🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bi Kịch Về 3 Cái Chết - Agatha Christie full prc pdf epub [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Bi Kịch Về 3 Cái Chết
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Dịch giả: Đào Đăng Trạch Thiên Biên tập: Bach Ly Bang
Created by: http://isach.info Date: 22-September-2015
T PHẦN I - CHƯƠNG 1: KẺ KHẢ NGHI
RÊN CHÒI CANH
Ông Satterthwaite ngồi chót vót trên cao Chòi Canh theo dõi khách mời. Ngài Charles Cartwright đang men theo lối mòn từ ven biển đi lên.
Chòi Canh làm theo dạng nhà ván gỗ kiểu mới, không xây gạch, không làm đầu hồi, chủ nhân nó quý lắm. Đó là công trình kiên trúc toàn một màu trắng - người xem có thể nhâm cái vẻ đồ sộ bề ngoài của nó. Xây dựng ở vị trí địa lôi, có tầm cao bao quát khu vực cảng Loomouth. Đứng ở một góc trên cao có bao lơn chắn ngang nhìn xuôi xuống theo đường thẳng đứng mặt biển. Tính theo đường ô-tô thì chòi canh cách thị trấn hơn cây số. Đường đi vòng vo leo dốc đến nơi có độ cao hơn mặt nước biển. Đi bộ phải mất hết chừng bảy phút, ngài Charles Cartwright lủi thủi một mình mon men theo đường mòn tới nơi.
Charles có thân hình chắc nịch, da sạm nắng, đứng tuổi. Ngài mặc chiếc quần vải flannel màu xám, áo len trắng dài tay. Dáng đi lắc lư, hai bàn tay nắm hờ lại, chân cứ bước tới. Mười người hết chín ai cũng đoán ra: “Một lão già hải quân hồi hưu - quả thật không sai”. Chỉ riêng một người, khác hơn mấy người kia lưỡng lự chưa dám tin. Thế rồi bỗng nhiên hình ảnh từ đâu lại hiện về chẳng đâu xa ngay trên boong tàu - Không phải là con tàu ta vẫn thường nhìn thấy - con tàu thu nhỏ có rèm che bằng chất liệu chắc bền - một gã đàn ông tên là Charles Cartwright đứng đó sừng sững dưới ánh nắng không phải tử mặt trời, hai tay nắm hờ với dáng điệu thong thả nói năng chậm rãi - cái giọng điệu người đi biển, của người phong lưu nghe thật dõng dạc.
- Không, thưa ngài - Charles Cartwright vừa mở lời - Tôi không mong mang lại cho ngai tin tức gì mới hơn.
Chợt màn buông nhanh, đèn bật sáng, nhạc dạo trỗi dậy, bọn gái chào mời khách: Mời quý ông dùng sô-cô-la, li-mô-nát? Màn một vở kịch “Tiếng gọi biển cả” vừa dứt; Charles Cartwright trong vai thuyền trưởng Vanstone.
Từ trên chòi cao ông Satterthwaite mỉm cười nhìn cảnh vật khuất xa phía dưới.
Ông Satterthwaite người gầy đét da nhăn nhúm, là mạnh thường quân cho các tổ chức sinh hoạt nghệ thuật, sân khấu, một tay thích ngao du giới thượng lưu, tính ông dễ chịu, luôn góp mặt trong các buổi họp thân mật, các lễ hội tưng bừng. (Tên Satterthwaite luôn ghi ở hàng cuối danh sách khách mời). Ông còn là một nhân vật khôn ngoan, sáng suốt biết rõ người, rõ việc.
Ông nói, giọng khẽ khàng, rồi lắc đầu:
- Lẽ ra tôi không nghĩ như vậy đâu. Không, tôi nói thật đấy, tôi không hề nghĩ chuyện đó.
Có tiếng bước chân trên sân thượng, ông quay ngoắt lại. Người đàn ông mái tóc hoa râm dáng cao to kéo ghế xích tới phía trước, ông ngồi xuống, trông mặt người ta đoán ra ngay nghề nghiệp hiện tại của ông “Bác sĩ” ở phố “Harley Street” - ngài Bartholomew Strange đạt tới đỉnh cao sự nghiệp là một chuyên gia về chứng suy nhược thần kinh được phong tước Hiệp sĩ Hoàng gia vừa mới đây.
Ông kéo ghế xích gần lại Satterthwaite, đánh tiếng:
- Ông đang nghĩ ngợi gì vậy? Mà này? Ta ra tay đi.
Satterthwaite mỉm cười chăm chú nhìn theo cái bóng người nhanh chân men theo lối mòn rảo bước tới trên đỉnh.
- Tôi không nghĩ là ngài Charles lại chịu sống cảnh tha hương thế này.
- Lạy Chúa, tôi cũng nghĩ không khác gì ông. - Người nọ thì cười, quay đầu lại - Tôi quen Charles từ thuở nhỏ cùng học một trường Oxford. Ông ta chẳng khác nào lúc xưa - một nghệ sĩ ngoài đời hơn là trên sân khấu! Charles lúc nào cũng sẵn sàng nhập cuộc, không dằn được - đó là cái tính trời cho Charles ít khi thấy ra khỏi chỗ ở - ông ta “chuồn êm” - phải liên lạc chính xác. Dù sao ông cũng muốn có một vài đổi thay - cũng chẳng khá gì hơn. Ông bỏ nghề hai năm rồi - ông bảo là mình về quê sống cho yên, xa lánh mọi người, thích sống gần biển. Ông về đây xây dựng nên cơ ngơi này. Ông chỉ mơ một mái nhà nơi thôn dã như thế này, ba buồng tắm, đồ dùng theo thời mới! Tôi cũng nghĩ như ông, Satterthwaite, chắc không ở lâu đâu. Dù sao, Charles cũng là người - ông cần có bạn hiểu mình. Vài ba bạn chiến hữu đã về hưu, một nhóm mấy bà với một mục sư - vậy là cũng đủ người để diễn trò. Tôi nghĩ “ông bạn chân thật” thích “cuộc sống biển cả”. Cùng lắm là sáu tháng. Này, nói thật, tôi thấy ông cũng chán rồi, còn một nơi nữa để cho ông lui tới đó là Monte Carlo với những tay chơi đã thấm mệt hoặc là đến vùng cao nguyên làm quen với địa chả - tính hay thay đổi y như Charles vậy.
Ông bác sĩ thôi kể lể. Kể ra ông nói cũng nhiều. Ông còn nhìn theo mắt sáng rõ vui mừng cái bóng người đàn ông vô tư dưới kia. Lát nữa đây ông sẽ nhập bọn với mấy ông trên này.
- Vậy mà, - Ngài Bartholomew kể tiếp - coi bộ chúng mình nhầm. Cuộc sống đời thường vẫn còn sức lôi cuốn người ta.
- Kẻ nào hay thêu dệt, bi quan hóa việc đời dễ mắc sai lầm - Satterthwaite kể lể - Ta không nên đề cao lòng chân thật quá đáng. Ông bác sĩ gật gù:
- Phải đó. - Lão nói tiếp, vẻ suy tư - Thật đó mà. - Charles Cartwright từ dưới mới lên tới vẻ hớn hở bước đi trên sân thượng. - Chiếc Mirabelle chạy vượt sức nó - Charles vừa kể - Ông nên ra mà xem, Satterthwaite.
Satterthwaite vừa nghe lắc đầu. Ông đã qua nhiều phen vượt biển Manche không còn tin cái chuyện ngoài sức mình. Sáng nay ông quan sát chiếc Mirabelle từ chỗ cửa sổ buồng ngủ. Một cơn gió giật may nhờ trời, Satterthwaite vô được đất liền.
Ngài Charles bước tới bên cửa sổ phòng khách gọi rượu.
- Ông phải đến thôi, Tollie - Charles vừa nói với bạn mình - Có phải ông cứ ngồi lì một chỗ ở phố Harley Street kể ra những ưu điểm của sóng biển cho người bệnh nghe mãi đâu?
- Cái tài năng của người thầy thuốc - Ngài Bartholomew Strange kể - là ở chỗ ta không bao giờ buộc phải tuân theo lời dạy của chính bản thân mình.
Ngài Charles bật cười. Ông quên đi mất vai trò của mình - một người đi biển từng trải. Ông có diện mạo thật điển trai, thân hình cân đôi, vẻ mặt hài hước điểm thêm những cụm tóc trắng bạc hai bên thái dương nổi bật hơn nữa. Con người thật của ông đó là - một người phong lưu, một nghệ sĩ.
- Ngài đến một mình sao? - Ông bác sĩ hỏi.
- Không - Ngài Charles quay lại đỡ lấy ly rượu từ tay người phục vụ - Ta có “tay thần”. Người con gái tên Egg ta nhớ ra đúng rồi. Giọng nói ngài nghe có vẻ dè dặt khiến ông Satterthwaite chăm chú ngước nhìn.
- Cô Lytton Gore có phải không? Nàng có biết chuyện đi biển, phải vậy không?
Ngài Charles cười ra vẻ tiếc nuối.
- Cô ta chỉ khiến cho tôi nghĩ là một người chỉ sống trên bờ, nhưng mà tôi sẽ gặp cô ta - nhờ cô ấy.
Ông Satterthwaite chỉ còn biết nghĩ ngợi vẩn vơ.
- Ta cứ thắc mắc mãi - Egg Lytton Gore - có lẽ vì nàng mà ông ta không biết chán - cái tuổi đó - cái tuổi chực chờ bùng nổ - người con gái sinh ra ngay ở cái thời điểm đó...
Ngài Charles tiếp tục câu chuyện: Biển cả - không gì sánh bằng - với ta chỉ có mặt trời gió và biển cả - và một cái chòi đơn sơ làm chỗ nương tựa.
Ngài nhìn lui phía sau, vẻ thỏa mãn về công trình kiến trúc toàn màu trắng, có ba buồn£ tắm, mấy buồng ngủ trang bị hệ thông nước nóng và lạnh thed kiểu hiện đại, một đội ngũ người phục vụ hầu bàn và đầu bếp kinh nghiệm. Cái lối nói của ngài Charles về một cuộc sống đơn giản có vẻ quá đáng.
Một người đàn bà xấu xí quá cỡ từ trong nhà bước ra, xông tới trước mặt mọi người.
- Chào cô Milray.
- Chào ngài Charles, xin chào ngài - Và khẽ cúi đầu chào hai vị khách ở gần đó - Đây là thực đơn buổi tối. Quý vị có cần thêm bớt món nào? Ngài Charles đỡ lấy, nói khẽ:
- Để xem nào. Dưa hấu, canh cải, cá thu tươi, thịt gà, chả trứng, bánh mì nướng phết bơ... Vậy là tuyệt lắm, không thêm bớt món nào. Mọi việc xong xuôi chờ chuyến tàu bốn giờ năm mươi.
- Tôi đã lệnh cho Holgate. Bây giờ, thưa ngài Charles nếu được phép tôi sẽ ở lại dùng cơm tối với ngài.
Charles ngơ ngác, rồi ngài lịch sự nói:
- Rất hân hạnh, tôi mời, nàng Milray, nhưng mà này...
Milray chậm rãi nói:
- Nếu không thì tôi sẽ bày bàn mười ba người, và thế là ai cũng lo vì mê tín dị đoan.
Nghe cô ta vừa nói mọi người cho rằng cả đời Milray ngồi chung bàn mười ba người chả có vấn đề gì xảy ra. Cô nói tiếp: - Tôi nghĩ mọi việc đã được an bài. Tôi đã báo cho Holgate, chiếc xe còn lo tìm chỗ nhà Lady Mary và cả nhà Babbington nữa. Có phải vậy không thưa ngài? - Đúng quá. Đúng y như tôi yêu cầu cô lo giúp.
Cô Milray mỉm một nụ cười ngạo mạn rồi cáo lui.
- Đấy, - ngài Charles trịnh trọng cất tiếng - mới là người đàn bà phi thường. Tôi ngại có lúc nào cô ta sẽ lại đánh răng giúp hộ tôi? - Đúng là bản lĩnh. - Strange vừa nói.
- Cô ta phục vụ như vậy được sáu năm - Ngài Charles kể lể - Ban đầu làm thư ký ở bên London, rồi qua đây, tôi có thể nói cô ta giúp việc chăm sóc nhà cửa tuyệt vời. Quản lý một cơ ngơi thật hoàn hảo. Giờ đây nếu không có gì trở ngại, cô ta xin nghỉ việc.
- Sao vậy?
- Cô ta vừa kể - Ngài Charles đưa tay gãi mũi vẻ ngờ ngợ - Cô ta kể là có một người mẹ tàn tật. Riêng tôi thì chưa tin. Loại đàn bà đó làm gì còn mẹ già. Chỉ là muốn nói vậy thôi. Không, tôi nghĩ là có vấn đề đấy.
- Có thật đấy chứ, - Ngài Bartholomew nói xen vô - người ta đồn là có đấy.
- Đồn đại? - Ngài nghệ sĩ giương mắt - Đồn như thế nào?
- Này ông bạn Charles. Bạn hiểu đồn đại là gì chứ?
- Ông muốn nói là chuyện cô ấy - và cả tôi? Với cái mặt đó? Với cỡ tuổi của cô ta?
- Cô ta độ chừng chưa tới năm mươi.
- Giả sử là như vậy đi. - Ngài Charles coi bộ quan tâm - Nhưng mà, nói thật nhé. Tollie. Ông có nhìn kỹ gương mặt cô ta? Cũng có hai mắt, một mũi, một miệng, nhưng mà có thể nào ông gọi đó là một bộ mặt - không phải bộ mặt đàn bà. Cái tay chơi lắm chuyện sàm báng bên hàng xóm không thể nào làm tình với cái bộ mặt đó bao giờ.
- Vậy là ông coi thường khả năng tưởng tượng của bọn gái già Ăng-lê.
Ngài Charles lắc đầu:
- Tôi không tin. Cô Milray được kính trọng lắm chứ, dù bất cứ một cô gái già Ăng-lê nào cũng phải biết đến. Cô ta có đức hạnh, bản lĩnh tuyệt vời - một người đàn bà tài năng thạo việc hết chỗ chê. Tôi luôn chọn người giúp việc đâu ra đó.
- Ông là người khôn khéo.
Ngài Charles ngồi thừ người ra đó một hồi. Để giải khuây, ngài Bartholomew lại hỏi: Buổi xế trưa hôm nay có người lạ đến đây phải không? - Chỉ có Angie.
- Có phải Angela Sutcliffe? Thế thì hay lắm. - Ông Satterthwaite nhoài người về phía trước vẻ quan tâm, nôn nóng muốn biết ai đã ngồi chung bàn. Angela Sutcliffe là một diễn viên có tiếng, luông tuổi, được công chúng ngưỡng mộ tài năng, duyên dáng. Có lúc nàng được nhắc đến như người kế tục sự nghiệp Ellen Terry.
- Và còn kể đến nhà Dacres nữa.
Satterthwaite gật gù một mình. Bà Dacres tức là hãng buôn Ambroise Ltd., một hãng may mặc nổi tiếng. Ta thường thấy trong tờ bướm chương trình. “Trang phục cô đào Miss Blank trình diễn ở màn một do hãng buôn Ambroise Ltd, ở phố Brook Street”. Chồng Dacres là đại úy Dacres, ít khi ra mặt. Là một tay đua ngựa chuyên nghiệp - từng tham dự giải quốc gia mấy năm trước. Đã có một vài vụ lộn xộn - chưa ai biẽt đầu đuôi - vậy mà tin đồn rùm beng. Chẳng có ai thèm tra hỏi - dù chuyện đã rõ thế mà nghe nhắc đến Freddie Dacres ai cũng trố mắt chút đỉnh.
- Đến lượt Anthony Astor, nhà soạn kịch.
- Hẳn nhiên - Satterthwaite nói - Bà viết vở kịch Đường một chiều. Tôi đã xem đến lần thứ hai. Khá thành công.
Ông ta thích thú khi biết Anthony Astor là một nhà soạn kịch nữ.
- Đúng đấy - Ngài Charles nói - Tôi quên mất tên thật của bà ta - Willis thì phải. Chỉ gặp mặt một lần. Tôi hỏi để cho Angela biết là vậy. Tất cả chỉ bấy nhiêu đó - một bữa tiệc thân mật.
- Còn mấy người ở quanh đó nữa? - Ông bác sĩ thắc mắc.
- Ôi giời, lại mấy người hàng xóm! Này là nhà Babbington - ông ta là mục sư, một ông bạn tốt, cũng chưa hẳn là tu hành chân chính, vợ ông ta rất đẹp. Ông dạy tôi cách làm vườn. Họ đang đến - kế tiếp Lady Mary và Egg. Vậy là đủ. Ô còn một ông bạn trẻ, Manders nhà báo hay gì đó. Mặt mũi dễ thương. Bữa tiệc đủ mặt bá quan.
Ông Satterthwaite là người nguyên tắc. Ông đang đếm đầu người.
- Cô Sutcliffe là một, nhà Dacres là ba, Anthony Astor là bốn, Lady Mary với con gái, sáu, hai vợ chồng ông mục sư, tám, ông bạn trẻ, chín, kể luôn bọn mình là mười hai. Vậy là ông hoặc là Milray đếm nhầm đó, thưa ngài Charles.
- Không thể nào do lỗi Milray - Ngài Charles nói giọng chắc nịch - Người đàn bà đó không bao giờ nhầm lẫn. Để ta xem. Thảo nào, Lạy Chúa, ông nói đúng. Tôi đã nhầm một người. Tôi không nhớ ra.
Satterthwaite mắt chớp chớp. Ông thường cho là kẻ phù phiếm nhất trên đời này là bọn nghệ sĩ. Cũng không trừ một ai kể luôn ngài Charles Cartwright. Satterthwaite ví von khen chê khiến ông cảm thấy thích thú.
- Vậy ai là kẻ ích kỷ? - Ông chợt hỏi.
- Chỉ có thằng đểu quái đản chứ ai. - Ngài Charles vừa đáp - Nói đúng hơn cái thằng đểu mà cũng có tiếng tăm. Rồi ông sẽ biết hắn là ai. Hercule Poirot. Hắn là một người Bỉ.
- Cái tay thám tử đó - Satterthwaite vừa nói - Tôi đã từng biết hắn. Một tay cừ khôi đây.
- Hắn là một tay có bản lĩnh. - Ngài Charles nhắc nhở.
- Tôi chưa hề biết được hắn, - Ngài Babbington nói xen vô - nhưng có nghe kể chuyện về hắn nhiều lần. Hắn đã nghỉ hưu lâu rồi, có phải vậy không? Có thể chuyện kể về hắn là chuyện hoang đường. Này Charles, tôi nghĩ là hết tuần này không có vụ án nào đâu.
- Sao vậy? Bởi vì trong nhà hát ta đã có một thám tử rồi chăng? Nghe như chuyện ngược đời vậy hả, ông bạn Tollie?
- Ờ, cũng là một cách để chứng minh cái lý luận tôi đề ra.
- Nó phục vụ cho nhân dân - chứ không từ nhân dân mà ra. Ông biết vì sao người thì có cuộc sống hào hứng lại có người thì buồn tẻ? Có phải do ở môi trường chung quanh mà ra? Không phải vậy đâu. Biết đâu trước một tuần hắn đến tại nơi diễn ra cuộc tàn sát và khi hắn vừa quay gót trở về thì tại đó có động đất, và con tàu hắn định ra khơi lại bị đắm. Có kẻ đang ở Balham mỗi ngày phải đi qua khu thương mại London, và rồi chuyện gì sẽ xảy đến cho hắn. Hắn sẽ chạm trán bọn tống tiền, gái đẹp chào mời và băng cướp có xe. Lại có kẻ thường gặp nạn đắm tàu - dù đang đi trên một chiếc du thuyền trên hồ du lịch. Cũng mọi hoàn cảnh tương tự, cái tay Hercule Poirot mà ngài vừa nói chẳng cần đi đâu xa săn lùng bọn tội phạm - bọn chúng sẽ ra tự thú.
CHƯƠNG 2:CHUYỆN RẮC RỐI TRƯỚC BỮA ĂN
Ông Satterthwaite thường quan tâm đến chuyện người đời.
Ông nghiêng về cánh phụ nữ nhiều hơn, bởi ông có nhiều nam tính, nên hiểu mấy bà quá rõ. Trong lối ứng xử, ông lại có những nét nữ tính nên biết tận tim đen của mấy bà muốn gì. Mấy bà thì tin tưởng ông, vậy mà không bao giờ họ nể ông. Có lúc ông cảm thấy chua chát lắm. Lúc nào ông cùng nghĩ mình là khi ngồi xem thiên hạ diễn tuồng, ông không phải là nhân vật trên sân khấu. Nói rõ hơn ông là một vị khách bàng quang.
Ông đang ngồi trong gian buồng rộng rãi nhìn ra ngoài mé hiên, bên trong trang trí theo kiểu cách mới nhất trông như một cabin trên con tàu đi biển hạng sang. Ông để ý nhiều hơn cách nhuộm tóc của Cynthia Dacres. Một tông màu mới mẻ độc đáo - mua từ Paris, ông đoán chừng vậy - một màu xanh nhạt như gỉ đồng lạ mắt. Thật khó diễn tả đúng mẫu người của phu nhân Dacres. Người cao, gương mặt hợp với yêu cầu hoàn cảnh của từng lúc. Từ cổ đến hai tay một màu da ăn nắng, như người ở vùng quê - nếu nhìn kỹ thật khó đoán là màu da tự nhiên hay bôi thuốc. Mái tóc màu xanh gỉ đồng, một mốt mới kỳ lạ do bàn tay khéo léo của người thợ làm tóc ở London. Chân mày vẽ xếch, mi mắt tô đậm, nhồi phấn mặt rất độc đáo, kẻ môi son thành đường cong vút che lấp nét tự nhiên, tất cả ăn khớp một cách kỳ lạ với bộ đồ dạ hội màu xanh bà đang mặc, cắt rất khéo, không cầu kỳ bằng một thứ vải lạ mắt như có ẩn màu sắc bên trong.
- Ai là một phụ nữ sành điệu - Satterthwaite vừa nói nhìn về phía phu nhân, vẻ đắc ý - Tôi chẳng hiểu con người thật của bà ta ra sao. Ông muốn nhân mạnh chỗ trí tuệ, chứ không phải thân hình.
Ngay lúc này giọng nói phu nhân nghe rền rền.
- Này anh ơi, không phải vậy. Em muốn nói là mọi việc ở đời được hay là mất. Mà thật sự ta chẳng được gì. Bây giờ nghĩ ra mới thấm thía. Lại một ý tưởng mới - khi người ta đã “thấm thía” mọi chuyện.
Ngài Charles đang mắc tay pha rượu cocktail vừa nói chuyện với Angela Sutcliffe, người cao lớn, tóc bạch kim, có cái miệng lém lỉnh, đôi mắt thật đẹp. Phu nhân Dacres đang nói chuyện với Bartholomew Strange.
- Chuyện của Ladisbourne ai cũng biết. Cả hội đua ngựa đều biết.
Giọng nói nhanh như hụt hơi - Ông ta nhỏ người, xảo quyệt để hàm ria tỉa ngắn, cặp mắt tinh quái.
Ngồi bên cạnh Satterthwaite là nàng Wills, người soạn vở kịch Đường một chiều, cả London đón chào mấy năm trước như một sự kiện táo bạo, đầy ấn tượng. Nàng Wills người cao, gầy, cằm lẹm, tóc hoe vàng quăn tít. Nàng đeo kính cặp mũi. mặc chiếc áo the màu xanh lá cây mỏng dính. Giọng nói, cao vút nghe không rõ.
- Em đã từng sống ở miền Nam nước Pháp - Nàng kể - Mà nói thật, em chẳng thích mấy. Chả có gì thân thiện, về nghề nghiệp thì đó là dịp tốt - đi xa học hỏi, biết rõ sự tình, anh biết đấy.
Ông Satterthwaite nghĩ ngợi: “Tội nghiệp con bé. Vì danh vọng mới phải xa lìa tổ ấm - căn hộ nhà trọ ở Bournemouth, một nơi sớm hôm đi về”. Ông tỏ vẻ khâm phục giữa nhà văn và tác phẩm là chuyện một trời một vực. Cái giọng điệu “tay chơi sành điệu” mà Anthony Astor phơi bày trong tác phẩm của bà - liệu nàng Wills có hội nhập được chút ý tưởng nào dù mong manh đến đây? Ông chợt nhận ra đàng sau cặp mắt kính là đôi mắt xanh nhợt nhạt thông minh lạ thường đang nhìn về phía ông dò chừng khiến ông bối rối. Dường như nàng Wills thấu rõ tâm can của ông.
Ngài Charles đang rót rượu cocktail ra ly.
- Ta mang đến cho em một ly nhé. - Ông Satterthwaite mở lời.
Nàng Wills cười khúc khích.
- Xin mời ông. - Nàng nói.
Cửa mở, Temple cất tiếng giới thiệu phu nhân Mary Lytton Gore và ông bà Babbington, rồi tới nàng Lytton Gore.
Ông Satterthwaite rót rượu cocktail cho nàng Wills rồi bước rón rén tới chỗ phu nhân Mary Lytton Gore. Đã từ lâu ông có thói háo danh. Ngoài cái thói hợm hĩnh, ông lại khoái mấy bà quý phái và phu nhân Mary không thoát khỏi cặp mắt ông.
Hoàn cảnh góa bụa neo đơn với đứa con nhỏ ba tuổi bà dọn đến căn hộ một gia đình ở Loomouth sống chung với một người hầu gái kể từ đó. Dáng người cao gầy, già trước tuổi năm mươi lăm. Lối ăn nói dịu dàng, có đôi chút rụt rè, bà thương nhất đứa con gái, nhưng còn dè chừng nó.
Còn Hermione Lytton Gore, được biết với cái tên khó hiểu là Egg, nàng có nét mặt giống mẹ nhiều hơn. Một mẫu người năng động, nàng không đẹp theo nhận xét của ông Satterthwaite, nhưng có nét hấp dẫn. Cái nét quyến rũ đó là ở chỗ sức sống phơi phới. Sức sống đó có thể nhân đôi so với bất kỳ người phụ nữ nào có mặt hôm nay. Tóc nàng đen nhánh, màu mắt xám, khổ người tầm thước. Nàng có nét độc đáo ở chỗ tóc xoắn úp vô sau gáy, mắt nhìn cuốn hút, tiếng cười có sức tỏa khiến người nghe nhận ra đó là sức sống tuổi trẻ vùng dậy nổi loạn.
Nàng còn đứng đó cười nói với Oliver Manders vừa mới tới.
- Em không hiểu sao anh lại chán đi biển. Xưa nay anh vẫn thích mà.
- Này Egg - em cưng ơi. Con người ta mỗi ngày mỗi khác mà.
Ông nhướng mày giọng lè nhè.
Thêm một người bạn trẻ, tuổi hai mươi lăm, đoán chừng là vậy. Trông cũng đẹp mã. Và còn nữa - còn một điểm - có phải là anh chàng người nước ngoài? Hình như không phải dân Ăng-lê chính cống.
Có người đang nhìn theo Oliver Manders. Cái con người nhỏ thó, đầu quả trứng để bộ ria lạ đời. Ông Satterthwaite liên tưởng đến chàng Hercule Poirot. Cái con người đó thật tử tế nhã nhặn. Satterthwaite còn hồ nghi anh chàng làm ra vẻ kiểu cách, cầu kỳ. Đôi mắt nho nhỏ sáng ngời như muốn nói một điều: “Ông nghi cho tôi là thằng hề chứ gì? Đóng kịch cho ông xem chăng? Được, hãy đợi đấy!”
Lúc này nhìn đôi mắt Hercule Poirot không còn vẻ sáng ngời nữa. Chàng có vẻ buồn, suy tư.
