🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí ẩn về sự sụp đổ của Liên Xô - A. P. Sheviakin full prc pdf epub azw3 [Chính trị] Ebooks Nhóm Zalo Bí ẩn về Sự diệt vong của Liên Xô Thay lời nói đầu CHƯƠNG ILIÊN XÔ – MỸ. 1945-1953 Những nguồn gốc của “chiến tranh lạnh” – 1 Bí ẩn cái chết của Roosevelt Những nguồn gốc của “chiến tranh lạnh” – 2 Sự điều hành ở Liên Xô. 1945-1953. Bí ẩn cái chết của Xtalin CHƯƠNG IILIÊN XÔ. 1953-1985 “Trì trệ lớn” Nhiệm vụ của Khrusov Địa chính trị “nội bộ” – 1 Sự điều hành ở Liên Xô. 1953-1985 Tài liệu N°1. Tài liệu N°2. Nhiệm vụ của Xuxlov Những huyền thoại của kẻ phụng sự “Trì trệ lớn” Nhiệm vụ của Breznev Bí ẩn cái chết của Maserov, Xuxlov và những người khác Nhiệm vụ của Andropov Bí ẩn cái chết của Andropov Bí ẩn cái chết của Uxtinov và những người khác CHƯƠNG IIIBỘ MÔN NGA TRONG CHÍNH TRỊ HỌC MỸ “Những trung ương thần kinh” và các tổ chức Xô viết học Mỹ RAND Coporation Các nhà Xô viết học Sản phẩm của “Những trung ương thần kinh”: các học thuyết và công nghệ trí lực Phụ lục chương III. CHƯƠNG IV “LỜI CỦA ALLEN DALLES. NHẠC CỦA RAISA VÀ MIKHAIN GORBACHOV. “CẢI TỔ”. NGƯỜI BIỂU DIỄN ĐẦU TIÊN” Mật ước của “những nhà cách mạng cộng đồng” Quan điểm hệ thống về thất bại của Liên Xô Sự hỗ trợ trí lực của phương Tây trong việc hủy diệt Liên Xô Những cuộc chiến tranh của thế hệ thứ sáu Chiến tranh thông tin – tâm lý “… Các nhà Xô Viết học đã đạt được điều gì” Chiến tranh tổ chức Chiến tranh tài chính – kinh tế Chiến tranh công nghệ Chiến tranh máy tính Nhiệm vụ của gia đình Gorbachov Sự điều hành ở Liên Xô. 1985-1991 Tài liệu N°3. “Những trung ương thần kinh” của Liên Xô. 1985-1991 Tài liệu N°4. Cơ quan KGB của Liên Xô. 1985-1991 Nhiệm vụ của Iakolev Những huyền thoại của cải tổ và công khai Nhiệm vụ của Kriuchkov Những điệp viên có thế lực Địa chính trị “nội bộ” – 2 Hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự sụp đổ của nó Nhiệm vụ của Ianaiev Những bước phản tiến Sự chuẩn bị của các phương tiện thông tin đại chúng Sự chuẩn bị có phân tích Những mô tip của các cầu thủ trụ cột Bí ẩn cái chết của Pugo và Akhromeiev Bí ẩn cái chết của Kruchina và những người khác Bí ẩn cái chết của những nhân viên mật vụ Phụ lục chương 4 Kết luận Thời điểm của sự thật Phụ lục Phụ lục N°1. Phụ lục N°2. Phụ lục N°3. Phụ lục N°4. Phụ lục N°5. Phụ lục N°6. PhụlụcN°7. Phụ lục N°8. BÍ ẨN SỰ DIỆT VONG CỦA LIÊN XÔ – LỊCH SỬ NHỮNG ÂM MƯU VÀ PHẢN BỘI 1945-1991 Tác giả: A. P. Sheviakin Nhà xuất bản: Veche – Matxcơva Năm xuất bản: 2003 Người dịch: Lê Trí Liêm Phòng Khoa học – Công nghệ và Môi trường, TCCT Thay lời nói đầu Bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi có thêm một cuốn sách về đề tài “cải tổ” và sự phá hoại ngay sau đó ở Liên xô. Trong 10 năm sau khi Liên Xô sụp đổ đã có quá nhiều người viết về nó. Tất cả những ai muốn bày tỏ, đều đã bày tỏ. Những người liên quan – các nhà hoạt động chính trị, các trợ lý thân cận của họ, các nhà ngoại giao, nhân viên mật vụ, – đều đã viết hồi ký. Những người nghiên cứu: các giáo sư và tiến sĩ, các nhà sử học, chính trị học, địa chính trị và triết học đều đã làm việc rất thành tâm. Như nhiều người khác, tôi cố gắng đi tìm câu trả lời cho vấn đề còn trăn trở: Về nguyên tắc, tại sao có thể xảy ra như vậy? Trong số những gì đã được viết ra vẫn có nhiều điều làm tôi băn khoăn: nhiều sự kiện còn thiếu, các phương pháp tiếp cận chưa phanh phui tới tận cùng, thường thiếu những tư liệu về việc ai và mục tiêu người đó đã theo đuổi là thế nào, các nhiệm vụ đã được giải quyết ra sao, các đòn tấn công từ bên trong và bên ngoài đã được chuyển hóa như thế nào dưới ảnh hưởng của những hoàn cảnh bị thay đổi, mối quan hệ giữa chúng thế nào. Để tìm ra câu trả lời tôi đã tìm các cuốn sách mang tiêu đề hay tên các tác giả có liên quan tới đề tài này. Song, những câu trả lời trong số sách tôi tìm được hoàn toàn không làm tôi thỏa mãn. Khi đó tôi quyết định nêu ra giả thuyết của mình và nó nằm ngay trong cuốn sách này. Sau khi phân tích những thông tin có được theo phương pháp luận của quan điểm hệ thống rất thông dụng hiện nay, tôi cho rằng nó đã đạt tới mức độ mới về chất lượng so với những gì có trước đó. Hiện tượng xảy ra với Liên Xô trong những năm cải tổ vô cùng đơn giản. Về hiện tượng này, hiện có hai quan điểm – thậm chí những nhà nghiên cứu chân thành và thiện tâm nhất cũng luôn luôn cố chỉ ra rằng những sự kiện trên lãnh thổ Liên xô hoặc là do âm mưu của Mỹ, hoặc là đổ hết mọi tội lỗi cho những nhân vật trong Ban lãnh đạo Xô Viết. Chúng tôi thấy có mối tương tác của cả nguyên nhân này lẫn nguyên nhân kia. Chúng tôi không định đưa thêm một phân tích xét lại cuộc cải tổ và giai đoạn diễn ra trước đó. Đấy là công việc của các nhà sử học. Phương án được lựa chọn đơn giản hơn nhiều. Xuất phát từ việc những phương thức được áp dụng để chống lại Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết có đặc điểm mới, đặc biệt là vào giai đoạn 1985-1991. Điều đó có nghĩa là cả các phương pháp nghiên cứu cũng phải hiện đại hơn. Quan điểm hệ thống và những phương thức khác đem áp dụng ở đây sẽ gây ra nhiều điều đặc biệt phức tạp. Tuy nhiên, theo tôi, nhiều điều xảy ra có thể không được liệt kê tỉ mỉ và chỉ được làm rõ khi sử dụng quan điểm hệ thống. Điều đáng tiếc là với số lượng tài liệu sưu tầm được thì chưa thể sử dụng được quan điểm hệ thống về những gì đã xảy ra với nước Nga trong những năm 1985-1991. Có quá nhiều sự kiện trùng lặp. Mà như Goethe (1749-1832. Nhà văn Đức) từng nói, dân tộc nào không mong muốn hiểu biết quá khứ của mình thì dân tộc đó đáng phải trải nghiệm lại nhiều lần nữa. Bất cứ ý định nào tìm hiểu điều đã xảy ra trong những năm 1985-1991 cũng hoàn toàn vô ích, nếu chỉ phân tích các sự kiện đã diễn ra trong khuôn khổ thời gian kể trên, bởi cải tổ – đó là chu kỳ công khai của những quá trình tiêu cực tiềm ẩn từ trước. Vì vậy, cần phải mở rộng phạm vị nghiên cứu, xem xét từ chục năm trước. Cũng như cần phải hiểu rằng các quá trình phá hoại, sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa và Liên Xô, vẫn không không dừng lại. Chiến dịch “cải tổ” có nhiều bước và nhiều phương án. Song kế hoạch lật đổ Chính quyền Xô Viết ở Liên Xô và làm tan rã Liên bang Xô Viết một cách chi tiết, thống nhất như thế thậm chí không hề có lấy một nét đại thể. Cũng đã có những dự thảo, có bổ sung, có mục tiêu rõ ràng, các phương thức sử dụng được thảo luận kỹ lưỡng và được chuẩn y. Tùy theo kết quả thu được ban đầu mà kế hoạch và phương thức hành động lại được điều chỉnh để mong đợi kết quả mới. Vậy mà Mỹ và các “nhân viên hành động” đã thu được những kết quả vĩ đại. Còn chiến dịch “cải tổ” lại tỏ ra rất mù mờ. “Phải nói là tôi rất khâm phục cách thức phương Tây đã tiến hành toàn bộ “chiến tranh lạnh”. – Nhà phân tích A. A. Zinoviev viết, – Họ đã tiến hành rất xuất sắc và thực sự đã giành được ưu thế về trí tuệ so với giới lãnh đạo ngờ nghệch của chúng ta”. Điều đã xảy ra, ở một mức độ nào đó, là một quá trình tự nhiên đối với thế giới khắc nghiệt của chúng ta. Mục tiêu của bất cứ hệ thống xã hội nào cũng là cố gắng đạt được những thành tựu lớn hơn so với hệ thống khác. Nếu không đạt được mục tiêu đó một cách chính trực, thì dường như còn một cách là gây ra cho các láng giềng những thiệt hại nặng nề hơn. Cuốn sách này độc đáo bởi phần lớn tư liệu được sử dụng theo quan điểm tư duy sự kiện. Tôi cho rằng, trong thời gian tới, các nhà sử học có thiện tâm, có trách nhiệm mô hình hóa các tình huống theo cách thức như chính họ là những người tham gia vào các hành động đó. Có như vậy, chất lượng nghiên cứu sẽ tăng lên đáng kể. Chỉ khi đó các nhà sử học mới phát hiện ra những vấn đề mà theo cách tư duy thông thường không chú ý đến. Trong công trình này tác giả đã cố gắng dựa vào cách luận giải của triết gia hiện đại A. A. Zinoviev: “Phản cách mạng ở Liên Xô được sinh ra từ tổ hợp các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài, khách quan cũng như chủ quan. Để làm rõ cụ thể những yếu tố nào và chúng có vai trò gì trong đó, trước hết, cần tách bạch chúng ra khỏi dòng chảy của các sự kiện lịch sử – cụ thể, xác định rõ ranh giới sự kiện và thời gian của chúng. Cần xác định hành động cụ thể của những con người tạo ra chúng và xác định rằng đó chính là cái đã kết nối những hành động đó vào cái toàn thể duy nhất, vào một hành động chung phức tạp của nhiều con người khác nhau. Điểm chung của tất cả những hành động đó là họ, bằng cách này hay cách khác, đã hủy diệt chế độ xã hội của đất nước”. Tôi muốn nêu ra một số điểm tương đồng về lịch sử. Vào đầu thế kỷ XX, đã có một cuộc cách mạng diễn ra ở nước Nga. Vào nửa đầu những năm 1930, Liên Xô không chỉ thoát cơn hiểm nghèo mà còn trở nên trẻ trung và tráng kiện hơn. Để trả đũa, vào những năm 1940, phương Tây đã tiến hành một cuộc chiến công khai chống nước Nga và phải chịu thất bại. Do tính chất hai mặt của cải tổ, chúng ta thấy rằng cách mạng (chính xác hơn là “phản cách mạng”) đã đem lại sự thay đổi chế độ xã hội từ xã hội chủ nghĩa sang tư bản chủ nghĩa và có lợi cho phe chống Xô Viết. Như mọi cuộc chiến tranh khác, “chiến tranh lạnh” đã làm thay đổi cấu hình địa chính trị ở quy mô toàn cầu và thời đại, đem lại cho phương Tây một chiến thắng, dẫu tạm thời nhưng rất rõ ràng, đối với kẻ thù Xlavơ truyền kiếp của nó. Nếu như cuộc tấn công vào Liên Xô chỉ xuất phát từ bên ngoài – đó là một cuộc chiến tranh thuần túy. Nếu như giấc mơ của một bộ phận thượng lưu về sự hồi sinh chủ nghĩa tư bản trở thành hiện thực – đó cũng chỉ là một cuộc cách mạng. Nhưng vấn đề là cả hai sự kiện đó đã kết hợp làm một. Thù trong và giặc ngoài của đất nước Xô Viết và của nhân dân Liên Xô đã cấu kết với nhau. Chu kỳ năng động của chiến tranh đã xảy ra, chỉ có điểm kết thúc của nó là chưa rõ… Cuộc chiến tranh nào cũng được bắt đầu vào một ngày nhất định. Người dân của cả hai quốc gia (hai liên minh) tham chiến, bằng cách này hay cách khác, sẽ biết đến chiến tranh và việc họ sẽ là những người phải đối mặt. Cuộc chiến mà chúng ta đang xem xét chưa từng có trong lịch sử. Quy mô và tốc độ biến động của nó đã phủ định mọi cách diễn đạt – điều mà trong quá khứ phải diễn ra suốt cả thế kỷ. Phương thức tiến hành cuộc chiến này chỉ trở nên sáng tỏ sau khi giai đoạn đầu của nó đã kết thúc. Thậm chí, nhiều công dân của đất nước Xô Viết còn chưa kịp hình dung ra diện mạo của nó. Bộ máy tuyên truyền đã tỏ ra xuất sắc tới mức trong nhận thức của quần chúng, cuộc chiến tranh thế giới III chỉ xảy ra khi vũ khí hủy diệt lớn được đưa vào sử dụng và bằng chứng của sự kiện đó là một cuộc xâm lược công khai. Nhưng đây lại là một cuộc chiến mà chúng ta và nhiều người khác đã không thể nhận diện. “Tính chất bạo tàn của cuộc chiến này – cuộc chiến chống lại quân đội chúng ta, chống lại quốc gia – là thời điểm khởi đầu của nó đã diễn ra từ lâu rồi. Chúng ta đã không nhận ra cái ngày mà quân đội bắt đầu phải hứng chịu đòn tấn công mang mục đích phá hoại và hủy diệt”. CHƯƠNG I LIÊN XÔ – MỸ. 1945-1953 Những nguồn gốc của “chiến tranh lạnh” – 1 Cũng như lý do đối với Chiến tranh thế giới II được hình thành khi Chiến tranh thế giới I kết thúc, lý do đối với “cải tổ” là những sự kiện xảy ra cuối Chiến tranh thế giới II. Trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ và guồng máy khát khao thống trị thế giới đã từng tồn tại những quan điểm hoàn toàn khác nhau về việc hợp tác chính trị – quân sự của Mỹ và Liên Xô trong cuộc đấu tranh chống Đức, cũng như về việc quan hệ với Liên Xô nói chung. Phe được coi là thân Tổng thống (F. D. Roosevelt) ủng hộ việc liên minh bền vững với Liên Xô trong thời gian chiến tranh và không hề có ý định rời bỏ liên minh này sau đó. Phe khác – được coi là chống Xô Viết – đã có ý kiến hoàn toàn đối lập. Thái độ khác biệt như thế được thể hiện thành một cuộc đấu tranh thực sự giữa hai phe. Cuộc đấu này đặc biệt trở nên gay gắt hơn khi Hồng quân bắt đầu giành được những thắng lợi trên các mặt trận, giải phóng toàn bộ lãnh thổ của mình và tiến vào chiến trường châu Âu. Khi đó tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh không chỉ buộc phải ký vào bản Hiệp ước Ialta (4-11/2/1945), mà còn phải thực thi các điều khoản trong đó trên thực tế. Phe chống Xô Viết đã tiến hành thăm dò các quan chức Chính phủ về việc hủy bỏ những cam kết và xem xét lại đường lối đối ngoại sau chiến tranh. Ngay từ thánh 8 năm 1943, Cơ quan chiến lược Mỹ đã chuyển cho cấp lãnh đạo cao nhất đất nước xem xét Bị vong lục 121, trong đó đặt ra giả thiết về “phương hướng có thể của chiến lược và chính sách trong quan hệ với Đức và Nga. Trong điểm 3 của nó nêu: “cố gắng chuyển toàn bộ sức mạnh của nước Đức do phát xít và các tướng lĩnh đang điều hành chống lại Nga. Điều đó, rõ ràng, sẽ dẫn tới việc chính nước Đức hùng mạnh và hiếu chiến, nước đã từng tuyên chiến chống Nga và chống chúng ta (Mỹ) vào năm 1941, chiếm đóng Liên Xô”. Dường như hành động chủ yếu của phe này là họ đã bắt đầu tìm kiếm cách tiếp xúc với Đức. Các cuộc đàm phán đã được tiến hành thông qua cầu nối: Trưởng đoàn phái bộ Mỹ tại Berlin là Allen Dalles – Chỉ huy Ban tham mưu của Himle là Tướng SS Karl Volf. Rõ ràng “vụ Volf – Dalles” là chiến dịch chống lại Tổng thống Roosevelt và đường lối của ông ta. Nó được bắt đầu khi ông ta còn sống và nhằm phá hoại việc thực thi Hiệp ước Ialta. Phía Xô Viết được biết đến vụ này sau cuộc trao đổi thông tin giữa Bộ Dân ủy ngoại vụ Liên Xô và Bộ Ngoại giao Mỹ. Đây cũng là đối tượng trao đổi qua thư từ giữa I. V. Xtalin và F. D. Roosevelt. Tổng thống Mỹ đã tìm cách lảng tránh các câu hỏi của Xtalin bằng cách trì hoãn thời gian, đồng thời cố gắng nắm lại các đầu mối và các nhân vật quyền lực để tác động tới tình hình đang tuột khỏi tầm kiểm soát của mình. Cho đến nay ta chỉ có thể phán đoán về những gì xảy ra giữa Roosevelt và những kẻ chống lại đường lối của ông ta, song rõ ràng là ông ta đã phải chịu áp lực vô cùng lớn từ phía đối thủ bởi đó là đòn nhắm vào uy tín của Tổng thống. Tình huống đặt ra là một nhân vật có quyền lực hợp hiến cao nhất nước không còn kiểm soát được hành động của những kẻ thuộc quyền xung quanh mình. Mùa Xuân năm 1945, xung đột trong quan hệ ngoại giao đã có thể chuyển thành nguy cơ quân sự công khai. Vụ việc này có thể gây ra xung đột đặc biệt, cho dù là nghịch lý, đối với trục “Nga” – “Nga (không phải Xô Viết)”, chứ không phải đối với trục “Đức” – “Nga” hay trục “Mỹ + Anh” – “Nga”. Thời gian gầy đây người ta lại khơi dậy và thường xuyên đề cập tới hoàn cảnh cuối chiến tranh của những người Kazak đã từng chiến đấu bên phía Hítle trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại và bị bắt làm tù binh. Cũng cần nêu ra những toan tính sau: cả Mỹ, cả Anh đều không thể công khai tuyên chiến với Liên Xô. Phát lệnh chiến đấu cho các sĩ quan và binh sĩ Mỹ, Anh sau suốt 4 năm nỗ lực hợp tác cùng người Nga và tiến hành phản tuyên truyền trong một thời gian rất ngắn là một việc làm quá sức. Với người Đức cũng có vấn đề: quân đội đã suy kiệt bởi chiến tranh, mà điều chủ yếu là lòng cuồng tín đã rệu rã; người Đức sẵn sàng chiến đấu nhưng không thể vì quyền lợi của nước thứ ba, cho dù tiềm năng vẫn còn. Chỉ còn có thể buộc những kẻ phản bội, những kẻ tráo trở và những cựu bạch vệ chiến đấu bởi chúng không có gì để mất. Trong trường hợp đó có lực lượng khác can thiệp vào. Đặc biệt, yếu tố này có thể được khởi động nếu chú ý tới việc Liên Xô thực thi các hiệp ước trước đây và việc họ chuyển đại quân từ chiến trường châu Âu sang phía Đông để tiến hành chiến tranh với Nhật, Trong trường hợp đó rất cần tính đến cả việc I. V. Xtalin vào mùa hè năm 1945 sẽ buộc phải làm việc với những đối thủ chính trị mới là G. Truman và K. Attlee (Thủ tướng Anh thời kỳ 1945-1951. ND), chứ không phải với những đối tác cũ của ông ta là F. D. Roosevelt và W. Churchill (Thủ tướng Anh thời kỳ 1940-1945 và 1951-1955. ND). Có quá nhiều nguyên nhân gây nên những mâu thuẫn và bất đồng này: “… Sau chiến tranh, năm 1945, theo kế hoạch Marshall, tại vùng phía Tây nước Đức do Mỹ, Anh và Pháp chiếm đóng, “nền dân chủ thế giới” đã soạn thảo một kế hoạch tiến hành triệt sản bắt buộc đối với tất cả đàn ông ở độ tuổi quân dịch bị nghi ngờ đã tham gia chiến đấu. Mà vào cuối chiến tranh, những người ở độ tuổi quân dịch trong lực lượng dân quân (Folksturm) là từ 14 đến 60, nghĩa là tất cả nam giới người Đức ở độ tuổi sinh sản đều sẽ bị triệt sản! Nếu tính rằng nước Đức lúc đó tràn ngập các đội quân chiếm đóng được tập hợp từ rất nhiều dân tộc và chủng tộc khác nhau: người Pháp gốc Angieri, người Anh ở thuộc địa A rập, người Mỹ da mầu và gốc Do Thái…, thì có thể hiểu được ý đồ của họ – biến dân tộc Đức thành một chủng tộc hỗn tạp, từ đó trải qua vài thế hệ có thể sẽ tận diệt được hệ gen và đặc tính dân tộc đó mà không nhọc công nhiều. Vào năm 1945, Xtalin đã đứng ra ngăn chặn hành động tội ác này của kế hoạch Marshall bằng lời cảnh cáo phương Tây – những người hôm qua còn là đồng minh của mình – rằng nếu họ bắt đầu tiến hành triệt sản, ông sẽ khởi động một cuộc chiến tranh chống lại họ. Tài liệu lưu trữ quốc gia Anh vừa được công bố mới đây cũng xác nhận có một âm mưu quân sự trực tiếp. Vào tháng 4 năm 1945, một chiến dịch có tên gọi rất mỹ miều “Điều không tưởng” đã được tiến hành hoạch định nhằm gây ra một cuộc chiến tranh với Nga ở châu Âu (Trong trường hợp này không thể bỏ qua vụ đụng độ giữa giữa quân đội của Anh và Xô Viết đang chiếm đóng ở Iran). Đó là câu trả lời khẳng định về việc giới lãnh đạo Xô Viết đã biết tới những kế hoạch theo đuổi chiến tranh của phía Anh. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên với việc Liên Xô và một bộ phận Mỹ “chống Roosevelt” cuối cùng đã thực sự đối đầu nhau. Bí ẩn cái chết của Roosevelt Bản thân F. D. Roosevelt từ nhỏ vốn đã ốm yếu, thiếu tinh thần và thể chất để làm một chính khách. Chỉ nhờ cá tính mạnh mẽ và kiên quyết mà ông đã đắc cử tổng thống trong một đất nước hết sức phức tạp như Mỹ, thậm chí còn lập ra một kỷ lục chưa từng có – 4 nhiệm kỳ!!! Hơn nữa, lần tranh cử đầu tiên khó khăn nhất đã diễn ra trong hoàn cảnh kinh tế và xã hội đang khủng hoảng. Rồi cả chiến tranh cũng chẳng buông tha ông, cho dù nó không phải là nguyên nhân làm ông đột tử. F. D. Roosevelt, theo chúng tôi, đã phải chết, nhưng không chỉ là do việc ông ta đã cắt đứt cuộc đàm phán tại Berne. Còn một nguyên nhân để phế bỏ ông là: ở cương vị Tổng thống Mỹ, lẽ ra ông phải là người ủng hộ việc đối đầu với Liên Xô, thì ông ta lại không sử dụng những kẻ theo đuổi đường lối đó. Còn đối với những kẻ quay ngoắt 180°, chúng ta không rõ là có cần phải gạt W. Churchill ra khỏi cương vị Thủ tướng Anh hay không, song có một sự kiện cho thấy vào mùa hè năm 1945 trên vũ đài quốc tế đã xuất hiện hai đối thủ mới – Tổng thống Mỹ G. Truman và Thủ tướng Anh K. Attlee. F. D. Roosevelt đột ngột qua đời. Ngày 12 tháng 4 năm 1945, ông ta đang nghỉ ở Warm-Springs, Một ngày xuân tràn ngập ánh mặt trời và không có một điều gì báo trước thảm họa. Tổng thống Mỹ ngồi làm mẫu vẽ cho họa sĩ Elizabet Sumatova, tâm trạng sảng khoái, nói chuyện vui vẻ. Bất ngờ sắc mặt ông nhợt nhạt – F. D. Roosevelt bột phát cơn đau đầu. Hai giờ sau ông qua đời. Những nguồn gốc của “chiến tranh lạnh” – 2 Cái chết của F. D. Roosevelt đã cởi trói cho những kẻ từng ngấm ngầm chống lại đường lối của ông nói chung và khuynh hướng xích gần lại với Liên Xô nói riêng. Nó là điều kiện tạo nên bước ngoặt căn bản mà từ đó bộ máy quốc gia Mỹ đã phải thay đổi hướng chuyển động. Nguy cơ một cuộc đối đầu giữa Liên Xô và Mỹ xuất hiện. Phe hiếu chiến (đặc biệt là Hội đồng Quan hệ quốc tế – SMO) trong giới lãnh đạo Mỹ đã tung ra đủ trò lừa dối trơ tráo. Ngay tại SMO, với sự có mặt của G. Truman, G. Morgeney, B. Barukha, A. Dalles đã nêu rõ phương châm của mình: “Chiến tranh sẽ kết thúc, mọi xáo trộn sẽ được ổn định. Và chúng ta sẽ bỏ ra tất cả những gì chúng ta đang có – vàng bạc, mọi vật lực để gia công và thuần hóa con người. Bộ não của con người, nhận thức của mọi người đều có khả năng thay đổi. Sau khi gây ra rối loạn nơi đó, chúng ta sẽ bí mật thay thế các giá trị của họ bằng những giá trị giả và chúng ta sẽ buộc họ tin vào những giá trị giả đó. Bằng cách nào? Chúng ta sẽ tìm ra được những người cùng tư duy với mình, những đồng minh của mình ngay trong nước Nga. Thảm họa diệt vong trên quy mô rộng của cả dân tộc bất khuất nhất, sự hủy diệt hoàn toàn, không thể đảo ngược ý thức của họ sẽ lần lượt xảy ra. Trong văn học và nghệ thuật, chúng ta sẽ làm cho bản chất xã hội của họ bị nhiễm độc. Chúng ta sẽ loại bỏ các họa sĩ, hủy diệt hoàn toàn niềm đam mê nghiên cứu, sáng tạo. Văn học, nhà hát, điện ảnh – tất cả sẽ chỉ mô tả và ghi nhận những tình cảm đê tiện nhất của con người. Dù sao chúng ta cũng giữ lại và nuôi dưỡng những kẻ được gọi là họa sĩ khi chúng biết gieo rắc và nhồi sọ vào ý thức mọi người sự sùng bái tình dục, bạo lực, thói bạo dâm, phản trắc – tóm lại, tất cả những gì vô đạo. Trong lĩnh vực điều hành quốc gia, chúng ta sẽ tạo ra sự rối loạn, trì trệ… Chúng ta sẽ thầm lặng, nhưng tích cực và dần dần tạo điều kiện cho thói độc đoán của các quan chức, những kẻ ưa hối lộ, vô nguyên tắc. Thói quan liêu và giấy tờ sẽ được nâng lên thành phẩm hạnh. Thái độ danh dự và lương thiện sẽ bị chế giễu và không được ai cần đến, bị thành tàn tích của quá khứ. Thói đểu cáng và đê tiện, giả dối và lừa đảo, say sưa và nghiện ngập, nỗi sợ hãi lẫn nhau và thái độ vô liêm sỉ, phản bội, chủ nghĩa dân tộc và sự thù địch giữa các dân tộc, trước hết là sự thù địch và lòng căm thù đối với dân tộc Nga – tất cả những cái đó sẽ sẽ được chúng ta tôn tạo lặng lẽ và khéo léo, tất cả những cái đó sẽ nở thành hoa độc… Và chỉ có một số ít, rất ít người sẽ đoán được và hiểu được điều gì đang diễn ra. Nhưng những người đó sẽ được chúng ta đẩy vào tình thế bất lực, chúng ta biến họ thành kẻ bị mọi người chê cười, chúng ta tìm cách vu oan cho họ và tuyên bố đó là thứ rác rưởi của xã hội. Chúng ta sẽ đào bật các cội rễ tinh thần của chủ nghĩa bônxêvich, làm tầm thường hóa và hủy diệt những nền móng của đạo đức. Bằng cách như thế chúng ta sẽ tha hóa thế hệ này sang thế hệ khác, làm thui chột thái độ cuồng tín với chủ nghĩa Lênin. Chúng ta sẽ nắm lấy mọi người ngay từ khi còn trẻ thơ, niên thiếu, chúng ta sẽ hy vọng chủ yếu vào lớp thanh niên, chúng ta sẽ làm cho nó tha hóa, phân hóa, đồi trụy. Chúng ta sẽ biến chúng thành kẻ trơ trẽn, đểu giả, thành những kẻ theo chủ nghĩa thế giới (cosmopolit). Chúng ta sẽ làm như thế đó” (Đề cương báo cáo của A. Dalles tại phiên họp SMO mở rộng)[1] I. V. Xtalin đã được báo cáo ngay lập tức về bài phát biểu này. Trưởng ban Thư ký L. P. Beria là B. A. Liudovich sau này nhớ lại rằng Xtalin đã phản ứng rất quyết liệt đối với những lời này. Xuất phát từ việc Ban lãnh đạo Xô Viết cao nhất đã có được thông tin tin cậy về cuộc đàm phán ở Berne, bài phát biểu này tại SMO, cũng như đã đồng thời được báo cáo về vụ nổ quả bom nguyên tử đầu tiên của Mỹ, thì có thể đưa ra một giả thiết tương đối táo bạo rằng trong giới lãnh đạo chóp bu Mỹ có thông tin viên của I. V. Xtalin. Hiện đã có những bằng chứng, tuy chưa phải là tin cậy nhất, về việc trong số điệp viên có cả phu nhân Tổng thống Eleonor Roosevelt và (hoặc là) thư ký riêng của Roosevelt là Loklin Karri. Bà ta hay ông ta (hoặc cả hai?) đã làm chuyển sự chú ý của I. V. Xtalin sang Mỹ như một hướng ưu tiên. Trong mọi trường hợp, như trong những lời phát biểu của mình tại phiên họp của ủy ban cải tổ hoạt động tình báo và phản gián, trong khi thảo luận dự thảo Nghị quyết “về việc điều hành hoạt động tình báo của ủy ban An ninh quốc gia Liên Xô” (tháng 12 năm 1952) của BCHTW ĐCS Liên Xô, I. V. Xtalin luôn chỉ đích danh Mỹ là kẻ thù chủ yếu. Vào khoảng 2 tháng trước khi ông qua đời, ông chỉ đạo: “Trong tình báo, không bao giờ tấn công trực diện, Tình báo phải hoạt động vu hồi. Nếu không sẽ thất bại, mà thất bại nặng nề. Tấn công trực diện – đó là sách lược thiển cận. Phải tuyển lựa người nước ngoài sao cho không làm tổn thương lòng yêu nước của họ. Không được tuyển người nước ngoài chống lại Tổ quốc của họ. Nếu điệp viên được