên xe. Chiều nay hơi mệt nên cũng chẳng muốn đi đâu, bác bèn đánh xe lững thững đi sau cỗ xe của nam tước Xlây be cách độ một trăm mét. Bác định tới Bộ kỹ nghệ sẽ đỗ xe lại, kiếm một quán cà phê vào làm một cốc cho tỉnh. Nào ngờ cỗ xe vừa đi được độ năm
phút thì trong xe bỗng có tiếng nổ rõ to. Cỗ xe đi trước vội dừng lại. Phô-lê mở cửa xe nhẩy xuống lại gần cỗ xe của mình: bác xà ích bị thương nặng ở cánh tay, chiếc ghế đệm da sau xe rách bươm, cửa kính vỡ toang, mui xe bị một mảnh bom bắn thủng.
Lúc này, nam tước Xlây-be đã lại gần Phô-lê và hỏi:
- Đây hẳn là một vụ mưu sát?
- Thưa nam tước đúng vậy! - Phô-lê nhặt một mảnh bom lên tay chìa ra cho bạn nói - Xem ra chỉ có bọn Đức mới thích dùng cái trò này. Bọn phá hoại đã nhận tiền của mấy ông chủ thép ở Đức đây.
Nhìn cỗ xe mà mặt bà vợ Phô-lê tái mét như cắt không ra một hạt máu. Bà ta quay sang nắm lấy tay nam tước phu nhân cất giọng run run nói:
- Thưa nam tước phu nhân, nếu không có nam tước phu nhân thì không khéo vợ chồng tôi đến nguy mất rồi.
- Có gì mà cảm ơn! - Nam tước phu nhân an ủi bạn - Đó chẳng qua là may rủi thôi!
Cỗ xe bốn ngựa chở mọi người lại tiếp tục chuyển bánh. Có lẽ vì gặp chuyện rủi ro bất ngờ dọc đường nên khi một người tới nơi thì khách dự
https://thuviensach.vn
tiệc đã có mặt đông đủ.
Trong lúc mọi người nâng cốc chúc tụng lẫn nhau, thì có một vị quan khách tóc đã bạc lại gần Phô-lê và nói:
- Xin nâng cốc chúc sức khỏe của ngài chủ xưởng thép.
Chờ cho vị khách kia đi khỏi Phô-lê quay sang phía bên phải hóm hỉnh nói với Xlây-be:
- Thưa nam tước, không hiểu là ông ta chúc tôi chung chung như vậy hay là vì ông ta đã chứng kiến tai nạn rủi ro dọc đường vừa rồi của tôi.
Nam tước Xlây-be đứng dậy giơ cốc về phía Phô-lê nói:
- Còn tôi chạm cốc với ông để chúc ông dù kẻ thù ở châu Âu có âm mưu này nọ: ăn cắp, phá hoại, thậm chí cả ám sát nữa, cuối cùng thì ông vẫn sống mạnh khỏe và trên khắp châu Âu này, ở đâu người ta cũng biết đến thứ thép gió Anh, thứ thép nổi tiếng ít ra cũng trong lúc này.
Phô-lê chạm cốc đáp lễ, đưa cốc rượu cận kề gần môi mà ông vẫn còn xúc động.
Thép Anh! Phải rồi! Chỉ vì một thứ thép này mà Phô-lê đã phải đánh đổi cả tài sản và phần nỗ lực của cuộc đời mình.
https://thuviensach.vn
CON ĐƯỜNG “GIA VỊ”
Người ta quen gọi Lơn-đơn là thành phố sương mù: đúng thật! Khách tung chăn, sờ tay ra xung quanh, chỗ nào cũng dính nhơm nhớp. Cửa trong phòng đã đóng kín hai lần mà sương mù vẫn ùa vào khắp nơi. Từ cửa sổ nhìn ra, Crip thấy cả người Lơn-đơn lẫn xe cộ đều chập chờn như những bóng ma, quyện vào lớp sương mù đùng đục.
Vừa lúc đó, một bóng người rón rén đi qua hành lang. Đó là Bốp. Anh hầu phòng này rất sợ tiếng chân của mình phá mất giấc ngủ của vị thượng khách mới đến trọ ở đây có vài hôm mà đã gây xôn xao cả khu Lê-xe-xtơ. Thật ra khách sạn Xa-bơ-lon-ni-e đâu phải loại thường, khách thượng lưu tứ xứ tới trọ không phải ít, nhưng gần đây nơi này bỗng nhiên trở thành nơi hội tụ của nhiều nhà quý tộc công nghiệp Anh. Chủ khách sạn quý vị khách thượng lưu này đã đành, mà Bốp lại càng quý hơn. Không ngày nào là Bốp không được tiền thưởng, chỉ cần Bốp khẽ cúi đầu đỡ lấy tấm áo khoác treo lên mắc áo cho khách, hoặc mở cửa, đưa mũ, Bốp đều nhận được món tiền thưởng rất hậu.