Ngài mục sư Stephen Babbington cai quản đại phận Loomouth vừa đến ngồi chung bàn với phu nhân Mary và ông Satterthwaite. Tuổi ngài đã ngoài sáu mươi, đôi mắt hiền từ nhìn rất mờ, vẻ rụt rè khiến mọi người xiêu lòng. Ngài đang nói với ông Satterthwaite:
- Ta may mắn có được ngài Charles ở lại đây. Ông ta tử tế, lại rộng lượng hào phóng. Có một ông hàng xóm vui tính cũng hay. Chắc phu nhân Mary phải thích, ta nói đúng mà.
Phu nhân Mary mỉm cười nhìn ông:
- Tôi thích ông ta lắm lắm, ông không huênh hoang tự đắc. Với ông ta là thế đó - Nụ cười rạng rỡ hơn, bà nói tiếp - Y như là trẻ con vậy.
Người hầu gái mang khay rượu cocktail vừa đến. Ông Satterthwaite ngẫm nghĩ người đàn bà sinh ra để lo cho mọi người. Tự hào là dòng dõi Victoria. Ông hài lòng lối sống đó.
- Mời mẹ dùng một ly cocktail, nhé? - Egg mở lời mắt ngước nhìn hớn hở, tay cầm ly rượu - Một ly thôi.
- Cám ơn con. - Giọng phu nhân Mary ngọt ngào.
- Tôi nghĩ là - Ngài Babbington vừa cất tiếng - nhà tôi cho phép tôi dùng một ly.
Nói xong ông phá ra cười, hiền từ như một vị tu hành.
Ông Satterthwaite liếc nhìn về phía ông bà Babbington đang say sưa bàn chuyện về phân bón.
- “Bà ta có đôi mắt đẹp” - Ông nói thầm.
Bà vợ mục sư Babbington trông bề ngoài lôi thôi, xốc xếch, sức sống tràn đầy, bà không màng đến mấy chuyện lặt vặt đó. Đúng y như Charles Cartwright đã từng nói - bà dễ chịu, tử tế.
- Ngài nói cho tôi hay, - Phu nhân Mary nhoài người về phía trước - người phụ nữ trẻ ngài đang nói chuyện lúc chúng tôi vừa đến là ai vậy - người mặc đồ xanh lá cây đó?
- Người đó là nhà soạn kịch. - Anthony Astor.
- Thế nào? Đó - người phụ nữ trẻ mặt mũi xanh xao đó sao? Ối giời! - Phu nhân hiểu ra - Khiếp thật! nghe như chuyện động trời. Cô ta trông chẳng giống - tôi muốn nói là cô ta giống hệt một cô kèm trẻ tại nhà, non tay nghề.
Nghe nói về cô Wills như vậy thì đúng quá rồi, ông Satterthwaite phá ra cười. Ngài Babbington đứng ngắm nhìn khắp gian phòng, mắt nhòa đi tội nghiệp. Ông hớp một ngụm rượu cocktail chợt thấy nghèn nghẹn cổ họng. Ngài không quen dùng cocktail, ông Satterthwaite nói đùa - có thể ông nghĩ chuyện đó còn mới mẻ - thật ra ông không thích cocktail. Ngài Babbington hớp thêm một ngụm cuối cùng vừa nhăn mặt, ông vừa nói:
- Có phải vợ tôi đứng đằng kia không? Ôi em yêu. - Ngài đưa tay sờ vô cổ họng.
Chợt Egg Lytton Gore lớn tiếng gọi:
- Oliver - mi là tên cho vay cắt cổ Shylock.
- Đúng rồi, - Ông Satterthwaite nghĩ thầm - chính hắn - không ai xa lạ - tên Do Thái đó mà!
Thật xứng đôi. Lại trẻ đẹp nữa... cũng cãi cọ như điên, lúc nào trông cũng khỏe mạnh...
Chợt ông nghe có tiếng động bên mình. Ngài mục sư Babbington vừa đứng dậy, loạng choạng, mặt ông nhăn rúm.
Giọng nói của Egg khiến mọi người bên trong cùng nhìn về một phía, phu nhân Mary đứng dậy giơ tay ra uể oải.
- Kìa, - Egg vừa cất tiếng - ngài Babbington mặt mày trông nhợt nhạt.
Ngài Bartholomew Strange vội chạy lại, đỡ dậy cố nâng bổng người ông dìu đến chiếc giường ở cuối góc phòng. Mọi người xúm lại, ai cũng muốn giúp một tay, thôi đành chịu...
Chỉ ít phút sau, Strange đứng phắt dậy, lắc đầu. Ông nói thẳng thừng, có nói vòng vo tam quốc cũng chẳng được gì.
- Tôi hối hận, - Ông vừa nói - ngài mục sư đã chết...
N CHƯƠNG 3: NHỮNG NGHI VẤN CỦA NGÀI CHARLES
ày ông Satterthwaite nhanh rồi vô đây nhé, có được không?
Ngài Charles thò đầu ra ngoài cửa nói.
Một giờ nữa trôi qua. Hết cơn bạo nạn tới hồi thới lai. Phu nhân Mary đang dìu bà Babbington ra bên ngoài cùng theo về tới khu giáo xứ. Cô Milray lanh trí bốc máy gọi bác sĩ đến ngay. Bữa cơm đạm bạc được dọn ra, xong rồi ai nấy lui về phòng riêng. Ông Satterthwaite tự mình ra về lúc nghe ngài Charles đứng ở cửa gọi, tại nơi vừa xảy ra cái chết của ngài mục sư.
Ông Satterthwaite bước vô trong, hơi ớn lạnh, già rồi tránh nhìn cảnh chết chóc... cũng sẽ tới lượt ông mà thôi... Nhưng mà sao ta phải nghĩ mấy chuyện đó.
- Ta còn sống hai chục năm nữa đó. - Satterthwaite dõng dạc nói một mình.
Bên trong căn phòng chỉ có mỗi Bartholomew Strange là người ngoài. Ông gật gù hài lòng khi vừa nhìn thấy Satterthwaite ở đó. - Chào ông bạn mình - Ông mở lời - Ta có thể hợp tác với Satterthwaite, một tay sành đời.
Có điều lạ là Satterthwaite lại ngồi gần bên ông bác sĩ. Ngài Charles đi tản bộ, hôm nay ông quên cái thói quen nắm tay để lòi ra. Không còn cái vẻ con nhà nòi hải quân như mọi khi.
- Charles thì không thích mấy chuyện đó - Ngài Bartholomew nói - Tội nghiệp Babbington chết rồi, tôi nói thiệt tình.
Satterthwaite nghĩ chuyện tình cảm khó nói sao cho hết. Chẳng có ai thích mấy cái chuyện đó. Ông cho là Strange có ý nghĩ khác ngoài những câu nói nghe mộc mạc vừa rồi.
- Đau buồn lắm. - Ông Satterthwaite nói, giọng còn dè dặt.
- Thật là đau buồn. - Ông nhắc lại với cái cảm giác ớn lạnh ban nãy.
- Ái chà, vâng, cũng đau khổ lắm. - Ông bác sĩ mở lời, giọng điệu nhà nghề.
Chợt Cartwright dừng lại.
- Ông có bao giờ thấy ai chết lạ vậy không, Tollie?
- Chưa. - Ngài Bartholomew trầm ngâm nghĩ ngợi - Ta không thể nói được thấy một lần như vậy.
- Nhưng mà, - Chợt ông ta nói tiếp - tôi chưa hề thấy nhiều cái chết như ông tưởng. Một chuyên gia về thần kinh không thể lại đi giết hết con bệnh của mình. Phải để cho họ sống mới hái thêm được tiền, Mac Dougal đã thấy biết bao nhiêu cái chết nhiều hơn tôi, tôi không còn gì để hoài nghi.
Bác sĩ Mac Dougal coi cả khu Loomouth, người mà nàng Milray đã mời đến đây.
- Mac Dougal không nhìn thấy cái chết của mục sư, tức là chết trước khi ông đến. Ta chỉ nói được bây nhiêu với bác sĩ, bạn cũng nói được có bấy nhiêu. Bác sĩ gọi trường hợp của mục sư là mắc kinh phong, bởi ngài đã lớn tuổi, sức khỏe kém cỏi. Tôi thấy chưa yên tâm.
- Ngài bác sĩ cũng chưa yên tâm, - Có tiếng nói lầm bầm - nhưng đã là bác sĩ, ông phải cho ý kiến. Mắc kinh phong nói nghe hay đấy, thực ra chả có nghĩa gì. Chỉ có bọn phàm phu tục tử mới dám tin. Nói đúng ra ngài Babbington đã già, sức khỏe cũng đã khiến ông không cầm cự nổi mấy lúc gần đây như lời vợ ông kể lể. Vậy chắc chắn là ngài mục sư có trục trặc gì bên trong nội tạng.
- Có thể gọi đó là một dạng kinh phong, hay là gì khác nữa?
- Dạng thế nào?
- Dạng bệnh đã có từ trước chăng?
- Nếu ngài đã học qua ngành y khoa, - Ngài Bartholomew nói - thì phải hiểu là không hề có một trường hợp nào gọi là dạng điển hình. - Thế nào, có thật là ngài có gợi ý như vậy, thưa ngài Charles? - Satterthwaite hỏi lại.
Cartwright lặng thinh. Ông khoát tay làm một động tác vu vơ. Còn Strange lại cười thầm.
- Charles còn không hiểu được mình huống hồ - Ông nói - Đầu óc ông ta lúc nào cũng bi quan yếm thế.
Ngài Charles phác một cử chỉ chê trách. Gương mặt ông có vẻ trầm ngâm, nghĩ ngợi. Ông khẽ lắc đầu, vẻ lơ đãng. Một sự trùng hợp khó lường được như muốn trêu ông Satterthwaite và ông đã hiểu được. Aristide Dural, trưởng cơ quan mật vụ, lột trần âm mưu lắm trò của nhóm “Đường dây ngầm”. Còn một điểm nữa ông chắc mẩm. Ngài Charles đang kéo lê từng bước đi. Aristide Dural được mệnh danh là người đi cà nhắc.
Ngài Bartholomew vẫn nói chuyện lẽ phải với ngài Charles về chuyện hoài nghi vô căn cứ.
- Vâng ạ, ngài còn nghi ngờ gì nữa, Charles? Một vụ tự sát chăng? Hay là bị ám sát? Kẻ nào nỡ ra tay sát hại một nhà tu hành vô tội. Chuyện lạ đời. Một vụ tự tử? Được rồi, ta giả thiết là vậy. Ta có thể hình dung ra lý do mục sư Babbington lại tự tử...
- Lý do nào?
Ngài Bartholomew khẽ lắc đầu.
- Làm thế nào biết được trong đầu người ta đang nghĩ gì? Cũng là một ý kiến - giả thiết ngài Babbington đã được cho hay đang mắc một căn bệnh hiểm nghèo - như ung thư chẳng hạn. Lúc đó có thể viện cớ được. Ngài không muốn nhìn vợ phải chịu khổ sở vì căn bệnh kinh niên. Không có gì ngăn chúng ta không nghĩ
đến chuyện ngài Babbington tự kết liễu đời mình.
- Tôi không nghiêng về giả thiết cho đó là một vụ tự tử. - Ngài Charles mở lời.
Bartholomew Strange lại cười thầm.
- Đúng quá. Ngài không thích chúng ta lơ mơ, ngài cần cái cụ thể cái mới đây và chất độc còn chưa tìm thấy.
Vẻ mặt ngài Charles nhăn rúm.
- Tôi không chắc mình cần biết mấy chuyện đó. Đồ quỷ sứ, Toilie. Ông nên nhớ là chính tay tôi pha rượu cocktail.
- Vậy là vì tình cờ mang tội ngông cuồng giết người, có phải như thế không nhỉ? Tôi cứ tưởng bọn mình còn chất độc trong người và sẽ chết trước lúc bình minh.
- Chó thật, ông đừng có đùa, nhưng mà... - Chợt ngài Charles bừng bừng nổi giận.
- Nói thật tôi không đùa đâu. - Ngài bác sĩ nói.
Giọng nói ông có trước. Gay đây, xem ra không phải là không muốn chia sẻ.
- Tôi không thể dửng dưng trước sự mất mát của ngài Babbington đáng thương. Tôi chỉ nói đùa vừa lúc nghe ông nêu ra ý kiến đó, Charles, bởi vì - phải - bởi vì tôi không muốn nhìn thấy ông do khinh suất mà làm hại người khác.
- Hại người là thế nào? - Ngài Charles hỏi lại.
- Tôi nghĩ ông hiểu ý tôi định nói rồi, ông Satterthwaite ạ!
- Tôi nghĩ là, có lẽ tôi chỉ đoán chừng vậy thôi. - Satterthwaite đáp.
- Ngài có thấy, Charles - Bartholomew nói tiếp - cái chuyện nghi ngờ vớ vẩn đó chỉ hại nhau mà thôi? - Và bây giờ chuyện đó ai cũng hay biết. Có ý kiến cho là một vụ mưu hại, hoàn toàn không có cơ sở, chỉ làm cho bà Babbington khổ thêm. Tôi đã một hai lần biết qua câu chuyện tương tự như vậy. Cái chết bất ngờ - rồi chuyện ngồi lê đôi mách, tin đồn bay đi khắp nơi, càng đồn dữ nữa, cứ thế không ai chịu ỉm tiếng. Khốn nạn thật, này Charles, ông có thấy chuyện đó có khủng khiếp và vô vị đến cỡ nào không? Ông chỉ lo chăm chú vô mấy cái chuyện dự đoán đua ngựa.
Gương mặt người nghệ sĩ lộ vẻ phân vân.
- Tôi không hề, nghĩa là chuyện nó sẽ như thế đó. - Giọng ông thành khẩn.
- Ngài là một người bạn tuyệt vời, Charles, thế nhưng lại để tâm trí mình đi lạc đâu đâu. Nghe này: Ngài có bao giờ thực sự tin là có ai, ai đó mặc dù, muốn giết chết một con người hiền từ vô tội đến vậy?
- Tôi cho là không - Ngài Charles đáp lại - Không, nhưng ông biết đó, nghe thật buồn cười. Tiếc thay, Tollie, đó không phải trò chơi “mà mắt” do tôi mà ra. Thành thật mà nói linh tính báo cho biết có sai lầm.
Ông Satterthwaite chợt ho khan.
- Tôi có ý kiến được không? Lúc ngài Babbington bước vô bên trong căn phòng, chỉ một lúc sau thấy ngài có vẻ uể oải và ngay cả sau khi vừa dùng xong ly rượu cocktail. Lúc đó, tôi chợt thấy ngài nhăn mặt lúc nâng ly nốc cạn. Tôi tưởng là ngài không quen mùi vị thứ rượu đó. Giả sử gợi ý thăm dò của ngài Bartholomew đúng - ở chỗ mục sư Babbington vì một lý do nào đó có ý định tự tử. Điều đó khiến tôi bàng hoàng, trong khi ý kiến cho là một vụ âm mưu giết người, nghĩ thật buồn cười.
- Tôi nghĩ cũng có thể đúng, dù không chắc lắm, ngài Babbington bỏ một thứ gì đó vô ly rượu không ai nhìn thấy.
- Trước mắt là các vật dụng bên trong căn phòng chưa có ai đụng tới. Ly rượu cocktail còn nguyên chỗ cũ. Đó là của mục sư Babbington. Tôi biết rõ vì tôi ngồi bên cạnh nói chuyện với ngài. Giả sử lúc đó ngài Bartholomew mang ly rượu đi phân tích - chuyện đó có thể im lặng mà làm chẳng ai nói năng gì cả.
Ngài Bartholomew đứng dậy cầm ly rượu trên tay.
- Đúng rồi, tôi nghi theo ý ngài, Charles, tôi dám chắc trong ly đó là rượu gin và Vermouth mà thôi.
- Được. - Ngài Charles nói ngay.
Ngài nói thêm một câu rồi cười héo hắt:
- Này, Tollie ông biết đấy, ông cũng phải chịu một phần trách nhiệm vì ý đồ ngông cuồng đó mà ra cả.
- Tôi à?
- Chứ sao, ông còn nhớ câu chuyện vụ án ông vừa kể sáng nay? Ông kể là cái tay Hercule Poirot đi đến đâu là gieo tang tóc đến đó. Hắn vừa mới tới là xảy ra cái chết bất đắc kỳ tử. Lúc ấy tôi nghĩ ngay một vụ giết người.
- Tôi chưa tin. - Bartholomew nói xong chợt im bặt.
- Phải đây - Charles Cartwright nói xen vô - Tôi cũng nghĩ như vậy. Còn ông thì sao, Tollie? Ta đến hỏi thử xem gã có ý kiến gì về vụ đó. Như vậy có phải phép không?
- Chuyện tế nhị. - Ông Satterthwaite nói lầm bầm.
- Tôi biết rõ quy định ngành y tế, còn chuyện phát hiện vụ án thì chịu thua.
- Ông không thể yêu cầu một ca sĩ chuyên nghiệp ca hát cho ông nghe - Satterthwaite nói thầm - Có ai đi hỏi một thám tử nhà nghề chuyện trinh thám. Chuyện xem ra thật tế nhị.
- Cũng là một ý kiến. - Ngài Charles nói.
Có tiếng gõ nhè nhẹ bên ngoài cửa, rồi Hercule Poirot đứng đó nhìn chăm chăm mọi người tỏ ý xin lỗi.
- Vào đây đi ông bạn mình - Ngài Charles nói lớn tiếng - Chúng tôi vừa nhắc đến tên ông.
- Tôi thật có lỗi với quý vị.
- Có sao đâu. Làm một ly nhé?
- Cám ơn ngài, tôi không uống rượu whisky. Cho tôi một ly xi rô vậy.
Ngặt nỗi tủ rượu ngài Charles không có một chai xi rô nào. Sau khi khách đã ổn định chỗ ngồi. Ngài đề cập ngay vấn đề.
- Tôi không thích nói chuyện dài dòng - Ngài kể lể - vừa mới nhắc tới ông đó, ông Poirot, và... và... chuyện xảy ra tối nay. Này, ông thấy có gì khác thường không?
Poirot nhướng mày. Gã lên tiếng:
- Khác thường à? Ngài định nói thế nào, khác thường?
Bartholomew Strange nói ngay:
- Ý ông bạn tôi muốn nói là người ta giết mục sư Babbington.
- Và ông không tin vậy sao, ô hay kìa?
- Chúng tôi muốn biết ý kiến của ông.
Poiròt nói, vẻ trầm ngâm:
- Ngài bị ốm bất thình lình, đúng rồi, quá đột ngột.
- Phải đây.
Ông Satterthwaite giải thích về giả thiết một vụ tự tử và có đề nghị nên làm một cuộc phân chất rượu cocktail còn trong ly. Poirot gật đầu nhất trí.
- Chuyện đó dù sao chẳng hại gì. Theo kinh nghiệm nhà nghề, tôi không ngờ lại có vụ giết một người già cả hiền lành, vô tội như vậy được. Và ý tưởng về một vụ tự tử lại càng khó tin hơn. Dù sao chứng cứ ly rượu cocktail cũng cần phải xét đến.
- Và rồi kết quả phân chất theo ông nghĩ có thể là thế nào?
Poirot phát một cử chỉ nhún vai.
- Tôi à? Tôi chỉ đoán mò. Còn ngài muốn hỏi tôi có đoán ra được kết quả phân chất phải không?
- Vâng.
- Lúc đó tôi đoán là người ta chỉ còn nhìn thấy chất cặn lắng của rượu Martin hảo hạng. - Gã cúi chào ngài Charles.
- Đầu độc bằng một ly rượu cocktail bày ra trên khay mời khách. Vậy là, phải có trình độ lắm thật là cao siêu. Và giả sử ngài mục sư già cả đáng thương đó có ý định tự tử, tôi nghĩ không dại gì lại tìm đến chỗ hội! hè như thế này. Làm vậy là tỏ ra còn chủ quan xem thường, tôi vẫn nghĩ ngài là một nhân vật đáng kính. - Gã chợt dừng lại - Đó là ý tôi muốn nói cho quý vị yên tâm.
Một thoáng lặng thinh khắp cả gian phòng. Ngài Charles thở dài, ông bước đến mở một cánh cửa sổ nhìn ra ngoài.
- Gió đang xoay chiều cùng một hướng. - Ngài nói.
Người thủy thủ già quay lại và chàng thám tử đã đi từ lúc nào.
Theo cách nhìn một người ngoài cuộc, ông Satterthwaite nghĩ là xét cho cùng ngài Charles cũng ao ước được dự vô cái màn kịch đó dù nó chẳng dính dáng gì đến ông.
V CHƯƠNG 4: NÀNG ELAINE TÂN THỜI
âng, ông nghĩ thế nào, thưa ông Satterthwaite? Nghĩ thiệt tình đó nghen.
Ông Satterthwaite có vẻ lúng túng, không còn cách tránh né. Egg Lytton Gore dồn ông vô thế bí. Mấy con mụ đàn bà tân thời này gian ác, bọn chúng còn sống nhăn đó.
- Ngài Charles đã gieo cái ý tưởng đó trong đầu cô chứ gì? - Ông nói.
- Không đâu, ngài không làm chuyện đó, nó có sẵn đây nè, từ thuở nào, thật là tình cờ tôi vừa nghĩ đến.
- Ngài già cả rồi, sức khỏe đã hao mòn.
Egg cắt ngang câu chuyện.
- Chuyện vớ vẩn. Ngài bị chứng viêm dây thần kinh và đau khớp nhẹ. Ông không nên cho đó là một cơn động kinh. Ngài không bị chứng đó. Ngài có thể sống tới chín mươi tuổi. Ông nghĩ sao về cuộc điều tra?
- Chuyện đó chẳng có gì lạ.
- Cô nghĩ sao các bằng chứng mà bác sĩ Mac Dougai nêu ra? Về mặt chuyên môn và cả những chi tiết của những bộ phận nội tạng, liệu những lời lẽ ông ta rào đón quanh co khiến ông phải suy nghĩ nhiều hơn? Điều đó như thế này: không có chứng cứ nào để kết luận cái chết đó là không bình thường. Ông ta không thể nói được cái chết đó là bình thường.
- Ông tỉ mỉ quá phải không, bố già ơi?
- Chủ yếu là ông ta có nhắc, ông bị lúng túng nhưng lại không có chỗ dựa nên phải nêu ra nguyên tắc y khoa dự phòng. Vậy thì ngài Bartholomew Strange nghĩ sao?
Ông Satterthwaite nhắc lại châm ngôn người thầy thuốc.
- Ông ta nghe rồi chê bai, phải không? - Egg vừa nói, trầm ngâm nghĩ ngợi - Hẳn nhiên, ngài là một người lúc nào cũng dè dặt, tôi muốn nói ngài là một y sĩ có tiếng tăm ở phố Harley Street.
- Trong ly chỉ toàn là rượu gin và Vermouth. - Ông Satterthwaite nhắc nhở nàng.
- Như vậy là tạm ổn. Tuy nhiên tôi còn thắc mắc chuyện gì xảy ra tiếp theo sau cuộc điều tra.
- Chuyện đó ngài Bartholomew đã kể cho cô nghe rồi thì phải?
Ông Satterthwaite chợt thấy thích tò mò tìm hiểu.
- Không phải tôi mà là Oliver. Oliver Mander - gã có mặt trong bữa ăn tối hôm đó, có lẽ ông không còn nhớ mặt gã.
- Có chứ, tôi nhớ rõ lắm. Có phải hắn là một người bạn tâm giao của quý vị?
- Đúng hơn là thường lui tới. Bây giờ chúng tôi không còn gặp nhau. Gã đi làm việc ở văn phòng một người chú ngoài thành phố, gã coi bộ ăn nói ngọt ngào lắm, ông hiểu ý tôi muốn nói gì chứ. Cứ nhắc mãi chuyện xin nghỉ việc để theo nghề nhà báo, hắn viết cũng khá lắm. Tôi không muốn nhắc chuyện cũ, giờ thích kể lể. Gã có ý muốn làm giàu. Tôi nghĩ mọi người coi bộ chán chê nghe chuyện tiền, phải vậy không ngài Satterthwaite?
Cái sức trẻ của nàng lại hiện về nơi ông, cái độ tuổi còn non nớt, kiêu hãnh.
- Này cưng, - Ông nói - có rất nhiều người họ thích chê đủ mọi thứ.
- Thảy đều là một bọn bẩn thỉu, thế đấy. - Egg vui vẻ tán đồng quan điểm - Thế nên tôi có phê phán mục sư Babbington. Vì ông biết đó, ông ta là một người được chiều chuộng quá đáng. Ngài định làm lễ kiên tín cho tôi, mấy chuyện đó và nhiều thứ khác nữa thảy đều là những chuyện vặt vãnh. Này ông Satterthwaite, quả thật tôi tin đạo Cơ Đốc, không như mẹ, miệng đọc Thánh kinh làm lễ sáng sớm và những việc khác nữa, nhưng tin theo trí tuệ dựa vào lịch sử. Nhà thờ là nơi tập hợp giáo điều của Thánh Phao lô - nói đúng ra nhà thờ là một nơi hỗn độn - nhưng Cơ Đốc giáo thì hoàn chỉnh. Cho nên tôi không thể là người đảng viên như Oliver được. Thực tế chúng ta cùng chung một lý tưởng, cùng chia sẻ những của cải vật chất, nhưng khác ở chỗ - phải, tôi không cần phải gia nhập vô chỗ đó. Nhưng dòng họ Babbington là những tín đồ Cơ Đốc giáo, không soi mói vô chuyện người khác, không kết tội ai, không hề có ác ý với ai. Bởi họ là những người được sủng ái - và còn Robin nữa...
- Robin nào?
- Đứa con trai của họ... Nó đi qua bên Ấn Độ rồi bị giết chết... tôi hơn nó một cái đầu...
Đôi mắt Egg lim dim. Nàng nhìn ra biển xa...
Chợt nàng quay lại nhìn về phía ông Satterthwaite.
- Đấy ông biết không, tôi cảm thấy được thêm sức mạnh. Giả sử đó không phải là một cái chết bình thường...
- Này cô bé!
- Thế đấy, thật quái đản! Ông phải nhìn nhận đó là chuyện quái đản.
- Nhưng thực tế có phải ông thừa nhận nhà Babbington chẳng hề ân oán gì ai?
- Kể cũng lạ kỳ thật. Tôi chưa hề biết qua một kiểu mẫu như vậy...
- Quái lạ! Trong ly cocktail chẳng còn thấy gì ráo.
- Biết đâu có kẻ chích ông một mũi kim.
- Có chứa thuốc độc như loại tên bắn của dân da đỏ vùng Nam Mỹ. - Ông Satterthwaite nói thêm vô như có ý chế giễu.
Egg cười khà.
- Đúng quá, không để lại một dấu vết khả nghi nào. Ồ, ra thế, ông quả là một bậc thầy siêu đẳng. Rồi mai kia ông sẽ thấy là chúng tôi nói đúng. - Chúng tôi là ai kia?
- Ngài Charles và tôi. - Đôi má nàng đỏ ửng.
Ông Satterthwaite nhớ lại thời của ông, lúc đó người ta có thể tìm thấy cuốn “Trích dẫn cho mọi tình huống” ở các quầy sách.
Ông ngượng ngùng chợt nghĩ tới mấy câu trích dẫn - của nhà thơ Tennyson mà ngày nay ít ai còn nhắc nhở. Hơn nữa, dù dải dầu mưa nắng ngài Charles không còn dấu tích và Egg Lytton Gore dù nhiệt tình và hăng say cũng không dám liều mạng vì tình trên chiếc bè trôi theo dòng nước.
- Chỉ trừ ra, - Ông Satterthwaite nghĩ ngợi - sức trẻ của nàng...
Bọn con gái thường được mấy ông tuổi trung niên dòm ngó để nhớ lại một thời đã qua. Egg không thoát khỏi ngoại lệ đó. - Sao ngài không chịu lấy vợ? - Nàng chợt hỏi.
- Ơ kìa... - Nói đến đó ông Satterthwaite dừng lại. Ông chỉ có thể trả lời một cách thẳng thắn - Nên dè dặt, rồi ông chợt nghĩ chắc gì Egg Lytton Gore chịu nghe theo.