tuyển chọn không có lòng yêu nước – đó là điệp viên không đáng tin cậy. Đặt ra một khuôn mẫu cho tình báo. Luôn thay đổi sách lược, phương thức. Luôn thích ứng với tình hình thế giới. Tận dụng tình hình thế giới. Tiến hành tấn công cơ động, sáng suốt. Tận dụng tất cả những gì thượng đế trao cho chúng ta. Điều chủ yếu nhất là trong tình báo phải học được cách nhận ra sai lầm của mình. Người ban đầu nhận ra các sai lầm và thất bại của mình thì sau đó sẽ sửa chữa được. Nắm lấy chỗ yếu, chỗ kém được bảo vệ. Cần chấn chỉnh ngành tình báo trước hết từ việc loại trừ được mọi cuộc tấn công. Mỹ – kẻ thù chủ yếu của chúng ta. Nhưng cần tập trung chú ý không chỉ riêng vào Mỹ. Trước hết, nên thiết lập các văn phòng công khai ở các quốc gia liền kề. Căn cứ đầu tiên, nơi cần có người của mình – Tây Đức. Không thể ngây thơ về chính trị, nhưng đặc biệt là không thể ngây thơ trong tình báo. Không được trao cho điệp viên những đặc vụ mà anh ta chưa được đào tạo, hoặc trái ngược với đạo đức của người ấy. Trong tình báo có những điệp viên có trình độ văn hóa rất cao – các giáo sư (trong thời kỳ bí mật, ta đã cử một người sang Pháp để phân tích quan điểm của các tổ chức mensevich, một mình người ấy đã làm việc hơn cả chục người khác). Tình báo, với chúng ta, là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả. Cần tạo được uy tín. Trong tình báo cần có tới hàng trăm người bạn (nhiều hơn điệp viên), những người sẵn sàng thực hiện bất cứ nhiệm vụ nào của chúng ta. Những người cộng sản có cái nhìn méo mó về tình báo, về công việc của Chêka (ủy ban đặc biệt), sợ bị dây bẩn, nên nhúng đầu mình xuống giếng…”. Sự điều hành ở Liên Xô. 1945-1953. Để khắc họa I. V. Xtalin như một nhà lãnh đạo và không bó hẹp mình vào khuôn khổ thời gian sau chiến tranh, cần phải nhận thấy ông có một văn hóa điều hành vô cùng cao, cũng như khả năng nắm bắt thông tin về các vấn đề trong đời sống kinh tế và xã hội. Đấy là nhận xét của những người cùng thời với ông, những người có điều kiện quan sát ông một cách trực tiếp và đã ghi lại những bằng chứng của mình trong các hồi ký. Điều này cũng được các nhà nghiên cứu sau này khẳng định. Thậm chí những kẻ thù của ông cũng biết tới những năng lực xuất chúng của ông và nhắn lại điều đó cho những kẻ kế tục họ. Không một ai có thể phủ nhận ông về tài năng, năng lực làm việc, biết cách chiến thắng và, nếu cần thiết, cũng “biết tấn công”. Khi đó thái độ của ngoại bang đối với I. V. Xtalin và nhân dân Xô Viết rất hiếu chiến. Không phải ngẫu nhiên những người được thấy diện mạo của Xtalin lúc an táng đã nhận xét rằng đó là khuôn mặt của người mệt mỏi vì những cuộc đấu tranh liên tục. Toàn bộ khoảng thời gian I. V. Xtalin lãnh đạo Liên Xô vô cùng phức tạp và đầy biến động. Xtalin không mấy khi được thảnh thơi: thời kỳ đầu là bè lũ Trốtxkit; sau đó là những năm tập thể hóa. Trong một lần tâm sự với W. Churchill, ông đã không do dự gọi đó là những năm khó khăn nhất trong cuộc đời chính trị của mình; công nghiệp hóa diễn ra vô cùng trắc trở; thậm chí cuộc thanh lọc những năm 1937-1938 cũng trắc trở tới mức suýt cuốn trôi cả ông vào dòng xoáy của nó. Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại lại là một đề tài đặc biệt. Nói tóm lại, người ta đã không để I. V. Xtalin điều hành đất nước trong yên ổn. Khi xem xét vấn đề này chúng ta không thể đặt ra cho mình nhiệm vụ làm rõ mọi vấn đề liên quan tới việc điều hành đất nước dưới thời I. V. Xtalin giai đoạn cuối. Chúng ta chỉ nhận thấy những nét đặc sắc trong việc I. V. Xtalin và ban lãnh đạo của ông đã hoàn thành xuất sắc những trách nhiệm của mình. Tất nhiên, I. V. Xtalin cũng đã có những sai lầm, song điều cơ bản là chính ông đã rút ra từ đó được những bài học, kinh nghiệm để đem lại lợi ích cho đất nước, giành thất bại lại cho kẻ thù. Điều bí ẩn của I. V. Xtalin như một người lãnh tụ không chỉ là ở tính cách dũng cảm của ông, cũng không phải ở cách ông đã xử sự như một lãnh tụ của nhân dân, mà ở chỗ ông là một thủ lĩnh, tuy chưa có học vị cao nhất và chưa được học hành một cách có hệ thống, song, về nhiều phương diện, bằng những năng lực trí tuệ của mình, ông luôn hơn hẳn nhiều vị giáo sư cao đạo và những chính khách phương Tây lão luyện. Về mặt hình thức, bắt đầu từ cuối những năm 1930 I. V. Xtalin không còn một trọng trách nào nữa, bởi quyền lực đã thuộc về ông trên mọi phương diện. Nhiều người đã không thể hình dung một cách đầy đủ về vấn đề này nên đã coi sự thật đó là không thể chấp nhận và có những kết luận không đúng. Nhưng thật ra I. V. Xtalin vẫn là một con người như trước – nghiêm khắc với bản thân và với mọi người. Bằng chứng của một người đã từng nghiên cứu I. V. Xtalin thể hiện: “Nhân việc có người chất vấn tại hội nghị toàn thể, đề cập tới trách nhiệm của mình, Xtalin nói: - Nếu tôi được giao việc đó, có nghĩa là tôi sẽ làm việc đó. Chứ không phải việc đó chỉ dành riêng cho tôi. Tôi không được giáo dục như thế… Lời sau cùng ông nói rất gay gắt”. Tất cả những gì mà bây giờ ngành khoa học lãnh đạo của chúng ta coi như mới, thì I. V. Xtalin đã áp dụng chúng vào thực tiễn trước đó. Nhiều nhân chứng và những người nghiên cứu nhận thấy ở I. V. Xtalin: kiến thức tâm lý lãnh đạo; thấu hiểu tính thiết yếu của đại diện toàn quyền; năng lực thu nhận kiến thức và khả năng đặc biệt lường trước sự việc… Tổng công trình sư hàng không A. X. Iakovlev, trong hồi ký “Mục đích cuộc sống. Những ghi chép của kiến trúc sư hàng không” đã viết: “Vào những tháng đầu tiên của chiến tranh chúng tôi luôn bị ám ảnh bởi những thất bại, các đơn vị quân đội ta phải rút lui, mọi người có tâm trạng nặng nề. I. V. Xtalin chưa lúc nào tỏ ra mình căng thẳng. Tôi không bao giờ nhận thấy ông bối rối, ngược lại, ông luôn khoáng đạt, cư xử khoan dung với mọi người. Rõ ràng, Xtalin hiểu rằng vào thời điểm đó cần phải nâng đỡ, khoan dung với mọi người”. Cũng trong hồi ký này, Iakovlev công nhận rằng I. V. Xtalin rất am hiểu về hàng không – khi đó là một lĩnh vực phức tạp nhất của khoa học kỹ thuật. Còn N. M. Anhixin, trong hồi ký “Về chính trị và các chính khách”, viết: “Mùa thu năm 1946, từ Xôchi, Xtalin gọi điện cho Thư ký mới của Ban Chấp hành Trung ương Patolichev: “Anh hãy viết sắc lệnh của Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương. Điều thứ nhất: “Bổ nhiệm M. X. Patolichev phụ trách việc tích trữ lúa mì năm 1946”. Anh viết xong chưa? Trong điều hai, anh hãy viết thêm tất cả những gì anh cần để tiến hành có hiệu quả việc tích trữ lúa mì”. Đến bây giờ chúng ta mới nhận ra năng lực của I. V. Xtalin: tác động một lực nhỏ vào cả hệ thống phức tạp sao cho có thể thu được những kết quả to lớn. Điều đó nghĩa là ông có tài năng lãnh đạo kiệt xuất. Iu. P. Vlaxov viết: “Những quyết định Xtalin đưa ra, thường có vẻ không lớn lao và khó hiểu…, rồi đến khi diễn ra trên toàn thế giới, thì diện mạo của các sự kiện bỗng có được tầm thế giới sâu sắc”. Còn G. Xmirnov viết: “Trong 30 năm trên cương vị đứng đầu quốc gia đã có hàng nghìn con người qua tay Xtalin, những người mà ông phải nhanh chóng tìm hiểu và đánh giá cho đúng. Sự cấp thiết này đã tạo ra cho ông năng lực nhanh chóng đánh giá và đưa ra ý kiến. Đó là những đánh giá tuyệt vời bởi tính cô đọng, sắc sảo của chúng”. I. V. Xtalin chỉ phê phán những thiếu sót khi điều đó là cần thiết: “Tôi nói đến loại người ba hoa là tôi nói những người ba hoa trung thực (cười), những người trung thực, trung thành với chính quyền Xô Viết, nhưng không có năng lực lãnh đạo, không có năng lực tổ chức một cái gì đó. Năm ngoái tôi có nói chuyện với một đồng chí, một đồng chí rất đáng kính, nhưng không sửa được tính ba hoa, có khả năng ba hoa bất cứ chuyện gì. Chuyện thế này. Tôi: Việc gieo trồng ở chỗ đồng chí ra sao? Anh ta: Gieo trồng ư, thưa đồng chí Xtalin? Chúng tôi đã huy động hết. (Cười) Tôi: Vậy là sao? Anh ta: Chúng tôi đã tuyên bố dứt khoát. (Cười) Tôi: Còn sau đó ra sao? Anh ta: Chỗ chúng tôi có chuyển biến, thưa đồng chí Xtalin, sắp có chuyển biến. (Cười) Tôi: Chỉ thế thôi sao? Anh ta: Mọi người đã có chuyển động. (Cười) Tôi: Rốt cuộc, việc gieo trồng ở chỗ đồng chí ra sao? Anh ta: Việc gieo trồng của chúng tôi hiện chưa ra sao, thưa đồng chí Xtalin. (Mọi người cười) Khi gỡ bỏ cương vị của những người ba hoa như thế, không để họ tham gia công việc nữa, thì họ vung tay và băn khoăn: “Sao họ lại gạt bỏ chúng ta? Chẳng phải chúng ta đã làm tất cả những cần thiết vì công việc, chẳng phải chúng ta đã triệu tập hội nghị những người tiên tiến, chẳng phải chúng ta đã tuyên truyền các khẩu hiệu của Đảng và Chính phủ tại hội nghị những người tiên tiến, chẳng phải chúng ta đã bầu thành viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương vào đoàn chủ tịch danh dự (Mọi người cười), chẳng phải chúng ta đã gửi lời chúc đồng chí Xtalin sao, vậy thì còn đòi hỏi chúng tôi cái gì nữa?” (Mọi người cười) Nhưng đôi khi vấn đề không chỉ là lời nói nữa – trong giai đoạn khốc liệt – sau “mọi người cười” là những giọt nước mắt. Một trong những thời điểm điều hành khó khăn nhất là có sự thâm nhập của những phần tử lạc loài vào hệ thống và việc rò rỉ thông tin. Dưới thời Xtalin liệu có xảy ra việc xâm nhập của hệ tư tưởng xa lạ vào trong hệ thống của chúng ta, như nó vẫn thường xuyên xảy ra đối với bất kỳ hệ thống xã hội nào? Đúng là có, song chỉ xảy ra ở mức tối thiểu. Nó được đồng nhất một cách tinh vi và tiến hành chặt chẽ trong khuôn khổ của nó, trung tâm điều hành thông tin luôn điều chỉnh từng bước cho dù là nhỏ nhất một cách bí mật, thầm lặng. Sử dụng hệ thống hoạt động hoàn hảo như vậy phục vụ cho lợi ích của mình, về mặt nguyên tắc, là không thể. Vì vậy, và dưới ánh sánh của những sự kiện sau đây, có thể dễ dàng nhận thấy – và có được một kết luận chiến lược là: để hoàn thành âm mưu phá hoại đế chế Xô Viết cần phải khắc phục thành tố chủ yếu còn thiếu trong cấu trúc. Bí ẩn cái chết của Xtalin Vào thời điểm hiện nay, có một số lượng khá lớn các ấn phẩm viết về sự kiện vô cùng đau buồn này đối với tất cả chúng ta. Chúng tôi xin tập trung vào tiến trình sự kiện. Vào tháng 5 năm 1952, sau buổi làm việc với ủy ban thanh tra, cùng đi, ngoài các chuyên gia, có ủy viên Bộ Chính trị BCHTW ĐCS (Bônxevich), Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô L. P. Beria, ủy viên Bộ Chính trị BCHTW ĐCS (Bônxevich) N. A. Buganin và Thư ký của I. V. Xtalin là A. N. Poxkrebysev. Tất cả nhất trí cách chức Chỉ huy trưởng đội bảo vệ I. V. Xtalin là tướng Nicolai Xidorovich Vlaxik. N. C. Vlaxik giữ cương vị này từ năm 1935, còn trước đó – trong thời gian nội chiến – là lái xe riêng cho I. V. Xtalin. Trong vụ việc này cần lưu ý là quá trình công tác của Vlaxik có những lần bị ngắt quãng – anh ta có lúc là chỉ huy phó đội bảo vệ, có lúc được điều chuyển sang điều hành công tác bảo vệ các ủy viên Bộ Chính trị. Là chỉ huy trưởng Cục bảo vệ số 2 từ 15 tháng 4 đến cuối năm 1946. Trong các ghi chép còn được lưu lại, Vlaxik đã kết nối hai sự kiện – việc mình bị cách chức với cái chết của I. V. Xtalin – vào làm một: “Ba tháng sau khi tôi bị bắt giam, I. V. Xtalin qua đời…”. F. I. Chuev đưa ra bằng chứng của con gái Vlaxik, người chuyển lời của bố mình đã nói vào khoảng thời gian giữa khi Vlaxik bị bắt giam và cái chết của Xtalin: “Ông ấy còn được sống rất ít”. Sau đó A. N. Pokrebysev đã bị cách chức, rồi đến thiếu tướng X. F. Kuzminchev – người đã phục vụ trong đội bảo vệ Xtalin. Vào tháng 1 năm 1953, có 5 người trong số thân cận của Xtalin bị bắt giam vì tội làm gián điệp”. Thiếu những trợ thủ thân cận như A. N. Poxkrebysev và N. X. Vlaxik, I. V. Xtalin bị rơi vào tình trạng bị cách ly nguy hiểm, chính xác hơn, có thể nói rằng trong trường hợp như thế người ta đã lợi dụng chính Xtalin để ông tự cách ly. Cả người bí thư riêng không thể thay thế được, cả người chỉ huy đội bảo vệ riêng vào thời Xtalin còn sống đều là những nhân vật đầy quyền uy. Đối với họ, việc được đưa lên cao hay bị hạ xuống thấp đều là mối nguy hiểm chết người. Họ gắn chặt với I. V. Xtalin không chỉ thuần túy là mối quan hệ con người. Thiếu Xtalin, họ bị biến thành những nhân