Một vị khách Anh ở nước ngoài về - không rõ là từ Ấn Độ hay châu Phi - nhưng chắc chắn ông ta đã từng sống ở một xứ sở giàu có.
Thật thà mà nói bất cứ ai, thoáng gặp Crip lần đầu cũng dễ thấy hấp dẫn bởi dáng dấp phong lưu mã thượng của người khách trọ này. Ăn mặc sang trọng, toàn loại hàng đắt tiền đã đành, Crip lúc nào cũng đi một đôi ủng bóng lộn có cựa. Chỉ riêng một đôi ủng cũng đủ chứng tỏ nhà quý tộc Anh trẻ tuổi này đã từng phi trên mình ngựa băng qua những đồng cỏ xanh rì, để lại trong lòng các hiệp sĩ ở kinh đô nước Anh tiếng vó ngựa phi dồn dập pha trộn với tiếng gươm khua nơi chiến địa.
Trước cửa phòng trọ vẫn treo ngay ngắn tấm biển A. Crip, Bốp đưa mắt, ngó vào: à, ông khách đã dậy. Bốp gõ cửa rồi trịnh trọng đưa vào một
https://thuviensach.vn
cái khay chất đầy các danh thiếp đặt lên bàn, nhận xong mấy đồng tiền thưởng, Bốp quay ra.
Crip cầm danh thiếp lên, lướt qua rất nhanh, loại bỏ gần hết chỉ giữ lại độ dăm, sáu cái. Crip khẽ vươn vai, đứng dậy bước lại gần cuốn lịch. Từ ngày rời Đức sang hòn đảo này, Crip hầu như không ăn tại khách sạn. Hết chỗ này đến chỗ kia mời! Trừ một số nhà quyền quý có con gái đẹp mà theo phép xã giao không thể từ chối được, Crip chỉ giao du chủ yếu với giới công nghiệp Anh. Hắn rất chú ý đến các nhà luyện kim, những xưởng đúc thép, đặc biệt là những công trình đang nghiên cứu ở Anh về thép.
Crip đang lúi húi ghi chép vào cuốn sổ tay thì Bốp lại gõ cửa bước vào, trịnh trọng đưa tới một tấm danh thiếp của một nam tước, chủ một ngân hàng ở khu Xi-ty mời đến dự tiệc.
- Ta sang đây đâu phải chỉ ăn cho béo bụng!
Nói xong, Crip thấy mình là vô lý đối với người hầu phòng xa lạ, Bốp lủi thủi quay ra, đoán mãi không sao hiểu nổi ông “khách thượng lưu” giàu có này hôm nay lại khó tính đến thế vì như Bốp, giá có ai mời dự tiệc thì xa mấy Bốp cũng cố đi, huống hồ bữa tiệc này lại đặt ngay tại một khách sạn cỡ quốc tế ở chốn kinh đô sầm uất này.
Chiều hôm đó, trong lúc các nhà quyền quý tưởng ngài Crip đang dự tiệc ở chỗ này, chỗ nọ thì Crip lại đang hướng về Mít-lan, một trung tâm than đá tập trung tới hai chục thành phố chế tạo da, tơ, len, đồ sứ, cao su,... Crip hướng tới thủ đô sắt thép Bớc-min-ham, lần theo một đường dây ghi trong địa chỉ. Sau đó, Crip quay về Lơn-đơn, trong bộ quần áo lem luốc bẩn thỉu, Crip len lỏi giữa những khu ổ chuột ở It-en[1]tìm vào một căn nhà rách nát, ẩm thấp, hôi hám bụi bặm tìm một ông lão hom hem, tên là Hin đơn. Ông lão vừa nói vừa ôm ngực ho sù sụ. Không một ai có thể ngờ rằng: hai mươi năm về trước, Hin-đơn đã từng là một tay thợ luyện thép tài năng, vóc người vạm vỡ, cánh tay rắn chắc như thép. Câu chuyện nhỏ to diễn ra không lâu. Chỉ biết lúc kết thúc, ông lão nhận một ít tiền và cúi đầu cảm ơn Crip.
https://thuviensach.vn
*
Bác xà ích Cra-xi ngồi trên xe ngựa, hút đã gần tàn một điếu thuốc mà chẳng thấy ai gọi xe cả: Chẳng lẽ đêm nay không có khách vào khu Oét min-xơ để xem hát. Bác đã toan ra roi cho ngựa kéo đi về hướng công viên Hai-đơ-pác thì chợt thấy từ trong bụi cây tối om, một anh chàng rách rưới đang vẫy tay ra hiệu gọi xe đến.