Ngài Charles đã từng dan díu nhiều phụ nữ, nào là các diễn viên điện ảnh và vô số mấy bà, bao giờ ngài cũng né tránh chuyện vợ chồng. Egg muốn được nghe kể lại chuyện tình ướt át hơn.
- Người tình đó chết vì bệnh lao phổi - có thể là một diễn viên điện ảnh có cái tên vần M, phải chăng nàng rất được ngài yêu thương?
Ông Satterthwaite còn nhớ người đàn bà vừa được nhắc tới. Người ta thường gán tên ngài với cô nàng, nhưng chỉ thoáng qua rồi thôi, và ông Satterthwaite cũng có lúc không tin chuyện ngài cứ ở vậy để giữ trọn tình yêu với cô nàng. Ông kể lể nghe thật hay ho.
- Tôi nghĩ là ngài có cả lố người tình. - Egg chợt nói.
- Ờ, mà có thể là vậy. - Ông Satterthwaite nói, vẻ mặt nghiêm lại.
- Tôi thích mấy ông hay dan díu - Egg nói - Bởi họ sống bình thường hay có thể gọi là như vậy.
Lại đụng chạm đến vẻ nghiêm nghị của ông Satterthwaite. Ông cảm thấy lúng túng khi trả lời. Egg không nhìn ra được vẻ bối rối của ông. Nàng cứ vô tư kể tiếp.
- Ông biết đó, ngài Charles thông minh tài trí hơn là ông tưởng. Có lúc ngài thêm thắt cho ý vị và đàng sau cái vỏ bề ngoài đó thật sự là một thủ lĩnh. Ngài lái tàu mới thật tài tình, để nghe ngài kể lể. Nghe ngài kể lể ông sẽ thấy là mọi chuyện như trò đóng kịch, nhưng không phải vậy. Chuyện làm ăn nó cũng y chang vậy. Ông thấy đó, mọi việc đều mang lại hiệu quả - và ý ngài muốn sắm vai một thám tử nhà nghề. Những gì tôi muốn nói là: tôi thấy ngài đã làm tròn phận sự.
- Hình như vậy. - Ông Satterthwaite nhất trí ngay. Ông nói theo kiểu uốn giọng bộc lộ hết cả tâm tư. Egg dựa vô đó mới nói theo.
- Nhưng ông cho cái chết của ngài mục sư không phải là chuyện kinh dị. Thật ra đó chỉ là chuyện không may tại buổi dạ tiệc. Một tai họa giữa đời thường. Vậy thì chàng Poirot nghĩ thế nào? Gã cần phải hiểu.
- Chàng Poirot dặn dò chúng ta ráng chờ kết quả phân chất rượu cocktail, theo ý gã mọi chuyện coi như êm xuôi.
- Thế thôi, - Egg nói - Ngài thì già cả rồi, quá đát. - Ông Satterthwaite nhăn nhó - Egg nói tiếp không để ý vẻ giận dữ nơi ông - Thôi ông về nhà uống trà với mẹ. Bà thích ông hơn, bà nói thật đó.
Nghe lời tâng bốc khéo ông đi ngay.
Đến nơi Egg nhào tới gọi máy cho ngài Charles thay mặt vị khách chưa ra mắt.
Ông Satterthwaite đang ngồi bên trong căn phòng khách nhỏ, màn cửa phai màu, bàn ghế cũ kỹ đánh bóng thật láng. Bên trong trang trí theo kiểu thời Victoria. Ông Satterthwaite gọi đó là nơi dành riêng cho các phu nhân, ông thích lắm.
Buổi nói chuyện với phu nhân Mary thật cởi mở không văn hoa bóng bẩy, một cuộc chuyện trò thân mật, nhắc chuyện ngài Charles. Ông Satterthwaite có biết gì nhiều về ngài Charles? Không thân lắm, ông biết. Ông chỉ chú ý đến nội dung tiền bạc trình bày trong những vở kịch của ngài mấy năm trước đây. Họ quen biết nhau từ dạo đó.
- Ngài ăn nói rất có duyên. - Phu nhân Mary mỉm cười kể - Tôi cũng nghĩ như con bé Egg. Vậy là ông cũng phải biết từ lâu còn bé Egg thích tôn sùng thần tượng nó yêu thích chứ?
Ông Satterthwaite ngạc nhiên không hiểu sao một người làm mẹ, phu nhân Mary lại không thấy khó chịu về câu chuyện tôn sùng thần tượng. Hình như bà nghĩ chuyện đó chẳng nhằm nhò gì.
- Egg chưa hiểu đời nhiều - Phu nhân thở dài nói - Chúng tôi đã từng gặp khó khăn. Tôi có người thân giới thiệu nó, đưa nó đến những nơi quen biết ở thành phố, từ đó nó không đi đâu xa ngoài những lúc đi thăm viếng ai đó. Tôi nghĩ bọn trẻ cần đi và gặp gỡ mọi người, làm quen nhiều người. Nếu không - cứ quanh quẩn mãi một chỗ, thật tai hại.
Ông Satterthwaite nghe theo, ông chợt nhớ tới ngài Charles và cái thú thích lênh đênh trên biển, mấy chuyện đó phu nhân Mary chẳng bận tâm đến, một lát sau bà mới nói.
- Có ngài Charles thật đỡ cho Egg nhiều lắm. Tầm nhìn nó được mở rộng. Ông biết đó quanh đây bọn trẻ chỉ còn vài đứa - nhất là đàn ông lại hiếm. Tôi cứ lo
rồi có lúc Egg sẽ lấy ai đó nó bắt gặp, nhìn quanh không còn ai khác hơn.
Chợt ông Satterthwaite có linh tính.
- Có phải bà nhắc cái anh chàng Oliver Manders?
Phu nhân mặt đỏ bừng ngạc nhiên thật thà.
- Ô kìa, ông Satterthwaite, thật tôi không ngờ ông lại biết chuyện đó! Tôi đang nghĩ tới chàng ta. Hắn và Egg quấn quít thời gian lâu, tôi biết mình đã lạc hậu, tôi lại không hợp một vài điểm của anh chàng.
- Tuổi trẻ bọn chúng còn sôi nổi. - Ông Satterthwaite nói.
Phu nhân Mary lắc đầu:
- Tôi ngại lắm, nói như ông cũng đúng, thật vậy tôi biết rõ chàng ta, có ông chú nhà giàu, vừa mới đưa hắn vô chỗ xưởng làm, nhưng mà chuyện không phải vậy, tôi thật ngớ ngẩn nhưng mà...
Bà lại lắc đầu, còn biết nói gì hơn nữa.
Chợt ông Satterthwaite cảm thấy thân mật lạ lùng. Ông trầm tĩnh nói rõ từng tiếng.
- Dầu sao, thưa phu nhân Mary, bà không muốn cô con gái lấy một người gấp hai tuổi nó.
Chợt bà khiến ông kinh ngạc phải nghe bà nói:
- Tôi thấy như vậy yên tâm hơn. Nếu ông làm y theo đó, ít ra ông khẳng định được địa vị của mình. Ở vào cái tuổi ông, người ta không còn làm những điều gàn, dở hơi; chắc chắn sẽ không có chuyện đó đâu...
Ông Satterthwaite định nói thêm thì Egg vừa quay trở lại.
- Con đi đâu mà lâu dữ vậy, hả con? - Bà mẹ hỏi.
- Con bận nói chuyện với ngài Charles, mẹ ơi. Ngài cô đơn trong niềm vinh quang. - Nàng quay nhìn ông Satterthwaite vẻ trách móc - Ông không cho tôi hay buổi họp mặt thân mật đã qua.
- Mọi người đã ra về từ hôm qua, chỉ trừ ngài Bartholomew Strange ở lại sáng mai mới về, vậy mà sáng nay có điện khẩn ngài về lại London ngay. Một người bệnh, thân chủ ngài đau nặng.
- Tội nghiệp thật. - Egg nói - Bởi tôi muốn điều tra buổi tiệc hôm đó, biết đâu có thể tìm ra manh mối.
- Manh mối nào, hả con?
- Ông Satterthwaite biết đó. Ôi chuyện đó có gì đâu. Oliver còn ở lại đây. Ta sẽ lôi kéo hắn về một phe. Hắn sẽ cầm đầu nếu thấy cần. Lúc ông Satterthwaite trở về lại chòi canh thì vị khách mời đang ngồi ngoài mái hiên nhìn ra biển.
- Chào Satterthwaite. Ông đến uống trà với nhà Lytton Gore chứ?
- Có. Ông thấy có gì lạ không?
- Có gì đâu. Egg có gọi cho tôi... Bọn con gái bây giờ như Egg đó...
- Hấp dẫn. - Ông Satterthwaite nói.
Ông đứng phắt dậy bước đi không biết đi đâu.
- Tôi cầu xin Chúa, - Ông chợt nói giọng chua chát - đừng cho tôi trở lại chỗ xúi quẩy này nữa.
CHƯƠNG 5: THOÁT KHỎI TAY PHU NHÂN
Ông Satterthwaite nghĩ ngợi: Ông ta cũng biết nhiều đấy chứ.
Chợt ông thấy xót thương cho người bạn chủ nhà Charles Cartwright tuổi đã năm mươi hai, một tay chơi phóng túng đang yêu. Ông cho đó là vì bất mãn với đời. Đồng thanh tương ứng mà.
- Bọn đàn bà con gái không để ai nhìn thấy ruột gan mình đâu. - Ông Satterthwaite chợt nghĩ - Egg thì phơi bày hết tâm tình cho ngài Charles. Chỉ trừ khi nó chẳng có nghĩa gì. Với anh chàng Manders là một thí dụ.
Lối nhận định vấn đề của ông Satterthwaite thật là sắc sảo.
Còn một điểm nữa ông chưa để mắt đến, vì ông chưa hiểu rõ mình. Đó là cái giá trị chồng chất theo năm tháng một thời tuổi trẻ. Với một người có tuổi như ông Satterthwaite, chuyện Egg đi yêu một người già hơn mình là một điều huyễn hoặc. Với ông, sức trẻ là một món quà tặng thiêng liêng hơn hết.
Ông thấy phấn chấn và tin tưởng hơn, ngay lúc sau giờ ăn tối Egg gọi máy xin phép được đi cùng với Oliver, và xin được thỉnh giáo.
Đấy mới thật là một anh chàng điển trai, đôi mắt với hàng lông mi đen nhánh dày cộm, dáng điệu phong lưu. Anh chàng đến đây để hà hơi tiếp sức cho Egg, vậy mà nhìn kỹ anh chàng có dáng dấp hoài nghi, yếm thế.
- Ngài có thể nói giúp với nàng chuyện đó được chứ? - Gã bộc bạch với ngài Charles - Tôi thấy nhờ sống nơi thôn dã nàng mới được sức khỏe tốt. Ngài biết rõ Egg, ngài mới là người thực tình. Cái sở thích của ngài mới là trẻ con, tội lỗi, nó nặng phần khoái cảm thảy đều vô nghĩa.
- Anh bi quan thế, Manders?
- Thưa ngài, tôi nghĩ sao nói vậy. Một người bạn chí cốt. Lạ thay lại nghĩ toàn những chuyện do trời mà ra.
- Tôi tin anh nói đúng. - Ngài Charles nói. Ông Satterthwaite liếc nhìn ngài. Tối nay Charles Cartwright định đóng vai gì đây. Chắc không phải trong vai người cựu thủy thủ, cũng không phải một tay thám tử quốc tế. Không, ngài đang thủ một vai mới, lạ thường hơn.
Vai mới này khiến ông Satterthwaite kinh ngạc làm sao, đứng sau anh chàng Oliver Manders, ngài chỉ còn cái bóng mờ.
Ngài ngồi dựa vô thành ghế trong bóng mờ nhìn theo đôi tình nhân, Egg và Oliver đang bàn bạc - Egg thì sôi nổi nồng nàn còn Oliver thì uể oải hờ hững. Ngài Charles ngồi đó, vẻ già nua mệt mỏi hơn bao giờ.
Egg mời gọi ngài hơn một lần nồng nàn, tin yêu. Ngài cứ lạnh lùng.
Mọi người chia tay lúc đồng hồ điểm mười một giờ. Ngài Charles tiễn chân khách ra bên ngoài hàng hiên, đi tìm cây đuốc soi đường đi xuống dốc đá lởm
chởm.
Chẳng cần ánh đuốc soi sáng. Đêm nay trời sáng trăng, trong vắt thật huyền ảo. Hai người bước lần từng bước đổ dốc cho đến lúc không còn nghe tiếng nói. Đêm trăng hay không trăng ông Satterthwaite chẳng sợ lạnh. Ông quay về căn phòng - thủy thủ. Ngài Charles còn nán lại ngoài trời một hồi lâu....... Ngài trở vô chỗ ở, đóng sập cánh cửa sổ, quay lưng lại bước đến chiếc bàn kê sát tường pha một ly rượu whisky pha sô-đa. - Satterthwaite - Ông cất tiếng - Ngày mai tôi giã từ nơi này ra đi vĩnh viễn.
- Thế nào? - Ông Satterthwaite bàng hoàng thét to.
Nghe ông hỏi và trước phản ứng như vậy ngài Charles Cartwright rất đau buồn.
- Đành chịu vậy thôi - Ngài nói nhấn mạnh từng chữ một - Ta sẽ rao bán chỗ này. Chuyện của ta thì không ai hiểu được đâu. - Ngài hạ thấp giọng, ề à... nghe rõ mồn một.
Qua một buổi tối sắm vai kẻ chầu rìa thì lòng vị kỷ nơi ngài Charles trổi dậy muốn phục thù. Đây là lớp trong vở kịch nổi tiếng. Hồi kịch Tự Quên Mình thường do ngài thủ diễn như trong vở “Không chơi với vợ người khác”, “Giã từ người yêu”.
Ngài giở giọng suồng sã và kể tiếp:
- Cắt ngang ngay... chỉ có cách đó... Đồng thanh tương ứng, ta biết... Bọn chúng sinh ra để được ở với nhau, hai đứa đó... Ta phải đi thôi... - Đi đâu mới được chứ? - Ông Satterthwaite hỏi lại.
Ngài nghệ sĩ phác một cử chỉ dè dặt.
- Ta đi bất cứ đâu. Chuyện có gì lạ không nhỉ? - Chợt ngài đổi giọng từ tốn - Có thể đi Monte Carlo. - Ngài tìm thấy lại cái vẻ tự nhiên thường ngày tuy không được hứng thú cho lắm - Ta đi đến giữa vùng sa mạc có khi ta đi lạc giữa chợ đời, mà có nghĩa lý gì không nhỉ? Từ nơi sâu thẳm con người luôn cảm thấy đơn độc, lẻ loi. Ta như tự bao giờ, vẫn mang một tâm hồn cô đơn...
Rõ ràng đó là một lối thoát.
Ngài gật đầu chào ông Satterthwaite và bước ra ngoài.
Ông Satterthwaite đứng dậy định theo ngài vô giường ngủ.
- Nhưng không phải giữa sa mạc. - Ông nghĩ ngợi và cười thầm một mình.
Sáng sớm, ngài Charles vội đến xin lỗi ông Satterthwaite nếu bữa nay ngài có việc phải đi ra phố.
- Đừng bỏ dở chuyến đi nghe ông bạn. Ngài còn ở lại đến ngày mai. Tôi biết ngài sẽ đi Harbertons thuộc vùng Tavistock. Sẽ có xe đưa ngài đến nơi. Tôi đang nghĩ đến chuyện phóng lao phải theo lao. Không, ta lỡ ngồi trên lưng cọp.
Ngài Charles vươn vai tư thế hiên ngang, tay siết chặt bàn tay ông Satterthwaite thật chân tình và giao ông lại cho nàng Milray.
Nàng Milray chuẩn bị tư tưởng đối mặt một tình huống như với bao người khác. Nàng phớt lờ về câu chuyện ngài Charles tôi qua. Ngay cả ông Satterthwaite không thể khiến nàng lơ là. Dẫu là một chuyện chết chóc hoặc một sự đổi thay tình cờ cũng không lay chuyển được nàng Milray. Nàng chấp nhận mọi việc an bài đến lúc đó sẽ liệu bề đối phó. Nàng gọi máy đến văn phòng địa ốc, đánh điện ra nước ngoài, soạn thảo văn bản đánh máy. Còn ông Satterthwaite lánh xa khung cảnh ngột ngạt, dạo quanh một vòng ngoài khu tàu. Đang lang thang chợt đâu từ phía sau một bàn tay chộp lấy tay ông, ông quay ngoắt lại chạm ngay một người con gái mặt trắng bệt.
- Thế này là thế nào? - Egg chợt hỏi vẻ mặt dữ tợn.
- Thế nào là thế nào? - Ông Satterthwaite nói trớ.
- Là cái chuyện ngài Charles bỏ đi, là chuyện ngài rao bán cái Chòi Canh.
- Y như rằng.
- Ngài định bỏ đi sao?
- Ngài đi mất đất rồi.
- Ôi giời! - Chợt Egg buông thỏng bàn tay, mặt mũi như đứa trẻ tự ái.
Ông Satterthwaite đứng đó không biết ăn nói làm sao.
- Ngài đi đâu vậy?
- Ngài ra nước ngoài. Đi qua miền Nam nước Pháp.
- Chao ôi!
Ông còn đứng sững đó, lặng thinh. Nói đúng ra chuyện của ngài Charles còn hơn cả chuyện tôn sùng thần tượng...
Tội nghiệp nàng, ông lựa lời khuyên giải, chợt ông bàng hoàng vừa mới nghe nàng nói.
- Cái quân chết tiệt nào đây? - Egg hỏi ông vẻ giận dữ.
Ông Satterthwaite nhìn nàng chăm chăm há hốc mồm. Egg nắm lấy tay ông dùng dằng thô bạo.
- Ông phải biết chứ, - Nàng hét to - cái quân nào? Cái con mụ tóc bạch kim hay một con nào khác nữa kia?
- Này cưng ơi, ta chẳng hiểu em muốn nói gì.
- Ông biết. Ông phải biết chứ. Đúng quá, có một con mụ nào đó. Ngài thương em, em biết rõ chuyện này. Một trong hai con mụ bữa tối hôm đó nhìn thấy em, rồi kiếm cớ lôi kéo ngài đi luôn. Em căm ghét bọn đàn bà. Cả một lũ dơ dáy, bẩn thỉu. Ông có nhìn người đàn bà đó ăn mặc ra sao không, cái con mụ tóc bạch kim đó kìa? Nhìn bọn đó em thấy căm tức vì ganh tị. Cái cách ăn mặc đó không người đàn ông nào bỏ qua được. Con mụ già, xấu xí như quỷ nhưng mà chuyện đó chẳng hề gì. Nhìn con mụ đó người ta cứ tưởng mọi người khác cũng xấu xí, ăn mặc luộm thuộm như kiểu bà vợ mấy ông giáo sĩ. Có phải đích thị là bà ta? Hay là người đi cùng với con mụ tóc bạch kim? Bà ta vui tính, ông thấy đó. Bà gia nhập đội quân cứu tế. Ngài gọi tên người đàn bà đó là Angie. Không Lẽ người mặt trông như bó cải héo. Có phải đây là người đàn bà thanh lịch hay một người tên là Angie?
- Này cưng ơi, em nghĩ gì lạ lùng vậy, ngài, à mà, Charles Cartwright đâu có nghĩa lý khiến cho hai người đàn bà phải để ý. - Em không tin chuyện đó. Mấy con đàn bà để ý ngài, phải mà...
- Không, không bao giờ, em nghĩ sai. Em tưởng tượng ra chuyện đó.
- Quỷ sứ - Egg nói - Cả một lũ như vậy.
- Em không nên nói những lời như vậy, cưng ơi.
- Em còn phải nói những lời tệ hơn thế nữa kia.
- Cũng được thôi, phải ráng giữ mồm giữ miệng. Ta nghĩ bởi vì em đã hiểu nhầm vấn đề.
- Vậy sao ngài lại bỏ đi, đi cho được?
Ông Satterthwaite lấy giọng nói cho rõ hơn.
- Ta cho là ngài, à mà, ngài đã nghĩ đúng.
Egg nhìn ông vẻ soi mói.
- Ông muốn nói - bởi vì em mà ra.
- Thôi được rồi, đại khái là vậy.
- Thế rồi ngài bỏ đi ngay. Coi như em đã nói hết cho ông nghe rồi... Con người ta không ai chịu để cho kẻ khác săn đuổi, đúng không? Dù sao lời mẹ nói vẫn đúng... Ông không thể ngờ mẹ nói: chuyện mấy ông nghe thật đã. Mẹ tự đặt mình ở ngôi thứ ba - rất lịch sự, theo phong cách thời Victoria. Đàn ông không thích bị săn đuổi, đàn bà con gái thì phải để cho đàn ông chủ động? Ông nghĩ câu nói đó nghe được không - quyền chủ động? Nghĩ lại hoàn toàn trái ngược. Đúng như ý đồ của Charles, được chủ động. Ngài bỏ em mà đi, ngài hoảng sợ. Quỷ tha ma bắt, em không theo kịp ngài. Nếu em theo kịp, em nghĩ giờ này ngài
đang lênh đênh trên sóng nước mút tận miền hoang dã châu Phi hay một góc trời nào đó.
- Em là thần nữ Hermione, - Ông Satterthwaite nói - em lo cho ngài Charles dữ vậy hả?
Nàng liếc nhìn ông vẻ tức tối.
- Em là nữ thần mà.
- Còn anh chàng Oliver Manders thế nào rồi?
Egg né tránh chuyện chàng Oliver Manders, lắc đầu quầy quậy. Nàng đang theo đuổi dòng tư tưởng trong đầu.
- Ông có nghĩ em sẽ viết thư cho ngài không? Chuyện chẳng có gì ầm ĩ. Chuyện của bọn đàn bà con gái ấy mà... Ông biết đó, cho ngài được tự nhiên, không phải lo sợ phải không?
Nàng nhíu mày.
- Em mới là ngốc nghếch. Mẹ giải quyết mấy việc này tài tình lắm, và biết rõ luật chơi, những người mang dòng máu Victoria, không còn thẹn thùng. Mấy việc đó em vụng về lắm, em nghĩ nên để mặc cho ngài tốt hơn. Ngài vẫn bình yên, ta giúp ngài một tay đi. Ông nói cho em biết - Chợt nàng quay lại nhìn ông Satterthwaite - có thể ngài đã nhìn thấy em ôm hôn chàng Oliver tối hôm qua?
- Chuyện đó ta không rõ. Mà lúc nào vậy?
- Lúc trời đang sáng trăng. Em và chàng đang bước xuống dốc đồi. Em đoán lúc đó ngài đứng ngoài hàng hiên nhìn theo và nếu ngài thấy em và Oliver, thôi rồi đụng chạm đến ngài. Bởi vì ngài thương em. Em nói chắc không sai.
- Có phải vậy là điều không may cho Oliver?
Egg lắc đầu ra vẻ dứt khoát.
- Không đúng chút nào. Oliver tự hào là một vinh dự cho cho gái nào được chàng ta hôn. Cái tự hào của gã thấy thật khó chịu nhưng biết làm sao hơn. Em muốn khiêu khích ngài bởi dạo sau này ngài trông có vẻ lạ, hờ hững lạnh lùng hơn bao giờ.
- Này cưng, - Ông Satterthwaite dỗ dành - ta không tin là em đã biết rõ vì sao ngài bỏ ra đi đột ngột như vậy. Bởi ngài cho là em chỉ lo lắng cho Oliver. Ngài bỏ ra đi là để không còn phải chuốc lấy thêm nỗi đau.
Egg liếc quanh, nàng níu lấy vai ông nhìn chăm chăm.
- Thật đúng vậy sao? Đồ ngốc nghếch! Tầm bậy! Chao ôi!
Chợt nàng buông ông Satterthwaite ra nhảy cỡn quanh bên ông.
- Rồi ngài sẽ quay về - Nàng hy vọng - Ngài sẽ về lại thôi. Nếu không thì...
- Thế đấy, nhỡ ngài không quay về thì sao?
Egg cười sảng khoái.
- Em sẽ có cách để gọi ngài quay về. Và ông sẽ thấy nếu em không thực hiện được.
Câu chuyện đến đây xem ra trùng hợp với chuyện người trinh nữ miền Astolat dù Egg và nàng không nói chung một thứ tiếng, vậy mà ông Satterthwaite lại nghĩ khác về cái lối ứng xử của Egg vượt xa nàng Elaine trong truyện thần thoại, và cái kiểu chết vì tình cũng khác nốt.
N PHẦN II - CHƯƠNG 1:CHẮC NHƯ BẮP
GÀI CHARLES NHẬN ĐƯỢC THƯ
Ông Satterthwaite ghé qua Monte Carlo chơi vài hôm. Sau tuần chiêu đãi khách vừa xong, ông quay về lại miền biển Riviera rực rỡ, những ngày tháng Chín nơi ông thích lui tới tìm thú vui.
Ông đang ngồi trong khu vườn phơi nắng biển, trên tay cầm tờ báo Daily Mail cũ hai bữa trước. Chợt ông dừng lại ngay cái tên STRANGE, CÁI CHẾT CÙA NGÀI BARTHOLOMEW STRANGE. Ông chăm chú đọc dòng tin.!!! “Chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin cái chết cùa ngài Bartholomew Strange, một chuyên gia thần kinh có tiếng tăm. Ngài Bartholomew mở tiệc chiêu đãi tại nhà riêng ở Yorkshire. Trông ngài thật vui vẻ, tráng kiện và cái chết đột ngột của ngài xảy ra vào ngay lúc cuối bữa tiệc. Ngài đang vui vẻ nói chuyện với các vị khách quen, trên tay cầm ly rượu Bồ Đào Nha, chợt một cơn đột quy quật ông ngã chết ngay, không kịp chở đi cấp cứu. Mọi người đều thương tiếc cái chết cùa ngài. Ngài đã từng...”
Tiếp theo đó là sơ lược về quá trình hoạt động và nghề nghiệp của ông.
Tờ báo trên tay ông Satterthwaite rơi xuổng đất. Ông bị choáng. Hình ảnh một vị bác sĩ chợt hiện về trong trí ông -cao to, tươi vui, khỏe mạnh, hồng hào. Ông đã hóa ra người thiên cổ. Bao nhiêu chữ nghĩa rời rạc lơ lững trong trí ông. “Uống cạn ly rượu Bồ Đào Nha”. “Cơn đột quỵ... chết không kịp cấp cứu”.
Rượu Bồ chớ không phải rượu cocktail, vậy mà nó gợi lại trong trí ông cái chết ở Cornwall. Ông nhớ lại lúc ấy cái bộ mặt nhăn rúm của vị tu sĩ... Giả sử, kết cuộc là...
Ông ngước nhìn ngài Charles Cartwright đang từ bãi cỏ bước về phía ông.
- Satterthwaite, thật may quá! Tôi đang mong được gặp ông đây. Ông đã biết tin gì về lão già Tollie chưa?
- Tôi vừa xem báo xong.
Ngài Charles kéo ghế ngồi gần bên ông, trên người còn mặc nguyên trang phục chơi du thuyền, cởi bỏ bớt quần flannel, áo len cao cổ của những ngày nào trông ra vẻ một dân chơi du thuyền nhà nghề miền Nam nước Pháp.
- Satterthwaite, nghe ta bảo. Tollie xưa nay vẫn là người khỏe mạnh, chẳng khi nào đau ốm. Có phải vì ta quá tưởng tượng mà ra hay vì chuyện đó khiến ông chợt nhớ lại việc...
- Việc đã xảy ra ở Loomouth chớ gì? Phải, đúng nó đấy. Nhưng coi chừng nhầm đây. Sự trùng hợp đôi khi do nhìn qua bề ngoài. Suy cho cùng, cái chết bất đắc kỳ tử cũng có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Ngài Charles lắc đầu vẻ sốt ruột một hồi, ngài mới nói:
- Ta vừa nhận được thư của Egg Lytton Gore.
Ông Satterthwaite giả bộ không cười.
