🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Mật Chiến Tranh Điệp Viên Từ Ixraen Tới
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
BÍ MẬT CHIẾN TRANH
ĐIỆP VIÊN TỪ IXRAEN TỚI
(The Spy Game in the Middle East)
Tác giả: Y. Ben Porat, Uri Dan
Người dịch: Vinh Quang
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Nguồn: Vnmilitaryhistory
Đánh máy: Huytop
Tạo bìa: inno14
Biên tập: Văn.Cường
Tạo ebook: tran ngoc anh
https://thuviensach.vn
I. Đêm cuối cùng
Ngày thứ hai 17 tháng 5 năm 1965, vào lúc gần nửa đêm, Eli Cohen đã biết y sẽ chết.
Những bước chân vội vàng của những người lính gác nện vang hành lang và tiếng động của chìa khóa tra vào ổ khóa của xà lim hiu quạnh làm y giật mình. Y ngồi nhổm dậy, nửa thức nửa ngủ. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn đêm không bao giờ tắt, y phân biệt ngay hai người lính Xy-ri.
Eli tỉnh ngủ hẳn. Chỉ lúc ấy y mới nhận thấy, đứng giữa hai người lính, còn có mặt viên chánh án tòa án quân sự đặc biệt, đại tá Đan-li và giáo sĩ Do thái Nit-xim An-đa-bô của địa phận Đa-mát. Sự kiểm tra đột ngột, vào giữa đêm khuya của viên đại tá có giáo sĩ đi theo coi như rõ ràng sẽ mang y đi xử giảo. Y không còn thì giờ để đối phó nữa.
Với giọng nói ồm ồm, viên đại tá cao lớn ra lệnh cho y mặc quần áo và đứng nghiêm.
Đã đúng nửa đêm. Trong xà lim được canh gác nghiêm ngặt nhất ở nhà tù En Ma-đa, thành phố Đa-mát, Eli Cohen đứng nghiêm nghe từ miệng đại tá Đan-li thốt ra: ”Mày sẽ bị xử tử đêm nay, treo cổ, cho tới khi chết”.
Đại tá Đan-li dùng tiếng A-rập nói với Eli Cohen, rồi lùi lại một bước nhường chỗ cho giáo sĩ Nit-xim An-đa-bô. Ông già tám mươi tuổi, râu bạc như cước, tuổi tác làm cong người vì vụng về và cảm động, giọng run rẩy đọc một câu kinh bằng tiếng ”Hê-bơ-rơ”: “En Ma-lê Ra-ha-min… -Thượng đế đầy lòng nhân đức…”. Đấy là bài kinh đọc đầu giường người sắp chết.
Eli Cohen khẽ đọc lời cầu nguyện với viên giáo sĩ và ông già không sao ngăn được nước mắt. Eli Cohen còn cầm được mình không khóc. Ngay cả
https://thuviensach.vn
viên giáo sĩ An-đa-bô vì mất tự chủ, đọc quên cả lời cầu nguyện cổ truyền!
Bị binh lính vây quanh, do viên đại tá dẫn đầu và có giáo sĩ đi theo, Eli Cohen lững thững qua hàng hiên ghê rợn của nhà tù En Ma-đa. Khi xuống tới tòa nhà dưới, cả đoàn người phải dừng lại vì các thủ tục cuối cùng, trong lúc ấy các sĩ quan Xy-ri khác, từng nhóm một đứng cách nhau. Trong đám sĩ quan này, Eli nhận ra những viên thẩm phán tòa án quân sự đặc biệt. Sự yên lặng dễ sợ đè nặng bầu không khí lúc đó, chỉ bị tiếng cầu kinh của viên giáo sĩ quấy rối và thỉnh thoảng, những lệnh truyền bằng tiếng A-rập của những sĩ quan có mặt.
Khi hai cánh cửa của lối đi ra sân của nhà tù nặng nề mở cho tên tử tội cùng đoàn lính gác và thẩm phán đi ra, lúc ấy đã gần hai giờ sáng. Một đoàn xe con và vận tải của quân đội Xy-ri đã túc trực trong sân, dưới ánh đèn chiếu sáng của nhà tù và đèn xe ô tô đã nổ máy sẵn, quét sang một cách sống sượng. Dẫn đầu đoàn xe là một chiếc xe hòm đen kiểu Mỹ lịch sự, ở trên xe đã thấy viên Cục trưởng phản gián của quân đội Xy-ri, đại tá A-mét Xuây-đa-ni (Sau này là Tổng tham mưu trưởng quân đội Xy-ri).
Eli Cohen hai tay bị trói quặt ra sau lưng, mặc bộ quần áo tù bằng vải nâu, bị đẩy lên một xe tải nhỏ đậu ở giữa đoàn xe có giáo sĩ Nit-xim An-đa bô ngồi cạnh. Bốn người lính cầm súng trung liên không ngừng để mắt đến y.
Rồi cửa ngoài nhà tù mở toang, đoàn xe lao vào đêm tối lạnh lẽo và ẩm thấp, chạy qua những dãy phố của Đa-mát còn chìm trong giấc ngủ.
Ngồi trong chiếc xe tải nhà binh loại nhỏ phủ bạt kín, Eli Cohen không sao nhận được quãng đường đoàn xe đi qua. Nhưng y cũng hiểu rằng việc hành quyết y vẫn ở một nơi trong thành phố Đa-mát, nơi hàng bao nhiêu thế kỷ nay vẫn dựng giá treo cổ!
https://thuviensach.vn
Đoàn xe dừng lại, những quân lệnh lại vang lên, rời rạc và ầm ĩ. Khi tấm bạt che đằng sau chiếc xe tải nhỏ kéo lên, Eli nhận ra nhà ở trước mặt y là trạm cảnh sát nằm ở góc quảng trường trung ương của thành phố Đa mát, quảng trường En Mác-ga nổi tiếng.
Đây là trạm nghỉ cuối cùng của tên tử tội, trước khi bị đem ra quảng trường treo cổ.
Bị những sĩ quan Xy-ri dẫn trước và theo sau, lính vây quanh và cảnh sát bám sát, Eli Cohen và viên giáo sĩ sẽ được dẫn tới trước một cái bàn gỗ thô, kê ở giữa buồng chính của trạm cảnh sát. Ngồi cạnh bàn và trước mặt y là viên giáo sĩ lầm rầm đọc kinh ca tụng Thượng đế. Ngay lúc ấy, Eli Cohen nhận ra đại tá A-mét Xuây-đa-ni đương im lặng soi mắt nhìn vào y.
Tên tử tội không hề biết rằng trước đây 24 giờ, viên Cục trưởng phản gián Xy-ri đang công tác ở Mát-xcơ-va đã được Tổng thống Xy-ri, tướng A-min En Ha-phê gọi về cấp tốc, chắc chắn vì việc hành quyết tên gián điệp Eli Cohen.
Dựa trên những tin tức mật, tổng thống Ha-phê, và các quân nhân thân cận của ông cũng có nhiều lo ngại, do việc xử tử Cohen có thể bị những người láng giềng Ixraen của họ đối phó lại! Do đó tướng Ha-phê đã ra những lệnh nghiêm ngặt chỉ có một số sĩ quan cao cấp trong quân đội được biết ngày hành quyết – được quyết định trước đấy hai hôm – và cũng chỉ cho các nhà lãnh đạo chính phủ, chính đảng và những nhân vật có trách nhiệm của quân đội có mặt ở Đa-mát đêm hôm 18 rạng 19 tháng 5.
Tướng Ha-phê cũng ra lệnh đưa ra dọc biên giới với Ixraen từ En Ha ma phía nam đến các ngọn đồi đối diện với làng Đan ở phía bắc, những quân cơ giới tiếp viện, trang bị rất nhiều sơn pháo và cao xạ. Suốt đêm 18 rạng 19 tháng 5, các đồn quân Ixraen có thể theo dõi bằng ống viễn kính, sự di động của những đèn chiếu của một số quân dụng quan trọng bố trí trên những ngọn đồi của quân địch.
https://thuviensach.vn
Đã một trăm ngày, từng ngày một đã trôi qua kể từ buổi sáng khi các sĩ quan của cơ quan phản gián Xy-ri phá cửa nhà Eli, ở ngay giữa thành phố Đa-mát. Cũng từ sáng hôm ấy, y bị cắt đứt với thế giới, thậm chí không hiểu, liệu thế giới bên ngoài có biết việc y bị sa lưới, có biết bản án của phiên tòa xử kín và lời phán quyết cuối cùng không?
Đại tá Đan-li nói với y:
- Eli Cohen, nếu anh muốn, anh có thể viết lời trối trăng hoặc viết bức thư cuối cùng.
Bị dựng dậy từ lúc nửa đêm, Eli không mở miệng nói một câu với các quân nhân Xy-ri vây quanh. Hướng về viên giáo sĩ An-đa-bô, Eli nói với ông này, giọng nói bình tĩnh và nhỏ nhưng đủ cho những người lúc đó ở trong buồng nghe rành rọt:
-Tôi không nợ nần ai cả. Tôi không muốn viết lời trối trăng. Nhưng tôi còn một nhiệm vụ cuối cùng với gia đình tôi. Tôi muốn viết cho vợ và các con tôi một lá thư.
Người ta đặt trước y mấy tờ giấy và cái bút mực. Chậm rãi, với sự bình tĩnh của một người có suy nghĩ về từng chữ ghi trên giấy, Eli Cohen viết những dòng sau:
“Gửi Na-đi-a vợ tôi và gia đình thân yêu của tôi.
Tôi viết cho cả nhà những lời cuối cùng này để khuyên cả nhà hãy sống đoàn tụ. Na-đi-a, anh xin em tha lỗi cho anh và chăm sóc đến mình và các con, trông nom các con học hành cho hoàn hảo. Chớ có bỏ liều cả em, cả các con để chúng khỏi thiếu thốn. Em nên luôn giữ quan hệ tốt với gia đình anh. Anh khuyên em nên tái giá để cho các con có một người cha. Em hoàn toàn tự do làm việc này. Anh đề nghị em chớ để thời giờ khóc than những việc không còn nữa. Em hãy nên nghĩ đến tương lai.
https://thuviensach.vn
Anh gửi em nhiều cái hôn, cho Xô-phi, I-rít, Xôn và cho cả gia đình. Em đừng quên một ai trong nhà. Em hãy chuyển cho gia đình những tâm tư cuối cùng và tình thân yêu của anh.
Em đừng quên cầu nguyện cho linh hồn của cha anh và của anh được siêu thoát.
Tôi gửi cho cả nhà Sa-lôm, những cái hôn cuối cùng của tôi”. Eli Cohen. 18-5-1965
Gần nửa đêm, đài phát thanh Đa-mát đã loan tin tên gián điệp Eli Cohen sẽ bị treo cổ ở quảng trường En Mác-ga.
Người ta liền thấy ngay một đoàn kỳ dị hàng trăm người, mới ở trong chăn ra, từ bốn phía kéo tới quảng trường. Họ từ các khu phố nghèo nàn, đường phố khúc khuỷu của thành phố Đa-mát, một số đông khác thì từ những khu vực nhà cửa tối tân được xây dựng từ năm 1945, gồm toàn những gia đình quyền quý, giầu có và những sĩ quan thường trực ở. Họ kéo đến nơi đã từng diễn ra mọi biến cố vẻ vang hoặc rùng rợn của nước Cộng hòa Xy-ri. Ở đây, sáng bảnh mắt đã thấy dựng giá treo cổ hoặc những cuộc hoan nghênh người cầm đầu các cuộc đảo chính liên tiếp.
Trong lúc bước lên bục xử giảo thê thảm kia, Eli Cohen như một kẻ du đãng ở Đa-mát đã ngắm nghía những chiếc xe bọc thép của quân đội Ixraen được trưng bày ở khắp quảng trường từ mùa đông 1962, trên những ngọn đồi bao quanh hồ Ti-bê-ri-at sau khi quân đội Xy-ri thắng trận ở Nu-kê-ip.
Ngay từ nửa đêm, một sự im lặng cảm động đến hãi hùng bao trùm quanh quảng trường En Mác-ga tối om. Hàng ngàn người vây đặc đã bị binh lính và cảnh sát chặn đứng xa hàng rào dây thép gai đặt quanh khán đài.
https://thuviensach.vn
Chưa bao giờ người ta hiểu nổi cái gì đã nhói lên ở trong lòng Eli Cohen khi y từ chối sự giúp đỡ của đại tá Đan-li và bước lên đài xử giảo một mình. Y chắc phải cảm thấy sự im lặng nặng nề và căng thẳng của đám đông khi trông thấy y.
Những nhân chứng gần gũi nhất trong vụ hành quyết – Một đoàn chừng năm mươi nhà báo, phóng viên nhiếp ảnh và vô tuyến truyền hình Xy-ri đã trông thấy y, mặt mày xám ngoét nhưng khá bình tĩnh khi Ap-bu Xa-lim (người thực hiện lệnh xử giảo) to lớn, choàng cho y một túi mà trắng của tử tù, có các cạnh được khâu qua quýt.
Đại tá Đan-li trước các nhân viên tòa án quân sự đã xử y, một lần nữa hỏi Eli Cohen câu hỏi mà từ khi y bị bắt đã ám ảnh các nhà lãnh đạo Xy-ri mãi: “Eli Cohen, anh có đồng lõa ở Xy-ri không? Anh có còn khai gì nữa không?”.
Cũng những nhân chứng ấy lại nghe thấy câu trả lời của tên gián điệp: “Tôi rất tiếc những việc tôi đã làm và tôi xác nhận những lời khai cũ của tôi.”
Một giờ sau, đại tá Đan-li giải thích cho các nhà báo rằng, Eli Cohen nhận là không có đồng lõa ở Xy-ri.
Sau lời khai, Eli Cohen quay lưng lại phía đại tá Đan-li và bước từng bậc lên giá treo cổ, ở đây Ap-bu Xa-lim đã đứng chờ hắn. Trước khi tròng dây vào cổ y, Ab-bu chìa cho y một chiếc khăn trùm đầu sụp xuống tận mắt nhưng Eli đưa mắt ra hiệu từ chối.
Lần cuối cùng, Eli Cohen lại nghe thấy lời cầu nguyện “Thượng đế đầy lòng nhân đức” từ miệng ông già Nit-xim An-đa-bô đứng ở chân cột giá treo cổ. Rồi mọi việc đã diễn ra một cách chớp nhoáng. Khi những người đứng xem ở quảng trường En Mác-ga và những nhân viên của Đài vô tuyến truyền hình Xy-ri mới chỉ kịp nhìn thấy tên tử tù từ chối che mặt sau cái
https://thuviensach.vn
khăn trùm đầu, thì cổ y đã gãy gập và đầu gục xuống ngực không động đậy nữa. Cũng phải tới chín mươi giây đồng hồ cho đến khi y chết và sau hai phút rưỡi nữa, Ap-bu Xa-lim mới tuyên bố với các nhân viên tòa án quân sự: “Eli Cohen chết rồi”.
Lúc ấy là 3 giờ 35 phút ngày 19 tháng 5 năm 1965.
Vẫn lại đại tá Đan-li phải làm thủ tục cuối cùng của vụ hành quyết, ông ta dán lên cái túi trắng phủ xác một tờ giấy to, ta có thể đọc những dòng chữ A-rập ghi lời phán quyết của tòa án quân sự đã xử và kết tội tên gián điệp: “Ê-li A-hu Ben Xa-un Co-hen bị nhân dân A-Rập Xy-ri xử tử hình sau khi kết án đã đột nhập vào lãnh vực quân sự và báo những tin bí mật cho quân thù!”.
Mười ngàn người diễu qua thi hài y phơi ở quảng trường từ đêm cho tới mười giờ sang. Trời đầy sao đêm tháng năm đã nhường chỗ cho mặt trời hừng hực của đầu mùa hè ở Xy-ri khi các nhà chức trách Đa-mát cho hạ xác chết và đem chôn ở nghĩa địa Do thái của thành phố.
https://thuviensach.vn
II. Thời niên thiếu ở Ai-cập
Eli Cohen đã sống ở Ai-cập từ lúc cất tiếng khóc chào đời cho đến khi ba mươi tuổi. Nhưng những năm cuối cùng ở Ai-cập, y đã sống xa gia đình và hoàn toàn chăm chú vào hoạt động mà từ khi còn trẻ đã làm y nổi tiếng. Tổ chức di cư người Do thái gốc Ai-cập trở về Ixraen.
Gia đình Eli Cohen đã sống nhiều đời ở A-lép-pô, miền bắc Xy-ri, một thành phố hàng bao thế kỷ nay đã bảo trợ một khu dân cư Do thái phồn thịnh.
Đầu thế kỷ 20, một phần gia đình Eli Cohen đã rời Xy-ri sang A-lec xăng-đơ-ri ở Ai-cập.
Cũng như phần đông gia đình Do thái phương Đông, cha mẹ y mang niềm kiêu hãnh của một gia đình đông con. Sau Ô-đét, con trưởng, Eli Cohen ra đời. Đó là niềm vinh dự của cả gia đình, do vậy, y được đặt tên theo tên nhà tiên tri Ê-li A-hu. Tiếp sau là Mô-rít, Et-ra, Xi-on, Ê-phơ-ra him và sau rốt là An-be A-bra-ham.
Ông bố và bà mẹ thích chụp trên đầu chiếc mũ đỏ tết theo kiểu địa phương, có thể ngồi suốt tối này sang tối khác để kể lại những kỷ niệm đẹp đẽ ở A-lép-pô bằng thứ thổ ngữ Xy-ri được phát âm theo giọng nói vùng A lec-xăng-đơ-ri, nơi tám người con (sáu trai và hai gái) đã lớn lên như những người Do thái Ai-cập thực thụ.
Nhưng hai ông bà già này không thể tưởng tượng được rằng một ngày năm 1962, Eli trở lại A-lép-pô làm gián điệp cho Ixraen với nhiệm vụ theo dõi sát cuộc nổi dậy của các sĩ quan chống chế độ Xy-ri.
https://thuviensach.vn
Eli Cohen theo học trường Mai-mô-nít của làng Do thái ở A-lec-xăng đơ-ri. Cậu bé gầy gò ốm yếu, có mái tóc đẹp đen nhánh học ở trường này những bài học Do thái đầu tiên bằng thứ ngôn ngữ mà nó đã học trong sách Thánh.
Là một học sinh giỏi nhất lớp và cũng do đó mà sau này Eli không gặp khó khăn gì khi theo học các lớp ở Mi-đơ-ra-đa (trường Đại học Do thái) của giáo sĩ Mô-se Ven-tu-ra, và ở cả A-lec-xăng-đơ-ri.
Hồi ấy, quan hệ giữa những kiều dân Do thái ở A-lec-xăng-đơ-ri với nhân dân A-rập vùng này đã có một ảnh hưởng trái ngược với thiểu số Do thái ở Tây Âu. Dân Do thái ở A-lec-xăng-đơ-ri đồng hóa khó khăn trong lòng đa số dân Hồi giáo, đã thực hành tất cả để lưu giữ và truyền thụ lại phong tục của mình cho những thế hệ mới. Điều đó giải thích tại sao con cái gia đình Cohen đã theo học ngay từ thủa nhỏ ở trường làng Do thái.
Việc nghiên cứu di sản Do thái, đọc các kinh Thánh, Thánh thư các nhà bình luận của Cổ phong văn tập hoặc truyền miệng những phong tục, lễ nghi cuộc sống hàng ngày đã sắp xếp đời sống các tín đồ Do thái nghiêm chỉnh như một cái đồng hồ, từ đời cha đến đời con.
Nhưng Eli Cohen tuy mang rất sớm danh hiệu “I-lu” – “Nghĩa là học sinh cao đẳng” đã không thỏa mãn với nền giáo dục Do thái như vậy. Y bỏ phần lớn thời gian để nghiên cứ ngôn ngữ, văn chương A-rập và trau dồi thêm Pháp văn. Có năng khiếu về ngôn ngữ, ngay từ thời còn là học sinh. Eli Cohen đã có thể diễn đạt một cách lưu loát và mạch lạc tiếng Do thái, Ai-rập và Pháp.
Bạn học với Eli kể lại rằng, y là một học sinh khác hẳn với các học sinh khác, ít khi người ta thấy Eli tham dự một trận đấu bóng tròn tổ chức đột xuất trên sân cỏ nhà trường vào giờ ra chơi. Phần lớn thời gian này, y đứng riêng ở một xó để ôn lại bài, hoặc đọc một trang của quyển sách nào đó
https://thuviensach.vn
luôn mang theo. Những môn thể thao mà Eli thích là bơi ở biển A-lec xăng-đơ-ri và chạy trên bãi cát, sau khi tắm
Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai đến sát biên giới A-rập thì Eli Cohen mười tám tuổi. Năm 1942, quân đội của Rommel đã tới cửa ngõ A lec-xăng-đơ-ri. Nhiều máy bay ném bom luôn luôn bay trên thành phố, thả bom xuống bến cảng – Một trong những căn cứ hải quân của Đồng Minh ở Địa Trung Hải.
Một người bạn cùng học của Eli là Đa-vit Cru-đơ, sau này là Tham tán kinh tế ở Ten A-vip kể lại: những vụ báo động liên miên máy bay ném bom tới gần chẳng làm người thanh niên này xúc động mấy. Anh ta còn giễu cợt bạn bè và nhiều lần không chịu vào hầm trú ẩn của nhà trường. Ngay từ hồi 18 tuổi, Eli đã biểu thị cá tính bởi sự bình tĩnh bên trong và một xu hướng rõ rệt về sự táo bạo.
Đa-vit Cru-đơ vẫn nhớ là trong những giờ phút căng thẳng nhất, Eli Cohen có thói quen là tìm những câu hài hước để làm dịu đi những bạn học cáu kỉnh.
Một khoảng cách tự nhiên hình như được sắp đặt giữa gã trai trẻ chuyên cần này với bạn bè cùng lớp. Tuy nhiên các bạn y đều phải thừa nhận, Eli là một anh chàng kín đáo, ít hòa mình với xung quanh. Cho đến ngày nay – hơn hai mươi năm sau, bạn bè cũ của y đều nói rằng: Eli là một gã con trai lạ lùng.
Sự thật có thể tầm thường hơn sự nhận xét quá muộn này. Eli là một gã con trai kín đáo và chuyên cần, sống hơi cách biệt và hoàn cảnh đời sống của y khác với đám bạn bè. Cha mẹ y quá nghèo vì phải nuôi tám đứa con. Chịu sự sắp đặt và giáo dục của gia đình, nên Eli Cohen chú ý đặc biệt đến cuộc sống của dân Do thái ở A-rập và của quê hương Do thái ở Pa-lét-xtin lúc đó sống dưới cai trị của Anh.
https://thuviensach.vn
Cũng như nhiều thanh niên Do Thái khác ở A-lec-xăng-đơ-ri, Eli quen thuộc rất sowmsvowis những nhóm khủng bố Do Thái, những nhóm “Ha ga-na”, “I-yec-gun”, hoặc đội “Xtec”. Chuyện những hoạt động bài Anh do những nhóm trên chủ trương truyền qua dân Do Thái ở A-lec-xăng-đơ-ri. Thỉnh thoảng người ta đọc các tin chi tiết này đăng trên báo chí A-rập. Nhiều chi nhánh ở ngoại quốc của những nhóm khủng bố này cũng có cả ở A-rập. Năm 1944, hai thanh niên Do Thái Pa-le-xtin nhân viên của nhóm “Xtec” là Ê-li-a-hu Ben Du-ri và Ê-li-a-hu Ha-kin, đã ám sát viên nghị sĩ Môi ở Cai-rô để thu hút sự chú ý của thế giới về việc chính phủ Anh từ chối không cho dân Do Thái di cư vào Pa-le-xtin. Eli Cohen theo dõi bản án của hai nhân viên khủng bố trẻ tuổi này và khâm phục sự can đảm của họ, mặc dầu bị tra tấn vẫn không khai ra những bạn chiến đấu của nhóm.