“Thằng cha thất nghiệp chắc đang định xin mình điếu thuốc đây! Rõ xúi quẩy! Đêm nay toàn gặp chuyện rủi.” Cra-xi đang định cho xe quay đi thì anh chàng rách rưới nọ gọi, giọng hách dịch, gần như quát:
- Đưa ta về khách sạn Xa-bơ-lon-ni-e, nhanh lên!
- Mười lăm xtéc-linh, xin tiền trước!
Không đợi bác xà ích nhắc tới lần thứ hai, anh chàng rách rưới quẳng ra một tờ hai chục xtéc-linh.
Đôi mắt bác Cra-xi sáng hẳn lên, bác ta vội gò cương cho đôi ngựa kéo xe đến sát bụi cây để khách nhảy lên, tay khách vẫn ôm khư khư một cái bọc kỹ.
- Khu Lê-xe-xtơ, biết rồi chứ?
Nghe khách nói, bác Cra-xi cúi đầu rối rít đáp:
- Dạ, biết rồi ạ! Ở khách sạn ấy có một vị khách giàu lắm, chân lúc nào cũng đi ủng bóng lộn có cựa.
- Thôi, nhanh lên!
Thật ra thì chẳng đợi khách giục, bác Cra-xi đã quất roi đen đét cho đôi ngựa lao đi. Cỗ xe song mã chạy được một đoạn bỗng vấp phải một tảng đá: kênh hẳn một bên bánh tưởng đổ xe, bác Cra-xi hốt hoảng quay lại và tưởng như trong truyện thần thoại, ngồi trong xe không phải là anh chàng rách rưới bẩn thỉu lúc nãy mà hắn ta đã thay quần áo thành một vị khách phong lưu mã thượng, quần áo sang trọng và hình như ông ta cũng đi
https://thuviensach.vn
ủng, đôi ủng bóng lộn, còn như cựa sắt có hay không thì tối quá bác xà ích không nom thấy.
Đêm hôm đó, đưa khách về nơi nghỉ, bác Cra-xi may mắn còn được anh chàng hầu phòng tốt bụng đãi một cốc rượu đầy. Trời đã khuya rồi mà hai bên vẫn đánh cược với nhau xem ngài Crip là người giàu sang hay người nghèo. Dĩ nhiên Bốp vẫn khẳng định với Cra-xi đó là một “ông hoàng vàng”... Còn Cra-xi thì lại quả quyết đó là một anh chàng nghèo kiết xác đang cố đóng vai một người giàu để âm mưu một cái gì đây. Ở châu Âu trong cơn sốt điên loạn của thế giới tư bản, những vụ “thủ mưu” như thế đâu phải chuyện lạ!
*
Trong lịch sử xa xưa, có con đường tơ lụa, đường hạt tiêu, đường hương liệu thì đối với An-phrê Crớp con đường từ Đức sang Anh phải gọi là con đường “gia vị”.
Không hoàn toàn đúng như nhận xét của bác xà ích Cra-xi tinh đời, An-phrê Crớp tuy chưa hẳn là anh chàng nghèo kiết xác nhưng cũng là người đang mắc nợ khá nhiều. Trước hết là món nợ do ông bố để lại khoảng chín triệu Phrăng, sau đó là một cái gia tài “khổng lồ” ở thành phố Ét-xen: Công ty sản xuất thép Anh và các chế phẩm, trong đó dù có sự hùn vốn của một số họ hàng thân thuộc, sản phẩm bán ra ậm ịch không tiêu thụ nổi.