- Lần đầu tiên ngài nhận được thư hay sao?
Ngài Charles không còn nghi ngờ gì nữa.
- Không đâu. Ta chỉ nhận được thư lúc vừa mới đến đây. Cũng vừa đúng lúc. Thư cho hay một vài việc chỉ có vậy thôi. Ta chưa trả lời... khốn nạn thật Satterthwaite ạ, ta không dám trả lời. Con bé chẳng nói gì mà ta không muốn làm ba cái trò ngớ ngẩn.
Ông Satterthwaite đưa tay che miệng đang còn muốn mắc cười.
- Còn cái này thì sao? - Ông chợt hỏi.
- Cái này khác. Thư nhờ xin cấp cứu...
- Cấp cứu sao? - Ông Satterthwaite trố mắt nhìn ngài.
- Nàng ở đó... ông biết chứ... ngay tại nhà... lúc sự việc vừa xảy ra.
- Có nghĩa là nàng có mặt tại chỗ ngay lúc ngài Bartholomew chết hay sao?
- Chứ sao?
- Vậy thì nàng ăn nói ra sao?
Ngài Charles móc trong túi ra một cái thư chần chừ một lúc rồi ngài đưa ngay cho ông Satterthwaite.
- Ông nên lấy mà đọc.
Ông Satterthwaite mở thư ra xem vẻ hiếu kỳ lắm.
NGÀI CHARLES KÍNH MẾN
- Em cứ lo không biết thư này có đến được tay ngài. Em mong ngài sẽ sớm nhận được. Thật tình em đang phiền muộn, không biết tính sao. Em nghĩ là ngài đã biết tin tức đăng trên báo cái chết của ngài Bartholomew Strange. Thế đấy, một cái chết tương tự như mục sư Babbington. Nhưng không thể cho là sự trùng hợp ngẫu nhiên, không phải vậy. Không thể nào như vậy được... Em lo muốn chết...
Giờ thế này, ngài có thể quay về nhà làm một số việc được chứ? Nghe có vẻ kỳ cục đấy, nhưng ngài quen thói đa nghi, vả lại chẳng ai thèm lắng nghe ý kiến
của ngài, nhưng trước mắt là bạn của ngài đã chết; và nếu ngài không quay về nhà thì chẳng còn ai lần ra sự thật, chỉ có ngài làm được việc đó, em tin tưởng ngài. Em linh cảm ngài sẽ trở về...
Còn một việc nữa. Em đang lo cho một người... chắc vậy... Người đó không có khả năng giải quyết, em biết, nhưng rồi mọi việc sẽ không như bình thường. Chao ôi, làm sao em có thể nói hết chỉ vỏn vẹn mấy lời như thế này. Nhưng liệu ngài có quay về không? Ngài sẽ tìm ra sự thật. Em biết chỉ có ngài mà thôi.
Em đang trông,
Egg
- Vậy là sao? - Charles hỏi lại vẻ sốt ruột.
- Đầu đuôi còn lộn xộn, thảo nào, nàng viết vội. Nhưng mà chuyện đó như thế nào nhỉ?
Ông Satterthwaite đang chậm rãi gấp lại lá thư để có thời gian trả lời.
Ông cũng cho là câu chuyện nàng kể có phần mơ hồ, nhưng không phải vì lý do viết vội. Ông nghĩ nàng có chuẩn bị. Nàng muốn nhắm vô cái tính háo danh thích phù phiếm, cái chất hiệp sĩ, cái tinh thần thượng võ của ngài Charles đó.
Theo như chỗ quen biết với ngài Charles, ông Satterthwaite cho là cái thư nhằm gài bẫy.
- Ngài nghĩ sao nàng nhắc đến một người nào đó và chàng ta là ai vậy? - Ông hỏi thêm.
- Ta nghĩ người đó là Manders.
- Lúc đó hắn còn ở lại đấy sao?
- Có thể lắm chứ. Ta cũng chưa hiểu sao lại có chuyện đó.
- Tollie chưa lần nào gặp hắn, chỉ có một lần tại nhà của ta. Còn vì sao ông ta mời hắn ở lại, ta không thể nào tưởng tượng ra được. - Ông ta có thường tổ chức chiêu đãi tiệc qua đêm như thế này không?
- Mỗi năm ba bốn tiệc gì đó. Thường chỉ một lần nhân ngày tưởng niệm St. Leger.
- Ông ta lưu lại Yorkshire lâu không?
- Ông có tậu một khu dưỡng đường, nhà nghỉ bồi dưỡng, hay có thể gọi một cái tên khác cũng được. Ông mua lại số đất của Melfort Abbey (đất xưa), tái thiết xây dựng thành khu dưỡng đường có vườn cây bao quanh.
- Tôi hiểu ra rồi.
Ông Satterthwaite trầm ngâm hồi lâu. Rồi ông cất tiếng:
- Tôi thắc mắc còn một người lạ trong bữa tiệc hôm đó là ai?
Ngài Charles có ý cho là có thể do một tờ báo khác mở ra một cuộc săn tin.
- Nó đây rồi. - Ngài Charles nói.
Ông đọc lớn tiếng!!!Ngài Bartholomew Strange đang mở tiệc chiêu đãi nhãn ngày lễ tưởng niệm St. Leger, khách mời hôm đó có ngài Bá tước và phu nhân Eden, phu nhân Mary Lytton Gore. Ngài Jocelyn và phu nhân Campbell. Thuyền trưởng và phu nhân Dacres và nàng Sutcliffe, nữ diễn viên điện ảnh nổi tiếng.
Ngài và ông Satterthwaite hai người ngồi nhìn nhau.
- Nhà Dacres và nàng Angela Sutcliffe, - Ngài Charles nói - không nghe nhắc tên Oliver Manders.
- Ta lấy báo Continental Daily Mail hôm nay ra xem, - Ông Satterthwaite nói - thể nào cũng có vài cái tin.
Ngài Charles liếc sơ qua chợt ông ngây người ra.
- Lạy Chúa, này ông Satterthwaite, nghe đây này.
NGÀI BARTHOLOMEW STRANGE!!!Theo kết quả điều tra loan báo ngày hôm nay về tình trạng cùa ngài Bartholomew Strange, kết luận cái chết vì ngộ độc nicotine là không đủ chứng cứ bằng cách nào hay do ai chù mưu.
Ngài nhíu trán suy nghĩ.
- Ngộ độc nicotine - Nghe cũng dễ chịu đấy - nó không giống như cái chết của một nạn nhân bị đột quỵ. Ta chẳng hiểu nó ra làm sao cả. - Vậy ngài tính sao đây?
- Tính sao hả? Ta định tối nay mua vé đi theo chuyến tàu Blue Train.
- Được đấy, - Ông Satterthwaite vừa nói - tôi cũng muốn đi theo ngài.
- Ông đấy hả? - Ngài Charles quay ngoắt lại nhìn ông vẻ kinh ngạc.
- Chuyện đó tôi cũng hiểu được một phần - Ông Satterthwaite khiêm nhường nói - Tôi, à mà, cũng biết rõ chút ít. Ngoài ra tôi còn quen biết ông cảnh sát trưởng - Đại tá Johnson. Cũng có lợi đấy chứ.
- Bạn hiền ơi - Ngài Charles mừng rỡ - Thôi ta đi ra nhà ga.
Ông Satterthwaite ngẫm nghĩ.
- Con bé coi vậy mà được việc. Nó kêu gọi ngài quay về. Nó muốn là được. Ta không thể hiểu liệu nội dung lá thư gửi ngài chân thật mức độ nào.
Rõ ràng còn bé đã biết nắm bắt thời cơ. Ngài Charles đã ra đến nhà ga. Còn ông Satterthwaite ở lại một mình dạo quanh khu vườn. Ông hãy còn thích thú về câu chuyện nàng Egg Lytton Gore, khâm phục bản lĩnh của người con gái, ông cố kềm chế tính rụt rè nghiêm nghị không chấp nhận chuyện đàn bà con gái chỉ lo tính toán chuyện tình lăng nhăng.
Ông Satterthwaite có đặc điểm là tinh mắt. Đang mãi nghĩ chuyện đàn bà con gái rồi nhớ chuyện nàng Lytton Gore. Ông chợt buột miệng nói thầm: - Coi kìa hình như ta đã nhìn thấy anh chàng có cái đầu hình thù kỳ dị đâu một lần rồi thì phải?
Anh chàng đang ngồi trầm ngâm suy nghĩ ở hàng ghế trước mặt ông. Người gã nhỏ thó để bộ ria mép lớn quá cỡ.
Đứng gần bên ông là con bé Ăng-lê nó đứng trên một chân nọ rồi chân kia chợt nó đá tung cái bụi cây bên đường.
- Đừng làm vậy con. - Mẹ nó bảo, mắt không rời tập báo thời trang.
- Con chẳng biết làm gì khác hơn. - Con bé vừa nói với mẹ.
Anh chàng nhỏ thó quay lại nhìn con bé chạy, lúc đó ông Satterthwaite nhận ra Poirot.
- Kìa ông Poirot - Ông vừa cất tiếng - Thật là tình cờ và thích thú biết mấy.
Poirot đứng dậy nghiêng mình chào đáp lễ.
- Hân hạnh được gặp ngài.
Hai người bắt tay, xong cùng ngồi xuống.
- Tôi cứ tưởng moi người đổ dồn về Monte Carlo. Mới cách đây nửa tiếng đồng hồ, tôi gặp ngài Charles Cartwright, giờ đến lượt ông. - Ngài Charles vừa đến đây hay sao?
- Ngài đang chơi du thuyền quanh đây. Còn ngôi nhà ở Loomouth, ngài đã nhường lại cho người khác, ông biết rồi chứ?
- Ồ, không, tôi chẳng hay biết chuyện đó. Nghe ngạc nhiên lắm.
- Tôi còn chưa biết tôi nữa mà. Tôi không nghĩ là Cartwright luôn thích sống hơn mọi người.
- Ô, không. Tôi nhất trí với ông điều đó. Tôi ngạc nhiên vì một lý do khác hơn kia. Tôi cho là ngài Charles có việc riêng nên mới ghé lại Loomouth, một việc thú vị lắm kia, phải thế không nhỉ? Tôi nói vậy có đúng không? Cô nàng tiểu thư tự đặt cho mình cái tên nghe thật vui tai, Egg đó mà?
Gã nhìn ông mắt nhãp nháy.
- Ô kìa, ông cũng để ý chuyện đó sao?
- Dĩ nhiên. Tôi cũng nhìn ra được. Tôi cũng có một tâm hồn nhạy cảm của những người biết yêu, ông cũng vậy thôi, tôi biết mà. Cái thời trai trẻ tâm hồn dễ rung động lắm.
Poirot thở dài.
- Tôi nghĩ, - Ông Satterthwaite kể lể - ông đã nhận ra được lý do ngài Charles phải từ giã Loomouth. Ngài đi tìm nơi lánh mặt. - Không còn gặp lại cô nàng Egg sao? Nhưng ngài đang mê mệt vì cô nàng. Sao lại, lánh mặt?
- Ồ, - Ông Satterthwaite lại nói - vậy là ông không hiểu được cốt cách của dân Ăng-lê.
Ông Poirot còn mãi theo đuổi ý tưởng riêng tư.
- Tất nhiên, - Ông ta nói - đó là kế hay nhất. Lánh mặt một người đẹp, và nàng bám theo sát gót. Không còn nghi ngờ gì nữa, ngài Charles một tay chơi sành sỏi phải biết chuyện đó.
Ông Satterthwaite cảm thấy thích thú.
- Tôi không nghĩ là câu chuyện chỉ có vậy - Ông nói - Ông có thể nói cho tôi biết đến đây có việc gì? Ông đang nghỉ phép? - Đối với tôi ngày nào cũng là ngày nghỉ. Tôi là một người thành đạt, giàu có đang nghỉ hưu. Giờ tôi đi chu du khắp nơi. - Thế thì nhất rồi. - Ông Satterthwaite nói.
- Có phải vậy không?
- Mẹ ơi, - Con bé Ăng-lê gọi - chẳng có gì để chơi đùa?
- Này con, - Bà mẹ nói giọng quở trách - ta đi qua nước ngoài được sống một nơi đầy ánh nắng ấm áp như thế này còn gì hơn nữa. - Dạ, vậy mà chẳng có gì chơi.
- Con tha hồ chạy nhảy, vui chơi thoải mái. Con hãy nhìn biển kia.
- Má ơi, - Chợt có tiếng con bé Pháp vừa gọi mẹ nó - lại đây chơi với con.
Bà mẹ Pháp đang đọc sách chợt ngước nhìn.
Marcelle, tung quả bóng mà chơi.
Con bé ngoan ngoãn nghe theo, tay dằn quả bóng tung lên cao, vẻ mặt buồn xo.
- Ta cũng bày trò chơi. - Hercule Poirot nói theo; vẻ mặt ông ta ra vẻ hiếu kỳ.
Rồi như muốn nói một điều lạ lắm vừa thoáng hiện trên nét mặt của Satterthwaite, ông ta mới nói.
- Nói cho ngay ông có tài phán đoán nhanh. Y như điều ông đang nghĩ trong đầu.
Ông ta ngẫm nghĩ một lúc lại nói tiếp.
- Bởi vì thuở nhỏ nhà tôi nghèo. Đa số bọn tôi thời đó là như vậy. Chúng tôi phải ra sức tranh đua với đời. Lúc đó tôi gia nhập lực lượng cảnh sát, làm việc cật lực. Dần dần tôi được thăng chức, có nhiều uy tín. Tôi được nổi tiếng. Tiếng đồn loan xa ra tới nước ngoài. Đến lúc tôi cũng phải về hưu. Rồi chiến tranh lại nổ ra, tôi lại đi chiến đấu và bị thương. Tôi đi di dân sang nước Ăng-lê chán nản và buồn tủi. May mắn gặp được một bà tốt bụng hiếu khách. Bà chết không bình thường; không đau, bà bị giết chết. Này, tôi phải trổ tài phán đoán, động não và khám phá ra ngay thủ phạm. Vậy mà chưa xong đâu, không, dù sao tài năng tôi cũng còn ở mức thượng thừa. Tôi chuyên nghề làm thám tử tư bên Ăng-lê, giải quyết nhiều vụ án rắc rối. Ồ, này ông, tôi còn sống đây. Tâm lý con người, nó kỳ lạ lắm. Tôi làm giàu. Có lúc tôi ao ước kiếm được thật nhiều tiền tiêu xài. Thế là ước mơ đã trở thành hiện thực.
Ông ta đặt tay lên đầu gối ông Satterthwaite.
- Này ông bạn, hãy đề phòng lúc mà ước mơ đã trở thành hiện thực. Những đứa trẻ trước mắt chúng ta, và luôn cả người đàn bà đó cũng ước mơ được ra nước ngoài, tìm thú vui - nhìn thấy cảnh đẹp lạ mắt. Ông hiểu ý tôi nói chứ?
- Tôi hiểu, - Ông Satterthwaite đáp - nghĩa là ông chưa được vui lắm.
Poirot gật gù.
- Đúng vậy.
Có lúc lại nhìn thấy ông Satterthwaite như loài yêu nữ Puck. Một nét mặt điển hình. Gương mặt loắt choắt, nhăn rúm co giật trông thật khiếp. Ông đang ấp úng. Có phải là ông? Hay là ai khác?
Rồi ông chậm rãi giở từng trang báo đang cầm trên tay.
- Ông đã xem qua đoạn này chưa, ông Poirot?
Ngón tay trỏ ông chỉ ngay vô hàng chữ ban nãy. Poirot đỡ lấy tờ báo, ông Satterthwaite quan sát gương mặt Poirot không nao núng vậy mà nhà quý tộc Ăng lê đoán chừng toàn thân ông ta cứng đơ như con chó săn mồi đánh hơi thấy cái hang chuột.
Hercule Poirot đọc lại một lần nữa rồi xếp tờ báo trả cho ông Satterthwaite.
- Tin sốt dẻo. - Ông ta nói.
- Vâng. Đọc xong ta cứ tưởng ngài Charles Cartwright nói đúng như thật và mọi người đều nghĩ sai.
- Đúng - Poirot nói tiếp - Ta cứ tưởng mình sai... Tôi đồng ý, ông bạn, tôi không tin chuyện một nhân vật hiền lành, thân thiện lại bị giết chết... Thôi được rồi, tôi đã nghĩ sai... Dù sao như ông biết đó, cái chết lần sau như một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Trường hợp ngẫu nhiên vẫn xảy ra bình thường - một sự trùng hợp gây sốc. Nhân danh Hercule Poirot, tôi biết là một sự trùng hợp ngẫu nhiên như vậy khiến ông sửng sốt...
Một thoáng im lặng, ông nói tiếp:
- Ngài Charles Cartwright có thiên bẩm đoán đúng mọi việc. Ngài là một nghệ sĩ đa sầu, đa cảm, dễ xúc động không thích lý sự... Quan điểm vé nhân sinh của ngài dễ bị sa ngã, nhưng đôi lúc ta có thể chấp nhận được. Tôi còn băn khoăn giờ này ngài ở đâu?
Nghe xong, ông Satterthwaite cười.
- Nghe tôi nói đây. Ngài đang ở trong căn phòng trên toa tàu. Đêm nay tôi và ngài sẽ trở lại Ăng-lê.
- Ra là vậy! - Poirot vừa reo to một câu nghe khó hiểu. Đôi mắt sáng rỡ, tinh quái, như có ý dò xét, ông ta cất tiếng - Ngài Charles quả thật nhiệt tình. Ngài quyết thủ một vai đó là vai người cảnh sát nghiệp dư chăng? Hay là do một động cơ nào khác thúc đẩy?
Ông Satterthwaite lặng thinh, Poirot đoán chừng có vấn đề gì đây.
- Tôi hiểu ra rồi - Ông ta nói - Nhìn đôi mắt cô nàng tôi biết có chuyện gì rồi. Không phải là thuần túy chuyện vụ án.
- Nàng gửi thư cho ngài - Ông Satterthwaite nói - Van xin ngài trở về.
Poirot gật gù:
- Tôi vẫn thắc mắc, - Ông ta nói - bởi tôi chưa hiểu đầu đuôi câu chuyện.
Ông Satterthwaite nói xen vô:
- Ông chưa hiểu cô nàng Ăng-lê tân thời này đâu. Được rồi, chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Chính tôi còn chưa hiểu nữa là. Một người như nàng Lytton Gore. Và đến lượt Poirot chặn ngang câu chuyện.
- Xin lỗi ông. Ông hiểu được ý tội. Ai chứ cô nàng Lytton Gore tôi biết quá. Tôi đã từng gặp một người như vậy, và nhiều người khác nữa kia. Ông cho là gái tân thời, nhưng mà - tôi biết nói thế nào đây? Chuyện đó xưa rồi.
Ông Satterthwaite có vẻ khó chịu. Ông nghĩ chỉ mỗi mình ông - chỉ có ông thôi - hiểu được Egg. Ông này mới là lạ chứ, ông chẳng hiểu gì thân phận người con gái Ăng-lê xuân thì này.
Poirot chưa nói hết câu. Giọng ông ta nghe như xa như gần.
- Muốn hiểu người ta - nghĩ thật nan giải.
- Có lợi chứ. - Ông Satterthwaite sửa lưng.
- Đôi khi mà thôi. Vả lại còn tùy đối tượng.
- Thôi được rồi - Ông Satterthwaite ngần ngừ. Ông đứng ngay dậy, vẻ khó chịu. Ông giăng câu mà cá chưa đớp mồi. Ông nghĩ mình đã hiểu sai về bản tính con người - Xin chúc ông nghỉ phép vui vẻ.
- Cám ơn ông.
- Ngày trở lại Anh ông nhớ ghé nhà tôi - Nói xong ông chìa ra tấm danh thiếp - Đây là địa chỉ nhà riêng.
- Cám ơn ông.
- Ông thật tử tế, ông Satterthwaite. Tôi nhớ ông mãi.
- Hẹn gặp lại.
- Tạm biệt. Thượng lộ bình an.
Ông Satterthwaite bước đi, Poirot đứng đó nhìn theo hồi lâu, và một lần nữa mắt ông cứ đăm đăm nhìn ra biển Địa Trung Hải một màu xanh thẳm. Mười phút trôi qua ông còn ngồi đó một mình.
Con bé Ăng-lê chợt quay lại.
- Con ngắm biển đã mắt rồi, mẹ ạ. Rồi còn gì nữa.
- Nghe lạ lùng thật. - Hercule Poirot vừa thở ra vừa nói.
Ông đứng ngay dậy rồi bước đi, hướng về phía căn phòng đặt trong toa tàu.
N CHƯƠNG 2: NGƯỜI QUẢN GIA BỎ TRỐN
gài Charles và ông Satterthwaite đang ở trong văn phòng Đại tá cảnh sát trưởng Johnson, mặt mũi hồng hào với giọng nói ấm cúng, ông tiếp đãi các vị khách nồng hậu. Ngài Đại tá hài lòng gặp gỡ ông Satterthwaite và vui mừng được làm quen với ngài Charles Cartwright trứ danh.
- Bà xã tôi, một người ghiền xem hát. Theo cách gọi người Mỹ bà xã tôi là gì? - Khán giả hâm mộ đúng không? Đúng rồi - khách mộ điệu. Tôi thích xem kịch hay - nghĩa là các thứ ngày nay mang ra trình diễn trên sân khấu - gớm!
Ngài Charles biết rõ hơn ai mấy chuyện này - Ngài không dám trình diễn những màn kịch táo bạo, phải diễn sao cho hợp với vai có duyên ăn khách. Lúc hai người nói rõ nội dung cuộc viếng thăm, Đại tá Johnson đáp lễ, biết sao nói vậy.
- Ngài là bạn của quý ông, có phải vậy không? Tệ thật - tệ thật. Ngài được mọi người khâm phục. Ngài xây dựng một dưỡng đường, ai cũng khen ngợi, nói cho cùng ngài Bartholomew là một người bạn tuyệt vời, một sự nghiệp vững vàng. Sống tử tế, hào hiệp, ngài là người của quần chúng. Một con người từng trải đã bị giết chết, một vụ án thì đúng hơn. Không thể gán cho là một vụ tự tử, cũng không phải một vụ tai nạn.
- Tôi và ông Satterthwaite vừa từ nước ngoài về - Ngài Charles nói - Chúng tôi đã được xem qua một vài mẩu tin đăng báo.
Hẳn nhiên là quý vị cần biết thêm chi tiết. Vậy thì tôi xin kể đầu đuôi câu chuyện. Trước tiên ta cần tìm cho ra tung tích người hầu. Ngài Bartholomew mới tuyển dụng cách nay hai tuần, gã biến mất sau khi vụ án xảy ra, cao chạy xa bay. Thoạt nghe có điều khả nghi, phải vậy không? Vậy là thế nào?
- Ngài Đại tá không cho biết ý kiến về việc hắn bỏ đi? - Mặt mũi ngài Đại tá càng đỏ bừng hơn.
- Lỗi do ta khinh suất, quý vị biết đó. Khổ thật. Dĩ nhiên là hắn đang bị theo dõi như những tên khác. Hắn trả lời chãt vấn suông sẻ, đã báo cho bên London giành cho hắn một chỗ. Người chủ mới của hắn là ngài Horace Bird. Những người được đối chất nói năng lễ độ không ai lộ vẻ hoảng sợ. Một chi tiết nữa là ngài đã bỏ đi - căn hộ đang bị theo dõi. Tôi đã ban lệnh khiển trách các nhân viên thừa hành, tất cả cam kết theo dõi sát nút kẻ tình nghi.
- Hay lắm. - Ông Satterthwaite nói.
- Không kể các chi tiết khác - Ngài Charles có vẻ trầm ngâm - làm một chuyện thật ngốc nghếch. Theo ngài Đại tá không có ai là kẻ tình nghi. Vì bỏ trốn nên hắn bị theo dõi.
- Đúng vậy. Chạy đâu cho khỏi. Bản nhận dạng hắn được gửi đi khắp nơi. Vài bữa nữa hắn sẽ bị tóm.
- Lạ thật - Ngài Charles nói - Ta chẳng hiểu gì cả.
- Ồ, chuyện rõ như ban ngày. Hắn phát điên vì hoảng sợ.
- Một kẻ có gan giết người có thể bình chân như vại ngồi ì ra đó sao?
- Cái đó còn tùy. Còn tùy. Tôi biết bọn tội phạm. Bọn chúng nhát gan. Hắn cho là mình bị tình nghi. Thế là hắn sợ hoảng loạn. - Ngài Đại tá xác minh lý lịch cả rồi chứ?
- Đương nhiên, thưa ngài Charles. Đó là việc thường ngày. Văn phòng London nắm vững hơn. Hắn còn giữ một giấy giới thiệu của ngài Horace Bird. Ngài đang ở Đông Phi.
- Giấy giới thiệu làm giả được mà?
- Đúng. - Ngài Đại tá Johnson xác nhận, ông tươi cười nhìn ngài Charles như người thầy khen ngợi học trò - Cảnh sát đã gửi điện báo cho ngài Horace, chúng tôi chờ phúc đáp. Ngài đang trên đường đi săn.
- Người hầu bỏ trốn đi từ lúc nào?
- Ngay sáng hôm sau, khi vụ án xảy ra. Tại bữa tiệc tối hôm đó có ngài bác sĩ Jocelyn Campbell, một chuyên gia về độc chất có hạng, tôi biết rõ, ngài và (một người dân địa phương) Davis đã xác minh rõ vụ việc, mọi người được tập hợp lại để chúng tôi xét hỏi ngay trong đêm đó. Ellis (tên gọi người quản gia) đi vô bên trong phòng riêng, sáng hôm sau hắn biến mất dạng. Hắn không ngủ lại trong phòng.
- Hắn lẻn trốn đi giữa đêm khuya chăng?
- Có thể là vậy. Còn một người ở lại, nàng Sutcliffe, nữ diễn viên - Ngài biết cô ta chứ, phải vậy không?
- Tôi biết quá rõ.
- Nàng Sutcliffe nêu ý kiến với chúng tôi như thế này. Nàng cho là người hầu lẻn đi ra ngoài theo lối đi riêng - Ông chợt xin lỗi vì nghẹt mũi - Nghe như kịch của Edgar Wallace, nhưng cũng có thể là như vậy. Ngài Bartholomew khoái nghe mấy chuyện đó. Nói xong ông chỉ chỗ cho nàng Sutcliffe. Nơi đó còn để lại dấu một mảng tường sập đổ cách chỗ hai người đang đứng khoảng hơn nửa kilomet.
- Kể ra vậy nghe có lý - Ngài Charles nhất trí - Vậy là - chỉ có người quản gia biết rõ lối đi ra hướng đó.
- Đó mới là điều đáng nói. Bà xã nhà tôi thường bảo là bọn giúp việc chúng nó biết hết mọi ngõ ngách. Dám chắc bà nói đúng y bon. - Ngộ độc do nicotine thì tôi đã biết quá. - Ông Satterthwaite kể lể.
- Đúng, thường thì không ai dùng tới nó. Kể cũng hiếm có. Tôi biết nếu là một người nghiện thuốc lá nặng như trường hợp đây là một bác sĩ, chuyện cũng rắc rối đấy. Ý tôi muốn nói có thể ngài chết do sử dụng một liều lượng nicotine bình thường như mọi ngày và dĩ nhiên chỉ có trường hợp như lần này nó lạ kỳ thế đó.
- Sử dụng theo cách nào?
- Không thể biết được, ngài Đại tá Johnson nói thật tình - Tôi muốn nói đó là kẽ hở của vấn đề. Theo kinh nghiệm y học chỉ cần sử dụng trong một thời gian vài phút dễ dẫn đến cái chết tức khắc.
- Nhưng lúc đó mọi người uống rượu Bồ, tôi biết rõ quá mà?