“Bộ đôi Ê-li-a-hu” khi bị xử treo cổ, cũng trạc tuổi Eli Cohen, cùng mang họ của Eli (Ê-li-a-hu) như y. Khi thấy ảnh của Ben Du-ri và Ha-kin trên giá treo cổ, in trên báo chí Cai-rô, thì Eli Cohen đã có chủ định rồi. Y cũng sẽ chiến đấu cho sự “giải phóng” của quê hương y.
Rồi trong những năm tới, Eli Cohen còn phải trông thấy nhiều giá treo cổ khác, trước khi trông thấy giá treo cổ dựng ở Đa-mát năm 1965 dành cho y.
https://thuviensach.vn
III. Phá hoại ở Cai-rô
Năm 1944, khi hai mươi tuổi, Eli Cohen tham dự trong hàng ngũ thanh niên Do Thái tự trị ở A-lec-xăng-đơ-ri. Bắt đầu từ ngày ấy và liên tục cho đến khi bị xử tử ở Đa-mát, Eli là một giáo chức của phong trào tự trị và của nhà nước Ixraen. Xúc động trước bản án của Ben Du-ri và Ha-kin trong nhóm “Xtec” ở Cai-rô, Eli đã quyết định phục vụ theo chí hướng của những người này.
Eli Cohen là một tay trợ lực quí báu của những người chỉ huy phong trào thanh niên Do Thái. Những kiến thức, trình độ văn hóa Do Thái và A rập đã giúp y nhanh chóng trở thành một huấn luyện viên, rồi người phụ trách một nhóm thanh niên, Eli sớm nổi tiếng trong đám trai trẻ cùng chí hướng ở A-lec-xăng-đơ-ri như là một “nhà truyền giáo” hoàn hảo, người khuyến khích đám thanh niên tham gia phong trào và sẵn sàng lên đường đi Pa-le-xtin.
Trong khoảng thời gian này của đời Eli, người có ảnh hưởng với y nhất, đã dìu dắt y vào phong trào tự trị là Xa-mu-en A-da. Ngay từ năm 1944, người giáo viên này đã là điểm tập hợp của những người tự trị “tích cực” ở A-lec-xăng-đơ-ri và Cai-rô. Cũng bắt nguồn từ Xa-mu-en A-da, tổ chức Ha-ga-na ở A-rập hoạt đồng và nguồn di dân Do Thái gốc A-rập đi Pa-le xtin và sau đó năm 1948, đi Ixraen được tiến hành.
Là bạn thân của Eli Cohen, A-da đã khuyến khích y tham gia một phần hoạt động mạo hiểm, Eli hoạt động quá mạnh trong phong trào Do Thái tự trị khiến các nhà chức trách A-rập phải nghi ngờ. Cuối cùng việc khám phá ra Eli thuộc phe những người tự trị và ngay từ năm 1945, đã tổ chức cho kiều dân Do Thái đi Pa-le-xtin, y buộc phải rời trường đại học “Pha-rúc đệ nhất” trước khi học xong. Việc này xảy ra vào năm 1947. Từ năm đó người
https://thuviensach.vn
ta lại thấy Eli dành phần lớn thời gian hoạt động mạnh cho phong trào bí mật. Y làm kế toán cho một xí nghiệp gỗ ở A-lec-xăng-đơ-ri để giải quyết sinh kế.
Ixraen tuyên bố độc lập và cuộc chiến tranh giữa các quốc gia A-rập, kể cả Ai-cập, với Do Thái vào năm 1948, đã gây ra những hậu quả quan trọng cho dân Do Thái ở Ai-cập. Phần lớn kiều dân Do Thái, chừng ba trăm ngàn người, đang sống ở Ai-Cập đều nhận ra rằng trong tình hình hiện nay, họ chỉ có thể sống yên ổn nếu rời xa xứ này. Những phương thức di dân hàng loạt đã được những tổ chức trong đó có Eli Cohen và Xa-mu-en bố trí từ lâu.
Rất nhiều trung tâm di dân Do Thái đã được đặt ở Ai-Cập và do cơ quan Do Thái Ai-Cập điều khiển và trợ cấp – Ban chấp hành của phong trào tự trị này giống như một chính phủ của Do Thái. Cơ quant rung ương hoạt động trong bí mật, lấy tên là “ Cục du lịch Gơ-run-béc”, đặt ở một tầng gác ngôi nhà đồ sộ ở Cai-rô. Một chi nhánh của cục này hoạt động ở A-lec-xăng-đơ-ri.
Cách thức di dân bí mật cũng bình thường thôi: người ta tổ chức những cuộc “du lịch” đi Pháp. Nếu có những viên chức người Ai-Cập không ngây thơ để tin vào chuyện dân Do Thái đi du lịch châu Âu thì người ta mua chuộc, biếu xén họ để làm trung gian. Họ còn xoay được cả của lãnh sự Pháp ở A-lec-xăng-đơ-ri một số khá lớn hộ chiếu Pháp cho những người gặp khó khăn trong việc xin cấp thị thực xuất cảnh của Ai-Cập, và khi đã đến châu Âu rồi, từ các hải cảng Mac-xây hoặc Nap, bằng cách này hay cách khác, người ta gửi những kiều dân Do thái này bằng tàu thủy đi Ixraen.
Vấn đề di dân Do Thái ở Ai-Cập hấp dẫn này đã được ghi vào như những trang sử mới mẻ của lịch sử nhà nước Ixraen, dưới danh từ “Luật Gô-sen”.
https://thuviensach.vn
Vì thế vào năm 1949 và 1950, trừ Eli, toàn thể gia đình y đã đi Ixraen. O-đét, Mô-rít và Ét-ra đi trước, vào năm 1949, sau đó, năm 1950 đến anh chị em và cha mẹ Eli. Eli Cohen lúc đó ở lại một mình, hẹn với gia đình khi xong nhiệm vụ ở Ai-Cập, sẽ đi theo. Tuy vậy, y còn ở lại Ai-Cập những sáu năm nữa.
Ít nhất cũng có một lần Eli đã đến gần một giá treo cổ dựng ở Cai-rô.
Câu chuyện kết thúc trên giá treo cổ ở Cai-rô mà Eli có liên quan khá trực tiếp vào năm 1951, thời gian vua Pha-rúc trị vì Ai-Cập. Không khí chiến tranh lan tràn ở Trung Đông, Ixraen biết trước là bị đe dọa bởi một cuộc tiến công bởi Ai-Cập và đề phòng trước, đặt ở Ai-Cập một hệ thống tình báo tinh vi.
Sau một thời gian huấn luyện đặc biệt, người ta ném vào Ai-Cập qua Pa-ri – một nhân viên là nhiệm vụ là tiếp cận và tuyển một mạng lưới điệp viên Do Thái ở Ai-Cập có thể tin tưởng được. Điệp viên này tên là A-bra ham Đa, sĩ quan trong quân đội Ixraen và được phái đến Ai-Cập với tên giả là Giôn Đa-linh để làm nhiệm vụ.
Nhờ có một hộ chiếu giả, Giôn Đa-linh đột nhập vào Ai-Cập năm 1951 chẳng khó khăn gì. Từ năm 1951-1953, y tuyển dụng được một số khá đông thanh niên Do Thái ở Ai-Cập ngỏ ý muốn và thích đến Ixraen.
Một số những thanh niên này được Đa-linh sử dụng làm gián điệp, nhưng mang tính chất “tài tử” vì họ không được huấn luyện ở các trung tâm chuyên môn. Những người khác thì tiếp tục là thành viên của tổ chức tự trị bí mật và hoàn toàn hoạt động cho “Cục du lịch Gơ-run-béc”. Nhiệm vụ của Đa-linh tuy không phải nhiệm vụ chính, là thúc đẩy nhanh chóng việc di cư kiều dân Do Thái ở Ai-Cập.
Ngày nay, mười lăm năm sau sự kiện trên, có thể nhận thấy rằng nhóm người tình nguyện làm việc dưới sự chỉ huy của Đa-linh không hề nhận một
https://thuviensach.vn
đồng tiền thưởng nào, họ toàn những dân Do Thái thiếu thực tế và không gây được một nguy hiểm gì cho Ai-Cập!
Tuy nhiên, những sự kiện chính trị quan trọng xảy ra ở Ai-Cập cũng lôi kéo một phần của nhóm này vào một hoạt động quá nguy hiểm. Vua Pha rúc bị lật đỏ và bị thay thế bởi một chính phủ Cách mạng do tướng Nê-ghíp đứng đầu. Tướng này cũng bị hạ bệ bởi một số tướng tá, quân nhân cách mạng, mà chỉ huy là đại tá Nát-xe. Ngay từ 1953, Nát-xe đã tiến hành thương lượng với Luân Đôn một thỏa hiệp tiến tới rút toàn bộ quân đội Anh đóng ở dọc kênh đào Xuy-ê. Tất cả các loại quân nhu, quân dụng Anh, cùng các căn cứ doanh trại của quân đội đều phải đặt trong tay người Ai Cập.
Sự biến chuyển của tình hình Ai-Cập tự nhiên gây nên những nỗi lo âu sợ sệt ở Ixraen. Đại tá Nát-xe là người đã nếm mùi thất bại và bị quân đội Ixraen cầm tù năm 1948 ở Nê-ghép. Ý chí phục thù của Nát-xe không phải là điều bí mật với mọi người. Ông ta không hề che giấu những ý định của mình trước dư luận công khai ở trong nước và thế giới. Lúc bấy giờ, thủ tướng kiêm bộ trưởng Ngoại giao Ixraen đã tuyên bố: “Việc quân đội Anh rút lui khỏi kênh Xuy-ê có quan hệ trực tiếp đến Ixraen”. Chính phủ Luân Đôn cũng đã thử trấn an Ixraen nhưng không có một cam kết tích cực nào để có thể làm tiêu tan nỗi lo lắng của nước đó.
Trong khi đó , bộ trưởng Bộ Quốc phòng mới, Pi-nát La-vôn, tuổi chừng năm mươi, nhảy vào cuộc. Những “sự kiện” tiếp diễn sau này ở Ai Cập mang danh nghĩa của La-vôn.
Theo chủ trương của Ten A-vip, đại tá B.G, Cục trưởng Cục tình báo quân đội Ixraen từ xa chỉ huy vụ phá hoại ở Ai-Cập. Chính Đa-linh là người điều khiển trực tiếp với sự tham gia của Xa-mu-en A-da và một vài người tình nguyện Do thái gốc Ai-Cập trong đó có Eli Cohen.
https://thuviensach.vn
Nhà sử học E.A.Bay-nơ, năm 1961 đã viết trong tạp chí Đại học Phin Xtap (American Uni-versitary Field Staff Bulletin):
“Đối phó lại với việc quân đội Anh rút khỏi từ Xuy-ê tới đảo Síp, đề án đặt ra ở Bộ Quốc phòng Ixraen là chủ trương khủng bố đã mang tính chất phi lý rõ ràng”.
Bay-nơ giải thích kế hoạch của Ten A-vip nhằm mục đích lợi dụng sự bất bình do người Anh gây ra bởi việc rút quân đội khỏi Xuy-ê và làm lay chuyển sự tin cẩn của Mỹ đói với tình “hữu nghị” thân Tây Âu của Nát-xe!
Đầu năm 1954, Giôn Đa-linh, đặc phái viên của Ixraen, người đã đặt những mạng lưới hoạt động ở Ai-Cập từ năm 1951 ( trong đó có A-da và E li) đã bắt liên lạc với một nhân viên người Ai-Cập khác tên là Pôn Phơ răng, mang hộ chiếu Đức và vào Cai-rô với tư cách đại diện của một hãng buôn đồ điện lớn của Đức.
Pôn Phơ-răng có nhiệm vụ xâm nhập vào trong lòng các chính giới Ai Cập để thu thập những tin tức tối đa cần thiết cho Cục tình báo Ixraen và ngoài ra hợp tác với Đa-linh, bbos trí những vụ phá hoại theo lệnh của Ten A-víp. Trong nhiệm vụ thứ nhất, Pôn Phơ-răng đã đạt kết quả vượt quá sự mong muốn. Ngay từ 1954,vì có quan hệ bạn bè thân mật với một số kỹ thuật viên người Đức làm việc cho quân đội ở Nát-xe, y làm quen được với các công chức cao cấp của chế độ này và đặc biệt với công an Ai-Cập. Trong đó, người ta thấy Pôn đi lại với Da-ki-ra Mô-hi-et-đin (sau này là thủ tướng) với đô đốc Sô-lây-man và cục trưởng Cục tình báo quân đội, đại tá Ốt-man Nu-ri.
Nhưng Đa-linh, Pôn Phơ-răng và những thanh niên Do Thái được sử dụng vào nhiệm vụ phá hoại đã thất bại trong việc thi hành kế hoạch quỉ quyệt do Ten A-víp đặt ra. Vào tháng năm và tháng sáu năm 1954, sau khi đã bố trí xong, chúng liền tiến hành một loạt hoạt động khủng bố và phá hoại: dùng một loạt chất nổ kiểu cổ đốt một hòm thư của một kiều dân Mỹ;
https://thuviensach.vn
cho nổ một quả bom khác trên ô-tô để sách của thư viện Sở thông tin Mỹ ở Cai-rô nhưng không gây thiệt hại gì cả. Sau cùng, một bao diêm trong nhét đầy thuốc nổ, nổ trong túi áo choàng của một thanh niên mười chín tuổi tên là Na-tan-xơn lúc anh ta vào rạp chiếu bóng ở thủ đô, nơi anh ta định đặt gói nổ.
Những vụ phá hoại được bố trí vội vã trong chiến dịch Cai-rô bởi những huấn luyện viên Ixraen và những thanh niện Do Thái gốc Ai-Cập chỉ gây ra những thiệt hại vật chất hoặc những hậu quả chính trị không đáng kể do những hành động lố lăng này gây ra.
Ngày 14 tháng 7 năm 1954, vài phút sau khi những quả “bom” cháy này nổ, công an Ai-Cập đã tóm gần hết mạng lưới bọn gián điệp và phá hoại của Ixraen: tổng cộng mười một tên, trong bọn này có một bác sĩ trẻ tuổi ở bệnh viện Do thái – Mác-đức, một giáo viên và bạn của Eli Cohen, Xa-mu-en A-da; một thiếu phụ là nhân viên của “Công ty du lịch Gơ-run béc” Mác-xen Ni-ni-ô và Mác Ben-net, một người Do thái gốc Đức.
Từ lâu Mác Ben-net đã xâm nhập vào Ai-Cập với tư cách đại diện một ngành chuyên môn làm chân tay giả của Đức cho các thương binh, và đã liên lạc được ngay với tướng Nê-ghíp. Y bị rơi vào tay người Ai-Cập do sự khinh xuất của nhóm Đa-linh và Phơ-răng. Nguyên do là sau một thời gian mất liên lạc với Mác Ben-net, bọn Đa-linh và Phơ-răng cho Mác-xen Ni-ni ô, một nữ nhân viên trẻ tuổi ở công ty du lịch đi tìm đồng bọn. Quên hẳn mệnh lệnh nghiêm ngặt là Mác Ben-net phải tiếp tục nhiệm vụ tình báo mà không được phép quan hệ trực tiếp với các nhóm khác, do Đa-linh và Phơ răng phụ trách, nàng Mác-xen Ni-ni-ô trẻ tuổi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình quá giới hạn thận trọng được đặt ra và cô ta nhiều lần gặp tên gián điệp cô độc.
Ngay sau khi mạng lưới bọn phá hoại bị công an và mật vụ Ai-Cập, Mác-xen Ni-ni-ô đã làm Mác Ben-net bị bắt ngay. Giôn Đa-linh thì chạy thoát và Phơ-răng ít ngày sau rời Ai-Cập qua Đức.
https://thuviensach.vn
Eli Cohen bị công an Ai-Cập bắt giữ lần đầu tiên vào năm 1952 vì “hoạt động Do thái tự trị và cực đoan” và được thả sau một cuộc thẩm vấn chặt chẽ. Năm 1953, theo yêu cầu của Xa-mu-en A-da, cũng chính Eli đứng tên thuê một ngôi nhà ở Cai-rô, dùng cho hoạt động bí mật của nhóm. Năm 1954, khi cả mạng lưới gián điệp bị bắt trong đó có huấn luyện viên của y là Xa-mu-en A-da, bị công an Ai-Cập lại thẩm vấn Eli lần thứ hai, nhưng y đã tìm mọi cách làm cho công an tin y là vô tội và lại được tha lần nữa.
Mãi tới ngày 7 tháng 12 năm 1954 mới xử vụ án bọn phá hoại Do thái. Vụ án sắp kết thúc thì Mác Ben-net tự tử trong xà lim nhà tù Cai-rô. Bản án của các chánh án Ai-Cập được đọc ngày 27 tháng 1 năm 1955 kết tội: Mác đúc và A-da bạn của Eli Cohen, bị kết án tử hình; hai tên đồng phạm, Lê-vi và Na-tan-sơn, tù chung thân; Mác-xen Ni-ni-ô trước mặt các chánh án và nhà báo, đã kêu la là bị tra khảo trong nhà tù, và một bị can nữa là Đat-xa, bị kết án là mười lăm năm tù khổ sai; hai tên nữa bị kết án bảy năm tù và sau rốt là hai can phạm được tha bổng.
Bốn ngày sau, hôm 31 tháng giêng, Mác-đúc và A-da bị hành quyết.
Eli Cohen buộc phải ở lại Ai-Cập mãi đến năm 1956. Đến khi quân đội Ixraen chiếm bãi sa mạc Xi-nai của Ai-Cập ngày 29 tháng 10 năm 1956, và không quân Anh ném bom Ai-Cập để bảo vệ bước tiến của quân đổ bộ Pháp, thì Eli nhận thấy rằng bằng bất cứ giá nào, giờ xuất phát của y đã điểm. Ngay buổi đầu chiến sự ở kênh Xuy-ê, cũng như phần đông dân Do Thái còn sinh sống ở Ai-Cập, Eli bị bắt giữ và bị nhốt trong những căn nhà của một trường đại học Do thái ở A-lec-xăng-đơ-ri. Năm 1956, y đã bí mật rời Ai-Cập như nhiều người Do thái đã làm trước y. Dừng lại châu Âu ít ngày, đầu năm 1957, Eli đặt chân lên Ixraen.
Trước khi chấm dứt chương này, chúng tôi thấy cần nói một vài câu về một nhân vật của tấn thảm kịch này, hiện nay còn nằm trong nhà tù, không phải là ở Ai-Cập như người ta đoán, mà ở Ixraen.
https://thuviensach.vn
Đó là Pôn Phơ-răng.
Ngày 14 tháng 7 năm 1954, sau khi thoát khỏi tay công an Ai-Cập, Pôn Phơ-răng trở về Đức, nơi mà từ đây y đã đi làm nhiệm vụ ở Ai-Cập. Y được thăng thưởng ở Cục tình báo Ixraen và tiếp tục làm được nhiều việc quan trọng ở Đức và ở Áo, nhờ cái quá khứ SS giả của y. Khi cấp trên ra lệnh cho Pôn Phơ-răng cắt đứt mọi quan hệ với những người Ai-Cập ở châu Âu. Nhưng mặc dù có lệnh này, Pôn Phơ-răng vẫn tiếp tục gặp gỡ những người Ai-Cập trong đó có Đô đốc Sô-lây-man mà y quen biết ở Cai rô hiện phụ trách một phái đoàn ngoại giao ở Bon. Người ta nghi Pôn cũng làm việc cho người Ai-Cập
Pôn Phơ-răng buộc phải trở về Ixraen. Năm 1959, y bị đưa ra truy tố trước một tòa án quân sự ở Giê-ru-xa-lem và bị kết án 12 năm tù. Nhưng trong lúc thẩm tra, sự việc xảy ra ở Cai-rô năm 1954 lại được đưa ra bàn lại. Cục tình báo Ixraen đã đi tới một kết luận sửng sốt: ngay từ hồi đó, Pôn Phơ-răng đã hợp tác với người Ai-Cập rồi và đã chơi con bài hai mặt. Y đã khai, ngay từ năm 1954, y đã phản bội bằng cách gây ra những vụ phá hoại chính trị và đã nhận của Ai-Cập một số tiền là bốn mươi nghìn đồng mác Đức. Việc phản bội của y đã giải thích tại sao sau ngày 14 tháng 7 năm 1954, y có thể rời Ai-Cập.
Nhưng chưa phải là đã hết. Khi bị thẩm vấn ở Giê-ru-xa-lem, Phơ-răng tố cáo hai sĩ quan Ixraen, bắt buộc y phải làm nhân chứng giả về những sự kiện ở Cai-rô năm 1954 nhằm gạt trách nhiệm của vụ hoạt động thất bại lên đầu Pin-nat La-vôn, bộ trưởng Quốc phòng lúc bấy giờ. Ông này năm 1955 buộc phải từ chức để nhường chỗ cho Ben Gu-ri-ôn.
Cơn giông tố kéo dài và đau khổ, Mặc cho bao nhiêu ủy ban điều tra chính thức và bán chính thức vẫn chẳng cung cấp được một giải đáp rõ ràng và dứt khoát cho câu hỏi chủ yếu: năm 1954, ai là người chịu trách nhiệm về tai họa đã làm thiệt mạng điệp viên Mac Ben-nét, các hoạt động viên
https://thuviensach.vn
Mác-đúc và A-da, và đã làm cho Mác-xen Ni-ni-ô cùng nhiều người khác đã bị tù đầy hàng bao nhiêu năm?
https://thuviensach.vn
IV. Thích nghi khó khăn ở Ixraen
Tới Ixraen được ít lâu, bố mẹ và anh em Eli Cohen đến ở Bat Y-am, một khu ngoại ô Ten A-vip, chạy dọc theo bờ biển tới phía nam. Hàng vạn dân di cư từ Trung Âu, Bắc Phi và Ai-Cập, cũng như gia đình Cohen, đều chọn khu ngoại ô mới mẻ và tối tân này để sinh sống. Hàng dãy nhà được xây cất trên bãi cát ở bờ biển mấp mô, Bat Y-am lôi cuốn một số đáng kể dân di cư ở gần thủ đo và có những khả năng gần như vô hạn về công ăn việc làm và buôn bán.
Sáu năm liền, gia đình Eli Cohen không có tin tức gì về y. Đôi khi mới có người từ Ai-Cập tới, kể cho gia đình những mẩu chuyện về hoạt động bí mật của Eli. Có lần là một bưu thiếp, do một người bạn của Eli ở Ý gửi về, báo cho gia đình biết y vẫn ở A-lec-xăng-đơ-ri và “khỏe mạnh”.
Rồi một ngày đầu năm 1957, Eli đã cùng đợt dân Do thái gốc Ai-Cập cuối cùng trở về Ixraen. Dừng chân ít lâu ở một bến tầu Ý, Eli đi Hai-pha, cả hành lý chỉ có một chiếc va li – tất cả tài sản của y khi chạy khỏi Ai Cập. Eli tìm đến nhà người em là Mô-rít ở Ra-mát Gan, ngoại ô Ten A-víp. Không gặp em ở nhà, y đi Bat Y-am tìm nhà bố mẹ, gặp đứa em nhỏ là An be A-bơ-ra-ham và nghe thấy đứa nhỏ hỏi mẹ: “Ông này là ai thế”.
Câu hỏi của em bé không thể không gợi lên cho người anh lớn sau sáu năm xa cách một ý nghĩa thật sâu sắc. Vì từ lâu, Eli xa lạ đối với họ, và có nhiều khó khăn để thích nghi với hoàn cảnh mới mẻ.
Sự xa cách, những năm hoạt động bí mật ở Ai-Cập và ngay cả thứ tiếng Do Thái ở trường học, quá văn vẻ đối với nhứng nhu cầu hàng ngày ở Ten A-víp, cũng đủ làm cho sự thích nghi thêm khó khăn. Hơn nữa, do tính nết của Eli chứa chất từ thưở nhỏ, khiến cho Eli càng khó biến chuyển.
https://thuviensach.vn
Eli đã từ chối thẳng thừng không chịu kể cho bố mẹ và anh em nghe những chi tiết câu chuyện mà người ta gọi là “cuộc phiêu lưu Ai-Cập” của y. Những vụ bị bắt giữ liên tiếp, “vụ nổi danh”, những giai đoạn quan trọng của việc di dân bất hợp pháp. Vài năm về sau, một người em của Eli cũng phải nhận rầng: “Eli đã giữ những bí mật của anh ấy như một chiếc két sắt kiên cố, không có cái gì có thể mở được”.