An-phrê rất thương bố. Theo hắn, F. Crớp, bố A. Crớp xứng đáng là con người thép. Hắn nhớ từ hồi nhỏ đã được nghe kể lại: một thời châu Âu xôn xao về tin vua Pháp hứa trao giải thưởng ba vạn phrăng cho bất cứ ai sản xuất được thép Anh, bất kể là phát minh của chính mình hay đánh cắp được bí mật kỹ thuật của Anh. Chất lượng thép Anh có một thời không những thua Đức, Tây Ban Nha mà còn thua cả Ý, Bỉ. Song sau khi ăn cắp bí mật luyện thép của những nước này thì nước Anh lại vượt lên, đứng đầu châu Âu. Ở nước Đức những tay rèn dao nổi tiếng ở thành phố Xô-lanh gien đã tụ tập lại thành lập hẳn một hội “Những nhà phát minh ở Xô-lanh-
https://thuviensach.vn
gien” để cử những con người ưu tú nhất sang Pháp giật giải. Các tay luyện kim bậc thầy ở Bỉ, Thuỵ Sĩ cũng có mặt nhưng đều thất bại. Theo dư luận người có khả năng giật giải chính là ông bố của An-phrê nhưng F. Crớp lại đùng đùng bỏ về Đức, sau khi... đã đánh cắp được phương pháp chế tạo thép của Anh và mua lại của bọn gián điệp kỹ thuật quốc tế khá nhiều những công thức bí mật.
Công ty sản xuất thép Anh và các chế phẩm ra đời ở thành phố Ét-xen ngày 20 tháng 11 năm 1811, đúng lúc “con người thép” đó tròn hai mươi bốn tuổi. Nhưng tiếc thay mang tiếng là thép Anh, nhưng thật ra chất lượng thép của F. Crớp còn thua xa thép Anh nên nhà máy phải đóng cửa, rồi hoạt động trở lại và đóng cửa một lần nữa. Nợ nần, nghèo túng chồng chất.
Ngày mồng 8 tháng 10 năm 1826, ở cái tuổi ba mươi chín, trước lúc chết, F. Crớp đã di chúc lại cho con “Bằng bất cứ cách nào, phải lấy được toàn bộ kỹ thuật sản xuất thép của Anh và vượt xa họ.”
- Có lẽ ta thua họ là bởi các “gia vị” - F. Crớp nói nhưng thấy An-phrê chưa hiểu, ông lại cố giảng giải thêm:
- Trong nghệ thuật nấu bếp, phải có gia vị để làm món ăn thêm ngon. Muốn luyện được loại thép có chất lượng cao, mang được những tính chất quý giá, người nấu thép phải pha thêm những nguyên tố hợp kim khác nhau vào đó.
Thấy con trai đã hiểu ra, F. Crớp vui vẻ nói tiếp:
- Rắc hạt tiêu, cho thêm tí ớt vào cốt làm cho món ăn cay, có thứ gia vị cho vào để làm thơm tho và hấp dẫn, có những thứ thì cải tiến phẩm vị món ăn. Tóm lại mỗi thứ gia vị đều có một mục đích của nó. Và thật khó có thể kể hết ra đây những công dụng của mọi thứ gia vị.
Mấy hôm sau F. Crớp chết, vừa tròn ba mươi chín tuổi.
Qua làn nước mắt nóng hổi, An-phrê cũng còn đủ sáng suốt để nhận ra được: thép sẽ có tất cả các tính chất đặc biệt nếu như được pha thêm các “gia vị” - những nguyên tố hợp kim khác.
https://thuviensach.vn
*
Crip giơ tay xem đồng hồ: còn mười phút nữa. Sáng nay Bốp ăn mặc chỉnh tề, đứng chờ dưới cổng khách sạn từ nửa tiếng rồi. Theo lời “ông hoàng vàng” dặn thì đúng chín giờ, Bốp có nhiệm vụ đón một vị lão bá tước từ cỗ xe tứ mã bước xuống rồi đưa thẳng về phòng ngài Crip, sau đó trở lại cổng khách sạn để cùng với người xà ích canh phòng cỗ xe thật cẩn mật.
Bốp chú ý lắng tai nghe, đón chờ từng tiếng vó ngựa nhưng Lơn-đơn sáng nay, ở cái khu Lê-xe-xtơ này chỉ có tiếng lá rơi xào xạc, tiếng vó ngựa thỉnh thoảng cũng có đấy nhưng mà toàn loại xe song mã tầm thường.
Trên tầng cao khách sạn, lúc này Crip cũng đang đi đi lại lại trong phòng. Tập tiền đã gói sẵn đặt trong ngăn kéo. Nếu mua được tên thứ “gia vị” này thì Crip rút ngắn được rất nhiều thời gian và công sức nghiên cứu, đỡ phải mày mò đi xa. Nghe nói ở nước Nga có nhà luyện kim lỗi lạc P. P. A-nô-xốp đã đạt được những thí nghiệm thành công đầu tiên trong việc tìm ra điều bí ẩn nằm trong lưỡi gươm của bọn võ sĩ đạo Nhật Bản. Lưỡi gươm rất sắc, đúng là chém sắt như chém bùn. Bất cứ một hiệp sĩ nào thời nay cũng đều mơ ước có được một lưỡi gươm như thế.