- Đúng rồi. Dường như trong rượu có pha thêm nicotine, thực tế kiểm tra lại không thấy. Chúng tôi mang ly rượu đi kiểm nghiệm. Trong ly còn chút rượu Bồ chỉ có vậy thôi. Tất cả ly rượu còn lại để nguyên trên khay chưa rửa cũng không pha thêm một chất nào khác hơn là rượu. Ngài cũng dùng món ăn dọn ra cho mọi người. Món xúp, cá nướng, gà, khoai tây chiên, bánh phồng sô-cô-la, sẹ cá rô-ti. Người đầu bếp từng phục vụ ngài suốt cả mười lăm năm nay. Không, chẳng lẽ nào người đầu bếp lại bỏ thuốc độc, nếu vậy thì nó còn nằm trong bao tử. Rắc rối thật.
Ngài Charles xoay người về phía ông Satterthwaite.
- Chuyện đó nghe rồi, - Ngài nói say sưa - cũng một câu chuyện như trước đây.
Ngài quay lại tạ lỗi ông cảnh sát trưởng.
- Cho tôi nói. Trước đây ngay tại nhà tôi ở Cornwall cũng có một vụ chết người.
Ngài Đại tá Johnson chăm chú lắng nghe.
- Chuyện này tôi đã nghe qua một lần. Người kể lại là nàng Lytton Gore.
- Phải rồi, nàng còn đây. Nàng kể lại cho ngài nghe hết mọi chuyện?
- Nàng có kể. Nàng cam đoan chuyện có thật. Mà thưa ngài Charles, tôi vẫn chưa tin, bởi câu chuyện có một vài điểm khiến ta phải lưu ý. Nàng không nhắc lại vì sao người quản gia bỏ trốn đi. Tôi nghĩ có thể hắn còn lẩn quất đâu đây?
- Không tìm thấy người quản gia, chỉ có người hầu gái thôi.
- Chẵng lẽ nó lại cải trang làm người quản gia?
Ngài Charles mỉm cười chợt nghĩ đến hình ảnh nàng Temple duyên dáng lịch sự.
Ngài Đại tá Johnson vừa xin lỗi rồi cười theo:
- Thêm một ý kiến nữa, - Ông ta nói - không, tôi không dám nói là tin tưởng hoàn toàn những điều nàng Lytton Gore thuật lại. Còn cái chết của ngài mục sư tôi có thể hiểu được. Kẻ nào đã ra tay ám hại ngài mục sư?
- Chuyện khó hiểu chỗ đó. - Ngài Charles nói.
- Tôi nghĩ có một sự trùng hợp, ông hiểu ý tôi, thưa ngài Charles. Chuyện còn tùy, người quản gia là người nhà của ta. Chính hắn là tên tội phạm chạy đâu cho
khỏi. Khổ nỗi ta chưa tìm thấy dấu tay. Chúng tôi đã cử một chuyên gia đến ngay buồng ngủ, tìm dấu vết ở tủ kệ đựng chén bát, thức ăn tuyệt nhiên không thấy dấu vết nào.
- Nếu thủ phạm chính là người quản gia, ông đại tá có ý kiến gì về động cơ gây án.
- Tôi nghĩ đó là cái khó cho chúng ta, - Ngài đại tá nói thật - giả sử là hắn chỉ nhằm đến nhà ăn trộm và ngài Bartholomew phát hiện được. Ngài Charles và ông Satterthwaite chỉ biết ngồi đó lắng nghe. Ngài đại tá Johnson phải hiểu là lý lẽ đưa ra không đủ sức thuyết phục.
- Nói thật ta chỉ có lý luận suông vậy thôi. Cho đến khi ta tóm được John Ellis biết chắc là hắn rồi dù trước kia hắn đã lọt ra ngoài được, lúc đó thì mọi chuyện sẽ rõ như ban ngày.
- Ông đã xem qua các tài liệu về ngài Bartholomew chưa?
- Có chứ, thưa ngài Charles. Chúng tôi xem kỹ hết mọi khía cạnh liên quan. Tôi sẽ giới thiệu ngài ông kiểm sát viên Crossfield phụ trách giám sát vụ án, một người đáng tin cậy. Tôi nhắc nhở và ngài đồng ý ngay, bởi công việc của ngài Bartholomew có liên quan đến nội dung vụ án. Một vị bác sĩ biết rõ hơn ai cả bí mật nghề nghiệp. Các tư liệu của ngài được sắp xếp phân loại rõ ràng, người thư ký của ngài, nàng Lyndon và ông Crossfield đọc lại thật kỹ.
- Và rồi chẳng tìm thấy gì?
- Chả có gì đáng lưu ý, thưa ngài Charles.
- Trong nhà có bị trộm mất món nào không - vàng, bạc hay các thứ khác?
- Không mất một món nào?
- Những người có mặt tại chỗ hôm đó gồm những ai?
- Tôi có danh sách, mà đâu mất rồi kìa? Chắc ông Crossfield đang giữ. Ngài phải gặp ngay ông Crossfield, kể ra tôi cũng mong được gặp ông ta để nghe báo cáo - Có tiếng chuông gọi cửa - chắc ông ta đến.
Kiểm sát viên Crossfield là một người cao lớn chắc nịch, nói năng từ tốn, ông có đôi mắt xanh sắc sảo.
Ông chào ngài đại tá và được giới thiệu với hai vị khách.
Giá mà ông Satterthwaite có một mình thôi cũng không thể khiến ông Crossfield cảm thấy thoải mái. Crossfield có quan điểm đôi chọi với các vị khách Ăng lê, những tay nghiệp dư dị ứng với chuyện lý tưởng. Với ngài Charles vấn đề lại khác. Ông kiểm sát viên Crossfield ngưỡng mộ ánh đèn sân khấu một cách ngây thơ. Ông đã hai lần xem ngài diễn kịch, khi đã tận mắt nhìn thấy thần tượng sân khâu diễn xuất như thật, dễ khiến ông gần gũi và thích thú chuyện trò không biết chán.
- Tôi đã nhìn thấy ngài ở London, thưa ngài. Tôi khổ sở vì vợ. Hôm đó ngài diễn vở “Bá tước Aintree bị sa lầy” - tôi còn nhớ. Thật khổ sở nơi đó chật ních
người - tôi phải đến trước hai tiếng đồng hồ. Nhưng không có cách nào giúp vợ tôi. “Em phải đi xem ngài Charles Cartwright diễn vở ‘Bá tước Aintree bị sa lầy’ - bà ta bảo vậy - Ta đến nhà hát Pall Mali ngay”.
- Ờ, - Ngài Charles nói - giờ thì ta đã giã từ sân khâu, như ông thấy đó. Tên tuổi của ta ở nhà hát Pall Mali vẫn còn được nhắc đến. Ngài lấy trong túi ra tấm danh thiếp ghi mấy chữ. Lần tới có ra phố hai ông bà ghé lại nơi bán vé chìa danh thiếp này ra sẽ được xếp hai chỗ ngồi tốt.
- Rất cảm ơn, ngài tử tế quá, thưa ngài Charles, tôi nói thật. Nhà tôi vui mừng biết mấy khi nghe tôi kể lại chuyện này.
Và sau đó ông kiểm sát viên Crossfield cảm thấy khắng khít hơn.
- Một ca quái đản, thưa ngài. Từ trước đến giờ tôi chưa hề gập một ca chết người nào vì ngộ độc nicotine, kể cả bác sĩ Davis cũng không. - Ta nghĩ đây là một căn bệnh do hút thuốc quá nhiều.
- Nói thật tôi cũng nghĩ như ngài. Bác sĩ cho là chất alkaloid không mùi, chỉ cần vài giọt đủ làm chết người.
Ngài Charles rít một tiếng.
- Một chất có công hiệu mạnh.
- Như ngài vừa nói, thưa ngài. Và hiện nay cũng là một chất được dùng phổ biến, ngài có thể gọi như vậy. Dung dịch được pha chế phun xịt cây bông hồng. Cũng là chất được chiết xuất từ cây thuốc lá thông thường.
- Cây bông hồng - Ngài Charles nói - Xem nào, tôi có nghe nói đâu một lần rồi thì phải?
Ngài nhíu trán, rồi lắc đầu.
- Ông có tin gì sốt dẻo hơn không, ông Crossfield? - Ngài đại tá Johnson cất tiếng.
- Thưa ngài chưa có tin chính xác, chúng tôi được báo cáo tên Ellis đang có mặt ở Durham, Ipswich, Balham, ở vùng Land’s End và còn một chục nơi khác. Đó là thông tin được chọn lọc kỹ, ông quay về phía hai vị khách, lúc một kẻ đang bị phát lệnh truy nã, mọi người lại nhìn thấy hắn khắp nước Anh.
- Hắn được nhận dạng như thế nào? - Ngài Charles hỏi lại.
Ông Johnson cầm tờ báo trên tay:
“John Ellis, cao trung bình, khoảng mét sáu, người hơi khòm, tóc bạc, để râu quai nón, mắt đen, giọng khàn khàn, hắn cười để lộ sún cả hàm răng trên, không có dấu vết nhận dạng đặc biệt”.
- Chà, - Ngài Charles nói - không giống con giáp nào, bỏ qua chỗ để râu quai nón và hàm răng chi tiết ban đầu bị loại bỏ ta lưu ý miệng hắn cười. - Cái khó là, - Ông Crossfield nói - không ai quan sát rõ đối tượng. Cái trở ngại cho tôi ở chỗ chỉ được nhận dạng sơ sài của mấy người hầu gái ở Abbey. Cũng
vẫn bây nhiêu đó. Tôi đang giữ phiếu nhận dạng vẫn một đôi tượng cao gầy, thấp béo, vừa người, chắc nịch, mảnh mai, với một người năm mươi tuổi làm sao quan sát cho rõ.
- Ông có cho là thưa ông kiểm sát viên, chính Ellis là người hầu?
- Vậy sao hắn lại bỏ trốn, thưa ngài. Ngài không thể tránh né chuyện đó được.
- Chính việc đó mới là trở ngại. - Ngài Charles nói vẻ trầm ngâm.
Ông Crossfield quay về phía ngài đại tá Johnson báo cáo một số biện pháp ban hành. Ngài đại tá gật gù yêu cầu ông kiểm sát viên đưa ra danh sách những người có mật tại nhà Abbey ngay cái đêm xảy ra vụ án. Danh sách trao cho hai nhân viên điều tra. Tên một số người được ghi lại:
Martha Leckie, đầu bếp
Beatrice Church, tổ trưởng hầu gái
Dorice Coker, tổ phó
Victoria Ball, hầu gái
Alice West, bồi phòng
Violet Bassington, phụ bếp
(Những người giúp việc trên đây phục vụ người quá cố một thời gian ngắn, tư cách đàng hoàng. Bà Leckie đã từng phục vụ mười lăm năm). Gladys Lyndon - thư ký, ba mươi ba tuổi, mới làm việc được ba năm, không cung cấp thông tin gì mới.
Khách mời
Bá tước và phu nhân Eden, 187 phố Cadogan Square.
Ngài Jocelyn và phu nhân Campbell, 1256 phố Harley.
Nàng Angela Sutcliffe, 28 phố Cantrell, (Street. Mansions, S-W.3)
(Bà Dacres kinh doanh ở cửa hiệu Ambroise, phố Brook Street).
Phu nhân Mary và nàng Hermione Lytton Gore, ở phố Rose Cottage, Loomouth.
Nàng Muriel Wills, 5 phố Upper Cathcart Road, Tooting.
Ông Oliver Manders, quý ông Speier và Ross, phố Old Broad Street, E.C.2
- Chà, - Ngài Charles cất tiếng - vậy mà báo không nhắc tên một vị khách ở Tooting. Hôm đó tôi có trông thấy anh chàng Manders.
- Chuyện cũng tình cờ, thưa ngài - Ông kiểm sát viên nói - Anh chàng lái xe đến đậu sát ngay tường nhà Abbey, tôi còn biết ngài Bartholomew quen biết sơ qua với anh chàng, mời anh chàng ở lại qua đêm.
- Một việc làm khinh suất. - Ngài Charles nói đùa.
- Đúng vậy, thưa ngài - Ông kiểm sát viên nhắc lại - Thật ra tôi ngờ là anh chàng có vẻ ngà ngà say. Còn chuyện anh chàng lái xe ủi vô tường thì tôi không tài nào hiểu nổi, nếu lúc đó hắn tỉnh táo.
- Vì hắn vui quá, tôi đoán chừng. - Ngài Charles nói.
- Hắn có uống rượu, tôi biết mà thưa ngài.
- Thôi được rồi, cám ơn ông kiểm sát viên nhiều lắm. Bây giờ ta tạt qua nhà Abbey, ngài đại tá Johnson, ông có ý kiến gì không? - Nhất trí thôi, thưa ngài. Tôi e rằng ngài sẽ không tìm thấy điều mới lạ hơn tôi đã kể.
- Có ai ở nhà không?
- Chỉ còn mấy người giúp việc, thưa ngài - Ông Crossfield nói - Ngay khi cuộc điều tra, kết thúc các vị khách ra về hết, nàng Lyndon trở về lại phố Harley Street.
- Thôi ta đi gặp bác sĩ - ờ - Davis nhé? - Ông Satterthwaite đề nghị.
- Cũng được thôi.
Các vị khách vớ được địa chỉ ông bác sĩ trên tay, ra về rối rít cám ơn ngài đại tá Johnson.
CHƯƠNG 3: AI LÀ THỦ PHẠM
ang đi trên đường, ngài Charles chợt hỏi:
- Ông Satterthwaite có ý kiến gì không?
- Còn ngài thì sao? - Ông Satterthwaite hỏi lại - Ông bao giờ cũng muốn dành phần xét đoán sau cùng.
Ngài Charles không phải vậy. Ngài phát biểu rạch ròi.
- Bọn chúng tính sai bét, Satterthwaite ạ. Tất cả đều sai. Bọn chúng cứ nghi cho người quản gia. Hắn đã chuồn đi mất - vậy thì chính hắn là thủ phạm, tên sát nhân. Không phải vậy, lập luận thiếu logic. Không, không hợp logic. Ông không thể không tính đến một cái chết khác nữa, ngay tại nhà tôi.
- Vậy ra ngài vẫn cho là cả hai cái chết có liên quan với nhau?
Ông Satterthwaite nêu câu hỏi mà chính ông đã biết trước câu trả lời.
- Này ông bạn. Có liên quan cả đấy. Tất cả đều nhắm vô đó... Ta nên dựa vô cái yếu tố chung nhất - một tên nào đó đã xuất hiện ở hai nơi.
- Đúng - Ông Satterthwaite đáp lại - Và vấn đề trước mắt không phải đơn giản như ta tưởng đâu. Ta còn nắm trong tay nhiều yếu tố buộc tội. Này, ngài Cartwright, ông có cho là những khách mời hôm đó đều có mặt tại đây?
Ngài Charles gật gù.
- Dĩ nhiên, ta hiểu điều đó, nhưng ông có nghĩ là còn một số người không đến được thì sao?
- Tôi không nghĩ như ngài đâu, Cartwright.
- Mẹ kiếp, ông bạn ơi, ông cho là có một sự trùng hợp nào? Không, chuyện đã rồi. Những vị khách mời trong lần vụ án xảy ra đầu tiên sao lại phải đến dự bữa tiệc xảy ra vụ án lần sau? Có phải đó một chuyện tình cờ? Không phải vì mạng sống của ông đâu. Tất cả được dàn dựng, bố trí, đúng theo bài bản của Tollie.
- Ồ - Ông Satterthwaite buột miệng nói - Phải. Biết đâu được...
- Chắc quá rồi. Này Satterthwaite, ông chưa hiểu Tollie bằng tôi, ông ta là một người lúc nào cũng tỏ ra kín miệng, kiên trì. Mày năm tôi còn quen biết ngài, chưa lần nào được nghe ngài phát biểu một lời thiếu suy nghĩ.
- Nghe tôi nói đây, ngài mục sư Babbington bị giết chết, thật đấy, - tôi nói ra hết - bị giết chết ngay buổi tối tại nhà tôi. Lúc đó Tollie cười nhạo bởi tôi còn nghi ngờ chưa tin, vậy mà thời gian sau đến lượt Tollie lại sinh ra ngờ vực. Tollie không kể chuyện mấy người khách - bởi đó không phải cung cách của ngài. Nhưng rồi ngài âm thầm soạn thảo ra một vụ kiện. Tôi không rõ ngài dựa vô đâu. Thật tình tôi nghĩ không phải vụ kiện nêu đích danh ai. Bởi ngài cho phải
có một người trong số các vị khách chịu trách nhiệm cái chết của ngài mục sư, thế rồi ngài soạn ra trình tự một mô hình tìm cho ra ai là thủ phạm. - Còn mấy vị khách kia thì sao, nhà Eden và nhà Campbell.
- Là cách che đậy bề ngoài. Mục đích làm cho vụ án bớt đi phần trắng trợn.
- Ngài nghĩ mô hình sẽ như thế nào?
Ngài Charles khẽ nhún vai - một kiểu cách hơi cường điệu khác thường. Ngài đang sắm vai Aristide Dural, ông trùm Sở Mật vụ. Ngài đứng dậy bước chân đi cà nhắc.
- Làm sao bọn mình biết được? Ta không phải là thầy phù thủy nên ta không đoán trước được. Nhưng ta nghĩ có một mô hình... Mô hình đó đã tính sai, bởi tay sát thủ đã tính trước ngài Tollie một nước cờ... Hắn hạ thủ trước...
- Hắn là ai kia?
- Có thể một cô nàng nào đó. Sử dụng thuốc độc là một lợi khí của đàn bà chẳng thua kém gì bọn đàn ông - có khi còn lợi hại hơn. Ông Satterthwaite ngồi đó lặng thinh, ngài Charles kể tiếp.
- Nghe ta đi, ông có đồng ý chưa? Hay là ông ngả về phía dư luận? Người quản gia đúng là hắn rồi. Hắn là thủ phạm.
- Ngài giải thích người quản gia như thế nào?
- Ta chẳng nghĩ gì cả. Hắn chả là cái quái gì... Ta có thể giải thích là...
- Là như thế nào?
- Vậy là, phần cơ quan cảnh sát nhận định đúng - Ellis một tay tội phạm chuyên nghiệp, cấu kết với băng đảng trộm cướp. Hắn dùng giấy giới thiệu giả đến xin việc. Sau đó Tollie bị giết chết. Ellis nhận làm việc gì? Một người bị giết chết, còn dấu tay người kia còn lưu trữ ở cơ quan Scotland Yard, cảnh sát đã nhận dạng được. Tất nhiên hắn hoảng sợ bỏ trốn ngay.
- Theo lối đi riêng?
- Quỷ tha ma bắt cái lối đi riêng. Hắn lẻn ra khỏi nhà trong lúc người cảnh sát gác cổng ngốc nghếch buồn ngủ để hắn xổng mất. - Nghe có lý hơn.
- Đó, ông Satterthwaite, ông có ý kiến gì không?
- Tôi à? - Ông Satterthwaite đáp - Ồ, thì tôi cũng nghĩ như ngài. Từ nào giờ vẫn vậy. Tôi nghĩ tên quản gia này muốn đánh lừa mọi người, hắn vụng về lắm. Tôi tin chắc ngài Bartholomew và ông mục sư già đáng thương đều là nạn nhân cùng một thủ phạm.
- Thủ phạm là một khách mời dự tiệc tại nhà sao?
- Đúng, một trong số các vị khách đi.
Một thoáng lặng thinh khắp gian phòng, bất chợt ông Satterthwaite bắn tiếng.
- Ngài đã nghĩ ra ai chưa?
- Lạy trời, ông Satterthwaite, làm sao ta dám nói ra?
- Ngài cứ nói, có gì đâu? - Ông Satterthwaite nhỏ nhẹ yêu cầu - Tôi cứ nghĩ là ngài cần góp ý việc này, bởi mọi việc không dựa trên khoa học hay lý luận đâu. Tất cả chỉ còn là dự đoán.
- Thôi được, ta không có... - Ngài ngẫm nghĩ một lúc chợt phá tan sự tĩnh lặng - Ông biết đấy, Satterthwaite, chính cái lúc ông vừa nghĩ chẳng thể nào có ai trong số thực khách là thủ phạm.
- Tôi cho là ý kiến ngài có lý - Ông Satterthwaite vừa nói vừa ngẫm nghĩ - Ở chỗ cho tập hợp các vị khách khả nghi. Ta nên nhớ loại trừ một số người, ngài và tôi, bà mục sư Babbington. Còn anh chàng Manders nữa không tính.
- Manders nào?
- Dạ phải. Tình cờ hắn lại đến ngay hôm đó. Không ai hỏi han nghi ngờ gì hắn. Loại hắn ra ngoài danh sách tình nghi.
- Còn nhà soạn kịch Anthony Astor nữa.
- Không được, hôm ấy bà có mặt tại đó. Nàng Muriel Wills ở Tooting.
- Vậy ra là cô nàng - Ta quên mất cái tên Wills này.
Ngài nhíu trán. Ông Satterthwaite có biệt tài đọc rõ ý nghĩ trong đầu người khác. Ông đoán rất tài tình. Ngài Charles đang nghĩ gì. Mỗi khi nghe nói chuyện, ông Satterthwaite ngầm vỗ vỗ sau lưng mình.
- Ông thấy đó, Satterthwaite, ông nghĩ đúng. Tôi không cho là những ai được hỏi đều bị tình nghi, bởi về sau mới biết có cả phu nhân Mary và nàng Egg tại đó... Không phải đâu, có thể ngài muốn dàn dựng mô phỏng lại câu chuyện ngay từ đầu... Ngài có nghi cho ai đó và thấy cần phải đối chất lại với người chứng. Đại khái là vậy...
- Đại khái là vậy - Ông Satterthwaite nhất trí - Cùng lắm chỉ suy ra tới mức đó. Vậy là, không tính nhà Lytton Gore vô đây, luôn ngài, tôi và bà mục sư Babbington và Oliver Manders. Còn lại ai? Có phải Angela Sutcliffe?
- Angie sao? Này ông bạn mình ơi. Nàng là bạn cố tri của ngài Tollie đó.
- Vậy thì rốt cuộc chỉ còn lại nhà Dacres... nói đúng ra, Cartwright, ngài nghi cho nhà Dacres thì phải. Lẽ tất nhiên nếu tôi hỏi tới ngài lại nói ra ngay. Ngài Charles nhìn lại ông. Satterthwaite lộ vẻ vui mừng ra mặt.
- Ta nghĩ là, - Ngài Cartwright nói chậm rãi - ta có nghi ngờ, nhưng thật ra ta không nghi cho họ... Nhưng xét ra họ có khả năng bị tình nghi hơn là những người kia. Bởi lẽ ta không hề quen biết họ. Vì mạng sống của ta nên ta không thể hiểu được vì sao Freddie Dacres, người cả đời chỉ say mê đua ngựa hay là Cynthie lo công hiến cho sự nghiệp sáng tạo mẫu thời trang cho quý bà lại có ý định hủy hoại mạng sống một người tu hành khả kính, vô tội đến vậy...
Ngài lắc đầu, chợt nét mặt rạng rỡ khác thường.
- Còn một người đàn bà mang tên Wills. Ta lại quên khuấy đi mất. Có việc gì khác thường chăng mà ông mãi quên tên này? Bởi nàng có gương mặt có thể nói khó mô tả cho đúng tính cách người.
Ông Satterthwaite lại cười.
- Tôi lại cho cô nàng có nét giống Burn - một chàng thanh niên ngài đã từng lưu ý. Tôi cũng cho là cô nàng Wills này lúc nào cũng hay săm soi để ý. Đằng sau cặp kính trắng ẩn giấu một cái nhìn sắc sảo. Tôi nghĩ là ngài sẽ tìm thấy một vài điểm đáng lưu ý mà nàng Wills đã bỏ công theo dõi.
- Thật sao? - Ngài Charles còn ngờ ngợ.
- Bây giờ đến lúc, - Ông Satterthwaite nói - ta đi ăn cơm trưa. Rồi sau đó, ta ghé qua bà Abbey coi thử có gì mới lạ hơn ngay tại chỗ. - Ta nghĩ ông lo lắng cho vụ việc này quá, Satterthwaite. - Ngài Charles nói giọng nghe vui giòn giã.
- Chuyện điều tra vụ án với tôi như cơm bữa - Ông Satterthwaite nói - Có lần xe tôi bị hỏng máy phải ghé vô quán trọ trơ trọi dọc đường. Rồi ông không kể gì thêm nữa.
- Ta nhớ ra, - Ngài Charles đỡ lời với giọng điệu cao vút như một diễn viên sân khấu - lúc còn đi du lịch hồi năm 1921.
Ngài Charles thắng một bàn.
M CHƯƠNG 4:CHỨNG CỨ TỪ NHỮNG NGƯỜI GIÚP VIỆC
ột khung cảnh yên bình không đâu bằng, nơi tọa lạc ngôi nhà có sân vườn của Melfort Abbey lúc hai vị khách vừa nhìn thấy từ xa dưới ánh nắng một buổi chiều tháng Chín. Cơ ngơi của nhà Abbey tồn tại từ thế kỷ mười lăm. Toàn bộ được phục chế thêm một mái ngoài. Và khu dưỡng đường mới xây cất nằm khuất xa ngôi nhà, có sân vườn ngăn cách.
Từ bên trong, người đầu bếp, bà Leckie to béo, trong bộ đồ đen lịch sự vừa mừng rỡ vừa nói huyên thuyên bước ra tiếp hai vị khách - Ngài Charles và ông Satterthwaite. Bà kể lai từng biết ngài Charles nên dành hết thì giờ chuyện trò với ngài.
- Ngài hiểu cho sự việc như thế đấy. Ông chủ đã bị giết chết, có vậy thôi. Cảnh sát từ đâu đổ xô về đây chỗ nào cũng lùng sục. Ngài có tin không ngay cả thùng rác họ cũng dòm ngó, và còn chất vấn này nọ! - Không làm gì khác hơn cứ chất vấn. Ồ, tôi phải sống để còn nhìn thấy những việc đó - Ngài bác sĩ, một nhân vật sống trầm lặng từ thuở nào, và được phong tặng tước hiệu ngài Bartholomew, một dịp tự hào cho những người như Beatrice và tôi vẫn còn ghi nhớ, dù nàng mới đến sau tôi hai năm.
Những câu hỏi anh chàng cảnh sát nêu ra, tôi mạn phép gọi anh chàng dù ông ta là một kiểm sát viên - Bà Leckie chợt dừng lại lấy hơi như muốn tìm lối thoát ra khỏi câu chuyện lắm điều rối rắm - Rất nhiều câu hỏi, tôi có thể nói như vậy dính dáng đẽn người giúp việc, ở đây ai cũng có thành tích tốt - chưa kể nàng Doris phải thức dậy ngay khi có việc làm lúc buổi sáng. Mỗi tuần nhiệm vụ tôi phải nhắc nhở một lần, và cô nàng Vickie có thói hay vô lễ, bọn trẻ mới lớn cả làm sao uốn nắn cho nổi - bố mẹ chúng nó có dạy dỗ gì đâu - nói chung bọn trẻ là người tốt không có ông cảnh sát nào buộc tội nói khác đi. Phải đấy, tôi phải với ông ta: ông chẳng cần buộc tôi nói điều bất lợi cho bọn trẻ. Bọn chúng là người tốt, đúng quá, và dù có muốn tìm hiểu vụ án, sao lại nêu ra những chuyện quái gỡ trước mắt bọn chúng?
Bà Leckie chợt im lặng.
- Ellis cũng một chuyện khác nữa. Tôi không biết ông Ellis là ai, không thể trả lời giùm, ông từ London qua đây, một nơi xa lạ, hôm đó ông Baker đang nghỉ phép.
- Baker nào nhỉ? - Ông Satterthwaite chợt hỏi.
- Ông Baker làm quản gia cho ngài Bartholomew bảy năm về sau này đó, thưa ông. Ngài thường qua bên London ở lại nhà tại phố Marley Street. Chắc ông còn nhớ ra ngài chứ? - Bà chợt nhắc đến ngài Charles đang gật gù nhìn qua.