chứng nguy hiểm, có thể gây liên lụy tới những người xung quanh họ. Vì vậy, họ có thể sẵn sàng chấp nhận cái chết cho mình, chỉ mong sao chủ nhân còn sống. Bản thân I. V. Xtalin, hoặc do sự xúi bẩy của “tổ chức” đã cắt bỏ cả hai người bạn ra khỏi “móng vuốt” của mình – đó là V. M. Molotov và A. I. Mikoian. Phát biểu tại phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông đã nói những lời sau: “Không thể không đề cập tới tư cách sai lầm của một số nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, nếu chúng ta nói về sự thống nhất trong sự nghiệp của chúng ta. Tôi nói tới các đồng chí Molotov và Mikoian. Molotov là người đã phản bội sự nghiệp của chúng ta. Nếu kêu gọi, tôi không nghi ngờ, anh ấy sẽ không do dự hiến dâng cuộc đời mình cho Đảng. Nhưng không thể bỏ qua những hành động không xứng đáng của anh ấy. Đồng chí Molotov, Bộ trưởng ngoại giao của chúng ta đã đồng ý cho đại sứ Anh xuất bản những tờ báo và tạp chí tư sản tại đất nước ta. Tại sao? Căn cứ vào đâu mà đòi được xuất bản các báo chí tư sản tại đất nước của chúng ta. Tại sao? Căn cứ vào đâu mà lại đồng ý? Chẳng lẽ không biết tư sản là kẻ thù của giai cấp chúng ta và phát triển ấn phẩm tư sản trong những con người Xô Viết – điều này, không chỉ có hại, mà cũng chẳng được lợi gì. Bước sai lầm này, nếu bỏ qua, sẽ có hại, tác động tiêu cực tới trí tuệ và thế giới quan của những con người Xô Viết, sẽ dẫn tới sự suy yếu của chúng ta, của hệ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa và tăng cường hệ tư tưởng tư sản. Đó là sai lầm chính trị đầu tiên của đồng chí Molotov. Còn lời đề nghị của đồng chí Molotov về việc chuyển giao Krym cho người Do Thái thì sao? Đây là sai lầm thậm tệ của đồng chí Molotov. Tại sao anh ấy lại đề nghị như vậy? Làm sao có thể chấp nhận được? Căn cứ vào đâu đồng chí Molotov nêu ra đề nghị như thế? Chúng ta có khu tự trị Do Thái. Như vậy chưa đủ sao? Cứ để nước cộng hòa này phát triển. Còn đồng chí Molotov không cần phải làm luật sự bào chữa cho những tham vọng Do Thái trái phép đối với Krym Xô Viết của chúng ta. Đó là sai lầm chính trị thứ hai của đồng chí Molotov. Đồng chí Molotov đã xử sự sai lầm không phù hợp với ủy viên Bộ Chính trị. Và chúng ta kiên quyết bác bỏ những đề nghị thiếu suy nghĩ của đồng chí ấy. Đồng chí Molotov tôn trọng vợ mình tới mức chúng tôi chưa kịp thông qua quyết định của Bộ Chính trị về vấn đề chính trị quan trọng nào đó, thì đồng chí Zemchuzina đã biết rồi. Rõ ràng có một sợi chỉ vô hình nối Bộ Chính trị với vợ đồng chí Molotov và bạn bè của chị ấy. Mà những người bạn xung quanh chị ấy không thể tin cậy được. Rõ ràng là Bộ Chính trị không bỏ qua hành vi này. Bây giờ về đồng chí Mikoian…”. Sau bài phát biểu đó, người phát biểu không sống được bao lâu. Tôi không có ý định ám chỉ V. M. Molotov và A. I. Mikoian, nhưng bất kỳ giả thiết nào về việc này đều là có thể. Không nên loại trừ “dấu vết ngoại bang” bởi có những căn cứ sau: “Năm 1945, trong một pháo đài ở Nhiznhi Xilezi (Đức) Hồng quân Liên Xô đã thu giữ được hàng chục toa tầu chứa tài liệu lưu trữ tuyệt mật của Tây Âu, mà chủ yếu là những tài liệu lưu trữ của các tổ chức mật vụ Đức, Pháp, Bỉ và các nước khác. Các tài liệu thu thập được đã cho phép hiểu sâu cơ chế của quyền lực bí mật và hoạt động lật đổ phá hoại của “những người thợ đập đá tự do” trên toàn thế giới. Chúng đã cung cấp thông tin hoàn chỉnh về công nghệ “công tác thầm lặng” của hậu trường thế giới. (Tiếc rằng, hiện nay việc nghiên cứu những tài liệu lưu trữ này rất khó khăn do chúng đã được trao trả về châu Âu, tuy nhiên có một số vẫn còn bản sao) Xtalin và ban lãnh đạo chính trị của Liên Xô lập tức hiểu ra giá trị to lớn của những tài liệu này để củng cố chế độ của mình. Trong những năm đầu nắm giữ các tài liệu này, trước khi Xtalin qua đời, người ta đã nghiên cứu chúng một cách nghiêm túc, thậm chí cho dịch hàng loạt tư liệu để theo dõi công nghệ quyền lực bí mật của phương Tây. Nhiều tài liệu thu giữ được đã cho phép Xtalin tác động vào một bộ phận nhất định của giới cầm quyền phương Tây và nhằm củng cố vị trí của mình trên chính trường thế giới. Việc sử dụng thông tin này, hay nói theo ngôn ngữ của ngành tình báo hiện đại, biến nó thành hiện thực có nghĩa là lớp thượng lưu cầm quyền của phương Tây sẽ bị sát hại về chính trị. Vậy liệu có việc lạm dụng những sự kiện trong lịch sử. Dường như cũng có một hoặc hai trường hợp. Động cơ sát hại chỉ có thể là chính trị và quyền lực độc tôn. Điều này, trước hết, nhằm vào N. X. Khrusov. CHƯƠNG II LIÊN XÔ. 1953-1985 “Trì trệ lớn” Tại Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô, M. X. Gorbachov đã gọi thời kỳ L. I. Breznev lãnh đạo đất nước là “trì trệ”. Còn tôi liều gọi toàn bộ giai đoạn 1953-1985, khoảng thời gian giữa cái chết của I. V. Xtalin và việc M. X. Gorbachov lên nắm quyền là “trì trệ lớn”. Trong đó có thời kỳ từ tháng 3 năm 1953 đến cuối tháng 10 năm 1964 – cái gọi là “tiết trời trở ấm” (còn có tên gọi thứ hai, đôi lúc có trong văn chương là “tiết trời ướt át”), đặc biệt giai đoạn Breznev cầm quyền (hay là trị vì) và giai đoạn từ tháng 11 năm 1982 đến cuối tháng 3 năm 1985 đã được ai đó gọi chính xác là “đuổi theo xe tang”. Tôi cho là có thể chỉ ra một sự thống nhất nào đó của toàn bộ giai đoạn này. Một loạt các nhà nghiên cứu trong số những người cộng sản chính thống đã tranh luận với phe đối lập rằng giai đoạn này không phải là “trì trệ” mà là “trì trệ – 2”. Hoàn cảnh, những trói buộc không thuận lợi cho sự phát triển hay chuyển động của bất kỳ cái gì. Thời gian kinh tế chậm phát triển, tình hình đời sống xã hội, tư duy tiêu cực, suy mòn. Giai đoạn này, theo cách hiểu của chúng tôi, được đặc trưng bởi sự phát triển về số lượng trong sự lạc hậu thật sự của tiêu chí chất lượng. Xuất phát từ quan niệm hiện nay về thực trạng hệ thống Xô Viết, nửa sau của 70 năm cộng sản cầm quyền được xem như là chặng đường quay lại. Trong khi vẫn giữ được vẻ ngoài hào nhoáng, trong khi phát triển kinh tế không ngừng, trong khi duy trì chuyển động theo xung năng do Xtalin đã tạo ra, trên thực tế, đất nước đã tụt hậu: “Rõ ràng, toàn bộ lịch sử Liên Xô bị chặt làm hai khúc: giai đoạn Xtalin và giai đoạn hậu Xtalin. Hơn nữa, hai khúc lịch sử này – bằng nhau về thời gian, nhưng ngược hướng nhau. 35 năm chuyển động theo con đường xã hội chủ nghĩa và 35 năm chuyển động hoàn toàn ngược về đích tư bản chủ nghĩa. 35 năm cầm quyền của Đảng Cộng sản (Bônxevich) và 35 năm cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sáng tạo ra được bao nhiêu thì đập phá hết bấy nhiêu. Từ quan điểm ngày nay, chúng ta có thể phân định dễ dàng rằng lịch sử nửa sau của thế kỷ XX trên đất nước ta sẽ còn lưu giữ hai quá trình liên quan bền chặt với nhau: đó là thời kỳ tiến hóa (1953-1985) và thời kỳ cách mạng (1985-1991) với sự thất bại của Liên Xô. Những quan điểm của những người cộng sản chính thống đã mô tả toàn bộ 70 năm như là một loạt cuộc diễu binh khải hoàn, nhưng những tình huống phức tạp trong tuyên truyền hiện nay của họ là thế. Hoàn toàn ngược lại, chúng ta trong 70 năm ấy đã trải qua một con đường rất phức tạp, mâu thuẫn và chưa xác định được đích. Không phải tất cả những chiến thắng của chúng ta đã tự bộc lộ mình trong sự đa dạng của những mối quan hệ nhân – quả, và tất cả những viên đá dưới bước chân của chúng ta, nếu không chú ý, sẽ là vô danh. Cần nhận thấy rằng những khuynh hướng dẫn tới sự sụp đổ Liên Xô đã có từ “thời Xtalin” – chúng được hình thành từ khi đó nhưng được ngụy trang kỹ. Tất nhiên, còn quá sớm để nhận định – dường như ngay sau khi Xtalin qua đời, trạng thái thăng bằng giữa lực ly tâm và lực hướng tâm đã nghiêng về phía ly tâm. Không, hệ thống do Xtalin lập ra cũng có những cơ chế để ổn định và kẻ thù đã phải dò dẫm từng bước một – nếu làm khác thì đã không thu được kết quả do hệ quả của quy luật biện chứng, quy luật duy trì hệ thống, hoặc theo quan niệm của nhà khoa học Anh Westby – quy luật duy trì sự đa dạng. Duy chỉ đến lúc này, trước ngưỡng cửa của hai thiên kỷ, chúng mới tiếp cận được đến ranh giới cuối cùng. Thời gian “Tổng Bí thư hạ nhục Liên Xô” được bắt đầu không phải từ năm 1985, mà sớm hơn nhiều. Có rất nhiều nguyên nhân đưa tới thảm họa khủng khiếp thế này. Có thể nhận ra rằng những khuynh hướng dẫn tới tan rã hệ thống đã xuất hiện đúng lúc, nhưng thực sự chẳng thể làm được gì để sửa chữa. Sự suy đồi của tầng lớp hạ lưu (say rượu, ly hôn, nạo thai, phạm tội…) và sự tây hóa (đi du lịch, vượt biên, sùng bái vật chất…) của tầng lớp thượng lưu đang diễn ra. Trong nhận thức của dân chúng thực sự đã có những khác biệt. Một đằng là lý tưởng và một đằng là sự vô liêm sỉ trắng trợn. Sự phân hóa xã hội và sự hình thành giai cấp tương lai, tội phạm hình sự và tham nhũng, chính sách dân tộc méo mó, tính bất hợp pháp và nguy hại trong việc bầu cử những nhân vật đứng đầu từ Kremli đến các nông trang tập thể, thiếu thốn mọi hàng hóa và các loại hình dịch vụ – tất cả những thứ đó đè nặng lên từng con người. Thêm vào đó là trong mỗi bài báo, mỗi bài phát biểu công khai, trong từng chương trình truyền hình luôn vang lên: “Cuộc sống đang trở nên…” Nghiêm túc mà nói, cuộc sống đã trở nên đến mức không thể chịu nổi. Người ta đã cố tình đưa hoàn cảnh ra khỏi tư duy lành mạnh và biến nó thành vô nghĩa. Cần phải có giải pháp và lỗi của chúng ta không phải là đã ủng hộ M. X. Gorbachov vào những năm 1985-1988, mà ở chỗ chúng ta đã không tự mình làm điều đó sớm hơn. Chúng ta đã bỏ qua mức độ phát triển cao của sự không xác định và đã phải nhận lãnh kết cục đáng buồn nhất. Nhiệm vụ của Khrusov Không một kẻ thù nào gây ra nhiều bất hạnh như Khrusov đã gây ra cho chúng ta bởi chính sách của ông ta đối với quá khứ của Đảng và Nhà nước chúng ta, cũng như đối với Xtalin. D. F. Uxtinov (Trích biên bản công tác hội nghị BCHTW Đảng Cộng sản Liên Xô. Tài liệu tuyệt mật N°9) Một loạt tiêu đề trong cuốn sách này có tên là “nhiệm vụ…”, tôi muốn đưa ra đoạn trích dẫn ngắn cho tiêu đề đầu tiên này. Để tránh bị quở trách vì tính không xác thực, tốt hơn cả là ngay từ đầu giải thích rõ rằng cho dù lời nói trong này trước hết là về những nhân vật chính trị lớn – những người đã góp phần phá hoại Liên Xô và xóa bỏ xã hội chủ nghĩa, nhưng hoạt động của họ có thể được luận giải một cách phong phú về mối quan hệ đối với những người khác – những nhân vật ít nổi tiếng, ít xuất hiện hơn. Không chỉ những nhân vật được đề cập tới trong các tiêu đề mà cả những nhân vật khác nằm trong bộ máy trung ương cũng như ở các vị trí khác, tại Liên Xô cũng như ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của những nhân vật được nêu tên ở đây sẽ lý giải về việc hành động thuộc khuynh hướng này đã từng diễn ra từ trước đó cũng như sau đó. Đương nhiên, nhiệm vụ tiên quyết nhất của N. X. Khrusov là đoạt lấy quyền lực và nắm giữ lấy quyền điều hành. Toàn bộ sự kiện trong những năm 1953-1956 cần được xem xét qua chính lăng kính này. Đó là việc bắt giữ L. P. Beria và ban lãnh đạo cao nhất của Bộ Nội vụ – cơ quan An ninh quốc gia; cuộc đấu tranh với nhóm chống Đảng của những người theo chủ nghĩa Xtalin và kẻ a dua theo nó là D. T. Sepilov… Nên đánh giá thỏa đáng thái độ liều lĩnh của Khrusov và nói rõ rằng ông ta đã khởi động công cuộc phá hoại chính đất nước nuôi dưỡng ông ta. Chúng tôi dẫn ra đây một ví dụ trong lĩnh vực xây dựng quốc gia quan trọng nhất – địa chính trị: “Vào tháng 10 năm 1954, Bí thư thứ nhất BCHTW ĐCS Liên Xô là N. X. Khrusov tới thăm bán đảo Liêu Đông (Liaodun, Đông Bắc Trung Quốc). Khrusov tuyên bố về quyết định chuyển cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành phố Dalnhi và căn cứ hải quân Port-Artur, cũng như về việc rút toàn bộ quân đội Xô Viết… Tướng Tư lệnh Sevtxov muốn khẳng định với Khrusov và Buganin về việc cần thiết tăng cường thêm hai sư đoàn cho Tập đoàn quân 39. Bản báo cáo mới bắt đầu chưa được ba phút thì Khrusov đập mạnh tay xuống bàn và quát: “Ba hoa đủ rồi! Tốt hơn hãy nói, anh ở đây làm gì? Phải, tôi hỏi: anh và quân của mình làm gì ở đây, ở Liêu Đông này? Vị Tư lệnh không hề chuẩn