Eli Cohen sống cô độc và tha hương ở Ixraen như mọi dân di cư khác. Tuy đã vượt qua những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, ngay những tháng đầu, y đã quyết tâm tìm ở khắp nơi những bạn cũ ở A-lec-xăng-đơ-ri và nối lại quan hệ với họ. Trong một gian buồng mà bố mẹ dành cho, Eli đã đặt một “buồng tối” nhỏ để tự rửa lấy phim ảnh mà y chụp một cách say mê từ mười năm trước ở Ai-Cập. Y thêm vào những phim ảnh chụp cuộc duyệt binh ở Ten A-víp nhân ngày độc lập của Ixraen năm 1957. Trong cuộc duyệt binh này, lần đầu tiên quân đội đem ra trưng bày chiến lợi phẩm chiếm được trong chiến dịch Xi-nai.
Những khó khăn để làm quen với cuộc sống mới ở Ixraen của Eli kéo dài nhiều tháng. Y dành nhiều thời gian để trau dồi thêm tiếng Do Thái, Anh và Pháp, học thêm cách sử dụng bốn thứ tiếng mà y đã học trong một lớp học buổi tối ở A-lec-xăng-đơ-ri; tiếng Tây-ban-nha, Đức, Hy-lạp và Ý. Cũng như trước kia, y thích đọc các sách vở về điện tử, cạnh đấy y dành thời gian để đọc truyện Pháp.
Trong cả thời gian ấy, phải nhận rằng y gặp nhiều khó khăn để quên cái quá khứ Ai-Cập và những bạn bè mà y đã thấy chết trên giá treo cổ. Ở Bat Y-am, đường phố mà bố mẹ y ở tên là “phố của những liệt sĩ ở Cai-rô”.
Mãi cuối năm 1957, Eli Cohen mới kiếm được việc làm đầu tiên ở Ixraen. Quả không phải tình cờ mà Eli được tuyển dụng vào Bộ Quốc phòng, tuy một số người có trách nhiệm đã biết rõ hoạt động bí mật của y ở Ai-Cập. Nhờ sự hiểu biết của y về ngôn ngữ học, Eli được trao cho việc dịch sách nhưng chỉ là công việc quá ngắn ngủi. Người ta thải hồi Eli vì sự
https://thuviensach.vn
kém hiểu biết về tiếng Do Thái mới đã không đáp ứng được với nhu cầu cần thiết trong công tác dịch tài liệu lưu trữ. Nhưng cũng phải nhận rằng, đây chỉ là sự kém về ngôn ngữ Do Thái mới, như người ta thường nói ở Ixraen, mà Eli Cohen thì ngay từ lúc nhỏ, đã có trình độ cao về tiếng Do Thái cổ truyền của Kinh Thánh và của các bài kinh cầu nguyện.
Đầu năm 1958, Eli lại tìm được một việc làm mà chẳng có khó khăn gì: kế toán ở hiệu Ma-xơ-bia, một cơ quan kinh doanh của công đoàn Ixraen. Ở đây, công việc làm ăn của Eli được chủ đánh giá cao, luôn luôn khen ngợi và tăng lương cho y một cách nhanh chóng.
Tự xây dựng được vị trí và có quan hệ tốt với xứ sở, ngay từ năm 1957, Eli nhiều lần đi khắp nước Ixraen, từ vùng Nê-ghép, Xô-đôm, Ê-li-át và năm 1959 đi mãi tới biên giới Xy-ri. Vào thời kỳ ấy, những sự kiện xảy ra với Ai-Cập đã hoàn toàn chấm dứt sau chiến dịch Xi-nai – còn biên giới Ixraen với Xy-ri đang trở thành điểm yếu của sự an ninh xứ sở.
Những trận đánh nhỏ, những vụ va chạm của các toán tuần tiễu, và sau này, những cuộc viễn chinh thực thụ của đôi bên bắt đầu vào năm 1958- 1959 và chỉ ngưng sau khi Xy-ri thất bại vào tháng 6 năm 1967.
Eli dự tính làm quen với một số bạn ở “câu lạc bộ quân nhân” tại Ten A-víp – Câu lạc bộ tổ chức cho các quân nhân nghỉ phép và bạn bè của họ - Năm 1959, Eli làm quen với một thiếu nữ, sau này trở thành vợ y: Na-đi-a, một cô gái trẻ đẹp, gốc I-rắc, mới di cư sang Ixraen như Eli. Cũng đặc biệt như y, Na-đi-a biểu hiện đặc biệt tính tiên phong của thanh niên Ixraen, ước ao muốn hiến dâng đời mình cho quyền lợi của nhà nước Do Thái. Hai người quyết định nhanh chóng chung sống với nhau. Tháng 8 năm 1958, người ta tổ chức lễ cưới của họ ở Bat Y-am, tiếp theo là một bữa tiệc linh đình kiểu Á đông, trong đó thân nhân hai gia đình dự đông đủ.
Eli và Na-đi-a sống trong một ngôi nhà giản dị dành cho họ ở ngay Bat Y-am. Eli còn tiếp tục làm kế toán ở hãng Ma-xơ-bia một thời gian nữa.
https://thuviensach.vn
Rồi, Na-đia-a nhớ lại một buổi tối Eli về nhà và giải thích ngắn gọn với vợ:
“Anh thôi không làm ở Ma-xơ-bia nữa. Người ta giao cho anh một công việc quan trọng hơn, làm đại diện ở một hãng buôn và chắc chắn thỉnh thoảng anh sẽ phải ra nước ngoài”.
Eli không giải thích cho vợ hãng này thuộc loại gì. Y cũng có chút khó khăn phải nói với vợ tại sao lại phải gọi là một “hãng buôn” nào đó. Y cũng không giải thích với vợ tại sao, ít ngày sau đó, y lại để ria mép.
Cái “hãng” nói trên chỉ là Cục tình báo Ixraen.
https://thuviensach.vn
V. Ngành tình báo Ixraen
Cục tình báo Ixraen với những hoạt động mà báo chí quốc tế đã nhiều lần “vạch vòi” và “tiết lộ” , không phải là vô danh hoàn toàn không được người nước ngoài và người Ixraen biết đến. Cục tình báo ở dưới quyền Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Những nhân viên của Cục này, không trừ ai, đều là công chức của chính phủ Ixraen. Cũng như các viên chức khác của chính phủ, họ được một số lương ít ỏi, phù hợp với các thang lương áp dụng ở Ixraen và được bảo vệ bởi những hợp đồng xã hội ký kết giữa chính phủ và công đoàn của những người làm công và viên chức của xứ sở. Viên Cục trưởng lĩnh một số lương tối đa là một ngàn sáu trăm bảng Ixraen một tháng, kể cả phụ cấp gia đình, lương chính của một điệp viên hoặc một nhân viên mới vào nghề không qua một phần ba số lượng này.
Ở Ixraen cũng như ở nước ngoài, họ không thể ở trong các khách sạn sang trọng, ngôi quanh bàn cờ bạc hoặc trên những chiếc xe hơi thể thao.
Lịch sử của Cục tình báo Ixraen mở đầu từ thời kỳ dân Do Thái bắt đầu xâm nhập vào Pa-lét-xtin. Viện lẽ phải đương đầu với những cuộc tấn công của A-rập, ngay từ đầu thế kỷ này, bọn thực dân Do Thái đã tổ chức ra một tổ chức bảo vệ chung về sau này mang tên là “Ha-sô-me” – Người bảo vệ -. Tới khi dân Do thái ở Pa-lét-xtin đã lớn lên và cái mộng có mảnh “đất Tổ quốc” đang trên đường thực hiện thì một đạo quân bí mật thật sự tên là “Ha-ga-na”, một tổ chức mầm mống của Cục tình báo hình thành. Thời Pa lét-xtin hãy còn bị Anh cai trị, tổ chức phôi thai của Cục tình báo này mang tên là “Sơ-rút I-ê-đi-ốt” hoặc ‘Say”.
Ngay từ năm 1948, đi đôi với tổ chức chuyên nghiệp và rất hiện đại của quân đội Ixraen, người ta tiến hành cải tổ lại các cơ quan tình báo. Phải nói
https://thuviensach.vn
rằng các cơ quan mật vụ này đã được chăm sóc và giữu bí mật rất cao bởi vì chúng rất cần cho Nhà nước trẻ tuổi Ixraen mà về chiều sâu chiến lược, sự kéo dài có khi tới cả trong lòng các nước láng giềng. Trong cái vùng của miền Trung Đông, nơi mọi việc đều có thể giải quyết trong vài giờ đồng hồ, bởi vậy, công việc của Cục tình báo là phải phát hiện những thay đổi, vận động, những hoạt động bất thần của nhà cầm quyền dân sự và quân sự của các nước láng giềng. Tóm lại, Cục tình báo Ixraen hoạt động mạnh ở nước ngoài, ở các nước trung lập hoặc các nước thù địch, hơn là ở nội địa Ixraen.
Muốn hiểu rõ tính chất đặc biệt của Cục tình báo Ixraen, cần phải nhấn mạnh đến những đặc tính riêng bắt buộc của từng điệp viên. Viên Cục trưởng cũ của Cục tình báo Ixraen là It-xe Ha-ren, sẽ cung cấp cho chúng ta những dẫn chứng đúng nhất:
“Không đời nào chúng tôi tuyển dụng bọn bạt mạng, chúng tôi không cần những người hùng và cả bọn luôn luôn tìm gặp chúng tôi để tình nguyện xin việc. Điều mà chúng tôi chú ý hàng đầu ở một điệp viên là những động cơ gì đã khiến họ đi tìm sự “mạo hiểm” vào người. Nói một cách khác, chúng tôi muốn họ là những con người và nhất thiết phải giản dị khiêm tốn. Việc giấu kín tên tuổi của điệp viên và tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của người này là những điều kiện cơ bản của sự hiệu lực của chúng tôi. Những người khó giấu tên tuổi hoặc quá lộ làm mọi người biết là mình có tham gia một hoạt động bí mật, bắt buộc phải xa chúng tôi ngay lập tức!”
Chỉ cần nhìn vào cuộc sống của I-xe Ha-ren, để qua ông ta mà biết Cục tình báo do ông chỉ huy từ hơn 10 năm nay.
Ha-ren tên thật là Han-péc (Halpern) nhưng khi ở Ixraen mang biệt danh là “It-xe Ha-ka-tan” (It-xe nhỏ bé) vì dáng dấp thấp bé, sinh năm 1912, chính quê ở Sa-gan vùng Vi-tep ở Liên Xô. Cha ông, một nhà công nghiệp nhỏ, đã bỏ trốn sau cuộc Cách mạng vô sản ở Let-tô-ni. Năm 1929, lúc 17 tuổi, Han-péc là nhân viên của phong trào Do thái cánh tả. Han-péc
https://thuviensach.vn
đặt chân lên Pa-let-xtin, mang theo một va li và một khẩu súng lục mà anh ta bí mật xoay xở lấy. Về sau Han-péc trở thành công nhân ở một trang trại ở Hec-li-pha, cách Ten A-víp không xa lắm. Làm việc khoảng vài năm ở các nhà máy cam trong vùng này, Han-péc được các bạn gọi là “chàng công nhân chăm chỉ và không biết mệt.”
Mãi đến năm 1942, Han-péc mới lấy tên Do Thái là Ha-ren và gia nhập hàng ngũ “vệ binh” là những đơn vị bảo vệ Do Thái được Chính phủ cai trị Anh công nhận và chủ trì. Một sự kiện nhỏ đã quyết định số phận của Ha ren: một hôm bị một tên sĩ quan người Anh chửi bới và phỉ báng tín ngưỡng Do Thái trước mặt, tuy không sùng đạo và cũng không đi lễ bao giờ, Ha-ren nện ngay cho tên sĩ quan này một quả đấm vào giữa mặt. Sự việc chẳng qua chỉ là hành động của chàng Đa-vít nhỏ bé trước người khổng lồ Giô-li-át. Bọn chỉ huy người Anh bắt Ha-ren xin lỗi về hành động của mình. Ha-ren không chịu và bị đuổi ra khỏi đơn vị đồn trú. Ít lâu sau, Ha-ren trở thành nhân viên của tổ chức “Say”. Cục trưởng của Cơ quan tình báo này thời bấy giờ là Đa-vít Sin-tin nhanh chóng nhận thấy những đức tính đặc biệt của Ha-ren, liền giao cho phụ trách an ninh nội bộ của tổ chức bí mật và sau này cho phụ trách tổ chức “Say” ở vùng Ten A-víp. Cũng ở đây, Ha-ren đã làm quen với Ga-li-li (Bộ trưởng Ixraen thời bấy giờ), với Đa-vít, Ben Gu-ri-ôn và nhiều nhân vật khác. Từ đó ông ta leo một cách nhanh chóng lên các chức vụ cao trong Cục tình báo. Năm 1953, Đa-vít, Ben Gu-ri-ôn làm thủ tướng và bộ trưởng quốc phòng, liền giao cho Ha-ren đảm nhiệm chỉ huy các Cục tình báo và trở thành cố vấn bí mật của ông ta.
Ha-ren tự đặt cho mình một nguyên tắc là khắc phục những nguy hiểm mà ông đặt ra cho các nhân viên của mình. Đã nhiều lần, Ha-ren đích thân di nhiều nước Ai-Cập. Thời kỳ ấy, ngay cả vợ con ông cũng không hề biết chồng và cha mình làm việc gì! Không bao giờ ảnh của Ha-ren được đăng lên dù bất cứ ở đâu. Và sau cùng, Ha-ren đã bố trí vụ bắt cóc Ếch-sơ-man – tội phạm chiến trang - ở thủ đô Ác-hen-ti-na, giải tên đao phủ quốc xã mê
https://thuviensach.vn
mệt trên một chiếc máy bay của Ixraen tới sân bay Ly-da ở Giê-ru-xa-lem để báo với Ben Gu-ri-ôn rằng: “ Tên Ếch-sơ-man hiện đang ở Ixraen”.
Hoạt động của các Cục tình báo Ixraen không phải chỉ có hoạt động gián điệp ở các nước Ai-Cập, hoạt động phản gián ở Ixraen và truy lùng bọn quốc xã cũ. Một ngày vào năm 1962, I-xe Ha-ren nhận được lệnh của Ben Gu-ri-ôn phải đi tìm và đem về Ixraen một em nhỏ. Đó là câu chuyện nổi tiếng về em Y-ô-xen Su-ma-sơ.
Đứa bé bị người ông là một người Do Thái chính thống, bắt cóc và đem giấu đi vì ông muốn đứa cháu tránh khỏi ảnh hưởng vô đạo, hơn nữa phản lại đạo của cha mẹ em. Cơ quan công an Ixraen không sao tìm ra em bé này trên đất Ixraen, người ta mới đoán già, đoán non rằng em bé Y-ô-xen có thể bị đem giấu bí mật tại một nơi nào đó ở nước ngoài.
I-xe Ha-ren bèn đi Pa-ri, đặt Tổng hành dinh và ăn ngủ ngay ở trụ sở bí mật của Cục tình báo. Ở đây, ông tổ chức “săn” em nhỏ, với sự phụ lực của bọn điệp viên của ông ở Âu châu. Trong có sáu tuần lễ, bọn này đã khám phá ra em bé Y-ô-xen, bị giấu như một kho vàng tại nhà một giáo sĩ ở Bơ ruc-lin (một khu phố của thành phố Niu Yooc ở Mỹ).
Làm việc có phương pháp và rất thận trọng, Ha-ren đã cho lùng cặn kẽ ở khắp các trường học Do Thái tại Thụy sĩ, Pháp, Bỉ và Hà lan, trước khi tìm thấy dấu vết của đứa trẻ theo hướng Bơ-ruc-lin. Nhờ có sự can thiệp của cảnh sát Niu Yooc, Ha-ren đã mang đứa bé về cho cha mẹ em.
Từ nhiều năm, nhờ những nhân viên tình báo, chính phủ Ixraen đã biết những hoạt động chính trị của bọn cựu quốc xã ở Cai-rô, phục vụ chính sách chống Ixraen và chống Do Thái của Nat-xe. Nhưng mãi đến năm 1956, sau thất bại của quân đội Ai-Cập ở sa mạc Xi-nai, phải nhờ đến sự cộng tác của một nhóm bác học người Đức, đã phục vụ dưới thời Hit-le, rồi bị Đồng minh bắt làm tù binh. Họ đã tham gia vào sự phát triển kỹ thuật hàng không và tên lửa mới ở Mỹ và nhiều nước Âu châu. Đấy là giáo sư
https://thuviensach.vn
nổi tiếng Pin Giooc và nhiều chuyên gia về bom V1 và V2 đã tàn phá nước Anh trong đại chiến thế giới lần thứ II nay đang giúp cho Nat-xe chế tạo những tên lửa tầm trung điều khiển bằng vô tuyến điện.
Ixraen cũng không lo lắng lắm về sự thực hiện những dự định trên, có thể do đánh giá thấp trình độ của những nhà bác học Đức, được đào tạo ở các trường cũ và không có những điều kiện khoa học và kỹ thuật cần thiết để thiết kế những tên lửa tối tân. Ngay từ năm 1962, Ai-Cập đã có những dàn tên lửa đáng kể, dù có kém chính xác về điều khiển bằng vô tuyến điện, nhưng có thể dội vào bất cứ điểm nào trên đất Ixraen những làn đạn phá có khi cả nguyên tử nữa. Thế là nổ ra một chiến dịch quốc tế do trùm tình báo Ixraen điều khiển một cách linh hoạt và lần này Ha-ren lại nằm ở một nước trung lập để điều khiển các hoạt động cần thiết.
Từ khi Ha-ren từ chức, ngành tình báo Ixraen do một sĩ quan cao cấp có tiếng tăm trong quân đội Ixraen điều khiển, nhưng tinh thần sẵn có trong nội bộ Cục tình báo Ixraen thời kỳ còn Ha-ren vẫn tồn tại và không hề thay đổi. Còn hiệu suất của công cụ đặc sắc kia, chỉ cần nhắc lại tháng lợi của Ixraen hồi tháng 6 năm 1967 là do một phần lớn chất lượng những tin tình báo do nhiều cơ quan tình báo Ixraen cung cấp cho quân đội.
Ngành tình báo Ixraen tuyển mộ Eli Cohen vì y là dân di cư mới mẻ, nhưng được nhiều bạn hữu trong Tổ chức Do Thái bí mật ở Ai-Cập biết tiếng, nói rất thạo nhiều thứ tiếng, đặc biệt là tiểng A-rập, trung thành cùng xứ sở với lý tưởng Do Thái và nước Ixraen mới! Y là loại người Ixraen điển hình mà cục tình báo nước này rất thích phái sang các nước thù địch.
Ngay từ ngày đầu độc lập, Ixraen đã hiểu rõ rằng, không gì bằng một điệp viên gốc gác hoặc là công dân Ixraen được cài vào một nước láng giềng. Sự hiểu biết sâu sắc những nhu cầu của nước mình và lòng nhiệt thành của y là nguồn gốc của sự can đảm, có thể tạo y thành một điệp viên tận tụy, chiến đấu cho một “lý tưởng” chứ không phải cho một cuộc phiêu
https://thuviensach.vn
lưu thuần túy, cũng không phải cho lợi ích vật chất có thể từ đó sinh ra. Tất cả điều này đều đúng với Eli Cohen.
Chính vì thế mà một ngày năm 1960, y báo cho vợ biết mình đã thay đổi việc làm và để ria mép.
Y vừa được tuyển dụng vào làm nhân viên của Cục tình báo Ixraen do I-xe Ha-ren điều khiển.
https://thuviensach.vn
VI. Tên gián điệp vỡ lòng
Một ngày hè năm 1960, khách qua lại trên đường phố A-len-by ở Ten A-víp chẳng ai để ý đến hai gã dáng dấp khác nhau, cũng lúc ấy, đang tập luyện một cách lạ lùng. Một gã người cao, còn gã kia thấp hơn một đầu, lùn và to béo. Đó là Đéc-vi-sơ và Eli Cohen.
Đéc-vi-sơ thường quen miệng không ngừng nhắc Eli bằng giọng kẻ cả:
“Nếu anh còn tiếc vì đã tình nguyện làm việc, nếu anh còn một chút nghi ngờ nhỏ về năng lực công tác, hãy nói cho bọn tôi và chúng ta sẽ chia tay. Chúng ta không phải giữ lời giao ước một cách mù quáng. Đừng ngại gì cả và chớ có để cho người ta thành kiến với anh vì mất thì giờ. Anh hoàn toàn có quyền đặt nhiều nghi vấn.”
Rồi Đéc-vi-sơ nói them câu tiếng Anh: “ No Hardseelings” – Đừng có cách nhìn cứng nhắc quá.
Câu này khiến tên điệp viên tập sự sôi máu lên. Cố nén giận, Eli chậm rãi nói với Đéc-vi-sơ: “Thế tôi có tình nguyện để rồi hối tiếc và thay đổi ý kiến đâu? Khi nói đến an ninh của sứ xở, liệu người ta có nói đến ăn năn và hối tiếc không?”. Ngay cả Eli, y cũng có thói quen dùng một câu “tủ” để kết thúc cuộc đàm thoại và để tóm tắt tâm trạng của mình: “Làm sao mà tôi lại có thể trội hơn mọi người đang sống ở đất địch cơ chứ?”.
Suốt từ sáng, Eli và Đéc-vi-sơ đi đi lại lại trên đường phố A-len-by, thỉnh thoảng mới dừng chân để uống nước hoa quả ướp hoặc ăn một mẩu bánh của người bán hàng rong. Từ giữa trưa, đường phố A-len-by đã đông nghịt người qua lại, hối hả trước các cửa hàng hoặc vào một số rạp chiếu bóng của thành phố.
https://thuviensach.vn
Huấn luyện viên đã kỹ càng nhắc Eli rằng: “Hôm nay thì toàn là bạn bè bám sát dấu vết của anh. Ngày mai, khi chỉ còn một mình anh đối diện với quân thù, thì ai biết kẻ nào sẽ theo dõi anh ở Cai-rô, Đa-mát hay Bat-đa?”
Ấy đấy, Đéc-vi-sơ là thế. Những mệnh lệnh, những lời giải thích của ông nói một cách bình thản, đi sâu vào lòng như mũi dao. Ngay từ buổi đầu tập sự, Đéc-vi-sơ đã dứt khoát xóa bỏ mọi ý nghĩ sai lầm về Eli. Huấn luyện viên không hề làm gì khiến Eli lo sợ. Nhưng ông cố làm cho Eli thực hành trong thực tế và đôi khi phải thấy tất cả sự khắc nghiệt, nguy hiểm đang chờ y ngày mà y vượt qua biên giới Israen.
Trong tất cả các cơ quan tình báo trên thế giới đều chấp nhận một sự thật hiển nhiên: một điệp viên hoạt động trên đất địch, số phận sẽ được đảm bảo hơn, sẽ hành động táo bạo và có hiệu suất hơn, nếu y chắc chắn người chỉ huy hoàn toàn tin cậy và y cũng hoàn toàn tin cậy vào người chỉ huy, vào sự sáng suốt, vào cơ sở vững vàng của mọi mệnh lệnh và mọi huấn thị từ thượng cấp đó đưa xuống.
Chỉ trong vòng vài tháng, Đéc-vi-sơ đã tranh thủ được sự tin cậy của Eli và tạo nên giữa họ một tình cảm hiểu biết và thân mật.
Đéc-vi-sơ, ngay từ buổi đầu gặp gỡ cũng có thiện cảm với Eli. Nhưng để đi từ sự thiện cảm bộc phát này tới một sự tin cậy lẫn nhau, cũng phải qua một chặng đường dài.