Từ bao đời nay, trên đất nước Phù Tang, thứ thép quý đó đã được dùng để chế tạo các vũ khí trang bị cho các hiệp sĩ từ dòng họ này sang dòng họ khác. Thế mà tại nhiều nước trên thế giới, biết bao nhiêu nhà luyện kim đã tốn khá nhiều công sức mà vẫn không sao luyện ra được một loại thép như thế.
Sau A-nô-xốp, ở Anh tại thủ đô sắt thép Bớc-min-ham người ta đã tìm ra điều bí ẩn đó. Dĩ nhiên việc lọt được vào nước Nga băng tuyết xa xôi kia khó khăn hơn nhảy vào nước Anh nên Crip đã nán chờ Hin-đơn. Hắn nghe nói: thông thường độ cứng tăng lên thì tính dòn cũng tăng theo, nhưng nếu có thêm “gia vị” thích hợp thép sẽ nâng cao cả độ cứng và độ dẻo của kim loại.
https://thuviensach.vn
Chính sự kết hợp độ cứng cao cùng với độ dẻo là vô cùng cần thiết đối với thép để bọc. Khá nhiều nước đang mơ ước trong quân sự có được những cỗ xe bọc thép dày để chống đạn, nhưng nếu vớ được loại thép cứng và dòn thì đạn vẫn có thể dễ dàng xuyên qua được. Nếu có được vỏ thép bọc ngoài kết hợp được độ cứng cao cùng với độ dẻo thì vỏ không cần dày, xe chạy được nhanh mà vẫn chống được đạn xuyên thủng. Crip nghe nói đâu: thứ “gia vị”[2] này kìm hãm sự lớn lên của hạt thép trong quá trình kết tinh cứng và chính vì thế làm cho thép có cấu tạo mịn hạt và đồng nhất đảm bảo cho kim loại có được phép màu nhiệm đó.
Theo Crip thì thứ thép lý tưởng này đâu chỉ có dùng làm vỏ bọc. Nòng đại bác và súng trường, một số chi tiết máy móc, nồi hơi, dụng cụ cắt và cả lưỡi dao cạo nữa, đều có thể làm từ thứ thép quý này ra.
Crip nghĩ đến đây thì có tiếng gõ cửa phía ngoài. Hắn sửa lại quần áo từ từ bước ra. Cánh cửa vừa hé mở, Bốp đã thò cái đầu vào nhăn nhó nói:
- Thưa ngài chủ kính mến, đã quá hẹn một giờ vẫn chưa thấy có vị khách quý của ngài. Nhưng lại có tin: một cỗ xe tứ mã đổ cách đây ba dặm, khách đi xe bị thương nặng, vào nhà thương, tỉnh lại, khách kêu mất một cái cặp tài liệu quý.
Crip nhíu lông mày lại:
- Gọi xe ngựa đưa ta đến nhà thương đó gấp.
“Chẳng lẽ công việc của mình lại bị lộ?”. Không! Hoàn toàn là ngẫu nhiên, sau khi đến nhà thương xem xét kỹ về cái chết của lão Hin-đơn, Crip đã kết luận như vậy. Nhưng không vì thế mà Crip lơ là việc giữ bí mật hành tung của mình.
Crip xem lại cuốn sổ tay, ghi tên khách đến thăm mình kể từ khi đặt chân tới Anh, hắn thấy: ngoài một số nhà quyền quý ra, hầu hết là các ông chủ trong giới công nghiệp, một giám đốc công ty than xuất khẩu ở thành phố Niu Cát-xơn thuộc khu Noóc-tưm-bớc-lan, một phó giám đốc Liên hiệp mỏ than thuộc khu xứ Gan ở thành phố Các-đíp. Con gái một chủ mỏ
https://thuviensach.vn
than vừa chết ở mỏ Mác-đi rồi một số chủ các nhà máy chế tạo da, tơ, len, đồ sứ, cao su ở vùng Mít-lan, một trung tâm than đá ở Anh, nhưng có lẽ tấp nập nhất là các vị khách ở thủ đô sắt thép Bớc-min-ham...
Vừa lúc này, một cái đầu thò vào, Crip vội quát:
- Ta đã dặn, phải xin phép mới được vào...