bị câu trả lời cho câu hỏi như vậy. Nhìn thẳng vào Khrusov với vẻ thiếu tin cậy, ông bình tĩnh trả lời: “Bảo vệ tuyến Viễn Đông của Tổ quốc chúng ta”. Khrusov ngắt lời ông và tức giận tuyên bố: “Đó là chính sách của Nga hoàng, đế quốc. Bây giờ anh định ở đây bảo vệ ai và chống ai? Tốt hơn là cứ nói với tôi, cần bao nhiêu thời gian để ở đây không còn một người lính nào của anh, thậm chí cả tinh thần của anh”. … Thiếu tướng Tham mưu trưởng V. V. Turantaiev cất lời: “Nikita Xergeievich (Khrusov)! Tại Nam Triều Tiên (ông chỉ lên bản đồ) hiện nay, ngoài quân Nam Triều Tiên còn có Tập đoàn quân số 8 được tăng cường của Mỹ đóng tại đây. Chỉ riêng trong thành phần của Tập đoàn quân này có tới 500 xe tăng. Vì sao liên quân của 15 quốc gia được người Mỹ cùng với sự hỗ trợ của Liên Hợp Quốc đưa tới đóng quân ở đây… Như người Mỹ, nếu họ muốn, thì sau ba ngày đêm, họ sẽ có mặt ở đây, ở Kvantun này”. Khrusov ngắt lời Turantaiev và tuyên bố: “Sẽ không có chuyện này. Đó là ban lãnh đạo cũ của nước ta đã chiếm đoạt, đã mượn đất này của người khác: ở Trung Quốc, Triều Tiên, ở Phần Lan, còn chúng ta bây giờ phải giải quyết việc này”. Turantaiev định phản đối: “Không, Nikita Xergeievich. Trong việc này, những gì mà ban lãnh đạo cũ của đất nước đã làm là nhằm đảm bảo cho nền an ninh của Tổ quốc chúng ta. Mà chúng ta cũng không thể rút khỏi đây. Chúng tôi có mặt ở đây còn để làm căn cứ cho Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa, chúng ta hỗ trợ tinh thần cách mạng và khả năng sẵn sàng chiến đấu của bạn”. Khrusov ngắt lời Turantaiev và lớn tiếng: “Mặc cho người Trung Quốc tự lo cho họ. Chúng ta đã cho không họ nhiều rồi. Mà tôi muốn Tư lệnh nói ngay với tôi bây giờ: cần bao nhiêu thời gian để không một ai trong số các anh còn ở lại đây. Còn những đội quân mà Tham mưu trưởng vừa nói với tôi sẽ băm viên các anh ở đây, như người Nhật họ đã làm vào năm 1904, còn các anh đang làm cho chúng tôi phải quá bận tâm để giúp các anh đi khỏi đây”. Nhưng Turantaiev không hề bối rối: “Hãy cho chúng tôi thêm hai sư đoàn và chúng tôi không để họ băm viên mình”. Khrusov: “Chúng tôi sẽ không cho! Các anh sẽ rút khỏi đây, bọn Mỹ cũng sẽ rút”. (Vậy mà người Mỹ cho đến ngày nay chưa rút)… “Mà Bộ chỉ huy các anh cần bao tháng để rời khỏi đây?”. Svetxov đã trả lời: “Khoảng 3-4 tháng”. Tướng Penionizco, có mặt tại đây, nói: “Không đủ!”. Khrusov: “Tôi cho 5 tháng. Để sau thời gian đó không còn một ai trong các anh ở đây. Còn bây giờ ta chuyển qua việc: cái gì bán cho Trung Quốc và cái gì thì cho họ”… Vào ngày thứ hai mươi của tháng 10, qua báo chí nhận được, chúng tôi biết rằng, sau cuộc nói chuyện đó tại Bộ chỉ huy một ngày, ngày 12 tháng 10 năm 1954, báo “Sự thật” công bố “Tuyên bố chung của Chính phủ Liên Xô và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, trong đó nói tới việc rút toàn bộ các đơn vị quân đội Xô Viết ra khỏi vùng Port-Artur - Dalnyi… “Toàn bộ những gì ở đây (Kvatun) được Nga hoàng, chúng ta và người Nhật – doanh trại, nhà cửa, kho tàng, đập nước, … trao miễn phí, không hoàn lại cho người Trung Quốc. Còn những gì chúng ta chuyển từ Liên Xô tới đây – thì bán”. A. M. Peniozco, ngồi cạnh tôi, xin phép được hỏi. “Theo tôi hiểu – anh ta nói – doanh trại và những công trình xây dựng khác là cho miễn phí, thế còn những thứ chúng tôi đưa vào trong doanh trại, những thứ được gọi là của cải như: giường, tủ, giá áo, bồn tắm, dụng cụ chữa cháy và cấp dưỡng – thì bán. Mà những thứ đó, so với nhà cửa, thì chẳng đáng gì. Nói tóm lại, tài sản gì quý giá thì cho, còn thứ vặt vãnh thì bán?”… Tại Văn phòng của Xerov (Đại tướng, Chủ tịch KGB – ủy ban An ninh quốc gia) tôi được biết nhiều chuyện thú vị: Liệu tôi có hiểu hết những gì Nikita Xergeievich nói khi gặp Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân? Tôi trả lời: “Không hiểu tất cả, nhưng về nguyên tắc tôi hiểu là chúng ta rút lui khỏi đó”. Xerov nói: “Tôi nhắc lại rằng những gì ở đây sẽ làm không như những gì đồng chí Khrusov đã nói”. Lẽ ra tôi đã không dẫn ra đoạn trích vạch rõ hoàn cảnh phản bội của N. X. Khrusov về lợi ích địa chính trị của Liên Xô, nếu không có tình huống tương tự xảy ra giữa Bộ tổng Tư lệnh tối cao các Lực lượng vũ trang Liên Xô và M. X. Gorbachov. Một sự trùng hợp lịch sử. Có một chi tiết là sự kiện được mô tả xảy ra vào ngày 13 tháng 10 năm 1954! Còn ngày 14 tháng 10 năm 1964, đúng 10 năm sau – N. X. Khrusov phải rời bỏ cương vị – Bí thư thứ nhất BCHTW và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Ngoài việc “triệt thoái” khỏi các vị trí đóng quân chiến lược, quân đội và hải quân đã phải chịu “những đòn tấn công từ trên dội xuống” khác: giải trừ quân bị. “Từ đầu những năm 1960, theo yêu cầu tha thiết của Khrusov, nhiều tầu chiến lớn của Hải quân đã bị đưa đi phá hủy và nấu thành thép, nhiều máy bay hạng năng cũng đã bị cắt giảm tối đa và bị phá hủy hoàn toàn. Cùng với chúng còn cả loạt trang thiết bị… Nhiều viện nghiên cứu quốc phòng giá trị bị đóng cửa. Nhiều chuyên gia giỏi phải chuyển việc. Quân số của lực lượng vũ trang trong những năm 1955-1960 bị giảm 3.980.000 người. N. X. Khrusov đã ngụy trang sự phản bội của mình bằng việc giải trừ quân bị. Kinh nghiệm này của ông ta, về sau này, đã được M. X. Gorbachov, B. N. Eltxin… vận dụng. Hành vi tội lỗi cuối cùng của N. X. Khrusov – bản báo cáo tại đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô. Theo quan điểm của những người khác từng nghiên cứu những sự kiện trong lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, việc tác động tư tưởng và tinh thần đối với Đảng và nhân dân đang được đưa lên vị trí hàng đầu. Cần lưu ý tới một thực trạng là không có một tổ đảng nào, cho dù nhỏ nhất, của Đảng Cộng sản Liên Xô phát biểu phản đối bản báo cáo của N. X. Khrusov. Chính do không có một phản ứng nào trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô đối với hành động của N. X. Khrusov bôi nhọ I. V. Xtalin mà bản Quyết nghị của BCHTW Đảng Cộng sản Liên Xô “Về việc khắc phục sự sùng bái cá nhân và hậu quả của nó” đã được thông qua ngày 30 tháng 6 năm 1956. N. X. Khrusov luôn có những hành động phụ họa với kẻ thù bên ngoài. CIA đã có được toàn văn bản báo cáo và cho công bố nó vào tháng 6 năm 1956 với lời tựa “Chính những người Nga công nhận sự tàn bạo của mình” và ngay trong bài này còn đưa ra câu hỏi: Liệu đây có phải là phản ứng đồng thuận đầu tiên của BCHTW ĐCS Liên Xô với cơ quan mật vụ phương Tây? Không thể tin cậy N. X. Khrusov trong bất cứ việc gì: “Trong những năm 1950, CIA (và tất nhiên cả FBI) đều thận trọng lần tìm nguồn gốc rò rỉ thông tin từ giới lãnh đạo Mỹ. Chính những lời ba hoa của Khrusov và một số chính khách – những người thường xuyên đưa nội dung một số tài liệu có được từ K. Fillby vào bài phát biểu của mình, đã buộc CIA lần cho ra được vụ này. Khrusov lúc đó thường tuyên bố: “Tổng thống Mỹ chỉ biết lo nghĩ, còn trên bàn làm việc của tôi đã có thông tin về việc đó”. Rõ ràng, một trong những động cơ của lãnh đạo KGB Liên Xô tham gia vào âm mưu hồi tháng 10 năm 1964 là mong muốn chấm dứt sự rò rỉ thông tin. Những cuộc cải cách bất tận, thoạt nhìn có vẻ khó hiểu như những cuộc cải cách hiện nay, đã được N. X. Khrusov liên tục tiến hành trong suốt thời gian nắm giữ quyền lực. Ví dụ như, theo bộ luật “Về việc tiếp tục hoàn thiện điều hành công nghiệp và xây dựng” được thông qua hồi tháng 5 năm 1957, cả nước đã có 105 hội đồng kinh tế nhân dân được thành lập – đất nước đã sẵn sàng phân hóa theo nguyên tắc khu vực hóa nền kinh tế. V. E. Xemichaxtnyi (người mới qua đời cách đây không lâu) đã cho biết về mong ước to lớn của N. X. Khrusov là tách cơ quan KGB ở địa phương ra làm hai (Giống như Ban Chấp hành tỉnh được chia ra thành: công nghiệp và nông nghiệp!) và “làm phân liệt và rối loạn” toàn bộ KGB. Điều này dẫn tới việc sa sút kỷ cương, nhà tù Lubianca chật cứng những kẻ tình nghi. Sau này cũng đã xảy ra những sự kiện tương tự. N. X. Khrusov, rốt cuộc đã hoàn thành một nhiệm vụ có triển vọng sâu xa liên quan tới “cải tổ”, chứ không liên quan tới “tiết trời ấm áp”. Ông ta đã tiến hành một cuộc thử nghiệm: Liệu có thể thực thi “điều vô lý” của quyền lực trong chừng mực bao lâu, còn trên thực tế, đó là sự phá họa và hủy diệt công khai một đất nước như đất nước Xô Viết, trong khi đó vẫn không hề bị nghi ngờ là đang ra sức thực hiện đảo chính nhằm thay thế người lãnh đạo Đảng. Đáp số thu được là khoảng trong 10 năm. Nếu đem so sánh sự nghiệp phá hoại của N. X. Khrusov với cuộc “cải tổ” trong tương lai thì thấy rằng, những năm tháng ấy, ông ta đã hành động đơn độc trong Bộ Chính trị BCHTW ĐCS Liên Xô. Dù xung quanh ông ta có những nhân vật trung thành và biết vâng lời ông ta đến chết như: A. I. Mikoian và A. I. Adzubei. Nhờ những người này, ông ta có thể tiếp xúc với thế giới bên ngoài thông qua Bộ Ngoại giao; Trong ban lãnh đạo cũ cũng có những nhân vật mà trong văn chương ngày nay tên tuổi của họ thường được gắn với những từ ngữ xấu xa – đó là những bí thư BCHTW chuyên lo những vấn đề về về công tác tư tưởng (P. N. Demichev, L. F. Ilichev, O. V. Kuxuinen, B. N. Ponomariov, P. N. Poxpelov, N. N. Satalin, M. A. Xuxlov). Nhờ Bí thư thứ nhất mà Iu. V. Andropov và S. P. Rasidov có danh vọng. N. X. Khrusov có đủ khả năng để gạt bỏ những người thân cận với Xtalin. Nhưng dù sao, như một kẻ tích cực phá hoại hệ thống Xô Viết trên quy mô toàn quốc, N. X. Khrusov vẫn là kẻ đơn độc. Đó là do kết quả của những cuộc thanh lọc dưới thời Xtalin. Từ đây, có thể rút ra kết luận rằng, trong Bộ Chính trị, M. X. Gorbachov còn có ít nhất hai chiến hữu ngang tầm với ông ta về cương vị và âm mưu là E. A. Sevardnadze và A. N. Iacovlev. Xét theo quan điểm lịch sử, không rõ Gorbachov hay Khrusov, ai hơn ai, đáng được thưởng vì công lao phá hoại Liên Xô. Khrusov đã làm được một điều dường như không thể: đặt cơ sở phá “Lục địa Đỏ”, đã lật ngược lại sự phát triển. Dưới thời ông ta và sau đó đất nước Xô Viết đã không thể phát triển được. Nhưng từ sâu thẳm, nền tảng của sự phát triển đã ló dạng và được phương Tây công nhận: Vào cuối tháng 11 năm 1964, tại buổi lễ kỷ niệm W. Churchill 90 năm, trong Nghị viện Anh đã có người đề nghị nâng cốc chúc Churchill có tư cách là kẻ thù sáng giá nhất của nước Nga. Churchill đáp lời: “Quả đáng tiếc, bây giờ đã có một người làm hại đất nước Xô Viết hơn tôi cả nghìn lần. Đó là Nikita Khrusov. Chúng ta hãy chúc mừng người đó”. Địa chính trị “nội bộ” – 1 Cùng với nhiều yếu tố khuyết điểm trong hệ thống Xô Viết, chính sách dân tộc thiếu thận trọng đã chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Trong các nước công hòa của Xô Viết đã tồn tại những khác biệt cả về chủ quan lẫn khách quan: tính không đồng đều trong tình hình xã hội, những bước đột phá trong phát triển kinh tế, mức chênh lệch trong thu nhập quốc dân tính theo đầu người, tình trạng mị dân được biểu hiện trước hết ở mức tăng dân số tự nhiên hàng năm khác nhau, sự đa dạng của các mô hình kinh tế – tất cả những cái đó và nhiều cái khác đã khẳng định về việc Liên bang là một cơ cấu đa dân tộc. Chúng tôi xin chỉ tách ra một thành tố từ tất cả sự đa dạng đó – những sai lầm trong việc xác định đường biên giới giữa các dân tộc. Chúng tôi tôi gọi nó một cách ước lệ là – địa chính trị “nội bộ”. Trong đế quốc Nga, quá trình được bắt đầu từ dưới thời trị vì của Nga hoàng, Đại công tước Finliand. Alecxandr I “đã tặng” cho Đại công tước Finliand thành phố Vyborg. Theo thời gian, Phần Lan trở thành một quốc gia độc lập, sau đó lại là một quốc gia thù địch tới mức đe dọa Leningrad – đây là một trong những nguyên nhân của cuộc Chiến tranh Phần Lan 1939-1940. Những “méo mó” trong chính sách dân tộc còn được bắt đầu ngay khi những người Bônxêvich lên nắm chính quyền: “Cơ cấu quốc gia – dân tộc của đất nước được hình thành nên từ những ảnh hưởng của những lợi ích và tình hình chính trị cụ thể trong những năm 1920-1930 và thiếu tính kế thừa. Điều đó gây nên những bất tiện to lớn, và đôi khi là ách áp bức dân tộc trực tiếp, khi ban lãnh đạo có đầy đủ quyền lực và dân chúng thuộc quyền