Thời kỳ làm việc ở bộ phận lưu trữ hồ sơ bộ Quốc phòng, Eli Cohen luôn luôn nói với các bạn cùng làm rằng y ao ước được công tác ở nước ngoài vì y không thấy thích làm công việc văn phòng. Công việc của y chỉ có xem kỹ và dịch ra tiếng Do Thái các báo chí Ả-rập hàng ngày từ khắp các xứ A-Rập, đặc biệt từ Ai-Cập và từ Xy-ri gửi tới Ten A-víp.
Cả trước mặt viên sỹ quan tình báo, một đại úy dáng tầm thước có bộ tóc hung hung phụ trách phòng phiên dịch của Bộ, Eli Cohen cũng tỏ ý ước
https://thuviensach.vn
mong được cử đi công tác. Viên đại úy này không phản ứng gì về lời phát biểu của Eli cả. Nhưng vài tuần sau, đột nhiên y bảo với Eli: “Tôi đã đặt vấn đề với người có thẩm quyền để hỏi xem người ta có cần anh không. Nhưng người ta đã trả lời tôi rằng, nguyên tắc từ chối với người tình nguyện vẫn được áp dụng đối với anh cũng như những người khác. Như vậy có nghĩa là người ta không dành một sự đặc biệt gì cho anh cả.”
Đây là sự khước từ đầu tiên mà Eli vấp phải đối với Cục tình báo.
Sự thất vọng của Eli rất lớn. Y thổ lộ tâm trạng với Dan-man, một nhân viên khác trong phòng phiên dịch. Dan-man mang máng có nghe thấy Eli nói: “Tại sao tôi cứ phải phung phí thì giờ để nghiên cứu các báo chí Ả-rập, trong khi tôi thấy có khả năng thu lượm được tại chỗ nhiều tin tức có giá trị hơn?”.
Eli không ngờ câu nói của mình lại được Dan-man rất chú ý và báo cáo lên cấp trên một cách trung thực. Y cũng không hay biết rằng trong lúc ấy, Cục tình báo đang lập hồ sơ và thu nhập mọi tin tức do mọi nguồn tin cung cấp về y. Người ta nghiên cứu quá khứ của Eli, bí mật dò hỏi bạn bè, gia dình, những quan hệ giao tiếp của y.
Cuối cùng, khi hồ sơ của Eli làm xong, được chuyển tới Đéc-vi-sơ vào đầu năm 1960, ông ta quyết định đích thân làm quen và nghiên cứu trường hợp của Eli.
Một buổi tối, khi từ cửa hàng “Ma-sơ-bia” về, Eli ngạc nhiên thấy Dan man đã ngồi ở nhà y. Xin lỗi Na-dia (vợ Eli) và viện lý do có câu chuyện bí mật về công việc buôn bán, Dan-man kéo Eli ra phố. Mãi lúc này, Eli mới biết rằng, trái hẳn với bề ngoài, Cục tình báo đã chấp nhận lời thỉnh cầu của y, Dan-man bảo Eli Cohen:
“Đã hai lần bọn chúng tôi không lưu ý đến anh. Nhưng bây giờ thì đến lượt chúng tôi hỏi lại anh: Anh đã thật sẵn sàng hợp tác với chúng tôi chưa?
https://thuviensach.vn
Khi cần anh có sẵn sang đi công tác ở nước ngoài, ở Châu Âu hoặc ngay ở các nước Ả-rập chẳng hạn?”.
Eli Cohen rất cảm động chỉ nói một câu ngắn ngủi: “Tôi chỉ có một ý kiến biện bạch duy nhất là không muốn đi châu Âu. Tôi muốn đi một nước A-rập nào đó do tùy các anh chọn”.
Dan-man còn nói cho Eli biết, cuộc sống của y sẽ còn thay đổi không những vì vợ y đang có mang mà việc này có thể ảnh hưởng tới quyết định của y, rằng lương bổng của y sẽ lĩnh ở Cục tình báo thì quá thấp (350 bảng). Hơn nữa, cũng chưa có gì quyết định hẳn và y còn thì giờ và khả năng rút lui.
Hai ngày sau, cũng vào một buổi tối, sau giờ làm việc, Dan-man dẫn Eli kéo lên bậc của một ngôi nhà cũ kỹ ở phố A-len-by, cạnh nhà Bưu điện trung ương. Hai người bấm chuông một căn gác nhỏ, màu vôi đã loang lổ từng mảng.
Tôi là I-da-ác Đéc-vi-sơ – chủ nhà tự giới thiệu, nụ cười nở trên môi. Dan-man từ giã họ, chỉ còn Đéc-vi-sơ và Eli ngồi trên hai chiếc ghế bành trong căn gác nhỏ, đò đạc kê như một chỗ nghỉ chân của người sống độc thân. Trong cuộc trao đổi ấy, ngay từ những câu đầu tiên, họ đã có cảm tình đặc biệt với nhau.
Đéc-vi-sơ nói: “Này Eli, tại sao anh lại muốn đi thế? Cái gì đã xô đẩy anh vào vòng phiêu lưu? Ở nhà, anh không sung sướng hay sao? Hay anh muốn thoát khỏi cảnh sống gia đình?”.
Eli Cohen giật lên như bị rắn cắn. Nhiều lần y thường biểu lộ tình yêu chân thật đối với Na-đi-a và hạnh phúc của vợ chồng y một cách gần như quá đáng. Y thú thật là có lúc gặp khó khăn về vật chất, lương phụ kế toán mỗi tháng được có 150 bảng, làm sao kiếm cho đủ ăn. Nhưng Eli Cohen phản đối ý kiến cho là vì lý do hoàn cảnh vật chất nên phải vào làm ở Cục
https://thuviensach.vn
tình báo: “Tôi tin rằng có thể làm được nhiều việc tốt cho lý tưởng của chúng ta. Na-đi-a sẽ đồng ý xa tôi trong thời gian dài với điều kiện là tôi phải làm một việc gì có ích cho Tổ quốc và tôi phải chuyên tâm và một công việc mà tôi ưa thích”.
Đéc-vi-sơ cắt lời y: “Hãy nhớ như chôn vào ruột là không một người ruột thịt kể cả vợ anh hoặc bạn bè nào của anh được phép biết những hoạt động của anh, khi anh được chúng tôi tuyển dụng. Nếu hoạt động của anh có kết quả, anh có thể chia sẻ sự hân hoan và niềm kiêu hãnh…với ngay bản thân, và – hơi hãn hữu với người phụ trách của anh trong tổ chức Một xát (Cơ quan tình báo Israen). Cấm tiệt anh không được hé răng với bất kỳ ai về bất cứ công việc gì dính dáng đến Cục tình báo. Cần nhớ kỹ rằng, không những sự sống còn của anh mà ngay cả những hoạt động của chúng ta ra nữa tùy thuộc vào việc này. Sự sống còn của anh cần thiết cho chúng tôi hơn là số phận của những hoạt động của chúng ta”.
Eli cảm thấy mình mắc sai lầm và cố gỡ lại: “Đâu phải là tôi nói với Na-đi-a sự thật về hoạt động của tôi. Tôi chỉ muốn nói đơn giản rằng, Na đi-a sẽ sung sướng về công việc mới của tôi thôi. Vì nó phù hợp với ý định của chúng tôi tuy Na-đi-a không hiểu được đó là công việc gì”.
Đéc-vi-sơ hướng dẫn cho y cách làm cho Na-đi-a buộc phải tin hoàn toàn rằng chồng cô ta đã kiếm được việc làm trong một công ty xuất nhập khẩu và vì công việc của công ty này, phải đi lại ở Israen và ở nước ngoài
“Anh bắt buộc phải nói dối vợ. Liệu sự dối trá này có làm nứt rạn gì giữa vợ chồng anh không?”. Đéc-vi-sơ hỏi Eli. Ông ta biết đích xác và sâu sắc rằng, chẳng một cơ quan tình báo nào trên thế giới lại có thể ngăn cản được nhân viên của họ nói với vợ cái, con cột sự bí mật công tác của mình, trong khi đầu gối tay ấp, sau nhiều ngày xa cách. Tuy nhiên Đéc-vi-sơ vẫn phải nói như thế với Eli, vì bất cứ cấp trên ở bất kỳ cơ quan tình báo nào cũng vẫn phải nói những lời vô ích như thế với bọn nhân viên mới.
https://thuviensach.vn
Trong căn gác nhỏ ở phố A-len-by, cuộc trao đổi giữa họ kéo dài tới đêm khuya. Đéc-vi-sơ để trước mặt Eli tập hồ sơ và tiến hành ngay một cuộc thẩm tra khái quát: hỏi tất cả mọi vấn đề mà những người đã nghiên cứu hồ sơ của Eli đặt ra, trước khi “bật đèn xanh”- Thỏa thuận đồng ý – cho cuộc trao đổi đầu tiên này. Đéc-vi-sơ hỏi đầu nguồn, cuối gốc chi tiết của những cuộc phá hoại ở Ai-Cập và vụ Eli bị bắt giữ.Thật ra, cần phải hiểu xem người Ai-Cập hiểu biết hoặc có thể hiểu biết về cuộc đời của Eli đến đâu và trong phạm vi nào họ có thể phát hiện ra nếu y vượt qua biên giới của một nước A-rập. Cục tình báo Israen không bao giờ nghĩ đến việc phái Eli sang Ai-Cập vì ở đó y đã lộ mặt và bị xếp vào loại phần tử hoạt động cho phong trào Do thái tự trị.
Rồi Đéc-vi-sơ không ngừng quay trở lại những câu hỏi về nguyên nhân đã thúc đẩy Eli tình nguyện đi công tác. Ông ta còn hỏi có phải Eli đọc quá nhiều tiểu thuyết gián điệp và đó là căn nguyên khiến y muốn trở thành điệp viên không? Đến đây Eli phải chứng minh thiện chí và lòng thành thật của mình bằng cách nhấn mạnh rằng, vừa qua y đã phải mắng đứa em là A bơ-ra-ham vì nó đọc nhiều loại sách trinh thám quá và loại văn này dễ làm cho nó sao lãng học tập.
Những lời đối đáp của Eli, lòng thành thực của y làm Đéc-vi-sơ hài lòng. Đéc-vi-sơ – vốn trước năm 1948, có tham gia một phong trào khủng bố bí mật, tự nhiên có cảm nghĩ rằng, Eli có thể hoàn thành tốt công tác tình báo.
Gần nửa đêm, huấn luyện viên đưa cho Eli Cohen ghi và ký vào nhiều mẫu giấy tờ mang tiêu đề “Quốc gia Israen – Bộ quốc phòng”. Đó là những câu hỏi mà y phải trả lời, tuy câu trả lời thì từ lâu, Đéc-vi-sơ và cấp trên của y đều rõ cả. Bọn họ chỉ còn thiếu chữ ký của Eli Cohen có nghĩa là chính thức hóa việc y tình nguyện vào công tác traong ngành tình báo Israen.
Những ngày khác thì dành cho việc kiểm tra dài về bệnh tật, tâm lý và tâm lý kỹ thuật. Eli được công nhận sức khỏe loại A1. Nhưng phần kiểm tra
https://thuviensach.vn
về tâm lý và tâm lý kỹ thuật kéo dài ba ngày và y phải nghỉ việc trong những ngày này ở cửa hiệu Ma-sơ-bia. Về phần này nữa, những kết quả kiểm tra đều chắc chắn và Eli được các nhà tâm lý học ghi nhận xét rất tốt.
Sau nhiều tuần kiểm tra, Đéc-vi-sơ đã gặp lại Eli lần thứ hai:
-Mọi sự đều tốt đẹp với anh, chỉ cần cứ tốt thế mãi. Đéc-vi-sơ vừa nói vừa vỗ vào vai y -Chúng ta hãy còn xa đích nhiều. Bây giờ anh phải xin thôi việc đi và hoàn toàn chịu quyền điều khiển của chúng tôi. Trong sáu tháng, anh sẽ theo một khóa huấn luyện khó khăn và vất vả - về thể xác cũng như tinh thần. Nếu trong khoảng sáu tháng, chúng ta vẫn còn nhất trí, ta sẽ dự tính chuyện kế tiếp. Bắt đầu từ nay, anh sẽ nhận một khoản lương hàng tháng là 350 bảng.
Hôm ấy, Eli vui sướng trở lại nhà và báo cho Na-đi-a biết ,là y vừa được tuyển dụng vào một công ty thương mại và lúc cần thiết, y sẽ đi nước ngoài. Na-đi-a không hỏi thêm y một câu nào vô ích. Từ hôm ấy Eli để ria mép, như Đéc-vi-sơ đã nói với y: “Một bộ ria mép cho đẹp vào, ít nhất cũng phải đẹp như ria của tôi ấy”. Thật ra vì Đéc-vi-sơ có một bộ ria mép khá đẹp, kích thước khá lớn, nhưng hơi lôi thôi và vàng khè vì chất Ni-cô tin của thuốc lá mà ông ta hút như cái ống khói.
Có một hôm gia đình Eli Cohen lấy làm ngạc nhiên thấy y để ria mép mà người ta biết rằng ở phương Đông này, ý định đó coi như “bạo phổi”. Eli tìm ngay sự giải thích để làm giảm bớt sự lo ngại không đâu của gia đình y:
“Tôi đã thề sẽ không bao giờ cạo ria mép cho đến ngày Na-đi-a sinh một đứa con trai”.
Bởi vì Na-đi-a vừa sinh con đầu lòng – Một bé gái đặt tên là Xô-phi. Nhưng Ê-li thì lại thèm khát một đứa con trai và y cũng không giấu giếm vợ điều này.
https://thuviensach.vn
Ít ngày sau, một sự việc khác là Ê-li và gia đình y xúc động: người cha già của y chết ngay đầu năm 1960 đó.
Một ngày hè năm 1960, cùng với Đéc-vi-sơ, Ê-li đi đi lại lại trên đường phố A-len-by nhằm phát hiện “tên theo dõi” và làm cho tên này thất bại.
Thoạt tiên Ê-li thua hết keo này đến keo khác trong cuộc tập dượt nhiều ngày liền diễn đi diễn lại không ngừng. Chẳng có lần nào Ê-li tìm ra những nhân viên theo dõi mình. Sau mỗi lần tập dượt, Đéc-vi-sơ lại cho Ê-li xem nhiều ảnh mà bọn này đã chụp khi y dừng trước quầy bán báo hoặc trước tủ kính của một cửa hiệu trên đường phố Ten A-víp. Người ta còn cho Ê-li xem cả phim quay được lúc y đang đi bách bộ trên các phố, trong khi Ê-li không sao phân biệt nổi những người theo dõi mình với các khách qua đường khác.
Chỉ trong vòng một tuần của đợt tập luyện, Ê-li cũng đã khám phá ra được những kẻ “bám đuôi”. Và từ lúc ấy, sự tập dượt trở thành một trò chơi. Càng ngày Ê-li càng dễ dàng phát hiện ra và tìm cách đánh lạch bọn chúng, ngay khi chúng tìm mọi cách bí mật chụp ảnh bằng được Ê-li bằng loại máy ảnh nhỏ xíu.
Vào cuối tháng đầu của đợt tập dượt gắt gao này, huấn liện viên đặt Ê-li vào một thử thách loại khác. Một sự thử thách ở Giê-ru-xa-lem.
Công việc bắt đầu bằng việc trao cho Ê-li một hộ chiếu quốc tịch Pháp mang tên Mác-xen Cô-en. Đó là hộ chiếu của một người Do Thái gốc Ai Cập, đi qua I-xra-en trước khi đi đến một nước châu Phi. Trong thời gian tập dượt, người ta chỉ đánh đổi tấm ảnh của người du lịch tạm thời này với ảnh của Ê-li Cô-hen. Cô Dây-ra, thư ký cơ quan tình báo ở Ten A-vip, trao hộ chiếu này cho Ê-li.
Những chỉ thị của huấn luyện viên rất rõ ràng: với hộ chiếu mang tên Mác-xen, Ê-li sẽ phải từ Ten A-víp tới Giê-ru-xa-len và trong thời gian tập
https://thuviensach.vn
dượt, y phải cư xử như là chủ nhân thật sự của hộ chiếu này. Nói cách khác, Ê-li phải mang căn cước nhà du lịch người Pháp gốc Ai Cập, mà người ta biết rằng, người này chỉ nói có tiếng Pháp và tiếng A-rập. Dưới căn cước này, y có nhiệm vụ phải gặp gỡ thật nhiều người do y chọn – nhà buôn, công nhân, công chức và có thể ngay cả các bộ trưởng – khả dĩ có thể cung cấp cho y nhiều tin tức về I-xra-en.
Việc này cũng không có gì khác cái mà người ta vẫn gọi là hoạt động nấp dưởi “vỏ bọc”.
Đéc-vi-sơ kết hợp hoạt động này với cuộc tập luyện vừa rồi ở Ten A víp. Y bảo Ê-li: Trong thời gian lưu trú ở Giê-ru-xa-lem, anh sẽ bị rất nhiều nhân viên của Cục tình báo theo dõi và sự hoạt động sẽ được đánh giá rất cao nếu anh tránh khỏi sự cảnh giác của họ.
Xục đống với ý nghĩ là lần này, y sẽ phải sống ở Giê-ru-xa-lem như là một điệp viên hoạt động ở nước ngoài, Ê-li đã trở thành Mác-xen Cô-en, lên đường đi Giê-ru-xa-lem sau khi nói với vợ rằng y tới đây vì “công việc” và sẽ ở đây nhiều ngày.
Ê-li tới Giê-ru-xa-lem bằng xe lửa và ở trong một quán trọ. Rồi y lập tức làm bổn phận là dạo quanh thành phố một vòng và quan hệ với nhân dân theo ý của y.
Giê-ru-xa-lem có những khu phố nghèo nàn và những ngõ hẻm nhỏ bé, nằm dài trên biên giới Gióoc-đa-ni. Dãy thành lũy cổ kính ngăn cách thành phố thuộc I-xra-en với thành phố thuộc A-rập. Đây là lần thứ hai y đặt chân tới Giê-ru-xa-lem, từ khi đến I-xra-en. Những chòi bắn của quân đội A-rập trên các ụ súng của thành lũy này gợi cho E-li Cô-hen nỗi ám ảnh của một thành phố cũ ở phương Đông. Y có dịp a nhàn ngắm nghía thành phố và dần dần yêu mến tính chất khá đặc biệt và độc đáo của nó.
https://thuviensach.vn
Nói thạo tiếng Pháp, Ê-li Cô-hen không gặp khó khăn gì khi chuyện trò với một vài khách trọ nơi y cùng ở. Y tự giới thiệu là khách “du lịch” ở miền Nam nước Pháp và hỏi họ ở quán cà phê hay tiệm ăn nào, có thể gặp gỡ thoải mái được các nhà doanh nghiệp hoặc với các công chức của chính phủ?
Thế là mới tới Giê-ru-xa-lem có hai ngày, Ê-li đã làm quen ngay ở tiệm cà phê “Viên-na” một công chức làm ở một Bộ quan trọng và ngay tối hôm đó, được mời tới ăn cơm tối ở nhà người này. Trong bữa cơm, Ê-li gặp viên giám đốc một ngân hàng nhỏ ở thủ đô. Khi nghe thấy nhà “du lịch Pháp” có ý định đến sinh sống ở I-xra-en và muốn chuyển về đó khoản vốn nhỏ, viên giám đốc liền hẹn gặp Ê-li ở văn phòng vào sáng hôm sau. Sáng hôm sau, cuộc trao đổi giữa Ê-li và viên giám đốc – cảm thấy có thể làm ăn được và định bụng muốn lợi dụng việc chuyển cái vốn ấy – kéo khá dài và kết quả. Thế là Ê-li biết tất cả những khó khăn về kinh tế và tài chính của I-xra-en, của sự “tai biến” sắp sửa đến gần do việc ngừng thanh toán những khoản bồi thường của Đức và việc giảm bớt những cuộc quyên góp tiền ở Mỹ cho I-xra-en. Ê-li đặt cơ man là câu hỏi và viêm giám đóc thì đem hết sức để cung cấp những lời giải đáp một cách vô cùng lễ độ và với thiện chí rõ rệt.
Không cần phải nói là sau đó, viên giám đốc ngân hàng trẻ tuối nọ tưng hửng như thế nào khi mất hút tin tức của khách hàng. Có thể giờ đây, đọc những dòng này, anh ta ắt phải tức giận lắm khi biết rằng người khách “du lịch” miền Nam nước Pháo không phải ai khác mà chính là Ê-li Cô-hen.
Tên gián điệp tập sự nhận thấy y bị theo dõi ở Giê-ru-xa-lem, đúng như Đéc-vi-sơ đã báo cho y biết trước. Sau này, y ngắm nghía những bức ảnh người ta chụp y cùng với những người khác ở tiệm cà phê Viên-na và viên công chức nọ. Trái lại, Ê-li đã giấu kín được cuộc gặp gỡ với viên giám đốc ngân hàng, và được huấn luyện viên của y khen ngợi.
Hoạt động ở “Giê-ru-xa-lem” kéo dài mười ngày. Ê-li Cô-hen dưới cái tên Mác-xen, còn làm quen được với một số đông đáng kể những nhà buôn,
https://thuviensach.vn
viên chức nhà nước và nhiều nhà trí thức ở thành phố đại học này. Dưới mắt cấp trên của y, tập hồ sơ y thu thập được quả là hoàn mỹ, Cục tình báo A-rập đáng ra phải thích tập hồ sơ này mới phải. Sau khi đọc tập hồ sơ, Đéc-vi-sơ thảo một báo cáo lên người phụ trách tổ chức “Mốt-xát” trong đó nhận xét rằng: “Ê-li Cô-hen khác người bởi một nhân cách biến đổi và những ý kiến độc đáo, y có đủ khả năng đặt quan hệ một cách nhanh chóng với người khác. Báo cáo này còn nói thêm – Ê-li Cô-hen có ý thức chủ động, có khiếu thông minh sáng tạo, có những phản xạ tinh thần mau lẹ và có sở trường về cách gây tín nhiệm với người xung quanh. Y nói thạo được nhiều thứ tiếng, điều này rất thuận lợi cho công tác, vì thế tôi tin rằng, y sẽ đạt kết quả trong nhiệm vụ được giao phó và y nhiệt thành mong muốn được giao nhiệm vụ. Hơn thế nữa, Ê-li lại là một gã cứng đầu cứng cổ, trong cái ý tốt của câu: “Cứng đầu để đạt mục đích””.
Cuộc thực tập ở Giê-ru-xa-lem chứng tỏ rằng Ê-li có thể thường xuyên mược căn cước của người khác và sinh hoạt y như người này. Tất nhiên là ăn ở như một người Do Thái, hoặc một người du lịch Do Thái gốc Pháp, giữa những người Do Thái ở Giê-ru-xa-lem rõ ràng thoải mái hơn là mược căn cước của một người A-rập và sinh hoạt như người A-rập ở Đa-mát hoặc ở Cai-rô.
Sau cuộc thực tập ở Giê-ru-xa-lem, Đéc-vi-sơ đi tới kết luận, người ta có thể, khi có thời cơ, ném Ê-li Cô-hen vào một thủ đô A-rập, không phải dưới một căn cước Tây Ban Nha hoặc Nam Mỹ như dự kiến lúc đầu, mà ngay dưới căn cước một người A-rập. Dáng dấp Ê-li và giọng nói A-rập hoàn hảo, theo ý kiến của Đéc-vi-sơ, hoàn toàn có đủ khả năng bố trí như vậy mà rất ít bị rủi ro.