Bốp đỏ mặt đáp:
- Thưa ngài, con đã gõ cửa tới mấy lần, chắc ngài không nghe thấy, vả lại ngài có dặn con tìm hộ ngài địa chỉ một người thợ chuyên sản xuất dao cạo hiện đang làm việc ở xưởng luyện thép...
- À, à... Ta nhớ ra rồi! - Crip chuyển sang giọng nói ôn tồn - Thế đâu? Bốp đáp:
- Xuôi dọc theo sông Thêm-dơ, rồi chạy men dưới chân dãy đồi Noóc thơ Đao, có một làng nhỏ, trong làng có bác thợ rèn Hân-bơ rèn dao cạo nổi tiếng: lưỡi dao mỏng như lá lúa, xanh biếc ánh thép, một sợi tóc chạm phải đứt đôi. Những tay thợ cạo từ Lơn-đơn, Ô-xpho hoặc Kem-brít cũng phải mò về đây để mua dao cạo và quả quyết rằng: dao của Hân-bơ sắc không kém gì lưỡi gươm Đa-mát ở Xy-ri hoặc gươm võ sỹ đạo ở Nhật Bản. Các tay thợ rèn trong vùng đồn rằng Hân-bơ nắm được bí quyết gia truyền về luyện thép, chẳng hạn như những tảng quặng phải ngâm xuống dòng sông đủ một trăm ngày; phơi dưới ánh trăng cũng... một trăm ngày! Trước lúc luyện thép phải kiêng ăn thị mỡ, uống rượu!
Crip mỉm cười rút túi tờ năm mươi xtéc-linh ra đưa cho Bốp: - Đây ta thưởng cho anh cái mồm khéo tán.
Bốp láu lỉnh nói:
- Như vậy là công của con ngài chưa tính đâu nhé!
- Được rồi! Ta đâu có phải là người keo kiệt, giờ Hân-bơ hẳn vẫn sống sung túc ở làng quê chứ?
https://thuviensach.vn
- Đâu có vậy! Một lão chủ công ty thép ở Bớc-min-ham đã cho người về tán tỉnh Hân-bơ lên làm ăn ở thủ đô thép. Bên có của, bên có công, họ sẽ hùn nhau lập ra một công ty chuyên sản xuất lưỡi dao cạo gửi ra bán khắp thế giới. Cho tới khi moi hết bí mật của Hân-bơ rồi, lão chủ biến Hân-bơ thành một tay thợ cả và dĩ nhiên là lĩnh lương thợ. Hân-bơ cay lắm, uất ức phát ốm, rồi biết bao tai hoạ đến với tay thợ nhẹ dạ cả tin này. Hắn căm thù lão chủ nhưng đành bó tay...
- Ta rất muốn gặp Hân-bơ.
Bốp lần túi áo trong, hai tay đưa lên một mẩu giấy nhỏ cho Crip: - Thưa ngài, đây là địa chỉ của Hân-bơ.
Crip mở ví đưa cho Bốp hai tờ giấy một trăm Xtéc-linh rồi bảo: - Đây là tiền thưởng ban đầu.
- Xin cảm ơn ngài! - Bốp kính cẩn đỡ lấy hai tờ giấy bạc rồi mới vui vẻ nói - Vì ngài rất tốt với con, nên nhân đây con muốn thưa với ngài một chuyện.
- Cứ nói, nếu giúp được, ta sẽ cố...
- Dạ, thưa ngài, thế này ạ, tuần trước có một ngài giám đốc nhà máy... để con tìm tên ông ta.
Thấy Bốp loay hoay mãi, lộn trái cả hai túi áo ra vẫn không tìm thấy gì, Crip vội giục:
- Thôi cứ kể đi!
- Ông ta hứa sẽ thưởng tiền cho con nếu điều tra xem có phải cụ thân sinh ra ngài là một bá tước có cổ phần ở công ty gì bên Ấn Độ phải không ạ?
Crip cười:
- Rồi sao nữa?
Bốp khẽ gãi tai:
https://thuviensach.vn
- Có người thì đoán chừng ngài có rất nhiều cổ phần ở một công ty thăm dò khai thác kim cương ở Nam Phi, có người cho biết ngài đứng đầu một công ty khai thác quặng sắt ở Li-bê-ri-a rồi các mỏ thiếc, măng-gan, mô-lip-đen ở tận nước Ca-mơ-run trên miền duyên hải vịnh Ghi-nê và cả Rô-đê-di nữa, đúng là ngài có mỏ vàng ở đấy rồi. Con nghe nói, muốn tìm vàng dân ở đó chỉ việc ra suối mà đãi.