- Mỗi lúc có bày tiệc ngài Bartholomew cho gọi ông ta về đây. Rủi gặp lúc ông ta không được khỏe, theo lời kể của ngài Bartholomew, ngài cho ông ta nghỉ phép hai tháng ở vùng biển gần Brighton, trả lương trước - Ngài là một vị bác sĩ hào hiệp - Ngài mới cho Ellis vô nhận việc tạm, tôi kể lại cho ông kiểm sát viên y như vậy. Ngoài ra tôi chẳng biết gì hơn về ông Ellis và theo lời ông ta kể tôi đoán chừng nhà ông khá giả, trông cách cư xử thế nhìn ra ngay một người lịch thiệp.
- Bà nhìn thấy ông ta có vẻ gì - khác lạ hơn kia? - Ngài Charles hy vọng tìm ra manh mối.
- Thế này, ngài hỏi vậy nghe cũng lạ tai, thưa ngài bởi nếu ngài hiểu ý tôi, có thể tôi biết mà cũng có thể không biết.
Nhìn ngài Charles ra vẻ phấn khởi, bà Leckie kể tiếp.
- Tôi không dám nói chắc, thưa ngài, nhưng mà có vấn đề đấy.
Lẽ thường là vậy - chuyện đã rồi mới bàn - Ông Satterthwaite cay đắng nghĩ thầm. Cho dẫu bà Leckie không ưa bọn cảnh sát, ngẫm lại bà không thể khước từ mọi ý kiến. Giả sử Ellis quả là một tên tội phạm, vậy thì bà Leckie phải thấy có vấn đề chứ.
- Trước hết phải nói tính ông ấy lạnh lùng. Mà sao thật lịch sự, đúng điệu dân quý tộc - tôi thường nói, ông thích ở nhà đẹp. Nhưng mà lại thích sống một mình, giấu mình suốt ngày bên trong phòng, và ông ta thì, vậy đó, tôi không biết nói sao cho đúng, tôi nói thật - ông ta là thế này, lại có vấn đề rồi.
- Bà không hề nghi ngờ ông ta không phải - không đúng là một người quản gia phải không? - Ông Satterthwaite vừa gợi ý. - Ồ, ông ta vẫn phục vụ tốt đấy mà, thưa ngài. Ông còn biết nhiều việc, nhiều người có tiếng tăm ngoài đời nữa kia.
- Cụ thể là? - Ngài Charles nhã nhặn gợi ý thêm. Vậy mà bà Leckie làm như hờ hững, lập lờ. Bà không muốn kể ra chuyện riêng tư của những người giúp việc. Làm như vậy chẳng khác nào tự đánh mất tư cách. Để bà được dễ chịu hơn, ông Satterthwaite mới nói:
- Bà có thể kể sơ lược vài nét hình dạng ông ta?
Gương mặt bà Leckie chợt sáng rỡ.
- Dạ, được chứ, thưa ngài. Đó là một người đáng kính trọng, ông có râu quai nón, tóc bạc, lưng hơi khòm, cơ thể ông đang phát phì - bởi vậy ông cảm thấy phiền. Tay ông hơi run, nhưng đừng vội tưởng tượng chủ quan. Một người có cuộc sống điều độ, khác với những người tôi từng quen biết. Mắt ông nhìn hơi kém, tôi đoán chừng thưa ngài, ánh nắng khiến ông khó nhìn - nhất là lúc nắng gắt, mắt ông lại ướt đẫm. Mỗi lúc đi ra ngoài với chúng tôi, đi đâu ông cũng đeo kính, nhưng lúc làm việc thì lại không?
- Vậy là không thấy dấu hiệu gì đặc biệt hơn? - Ngài Charles lại hỏi.
- Bà có nhìn thấy vết sẹo? Hoặc là ngón tay cụt? Dấu bớt trên mặt?
- Ồ, không, không phải mấy thứ ngài cần hỏi.
- Vậy thì truyện trinh thám hấp dẫn tác động như thế nào đến cuộc sống? - Ngài Charles lại thở dài - Truyện tiểu thuyết cần phải có tính cách riêng độc đáo mới phải.
- Ông ta có một cái răng sún. - Ông Satterthwaite nói xen vô.
- Chắc là có, thưa ngài, tôi lại không để ý.
- Cái đêm xảy ra vụ án bà có để ý bộ điệu của ông ta không? - Ông Satterthwaite hỏi theo lối kinh điển.
- Thú thật là, thưa ngài làm sao tôi có thể nói được. Tôi đang mắc việc, ngài biết đó, quanh quẩn trong xó bếp. Còn thì giờ đâu dòm ngó chuyện người khác. - Không, không phải vậy đâu.
- Khi hay tin ông chủ bị giết chết, như sét đánh ngang tai, tôi khóc như mưa, nàng Beatrice cũng vậy. Còn bọn trẻ thì cuống cuồng. Ông Ellis thì không cuống cuồng như chúng tôi đâu, bởi ông mới vô làm dù sao ông cũng biết điều an ủi Beatrice và tới mời chúng tôi uống một cốc rượu Bồ cho tỉnh táo. Nghĩ cho cùng thì ngay cái lúc đó ông ta mới là kẻ nham hiểm.
Không còn lời nào nói cho hết nỗi niềm bà Leckie, đôi mắt bà lộ vẻ tức giận tột cùng.
- Ông ấy biến mất dạng ngay đêm hôm đó, liệu ta có hiểu...
- Dạ phải, thưa ngài. Ông ta đi về phía buồng ngủ như cả bọn chúng tôi, sáng sớm dậy mới hay ông ta biến mất dạng. Đến lượt cảnh sát ùa đi lùng sục. - Đúng đúng thật là ngốc nghếch. Bà có biết vì sao ông ấy bỏ trốn đi không?
- Chả biết ất giáp gì cả. Cả đêm cảnh sát đến đây canh chừng nhà cũng chẳng thấy ông ta đi ra ngõ nào - đó, ông thấy đó, bọn cảnh sát cũng con người như mọi người dù cái vỏ bề ngoài huênh hoang xăm xăm vô nhà người dân lương thiện, dòm ngó đủ mọi ngõ ngách.
- Tôi nghe nói còn một lối thoát bí mật quanh đây. - Ngài Charles hỏi.
Bà Leckie thở khụt khịt.
- Chỉ nghe cảnh sát nói vậy.
- Vậy là có chuyện đó?
- Tôi có nghe bàn tán thế thôi. - Bà Leckie cũng còn dè dặt.
- Bà có biết chỗ lối ra từ đâu?
- Không, tôi không biết, thưa ngài. Lối thoát bí mật đều có công dụng, nhưng chuyện đó thì bọn giúp việc như chung tôi không muốn nghe bàn tán. Chuyện đó làm bọn con gai mơ tưởng trốn thoát một khi cơ hội thuận lợi. Bọn con gái ra vô qua lối cửa sau, chúng tôi nhận dạng qua lối đó.
- Tuyệt vời, bà Leckie. Ta nghĩ bà thật khôn khéo.
Bà Leckie vênh váo vừa nghe ngài Charles khen ngợi.
- Ta còn lưỡng lự, - Ngài Charles nói tiếp - liệu ta có thể hỏi thêm mấy người giúp việc kia không?
- Được chứ, thưa ngài, nhưng cũng chẳng hơn gì những điều tôi đã kể cho ngài nghe.
- Ồ, ta hiểu rồi. Ta không muốn nhắc đến Ellis như chuyện ngài Bartholomew đâu - ta cần biết qua bộ điệu của ông ta đêm hôm đó, chỉ có vậy. Bà đã biết, ngài là bạn thân của ta.
- Tôi biết, thưa ngài. Tôi hiểu ra rồi. Hôm đó có Beatrice và cả Alice nữa. Cô nàng phục vụ bàn, chính nàng.
- Đúng, ta cần gặp Alice ngay.
Bà Leckie như mọi khi cứ theo tứ tự tôn ti. Bà giới thiệu Beatrice Church tổ trưởng phục vụ đến gặp ngài Charles trước. Nàng Beatrice người cao gầy, môi miệng mím chặt trông thật khả kính.
Qua vài câu trao đổi ngoài lề, ngài Charles nhắc lại khung cảnh buổi tiệc tại nhà ngay cái đêm định mệnh đó. Có phải mọi người lúc đó đều cuống cuồng như nhau cả? Ai làm gì, và ai nói gì?
Nhìn Beatrice có vẻ sốt ruột. Nàng vẫn thích cái màn có tình huống kịch bi đát.
- Nàng Sutcliffe mới thật đáng thương. Đó là một cô nàng nhiệt tình, nàng đã từng phục vụ lâu năm tại nơi này. Thoạt đầu tôi có ý mang đến cho nàng ít rượu hay một ly trà nóng, mà sao nàng chẳng nghe được tôi nói. Nàng uống mấy viên aspirin, bảo là không đi ngủ đâu. Vậy mà sáng hôm sau lúc tôi mang trà nóng đến nơi thì nàng ngủ khò như đứa trẻ.
- Còn nhà Dacres thì sao?
Tôi nghĩ chuyện đó không làm cho bà xao xuyến. Nghe Beatrice nói, ngài hiểu ngay nàng không ưa gì nhà Dacres.
- Bà Decres nôn nóng muốn ra về ngay lo việc nhà. Bà là chủ một hiệu may ở London, ông Ellis có lần kể cho tôi nghe. Chủ một cửa hiệu may đồ sộ, nàng Beatrice hiểu ngay là nghề thương mại, nàng khinh miệt cái nghề này.
- Chồng bà ta thì sao?
Beatrice lại khụt khịt:
- Tay nghiện rượu nặng. Có lúc bỏ rượu, nghe người ta bảo vậy.
- Còn phu nhân Mary Lytton Gore.
- Bà là một phụ nữ dễ mến. - Beatrice nói giọng xúc động - Tôi có một bà dì phục vụ người cha của phu nhân ở tại lâu đài. Thời đó tôi thường được nghe kể lại phu nhàn là một thiếu nữ xinh đẹp. Dù thuở đó phu nhân còn nghèo nhưng ngài có thể mường tượng đó là một người khiêm tôn, ăn nói dịu dàng không mích lòng ai. Phu nhân còn một người con gái dễ thương. Dù chưa biết mặt ngài Bartholomew, đến lúc nghe nói ai cũng xúc động.
- Còn nàng Wills nữa chứ?
Nét mặt Beatrice đanh lại.
- Tôi không thể nói gì được, thưa ngài về chuyện nàng Wills nghĩ ra sao.
- Hay là cô còn biết gì thêm về nàng Wills? - Ngài Charles hỏi tới - Cô cứ nói tự nhiên, Beatrice.
Gương mặt ngơ ngác chợt điểm một nụ cười. Ngài Charles cảm thấy hào hứng như thuở còn đi học. Là khán giả, nàng không cưỡng lại được sức lôi cuốn của không khí sân khấu về đêm.
- Thú thật với ngài, em không hiểu ngài cần em nói ra điều gì đây.
- Cô chỉ cần cho biết cảm nghĩ về nàng Wills thế thôi.
- Chẳng có gì để nói thưa ngài. Nàng không phải là... hẳn nhiên rồi.
Beatrice còn ngần ngừ.
- Em cứ nói, Beatrice.
- Thế này, nàng không thuộc thành phần như những người khác, thưa ngài. Nàng chả làm được tích sự gì đâu em biết mà - Beatrice kể lể, giọng chân thành - Vậy mà nàng dám làm chuyện một người lớn chưa dám. Tính nàng hay soi mói chế giễu người khác, ngài hiểu ý em, soi mói dòm ngó chuyện người khác.
Ngài Charles cố dẫn dắt làm sao cho chuyện dài dòng thêm, vậy mà nàng Beatrice cứ lập lờ, kể lể chuyện nàng Wills tính hay soi mói dòm ngó, đến lúc cần nói cụ thể nàng lại im lặng. Đơn giản nàng kể lại chuyện Wills soi mói dòm ngó đời tư người ta có vậy thôi.
Hai vị khách đành bỏ ngang, đến lượt ông Satterthwaite hỏi.
- Anh chàng Manders tình cờ ghé lại đêm hôm đó, có phải vậy không?
- Dạ phải, thưa ngài, xe anh ta gặp tai nạn ngay tại cổng bảo vệ. Anh chàng nghĩ cũng may mà xe lại dừng tại đây. Khách khứa chật ních nhà vậy mà nàng Lydon cũng sắp xếp một chỗ trong phòng đọc sách để anh chàng ngủ lại qua đêm.
- Có ai ngạc nhiên lúc anh chàng ghé lại nhà không?
- Dạ có chứ, thưa ngài, hẳn nhiên rồi.
Hỏi cô nàng chuyện Ellis, Beatrice không có ý kiến. Nàng chỉ nhìn thoáng thấy ông ta một vài lần. Đi ra đường ông ta chả ra gì vậy mà sao lại có chuyện ám hại ông chủ, nàng Beatrice không hiểu được. Chẳng có ai hiểu được.
- Còn ngài bác sĩ, ý tôi muốn hỏi, cô thấy ngài như thế nào? Có phải ngài cũng trông đến ngày làm buổi tiệc tại nhà? Rồi phần mình ngài có nghĩ ngợi gì
không?
- Ngài rất vui là đàng khác, thưa ông. Ngài cười một mình như là có điều gì đó buồn cười lắm. Em còn nghe tiếng ngài trêu đùa với Ellis, ngài thì không thích đùa với ông Baker. Cũng có lúc ngài nói chuyện cộc lốc với người giúp việc, mọi khi ngài rất tử tế ít nói chuyện hơn.
- Cô còn nhớ đã nghe được ngài nói những gì không? - Ông Satterthwaite nôn nóng hơn bao giờ.
- Ờ, vậy mà sao em lại quên hết, thưa ông. Ông Ellis đến nhà theo lời nhắn trên máy điện thoại. Ngài Bartholomew hỏi lại ông ta có nhớ đúng tên ngài, ông ta xác nhận đúng tên - hẳn nhiên là ông ta nói năng đúng phép tắc. Ngài bác sĩ mới phá ra cười và nói thế này “Ông là người bạn chí tình, EIlis, một người quản gia lành nghề. Này, Beatrice, cô có ý kiến gì không?” Lúc đó em rất ngạc nhiên, thưa ông, vừa nghe ngài nói xong - mọi khi thì ngài không nói năng như vậy - cho nên em thấy khó nói ra quá.
- Còn Ellis thì sao?
- Trông ông ta lúc đó có vẻ không hài lòng, thưa ông, hình như có việc như vậy chưa bao giờ xảy đến cho ông ấy. Ông ta đứng nhìn trân trân. - Tin nhắn qua máy điện thoại nói thế nào? - Ngài Charles lại hỏi.
- Tin nhắn đó hả, thưa ngài? Ồ, từ bên khu nhà dưỡng đường của một người bệnh vừa đến nơi an toàn.
- Cô còn nhớ tên chứ?
- Thưa ngài, cái tên nghe lạ lắm - Beatrice còn đang chần chừ - Bà De Rushbridger - nghe na ná vậy thôi.
- À, phải đấy - Ngài Charles chợt đổi giọng nhỏ nhẹ - Cái tên nghe qua máy cũng còn khó nhớ, huông hồ... Được rồi, cám ơn cô nhiều lắm, Beatrice. Vậy là ta nên gặp Alice ngay cho xong việc.
Beatrice vừa bước ra ngoài, ngài Charles và ông Satterthwaite nhìn nhau ngầm trao đổi các chi tiết mới ghi nhận.
- Cô nàng Wills tính soi mói dòm ngó, thuyền trưởng Dacres lại hay say sưa, bà Dacres mặt lạnh như tiền. Còn gì nửa? Cũng ghi nhận chút chút thôi. - Quả là ít ỏi, ông Satterthwaite nghĩ cũng đúng.
- Ta chỉ còn nhắm vô Alice.
Alice tuổi mới ba mươi, đôi mắt đen nhánh, dè dặt kín đáo. Vậy mà nàng thích nghe nói qua nói lại.
Ngay cả nàng cũng không tin vô ông Ellis có dính dáng đến nội vụ. Ông là một người quá lịch thiệp. Cảnh sát lại nghi cho ông một tên ăn trộm. Alice hoàn toàn không nghĩ như vậy.
- Vậy là cô xác định rõ ông ta một người quản gia thật thà đúng không? - Ngài Charles hỏi ngay.
- Không hẳn vậy, thưa ngài. Ông ta khác mấy người quản giạ trước đây. Ông ta biết tổ chức công việc khác hơn.
- Nhưng cô không tin là ông ta đã đầu độc ngài chủ nhà?
- Ồ, thưa ngài, tôi không nghĩ là ông đã làm chuyện đó. Tôi đang cùng với ông ta phục vụ khách, làm sao ông ta dám đụng đến món ăn dọn ra ngay trên bàn mà tôi lại không hay biết được.
- Còn thức uống thì sao?
- Ông phục vụ rượu từng vị khách. Mở đầu là rượu nho Tây Ban Nha, món súp, đến món rượu vang trắng và rượu Bordeau. Vậy làm sao ông ta ra tay kịp, thưa ngài? Nếu pha thêm một chất lạ vô rượu thì mọi người đều trúng độc - hoặc ít ra là những ai uống nhầm. Vậy là không thể nào ngài chủ nhà trúng độc còn mấy vị khách thì không. Đến lượt rót rượu Bồ cũng y vậy. Các vị khách phía mấy ông thì uống rượu Bồ, lại thêm một vài bà.
- Tất cả các ly rượu đều được dọn ra trên khay?
- Dạ, thưa ngài, tay em giữ khay, ông Ellis xếp ly rượu, xong rồi chính em mang vô cất lại trong tủ chén bát cho đến lúc cảnh sát đến kiểm nghiệm. Tất cả các ly rượu Bồ em để lại trên bàn, cảnh sát không tìm thấy dấu vết.
- Vậy là cô biết chắc là ngài bác sĩ không ăn uống gì cả trong buổi tối hôm đó và các vị khách cũng không?
- Em không nghĩ hoàn toàn như vậy, thưa ngài. Nói thật, em biết chắc ngài không ăn uống gì cả.
- Có một vị khách nào mời chắc ngài cũng từ chối luôn.
- Ồ, không phải đâu, thưa ngài.
- Cô có biết gì về chuyện cái lối thoát bí mật, Alice?
- Có lần em nghe người làm vườn kể lại. Em đi ra đến nơi chỉ nhìn thấy mấy mảng tường rệu rả đổ sụp ngổn ngang. Quanh nhà chẳng nhìn thấy một lối nào ăn thông ra đó.
- Có bao giờ cô nghe Ellis kể lại chuyện đó?
- Ồ, không có, thưa ngài, ông ta chẳng biết gì mấy chuyện đó. Em nói thật đấy.
- Này, Alice, cô biết rõ ai đã giết ngài chủ nhà?
- Em không biết, thưa ngài. Em không nghi cho ai cả... Em nghĩ ngài gặp chuyện rủi ro thế thôi.
- Chà. Cám ơn cô, Alice.
- Nếu không vì cái chết của ngài mục sư Bartholomew, vừa lúc con bé ra ngoài ngài Charles mới nói, ta có thể buộc nó là thủ phạm. Con bé đẹp đấy chứ... và nó lại phục vụ bàn... Không, không thể được. Ngài Babbington đã bị giết chết, còn Tollie chẳng khi nào để ý bọn gái đẹp. Ngài không phải vậy đâu.
- Nhưng ngài mới năm mươi lăm. - Ông Satterthwaite vừa nói vừa ngẫm nghĩ.
- Sao ông lại nói vậy?
- Ở cái tuổi đó người ta dễ bị bọn con gái nó hớp hồn, dù xưa nay ngài chưa phải vậy.
- Quỷ tha ma bắt ông đi, Satterthwaite, ta đang ở - ở độ tuổi năm mươi lăm.
- Tôi biết mà. - Satterthwaite nói lại.
Chợt ngài Charles nhìn thấy ông ta đứng chăm chăm nhìn về phía mình.
Ngài bối rối, mặt đỏ bừng...
K CHƯƠNG 5: TRONG GIAN PHÒNG NGƯỜI QUẢN GIA
iểm tra nơi ở của Ellis xong chưa? - Ông Satterthwaite vừa hỏi, hãy còn thích chí được nhìn thấy ngài Charles mặt đỏ bừng ban nãy.
Ngài nghệ sĩ xoay chuyển tình thế ngay.
- Tuyệt, tuyệt vời. Đúng như ta đã tính toán.
- Lẽ tất nhiên cảnh sát đã lùng sục khắp nơi.
- Lại cảnh sát.
Aristide Dural tỏ vẻ khinh thị đuổi hết cảnh sát ra ngoài. Để quên chuyện ban nãy, ông lấy lại bình tĩnh.
- Bọn cảnh sát ngốc nghếch cả, ông ta vơ đũa cả nắm - Bọn chúng tìm cái gì trong phòng Ellis? Có thấy dấu vết phạm tội chăng? Ta nên tìm ngay ở cái tính chất phác, thật thà của ông ta - chuyện nghe mới lạ đời.
- Ông vẫn tin Ellis thật thà sao?
- Nếu ta hiểu đúng vụ án ngài mục sư Babbington thì hẳn nhiên Ellis chỉ là kẻ vô tội.
- Phải đây, ngoài ra...
Ông Satterthwaite chợt bỏ lửng câu chuyện. Ông định nói nếu Ellis là tay tội phạm có tiếng, gặp lúc ngài Bartholomew phát hiện được, ông ta nhanh tay hạ thủ trước bịt đầu mối. Ngay lúc đó Ellis sực nhớ ngài Bartholomew là bạn của ngài Charles Cartwright. Ông lại hoảng sợ trước việc làm nhẫn tâm vừa rồi. Mới nhìn qua chỗ ở của Ellis chẳng thấy được dấu vết khả nghi. Quần áo sắp xếp ngăn nắp trong tủ, may ở nhiều cửa hiệu, cắt thật khéo. Quần áo cũ cho thấy ông từng làm nhiều nghề. Đồ lót cùng một cỡ. Giày đánh bóng, xong ngay ngắn.
Ông Satterthwaite cầm trên tay một chiếc. Ông nói nhẩm “giày số chín, phải rồi, số chín”. Nhìn quanh không thấy dấu chân cũng đành chịu thôi. Từ lúc Ellis bỏ đi ông ta còn mặc nguyên bộ đồ phục vụ trên người, cho nên ông Satterthwaite nhắc nhở ngài Charles nên xem đó là một điểm đặc biệt. - Dù là ai trong trường hợp đó phải thay quần áo cho khác chứ.
- Dạ phải, nó lạ ở chỗ... Nhìn kỹ lại, nghĩ thật vô lý tưởng chừng ông ta không bỏ đi đâu cả... Vô lý thật.
Hai vị tìm quanh một lần nữa. Không có giấy tờ, thư từ gì để lại, chỉ còn lại một mẩu tin cắt trong báo chỉ cách trị da bị chai sần, một mẩu tin loan báo ngày cưới sắp tới người con gái ngài quận công.
Trên chiếc bàn kê đầu giường còn sót lại một tập giấy thấm, một lọ mực, không có được một cây bút. Ngài Charles cầm tập giấy thấm soi vô gương, không thấy gì lạ. Lật xem một trang để thấm mực nhiều lần trông cũ kỹ.
Từ lúc ông ta về đây chưa hề cầm bút viết thư, cũng không dùng tới giấy thấm, ông Satterthwaite đoán chừng là vậy, tập giấy thấm đã cũ mèm. À, phải rồi. Chợt mắt ông sáng rỡ lúc nhìn thấy một chữ nhỏ xíu lẫn trong mớ dấu mực “L.Baker”.
- Tôi có thể nói chắc Ellis không đụng tới tập giấy thấm này.
- Lạ thật chứ nhỉ, phải không? - Ngài Charles chậm rãi nói.
- Ý ngài như thế nào?
- Lạ thật, người ta ai cũng phải viết thư...
- Bọn tội phạm thì chẳng khi nào viết thư cho ai.
- Không đâu, có thể ngài nói có lý... Ông ta bỏ trốn đi, ta đoán chắc có việc khả nghi rồi đây... Từ trước ta không nghi cho ông ta giết Tollie.
Hai vị tìm quanh sàn nhà, lật ngược tấm thảm lót sàn, dòm dưới gầm giường. Nhìn khắp chẳng thấy gì, ngoài một đốm mực còn đọng lại trên bếp sưởi. Gian buồng trông hoác.
Hai vị khách ngỡ ngàng rút lui. Thế là nhiệt tình, hăm hở đóng vai nhà thám tử chợt lắng xuống. Bởi hai vị chợt nhớ lại chuyện sách vở lúc nào cũng hay hơn thực tế.
Trao đổi riêng vài câu với bạn hữu, những người trẻ tuổi tỏ vẻ kính sợ bà Leckie và nàng Beatrice Church dù chưa thu thập chi tiết nào mới mẻ hơn. Hai vị khách chào từ giã mọi người.
- Này Satterthwaite, - Ngài Charles vừa nói vừa bước đi bên trong sân công viên, (ông Satterthwaite dặn xe đón tại cổng bảo vệ) - có việc gì khiến ông phải lo lắng, có việc gì không?
Ông Satterthwaite đang nghĩ ngợi. Ông chưa vội trả lời - nhất là khi ông nghĩ phải có việc gì đó khiến ông lo lắng. Nếu nói thật là chuyến đi tìm hiểu vừa rồi bỏ công vô ích thì không được. Ông phớt lờ trước chứng cứ của từng người giúp việc - bởi lượng thông tin thật quá ít ỏi.
Ngài Charles cố nhớ lại từng chi tiết, nàng Wills tính hay soi mói vô chuyện người khác, cô nàng Sutcliffe thì hoảng sợ, bà Dacres thì tỏ ra vô tư, còn thuyền trưởng Dacres say sưa tối ngày. Chỉ được vài chi tiết sơ sài nếu không nhờ Freddie Dacres rộng lượng muốn buông tha tội ác. Vậy mà ông Satterthwaite biết rõ hơn ai Freddie Dacres thường rượu chè say sưa.
- Vậy là thế nào? - Ngài Charles nôn nóng nhắc lại.
- Chẳng thế nào cả. - Ông Satterthwaite ngập ngừng nói ra.
- Trừ phi - vậy là, ta chỉ có thể vịn vào cái mẩu tin trên báo mới biết ra Ellis bị chứng chai da chân.
Ngài Charles gượng cười.
- Nghe cũng có lý! Liệu rồi - ờ - ta còn đoán thêm được gì nữa?
Ông Satterthwaite thú thật là chẳng đi tới đâu.
- Chỉ còn một chi tiết. - Đang nói chợt ông im tiếng.
- Sao cơ? Cứ nói đi bạn mình ơi. Có gì lạ hơn nữa.
- Tôi lấy làm lạ trước cái lối đùa cợt của ngài Bartholomew với người quản gia - Ngài biết không chuyện này do một người hầu gái kể lại. Chuyện này coi bộ không được.
- Phải nói là không được - Ngài Charles nhắc lại - Ta quen thân với Tollie - hơn cả ông nữa - ta nói cho ông nghe ngài không phải tip người thích bông đùa. Chưa có lúc nào ta được nghe ngài bộc lộ như vậy chỉ trừ khi - phải đó, trừ khi ngài có điều gì đó hơi lạ đời. Ông nói đúng, Satterthwaite - đó là chi tiết cần lun ý. Này câu chuyện tới đâu rồi?
- Ôi - Ông Satterthwaite vừa cất tiếng, chợt ông nhớ lại câu hỏi ngài Charles có vẻ kiểu cách. Chủ yếu ngài không muốn nghe ý kiến ông Satterthwaite, chỉ nhằm thổ lộ tâm tư riêng mình.
- Ông còn nhớ chuyện chết người xảy ra đúng thời điểm nào không, Satterthwaite? Có phải ngay sau khi Ellis chuyển lại lời nhắn trên máy điện thoại. Ta lại... nghĩ đây là một lối suy đoán hợp lý bởi vừa nghe lời nhắn tin xong ngài chợt phá ra cười ngất, thật lạ đời. Ông còn nhớ ta đã hỏi bà người hầu nội dung tin nhắn chứ.