Từ lúc còn ít tuổi, Ê-li vốn có một trí nhớ tuyện vời nên đã không gặp một khó khăn nào trong những cuộc thực tập “ghi vào trí nhớ” liên tục và ngày càng khó nhọc. Những cuộc tập luyện này phần nhiều ở trên căn gác nhỏ của Đéc-vi-sơ ở phó A-len-by. Hàng nhiều giờ liền, Đéc-vi-sơ đặt một
https://thuviensach.vn
số đồ vật đủ các loại lên trên bàn, đậy kín một lúc rồi bảo Ê-li vẽ lại những vật mà y chỉ mới nhìn thoáng qua hoặc trả lời những câu hỏi về chi tiết của vật này hay vật nọ. Chặng thứ hai Đéc-vi-sơ bày cho Ê-li xem những mô hình nhỏ các loại vũ khí khác nhau, từ khẩu súng lục đến súng trường, cho đén các loại xe bọc thép và máy bay siêu âm. Tới giai đoạn thứ ba, người ta chiếu ảnh những loại khí cụ thật hiện có trong quân đội A-rập, xe tăng T 54, máy bay Mig 15, Mig 17, Mig 19 và có cả loại Mig 21.
Đéc-vi-sơ nói với Ê-li:“Các nước A-rập hiện chưa có tất cả các loại vũ khí này, nhưng cũng không lâu đâu”. Hai năm sau, việc này đúng là đến thật.
Các cuộc tập luyện này diễn đi diễn lại trong nhiều ngày và nhiều tuần. Đéc-vi-sơ giải thích luôn miệng cho học trò của ông ta rằng, trí nhớ bằng quan sát không thể lầm lẫn là cần thiết, phải nhớ như in vào óc gần như tự động, tất cả các loại vũ khí của A-rập và ở đất địch càng ít ghi chép càng tốt. Những bản ghi chép và hồ sơ là cần thiết ở Tổng hành dinh. Còn anh, anh chỉ cần có trí nhớ của anh thôi!
Tháng 9 năm 1960, Ê-li Cô-hen được nghỉ phép lần đầu tiên. Kỳ nghỉ phép này, đúng vào ngày Tết năm mới Do Thái (Rosh - Hashana) thực té cũng là dịp đầu tiên Ê-li làm tròn vai trò làm cha với cô bé Xô-phi mới ra đời.
Cũng trong thời kỳ này đã xảy ra một câu chuyện tuy không quan trọng nhưng biểu lộ tình trạng tinh thần của Ê-li. Một trong mấy em trai của Ê-li Cô-hen là E-phra-im, sinh sống tại trại Rơ-vi-vim, trong vùng Nê-ghép, có nhớ lại rằng, Ê-li đến thăm anh ta vào cuối mùa hè năm 1960. Cả hai anh em đến nhà một tay chơi vô tuyến điện trong trại. Khi anh chàng này bắt được liên lạc với một tay chơi thông tin vô tuyến tài tử khác ở một nơi nào đó ngoài biên giới I-xra-en, Ê-li liền giằng lấy chiếc mi-crô và trước sự kinh ngạc của bạn bè, kêu tướng lên: “Tôi mới bị tống cổ ra khỏi A-rập như
https://thuviensach.vn
trăm ngàn người Do Thái khác. Còn rất nhiều người Do Thái hãy còn ở Ai Cập và tất cả đều bị ngược đãi”.
Người em của Ê-li giằng lại chiếc mi-crô ở trong tay y và giận giữ nói: “Anh không điên chứ? Ai xui anh làm như thế?”.
“Mọi người cần phải thấy rõ sự thật. Không có một ai làm gì để giúp đỡ chúng ta cả” – Ê-li chua chát đáp lại.
https://thuviensach.vn
VII. Căn cước mới
Sau tết Do Thái ít lâu, vào mùa thu năm 1960, Đéc-vi-sơ bắt đầu làm cho Ê-li Cô-hen một căn cước mới.
Trước hết, phải biến Ê-li thành một người A-rập theo đạo Hồi giống hệt như y đã theo đạo Do Thái. Để biến được như thế, Ê-li phải tới một thành phố A-rập ở Na-da-rét với căn cước giả là sinh viên trường đại học Giê-ru xa-lem. Pháp sư Mu-ha-mét Xan-man, một ông già phong thái tộc trưởng, sau này là pháp sư của y về đạo Hồi, không tài nào hiểu nổi vì sao mà người học trò của ông lại khao khát đạo Hồi đến thế.
Ngồi theo lối phương Đông trên một tấm thảm trong một ngôi nhà đá xinh đẹp của pháp sư, Ê-li tập thực hành những lý thuyết đạo Hồi mà y đã học tại A-lec-xăng-đơ-ri hồi còn nhỏ. Đọc một vài chương trong kinh Cô ran và nhất là những kinh nguyện thay đổi theo từng màu và từng ngày lễ, đó là điều căn bản của việc thực tập này. Ê-li đọc thuộc long năm bài kinh nguyện hàng ngày của đạo Hồi và kinh Pha-ta là bài kinh mở đầu và nhập đề cho các bài kinh khác.
Được pháp sư khen ngợi, Ê-li luôn luôn mang trong người quyển kinh Cô-ran mà y phải học thuộc long nhiều đoạn. Và cứ ngày thứ sáu, y có thói quen tới các nhà thờ mà người ta thường thấy ở vùng nông thôn A-rập ở I xra-en, y cũng bò ra lễ, mặt quay về hướng thủ đô đạo Hồi và đáp lại viên xướng lễ (mu-e-din) gọi các tín đồ từ trên bậc cao của nhà thờ: “Thượng đế chỉ có A-la, còn Mô-ha-mét là tiên tri của Ngài”.
Các căn cước người ta làm cho Ê-li không bắt buộc y phải thông hiểu quá sâu về đạo Hồi mà chỉ cần có vẻ một người A-rập tiến bộ, hiểu qua tôn giáo nhờ lúc còn nhỏ đã được học qua. Nhưng Ê-li vốn dĩ chăm chỉ lại hăng hái nên đã học quá mức mong muốn của cấp trên.
https://thuviensach.vn
Cuối năm 1960, Ê-li nhận được một căn cước mới, cũng đo Đéc-vi-sơ thong báo cho y trong căn gác nhỏ ở Ten A-víp một ngày đầu năm 1960:
“Bắt đầu từ nay, anh sẽ làm quen với tên mới của anh là Ca-man A-min Ta-áp. Ca-man là họ của anh, A-min là tên cha anh và Ta-áp là họ gia đình. Anh là con một gia đình quốc tịch Xy-ri”.
- Anh chỉ tìm được có cái tên này thôi à? Không được đẹp lắm, Ê-li nói, nụ cười nở trên môi.
- Tên không được đẹp lắm nhưng là một cái tên Xy-ri điển hình đấy – Đéc-vi-sơ giải thích thêm: Anh tốt số may mắn có trước vài tháng để làm quen với cái tên này, trong khi ấy, những người khác cũng trong hoàn cảnh tương tự bắt buộc phải tự tìm ra tên mình trong một hộ chiếu giả mạo nhận được của cấp trên trao cho giữa hai chuyến máy bay trong buồng rửa mặt của sân bay nào đó.
Cùng một lúc, Ê-li Cô-hen được biết nước mà y sẽ tới hoạt động là Xy ri và từ nay y có thì giờ để làm quen kỹ càng với địa lý, địa hình, lịch sử quá khứ và hiện tại cũng như tình hình kinh tế của xứ sở này. Đéc-vi-sơ dặn Ê-li còn phải nghiên cứu thổ ngữ và giọng nói của tiếng Xy-ri vì nó khác với thổ ngữ và giọng nói của Ai Cập. Thật ra âm điệu A-rập ở Đa-mát có khác với âm điệu ở Cai-rô một chút. Việc hợp nhất về chính trị giữa Ai cập và Xy-ri thành nước Cộng hòa A-rập thống nhất, mới hình thành thời kỳ ấy nhưng tồn tại không được bao lâu, thật ra cũng chẳng làm thay đổi gì những sự khác nhau về phát âm giữa Cai-rô và Đa-mát.
Sau những cuộc thực tập “Theo dõi”, học thêm đạo Hồi với căn cước giả, Ê-li Cô-hen đã biến thành Ca-man A-min Ta-áp, trở thành học trò của một pháp sư A-rập người Đa-mát. Hàng ngày, y buộc phải nghe nhiều lần đài phát thanh Đa-mát để tiếp thu âm điệu tiếng Xy-ri và theo dõi tình hình thường xuyên của nước này.
https://thuviensach.vn
Từ đó, Ê-li có một thời gian biểu lu bu: sang làm việc từ sớm và thường kéo dài mãi tới đêm khuyu. Những chuyên viên của Cục tình báo dạy y cách dung các loại đài phát, từ máy phát chuyên dụng đến máy bí mật nhỏ xíu thường dùng trong các công tác gián điệp. Là một điệp viên đơn tuyến, một mình Ê-li theo học mật mã với huấn luyện viên để sau này dùng trong các lần phát tin bí mật. Vì đã theo học nhiều lớp về điện đài khi còn ở Aléc xăng-đơ-ri, cho nên Ê-li học kỹ thuật điện đài không khó khăn gì. Huấn luyện viên của Ê-li sung sướng nhận thấy Ê-li có bàn tay nhẹ nhàng và “cách đánh dịu dàng” (ý nói y sử dụng ma-níp khéo léo), chi tiết ấy sau này sẽ có những hậu quả đáng kể. Ê-li thực tập nhiều kỹ thuật khác nhau, tháo lắp các đài phát bé bằng bao thuốc là và dễ tìm nơi cất giấu thích hợp như giấu trong máy cạo râu hoặc nơi để các dụng cụ gia đình. Những máy ảnh trước kia Ê-li dùng để chơi nay cũng trở thành những vật dụng nghề nghiệp. Ngoài ra người ta còn dạy y dùng máy quay phim nhỏ là loại dùng để quay những phim bé tí xíu.
Y ngồi một mình hang giờ liền trong một buồng chiếu bóng nhỏ ở Ten A-víp để theo dõi trên màn ảnh những phim riêng gồm những cuộn phim sao lại của đài vô tuyến truyền hình Xy-ri và những tài liệu về đời sống của Xy-ri, những phim ảnh bí mật chụp về quân đội cũng như các cuộc duyệt binh của các lực lượng vũ trang Xy-ri.
Đồng thời điệp viện tương lai còn phải nghiên cứu sâu sắc về tình hình chính trị của Xy-ri. Y đọc rất nhiều sách, truyện, báo chí, thuộc lòng ngày tháng và tình hình chi tiết của một vài sự kiện chính trị. Y tự mình theo dõi thời sự hàng ngày của Xy-ri.
Sự kiện chính trị quan trọng nhất trong năm 1960 đối với I-xra-en, là tình hình ngày càng căng thẳng ở biên giới với Xy-ri. Sau khi các sư đoàn của tướng Mô-sê Đay-an đánh bại quân đội Ai Cập tại Xi-nai, tình hình có dịu đi ở dọc biên giới I-xra-en – Ai Cập, ngược lại tình hình biên giới giáp với Xy-ri lại càng nóng bỏng.
https://thuviensach.vn
Thủ tướng I-xra-en, Ben Gu-ri-ôn không hề che giấu sự lo lắng về diễn bến tình hình. Ngày 17 tháng 1 năm 1960, ông đệ trình lên chính phủ họp tại Giê-ru-xa-lem dưới quyền chủ toạn của ông một bản báo cáo chi tiết. Theo ý ông, I-xra-en bất đắc dĩ bị đẩy vào một tình thế ngày một, ngày hai phải chiến đấu. Căn cứ vào số liệu do Cục tình báo cung cấp, ông ta thông báo cho chính phủ biết số lượng lớn vũ khí tối tân được nhập vào Ai Cập và Xy-ri.
So sánh lực lượng ở Trung Đông thường xuyên phát triển có hại cho I xra-en, Ben Gu-ri-ôn tuyên bố trước các bộ trưởng và hướng về viên sĩ quan cao cấp phụ trách cục quân báo Mô-đi-in, yêu cầu cung cấp cho Hội đồng bộ trưởng những số liệu chính xác về dụng cụ chiến tranh mới nhập vào nước Cộng hòa A-rập Thống nhất. Nhân dịp này, Ben tỏ ý rất tiếc về tình trạng dân chúng I-xra-en không hề nhận thấy cái gì đang âm ỷ trong các thủ đo A-rập láng giềng và ông tuyên bố: “Sự thờ ơ lãnh đạm cũng là kẻ thù nguy hiểm của nền an ninh quốc gia”.
Trong phần kết luận của bản báo cáo, Ben tuyên bố I-xra-en cần phải cố gắng gấp đôi để kiếm những nguồn cung cấp vũ khí mới và hoàn thiện những nguồn tin tức để có thể dự đoán trước và kịp thời các âm mưu quân sự của Xy-ri hoặc của Ai Cập.
Hai tuần sau chứng minh nhận định của Ben là đúng, Xy-ri vừa bố trí quân ở dọc biên giới, về phía đông nam hồ Xi-nê-rét. Sự căng thẳng tăng lên một cách lạ thường khi binh lính Xy-ri nổ súng về phía Ten-cát-dia và cũng lần đầu tiên, trên bầu trời thung lũng Giuốc-đanh xuất hiện các máy bay chiến đấu Mig-17. Lập tức, Không quân I-xra-en điều đến tại chỗ nhiều máy bay “Mi-xte” do Pháp sản xuất, để đánh đuổi các máy bay Xy-ri.
Ngày 3 tháng 1 năm 1960, tại Tổng hành dinh, viên tư lệnh khu Bắc I xra-en nói với các sĩ quan của mình đang cúi xuống bản đồ tác chiến: “Chính phủ đã quyết định phải bảo vệ hiện tình ở khu này, bằng bất cứ giá nào”. Vừa nói, ông vừa đặt trước mặt các sĩ quan nhiều mảnh đạn súng sớn
https://thuviensach.vn
mà ngay sáng nay, Xy-ri đã bắn sang phía Ten-cát-dia – Từ năm 1957, Xy ri đã không công nhận đường biên giới quốc tế phân chia ranh giới hai nước chúng ta. Thái độ của chúng đã được Ai Cập ủng hộ. Chúng ta công nhận biên giới này và chúng ta sẽ bảo vệ đường biên giới đầu tiên bằng pháo binh của ta, nếu cần. Ông nói thêm với các sĩ quan như vậy.
Không quá hai tiếng sau, một người dân I-xra-en bị chết và hai người khác bị thương trong cuộc bắn súng lớn của Xy-ri sang Ten-cát-dia. Đêm sau, quân đội I-xra-en đánh lại, thực hiện cuộc hành quân trừng phạt đầu tiên kể từ chiến dịch Xi-nai, lần này đánh sang đất Xy-ri.
Sắp nửa đêm, lữ đoàn Gô-la-ni hành quân sang phía Xy-ri trên đồi Ta oa-phích, nơi pháo binh Xy-ri đã bắn sang Ten-cát-đia. Suốt đêm hôm ấy, tiếng trong pháo và súng máy nổ dữ dội và không ngớt trong thung lũng Giuốc-đanh.
Trong trận này, lữ đoàn Giô-la-ni mang về một số xe bọc thép và vũ khí hạng nặng cũng như nhiều chiến lợi phẩm khác.
Ê-li Cô-hen là một trong những người đầu tiên được ngắm nghía số chiến lợi phẩm đố. “Sự thắng lợi ở Ta-oa-phích là đúng” – huấn luyện viên giải thích cho Ê-li – vì quân đội I-xra-en đã biết rõ số vũ khí đạn dược và quân số mà Xy-ri tập trung ở vùng này. Do đó, chúng ta có khả năng chiếm các đồn ở Ta-oa-phích trong không đầy mười bốn giờ. Đéc-vi-sơ giải thích thêm: “Để mở đầu, chúng ta đã loại ngay khỏi vòng chiến pháo binh của Xy-ri bằng những đường đạn bán chính xác, nhờ đã biết rõ ràng nơi bố trí của các cỗ pháo đó. Tóm lại là như thế đấy”.
Bài học mà Đéc-vi-sơ muốn dạy cho Ê-li ngay trong khi hãy còn ở bên này biên giới I-xra-en là:
- Những thắng lợi như chúng ta vừa thu được ở Ta-oa-phích sẽ còn lặp lại nếu ta biết thật chính xác, kịp thời tình hình Xy-ri, những đơn vị đóng
https://thuviensach.vn
dọc biên giới của ta, địa điểm chính xác những công sự và sự di chuyển của các đơn vị tiếp viện. Đây sẽ là nhiệm vụ thiết yếu của anh khi anh ở phía bên kia biên giới.
Suốt cả đêm hôm ấy, cùng đi với huấn luyện viên tới một tiền đồn ở I xra-en, đột nhiên Ê-li đã nảy ra ý định vượt biên giới rồi vào nằm tại Đa mát. Y không hiểu rằng y còn phải qua qua lại lại nửa trái đất trước khi mạo hiểm trên các đường phố, các Bộ và các Tổng hành dinh ở Đa-mát.
Ít lâu sau cuộc hành quân ở Ta-oa-phích, một sự kiện khác xảy ra khiến cho Ê-li phải nghiên cứu kỹ những thủ đoạn tình báo của Cộng hòa A-rập Thống nhất.
Ngày 8 tháng 2, sau vụ Ta-oa-phích một tuần, bộ trưởng bộ Quốc phòng Xi-mê-ôn Pê-rét cho biết I-xra-en đã kêu gọi nhiều nước để xin vũ khí hạng nặng và xe tăng để tự vệ, nhưng đều bị từ chối. Chẳng có một nước nào chịu để lọt tai những lời tuyên cáo của I-xra-en rằng Ai Cập có trong tay một số xe tăng lớn hơn số lượng xe tăng của các đạo quân Đức và Anh đánh nhau trong cuộc chiến tranh ở sa mạc Bắc Phi hồi đại chiến thứ hai. Trừ có Pháp cung cấp máy bay cho họ, còn các nước khác đều từ chối không chịu cấp cho I-xra-en những vũ khí cần thiết.
Bộ tham mưu hợp nhất của các lực lượng vũ trang Cộng hòa A-rập Thống nhất vẫn tiếp tục làm chủ tình hình và chỉ huy các cuộc hành quân của bộ đội Xy-ri ở biên giới phía bắc I-xra-en. Ngày 13 tháng 2, bỗng nhiên có tin Nát-xe bất ngờ tới Đa-mát. Vì biện pháp an ninh nên người ta không báo trước khi ông rời Cai-rô và chỉ sau khi máy bay hạ cánh, người ta mới báo tin ông tới Đa-mát. Ông Nát-xe chắc chưa quên vụ phá hoại bí mật xảy ra cũng trên đường bay này vào sáng sớm 29 tháng 10 năm 1956, một máy bay trên có quá nửa bộ tham mưu Ai Cập từ Đa-mát đi Cai-rô đã rơi xuống Địa Trung Hải gần bờ biển I-xra-en.
https://thuviensach.vn
Ít lâu sau, Cục tình báo I-xra-en mới biết là trong chuyến Nát-xe đi Đa mát, một cuộc chiến tranh xuýt nổ ra giữa Cộng hòa A-rập Thống nhất và I xra-en, do có nguồn tin báo rằng I-xra-en “đang tập trung quân đội suốt dọc biên giới Xy-ri”.
Sau khi quân Đa-mát và biết “tin” này, Nát-xe lập tức ra lệnh cho các sư đoàn thiết giáp của ông ở phía trên kênh Xuy-ê bí mật tiến về Ga-đa và phía nam biên giới I-xra-en. Bốn trăm xe tăng hạng nặng của Ai Cập liền vượt kênh Xuy-ê và trong đêm 24 rạng 25 tháng 2 năm 1960 mở hết tốc lực vượt qua sa mạc Xi-nai. Quân đội Ai Cập đã lợi dụng bài học năm 1956 và sau khi đã cắt mọi liên lạc bằng vô tuyến điện giữa các đơn vị thiết giáp, đoàn xe tăng đã tới biên giới I-xra-en. Quân đội Ai Cập tin rằng cuộc di chuyển quy mô lớn này có thể giữ được bí mật.
Người ta dễ hình dung được tình trạng kinh hoàng của I-xra-en nếu cuộc điều động các sư đoàn xe tăng trên biên giới I-xra-en có thể làm được một cách bí mật. Nhưng mà lúc xe tăng Ai Cập vượt kênh Xuy-ê thì I-xra en đã biết rồi. Lệnh báo động được phát ngay nhờ có một chuyến bay thám
thính của không quân I-xra-en đã cung cấp cho bộ tham mưu những ảnh chụp từ trên cao rất chính xác cuộc vận chuyển to lớn của xa tăng địch qua bãi sa mạc.
Khi các lực lượng Ai Cập gồm có các xe tăng T34, T54 và các súng cống xe tăng S.U.100 cùng ba sư đôàn bộ binh bố trí trên sa mạc gần biên giới GGa-đa, họ không khỏi ngạc nhiên khi thấy trước mắt họ một lực lượng I-xra-en hùng mạnh cũng đang được bố trí.
Sau khi đã bố trí xong binh lực cần thiết để ứng phó với Xy-ri và Ai Cập, chính phủ I-xra-en mới quyết định tránh chiến tranh. Muốn thế thì phải tỏ cho Đa-mát và Cai-rô thấy rằng họ đã bị cơ quan tình báo của họ báo cáo sai.
https://thuviensach.vn
Thủ tướng kiêm bộ trưởng Quốc phòng Đa-vít Ben Giu-ri-ôm quyết định cùng với Tổng tham mưu quân đội Hay-im Lát-xcốp đi Ten A-víp dự buổi biểu diễn kịch câm Pháp của Mác-xen Mác-xô. Hai ngày sau, ông ta chính thức tuyên bố trong tuần tới sẽ đi thăm Ca-na-đa và Mỹ.
Kết quả của quyết định này đã làm cho “tình trạng căng thẳng” xẹp ngay xuống. Quân đội Ai Cập rút khỏi Xi-nai và quay về bên trong kênh Xuy-ê. Chỉ còn Xy-ri để một bộ phận quan trọng quân đội đóng tại chỗ trên vùng biên giới giáp I-xra-en và tuyên bố họ sẽ phát động “chiến tranh thần thánh chống I-xra-en”.
Ê-li Cô-hen nhận được bản chỉ thị về quân sự và chiến lược, trong đó có phân tích về cuộc chiến tranh hụt đó như sau:
a - Xy-ri đã trở thành trung tâm chính của I-xra-en. Do đó mọi tin tức dù thuộc bất cứ loại nào liên quan đến tình hình Xy-ri đều có giá trị sống chết đối với I-xra-en;
b – Dành ưu tiên tuyệt đối cho các tin tức về âm mưu bất ngờ đánh I xra-en;
c – Điều kiện cần thiết cho cơ quan tình báo I-xra-en muốn hoàn thành chức trách một cách tốt nhất là các tin tức, báo cáo phải chính xác và kịp thời.
https://thuviensach.vn
VIII. Hoạt động ở Bu-ê-nốt Ai-rét
Tháng hai năm 1961, Ê-li Cô-hen tới Bu-ê-nốt Ai-rét, thủ đô Ác-hen-ti na, bằng máy bay. Kể từ hôm ấy y thực không còn là y nữa. Mang hộ chiếu với cái tên Ca-man Ta-áp, con trai của A-min, y trở thành một dân di cư A rập như trăm ngàn người A-rập khác đã chọn Bu-ê-nốt Ai-rét làm nơi thử
thời vận của mình. Nhưng hộ chiếu của Ê-li tới Bu-ê-nốt Ai-rét là hộ chiếu của một nước Nam Mỹ có thị thực quá cảnh của Ác-hen-ti-na. Ê-li có cả vé máy bay đi Chi-lê. Lợi dụng thị thực quá cảnh đó, y dừng lại Bu-ê-nốt Ai rét trong nhiều tháng. Theo chỉ thị của Ten A-víp, Ê-li sẽ ở lại đây để giới thiệu và thêm thắt cho vai trò giả của mình. Ê-li cũng phải tìm cách xoay lấy hộ chiếu Ác-hen-ti-na thật mang tên Ca-man A-min Ta-áp.
Khi máy bay hạ cánh xuống sân bay Bu-ê-nốt Ai-rét, không có ai đón Ê-li Cô-hen cả. Y phải tự mình hành động ngay khi vừa đặt chân lên đất Ác-hen-ti-na và không bắt liên lạc với nhân viên tình báo I-xra-en lúc đó có thể có mặt tại đây.