Crip gật gù nói:
- Thôi được rồi! Cứ mặc cho họ muốn suy nghĩ gì về ta cũng được chỉ biết từ mai, ta sẽ đi vắng ít hôm, có ai hỏi thì nói là ta cùng nam tước Loóc Bớc-li đi săn tại lâu đài của nam tước ở thung lũng Rôn-đa nhé!
- Xin vâng ạ! - Bốp khẽ gãi tai - nhưng thưa ngài, con sẽ trả lời các ông các ông giám đốc đến hỏi con ra sao ạ?
Crip ngẩng lên:
- Thế họ có cho tiền anh không đã?
Bốp gật đầu đáp:
- Dạ có chứ ạ!
Crip cười hóm hỉnh đáp:
- Thế thì ta cho anh cái quyền: muốn kể về ta thế nào cũng được, dĩ nhiên không được phép làm ô uế thanh danh ta.
*
Có người cho rằng Hân-bơ nghiện rượu từ ngày vợ chết, để lại cho bác một gánh nặng gia đình: cô con gái Rô-da tội nghiệp, có nốt ruồi ở thái dương phải. Sự thật thì không phải như vậy, Hân-bơ bắt đầu uống rượu sau một tháng kể từ ngày đặt chân đến nhà máy và biết rằng làng quê mình giờ đây đã biến thành một đồng cỏ chăn cừu.
Hân-bơ uống nhiều hơn vào ngày vợ chết - từ ngày mà bác cảm thấy cái mộng làm giàu của mình đã bị tan vỡ, cái nắm xương tàn của mình sẽ vùi ở mảnh đất này. Nhưng khác với lũ bợm rượu, Hân-bơ càng uống vào
https://thuviensach.vn
càng tỉnh. Bác thấy thương vợ, thương con rồi thương đến chính bản thân mình. Nhà cao cửa rộng không thấy nhưng số phận bác rồi sẽ kết thúc bi thảm trong căn phòng tối tăm ảm đạm này.
Bác không muốn tục huyền, vì chẳng muốn kéo theo một người nữa đau khổ. Bác rất thương con gái và mong muốn sao cho con mình thoát khỏi cái địa ngục đen tối này, nhưng việc đó quả là vượt quá sức bác.
Với mớ tóc vàng óng, Rô-da lớn như thổi, đẹp lộng lẫy, nhưng phải cái nhẹ dạ, bác Hân-bơ đau khổ vì cái tính di truyền này.
Tuần lễ trước, nó đưa về một chàng trai, tuần lễ này lại là đứa khác: toàn cánh thợ đúc ở đây. Không phải bác ghét thợ thuyền - vì như vậy khác gì mình tự ghét mình mà là bác ghét cuộc sống khổ sở của người thợ nơi đây.
Tối nay ở quán rượu về, Hân-bơ vừa rờ rẫm châm được ngọn đèn thì thấy Rô-da dẫn về một anh chàng và giới thiệu luôn với bố:
- Bố ơi, anh Tô-mát, bạn con đến thăm bố, cũng là thợ...
- Thợ à? - Bác Hân-bơ nhìn Tô-mát trừng trừng.
Tô-mát khá điển trai, dáng dấp như một công tử con nhà quyền quý... - Anh bảo anh là thợ?
- Dạ, thưa bác vâng ạ! - Tô-mát lễ phép hơi cúi đầu, một tay để vào ngực mình - Cháu là thợ rèn dao.
Hân-bơ trố mắt nhìn chàng trai.
- Thợ rèn dao à?
“Chú thỏ non kia đừng hòng lừa được lão cáo già này.” Hân-bơ đặt ra một vài câu hỏi về ánh lửa thép, về quặng, về than và phải chịu phục Tô mát có tay nghề giỏi. Chỉ cần đôi mắt thôi - chứ không cần đến nhiệt kế - Tô-mát có thể ước đoán chính xác nhiệt độ trong lò và nước thép khi nào là được.
- Chắc anh không phải là người vùng này?
https://thuviensach.vn
Thấy Hân-bơ nhìn mình từ đầu đến chân, Tô-mát khẽ mỉm cười đáp:
- Thưa bác, cháu ở vùng Đông Ăng-gli sát bờ Bắc Hải nơi trồng lúa mì, lúa mạch và củ cải đường ấy mà!
Hân-bơ vẫn nhìn trừng trừng người khách trẻ:
- Nói thật đi! Anh đến đây có việc gì?
Tô-mát lúng túng nói:
- Cháu quen Rô-da...