đã thuộc về các dân tộc mang bản sắc văn hóa khác nhau. Thí dụ điển hình là – Vùng tự trị Nagornyi-Karaback (HKAO). Phần lớn dân chúng vùng tự trị là người Armeni, trong khi ban lãnh đạo được bổ nhiệm lại từ Bacu. Điều đó, trong từng giai đoạn, đã tạo ra xung đột từ phía quần chúng (gần đây nhất là vào năm 1965). Giới trí thức Armeni trong các trường hợp thuận lợi đã nhắc nhở các cấp chính quyền về vấn đề Nagornyi-Karaback. Như trong thời gian thảo luận Hiến pháp năm 1977, tại những cuộc họp đảng trong các cơ quan khoa học và văn hóa của Armeni, đã bàn tới khả năng đổi tên HKAO thành “HKAO Armeni”, thậm chí tên của nó là Armeni. Những người cộng sản Armeni đã chỉ ra những bất hợp lý của tình trạng HKAO được chuyển cho Azerbaizan chỉ vì những cân nhắc về mặt kinh tế, trong khi đó dải đất của Armeni được tách ra khỏi Azerbaizan có vùng tự trị Nakhichevanxk vẫn nằm trong thành phần của nước cộng hòa này. Người Armeni một mực đòi chuyển cho nước Cộng hòa Armeni hoặc HKAO, hoặc Nakhichevanxk. Những người cộng sản Armeni đã đưa ra 16 kiến nghị về việc đổi tên HKAO và 45 kiến nghị về quyền vùng tự trị này được chuyển vào thành phần nước Cộng hòa Armeni. Dường như Ban lãnh đạo Liên Xô đã có thể chấp thuận những cảnh báo cấp thiết này và xem xét quyết định của năm 1920. Tuy nhiên, điều đó không phù hợp với các nguyên tắc trong chính sách của Breznev, trong đó cho rằng mọi thay đổi chỉ đưa tới khuynh hướng phân ly các dân tộc. Một đường lối như thế không thể không dẫn đến việc căng thẳng ngày càng cao.” Hoạt động của N. X. Khrusov tỏ ra đặc biệt bất nhất kể từ khi ông ta chỉ là kẻ thuộc quyền cũng như khi đã là nhân vật đứng đầu đất nước. Chỉ mới ngày 27 tháng 1 năm 1938, khi tiến hành bầu ông ta làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Bônxevich) Ucraina và “… vào đúng ngày này, tại phiên họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Bônxevich) Ucraina, ngoài vấn đề về tổ chức còn đề cập tới cả một số vấn đề đang diễn ra – về số phận của các khu dân tộc từng tồn tại trong Ucraina. Có 10 khu vực như vậy, trong đó có 3 của người Bungari, 5 của người Đức và 2 của người Thổ. Trong lời than thở của mình, N. X. Khrusov đã nhận xét rằng người Ucraina ở đó đang bị áp bức. X. V. Koixor (từ tháng 7 năm 1928 là Tổng (thứ nhất) bí thư BCHTW Đảng (Bônxevich) Ucraina; từ tháng 1 năm 1938 là Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, Chủ tịch ủy ban gia kiểm tra trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, ủy viên Bộ Chính trị BCHTW Đảng (Bônxevich) toàn liên bang trong những năm 1930-1939; bị bắt giam năm 1938 và bị xử bắn năm 1939) đã quyết định làm rõ ý kiến của Nikita Khrrusov và như ta thường nói, đi thẳng vào vấn đề: “Xử lý những vấn đề này thế nào?”. Câu trả lời là: “Không thể xóa bỏ chúng, nhưng để cũng không được”. Năm 1939, sau khi các vùng phía Tây Ucraina và Belorusia nhập vào với chúng ta, ông lại nhắc tới quan điểm của mình về sự méo mó của chính sách dân tộc trong đất nước. Về việc này, như P. K. Ponomarenco – vào thời kỳ đó là cựu Bí thư thứ nhất BCHTW Đảng (Bônxevich) Belorusia – nhớ lại: “Ngay sau khi giải phóng vùng phía Tây Ucraina và phía Tây Belorusia đã nảy sinh vấn đề địa giới hành chính giữa hai vùng mới này của đất nước. Theo Quyết nghị của Xô Viết Tối cao Liên bang ngày 1 và 2 tháng 9 năm 1939, các Xô Viết Tối cao nước Cộng hòa Ucraina và Belorusia phải trình những dự thảo phân định biên giới các khu vực phía Tây và vùng giữa hai nước Cộng hòa này để Xô Viết Tối cao Liên bang xem xét. Tôi không cho rằng trong vấn đề này có thể nảy sinh vấn đề gì phức tạp vì biên giới sắc tộc đã khá rõ ràng. Nó trải từ Đông sang Tây của các thành phố Pinxk, Kobrin và Brext. Vào một ngày xuân năm 1939, tôi đang có mặt tại Beloxtok thì được gọi về Vụ Tổ chức BCHTW Đảng (Bônxevich) Liên bang và nhận được thông báo rằng N. X. Khrusov đã chuẩn bị và đệ trình BCHTW Đảng (Bônxevich) những đề nghị của mình về biên giới trong khi phía Belorusia chưa thực hiện. Qua một ngày sau chúng tôi được phép nghiên cứu bản dự thảo của Ucraina. Bản dự thảo của Khrusov về đường biên giới giữa hai vùng miền Tây đã thực sự làm cho tất cả chúng tôi phải bàng hoàng. Ngay chiều hôm đó chúng tôi đã triệu tập họp Văn phòng BCHTW Đảng (Bônxevich) Belorusia để thảo luận về đề nghị của Ucraina và soạn ra ý kiến phản biện của mình. Theo phương án của Khrusov, biên giới giữa hai vùng phía sáng Tây lệch hẳn về phía Bắc của đường biên giới sắc tộc tự nhiên đã được công nhận, hơn nữa là các thành phố Brext, Pruzana, Stolpin, Pinxk, Lyninetz và Kobrrin cũng như phần lớn vùng rừng rậm Belovezxk sẽ thuộc về Ucraina. Không thể nào chấp nhận được bản dự thảo này, chúng tôi đã đưa vào đề nghị của mình rất nhiều tư liệu lịch sử, kể cả những tài liệu lưu trữ. Cuối cùng, bản dự thảo cũng đã được chúng tôi hoàn thành. Ngày 22 tháng 11, tôi được triệu tập về Mátxcơva để báo cáo dự thảo này. Trong thời gian ở Thủ đô, cũng ngay chiều hôm đó tôi nhận được lời mời của I. V. Xtalin. Khi tôi vào phòng khách ở Kremli, Khrusov đã ở đó cùng với bản dự thảo và nụ cười của mình. Ông ta đang trao đổi với A. N. Poxkrebysev – Thư ký của Xtalin. Sau lời tôi chào, Khrusov hỏi tôi rằng đã chuẩn bị các đề nghị về đường biên chưa và thực chất chúng ra sao. Với thái độ tôn trọng cần thiết đối với Khrusov là ủy viên Bộ Chính trị BCHTW Đảng và là nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng, tôi cố nói một cách tế nhị nhất: “Chúng tôi đã chuẩn bị dự thảo, song nó không trùng với của các anh. Sau đó tôi đã nói rằng, chúng tôi đề nghị đường biên giới phù hợp với thành phần sắc tộc của dân cư và biên giới đó, theo chúng tôi, phải về phía Nam các thành phố Pinxk, Lunitx, Kobrin, Baranovichi và Brext, do đó những thành phố này và vùng rừng Belovezxk phải thuộc về thành phần của Belorusia Xô Viết. Khrusov nhảy dựng lên và nói một cách thô tục: “Kẻ nào gợi ý cho anh trò ngớ ngẩn đó, mà anh có thể căn cứ vào cái gì cơ chứ?”. Tôi trả lời rằng những đề nghị chúng tôi mang tới đây là do các thành viên BCHTW Đảng của Belorusia soạn thảo. Chúng tôi hoàn toàn không cho đây là trò ngớ ngẩn và sẵn sàng nêu ra những bằng chứng trên cơ sở thống kê và lịch sử. Khrusov tuyên bố rằng các nhà sử học Ucraina có quan điểm khác và tôi đã nêu đề xuất của mình về biên giới. Tôi đáp lại: “Thật khó cho các nhà khoa học phải xác định ra đường biên giới mâu thuẫn với hiểu biết về sắc tộc, thống kê và lịch sử”. Khrusov nổi đóa và gằn giọng với vẻ độc ác: “Thì ra anh không tin các nhà khoa học, anh biết nhiều hơn những người khác? Mà anh biết gì chứ? Thế anh có biết được rằng từ thời Trung cổ, trên vùng lãnh thổ mà các anh muốn nó thuộc vào thành phần của Belorusia đã và hiện đang có người Ucraina sinh sống, như Nalivaiko, Bogdan Khmelnitxki và nhiều người khác đã lấy dân chúng ở các vùng lãnh thổ này lập quân đội của mình, rằng có nhiều sách lịch sử hoàn toàn không đả động gì về mối liên hệ giữa vùng này với Belorusia, v.v…”. Tôi trả lời ông ta: “Đồng chí Khrusov, hiện giờ tôi không quan tâm tới giọng nói và thái độ thô tục của đồng chí đối với tôi. Đây không phải là vấn đề của cá nhân. Thậm chí nếu bất chấp đề nghị của chúng tôi, những vùng này vẫn được đưa vào thành phần của Ucraina, thì cũng chẳng có một thảm họa nào xảy ra. Chúng ta là một nước, mà Ucraina cũng thuộc về Xô Viết. Nhưng tôi có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của Belorusia và tôi có cơ sở về những lời đề nghị của mình” Đúng lúc đó Xtalin cho gọi chúng tôi. Ông ngồi một mình trong Văn phòng. Sau lời chào của chúng tôi, ông nói: “Chào những người German, sao, có chuyện gì về biên giới? Các anh chưa đề nghị à? Chưa bắt đầu một cuộc chiến tranh về biên giới đấy chứ? Các anh đã tập trung quân chưa? Hay đã thỏa thuận hòa bình được rồi?”. Sau đó Xtalin mời chúng tôi ngồi để báo cáo phương án của mình. Khrusov và tôi lấy các văn bản và sơ đồ biên giới ra. Nikita Xergeievich báo cáo trước. Ông ta trải bản sơ đồ lên bàn và trình bày nội dung phương án của mình. Xtalin lắng nghe, đứng lên đưa ra tấm bản đồ của mình và đề nghị Khrusov chỉ trên sơ đồ tuyến biên giới. Sau phần báo cáo của tôi và phần trả lời hàng loạt câu hỏi, Xtalin tuyên bố dứt khoát: “Biên giới mà đồng chí Khrusov đề xuất hoàn toàn không chấp nhận được. Nó không hề có cơ sở nào hết. Nó không phù hợp với công luận. Không thể nói là Brext và vùng rừng Belovezxk là những vùng của Ucraina. Nếu thông qua đường biên này thì những phần phía Tây của Belorusia thực sự biến mất. Đây là một chính sách dân tộc tồi tệ”. Sau đó, quay về phía Khrusov, để làm dịu bớt lời tuyên bố của mình, Xtalin nhận xét: “Anh nói thật xem, khi đưa ra đề nghị này, có lẽ, anh định có được vùng rừng này do rừng của các anh ít quá?”. Khrusov trả lời: “Vâng, thưa đồng chí Xtalin, tất cả chỉ vì rừng chúng tôi ít quá” “Đấy là chuyện khác, – Xtalin nói, – có thể tính đến điều đó. Belorusia đề nghị đúng về đường biên giới cơ sở. Phương án đó thể hiện tính khách quan và họ đã tự đề nghị vùng Kamen – Kasirxk thuộc về Ucraina. Chúng tôi khẳng định đường biên giới, về cơ bản, trùng với dự thảo của đồng chí Ponomarenko, nhưng có chỉnh lại một số vị trí theo nguyện vọng của Ucraina muốn có một ít rừng”. Ông lấy tấm bản đồ và vạch ra một tuyến biên giới hầu như trùng hoàn toàn với đề nghị của chúng tôi. Chỉ ở vị trí tạo nên một quần thể màu xanh trên bản đồ là hơi uốn về phía Bắc và ông nói: “Hãy để vùng này cho Ucraina”. Tôi muốn đưa ra ví dụ này, khi những âm mưu và manh tâm của những nhân vật lịch sử đã bị phát giác tới từng chi tiết, để thấy diễn biến và quyết định cuối cùng của nó giống như một chiến dịch. Gieo rắc lòng thù địch giữa các dân tộc, dường như, khá đơn giản – chỉ cần ban lãnh đạo cao nhất thông qua một quyết định gây phương hại tới một bên. Trong những năm cầm quyền N. X. Khrusov toàn bộ sách lược dưới dạng những sự kiện, thoạt nhìn vô hại, nhưng là một chính sách dân tộc rất thâm độc được che đậy trên thực tế, ẩn chứa trong đó hàng loạt nguy cơ. Việc này và việc chuyển giao Krym (cả Sevaxtopol) cho nước Cộng hòa Ucraina trong năm 1954, vào thời gian đó được được đề cập rất nhiều ở Nga – vì đây là nguyên nhân của cuộc tranh luận pháp lý nổi tiếng vào đầu những năm 1990 với phía Ucraina. Ngày 9 tháng 1 năm 1957, Khu tự trị Checheno-Ingusxk được khôi phục, trong đó có 3 vùng thuộc Nga: Narurxk, Kargalinxk và Senkovxk vì một phần của vùng Prigorxk vẫn nằm trong thành phần của khu tự trị Severo-Oxetinxk… D. A. Kunaiev, ủy viên Bộ Chính trị BCHTW ĐCS Liên Xô, Bí thư thứ nhất BCHTW ĐCS Kazakhxtan nhớ lại: “Tôi từng làm việc chừng 10 năm dưới sự lãnh đạo của Khrusov… Một trong số những va chạm đầu tiên giữa chúng tôi là khi ông ta đề nghị tôi chuyển một số vùng trồng bông cho Uzbekixtan. Tôi đã kiên quyết phản đối. Đúng lúc đó, Iuxupov Ixmail – Bí thư thứ nhất Đảng bộ vùng Nam Kazakhxtan đã viết thư cho Nikita Xergeievich để bày tỏ đề nghị tương tự. Bất chấp sự phản đối của tôi, Khrusov buộc tôi chấp hành kỷ luật Đảng mà chuyển giao các vùng Zetixaixk, Kirovxk và Pakhtaaralxk cho nước Cộng hòa Uzbekixtan. Sau này tất cả những vùng này đã được trả lại. Ngoài ra, Khrusov cùng từng đề nghị về việc tổ chức Txelino, sau là vùng Tây Kazakhxtan và Nam Kazakhxtan. Tôi lại không nhất trí. Thời gian cho thấy tôi đã đúng – sau đó các vùng này đã tổ chức ăn mừng. Các ý kiến của chúng tôi về tương lai của Mangyslak cùng không thống nhất, khi bỗng dưng Khrusov đặt vấn đề: “Mangyslak là một bán đảo vô cùng giàu có. Chỉ dân Thổ (Turkmen) mới có thể khai thác dầu mỏ ở đó. Nên chuyển cho họ”. Ông ta bỏ ngoài tai mọi lời phản đối của tôi bởi tôi đòi ông ta đàm phán với Bộ trưởng địa chất Xidorenko. Xidorenko đã ủng hộ tôi. Khrusov đã buộc phải để lại Mangyslak cho Kazakhxtan”. Sự trì trệ được gọi là “trì trệ” bởi những quyết định cơ bản luôn bị gác lại “để sau”. Cựu Chủ tịch KGB là V. E. Xemichatxtnyi nhớ lại, rằng “Mọi người đã nhiều lần khuyên Breznev: Hãy thiết lập ra dưới thời ĐCS Liên Xô định chế về các vấn đề dân tộc thay cho định chế chủ nghĩa