Quyết định cho Ê-li lên đường đã được cấp trên của y duyệt vào tháng chạp 1960. Căn cứ vào những kết quả rực rỡ qua những lần học tập và các khả năng của E-li từ ngày Đéc-vi-sơ biết y, các sếp của Cục tình báo I-xra en quyết định:
1 – Ê-li được “cắm” vào Xy-ri lâu dài;
2 – Phải tạo ra một cái “vỏ bọc” có thể giúp cho y xâm nhập nội bộ chính phủ Xy-ri khi có thời cơ.
Khi có các quyết định này thì Ê-li Cô-hen cũng đã học tập xong. Suốt hai tháng trước ngày lên đường, y chuyên vào hai việc nặng nhọc không kém những việc trước kia. Một là nghiên cứu thật sâu nhân vật Ca-man A-
https://thuviensach.vn
min Ta-áp. Hai là phải hiểu biết một cách cơ bản về những nước mà y sẽ đến sinh sống, trước hết là Ác-hen-ti-na.
Đại khái đây là nhân mật mà Ê-li sẽ phải đóng theo đúng kế hoạch do Đéc-vi-sơ đã vẽ ra một cách tương đối tỉ mỉ:
Cha của Ca-man là A-min Ta-áp, mẹ là Xi-i-a, tên hồi con gái là I-bơ ra-him. Hai người đã rời Xy-ri sang Li-băng kiếm cuộc sống sung sướng hơn. Con trai của ông bà này là Ca-man A-min Ta-áp đẻ tại Bi-ê-rút, thủ đô Li-băng, năm 1930 (so với ngày sinh thật của Ê-li Cô-hen thì kém sáu năm) Ca-man Ta-áp chỉ biết Đa-mát và Xy-ri qua lời bố mẹ kể cho nghe và những điều đã học ở nhà trường. Nhưng bố Ta-áp đã dạy y tình yêu tổ quốc Xy-ri. Trong nhiều năm, bố y đã là công dân nước Xy-ri và dặn con kiếm ăn ở nước ngoài khi nào giàu có thì trở về Xy-ri phục vụ Tổ quốc và chiến đấu bên cạnh các nhà quốc gia Xy-ri đang đấu tranh cho chính nghĩa.
Gia đình Ta-áp đã sinh sống tại A-lec-xăng-đơ-ri và đến năm 1947, người bố mở một cửa hiệu buôn tơ lụa nhỏ. Nhưng trước đó một năm, người em của ông ta đã di cư sang Ác-hen-ti-na và luôn luôn viết thư khuyên ông nên đi đến Bu-ê-nốt Ai-rét để cùng làm giàu. Năm 1947, bố Ta-áp đem cả gia đình sang Ác-hen-ti-na với người em, rồi cùng một người bạn nữa mở một hiệu buôn tơ lụa ở Bu-ê-nốt Ai-rét, phố Lơ-ga-đi. Nhưng chỉ vài năm cửa hiệu này vỡ nợ.
Năm 1956, mẹ Ca-man Ta-áp chết và nửa năm sau đến người bố. Ca man Ta-áp sống với chú một thời gian nữa và đi làm cho một đại lý du lịch tên là “Ma-ra-đi”. Sau cùng Ca-man A-min Ta-áp trở thành ông chủ một công ty xuất nhập khẩu quan trọng.
Nhưng khi đến Bu-ê-nốt Ai-rét, Ê-li Cô-hen (tức Ta-áp) sẽ phải thêm thắt chi tiết để câu chuyện kinh doanh phát tài như thế nào cho có thể tin được.
https://thuviensach.vn
Bản lý lịch do Cục tình báo I-xra-en dựng lên cho người dân di cư Xy-ri Ca-man A-min T-áp nói đúng ra rất giản dị và phần lớn phù hợp với vai trò thật của Ê-li: y chẳng biết gì về Đa-mát cũng như Bi-ê-rút nhưng thực tế đã sống tại A-léc-xăng-đơ-ri cả thời niên thiếu và biết rất rõ bãi cảng này.
Nhưng cái tiểu sử này bắt buộc Ê-li phải hiểu rõ cả Bu-ê-nốt Ai-rét. Nơi Ta-áp đã từng “sống” hồi mười bảy tuổi. Tập hồ sơ người ta trao cho Ê-li ở Ten A-vip để y học thuộc lòng có ghi rõ từng chân tơ kẽ tóc. Cục tình báo cũng có sáng kiến trao cho Ê-li một quyển ảnh trong đó có những bức ảnh ghép ghi lại đời sống của gia đình Ta-áp, có những bức ảnh của y ở Bu-ê nốt Ai-rét, cùng với bố mẹ và chú y. Không có gì thiếu sót. Nhân vật giả Ca-man A-min Ta-áp được tô điểm thêm với những chi tiết phong phú, y như thật và rất cụ thể.
Ê-li Cô-hen nói tiếng Tây Ban Nha tàm tạm được nhưng so với những người đã từng sống nhiều năm ở Ác-hen-ti-na thì còn kém. Như vậy lại phải dành những tuần cuối cùng trước ngày đi để theo gấp một lớp học tiếng Tây Ban Nha.
Khi huấn luyện xong, Ê-li còn phải làm đúng với vai trò của mình đến nỗi sinh ra nhiều khó khăn trong quan hệ với vợ mà tối nào y cũng gặp tại nhà. Ngay cả khi vợ và các bạn gọi y là Ê-li, y cũng không có phản ứng gì. Một hôm Ê-li bắt buộc phải nói với huấn luyện viên rằng: “Ở nhà, tôi hết sức cố quên rằng hiện nay tôi là Ca-man Ta-áp. Tôi cố giữ ý tứ trong quan hệ với vợ tôi, nhưng nào có phải dễ đâu. Ngay từ bây giờ, phần lớn thời gian của tôi, tôi phải ăn ở, cư xử như Ca-man Ta-áp. Trong điều kiện như thế, làm thế nào để trở lại là Ê-li Cô-hen, trong vài tiếng tại gia đình? Thật là gay go quá!”.
Về sau này Ê-li hết sức ngạc nhiên được nghe chính Na-đi-a nói rằng ngay từ thời kỳ trước khi y đi Ác-hen-ti-na cô đã biết rõ tất cả. Cô đã linh cảm rằng chồng cô có sự thay đổi gì sâu sắc lắm đây và việc nay mai đi ra nước ngoài mà chông cô đã nói cho biết, có nghĩa là một cuộc du lịch “ra
https://thuviensach.vn
ngoài bức màn bí mật nào đó”. Cũng như mọi phụ nữ I-xra-en khác trong hoàn cảnh tương tự, cô hình dung đó là một công tác bí mật với cơ quan an ninh I-xra-en và cũng không hỏi gì thừa cả.
Rõ ràng không phải là do sự tình cờ mà cấp trên của Ê-li lại đặt y vào Bu-ê-nốt Ai-rét. Việc lựa chọn này cốt tạo thuận lợi cho nhiệm vụ lây dài của Ca-man Ta-áp ở Xy-ri.
Thật vậy, Bu-ê-nốt Ai-rét là một trung tâm di cư A-rập quan trọng và có đến hàng vạn gia đình gốc Xy-ri. Cục tình báo I-xra-en mơ ước trong những người dân Xy-ri này có những người sẽ tạo điều kiện cho Ê-li những quan hệ chính trị mà y cần đến khi đã thu xếp xong nơi ăn chốn ở tại Đa mát.
Như khắp mọi nơi trên thế giới, dân di cư người A-rập ở Bu-ê-nốt Ai rét cũng bắt chước dân di cư của các nước khác tổ chức nhau lại thành những câu lạc bộ và hội quán kín. Ở Bu-ê-nốt Ai-rét, dân di cư gốc Xy-ri cũng thành lập những “hội đồng hương”, một tổ chức đại loại gần giống như các “hội ái hữu” Do Thái ở Mỹ hay ở châu Âu. Tổng số kiều dân gốc gác tứ xứ sống ở Bu-ê-nốt Ai-rét len tới gần nửa triệu, bên cạnh số dân A rập ít ỏi, người ta còn thấy một đoàn dân di cư quan trọng người Do Thái, phần đông gốc Âu, nhưng trong số này cũng có một số dân Do Thái góc Á châu. Nhiều gia đình Do Thái bị xua đuổi khỏi các nước A-rập như là Xy-ri hoặc Ai Cập, hoặc phải bỏ những xứ này vì sợ những thủ đoạn phân biệt chống Do Thái, đều muốn sinh cơ lập nghiệp ở Nam Mỹ hơn là di cư về I xra-en. Cho nên có những người A-rập và người Do Thái cùng ở một nước đến, cùng buôn bán như nhau hoặc làm những nghề tự do, đều giữ những quan hệ bạn bè như những người “đồng hương”. Sự hận thù chống Do Thái của những người A-rập Xy-đi hay Ai Cập cũng thường dịu bớt đi khi họ đều là dân di cư ở xa tổ quốc hàng vạn cây số.
Ngay Ác-hen-ti-na, một nước thu hút một lượng dân di cư khá lớn và đủ các gốc gác, vẫn không hoàn toàn đồng hóa nổi những người di dân A-
https://thuviensach.vn
rập và Do Thái và cả hai số dân nhỏ bé này đều giữ được bản chất dan tộc của họ, nhất là ở Bu-ê-nốt Ai-rét họ nói không thạo tiếng Tây Ban Nha và từ chối những phong tục Nam Mỹ. Pháp luật Ác-hen-ti-na đã toan đấu tranh với những tình trạng này để dễ dàng lôi cuốn và đồng hóa những người di cư mới nên hộ chiếu của chính phủ Ác-hen-ti-na cấp cũng chẳng ghi rõ quốc gia gốc và cả tôn giáo của người mang hộ chiếu nữa. Việc này thật là quý giá vô cùng cho mọi hạng người muốn bí mật rời bỏ xứ sở của mình và dưới một căn cước mới, biến vào cái nước Nam Mỹ này …
Qua đó người ta hiểu tại sao sự lựa chọn của Cục tình báo I-xra-en lại nắm vào Bu-ê-nốt Ai-rét. Tại thủ đô này Ê-li Cô-hen gặp nhiều may mắn. Một ngày nào đó y xuất hiện với một căn cước giả mạo sẽ không gây nên sự lo ngại nào trong các bạn “đồng hương” người Xy-ri của y.
Nhưng cục tình báo Ten A-víp cũng biết rằng bên cạnh những thuận lợi đồng hóa mà nhân viên của họ có được ở Bu-ê-nốt Ai-rét, thì ở đấy họ còn phải đối phó với bao nhiêu phức tạp và nguy hiểm của các cơ quan phản gián A-rập, nhất là với các phái viên bí mật của cơ quan phản gián Xy-ri. Ở tất cả các nước châu Mỹ la-tinh, các đại sứ quán A-rập đều giấu rất nhiều nhân viên. Hơn nữa, những đại sứ quán này còn duy trì những cơ quan đặc biệt tuyên truyền chống I-xra-en, cốt để đối phó với sự tuyên truyền thân I xra-en đang tiến hành một cách rất hiệu nghiệm trong đám dân chúng Do Thái có uy tín ở gần khắp các thủ đô ở Nam Mỹ.
Một sự kiện xảy ra năm 1964 đã làm hoạt động của cơ quan phản gián A-rập ở Ác-hen-ti-na nổi tiếng và cho thấy, cuộc chiến tranh bí mật mà các cơ quan đặc biệt I-xra-en và A-rập đang tiến hành, đôi khi tác động ngay đến cả những nơi ở cách rất xa vùng Trung Đông.
Ngày 17 tháng Giêng năm 1964, hồi 10 giờ 37 phút, một máy bay mang màu cờ của không quân Ai Cập hạ cánh xuống một sân bay quân sự ở phía nam I-xra-en. Từ chiếc máy bay này xuất hiện một phi công mang quân hàm đại úy.
https://thuviensach.vn
“Tôi bỏ hàng ngũ không quân Ai Cập. Tôi xin được quyền cư trú ở I xra-en”, viên đại úy này khai với các phi công I-xra-en khi vừa xuống tới đất.
Buổi sáng ngày 17 tháng Giêng, đại úy Ma-mút Hin-mi, 36 tuổi bay từ sân bay quân sự Bin-bét, ở phía trên kênh Xuy-ê ở Ai Cập. Với tư cách là huấn luyện viên Hin-mi đổ đầy nhiên liệu vào máy bay, lấy cớ là bay tập, bay qua bãi sa mạc Xi-ani để hạ cánh xuống sân bay I-xra-en đầu tiên phát hiện ra máy bay của hắn. Nhiều máy bay loại Mig của không quân Ai Cập bay lên đuổi bắt, nhưng hắn ta cũng tránh thoát và vượt biên giới I-xra-en, an toàn. Tất cả những hành động này chỉ mất 1 giờ 15 phút.
Việc bỏ trốn của đại úy Hin-mi bằng máy bay là sự thất bại về tâm lý và đạo đức đối với Ai Cập.
Hôm đại úy Hin-mi bổ trốn, các nhà chức trách Ai Cập thề sẽ trừng phạt Hin-mi. Rồi lời thề được thực hiện còn sớm hơn cả Ai Cập dám mong muốn lúc đầu. Cuộc trừng phạt thật đáng sợ.
Ma-mút Hin-mi ở I-xra-en được sáu tháng, được các đồng nghiệp I-xra en chiều chuộng mời tiệc tùng, chè chén lu bu, nhiều lần y được ngồi ăn một bàn với tướng E-de Oét-đơ-man, Tổng chỉ huy không quân I-xra-en. Trong vòng sáu tháng, y ngỏ ý muốn bí mất sang Ác-hen-ti-na và đề nghị nhà cầm quyền I-xra-en giúp đỡ.
Các nhà chức trách không phản đối ý định của Hin-mi. Người ta xoay xở giấy tờ căn cước cần thiết cho hắn ta và không những thế còn kiếm cho hắn một việc làm ở Ác-hen-ti-na, một chân lái máy bay dân dụng về nông nghiệp ở ngoại ô Bu-ê-nốt Ai-rét, lương tháng trung bình gần một nghìn đô-la, quá đủ cho một anh chưa vợ như hắn.
Tháng 6 năm 1964, Hin-mi mang một căn cước giả rời I-xra-en bằng đường hàng không. Trên đường đi Ác-hen-ti-na và ngay khi tới Bu-ê-nốt
https://thuviensach.vn
Ai-rét, hắn đã mắc phải hai sai lầm không sao sửa được, mặc dù đã nhiều lần được Cục tình báo I-xra-en nhắc nhở.
Máy bay vừa hạ cánh xuống sân bay một thủ đô châu Âu, Hin-mi vội vã chạy vào phòng quá cảnh bỏ một bưu thếp gửi cho mẹ già ở Cai-rô. Do hành động không suy nghĩ này mà Cục tình báo Ai Cập chả có khó khăn gì cũng biết là Hin-mi đã đi khỏi I-xra-en.
Tại Bu-ê-nốt Ai-rét, Hin-mi phải ở lại thủ đô vài ngày và ở một khách sạn. Hôm sau, hắn quyết định sẽ chén cho đã một bữa cơm Á tại một nhà hàng ăn A-rập ở Bu-ê-nốt Ai-rét. Ở đây, y làm quen một gái điếm gốc Ai Cập. Đáng lẽ ra thì phải cảnh giác với ả này, nhưng y đã mắc sai lầm ác nghiệt là đêm ấy đã nói tuốt với ả gái điềm tung tích thật của hắn và việc hắn bí mật trốn khỏi I-xra-en.
Hin-mi không bao giờ trở lại khách sạn nữa, ở đấy, chỉ còn hành lý và giấy tờ căn cước của hắn.
Ít hôm sau, vào đầu tháng bảy, ông Lơ-vi E-xcôn, thủ tướng I-xra-en tới Pa-ri để gặp tổng thống Đờ Gôn. Máy bay hạ cánh xuống sân bay Oóc-li chừng vài phút, khi ông ta còn ngồi ở trong một căn nhà gỗ kiến trúc theo kiểu nông thôn Nga nổi tiếng dành cho khách danh tiếng, người ta trao cho ông một bức điện của Cục tình báo I-xra-en: Hin-mi mất tích! Không nghi ngờ gì nữa, hắn đã bị Cục công tác đặc biệt Ai Cập ở Ác-hen-ti-na tóm cổ. E-xcôn lập tức ra lệnh điều tra xem có phải do những cơ quan có thẩm quyền được giao cho lo việc của Hin-mi đã mắc sai lầm hay có sơ xuất không.
Kết quả của cuộc điều tra được đưa lên thủ tướng E-xcôn đã khẳng định, cục tình báo I-xra-en không có sơ suất gì và riêng mình Hin-mi phải chịu trách nhiệm về số phận đáng buồn của hắn. Bản báo cáo nêu thêm: Có lẽ cũng bổ ích khi phải ghi nhận rằng, Cục tình báo Ai Cập đã hành động với sự mau lẹ và hiệu quả nhất. Ngay cái đêm ngẫu nhiên với nàng –
https://thuviensach.vn
“khách trọ Ai Cập”, Hin-mi đã bị các nhân viên tình báo Ai Cập tóm cổ và nhốt trong nhà của đại sứ quán Cộng hòa A-rập Thống nhất ở Bu-ê-nốt Ai rét.
Vụ giải tên đào ngũ về Ai Cập kéo dài trong mười ngày. Hin-mi được đưa về A-léc-xăng-đơ-ri trên một tàu biển Ai Cập đậu ở một bến tàu Ác hen-ti-na. Hai tháng sau, thế giới được tin Hin-mi đã bị đem ra xét xử bí mật trước tòa án quân sự, bị kết tội đào ngũ và phản quốc. Hặn bị kết án tử hình và bị giết ở Cai-rô.
Người I-xra-en đã biết rõ sự có mặt và hoạt động của các cơ quan phản gián Ai Cập ở Ác-hen-ti-na. Rõ ràng vì thế nên người ta lo lắng hết mức về việc lên đường của Ê-li Cô-hen và chú ý tỉ mỉ tới việc thi hành kế hoạch hành trình của y, trong đó có dừng chân ở châu Âu.
Khi mọi việc đâu vào đấy, đến ngày khởi hành, E-li từ biệt vợ, con gái là Xô-phi và gia đình, hẹn chẳng bao lâu nữa sẽ trở lại sau khi làm xong công việc ở nước ngoài cho một “hãng buôn”. Hắn hứa sẽ luôn luôn thư từ và đã giữ lời hứa (Na-đi-a thực tế có nhận được thư từ tin tức của chồng, không phải từ Ác-hen-ti-na mà mỗi lần thư đều gửi từ châu Âu đến).
E-li Cô-hen sang sân bay Ly-da trong một chiếc xe nhỏ không có biển số của Cục tình báo do một thanh niên tên là Ghi-đê-ông lái. Một va-li tàng tàng, một hộ chiếu làm đúng tên thật và một phong bì trong có 500 đô-la do Ghi-đê-ông trao, Ê-li qua hải quan không phải kiểm soát và lên máy bay của công ty “En-An”. Theo chỉ thị của Đéc-vi-sơ, E-li sau khi tới Duy-rích (Thụy Sĩ) sẽ đáp chuyến xe buýt đưa hắn từ sân bay đến chỗ đỗ cuối cùng của thành phố.Ở đó, một điệp viên mà hắn không biết mặt, biết tên sẽ lo liệu cho hắn.
Ở Thụy Sĩ mọi việc đều diễn ra một cách tuyệt đối như vậy. Vừa ở trên máy bau xuống, E-li đáp chuyến xe khách tới nơi đỗ cuối cùng của thành phố trông sang Ba-nốp-xtrát. Ở đó, một người tuổi trung niên, ăn mặc lịch
https://thuviensach.vn
sự và nói tiếng Hê-bơ-rơ giọng lơ lớ Đức, tiến tới tự giới thiệu: “Tôi là Xa linh-gơ, I-xra-en Xa-linh-gơ, y vừa nói và vừa chìa tay bắt tay hắn. Rồi Xa linh-gơ lái xe dẫn Ê-li đến khách sạn, ở gần hồ Duy-rích.
E-li Cô-hen ở Duy-rich ba ngày, và hàng ngày gặp Xa-linh-gơ, liên lạc viên thường trực của Cục tình báo I-xra-en ở châu Âu. Ẩn dưới “vỏ bọc” chắc chắn là Giám đốc một hãng xuất nhập khẩu loại lớn. Xa-linh-gơ có nhiệm vụ truyền lại cho Ê-li chút ít giáo huấn sơ đẳng về thương mại. Ở Bu-ê-nốt Ai-rét, Ca-man A-min Ta-áp đứng đầu một hãng vận tải đường thủy và hàng không, mà đại diện ở châu Âu và đặc biệt là ở Duy-rích, chính là Xa-linh-gơ. Vì thế, ít nhất trên lý thuyết thôi anh chàng Ca-man Ta-áp cũng phải hiểu biết công việc này làm ăn ra sao, phải học qua ít kỹ thuật về hoạt động của ngành và ít nhất là phải sử dụng được ít danh từ đặc biệt thường dùng trong loại công ty như thế này.
Xa-linh-gơ trao cho Ê-li một quyển “séc” của ngân hàng có tiếng ở Duy-rích mà hắn đã cẩn thận mở một tài khoản ở đây đứng tên Ca-man Ta áp. “Tất cả các doanh nghiệp ở Nam Mỹ đều có tài khoản ở Thụy Sĩ”. Xa linh-gơ giải thích.
Ngày thứ ba là ngày cuối cùng, hai người cùng đi quanh các cửa hàng bán quần áo nam ở Ba-nốp-xtrát và Ê-li mua một túi đủ các quần áo mang nhãn hiệu Thụy Sĩ, từ tá mùi soa và vài cái ca-vát đến bộ com-lê, áo ba-đờ xuy và hai đôi giày.
Sau cùng Ê-li trao lại cho Xa-linh-gơ các giấy tờ căn cước của I-xra-en và các quần áo cũ may theo kiểu I-xra-en, không giữ lại thứ gì có thể để lộ dấu vết của xứ sở gốc của hắn. Mang hộ chiếu Nam Mỹ với tên Ta-áp, một vé máy bay đi Bu-ê-nốt Ai-rét, Ê-li sửa soạn lại va-ly toàn quần áo mua ở Duy-rích và sau khi nhận của Xa-linh-gơ số của một hòm thư mà ở đó, có thể gửi thư từ cho Na-dia, hắn đi ra sân bay một mình.
https://thuviensach.vn
Ba ngày sau khi tới Duy-rích, E-li Cô-hen đã chính thức trở thành Ca man A-min Ta-áp đáp máy bay từ Duy-rích đi Pa-ri, ở lại sân bay Oóc-li vài tiếng đồng hồ không gặp ai, rồi sau cùng đáp máy bay đi Ac-hen-ti-na.
Sau này Ê-li kể lại với Đéc-vi-sơ “Trong suốt cả chuyến bay dài dằng dặc này, tôi không thể nghĩ đến việc gì ngoài vụ bắt tên Ếch-sơ-man.
Được Cục tình báo I-xra-en tuyển dụng vào thời kỳ bắt cóc tên A-đôn phơ Ếch-sơ-man (Đồ tể Do thái-Tội phạm chiến tranh), trước khi đi Ten A víp ít ngày, y được mời dự một buổi họp của bọn điệp viêp Cục tình báo mới tuyển dụng. Trong buổi họp, người ta nói lại với bọn này tình hình diễn
biến xác thực và chi tiết vụ bắt có diễn ra ở Bu-ê-nốt Ai-rét trước đó ít lâu. Như vậy Co-hen từ nguồn tin đầu tiên đã biết mọi chi tiết của vụ này, những chi tiết chưa từng được công bố ở I-xra-en và trên thế giới. Bay dọc bờ biển Ac-hen-ti-na đến Bu-ê-nốt Ai-rét. Ê-li nhớ lại những chi tiết của vụ bắt cóc.Y có cảm tưởng đang đi ngược lại con đường của Ếch-sơ-man, bị nhân viên tình báo I-xra-en bao vây, trên máy bay của hãng “En-An” từ Bu ê-nốt Ai-rét đi Ly-da.