Hân-bơ đứng dậy vớ lấy áo khoác từ từ bước vào nhà trong miệng khẽ lẩm bẩm:
- Thôi, hai người trò chuyện với nhau nhé! Tôi phải nằm nghỉ mai đi làm sớm.
Sợ mình sơ suất, thiếu tế nhị, Tô-mát đứng dậy giữ Hân-bơ lại nhưng Rô-da đã can luôn:
- Cứ để bố em đi ngủ, bao giờ uống rượu về, bố em cũng lăn ngay ra giường.
Hân-bơ chỉ kịp cởi giày, rồi cứ thế để cả quần áo lăn ra nằm nhưng không ngủ, bác vẫn hướng ra ngoài xem hai đứa trẻ tâm sự những gì. Họ chỉ toàn nói những câu chuyện tình yêu, về những biệt thự an dưỡng ở thành phố Brai-tơn trên bờ biển Măng-sơ, với những bãi tắm tuyệt vời.
Câu chuyện đẹp tới mức, quá nửa đêm, Hân-bơ cũng bước vào một giấc mơ tuyệt vời: sáng hôm ấy - một buổi sáng mùa xuân ấm áp - Hân-bơ sống trong một ngôi nhà nhỏ có vườn hoa, ríu rít tiếng chim. Rồi có tiếng vó ngựa từ xa đưa tới: một cỗ xe tứ mã lộng lẫy, riềm lụa trắng muốt lượn bay trong gió, một hoàng tử bước xuống và - Hân-bơ quay lại phía sau: trời Rô-da, chính bác cũng không nhận ra con gái mình nữa, đúng là một công chúa kiều diễm trong bộ quần áo tuyệt đẹp y như cô Lọ Lem trong truyện cổ tích vậy.
https://thuviensach.vn
Hoàng tử đến đón con đi - không rõ là hoàng tử xứ Gan hay con vua nước Pháp mà đón Rô-da đi đâu bác Hân-bơ cũng không cần biết nữa, miễn là con mình đã lấy được một hoàng tử và rời khỏi cái địa ngục trần gian Bớc-min-ham này...
... Tiếng vó ngựa! Có tiếng vó ngựa thực sự. Hân-bơ choàng tỉnh giấc. Trời đã sáng rõ, Hân-bơ hốt hoảng vớ vội lấy chiếc áo khoác, bác sờ đến túi áo. Trời! Cái con Rô-da chết tiệt này đoảng quá. Sáng nay nó lại quên sửa soạn cho bữa ăn trưa của mình. Muộn giờ quá! Không khéo nhà máy đã đóng cửa rồi. Hân-bơ vẫn hối hả bước đi.
- Chào bác! Cháu chào bác!
Hân-bơ nhìn ra: Tô-mát đã đứng trước mặt, tay xách nách mang đủ thứ: hai cái giỏ đầy ắp thức ăn nguội, những hộp bơ, pho mát, pa-tê, bánh mì, hoa quả, nhưng có lẽ hấp dẫn nhất là hai chai rượu cặp nách đúng loại Săm-pa-nhờ của Pháp.
Thấy Hân-bơ chỉ khẽ gật đầu đáp lại, Tô-mát vội nói luôn:
- Đằng nào cũng muộn bác ạ! Cháu đã bảo Rô-da đến nhà máy gặp ông đốc để bảo là bác bị ốm rồi.
Hân-bơ chìa hai bàn tay đầy chai sạn ra, càu nhàu:
- Liệu anh có biết, tôi chỉ trông mong vào đồng lương để sống?
- Cháu biết chứ! Thì cháu cũng là thợ mà. Cháu tính thế này cho bác nghe nhé! Mỗi ngày bác làm được năm mươi Xtéc-linh chứ gì! Cháu sẽ gửi bác tiền công mười ngày: năm trăm xtéc-linh để bác nghỉ ở nhà trò chuyện với cháu cho vui.
Nói rồi làm luôn, Tô-mát đếm đủ mười tờ năm chục xtéc-linh, dúi vào túi Hân-bơ. Cũng vừa lúc đó, Rô-da quay về, hình như Tô-mát đã dặn trước, cô xách lấy giỏ thức ăn, bày ra đầy bàn. Mọi người ngồi vào ăn. Nhìn các món ăn, Hân-bơ đã thấy ngon miệng: thú thật đây là lần đầu bác được nếm món Clớt-xtơ, dù đó là món pho mát sản phẩm nội địa, mà hương vị của nó đã gợi lên hình ảnh những đàn bò béo mập thủng thẳng
https://thuviensach.vn