Mác – Lênin. Chúng ta có đủ những trường đại học, viện nghiên cứu, cơ quan khoa học mác xít, vậy mà không có một ai nghiên cứu hay soạn thảo các vấn đề dân tộc cho ra đầu ra đũa, cho nên các vị lãnh đạo từ trung ương đến địa phương thường sáng tạo dẫn chứng sai lầm”. Còn theo bằng chứng của một vị từng lãnh đạo KGB rất thạo tin khác thì “Mỹ và NATO rất quan tâm tới vấn đề dân tộc ở Liên Xô”. Cần phải chỉ ra rằng các nhà lãnh đạo khác cũng từng hành động theo đúng cách này. I. V. Xtalin cùng đã từng mở rộng biên giới Ba Lan vì nước Đức. Người Đức đã di cư khỏi Cộng hòa Liên bang Đức. Chỉ khi nào mối quan hệ hợp tác còn tồn tại thì còn chưa và không thể xảy ra xung đột. Nhưng khi tình hình đó bị phá vỡ, người Đức đã lập tức công bố chủ quyền của họ. Sự điều hành ở Liên Xô. 1953-1985 Trong những năm trì trệ lớn, việc điều hành ở Liên Xô đã trải qua nhiều chặng đường: kế hoạch xây dựng chủ nghĩa cộng sản có thời hạn cụ thể (Cương lĩnh thứ 3 của ĐCS Liên Xô); các cuộc thử nghiệm thời Khrusov; sự lạc hậu kinh tế so với thế giới và đặc biệt là so với các chỉ số của phương Tây dẫn tới tình trạng tiền khủng hoảng. Ban lãnh đạo cao cấp của đất nước là những người trước hết phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về điều đó. Làm sao lại có thể xảy ra việc một đám những kẻ vô tình ngự trên đỉnh cao điều hành Liên Xô và một nửa thế giới xã hội chủ nghĩa như vậy? Hệ thống cần loại lãnh đạo – robot thừa hành bằng mọi giá những kế hoạch không do mình vạch ra mà do trên ép xuống. Từ kế hoạch đó hắn ta nhận các nguồn vốn và vật lực mà không cần tìm người cung ứng. Từ kế hoạch đó hắn nhận bàn giao các xí nghiệp có thứ sản phẩm chỉ bỏ vào kho. Hắn ta không cần tìm kiếm thị trường. Người ta quyết định thay cho hắn việc cái gì cần cho nhu cầu… còn nếu muốn khích lệ ai đó thì hắn cũng chẳng thể làm được bởi hắn bị hạn chế bởi mọi thứ. Mọi sáng kiến ngoài kế hoạch đều không được chấp nhận. Chủ nghĩa xã hội (cùng với đặc tính điều hành kinh tế quan trọng nhất – Kế hoạch) so với chủ nghĩa tư bản (Thị trường) đã vi phạm những nguyên lý điều hành cơ bản nhất. Do thiếu định chế liên hệ ngược đáng tin cậy giữa chủ thể với khách thể điều hành nên rốt cuộc đã rơi vào thảm họa. Mối liên hệ ngược đáng tin cậy của chính phủ với quần chúng là sự bảo đảm cho việc thông tin sẽ được chuyển tới đúng địa chỉ, sẽ có sự điều chỉnh và mọi vấn đề sẽ được giải quyết. Không có một chính phủ nào có thể tự mình ôm đồm cả một biển thông tin vô tận. Chỉ có người dân trong đám quần chúng mới có thể đưa ra lời giải thích khoáng đạt, thật sự tự do về những quá trình đang diễn ra. Không phải vô tình, trong tâm trí của chính nhân dân Nga chúng ta tìm thấy được những luận giải thông tuệ tới mức vượt trên mọi lý luận. Hoàn toàn có thể rút ngắn một phần công tác thông tin: trao quyền cho địa phương; lắng nghe ý kiến của cấp dưới; kịp thời điều chỉnh linh hoạt – sửa mọi lỗi lầm của mình và của những người tiền nhiệm; giải phóng ý chí từng bị trói buộc (do thiếu công cụ mà lại quá thừa quan liêu. Tất cả đều lệ thuộc vào khuôn khổ luật pháp hay tư tưởng đã từng tuyên bố) của quần chúng để lao động của họ thực sự sáng tạo để rồi chính phủ nhận được một kết quả – chi phí cho bộ máy sẽ giảm nhiều. Thiếu một cơ chế như thế, rốt cục, sẽ dẫn tới thất bại. Mọi người đều biết, sự chậm trễ của tín hiệu trong hoạt động thần kinh cao cấp của loài thằn lằn thời tiền sử đã dẫn tới việc thông tin từ đuôi lên tới não bộ mất 8 phút. Với thời gian đó một con thú ăn thịt có thể xơi chính nó từ đuôi lên mà không hay biết gì. Người ta đã biến đất nước chúng ta thành con thằn lằn đó một cách có ý thức. Chỉ có điều các con thú ăn thịt đã xơi nó không phải chỉ trong tám phút mà lâu dài hơn. Trong việc điều hành đất nước người ta đã không tuân thủ nguyên tắc về tính thích ứng trong sự đa dạng của chủ thể và khách thể điều hành. Điều này trước hết có ý nghĩa gì? Những quyết định quan trọng nhất đã được bộ máy BCHTW ĐCS Liên Xô thông qua. Và mặc dù trong cơ cấu của nó, mọi mặt đời sống của quốc gia đã được phản ánh song việc điều hành đã không tương thích ở mức độ cần thiết. Điểm không tương thích trước hết là vị trí (quan điểm) giữa khách thể điều hành với số lượng người điều hành: Trong bộ máy BCHTW ĐCS Liên Xô đã có tất cả chừng hai nghìn cán bộ chức năng. Còn ở quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), chỉ trong một tòa nhà có tám nghìn nhân viên. Trong bộ máy nhà nước Mỹ, người ta thuê từ 17 đến 20% dân số, còn ở Liên Xô chúng ta, số người điều hành chỉ có vỏn vẹn 12% (Trong BCHTW có 1940 cán sự và 1275 cán bộ kỹ thuật). Trong những năm sau chiến tranh, số lượng xí nghiệp, cơ quan, tổ chức đã tăng lên gấp 10 lần, sự phức tạp về xã hội đã diễn ra với quy mô và tốc độ mà trước đó chưa từng có trong lịch sử nhân loại để thống nhất được một bộ máy khổng lồ như Liên Xô. Bản chất của khủng hoảng này là ở chỗ: hệ thống quyền lực và điều hành xã hội Xô Viết được hình thành và đang hoạt động bình thường trước đó đã trở nên không thích ứng với những điều kiện mới; cần phải tăng bộ máy quyền lực và điều hành, đặc biệt là bộ máy của Đảng; cần phải tăng cường hệ thống độc lập kế hoạch và đưa vào kiểm soát nghiêm ngặt việc hoàn thành các kế hoạch; cần phải nâng cao chuyên môn cho các cán bộ trong hệ thống quyền lực và điều hành, cụ thể là cho các cán bộ thuộc hệ thống đảng cộng sản; tăng cường tập trung hóa nền kinh tế và việc điều hành chúng. Việc này đã và đang được làm ở phương Tây “thối rữa” thế nào? Họ có những văn phòng tư vấn mà đôi khi đưa ra những lời chỉ bảo có thể gây sốc vì chính sự đơn giản của chúng: “Hoạt động của nhiều văn phòng tư vấn ở Mỹ về vấn đề tổ chức và điều hành rất đa dạng. Khi ta đưa yêu cầu cho họ, ví dụ nhà máy chế tạo thiết bị chính xác, và bảo rằng: “Chúng tôi không hiểu mình sai lầm ở khâu nào. Chúng tôi đang sử dụng những kỹ thuật tốt nhất, kỹ sư của chúng tôi có kiến thức, giá thành sản phẩm thấp hơn của đối thủ cạnh tranh, thành phẩm của chúng tôi có giá trị cao hơn, song lợi nhuận lại thấp”. Nhân viên tư vấn sau khi có mặt tại nhà máy trong vài tuần, đôi khi tới vài tháng. Anh ta chẳng hề quan tâm tới các chi tiết của thiết bị (mà anh ta cũng chẳng biết gì về chúng). Anh ta ngồi theo dõi diễn biến của công việc, hỏi han các công nhân, im lặng tham dự những cuộc họp của giám đốc, xem các sổ sách của thủ quỹ, đọc các báo cáo. Thời gian trôi đi. Người tư vấn nộp bản báo cáo và khuyến nghị. Giám đốc thì chờ nghe được những lời khuyên đặc sắc nào đó, còn nhân viên tư vấn lại nói với ông ta rằng: “Hãy tổ chức lại bộ phận thông tin và báo cáo. Người của ông thường xuyên nhận được số lượng giấy tờ như thế, dẫu có đọc cả ngày cũng không xuể. Các văn bản nằm cả tuần lễ và chúng không đồng hành với công việc”. Giám đốc có tức giận, bi quan thì vẫn phải cố áp dụng các khuyến nghị, vì lợi nhuận là trên hết”. Chính Liên Xô cần có một văn phòng tư vấn như thế và không thể nói rằng nó chưa có. Một số quan chức nhà nước có liên quan trực tiếp tới lĩnh vực thông tin, đặc biệt là tình báo, những người có quan hệ với các tổ chức của các nước phương Tây đã nảy sinh ý định thành lập tại đất nước chúng ta một cơ quan nhà nước có chức năng tư vấn để chấn chỉnh công việc của các bộ và giúp soạn thảo các báo cáo thông tin cho nguyên thủ quốc gia. Tuy dự án đó chưa được triển khai, song đã có nhiều rào cản được dựng lên để ngăn chặn những con người có ý định chơi trội đó. Không một ai chịu nghe ý kiến của họ! Tuy nhiên sự lạc hậu, tính theo các chỉ số chất lượng của phương Tây, đã được mọi người biết đến – và nó hiện diện ngay trong một nước giàu tài nguyên có tiềm năng lên chủ nghĩa xã hội, trong một chế độ có thể tập trung tài lực và thông tin vào những hướng đã định – lại có một cách hiểu khác về chất lượng. Thành tố chất lượng còn có thể thay đổi, song tổn thất thì đã ẩn sâu vào trong hệ thống và được thận trọng khỏa lấp đi. Chính những kẻ phá hoại đã cho ta thấy điều đó dưới đây. Rồi bản thân chúng ta sẽ có sẵn một câu trả lời cho câu hỏi: “Liệu chủ nghĩa xã hội có thể tồn tại không, nếu chính ta mình, ví dụ như thế này: “Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Kôxygin lo lắng vì những lời than phiền về chất lượng giầy rất tồi tệ. Ông tới thăm một xí nghiệp ở thủ đô và trách cứ thậm tệ tay giám đốc vì việc đó. Nhưng tay giám đốc láu cá đã trả lời: - Alekxei Nicolaevich, anh hãy nhớ rằng chúng tôi đã có được dây chuyền sản xuất nhập khẩu này nhờ sự giúp đỡ của anh 15 năm trước đấy. Nó có công suất 1 triệu đôi/ năm và bao gồm 100 thao tác. Nhưng sau đó cấp trên tăng kế hoạch lên 1,5 triệu đôi/ năm. Để đẩy nhanh quy trình sản xuất chúng tôi buộc phải cắt giảm đi 25 thao tác. Rồi kế hoạch bị đẩy lên tới 2 triệu đôi/ năm vậy thì toàn dây chuyền chỉ còn lại 50 thao tác. Liệu chất lượng sẽ ra sao nếu thay vì phải thực hiện 100 thao tác, chúng ta chỉ làm có một nửa?”. Câu chuyện tiếu lâm này rất điển hình. Thêm vào đó, tư tưởng ngại phê phán những cơ quan tài chính và kế hoạch của BCHTW đã thực sự đẩy nền kinh tế của đất nước vào con đường sai lầm. “Thái độ duy ý chí” của N. X. Khrusov, “Trì trệ” của Breznev, “Chủ nghĩa Xtalin mới” của Iu.V. Audropov và “Sự suy đồi hoàn toàn” (dường như trước đó là “chưa hoàn toàn”) của K. U. Chernenko – tất thảy chỉ là những dấu ấn về tư tưởng chưa phản ánh được bản chất của những sai lầm. “Những đồng chí” leo được lên cao (có được danh phận) là những kẻ gian hùng khôn khéo, chứ không phải là những nhà lãnh đạo giỏi giang. Quyền lực ngầm “đã hình thành, đã vận động và phát triển thuận lợi trong đất nước”. Trong lĩnh vực điều hành luôn tồn tại quyền lực chính thức và quyền lực đen. Thậm chí, việc quyết định những vấn đề then chốt lại phụ thuộc vào quyền lực đen. Một thanh niên đại diện của một tổng công ty lớn ở Lêningrad, thường xuyên đi công cán lên Matxcơva nhớ lại. Anh ta đã tạo dựng rất thành công danh tiếng của công ty trong các cơ quan các bộ là do đã sử dụng một danh sách mật về các nhân vật của từng bộ – những người thực sự quyết định mọi vấn đề. Chỉ cần thỏa thuận với những người này về mọi yêu cầu và vấn đề. Trong bản danh sách này hoàn toàn không có các nhân vật cao cấp. Thành công của chàng trai đó được lý giải rằng anh ta có quan hệ với quyền lực đen thực sự trong tầng lớp trung gian. Chính cơ cấu bí mật đó thực thi quyền lực cao nhất. ở Liên Xô, sự bất lực của các Tổng bí thư như L. Breznev và K. Chernenko – những người có quyền lực to lớn về mặt hình thức, thực sự không được phản ánh trong công việc hàng ngày. Chính cơ cấu bí mật bao gồm một nhóm rất ít người đã thực thi quyền lực thực tế. Các mối quan hệ và sự ràng buộc lẫn nhau của nó chỉ tồn tại trong bóng tối. Do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau mà trong nước không có nền văn hoá thông tin – điều hành. Phương Tây khi đó đã trải qua “bùng nổ nghiên cứu” và “cuộc cách mạng của những người quản lý”, còn chúng ta vẫn lê bước phía sau. Khi phải sống mãi trong một hệ thống thì người ta không tưởng tượng được rằng dường như vẫn còn có thể sống khác. Nó giống như một kẻ quen nhìn cái thiển cận và cái mâu thuẫn. Chúng tôi dẫn ra đây ý kiến của một chuyên gia trong lĩnh vực điều hành từ Mỹ sang Liên Xô làm việc: “…ở nước chúng tôi văn hoá giao tiếp công việc rất kém, thậm chí công việc văn phòng hủ lậu. ở đó xử sự rất thô bỉ, toàn những trò thô tục tầm thường như không trả lời thư công vụ, điều mà người nước ngoài thường xuyên phàn nàn…” Rồi ông ta viết: “Sau khi đã sống ở Mỹ 30 năm, tôi thấy ở đó có những nhà máy, xí nghiệp được trang bị tuyệt hảo, tôi đã làm việc tại những cơ quan được trang bị nhất hạng. Còn ở nước này tôi thấy các phương pháp tổ chức và điều hành là tuyệt vời nhất. Anh gọi điện thoại về xí nghiệp: - Tôi cần nói chuyện với đồng chí Ivanov. - Anh ta không có. Và máy bị gác. Anh nghi ngờ – thế nào là “Anh ta không có”: ốm, bỏ ra ngoài hút thuốc, đi họp hay đi công tác? Đành phải gọi lần nữa. - Tôi đã nói là anh ta không có! – Giọng trả lời đã gắt hơn. - Xin lỗi, chị tên là gì? - Tên gì mà chẳng được. Tôi nhắc lại, không có Ivanov! Và máy lại bị gác. Anh bắt đầu căng thẳng, gọi thêm lần nữa: - Chị ơi, xin chị đừng bỏ máy. Tôi cần Ivanov có việc khẩn cấp. Từ đầu dây bên kia vọng lại: - Đồng chí đang làm phiền tôi đấy. Tôi nói với anh cả hai lần rồi rằng không có Ivanov! Anh ta đang nghỉ phép, sau 3 tuần nữa mới về. Ở Mỹ những cuộc trao đổi như thế xảy ra khác hẳn. Ví dụ, anh gọi tới hãng “General Electric”.: - Hãng G.E, tôi là John. – Một giọng nói đã được huấn luyện trả lời. - Cho phép nói chuyện với ngài Smith. - Ngài Smith đang đi công cán. Người thay thế ông ta là ngài Corni, số máy của ông ấy là (…). Tôi nối máy cho ngài?”