“Câu chuyện của vụ bắt cóc này đã tiếp thêm can đảm cho tôi – Ê-li nói với Đéc-vi-sơ. Do có vụ này, tôi thấy rằng Cục tình báo của ta có thể làm được những việc khó hơn. Việc này làm cho cho tôi thêm tin tưởng, lúc tôi bay tới phía thù nghịch…”
Ngay ở sân bay Bu-ê-nốt Ai-rét, hắn còn để ý tới những chiếc máy bay trên sân, cố bày lại trong trí tưởng tượng chuyến bay của hãng En-An mang theo trong khoang “kiện hàng-quí giá” của Cục tình báo I-xra-en.
Đặt chân lên Bu-ê-nốt Ai-rét, sau khi xuất trình hộ chiếu, Ê-li xách một va-li nhỏ, vượt qua hàng rào chính và đi về phòng thông tin du lịch. Người ta chỉ cho hắn một khách sạn ở thành phố, ở đây hắn thuê được buồng ở dễ dàng.
https://thuviensach.vn
Không có ai chờ hắn ở sân bay cả. Một chiếc xe tắc xi chở hắn tới trước một khách sạn loại vừa, ở đại lộ trung tâm Bu-ê-nốt Ai-rét là Nu-ê-vô-đen Giu-li-ô (đại lộ ngày 9 tháng 7). Hắn thê một phòng có buồng tắm trong thời gian một tuần lễ.
Đây là một đường phố lớn do Tổng thống Pê-rông xây dựng theo kiến trúc :Săng Ê-li-dê” của Pa-ri. Ca-man A-min Ta-áp đi chơi bộ chuyến đầu tiên, cố gắng tìm hiểu tình hình của thành phố lớn này, là nơi hắn có nhiệm vụ phải tự tạo lấy thanh thế và sau cùng mở một con đường dẫn y đi Xy-ri.
Mãi sáng hôm sau, Ê-li mới có một cuộc gặp gỡ thứ nhất tối mật với một liên lạc viên địa phương. Ở Duy-rích, Xa-linh-gơ đã dặn y sau hốm đến phải có mặt ở quán cà phê Cô-rin-tát ở đại lộ Mồng 9 tháng 7, hồi 11 giờ sáng. Xa-linh-gơ cũng cẩn thận nhắc đi nhắc lại rằng, việc tiếp xúc này, tuy cần thiết nhưng phải hết sức nhanh chóng, tránh sự theo dõi có thể có của cơ quan phản gián Ai Cập và Xy-ri.
Ê-li tới hiệu cà phê Cô-rin-tát trước 11 giờ. Ngồi chưa nóng chỗ và uống xong tách cà phê thì một người trach sáu lăm tuổi, tóc bạc phơ đẹp như cước, lại gần hắn, tự giới thiệu tên là “A-bơ-ra-ham” và bắt tay hắn giống như Xa-linh-gơ ở Duy-rích. Lão già này nhận ra Ê-li nhờ một tấm ảnh do Cục tình báo Ten A-víp đưa cho.
Cuộc trao đổi giữa hai người ngắn gọn, họ nói với nhau bằng tiếng Tây ban nha. Đông đảo khách hàng của tiệm lớn này không biết rằng, ngay trước mặt họ đang bắt đầu một trong những hoạt động lớn nhất của thế kỷ này.
Sau vài lời trao đổi chúc mừng, A-bơ-ra-ham đưa cho Ê-li một tờ báo, trên lề đã ghi một địa chỉ, giải thích cho Ê-li là phải tìm đến địa chỉ này, ở đây có thể thuê một căn nhà có đồ đạc sẵn khá sang trọng. Rồi ông ta dặn miệng với Ê-li địa chỉ một giáo sư dậy tiếng Tây Ban Nha và nói thẳng: Anh nói dậy tiếng Tây Ban Nha còn tồi lắm và cần học thêm ít bài học nữa.
https://thuviensach.vn
A-bơ-ra-ham hẹn, thật họa hoằn ông ta mới gặp Ê-li và trong trường hợp khẩn cấp, sẽ cho y một số điện thoại để có thể gặp ông ta được.
Ê-li Co-hen còn phải thuộc lòng địa chỉ và số điện thoại của hãng giao dịch vận chuyển đường biển và đường không mà ở đây, người ta sẽ trả lời y vào bất kỳ lúc nào vì rằng “Ông Ta-áp là chủ nhân và là Tổng giám đốc của hãng”. A-bơ-ra-ham còn hứa với Ê-li ngày mai sẽ kiếm cho y một số danh thiếp và giấy có tiêu đề cần dùng.
A-bơ-ra-ham cho biết, trong hạn ba tháng, sẽ tìm cho người điệp viên I xra-en một hộ chiếu Ác-hen-ti-na mang tên Ta-áp. Và để kết thúc, A-bơ-ra ham trao cho Ê-li một mảnh giấy nhỏ trên có ghi những nhân vật A-rập sống ở Bu-ê-nốt Ai-rét, địa chỉ của họ và những chỉ dẫn cần thiết về “Câu lạc bộ Hồi giáo” ở thủ đô và các tiệm ăn A-rập, nơi gặp gỡ ưa thích của dân di cư Xy-ri và Li-băng.
“Hãy quan hệ thật nhanh với những nơi này và anh sẽ có những thư giới thiệu và gửi gắm với Đa-mát” A-bơ-ra-ham nói thêm. Sau khi bắt tay Ê-li, y đi khỏi bàn. Cả cuộc trao đổi giữa hai người không đầy mười lăm phút. Rồi như chợ nhớ tới điều gì, A-bơ-ra-ham quay lại, ghé sát vào tai Ê-li nói bằng tiếng Hê-bơ-rơ với nụ cười trên môi: Bê-hát-xla-ba (nghĩa là thành công).
Từ ngày ấy, vận may đã dẫn y từ thành công này đến thành công khác. Ngay trong tháng 2 năm 1961, Ê-li đã làm quen với một nhân vật quan trọng, người này chẳng biết y là ai, đã mở đường cho y đi Đa-mát.
Mới đến Bu-ê-nốt Ai-rét được một tuần, Ê-li Cô-hen tức Ca-min Ta-áp đã trở thành khách quen của “Câu lạc bộ Hồi giáo” do A-bơ-ra-ham giới thiệu. Hàng ngày y tới đây đọc các báo xuất bản ở Cai-rô và Đa-mát mà Câu lạc bộ dành cho khách và dễ dàng trở thành một thành viên của Câu lạc bộ. Y chuyện trò trao đổi, tất nhiên là bằng tiểng Ả-rập với cánh di cư Li-băng và Xy-ri trẻ tuổi luôn luôn chơi Sét-bét (một loại cờ đô-mi-nô) với
https://thuviensach.vn
họ, và cùng bọn họ ăn cơm tối thật khuya, như vẫn thường như thế ở Bu-ê nốt Ai-rét. Ta-áp nói ít thôi, nhưng thỉnh thoảng kín đáo để lộ một chi tiết nào đó về địa vị và cuộc đời của y, thỉnh thoảng lại nói cho cánh thanh niên này biết y là nhà buôn, đã gom góp được một số vốn nhỏ và điều ước mong quí giá của y là trở về xứ sở của cha mẹ để tham gia những hoạt động chung. Họ tranh luận tới đêm khuya những vấn đề lúc bấy giờ đang chấn động Xy-ri.
Một hôm, có một người đàn ông tuổi trạc năm mươi rất nổi tiếng trong chính giới A-rập ở Ác-hen-ti-na tên là Áp-da-la La-típ A-lê-san đến ngồi vào bàn cờ Sét-bét của Ta-áp.
Điểm một bộ ria mép khá đẹp nhưng đầu chẳng còn sợi tóc nào, thấp bé và bụng phệ. A-lê-san là chủ bút có quyền thế của tờ tuần báo A-rập quan trọng ở Bu-ê-nốt Ai-rét, tờ An A-a-lam A-ra-bi (Thế giới A-rập). Ngay khi đến Câu lạc bộ lần thứ hai, Ca-min Ta-áp đã chú ý đến A-lê-san và chờ có dịp thuận lợi là làm quen. Ván cờ Sét-bét lúc này có tác dụng tuyệt diệu. Đi xong vài nước, Ta-áp mở đầu với A-lê-san bằng câu chuyện dài về tình hình chính trị ở Xy-ri, Ta-áp nói với người chủ bút của tờ tuần báo là hắn quá chịu đựng với cuộc sống “tha hương”, hắn cảm thấy mình là dân Xy-ri hơn là dân Ác-hen-ti-na, và rất nhớ quê hương xứ sở. Tóm lại, Ta-áp nói rất thật và hết sức tự nhiên “Tôi có ý định nay mai đi Đa-mát”. A-lê-san nghe chàng thanh niên nói một cách thích thú và mời Ta-áp tới thăm tòa soạn để tiếp tục cuộc mạn đàm. Ta-áp hoan hỉ nhận lời và lập tức hẹn gặp nhau vào ngày 23 tháng hai năm 1961.
Đó là ngày đánh dấu sự thành công của Ta-áp về sự mau lẹ mà y biết sẽ dẫn vào các chính giới có quyền thế ở Bu-ê-nốt Ai-rét. Chưa dầy hai tuần lễ sau khi tới Ác-hen-ti-na, một xứ sở xa lạ và hoàn toàn mới mẻ. Ca-min Ta áp đã chễm chệ ngồi trong chiếc ghế bành sang trọng trước mặt người chủ bút tuần báo A-rập của thủ đô.
https://thuviensach.vn
Cuộc mạn đàm kéo dài đến hơn hai tiếng đồng hồ. Nhà viết báo hỏi chàng thanh niên A-rập hàng tràng câu hỏi về đời sống và gia đình của y và Ta-áp cũng kể cho nhà báo hàng lô chuyện thật phong phú về thời niên thiếu của y, về A-lec-xăng-đơ-ri về việc di cư của cha mẹ y và các hoạt động kinh doanh ở thủ đô Ác-hen-ti-na.
Qua vài nhận xét về A-lê-san, Ta-áp biết rằng A-lê-san mong thấy một Đảng “BAATH” ở Xy-ri (Đảng Xã hội Phục hưng A-rập) nắm chính quyền trong nước. A-lê-san nói cho Ta-áp biết rằng ông tán thành chính sách hợp tác giữa Xy-ri và Ai Cập nhưng chống lại sự thống trị của Ai Cập đối với “Tỉnh Xy-ri” và sự bóc lột của chính quyền Nát-xe đang tiến hành ở Xy-ri.
Ta-áp liền có nhận xét như sau: “Tôi sẽ sẵn sàng đi Xy-ri ngay hôm nay để hiến dâng phần mình cho nỗ lực quốc gia. Nhưng tôi sẽ lo không được đón tiếp cẩn thận. Tôi không quen biết ai ở Đa-mát cả, tôi sợ mất cả thì giờ và thiện chí của tôi”.
A-lê-san đáp: “ Ngày nào anh định đi Đa-mát, hãy báo cho tôi và chớ có ngại việc gì cả. Không lo gì cả, tôi sẽ giới thiệu anh với tất cả các bạn của tôi. Trong khi chờ đợi, khi nào anh muốn, cứ đến gặp tôi. Tôi thích anh lắm, tôi là bạn anh”.
Trước khi chia tay, A-lê-san hỏi xin địa chỉ của Ta-áp để gửi cho y báo hàng tuần của ông ta. Ta-áp liền cho ngay địa chỉ nhà hắn vừa thuê xong ở Bu-ê-nốt Ai-rét: Phố Ta-ca-ra số 1485. Ta-áp còn cho A-lê-san một danh thiếp trên có ghi tên và địa chỉ của hãng vận tải. Y có cảm giác đã tranh thủ được tín nhiệm của nhà báo A-rập và cảm giác ấy là có cơ sở hơn là phỏng đoán. Chứng cớ hiển nhiên và công khai chỉ đước nêu lên bốn năm sau, lúc mà Ê-li Cô-hen bị xử tử ở Đa-mát. Áp-da-la La-típ A-lê-san hồi đó có gửi một bức thư ngỏ cho tờ báo hàng ngày “En Hay-át” ở Bêy-rút, một tờ báo quan trọng nhất ở Trung Đông, tự bào chữa trước những lời tố cáo của Xy ri là ông ta có tội đã giúp đỡ tích cực cho tên gián điệp I-xra-en.
https://thuviensach.vn
Bức thư đó như sau:
“Có một hôm, tôi tiếp một thanh niên trạc 30 tuổi, tự giới thiệu là Ca man A-min Ta-áp. Hắn kể với tôi rằng hắn đã sống ở Ai Cập khi còn trẻ. Sau đó, tôi có dịp hay gặp hắn trong những cuộc chiêu đãi, tiệc tùng ở các sứ quán A-rập và ở Câu lạc bộ đạo Hồi mà tất cả thanh niên A-rập ở Bu-ê nốt Ai-rét thường lui tới. Chúng tôi có trao đổi với nhau nhiều lần. Nói chung hắn lầm lì. Tôi có ấn tượng hắn là một thanh niên đứng đắn và chín chắn. Hắn rất chú ý đến các vấn đề của các nước A-rập và đã xin tôi các tờ báo A-rập sau khi tôi đã xem xong.
A-lê-san viết tiếp: “Một hôm hắn bảo với tôi rằng hắn sẽ về Xy-ri. Đúng, hồi đó tôi có cho hắn mấy bức thư giới thiệu. Nhưng không phải tôi là người phái hắn sang Xy-ri để do thám cho I-xra-en. Chính những bạn thân, các Tổng lãnh sự của các nước A-rập đã thị thực và tạo điều kiện cho hắn xâm nhập Đa-mát. Sau đó, nếu hắn đánh lừa được tất cả các cơ quan mật vụ của A-rập trong bốn năm trời thì có nên kết tội tôi là người không biết lý lịch thật của hắn trong mấy lần tôi nói chuyện với hắn hay không?”
Ngay bản thân Ê-li cũng không biết trước thời gian y gặp A-lê-san, y đã gây được lòng tin đối với ông ta đến mức cao độ như bức thư kể trên. Nhưng sự tiên đoán đã cho biết là y thủ vai Ca-man Ta-áp thành công và nhân vật Ê-li Cô-hen ngày nay hoàn toàn tan ra mây khói.. Y cũng hiểu rằng, và đây là điều quan trọng sống còn, A-bơ-ra-ham, người liên lạc viên đã chăm sóc một cách có hiệu quả, vẽ mọi chi tiết cho cái “vỏ bọc” của y, cung cấp cho y mọi lập chứng cần thiết, đề phòng trường hợp có sự điều tra bất ngờ của bạn bè mới quen về gốc rễ, quá khứ của gia đình y. Mỗi bước đi, Ê-li cảm thấy hiệu quả từ những thế lực của A-bơ-ra-ham. Vấn đề biết mình được hỗ trợ trong nhiệm vụ và biết mình được bảo vệ có tác dụng tăng gấp đôi lòng tin tưởng của tên gián điệp.
Thỉnh thoảng A-bơ-ra-ham lại cung cấp tiền nong cho Ta-áp để tiêu dùng cần thiết và cho sinh hoạt, vì do tính chất của vai trò mà y đang đóng
https://thuviensach.vn
khá cao. Y không hề đặt vấn đề này với Cục tình báo Ten A-víp và y thì ăn tiêu không bao giờ quá số tiền được phép chi.
Áp-da-la La-típ A-lê-san đã không thêm thắt gì trong bức thư đề năm 1965. Ca-man Ta-áp không chịu dừng lại ở chỗ chỉ có quan hệ với viên chủ bút tờ tạp chí A-rập ở Bu-ê-nốt Ai-rét mà thôi. Chỉ trong vòng vài tuần lễ, y đã trở thành một quan khách quen thuộc của mọi buổi chiêu đãi ngoại giao tại các sứ quán A-rập ở thủ đô. Người ta thấy y trong mọi cuộc lễ lạt A-rập phần nhiều do “Câu lạc bộ Hồi giáo” tổ chức. Người ta gặp gỡ y trong các tiệc đứng ở các sứ quán Xy-ri, Ai-cập và Li-băng. Trong vòng mấy tuần lễ này, có thể nói Ta-áp đã trở thành một nhân tố thụ động nhưng kiên trì của cái quang cảnh nửa xã giao, nửa chính trị, trong số vài trăm người không thay đổi mà người ta thường gặp tại các buổi chiêu đãi ngoại giao dù là ở Bu-ê-nốt Ai-rét, ở Oa-sinh-tơn hay ở Pa-ri. Việc này đương nhiên chả có gì là lạ cả và ai đã quen thuộc với chốn quyền cao này, căn bản đều biết rằng chẳng có gì dễ dàng hơn là muốn trở thành khách quen của các buổi chiêu đãi xã giao. Chỉ cốt là mình muốn, chịu hiểu những nơi này và có đủ can đảm cần thiết để đến nơi định đến cho đúng giờ. Những người khác, khách và chủ có thói quen thấy một người nào đó trong buổi chiêu đãi, chẳng bao giờ đặt vấn đề hỏi gốc gác và lý do sự có mặt của người này. Việc có mặt của Ta-áp ở tất cả các sứ quán A-rập cũng không vượt ra ngoài sự bình thường. Đã nhập vào nơi này rồi, liệu y có thể tiếp tục giữ vai trò của Ca man Ta-áp, không nứt rạn gì, và dưới cái căn cước này mà mở rộng thêm vòng quan hệ cá nhân để từ đó có thể lợi dụng được khi cần?
Có một hôm, Ta-áp gặp ở sứ quán Xy-ri một người, bốn năm sau sẽ quyết định xử tử y, tướng A-min En Ha-phê. Tướng Ha-phê đẹp trai, tóc đốm hoa râm, với một chùm tóc luôn luôn lòa xòa trước trán, có dáng người Nam Mỹ hơn là Xy-ri, lúc bấy giờ là Tùy viên quân sự của Đại sứ quán Xy-ri ở Bu-ê-nốt Ai-rét. Trong một buổi chiêu đãi ở sứ quán, Áp-da la A-lê-san đã giới thiệu Ta-áp với tướng Ha-phê. Ông tùy viên quân sự oai vệ, dưới bộ quân phục bóng bẩy, đang bàn chuyện chính sự với A-lê-san và
https://thuviensach.vn
Ta-áp. Ha-phê nhắc đi nhắc lại nhiều lần với niềm tin tưởng về tương lai của Đảng BAATH của ông ta. Ông quả quyết với hai người rằng: ‘Đây là Đảng duy nhất ở Xy-ri có khả năng đem lại vinh quang cho đất nước chúng ta. Cuối năm nay tôi sẽ hết nhiệm vụ ở Ac-hen-ti-na. Trở về Xy-ri tôi sẽ chuyển hoạt động chính trị trong Đảng”.
Vị quân nhân Xy-ri lịch sự này có lẽ chưa biết rằng chẳng bao lâu nữa, Đảng BAATH sẽ đặt ông cho chức vụ cao nhất của nước ông, Tổng thống nước Cộng hòa Xy-ri.
Ta-áp chăm chú lắng nghe như nuốt từng lời của Ha-phê và chỉ nhận xét như thế này: “Thưa tướng quân, nếu tôi mà ở Đa-mát, tôi cũng sẽ làm giống như ngài..”
“Thế anh còn chờ gì mà chưa về đấy?..” Ha-phê đáp lại như một mệnh lệnh và quay mặt đi để nói chuyện với người khác.
Trong một bản báo cáo sau này gửi lên cấp trên, Ê-li Cô-hen ghi rằng, tướng Ha-phê không chút nghi ngờ gì về câu nói ngắn của y vì nhiều lần gặp lại y ở các dịp khác, ông đề nhay nháy mắt và hỏi: “Thế nào, định để chuyến đi Xy-ri đến bao giờ thế?”.
Họa hoằn Ê-li mới có dịp gặp A-bơ-ra-ham, mỗi lần ở một nơi khác nhau và mỗi lần lại giữ bí mật tuyệt đối. Y trao cho A-bơ-ra-ham những báo cáo chi tiết về các mối quan hệ trong các chính giới A-rập, mở rộng từ tuần lễ này tới tuần lễ khác. A-bơ-ra-ham có vẻ hài lòng. Trong vòng ba tháng, như đã hứa, y trao cho Ê-li một hộ chiếu và một thẻ căn cước Ác hen-ti-na mang tên là Ca-man A-min Ta-áp.
Tháng 5 năm 1961, A-bơ-ra-ham truyền đạt lại cho Ca-min Ta-áp một chỉ thị mới của Ten A-víp: ‘Phải báo cho bạn bè biết là anh định nay mai sẽ đi thăm các nước A-rập và có ý định sẽ thăm Đa-mát để tìm hiểu tại chỗ những khả năng sinh sống hẳn ở đây”.
https://thuviensach.vn
Ta-áp chấp hành ngay. Y đi tìm bạn bè để xin thư giới thiệu. Ngày 13 tháng 5 năm 1961, Ta-áp đến văn phòng A-lê-san báo cho ông ta biết là mình quyết định đi và xin thư giới thiệu. A-lê-san đã giữ lời hứa, ông hoan hỉ đưa cho Ta-áp xem bức thư vừa viết cho con trai ở Đa-mát và ghi thêm vào bức thư vài chữ giới thiệu ông bạn Ca-man Ta-áp. Ngoài ra, A-lê-san còn đưa cho Ta-áp một bức thư giới thiệu khác gửi con trai tên là Ca-man Hát-xan và ba bức thư như thế, một bức cho Ha-bíp Ha-ríp là một nhà buôn, bạn của A-lê-san, là người có tiếng ở Đa-mát, một bức thư khác gửi cho người em họ ở A-lec-xăng-đơ-ri và bức thứ ba cho một tay chủ ngân hàng có tiếng ở Bi-ê-rút.
Với kiểu này, Ta-áp có cả một lô những thư từ của bạn bè A-rập ở Bu-ê nốt Ai-rét, phần đông nhờ hắn gửi cho gia đình ở Li-băng và Xy-ri. Ta-áp thận trọng kể với mọi người rằng, hắn sẽ đi tham quan nhiều thủ đô A-rập, nhưng không quên nói thêm, y sẽ dừng lại châu Âu một thời gian.
Ta-áp xin được một thị thức Ai Cập ở Đại sứ quán Cộng hòa A-rập thống nhất ở Bu-ê-nốt Ai-rét không khó khăn gì. Cả lãnh sự quán Li-băng cũng cấp cho y một thị thực giá trị trong sáu tháng. Như vậy là Ca-man Ta áp sẵn sàng lên đường mà nơi dừng chân cuối cùng là Đa-mát. Sáu tháng trôi qua kể từ ngày y tới Ác-hen-ti-na, vai trò mới của y thế là đã tác thành vĩnh viễn.
Cuối tháng tám năm 1961, Ta-áp đáp máy bay đi từ Bu-ê-nốt Ai-rét đi Duy-rích, lần này y đi qua Luân-đôn, nhưng không ở lại. Làm đúng chỉ thị nhận qua A-bơ-ra-ham, y chỉ ở lại Duy-rích trong thời gian đổi máy bay. Khi kiểm soát hộ chiếu và hải quan xong, y nhận ra một người quen cũ: I xra-en Xa-linh-gơ, liên lạc viên của y ở châu Âu.
Trong suốt thời gian Ê-li ở lại Ác-hen-ti-na, Xa-linh-gơ đều nhận gửi thư từ của y cho Na-đi-a ở I-xra-en qua một hòm thư bí mật ở Duy-rích, mỗi lần Xa-linh-gơ đều cẩn thận gửi từ một thành phố khác nhau ở châu Âu. Thư Ê-li viết cho vợ đều ngắn gọn và chỉ nói đến “công việc làm ăn”
https://thuviensach.vn
mà y đang làm ở châu Âu. Trong khi chồng đi vắng, Na-đi-a đều đặn tiếp nhận lương hàng tháng của chồng do một hãng buôn tưởng tượng trả cho.