Ông Satterthwaite gật gù.
- Một người đàn bà tên Rushbridger có ghé đến khu dưỡng đường, ông vừa nhắc điều đó có nghĩa là ông cũng lưu ý thêm một chi tiết. - Cũng không gây ấn tượng khiến ta phải giật mình.
- Đúng, chẳng có gì rùng rợn. Nhưng nếu lời bàn cả ta đúng, thì nội dung lời nhắn phải có gì lạ hơn kia.
- Ph... phải, ông Satterthwaite còn bán tín bán nghi, ta không ngờ - Ngài Satterthwaite nói - Ta phải tìm hiểu ngay cái điểm khác lạ đó. Ta chợt nghĩ có thể đó là tin nhắn theo lối mật mã - thoạt nghe cũng bình thường, nhưng ngẫm lại nó chứa đựng một nội dung kỳ lạ hơn. Giả sử Tollie cần điều tra cái chết của mục sư Babbington, nội dung ắt phải là khác lạ hơn. Có nghĩa là dù cho ngài thuê mướn riêng một thám tử thu thập chứng cứ. Ngài sẽ báo cho thám tử nếu chứng cứ được xác nhận qua điện thoại, ngài sẽ cho mọi người thấy nội dung không đúng sự thật. Chuyện đó khiến ngài vui mừng bởi ngài đã hỏi lại Ellis có nhớ đúng tên người đưa tin - ngài biết rõ hơn ai cả làm gì có thật tên người đó. Thật ra chỉ cần sơ hở một chút trong cách tính toán xếp đặt lại hóa ra một sự suy đoán viển vông.
- Vậy là ngài không tin có người mang tên bà De Rushbridger sao?
- Ồ, ta nghĩ mình cần phải tìm hiểu cho chắc.
- Thế nào cơ?
- Ta đi qua khu dưỡng đường hỏi thêm bà y tá trưởng thì biết ngay.
- Bà ta sẽ nghĩ bọn mình kỳ cục.
Ngài Charles phá ra cười.
- Cứ để mặc ta. - Ngài bảo.
Hai vị khách tránh qua đường và đi bộ tới khu dường đường.
Chợt ông Satterthwaite cất tiếng.
- Con ngài thì sao, Cartwright? Ngài có nghĩ ngợi gì không? Về chuyện ta đi tới khu dưỡng đường ngay lúc này.
Ngài Charles chậm rãi nói:
- Có đây, có vấn đề, khốn nỗi ta không nhớ cho hết.
Chợt ông Satterthwaite ngạc nhiên nhìn lại. Ngài Charles nhíu trán suy nghĩ.
- Ta biết ăn nói thế nào đây. Có vấn đề là ta đã tính toán sai mà cũng không chắc là vậy, bởi lẽ ta không còn thời gian nghĩ lại. Ta tạm gác qua một bên. - Vậy là ngài chẳng còn nhớ gì nữa?
- Không phải vậy. Có lúc ta tự nghĩ, chuyện lạ lùng thật.
- Có phải nó rơi đúng vào thời điểm diễn ra buổi chất vấn mấy người phục vụ? Vậy thì người đó là ai?
- Ta đã nói là quên bẵng đi rồi. Vả lại lúc ta càng nghĩ ngợi thì càng dễ quên... Giả sử ta cứ phó mặc không nghĩ, biết đâu nó lại hiện về trong trí ta.
Hai vị khách đến khu dưỡng đường đồ sộ, toàn một màu trắng có tường rào cao ngăn cách khu công viên. Họ đến ngay trước cổng, kéo chuông xin được gặp bà y tá trưởng.
Một người phụ nữ cao lớn trạc tuổi trung niên, mặt mũi thông minh sáng láng, ăn nói lịch thiệp bước ra cổng. Bà từng quen biết ngài Charles, cũng là bạn thân thiết với ngài Bartholomew Strange quá cố.
Ngài Charles vừa từ nước ngoài trở về sửng sốt nghe tin người bạn thân thiết đã qua đời, bao nhiêu nghi vấn về cái chết còn đó, ngài vội đến nơi để thăm hỏi thêm tin tức. Bà kể lể cái chết của ngài khiến mọi người thương xót bởi ngài là một bác sĩ có tiếng tăm. Ngài Charles nôn nóng muốn biết mọi việc xảy ra tại
khu dưỡng đường. Bà kể lại ngài Bartholomew cộng tác với hai đồng nghiệp bác sĩ danh tiếng, một người ở lại ngay trong khu dưỡng đường. - Ngài Bartholomew hài lòng chỗ làm việc hiện tại, chuyện này tôi biết rõ. - Ngài Charles kể lại.
- Dạ, ngài điều trị bệnh nhân thật mát tay.
- Ngài chuyên về bệnh thần kinh, có phải vậy không?
- Dạ phải.
- Tôi chợt nhớ lại đã từng quen một người tại Monte Carlo có liên quan đến ngài mới tới đây. Tôi lại quên mất tên - tên nghe lạ tai lắm - Rushbridger - đúng rồi. Rushbridger - nghe na ná như vậy.
- Bà De Rushbridger, có phải ngài kể?
- Đúng rồi. Bà có ở đây?
- Dạ có. Tôi e là bà không thể gặp ngài được - ít ra chưa phải lúc này. Bà cần có thời gian tĩnh dưỡng, bà nhìn ngài nở một nụ cười tinh quái. - Bà không nhận thư, không tiếp khách...
- Tôi muốn biết bệnh tình của bà, không đến nỗi nào chứ?
- Thật ra bà đang suy nhược thần kinh - mất trí nhớ, khủng hoảng tinh thần. Ô, rồi bà sẽ được chữa khỏi.
Bà lại cười tự tin hơn.
- Để xem thử nào, có phải ta đã được nghe Tollie - ờ ngài Bartholomew - kể về bà? Bà quen biết và cũng là thân chủ của ngài, phải vậy không?
- Tôi không rõ lắm, thưa ngài Charles. Tôi chưa từng nghe ngài nói chuyện đó. Bà vừa từ vùng biển Caribê mới tới đây điều trị - mà nói thật kể cũng buồn cười, tôi sẽ kể tiếp. Tên bà cũng khó nhớ - bởi chính người phục vụ ở đây còn chưa hiểu. Có lần người hầu gái đến nói với tôi “Bà West India mới tới” tôi hiểu ngay đó là tên bà Rushbridger cũng tựa tựa như West India lẫn lộn với West Indies tên quê hương bà.
- Có lý - có lý - nghe cũng ngồ ngộ. Chồng bà ta có đây chứ?
- Ông ta còn ở bên đó.
- Ồ, phải - phải. Không thì ta lại nhầm tên bà với người nào khác. Đây là một ca bệnh bác sĩ cần quan tâm đặc biệt hơn phải không? - Chứng mất trí nhớ cũng khá phổ biến - nhưng cần quan tâm đến người chữa trị - nó khác nhau xa, ngài biết đó. Ít có hai ca bệnh trùng hợp. - Tôi chẳng hiểu ra làm sao cả. May quá, tôi cám ơn bà, được dịp trao đổi một số vấn đề. Ngài Tollie còn tiếc nhớ đến bà biết mấy. Tôi cứ nghe ngài nhắc nhở
luôn. - Rõ ràng ngài Charles vừa buông những lời giả dối.
- Ồ, nghe ngài kể em mừng biết mấy. - Bà cảm thấy vừa thẹn mặt đỏ bừng lại vừa tự hào - Ngài là một nhân vật tuyệt vời, chúng ta vừa mất một người bạn. Mọi người xót thương vô cùng, phải nói là bàng hoàng sửng sốt. Quân sát nhân! Kẻ nào đang tâm giết chết ngài bác sĩ Strange. Phi lý. Tên quản gia kia mi ác lắm. Rồi đến lượt cảnh sát túm cổ mi. Không còn đường mà thoát.
Ngài Charles buồn bã lắc đầu giã từ, hai vị khách đi vòng theo con đường ra đến cổng đón xe đã chờ sẵn.
Đổi lại suốt thời gian chất vấn bà y tá trưởng, ông Satterthwaite giữ im lặng hoàn toàn, bây giờ ông mới chuyển trọng tâm qua vụ tai nạn xe của anh chàng Oliver Manders, ông hỏi dồn dập người bảo vệ cổng là một người chậm hiểu, trạc tuổi trung niên.
Phải, ta nhìn thấy cái chỗ lối ra bí mật đầy những mảng tường đổ sụp ngổn ngang. Lúc đó, anh chàng đang ngồi yên trên xe mô-tô. Không, hắn không nhìn thấy cảnh đổ nát. Hắn chỉ nghe tiếng dội lại, vội chạy đến nhìn. Hắn đứng đó - ngay cái chỗ lúc này mọi người đang đứng. Hắn không hề hấn gì, chỉ còn nhìn lại tiếc rẻ cho chiếc xe - một mớ sắt vụn. Gã hỏi thăm đây là đâu, và khi biết là nhà của ngài Bartholomew Strange, gã buột miệng. “Cũng còn may”, rồi đi ngay vô bên trong. Gã là một thanh niên trầm tĩnh - dáng dấp mệt mỏi. Người gác cổng không hiểu đầu đuôi vì sao gã gây ra tai nạn, đoán chừng gã gặp rủi ro trên đường đi.
- Tai nạn khác thường. - Ông Satterthwaite vừa nói vừa nghĩ ngợi.
Ông đứng nhìn ra ngoài đường lộ rộng thênh thang. Một con đường thẳng tắp không quanh co, không có ngã ba ngã tư. Vậy thì không vì một trở ngại nào khiến người lái xe mô tô lao ngay vô bức tường cao ba mét ngay phía trước. Phải rồi, một tai nạn chưa từng thấy.
- Ông nghĩ thế nào, Satterthwaite? - Chợt ngài Charles hỏi lại có ý thăm dò.
- Không nghĩ gì cả, - Ông Satterthwaite đáp - không có gì.
- Lạ kỳ thật. - Ngài Charles lại nói, đến lượt ngài đang chăm chú nhìn về phía hiện trường chưa hiểu ra làm sao cả.
Hai vị khách trở lại xe rồi vọt đi ngay.
Ông Satterthwaite đang mãi nghĩ ngợi chuyện bà Rushbridger - vậy là lý lẽ của ngài Cartwright không đứng vững - không hề có một lời nhắn tin theo lối mật mã - người đàn bà được nhắc đến là người thật việc thật. Vậy có thể còn một vài việc liên quan đến bà ta chưa tìm hiểu được? Có phải bà là một nhân chứng, hay là một nhân vật đáng lưu ý khiến ngài Bartholomew Strange phải vui sướng đến như vậy? Hoặc là một người phụ nữ có cá tính độc đáo khiến ngài xiêu lòng? Ở cái tuổi năm mươi lăm mà đang yêu (ông Satterthwaite từng nhắc đến nhiều lần) tính khí phải đổi thay. Điều đó dễ khiến ngài giở thói bông lơn, trước đây ngài có tiếng là người lạnh lùng.
Chợt ông bị dựng ngược trở lại. Ngài Charles nhoài người về phía trước.
- Này Satterthwaite, - Ngài nói - ta quay xe lại đi, ông không thấy gì trở ngại chứ?
Không chần chờ, ông cầm dây nói ra lệnh. Xe chạy chậm dừng lại, tài xế quanh xe quay đầu về hướng kia. Một lát sau, xe bon bon chạy theo hướng ngược
chiều.
- Thế là thế nào? - Ông Satterthwaite chợt hỏi.
- Ta nhớ ra, - Ngài Charles nói - cái khiến ta lấy làm lạ. Chính là cái vết mực còn đọng lại trên sàn nhà trong phòng người quản gia.
CHƯƠNG 6: TÌM THẤY VẾT MỰC
Ông Satterthwaite kinh ngạc nhìn về phía người bạn đồng hành.
- Một vết mực? Ngài nghĩ thế nào đây, Cartwright?
- Ông còn nhớ chứ?
- Tôi nhớ ra rồi, có một vết mực. Phải đấy.
- Ngài nhớ đúng chỗ chứ?
- À - không chắc lắm.
- Sát chỗ chân tường gần bếp sưởi.
- Ông nghĩ cái vết mực đó có phải là đầu mối vụ việc không, Satterthwaite?
Ông Satterthwaite nghĩ ngợi một hồi.
- Vết mực không lớn lắm - Ông nói ra ngay - không phải bình mực bị nghiêng đổ. Tôi dám nói chắc người cầm bút đánh rơi xuống sàn - Ngài còn nhớ ta không tìm thấy một cây bút nào bên trong gian phòng (hẳn ngài còn nhớ mọi chi tiết y hệt như trước đây, ông Satterthwaite nói thầm). - Vậy là ông ta có một cây bút để mà viết lách chứ, nhưng không tìm thấy chứng cứ người này viết ra một chữ nào.
- Có, có đấy, Satterthwaite. Bởi ta tìm thấy dấu mực.
- Không chắc người này đã viết - Satterthwaite nói giọng gắt gỏng - Ông ta đánh rơi cây bút, chỉ có vậy.
- Nhưng không thể để lại dấu mực nếu cây bút không mở nắp.
- Tôi dám chắc ngài nói có lý, - Ông Satterthwaite cho hay - nhưng tôi thấy chẳng có gì kỳ lạ.
- Có thể chẳng có gì lạ - Ngài Charles đáp - Ta chưa thể cả quyết, chờ xong xuôi ta sẽ tính.
Hai vị khách đang chờ trước cổng sắt. Một lát sau, hai vị bước vô bên trong ngôi nhà sau khi đã nghĩ cách viện cớ bỏ quên cây viết chì bên trong căn phòng ngủ người quản gia.
- Giờ thì, Ngài Charles vừa nói tay khép cửa lại phía sau, khéo léo bỏ qua chuyện bà Leckie - để xem thử ta ngốc nghếch đến cỡ nào hay là ta cũng có thể nảy sinh một sáng kiến mới.
Ông Satterthwaite ngẫm nghĩ sáng kiến đó kể ra cũng tạm gọi là được, nhưng vì vị nể ông mới nghĩ ra như vậy. Ông ngồi xuống giường chờ xem người bạn đồng hành ra tay.
- Vết mực đây rồi - Ngài Charles vừa nói, ông gí ngay mũi giày vô đó - Đối diện tấm vách ván phía bên kia nhìn qua bàn viết. Trong hoàn cảnh nào người đàn ông này lại đánh rơi cây bút tại chỗ này?
- Ngài có thể đánh rơi chỗ nào chẳng được. - Ông Satterthwaite nói.
- Ông có thể quăng nó qua một bên cũng được - Ngài Charles nhất trí - Nhưng có ai lại tính toán như vậy. Ta chẳng biết thế nào, chịu thôi. Bút mực lại hay rầy rà. Viết xong ta tháo hết mực ra. Chỉ có cách đó là tiện. Có thể lúc đó Ellis rối trí mới nói “Cái thứ quỷ quái này chỉ phiền”, nói xong ông ta quẳng nó qua một bên.
- Tôi nghĩ có đủ cách để nói - Ông Satterthwaite nói - Có thể ông ta vừa đặt cây bút trên bếp sưởi vô cớ lăn rớt xuống sàn cũng được. Ngài Charles lấy cây bút chì làm thử. Ngài để cho lăn từ trên bếp sưởi xuống. Cây bút chì văng ra xa khoảng vài tấc rồi trở lại chỗ cũ. - Thôi được rồi - Ông Satterthwaite nói - Ngài cho biết ý kiến thế nào?
- Ta đang tìm cách nói đây.
Ngồi một chỗ trên giường, ông Satterthwaite nhìn thấy hết cái trò vui mắt vừa rồi.
Bước về phía bếp sưởi ngài Charles lại thử đánh rơi cây bút chì. Ngài lại ngồi xuống giường viết thử vài chữ rồi đánh rơi bút xuống sàn. Muốn thử lại hãy vô vị trí đứng hoặc tựa vô vách tường thử đánh rơi cây bút ngay điểm xác định, vậy cũng chưa chắc ăn đâu.
- Không thể được. - Ngài Charles nói lớn tiếng. Ngài còn đứng đó quan sát vách tường, chỗ nhìn thấy vết mực cho tới vị trí bếp sưởi. - Bây giờ ta đoán chừng ông ta quẳng hết giấy tờ vô lò sưởi, Ngài nói vừa nghĩ ngợi - nhưng không có ai lại hủy giấy tờ trong bếp gas. Chợt ngài Charles hít một hơi thật sâu.
Một lát sau ông Satterthwaite mới nhận định rõ vai trò của ngài Charles lúc này.
Ngài Charles thử nhập vai người quản gia, ngồi ngay vô bàn viết. Ngài lấm lét, thỉnh thoảng lại nhướng mắt, liếc qua liếc lại. Chợt ngài nghe có tiếng động - ông Satterthwaite cũng đoán ngay là tiếng bước chân người đi bên ngoài hành lang. Ngài nhận thức về bọn tội phạm rất tài tình. Bước chân ngoài kia có một vẻ gì đó khác thường. Ngài đứng phắt dậy tay còn giữ lấy mảnh giấy, tay kia cầm bút. Ngài bước nhanh về phía bếp sưởi, đầu hơi ngoái về phía sau như đang cảnh giác - lắng nghe - có vẻ sợ hãi. Ngài cố nhét các giấy tờ dưới đáy bếp sưởi - hấp tấp lấy cả hai tay quẳng cây bút xuống sàn. Cây bút chì của ngài Charles, “cây bút” trong một màn kịch lại rơi đúng ngay chỗ vết mực...
- Khá lắm. - Ông Satterthwaite buột miệng nói, hết lời khen ngợi.
Màn kịch đạt yêu cầu hay đến mức Ellis cũng chỉ làm được tới cỡ đó.
- Ông rõ chứ? - Ngài Charles hỏi, lấy lại tư thế rồi ngài nói trong niềm vui sướng hân hoan - Nếu ông ta đánh hơi nghe thấy cảnh sát dù thật hay tưởng tượng, vội giấu tất cả các giấy tờ - vậy thì, ông ta tính giấu ở chỗ nào? Không thể giấu trong ngăn kéo hoặc dưới nệm - nếu cảnh sát khám xét chỗ ở dễ tìm ra ngay. Ông ta cũng không kịp lật các tấm ván sàn. Không được, có khả năng ta tìm ra một chỗ phía sau bếp sưởi.
- Còn một việc nữa, - Ông Satterthwaite nói tiếp - ta tìm ngay coi còn giấu một món nào phía sau đó.
- Đúng. Hẳn nhiên, chẳng qua là chuyện báo động giả và ông ta lấy mấy món đó ra ngoài. Ta hy vọng một cơ hội sau chót. Cởi bỏ áo choàng, xắn tay áo sẵn sàng, ngài Charles nằm áp sát xuống sàn, chăm chú nhìn vô kẽ hở dưới bếp sưởi.
- Ta thấy một vật gì đó - Ngài cho hay - Một vật màu trắng. Làm cách nào nhặt ra ngoài đây? Ta cần một cây ghim cài mũ. - Phụ nữ không còn dùng cái món đó nữa - Ông Satterthwaite nói giọng buồn xo - Có lẽ đó là cây dao nhíp.
- Cái món đó cũng chẳng có ích lợi gì.
Ông Satterthwaite bèn nghĩ cách đi ra ngoài mượn cây que đan áo của nàng Beatrice. Dù tò mò muốn biết ông mượn làm gì nhưng vị nể, nàng không hỏi. Cây que đan coi vậy mà cũng được việc. Ngài Charles lôi ra cả chục mảnh giấy viết thư vò nhàu một đống, có lẽ vì vội vả nên nhồi nhét vô một chỗ.
Cả hai vị khách vui sướng tột độ lấy tay căng xấp giấy nhàu nát cho ngay ngắn. Toàn bộ những bức thư được soạn trước - nét chữ viết tay nhỏ nhắn, tỉ mỉ.!!!Người viết những dòng này trước tiên (bức thư thứ nhất) muốn ngỏ đôi lời, bởi không muốn làm cho ai bận lòng, hoặc có thể hiểu lầm trước sự việc được chứng kiến trong đêm nay, vậy mà...
Đến đây người viết có vẻ không hài lòng, đặt bút viết lại.!!!John Ellis, người quản gia, xin có lời chào quý vị và mong muốn được bày tỏ tâm sự về câu chuyện thương tâm trong đêm nay trước khi đến bót cảnh sát trình báo sự việc trước mắt.
Cũng chưa ưng ý, tác giả viết lại lần nữa.!!!John Ellis, người quản gia đang nắm trong tay những bằng chứng cái chết ngài bác sĩ.!!!Những thông tin này chưa hề được báo cho cảnh sát.
Lá thư sau chuyển giọng không dùng cách xưng hô ở ngôi thứ ba.!!!Tôi đang cần một món tiền, rất cần. Một ngàn pound đối với tôi lúc này quý lắm. Sau đây là một số thông tin tôi muốn báo cho cảnh sát, nhưng xét thấy không muốn gây rắc rối.
Bức thư sau chót tác giả công khai hơn.!!!Tôi biết rõ nguyên nhân cái chết ngài bác sĩ. Tôi chưa báo cho cảnh sát - đến giờ này vẫn chưa. Nếu quý vị cần gặp tôi...
Bức thư sau chót chợt bỏ ngang khó hiểu - viết xong chữ “tôi” nét chữ mờ dần, viết nguệch ngoạc, năm chữ cuối bị nhòe còn vương lại nhiều dấu mực. Rõ ràng vừa viết đến đây tai Ellis nghe có tiếng động hoảng hốt. Ông ta vò nhàu giấy viết vội cất giấu ngay.
Ông Satterthwaite hít một hơi thật sâu.
- Tôi xin có lời khen ngài, Cartwright. Ngài có linh tính về cái vết mực đúng quá. Mọi việc tốt đẹp cả. Giờ ta nhắm cho đúng vị trí đang đứng tại chỗ nào. Ông suy nghĩ một hồi.
- Quả đúng như chúng ta nhận định Ellis, tay này thật nham hiểm. Hắn không phải tên sát nhân, hắn biết ai là thủ phạm, hắn đang tính chuyện làm tiền người ta.
- Người ta là nam hay nữ, - Ngài Charles nói chận ngang - chúng ta bị tẩu hỏa nhập ma chẳng nhận ra ai là ai. Sao anh chàng này không thể viết bằng chữ bà hay ông dựa vô đó chúng ta mới tỏ tường. Anh chàng coi vậy mà có máu nghệ sĩ. Hắn đã bỏ công sức ra để mài giũa mấy bức thư tống tiền. Giá mà hắn chỉ lộ cho chúng ta thấy một dấu vết - một dấu vết đơn sơ thôi cũng được - đó là hắn muốn nhắn gởi ai.
- Đừng lo - Ông Satterthwaite chợt nói - Ta đang đi lần tới. Hẳn ngài còn nhớ câu nói ta phải tìm cho được bằng chứng ngay trong căn phòng này chứng minh Ellis vô tội. Vậy thì, ta đã tìm thấy. Những bức thư là bằng chứng vô tội - tôi muốn nói hắn không phải là thủ phạm. Nhưng nói theo cách khác hắn là tay nham hiểm quá trời. Nhưng hắn không giết ngài Bartholomew. Kẻ sát nhân là một người lạ. Chính tên này cũng đã giết mục sư Babbington. Tôi nghĩ rồi ra cảnh sát sẽ nhất trí với quan điểm của chúng ta.
- Vậy là ông đi báo cho họ chuyện đó sao?
Ngài Charles hỏi giọng điệu bất mãn.
- Tôi thấy mình không thể làm khác hơn. Sao vậy?
- Thôi được rồi - Ngài Charles lại ngồi xuống giường. Ngài nhíu mày nghĩ ngợi - Ta còn biết nói gì hơn? Ngay cái lúc chúng ta không tìm thấy ai là thủ phạm. Lúc đó cảnh sát đang truy lùng Ellis, hắn bị tình nghi thủ phạm, mọi người đều biết chuyện đó. Cho nên thủ phạm chính cống vẫn sống ung dung. Thủ phạm (hoặc là nữ thủ phạm) chưa chắc đã quên mất cảnh giác nhưng dù sao cũng cảm thấy - ôi, thật thoải mái. Vụ việc bị đảo lộn có thật đáng tiếc không? Hay biết đâu một dịp may cho chúng ta? Ta muốn nói dịp may tìm thấy manh mối quan hệ giữa mục sư Babbington với bọn chúng. Bởi lẽ bọn chúng còn chưa nhận ra vấn đề có một mối ràng buộc giữa hai cái chết. Bọn chúng không hề nghi ngờ gì. Một dịp may ngàn năm một thuở.
- Tôi hiểu ngài muốn nói gì rồi - Ông Satterthwaite nói - Tôi đồng ý, một dịp may. Tuy vậy không biết ta có chớp lấy thời cơ được không. Với tư cách công dân ta nên trình báo cảnh sát ngay. Không chần chừ gì nữa.
Ngài Charles nhìn theo ông mỉa mai, giễu cợt.
- Ông là một mẫu người công dân lương thiện, Satterthwaite. Ta tin tưởng việc tốt cần phải làm ngay, nhưng nghĩ lại ta không thể sánh với tư cách người công dân lương thiện như ông. Ta chẳng thấy ngại ngùng giữ kín được một vài bữa - kìa? Không được sao? Thôi được, ta trả lại đây. Hãy xứng đáng là những công dân bảo vệ an ninh trật tự chung.
- Ngài biết đấy, - Ông Satterthwaite phân bua - đại tá Johnson là bạn tôi, ông ta là một người biết điều - để cho ta tham gia khám phá hiện trường - cung cấp
cho ta nhiều thông tin và các thứ.
- Ồ, ông nói có lý, - Ngài Charles thở dài - có lý quá. Nói cho cùng, chỉ có mỗi mình ta chợt nhớ tới cái xó xỉnh phía dirới bếp sưởi. Mấy tên cảnh sát ngốc nghếch kia chẳng bao giờ nghĩ ra cái việc đó... Nhưng ông cứ làm theo ý ông. Này Satterthwaite, ta muốn biết hiện nay Ellis đang ở đâu?
- Tôi đoán chừng, - Ông Satterthwaite nói - hắn đã được toại nguyện. Hắn được trả công tìm đường lẩn trốn, và hắn trốn mất biệt - đúng như bài bản. - À, ra thế - Ngài Charles nói - Ta cho đó là một lối giải thích.
Ngài khẽ rùng mình.
- Ta không thích ở lại đây, Satterthwaite. Thôi về đi.
T CHƯƠNG 7: PHƯƠNG ÁN HÀNH ĐỘNG
ối hôm sau ngài Charles và ông Satterthwaite đã về tới London.
Cuộc gặp gỡ ngài đại tá Johnson được sắp xếp khéo léo. Kiểm sát viên Crossfield không hài lòng lắm trước việc hai vị khách “hào hoa” có tìm thấy chứng cứ mà ông và mấy người cộng sự đã quên đi. Ông thật sự bức xúc muốn giữ thể diện.
- Thật đáng khen, thưa ngài. Thú thật tôi không nghĩ chuyện tìm ra một cái xó xỉnh dưới bếp sưởi. Nói đúng ra tôi cảm thấy bối rối vì ngài phải nhìn thấu vô chỗ đó.
Hai vị khách chưa kể hết chi tiết suy đoán từ vết mực dẫn đến việc khám phá cái chỗ xó xỉnh.
- Chúng tôi sục sạo khắp nơi. - Ngài Charles nghĩ sao nói vậy.
- Vậy là ngài cứ lục lạo, - Ông kiểm sát viên nói theo - và tìm đúng chỗ - Không phải việc ngài tìm thấy khiến chúng tôi phải ngạc nhiên. Ngài biết đó, rõ ràng là Ellis không phải là thủ phạm, hắn lẩn trốn vì nhiều lý do, trong thâm tâm tôi nghĩ chuyện tống tiền có thể nằm trong đường dây làm ăn của hắn.