Xa-linh-gơ được nghe chính Ê-li Cô-hen kể lại tình tiết về nhiệm vụ mà y đã hoàn thành ở Ác-hen-ti-na. Nhiều lần Ê-li nói, y sẵn sàng đi Đa-mát và có thể vui vẻ lên đường ngay ngày hôm nay. Xa-linh-gơ cho y biết chỉ thị cuối cùng của Ten A-víp: “Ê-li sẽ chỉ đi Đa-mát trong vài tháng nữa”. Trong lúc này, ở Ten A-víp y còn phải trải qua một đợt huấn luyện mới và là đợt cuối cùng.
Xa-linh-gơ nhận từ tay Ê-li những giấy tờ căn cước mang tên Ta-áp, những thư giới thiệu với các thủ đô A-rập và cả túi quần áo mà y sắm được ở Ác-hen-ti-na. Ê-li nhận lại của Xa-linh-gơ những giấy tờ căn cước I-xra en, quần áo cũ gửi Xa-linh-gơ khi ở Duy-rích. Còn lại ít thì giờ rỗi rãi ở Duy-rích, y đi mua nhiều quà cho vợ, con gái và gia đình. Sau cùng y đáp một máy bay I-xra-en đi Ten A-víp.
Ở Ly-da từ trên máy bay xuống, vẫn cái xe tải nhỏ của cơ quan “Môt xát” và gã lái xe Ghi-đê-ông đưa Ê-li Cô-hen về Bát Y-am.
Ê-li trở về nhà cũng đột ngột như lúc ở nhà đi. Khỏi cần phải nói đến sự vui mừng của vợ con và gia đình khi gặp lại y sau sáu tháng ròng vắng nhà, cũng như khi Ê-li Cô-hen nghe thấy con gái là Xô-phi nói tiếng Hê-bơ-rơ “ab-ba”, nghĩa là “bố ơi”.
Y kể lại chuyện châu Âu cho mọi người trong nhà nghe nhưng không hề đả động đến thời gian ở Nam Mỹ.
Ngay cả Đéc-vi-sơ cũng không hề gây phiền hà gì. Trong suốt tuần lễ đầu tháng chín, Ê-li hoàn toàn vui thú với gia đình ở I-xra-en.
https://thuviensach.vn
IX. Dừng chân ở I-xra-en
Ê-li Cô-hen biết rằng y dừng chân ở Bát Y-am không bao lâu và sau đó ít ngày sẽ phải trở lại với những hoạt động của nhân viên tình báo. Chính Đéc-vi-sơ, huấn luyện viên thực thụ của y, mới có một tuần lễ đã cắt bỏ những ngày nghỉ của y bên cạnh gia đình. Một hôm đến giờ ăn trưa, Đéc vi-sơ dẫn y vào tiệm “Gian-nét”, một tiệm ăn nổi tiếng về món cá rán ở Giáp-pha. Ngồi đối diện với nhau trên sân trời của khách sạn trông ra bến tàu., hai người say sưa trong câu chuyện sôi nổi, hệt như hai cha con đang bàn về chuyện nhà, chuyện cửa.
Đéc-vi-sơ ngồi nghe người học trò của mình kể lại những chiến công của y ở Nam Mỹ.
“Anh pha giọng Tây Ban Nha khi nói tiếng Hê-bơ-rơ đấy”, Đéc-vi-sơ vừa nhận xét vừa cười.
-Hãy chờ đó nghe tôi nói tiểng Ả-rập – Ê-li đáp lại - Ở Bu-ê-nốt Ai-rét người ta chỉ nói tiếng A-rập pha giọng Tây Ban Nha thôi. Kết luận câu chuyện, Ê-li đoan chắc với Đéc-vi-sơ rằng, y có đủ tất cả mọi sự giới thiệu để bắt tay vào công việc đang chờ y ở Đa-mát. “Tôi cảm thấy có thể” – Y nói thêm, rút bớt nhiều chặng, để xâm nhập một cách nhanh chóng vào các giới lãnh đạo ở Đa-mát.
Về sau này, Đéc-vi-sơ ghi nhận trong các báo cáo của ông ta là Ê-li Cô hen đã biểu thị một sự vững vàng “dễ truyền cảm” và một sự tự tin hoàn toàn. Những người phụ trách tình báo khác ở Ten A-víp đã có dịp gặp Ê-li trong thời gian y ở I-xra-en hồi tháng 9 năm 1961 đều cũng có nhận xét như vậy. Sự nhận xét này rõ ràng là khích lệ, nhưng nhìn dưới một khía cạnh khác thì sự tự tin quá đáng của một điệp viên cũng có thể nguy hiểm
https://thuviensach.vn
cho ngay chính bản thân anh ta và có thể dẫn đến những hành động sơ xuất thiếu cân nhắc và quá mạo hiểm.
Dù sao, cũng phải để cho Ê-li qua lần thực tập cuối cùng nữa trước khi có lệnh cho y lên đường. Để các bạn bè Ả-rập của Ta-áp ở Bu-ê-nốt Ai-rét bớt lo lắng, y phải viết khá nhiều bưu ảnh để gửi từ các thủ đô châu Âu khác nhau về Ác-hen-ti-na.
Đáp lại mọi sự dặn dò của Đéc-vi-sơ, Ê-li uể oải trả lời cụt lủn: “Tôi không cho rằng con đường đi Đa-mát lại dài đến thế. Tại sao lại phải chết vì mệt mỏi và nôn nóng trước khi tới đấy”. Về phần y, đây không phải là cơn khó chịu mà là tình cảm giống như sự bồn chồn của loại ngựa chiến đã hít mùi thuốc súng và mùi chiến trường muốn vội vàng lao mình vào cuộc chiến. Nhưng cấp trên của y thì nghĩ khác, việc luyện tập thêm là cần thiết và ngay bây giờ, bắt đầu từ những kết quả đặc biệt của phần đầu chuyến công tác ở Ác-hen-ti-na, phải sắp đặt kế hoạch chi tiết của y ở Xy-ri.
Một lần nữa, Ê-li lại tìm đến căn gác nhỏ của Đéc-vi-sơ ở phố A-len-by tại Ten A-víp. Với sự giúp đỡ của một huấn luyện viên chuyên gia về các đài phát bí mật của Cục tình báo. Ê-li tiến bộ nhanh chóng trong việc sử dụng một đài phát giống như đài mà y sẽ sử dụng nay mai ở Đa-mát. Sau vài tuần huấn luyện, y đã đánh trung bình mỗi phút được 45 đến 50 chữ, được các nhà chuyên môn công nhận là vừa phải. Y học cách dùng nhiều mật mã, tập đọc các bức điện mật mã do huấn luyện viên của y “gửi” cho và sau đó học thuộc lòng các mặt mật mã.
Trong đợt huấn luyện cuối cùng ở Ten A-víp, nhiều lần huấn luyện viên của Ê-li có nhiệm vụ khám phá những nét riêng biệt trong “cách đánh” của y khi phát tin. Đối với cái tai của một chuyên gia giỏi, “cách đánh” của mỗi người đều khác nhau như vân tay của con người vậy. Nói cách khác, tính chất của mỗi tín hiệu “mooc-xơ” được phát đi từ một đài ở khoảng cách nhất định, có thể dễ dàng nhận ra người phát ra tín hiệu này mà không cần báo trước mật số. Những thay đổi rất nhỏ “cách đánh” chẳng nghĩa lý gì
https://thuviensach.vn
với một cái tai không được huấn luyện, nhưng qua tai của nhân viên kỹ thuật có kinh nghiệm, chúng lập tức ghi nhận và hiểu ra ngay.
Một số rất hạn chế nhân viên điện đài của Cục tình báo ở Ten A-víp từ tháng 9 năm 1961, đã bắt đầu nghiên cứu và nhận xét những lần tập phát tin của Ê-li. Sau này cũng vân những nhân viên này ngồi nghe điện của y phát từ thủ đô Xy-ri.
Ê-li dùng một phần thì giờ nghiên cứu cách pha chế các loại mực hóa học khác nhau bằng các vật liệu tại chỗ, cách cất giấu khéo léo trong một căn nhà, cách cất giấu những đồ vật bí mật trong các dụng cụ gia đình đủ các loại; cách chuyên chở bí mật các vũ khí cá nhân, tài liệu, thư từ hay các loại vi phim khâu lẫn trong quần áo hoặc giấu ngay ở trong mình. Tóm lại, việc học tập những ngón nghề của tên điệp viên kiểu mẫu, trái với điều người ta tưởng tượng khi đọc ở một vài cuốn truyện gián điệp, đòi hỏi một sự nỗ lực bền bỉ và chỉ có cái tên là kích thích mà thôi.
Sau khi nghiên cứu một lần nữa các loại vũ khí nặng nhẹ kiểu mới mà quân đội Xy-ri đang dùng. Ê-li Cô-hen được tập sử dụng các loại súng ngắn và tiểu liên loại “Xmai-xơ” của Đức chế tạo và thông dụng trong quân đội Xy-ri. Y còn học cả cách dùng các loại chất nổ khác nhau.. Ngay trong những cuộc tập bắn, Đéc-vi-sơ vẫn cảnh cáo: “Ở Đa-mát, anh sẽ không được phép đổ một giọt máu nào. Nhưng Xy-ri là một nước Cộng hòa kiểu Nam Mỹ mà cuộc cách mạng tương lai có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Có thể bất đắc dĩ anh phải dùng vũ khí tự vệ. Khi nào thật cần lắm anh mới nên dùng đến”.
Hơn cả những lần tập luyện trước, Ê-li nghe đài phát thanh Đa-mát và thận trọng theo dõi những biến cố chính trị ở Xy-ri. Khi nghe đài phát thanh hoặc xem những chương trình vô tuyến truyền hình Xy-ri, chắc chắn Ê-li sẽ bác bỏ ngay nếu lúc ấy có người nào đó nói rằng, sau này chính y sẽ xuất hiện trên màn ảnh vô tuyến truyền hình ở Đa-mát.
https://thuviensach.vn
Ngày 28 tháng 9 năm 1961, ở Xy-ri đã xảy ra một sự kiện chính trị khá quan trọng. Tổ chức liên hiệp Ai-Cập Xy-ri tan vỡ một cách ầm ĩ và nhanh chóng cũng như khi nó được thành lập cách đây ba năm. Xy-ri khôi phục lại nền độc lập chính trị và kinh tế của mình. Nhưng sau khi từ chối vai trò một bộ phận nhỏ bé trong nước Cộng hòa A-rập thống nhất, nước Xy-ri trở thành một bãi chiến trường thực sự của một cuộc nội chiến âm thầm nhằm tranh giành quyền hành thực tế đang khuyết. Xứ sở này trong suốt mười ba năm đã chứng kiến mười hai cuộc cách mạng và đảo chính liên tiếp, giờ đây sẽ bị Đảng “BAATH” chi phối lâu dài và nhiều đảng viên Đảng “BAATH” đã trở thành bạn của Ca-man Ta-áp từ hồi ở Bu-ê-nốt Ai-rét. Trong những ngày tháng chín, Ca-man Ta-áp đã gửi cho tướng Ha-phê ở Ác-hen-ti-na một tấm thiếp bỏ ở Duy-rích, lời văn độc nhất chỉ có mấy chữ: “Đảng BAATH muôn năm!” và chữ ký của y.
Ê-li Cô-hen đã biết sự diễn biến chi tiết của những sự kiện vừa xảy ra ở Xy-ri, và qua những hồ sơ mật được xem xét vội vã ở Ten A-víp, y còn biết một cách nhanh chóng ai là những nhân vật chính trong vụ đảo chính chống Nat-xe này. Thật ra khi cấp trên của Ê-li và cả y nữa cũng phải thừa nhận rằng, mọi bước ngoặt của tình thế ở xứ sở này đều vượt khỏi sự phân tích chính trị và không sao lường trước được. Khi nói đến Xy-ri, người của Cục tình báo Ten A-víp thường nói rằng: ‘ Chính quyền ở đây thuộc về tay sĩ quan nào buổi sáng dậy sớm hơn đối phương của mình và đánh chiếm lấy đài phát thanh”.
Người cầm đầu thực sự vụ đảo chính chống Nát-xe ở Xy-ri là viên đại tá trẻ tuổi của quân đội Xy-ri: Áp-dun An Ka-rim Nát-la-vi – phụ tá quân sự của thống chế A-me, một sĩ quan thân cận và trung thành của Nát-xe, toàn quyền Ai-Cập ở Xy-ri. Đại tá Nát-la-vi đã cảm thấy sự bất mãn của khối nông dân và cả giai cấp tư sản là những người trước nhất bị khổ vì sự thống trị của Ai-Cập, họ đã dự định trong lâu dài, nhất định giải phóng Xy ri chống lại Ai-Cập. Nông dân và những người buôn bán kết tội chính quyền Ai-Cập là bóc lột Xy-ri, một nước tài nguyên thiên nhiên còn phong
https://thuviensach.vn
phú và thịnh vượng hơn cả nước Ai-Cập. Các sĩ quan Xy-ri thì không bằng lòng vì các đơn vị của họ đều do sĩ quan Ai-Cập chỉ huy. Trường không quân của quân đội Xy-ri bị chuyển sang Ai-Cập và mang theo một đoàn Mig 17 của Xy-ri. Ngay những bộ phận đầu não của cơ quan hành chính ở Xy-ri, cũng có cả người Ai-Cập.
Ngày 28 tháng 9, lúc tảng sáng, khi hãy còn ở trong giường ngủ, viên toàn quyền Ai-Cập ở Xy-ri là thống chế Áp-dun Ha-kim A-me, được tin đại tá Nát-la-vi chiếm được đài phát thanh, đã lập tức dùng điện thoại báo cáo với tổng thống Nát-xe ở Cai-rô và Nát-xe tuyên bố sẵn sàng đến ngay Đa mát để cứ vãn tình thế. Trong thâm tâm, Nát-xe cũng hiểu rằng sự tan vỡ của khối liên hiệp với Xy-ri là một thất bại của ông về tinh thần đối với các nước Ai-Rập nói riêng và với cả thế giới mặc dầu trong thời kỳ ấy, với uy tín cá nhân rộng lớn ở Xy-ri, Nát-xe có nhiều thời cơ giành lại tình hình. Nhưng thống chế A-me gàn ông ta, cam kết là có thể khôi phục lại tình thế và đặt lại trật tự trong nước.
Đại tá Nát-la-vi và quân đội của ông ta làm mạnh hơn. Trong buổi sáng, viên đại tá trẻ tuổi đã cho bắt giữ ngay thống chế A-me và cho áp giải ông bằng máy bay về Cai-rô. Hai đội biệt kích nhảy dù Ai Cập đổ bbooj lên bến La-ta-ki-ê ở Xy-ri dưới sự yểm trợ của các chiến hạm Ai-Cập bỏ neo ở cửa bể, đã đầu hàng không nổ một phát súng nào. Chỉ trong vài giờ, đại tá Nát la-vi đã trở thành người chỉ huy hiển nhiên nhưng hầu như giấu mặt ở Xy ri; ông ta đặt những nhà chuyên nghiệp và có kinh nghiệm hoạt động chính quyền vào cơ quan đầu não của chính phủ.
Vụ đảo chính ở Xy-ri làm náo động vùng Trung Đông. Chính phủ I-xra en sung sướng trước những đau khổ của Tổng thống Nát-xe. Việc tan vỡ của khối Liên hiệp Ai Cập và Xy-ri đã thủ tiêu mối nguy cơ đối với I-xra en do có Bộ chỉ huy thống nhất của quân đội Ai Cập và Xy-ri. Nhưng mặt khác cũng còn phải chờ đợi một cuộc biến chuyển khác nữa. Sự thù hằn giữa Đa-mát và Cai-rô một lần nữa đã có hậu quả làm tăng sự ganh đua
https://thuviensach.vn
giữa hai nước trong việc tuyên truyền dân chúng chống I-xra-en, lúc đầu bằng lời nói và sau đấy là bằng hành động.
Việc người Ai Cập rời bỏ Xy-ri là sự kiện quan trọng bậc nhất đối với nhiệm vụ mà Ê-li phải thực hiện ở Đa-mát. Khi trước, lúc khối liên hiệp Ai Cập và Xy-ri còn tồn tại, thì Ê-li nhận được chỉ thị phải hết sức tránh với người Ai Cập ở thủ đô Xy-ri. Cấp trên của y e ngại có thể vì tình cờ mà một người Ai Cập nào đó sinh trưởng ở A-lêc-xăng-đơ-ri nhận ra Ê-li chăng. Xấu hơn nữa, năm 1954, y đã từng bị cơ quan an ninh Ai Cập bắt giữ và hỏi cung. Ở Đa-mát, sự tình cờ có thể khiến Ê-li lại gặp – một số các chính giới Ai Cập – một công an viên có biết y hồi năm 1954 ở A-lêc-xăng-đơ-ri hay ở Cai-rô. Việc người Ai Cập bỏ đi như vậy mở ra những hy vọng mới mẻ cho Ê-li và tạo sự dễ dàng trong mức độ nào đó cho những hoạt động sau này của y ở Đa-mát. Rôi y nhận được chỉ thị chính trị khác xuất phát từ những biến cố ngày 28 tháng 9: Từ nay Đảng “BAATH” có khả năng nắm chính quyền!. Về phần Ca-man Ta-áp, trước tướng Ha-phê ở Bu-ê-nốt Ai rét, y đã công khai bày tỏ cảm tình của mình với Đảng này trong tấm bưu thiếp mà Đéc-vi-sơ bảo y gửi từ Thụy Sĩ cho viên tùy viên quân sự Xy-ri ở Ác-hen-ti-na. Y còn khẳng định một lần nữa lòng “trung thành” của y đối với Đảng này. Nhưng cấp trên đã dặn y rằng; Khi nào đã xâm nhập được vào các bộ phận có quyền lực của Đảng “BAATH” ở Đa-mát thì chớ có xin gia nhập Đảng, tốt hơn hết là phải kiên trì và đợi khi nào tình hình chính trị ở Xy-ri sáng sủa hơn.
“Nếu anh cứ tuyên bố liều lĩnh quá sớm ủng hộ Đảng “BAATH” , anh có thể bị xử tử không phải vì tội làm gián điệp cho I-xra-en nhưng vì tội gia nhập một Đảng mà Đảng này có thể bị trấn áp bởi một chính phủ khác do một cuộc đảo chính khác đưa lên”.
Những người phụ trách trực tiếp Ê-li nhận xét anh ta hoàn toàn bình tĩnh, thậm chí bình tĩnh một cách khác thường trước những biến cố sôi sục xảy ra trong những ngày tháng 9 năm 1961 tại Xy-ri, nơi một điệp viên Ta-
https://thuviensach.vn
áp sắp xâm nhập. Dưới mắt cấp trên và bạn bè ở Cục tình báo, Ê-li đã biểu thị một sự trầm lặng nội tâm đặc biệt và một sự can đảm pha lẫn tính khiêm tốn. Khi quan sát y theo dõi những biến cố ở Xy-ri trên đài vô tuyến truyền hình và trên báo chí, hoặc nghe y phân tích tình hình, người ta phải cho là y sửa soạn đi nghỉ phép ở Đa-mát chứ không phải đến đây để dấn thân vào vô vàn nguy hiểm.
Thái độ quả quyết phi thường khi Ê-li nói đến nhiệm vụ nay mai của mình với lòng tin tưởng hoàn toàn vào thắng lợi đã khiến cấp trên của y phải luôn luôn nhắc nhở: “Khi tới Đa-mát, chớ có vội vàng, trái lại cứ thủng thẳng và từng bước đi vào giới lãnh đạo của Xy-ri nhằm mục đích cung cấp những tin tức tối đa về hai lĩnh vực quan trọng nhất: Quân đội Xy-ri, thành phần, quân số, những cuộc hành quân trong nước và ở biên giới với I-xra-en, cùng mọi chi tiết về các sĩ quan chỉ huy quân đội”. “ Bất kể những gì sẽ xảy ra ở Đa-mát và tình hình chính trị ra sao nữa, quân đội Xy-ri vẫn là nhân tố quan trọng và quyết định cho tương lai của đất nước đó” – Cô-hen đã nhiều lần khẳng định như thế. Về lĩnh vực thứ hai y sẽ phải cung cấp tin tức là tình hình kinh tế của Xy-ri. Người ta dặn y không nên để mất thì giờ và sức lực vì những vấn đề không quan trọng cho lắm. Sau này ta sẽ thấy nhiều lần chính cấp trên của y đã làm trái lại với những lời khuyên đó.
Những tin tức có tầm quan trọng bậc nhất, có tác dụng giúp cho I-xra en có thể đối phó ngay lập tức về quân sự hay chiến lược trong khoảng thời gian ngắn nhất, điệp viên Ca-man Ta-áp phải chuyển đi bằng một máy phát nhỏ xíu, không to hơn bao thuốc lá, cái đài phát này là một kiệt tác kỹ thuật, sẽ trở thành một kỳ công thực thụ của Ten A-víp, và là một nguồn cung cấp tin tức tình báo vô tận thuộc loại nhất về những biến cố ở Xy-ri. Các đài phát nhỏ xíu này, ngay các cơ quan gián điệp của các nước lớn cũng còn hiếm và thực tế còn xa lạ đối với các cơ quan gián điệp các nước khác, nay mai sẽ được trao cho Ta-áp ở châu Âu. Ở Ten A-víp, người ta
https://thuviensach.vn
tạm thời trang bị cho y một dao cạo râu điện cấu tạo đặc biệt. Dây điện của máy cạo râu là một dây trời của cái máy phát sau này.
Ta-áp phải sử dụng máy phát này để phát tin thật nhanh cốt giảm bớt sự rủi ro bị Cơ quan phản giám của Xy-ri phát hiện. Người ta định giờ cho những buổi phát tin và cả ngày phát tin đầu tiên. Một con số qui định trước để báo cho Ten A-víp biết nếu y đã thuê được nhà ở và ở hẳn đấy. Trước khi thuê được nhà, ngay cả trường hợp thật khẩn cấp, y cũng không được phép liên lạc với Ten A-víp. Một con số khác định trước để báo cho y biết phải lợi dụng thời cơ tốt nhất đi châu Âu và bắt liên lạc với “liên lạc viên” của y ở đây.
Ngày lên đường đã tới gần, đã cuối tháng 12 năm 1961 rồi. Lại một lần nữa, Ê-li nói với vợ rằng: “Công việc buôn bán” buộc y phải đi châu Âu và vắng nhà vài tháng, và Na-đi-a đề nghị với chồng nên rút ngắn thời gian ở nước ngoài đến mức thấp nhất.
Lại cái xe tải không số và vẫn người lái xe ấy đốn Ê-li Cô-hen để đưa y sang sân bay Ly-da. Khi tới Muy-ních, y gặp lại Xa-linh-gơ, thay quần áo, trao cho Xa-linh-gơ bọc quần áo I-xra-en và nhận lại số quần áo mà y đã mặc ở Ác-hen-ti-na. Xa-linh-gơ còn đưa cho y quyển hộ chiếu Ác-hen-ti-na trong đã có sẵn thị thực Ai Cập và Li-băng. Chỉ còn thiếu thị thực quan trọng nhất là thị thực của lãnh sự quán Xy-ri, Ta-áp phải xin cấp ở Duy rích.
Xa-linh-gơ ra lệnh cho y phải mua vé tàu thủy đi Li-băng. Việc lựa chọn đã nhằm vào tàu A-xtô-ri-a, khoảng tuần lễ đầu của tháng giêng năm 1962 sẽ chạy tới Bây-rút. Trước ngày lên đường, một cuộc thẩm tra chớp nhoáng và bí mật do các điệp viên châu Âu của Cục tình báo I-xra-en đã cung cấp cho Ê-li bản danh sách đi chuyến tàu A-xtô-ri-a đó.
Ê-li thấy trong va li mà Xa-linh-gơ trao cho có một bộ dụng cụ làm bếp mà một anh chàng chưa vợ có thể mang đi khắp nơi. Trong số dụng cụ này,
https://thuviensach.vn