Một tia sáng vừa lóe ra trong cuộc khám phá vừa qua. Ngài đại tá Johnson đang hợp tác với Cục Cảnh sát Loomouth. Cần phải điều tra ngay cái chét của mục sư Stephen Babbington.
- Và nếu cảnh sát phát hiện chết vì nicotine thì ngay cả Crossfield phải chấp nhận sự việc hai cái chết có cùng một nguyên nhân, ngài Charles nói ngồi trong khi xe đang lao về phía thành phố London.
Ngài vẫn còn bực tức vì phải giao lại chứng cứ cho cảnh sát.
Ông Satterthwaite khuyên ngài yên tâm, tin tức đó không được phép phổ biến, không cho đăng báo.
Thủ phạm không còn nghi ngờ gì nữa. Công cuộc truy lùng Ellis đang tiếp diễn.
Ngài Charles thừa nhận điều đó hoàn toàn đúng. Lúc vừa tới London, ngài giải thích cho ông Satterthwaite nghe, đề nghị liên lạc ngay với Egg Lytton Gore. Thư nàng gửi đề địa chỉ ở phố Belgrave Square. Ngài hy vọng nàng còn ở lại đó.
Ông Satterthwaite thầm lặng nghe theo. Bởi ông cũng cần gặp Egg. Chương trình sắp xếp ngay khi tới London. Ngài Charles gọi điện cho nàng ngay. Egg vẫn còn ở đó. Hai mẹ con và mấy người bà con còn nán lại một tuần, chưa tính về lại Loomouth. Egg sẵn sàng nhặn lời dùng cơm tối cùng hai vị khách.
- Ta nghĩ nàng đến đây không được tự nhiên - Ngài Charles nói, nhìn quanh một vòng khắp căn phố sang trọng của mình - Mẹ nàng chắc cũng không thích, lạ nhỉ? Tất nhiên ta phải mời thêm nàng Milray nữa - nhưng mà thôi. Thật tình mà nói nàng Milray không thích lối sống của ta. Nàng tài tình ở chỗ dễ xui khiến ta mang mặc cảm tự ti.
Ông Satterthwaite đề nghị ghé nhà ông. Rốt cuộc bữa ăn tối tổ chức ở Berkeley. Sau bữa ăn, nếu Egg thích thì ta dời qua địa điểm khác.
Ông Satterthwaite nhìn ra ngay cô nàng gầy hơn dạo trước. Mắt mở to, nhiệt tình hơn, chiếc cằm quả quyết. Gương mặt xanh xao, mắt quầng thâm. Sao mà nàng nhìn say đắm hơn dạo trước, cái vẻ thèm khát thơ ngây càng rạo rực biết mấy!
Nàng nói với ngài Charles:
- Em biết các ngài sẽ đến...
Lời nói của nàng đầy vẻ ngụ ý “Các ngài đã đến thì mọi việc sẽ đâu vào đấy...”
Ông Satterthwaite nghĩ ngợi “Nàng đâu có chắc ngài đến - nàng không chắc chút nào. Đứng ngồi không yên”. Rồi ông lại nghĩ “Ngài đã nghĩ kỹ chưa? Mấy anh chàng nghệ sĩ phiêu bạt phù phiếm lắm... Ngài có biết chăng nàng yêu ngài say đắm?”
Ông nghĩ tình thế coi bộ căng lắm. Ngài Charles cũng say mê cô nàng dữ lắm, chắc quá đi rồi. Đổi lại nàng cũng yêu ông. Mối dây ràng buộc hai con người - khắng khít cuồng nhiệt - một vết nhơ - tự nó lại càng ghê tởm hơn.
Bữa cơm tẻ nhạt. Ngài Charles kể lại mấy việc lúc còn ở nước ngoài. Egg chỉ nói chuyện quanh quẩn ở Loomouth. Mỗi lúc câu chuyện dừng lại, ông Satterthwaite nói xen vô cho vui. Sau bữa ăn mọi người ghé lại nhà Satterthwaite.
Nhà ông Satterthwaite ở trên con đê Chelsea. Một ngôi nhà đồ sộ trang trí nhiều tác phẩm nghệ thuật. Rất nhiều tranh tượng, đồ gốm sứ, đồ gốm thời tiền sử, những sản phẩm bằng ngà, tranh tiểu họa, bàn ghế kiểu Chippendale và Hepplewhite. Nhìn quanh đây là ngôi nhà của một nhân vật sống từng trải, am hiểu việc đời.
Egg Lytton Gore chẳng hề ghé mắt nhìn lại. Nàng vắt tấm áo choàng trên lưng ghế và chợt cất tiếng.
- À, thế thì các ngài kể hết chuyện cho em nghe đi.
Nàng chăm chú nghe. Ngài kể lại những gì khám phá được ở Yorkshire, nàng nghe như nín thở đến đoạn tìm thấy những bức thư tống tiền. Còn chuyện gì xảy ra về sau ta chỉ đoán mò - Ngài Charles vừa kể cho nàng nghe xong. - Có thể là Ellis được trả tiền công không được nói bậy, hắn lẩn trốn có người bao che.
Vậy mà Egg cứ lắc đầu.
- Ồ, đâu phải vậy - Nàng chống chế - Ngài không hay biết gì sao? Ellis đã chết rồi.
Cả hai vị khách kinh hoàng, Egg thì vẫn lặp lại câu nói ban nãy.
- Tất nhiên là hắn đã chết. Bởi vậy nên hắn biến mất dạng và không ai tìm thấy được dấu vết. Hắn bị giết chết vì cái tội biết quá nhiều. Ellis là nạn nhân vụ án thứ ba.
Cho dù hai vị khách không ai ngờ được chuyện đó, họ buộc phải nhìn nhận câu chuyện không phải là vô căn cứ.
- Này nhìn đây cô em, - Ngài Charles đối đáp - Ellis đã chết ta chấp nhận chuyện đó. Vậy thì xác hắn đâu? Có tới mười hai người quản gia đã bị giết chết. - Em không rõ xác chết giờ ở chỗ nào - Egg đáp gọn - Biết chỗ nào mà chỉ cho ra.
- Gay đấy, - Ông Satterthwaite nói thầm - gay thật.
- Biết chỗ nào - Egg nhắc lại - Để xem nào... - Nàng chợt im tiếng - Trên gác lửng, nhiều căn gác lửng chưa ai nghĩ ra chỗ đó. Xác chết có thể đem bỏ trong rương giấu trên gác lửng.
- Làm gì có chuyện đó, - Ngài Charles nói - nhưng có thể lắm. Có một lúc nào đó chưa ai nghĩ tới.
Không phải vì Egg muốn xoa dịu tình thế. Nàng đã nhắm đúng ý đồ ngài Charles.
- Mùi hôi thường xông ra ngoài chứ không bị hút vô bên trong. Ta dễ khám phá nhanh chóng một xác chết thối rửa nằm ở dưới hầm hơn là giấu ở trên gác lửng. Mấy lâu nay mọi người tưởng là xác con chuột chết trên đó.
- À, cũng còn nhiều giả thiết nữa. Quanh nhà còn có một lối thoát bí mật ra ngoài, em còn nhớ không. Nàng Sutcliffe đã có lần báo cho ta hay, và ngài Bartholomew định chỉ cho ta thấy. Tên sát thủ có thể đã chi tiền cho Ellis chỉ đường cho hắn thoát thân. - Tên sát thủ đi theo ra đến nơi giết hắn ngay. Một người phụ nữ cũng có thể giết được. Người này sử dụng một loại hung khí tấn công từ phía sau lưng. Thi hành xong bỏ xác lại, trở vô nhà chẳng ai hay biết.
Ngài Charles lắc đầu như đang còn hồ nghi, ngài không muốn cắt ngang câu chuyện của Egg.
Ông Satterthwaite cũng nhận thấy một điểm khả nghi lúc hai vị khách bước vô lục soát bên trong chỗ ở Ellis và tìm thấy một xấp thư còn để lại đó. Ông nhớ lại lúc đó ngài Charles khẽ rùng mình. Đúng lúc đó ông chợt nghĩ Ellis đã chết...
Ông Satterthwaite ngẫm nghĩ: “Nếu Ellis chết rồi, ta đang đối mặt với một kẻ còn đáng sợ hơn... Phải đấy, một kẻ đáng sợ hơn...” Nghĩ đến đó ông chợt thấy ớn lạnh xương sống...
Một tay sát thủ từng gây án đến ba lần, nó giết người không gớm tay...
Mọi người đang bị đe dọa, cả ba mạng người - Ngài Charles, nàng Egg và ông...
Bởi họ đã biết quá nhiều...
Chợt ông nhớ lại câu nói ngài Charles hôm nào:
- Trong thư em viết có một điểm ta chưa hiểu, Egg. Em nhắc đến Oliver Manders đang bị đe dọa - cảnh sát đang theo dõi. Vậy mà ta chẳng thấy họ nghi cho anh chàng.
Ông Satterthwaite nhìn thấy Egg chẳng hề xúc động, ông cứ ngỡ nhìn thấy mặt nàng đỏ bừng.
- “Thảo nào” ông Satterthwaite nói thầm “Để xem làm thế nào mà cô né đi chuyện này, cô em”.
- Em thật đáng tội - Egg nói - Em lo cuống quít. Em cứ nghĩ Oliver giữ đúng lời hứa sẽ đến, dù với một lời tạ lỗi giả dối - Ôi, em cứ nghĩ cảnh sát đang theo dõi anh chàng.
Ngài Charles nhất trí với cách giải thích vừa rồi.
- Phải, ngài nói, ta hiểu ra rồi.
Ông Satterthwaite chợt hỏi:
- Một lời tạ lỗi giả dối là thế nào? - Ông hỏi lại.
Egg quay lại nhìn ông.
- Ông nghĩ thế nào?
- Một vụ tai nạn lạ đời - Ông Satterthwaite nói - Ta nghĩ nếu anh chàng bịa ra lời tạ lỗi hẳn là cô phải biết chứ.
Egg lắc đầu:
- Em không biết. Em không hề nghĩ chuyện đó. Vậy sao Oliver lại muốn gây tai nạn trong khi anh chàng không cố ý?
- Hắn phải có lý do - Ngài Charles nói xen vô - Chuyện bình thường.
Ngài cười, nhìn về phía cô nàng. Egg đỏ mặt tía tai.
- Ồ, không phải, - Nàng nói - không phải vậy.
Ngài Charles thở dài. Ông Satterthwaite nghĩ là ngài hiểu nhầm ý cô nàng muốn nói gì. Trông ngài có vẻ già hẳn và buồn hơn lúc vừa nhắc lại chuyện cũ. - Thôi được, - Ngài nói - nếu anh chàng không bị đe dọa vậy thì ta biết đứng về phía nào?
Egg nhanh nhẹn bước đến trước nắm lấy tay áo ngài.
- Ngài đừng bỏ đi nữa. Ngài định bỏ cuộc sao? Ngài phải tìm ra sự thật - sự thật. Em chỉ còn dựa vô ngài, mong tìm ra đâu là sự thật. Ngài làm được việc đó. Ngài sẽ tìm ra sự thật.
Nàng nôn nóng biết chừng nào. Nhiệt tình đang dâng tràn sôi sục hâm nóng bầu không khí nguội lạnh bên trong gian phòng cổ kính. - Em tin ta lắm ư? - Ngài Charles hỏi lại. Ngài xúc động.
- Dạ, phải, dạ. Chúng ta đang xích lại gần sự thật. Chỉ ngài và em mà thôi.
- Còn Satterthwaite nữa chứ?
- Hẳn nhiên rồi, có cả ông Satterthwaite. - Egg nói, nàng không màng chuyện đó.
Ông Satterthwaite quay mặt cười. Dù nàng Egg có muốn nhắc đến ông hay không, ông không muốn đứng ngoài cuộc. Ông thích lao vô mấy chuyện bí ẩn, chuyện người đời, và ông càng thích hơn chuyện những người đang yêu. Cả những sở thích đó đều lẫn lộn trong vụ án ly kỳ này.
Ngài Charles ngồi xuống. Giọng nói khác trước. Kể từ lúc này ngài điều động mọi việc.
- Trước mắt ta cần làm sáng tỏ vụ việc. Ta có hay không quả quyết là thủ phạm giết chết mục sư Babbington và ngài Bartholomew chỉ là một? - Có. - Egg nói.
- Có. - Đến lượt ông Satterthwaite.
- Ta có quả quyết là vụ án thứ hai xuất phát từ vụ án thứ nhất? Nghĩa là ta có quả quyết ngài Bartholomew Strange bị giết chết để bịt đầu mối vụ án trước bởi ngài biết rõ sự việc?
- Có, cả hai. - Egg và ông Satterthwaite đều nhất trí.
- Giờ ta đi vô vụ án thứ nhất trước, sau mới đến vụ thứ hai.
Egg gật gù:
- Ta nghĩ là thật khó tìm ra thủ phạm cho đến khi ta khám phá được động cơ gây án. Cũng khá gay go cho chúng ta đây. Mục sư Babbington một người vô tội, vui vẻ, hiền lành, trên đời này chẳng có ai thù địch với ngài. Vậy mà ngài bị giết chết - tất nhiên phải có lý do trong đó. Ta tìm cho ra lý do nào.
Ngài im lặng một lúc và trở lại giọng điệu thường ngày:
- Nào ta bắt tay vào việc. Lý do nào phải giết người? Ta cho, trước tiên vì đồng tiền.
- Vì ân oán. - Egg nói xen vào.
- Vì chứng cuồng giết người - Ông Satterthwaite nói tiếp - Ta không thể gán tội giết người vì tình trong vụ án này. Nhưng có thể vì sợ hãi. Ngài Charles Cartwright gật gù. Ngài đang viết vội trên một mảnh giấy.
- Ta đang đề cập vô vấn đề, - Ngài nói - trước hết, vì đồng tiền. Có ai được lợi trong vụ án mục sư Babbington? Người đó có tiền - hoặc chờ được tiền? - Em nghĩ không có chuyện đó. - Egg nói.
- Ta cũng vậy, nhưng ta nên gặp bà Babbington để hỏi rõ vấn đề hơn.
- Qua đến chuyện ân oán. Ngài Babbington đã từng đụng chạm đến ai - hay có thể là lúc ngài còn trẻ? Ngài lấy vợ đã từng có nhiều kẻ dòm ngó chăng? Ta nên xét cho kỹ mấy việc đó.
- Đến lý do chứng cuồng giết người. Có thể một kẻ điên đã giết chết ngài mục sư và ngài Tollie? Ta cho lý do này không vững. Dù là một kẻ điên, nó cũng có lý lẽ riêng lúc gây án. Ý ta muốn nói kẻ điên tự cho mình được người cõi trên sai xuống trần để giết mấy vị bác sĩ, mục sư nhưng không thể giết một lúc cả hai. Ta nghĩ nên gạt qua lý do này. Vậy thì còn lý do sợ hãi.
- Giờ nói thật ra ta cho đây là giả thiết có lý nhất. Mục sư Babbington có lẽ đã biết một tên nào đó - hoặc ngài đã nhận dạng được. Ngài đã bị giết chết để bịt đầu mối.
- Thưa ngài, em không cho là một người như ngài Babbington lại biết chuyện gây phương hại cho kẻ khác có mặt tại chỗ ngay đêm hôm đó. Ngài nói thêm cho rõ:
- Thật khó nói sao cho dễ nghe. Giả sử (đây chỉ là một tình huống) mục sư Babbington đã có lúc nói có nhìn thấy kẻ lạ mặt. Theo ngài nghĩ, không có lý do nào buộc người lạ mặt không đến đó. Ta cũng giả thiết người lạ mặt bịa ra cái cớ tuyệt chiêu vì một lý do nào đó không thể đến ngay vì còn cách xa cả trăm cây số. Vậy thì, ngay lúc đó ngài Babbington đáng thương, vì quá thật thà đã nói ra hết.
- Em hiểu rồi - Egg nói - Như thế này một vụ án vừa xảy ra ở bên London, ngài Babbington nhận dạng thủ phạm ngay tại Paddington Station nhưng hắn chứng minh được vô tội, bịa ra mưu mẹo rằng thời điểm đó hắn đang ở tại Leeds. Vì vậy có thể ngài Babbington đáng thương đã nói ra hết.
- Đúng như ý đồ của ta. Dĩ nhiên đó chỉ là một tình huống. Cũng cần lưu ý thêm. Ngài nhận dạng được kẻ lạ tối hôm đó, hắn còn một cái tên gọi khác nữa. - Cũng có thể vì lý do để làm đám cưới - Egg nói - Mục sư đúng chủ lễ nhiều đám cưới như vậy. Cũng có nhiều người lấy vợ lấy chồng hai lần. - Hoặc vì lý có một người vừa sinh ra đời hay vừa mới chết. - Ông Satterthwaite góp ý thêm.
- Chuyện còn dài, - Egg vừa nói vừa nhíu trán - chúng ta chuyển hướng theo cách khác. Hãy bắt đầu từ những người có mặt đêm hôm đó. Lập một bản danh sách. Những ai có mặt ở nhà ngài, và những ai có mặt ở nhà ngài Bartholomew.
Nói xong nàng đỡ lấy giấy bút từ tay ngài Charles.
- Nhà Dacres, có mặt ở hai nơi. Một người đàn bà như rau héo, tên gì nhỉ - Wills - đến nàng Sutcliffe.
- Cô có thể gạt tên Angela - Ngài Charles ra lệnh - Ta quen biết nàng từ lâu.
Egg nhíu mày vẻ tức tối.
- Chúng ta không làm như vậy được - Nàng phân trần - Gạt tên một người vì lý do quen biết. Làm như chuyện kinh doanh buôn bán. Vả lại, em chẳng quen
biết nàng Angela Sutcliffe. Nàng cũng có khả năng là thủ phạm như mọi người khác, em có thể nói như vậy - còn có khả năng hơn nữa kia. Các nữ diễn viên cũng có một thời oanh liệt. Theo em nghĩ, nói chung nàng có khả năng là thủ phạm.
Nàng nhìn về phía ngài Charles vẻ thách thức. Mắt ngài nhìn muốn nổ đôm đốm thay cho câu trả lời.
- Trong trường hợp như vậy ta không thể loại bỏ Oliver Manders.
- Làm thế nào lại có cả Oliver được? Anh chàng đã từng gặp gỡ ngài mục sư Babbington nhiều lần.
- Anh ta có mặt ở hai nơi, hắn đến nơi có dấu hiệu khả nghi.
- Được rồi. - Egg đáp.
Một thoáng lặng thinh chợt nàng lại nói:
- Trường hợp này phải ghi thêm hai mẹ con em vô cho đủ. Vậy là nàng tổng số tình nghi là sáu người.
- Ta không nghĩ là...
- Ngài cứ làm đúng thủ tục, hoặc là hủy bỏ hết. - Chợt mắt nàng sáng rỡ.
Ông Satterthwaite đề nghị giải lao để làm dịu tình hình, ông cho gọi phục vụ mang thức uống đến.
Ngài Charles lững thững bước tới phía cuối phòng ngắm nhìn pho tượng đầu người da đen. Nàng Egg đến chỗ ông Satterthwaite nắm lấy tay ông.
- Em thật ngu xuẩn, mất bình tĩnh - Nàng nói khẽ - Em thật là ngốc nghếch - vậy sao lại loại bỏ phụ nữ ngoài danh sách? Sao ngài phán đoán nhanh loại bỏ nàng ra? Ồ, này ông, sao em lại ghen tức kỳ khôi vậy?
Ông Satterthwaite cười vỗ nhẹ tay nàng:
- Ghen tức chẳng được gì, cưng ạ, - Ông nói - nếu có khi nào em ganh tị đừng cho ai biết. Vậy thì, em nghĩ là Manders bị tình nghi thật sao? Egg phá ra cười - một tiếng cười hồn nhiên như trẻ con thật thà.
- Dĩ nhiên là không rồi. Em dàn cảnh để anh chàng đừng có lo. - Nàng xoay người qua. Ngài Charles còn mải chiêm ngưỡng bức tượng người da đen - Ông biết không - em không muốn chàng ta mang mặc cảm bị truy lùng. Nhưng em không thích anh chàng cứ nghi mình thế mạng cho Oliver - bởi em không còn gì cả. Việc đời thật nhiêu khê! Anh chàng trở về nếp sống “Lạy ơn trên phù hộ”. Em không thích cái lối sống đó.
- Phải chịu khó mới được. - Ông Satterthwaite khuyên lơn - Rồi mọi việc đâu vào đấy, nhớ lấy.
- Em nôn nóng - Egg nói - Em muốn mọi việc giải quyết trước mắt, có thể nhanh chóng hơn nữa kia.
Ông Satterthwaite phá ra cười, ngài Charles quay về chỗ cũ.
Mọi người nhấm nháp thức uống, bàn tính kế hoạch hành động. Ngài Charles trở về lại Chòi Canh, vì chưa bán được. Hai mẹ con nàng Egg trở về khu nhà Rose Cottage sớm hơn dự kiến. Bà mục sư Babbington vẫn còn ở tại khu Loomouth. Các ngài có thể đến nhà thu thập thêm tin tức từ đó mới định kế hoạch đối phó.
- Chúng ta sẽ giành phần thắng - Egg nói - Em tin chắc ta sẽ thành công.
Nàng nhoài người về phía ngài Charles, mắt chớp chóp. Nàng nâng ly chúc mừng ngài.
- Uống mừng thắng lợi. - Nàng khởi xướng.
Ngài thong thả nhìn vô mắt nàng, tay nâng ly chạm môi.
- Mừng thắng lợi - Ngài nói - mừng cho một ngày mới...
B PHẦN III - CHƯƠNG 1: PHÁ ÁN
À MỤC SƯ BABBINGTON
Bà Babbington dời chỗ ở đến nhà nghỉ làng đánh cá cách bến cảng không bao xa. Bà chờ đợi một ngôi nhà theo kiểu Nhật Bản đã sáu tháng nay. Hiện tại bà chưa tính toán cho công việc sắp tới.
Cũng may nhà nghỉ bỏ trống, bà có chỗ ở tạm sáu tháng. Kể từ sau cái chết đột ngột của ngài mục sư, bà sống trong tâm trạng ngỡ ngàng phải rời khỏi Loomouth. Ngài Stephen Babbington là chức sắc nắm giữ của cải nhà thờ St. Petroch, Loomouth suốt mười bảy năm. Gia đình mục sư sống hạnh phúc bình yên mười bảy năm như vậy, có lúc cay đắng ngậm ngùi trước cái chết người con trai Robin. Ngài còn mấy người con, Edward ở Srilanka, Lloyd ở Nam Phi và Stephen phục vụ trên tàu Angolia. Con bà sống xa nhà vẫn thư từ liên lạc đều dù chưa lo được một mái nhà cho người mẹ hoặc hẹn ngày đoàn viên.
Bà Margaret Babbington sống trong cảnh neo đơn...
Bà không bỏ phí thời gian ngồi than thân trách phận. Bà xông xáo lo việc đạo - Ngài mục sư mới nhận chức không có vợ, bà tranh thủ thời gian làm vườn trên mảnh đất trước ngôi nhà nghỉ. Bà thích trồng bông. Một buổi trưa nọ đang mãi lo cuốc đất làm vườn, chợt nghe có tiếng xịch ở ngoài cổng, bà ngước nhìn thì trông thấy ngài Charles Cartwright và Egg Lytton Gore còn đứng đó.
Bà Margaret cũng không lạ gì nàng Egg. Bà biết thế nào rồi hai mẹ con cũng dắt nhau về. Nhưng bà ngạc nhiên vì có ngài Charles đi theo. Người ta đồn ngài đã bỏ cả người thân láng giềng để ra đi nơi khác. Người ta còn giữ mẩu tin đăng trên báo kể lại việc làm của ngài ở miền Nam nước Pháp. Ngài treo bảng “CẦN BÁN GẤP” dựng trước khuôn viên CHÒI CANH trên đồi. Không ai ngờ ngài Charles quay về chỗ cũ. Ngài đã về tới.
Bà Babbington hất ngược mái tóc ra phía sau, mồ hôi ướt đẫm hầm hập trước trán, bà nhìn hai bàn tay lâm đất mặt mũi buồn xo. - Xin lỗi không bắt tay được đâu - Bà nói - Làm việc phải mang bao che tay chứ. Thỉnh thoảng mới dùng, chán quá xé bỏ. Làm tay không nó quen rồi.
Bà mời các vị khách trở vô nhà. Phòng khách nhỏ nhắn trang trí bằng loại vải bông đẹp mắt. Quanh tường treo ảnh chụp kỷ niệm. Khắp gian phòng bày những bình hoa cúc.
- Gặp lại ngài tôi ngạc nhiên lắm, thưa ngài Charles. Tôi ngỡ là ngài giã từ Chòi Canh từ lâu.
- Tôi cứ tưởng đi luôn rồi chứ. - Ngài nghệ sĩ nói thiệt tình - Nhưng mà, thưa bà đôi lúc mệnh số nó ràng buộc mình.
Bà Babbington ngồi lặng thinh, nhìn về phía nàng Egg, cô nàng nói xen vào.
- Thưa bà Babbington, hôm nay không phải là một chuyến viếng thăm. Ngài Charles và em có một việc rất cần gặp bà. Liệu - em - em có làm phiền bà chăng?
Bà Babbington hết nhìn cô nàng đến ngài Charles. Gương mặt bà tái nhợt khổ sở.
- Trước hết, ngài Charles mở lời, tôi đến hỏi thăm bà có được tin tức gì từ trên Bộ Nội vụ chưa?
Bà cúi đầu lặng thinh.
- Tôi hiểu - Ồ, có thể nhờ chuyện đó chúng ta dễ ăn nói hơn.
- Như vậy là ngài đã biết rồi - cái lệnh khai quật đó sao?
- Dạ, phải đó - Tôi e rằng chuyện đó - khiến cho bà đau đớn thêm.
Bà xiêu lòng trước giọng điệu chân thành của ngài.
- Có thể tôi không nghĩ như ngài. Chuyện khai quật đối với người khác thật là khủng khiếp - tôi thì không phải vậy. Không phải vì cái xác thân vô hồn. Chồng tôi giờ đã về cõi hư vô - cõi yên bình - không có ai muốn quấy rầy. Không, không phải vậy đâu. Cái ý tưởng đó gây sốc - ý tưởng, đôi lúc khủng khiếp lắm, vẫn cho là Stephen đã chết không được bình thường. Phi lý - hoàn toàn phi lý.
- Tôi nghĩ ý tưởng đó rất gần với bà. Ban đầu nó cũng hiện về trong trí tôi - và mọi người chúng ta.
- Cái ý tưởng ban đầu là thế nào, thưa ngài?
- Bởi ngay cái đêm xảy ra vụ án tôi đã hồ nghi, thưa bà Babbington. Cho nên cũng y như bà tôi nghĩ thật phi lý nếu gạt đi cái ý tưởng đó. - Em cũng nghĩ như ngài. - Egg nói xen vô.
- Lại thêm cô em nữa - Bà Babbington bàng hoàng nhìn nàng - Cô cho là có người đã giết chết Stephen sao?
Vẻ hồ nghi trong giọng nói của bà quá rõ đến mức hai vị khách không biết có nên tiếp tục câu chuyện. Ngài Charles lại kể:
- Như bà đã rõ, thưa bà Babbington, tôi có đi nước ngoài. Lúc còn ở bên Pháp tôi đọc báo thuật lại cái chết tương tự của bạn tôi, ngài Bartholomew Strange. Tôi có nhận được thư của nàng Lytton Gore.
Nàng Egg gật gù:
- Tôi có mặt đêm hôm đó, cùng tham dự với ngài. Thưa bà Babbington, một trường hợp tương tự như vậy, đúng như vậy. Ngài uống một hớp rượu Bồ, ngài biến sắc và - và - ôi, cũng y chang như vậy. Vài phút sau ngài lăn ra chết.
Bà Babbington khẽ lắc đầu:
- Tôi không hiểu gì hết. Stephen! Rồi đến ngài Bartholomew - một vị bác sĩ tài ba! Ai đã ra tay ám hại cả hai người? Thật là một chuyện lầm lẫn.