. Người đưa ra so sánh trên là Tiến sỹ kinh tế học V. I. Teresenko – trước 1955 đã sống tại Mỹ. Nhiều điều trông thấy đã làm ông ta đau đớn nhận ra rằng “ưu thế chủ nghĩa xã hội” đã được sử dụng ra sao: “ở Liên xô chúng ta có cả núi vật cản do con người tạo ra. Nó kéo theo những chi phí thời gian phi sản xuất. Những trở ngại liên quan đủ loại. Ngại trách nhiệm. Còn vô trách nhiệm là hiện tượng rất phổ biến? Vì tất cả những cái đó mà hàng chục, thậm chí hàng trăm ngàn cơ hội cải thiện cuộc sống bị bỏ lỡ. Tôi chỉ làm được 1/3 hiệu suất mà tôi có thể làm ở Mỹ. Thật xấu hổ! Thời gian không trở lại…” Sai lầm chủ yếu dẫn đến thảm họa sau này là việc tuân theo một cách tuyệt đối mù quáng cách hiểu chủ nghĩa Mác mà người tổng chỉ huy đã từng sai lầm. Không đơn giản chỉ là thiếu một cơ chế phê bình đủ tin cậy từ dưới lên, mà ngược lại là sự bưng bít lời phê bình; không tổng hợp, mà ngược lại là phê bình thận trọng, gọi là phê bình kiểu “Trong thời gian qua, có những khuyết điểm…” (M. X. Gorbachov là người đã mở đập ngăn nước (tháo cống), làm thay đổi dòng chảy, và kết quả là không có xã hội chủ nghĩa như mong đợi, mà mất luôn cả Liên Xô). Thế giới trở nên phức tạp hơn. Thực tế xây dựng “chủ nghĩa xã hội” trở nên tầm thường hơn. Việc phản ánh những quá trình hiện thực trở nên nhàm chán, hời hợt, giáo điều. “Chủ nghĩa duy ý chí” trong Cương lĩnh thứ 3 của ĐCS Liên Xô có một giá trị rằng: vào những năm 1980, nếu không lên được xã hội cộng sản, nhân dân Xô Viết đành phải từ bỏ mục tiêu này. Tài liệu N°1. Những trung ương thần kinh của Liên Xô. 1953-1985. Thuật ngữ “Trung ương thần kinh” không được sử dụng rộng rãi, cho dù ngày nay định chế điều hành này đã được đề cập tới nhiều, song chưa đến mức công luận rộng rãi ngay lập tức chú ý và nhớ mãi. Bởi vậy cần lời giải thích rõ đó là cái gì. “Trung ương thần kinh” – là tên gọi của hội đồng (có tổ chức về hình thức) những chuyên viên và chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và những lĩnh vực kiến thức trực thuộc ban lãnh đạo cao cấp của đất nước hoặc nguyên thủ quốc gia (Tổng thống). Hội đồng còn gồm những cố vấn, trí thức ở các bộ, cơ quan nhà nước. Khái niệm, “Trung ương thần kinh” được sử dụng vào những năm sau chiến tranh (như “Trung ương thần kinh Kennedy”). Khi vai trò của khoa học đột ngột tăng lên đối với chính trị, còn chính các ngành khoa học khác đã phát triển tới mức đủ sức trợ giúp đáng kể cho các cơ quan chính quyền trong việc thông qua những quyết định quan trọng. “Trung ương thần kinh” có khả năng tập hợp rất nhiều chuyên gia – vài trăm, thậm chí cả nghìn người. Số lượng này không ổn định và được hình thành nên tuỳ thuộc vào nhu cầu ở thời điểm đó và tùy thuộc cả vào những phẩm chất cá nhân của người lãnh đạo, thái độ quan tâm, coi trọng của người đó đối với kiến thức khoa học. Các nhận định của họ về tình hình chính trị, chính trị – quân sự, chiến lược – quân sự, … góp phần nâng cao đáng kể tính chuyên nghiệp của chính trị. Cũng cần phải chỉ ra rằng “Trung ương thần kinh” không phải là những cơ quan khoa học hay tổ chức hoạch định bình thường, chúng rất đa dạng và có những đặc điểm riêng. Khác với các tập thể và cơ quan khoa học thông thường, các trung tâm giám định này có đặc điểm chủ yếu là: tổng số người của nó chừng vài trăm (trong khi các cơ quan khoa học thông thường có tới hàng chục nghìn nhân viên); Trung tâm luôn có ảnh hưởng nhất định tới quá trình thông qua các quyết định ở cấp lãnh đạo cao nhất, ở cấp chiến lược; các nhu cầu thông tin thấp nhất được nhằm vào cấp ngành, cấp quốc gia và cao nhất – cấp quốc tế; cấp độ đề tài và nước nghiên cứu chuyên sâu cùng các nhóm giải pháp kiến nghị của nó là nhằm tích cực xác định những phương hướng mới, thông tin của nó làm cho các hoạch định trở nên chính xác; tiến hành hợp tác thường xuyên với các loại chuyên gia để tìm kiếm và phân tích thông tin; quá trình xử lý thông tin được chia thành nhiều giai đoạn phân tích; tiến hành phân loại tài liệu nghiên cứu theo chuyên ngành; lập danh mục tài liệu, xác định thông tin mới và mức độ tin cậy của nguồn tin; thường xuyên tiến hành tìm kiếm, xây dựng cơ sở dữ liệu dưới dạng: tiểu sử, thư mục, tóm tắt thuyết minh, ảnh tư liệu, chủ đề, toàn văn…; thường xuyên và tự giác tiến hành, chuẩn bị những nghiên cứu, tra cứu và phân tích; sản phẩm trí tuệ của nó luôn được những người sử dụng tin cậy, đánh giá cao. Có thể diễn đạt ý thức hệ của các trung tâm giám định như sau: 1. Chúng được trao một vai trò then chốt trong những cuộc trao đổi công việc và khoa học, lưu trữ và cung cấp thông tin cho việc thông qua các quyết định. 1. Là một bộ phận hợp thành của các tổ chức nghiên cứu thông tin. Các giám định viên đồng thời làm việc trong môi trường của các tổ chức thông tin và duy trì quan hệ chặt chẽ với những đồng nghiệp ở từng lĩnh vực cụ thể. 1. Các hệ thống giám định xác lập (biên soạn) cơ sở của công nghệ thông tin. Các trung tâm thông tin giám định, về thực chất là các tổ chức nghiên cứu làm việc trên quan điểm thông tin. Viện nghiên cứu kinh tế thế giới và chính trị thế giới được coi là “Trung ương thần kinh” đầu tiên thuộc loại này của Liên xô. Nó tồn tại từ năm 1924 đến cuối năm 1947, ban đầu nằm trong tổ chức của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội chủ nghĩa, rồi theo đà phát triển tới “tương lai tươi sáng” nó thuộc về Viện Hàn lâm Khoa học Cộng Sản chủ nghĩa. Vào đầu những năm 1930 nó được chuyển thành Viện Hàn lâm Khoa học do Viện sĩ E. X. Varga lãnh đạo. Trước khi giải thể nó có 120 nhân viên chuyên nghiên cứu về cục diện kinh tế, lịch sử và lý thuyết các chu kỳ, các cuộc khủng hoảng kinh tế, sau đó đồng thời nghiên cứu quan hệ quốc tế và nguy cơ chiến tranh. Còn một “Trung ương thần kinh” danh tiếng nữa là Viện nghiên cứu toàn liên bang những vấn đề hệ thống của ủy ban nhà nước về khoa học và kỹ thuật trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Từ khi thành lập, Giám đốc của viện là Dzermen Mikhailovich Gvisiani – ủy viên thường trực Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Phó chủ tịch ủy ban quốc gia về Khoa học và Kỹ thuật Liên Xô, Chủ tịch Hội đồng của Hiệp hội hỗ trợ dân tộc Câu lạc bộ Rima, ủy viên Viện Hàn lâm khoa học công trình Thụy Điển, ủy viên Viện Hàn lâm Khoa học điều hành Mỹ và quốc tế, Chủ tịch Hội đồng Viện phân tích hệ thống ứng dụng quốc tế. Thân sinh của ông ta là tướng của Bộ dân ủy Nội vụ, người đã tiến cử L. I. Beria. Chính tên mà ông đặt cho con mình có nghĩa là: DZERzinxki MENZinxki. Vợ là Liudmila, Alekxeievna Koxygina-Gvisiani, con gái duy nhất của Thủ tướng chúng ta. Bà ta là Giám đốc Thư viện Văn học nước ngoài. Người chồng của em gái ông ta là E. M. Primacov. Trước khi thành lập viện, D. M. Gvisiani là người đứng đầu Vụ Quốc tế của ủy ban Quốc gia về Khoa học và Kỹ thuật. Trong số thuộc cấp của ông ta có đại tá O. Penkovxki – điệp viên của Anh và Mỹ. Sau khi điệp vụ bị phanh phui, tất cả những ai từng che chở cho hắn đều gặp họa, trừ có D. M. Gvisiani. Khoảng những năm 1980, D. M. Gvisiani đã từng công tác tại Viện E. T. Gaidar. Sau này, hồi tưởng lại cương vị công tác này của mình, ông ta viết: “Viện được thành lập vào năm 1967, với cương vị là Phó chủ tịch ủy ban Quốc gia về Khoa học và Kỹ thuật, tôi là Giám đốc Viện. Theo ý tưởng, viện này phải là một viện kiểu “RAND corporation” của Liên Xô: tập hợp các chuyên gia về tổ chức, những người nghiên cứu hệ thống, nghiên cứu triết học, toán học, kinh tế để triển khai các nghiên cứu lý thuyết và giải quyết những nhiệm vụ phức tạp nhất của quốc gia”. Vị trí của Dzermen Gvisiani, con rể của Koxygin, với đẳng cấp vô hình và hữu hình trong xã hội Xô Viết thời bấy giờ đã bảo đảm cho viện những mối quan hệ tốt, đồng thời cả quyền độc lập tương đối về tư tưởng. Lãnh đạo phòng thí nghiệm của viện là giáo sư Vadim Pavlinchenko. Làm việc tại đây có: Vladimir Garximovich, Olek Ananhin, Piotr Aven, Viachexlav Sironin, Marina Oditxova. Lĩnh vực nghiên cứu chính là quy luật phát triển cơ cấu kinh tế xã hội chủ nghĩa và so sánh đối chiếu các cải cách kinh tể ở các nước xã hội chủ nghĩa. Trong viện có một quy định rõ ràng là có thể thảo luận công khai bất cứ điều gì, song không bao giờ được phép công bố chính thức tại hội thảo khoa học. Ngoài ra còn Những nhóm tư vấn trực thuộc BCHTW ĐCS Liên Xô. Vào đầu những năm 1960 ở Vụ Quốc tế và Vụ Quan hệ các đảng công nhân và cộng sản các nước xã hội chủ nghĩa của BCHTW ĐCS Liên Xô có biên chế chức danh chuyên viên tư vấn và được tổ chức thành các ban tư vấn. Đến năm 1965 các ban này đổi tên thành nhóm tư vấn thực thuộc Vụ. Chức danh chuyên viên tư vấn tương đương với trưởng ban và những người lãnh đạo nhóm tư vấn tương đương với phó vụ trưởng. Sau này tổ chức viện tư vấn có cả trong vụ tư tưởng và các vụ khác của BCHTW ĐCS Liên Xô. Vào tháng 9 năm 1966 trong Vụ Tuyên truyền đã thành lập nhóm tư vấn theo quyết định của BCHTW với nhiệm vụ soạn thảo các tài liệu lý luận và chính trị. Các tiêu chuẩn chọn chuyên viên tư vấn là: hiểu biết rộng, có năng lực tư duy sáng tạo và khoa học, biết trình bày tư duy một cách sinh động và rõ ràng trên giấy. Những người đã từng làm chuyên viên tư vấn ở đây là: V. A. Alekxandrov, G. A. Arbatov, A. A. Beliacov, N. B. Bikkenin, A. E. Bovin, O. T. Bogomolov, F. M. Burlatxki, G. I. Geraximov, V. V. Zagadin, N. P. Kolicov, R. I. Koxolapov, E. Kuxcov, I. D. Lapchev, F. F. Petrenko, V. Provatorov, N. V. Sylin, P. N. Fedorov, A. I. Cherniaev, G. Kh. Sakhnazarov… Và giờ đây họ được đánh giá là “…nhóm tay sai giả trí thức, một bộ não rởm của ban lãnh đạo Breznev đã làm cho đất nước mất khả năng sử dụng tiềm năng khổng lồ”. Văn phòng chính thức trực thuộc L.I. Breznev. Chỉ có một nguồn khẳng định sự tồn tại, hoạt động và thành phần của nó khi gọi nó là “văn phòng hẹp” hay “văn phòng đen”. Thành viên của nó gồm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Liên Xô N. A. Selokov, Chánh văn phòng BCHTW ĐCS Liên Xô G. X. Pavlov, Phó vụ trưởng thứ nhất Vụ Công tác tổ chức – Đảng N. A. Petrovichev, Vụ trưởng Vụ Khoa giáo X. P. Trapeznicov. Viện các quan hệ quốc tế và kinh tế thế giới. Giám đốc đầu tiên của nó là A. A. Arzumanian, có vợ là em vợ của A. I. Mikoian (lúc đó là ủy viên Bộ chính trị BCHTW ĐCS Liên Xô, Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô). Số lượng cán bộ của viện là gần 300 người. Quan hệ giữa những người nghiên cứu với các phản biện của họ không hề đơn giản. Trong hồi ký của mình, viện sĩ G. A. Arbatov viết: “Chuyện xảy ra nhân việc có một tờ trình phê phán hình thức giúp đỡ của chúng ta đối với các nước đang phát triển. Arzumanian đã gửi tờ trình này với số lượng 50 bản tới “các cấp hữu quan”, trong đó có ủy ban quốc gia của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô về quan hệ kinh tế đối ngoại – nơi có nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu vấn đề giúp đỡ “Thế giới thứ ba”. Ban lãnh đạo của tổ chức này đã phàn nàn với M. A. Xuxlov. Xuxlov đã đưa việc này ra cuộc họp đảng bộ của viện: “Arazumanian, tôi và anh là những đảng viên lão thành, anh hiểu và biết cách bên phản biện hoạt động là viết ra các chương trình hành động và gửi chúng đi kèm theo kiến giải riêng của mình. Cách đó không hợp. Nếu anh soạn tờ trình thì hãy gửi cho chúng tôi một bản, còn chúng tôi sẽ quyết định chuyển nó cho những ai”. arzumanian đủ gan (và muốn “chơi trội” do có họ hàng với Mikoian và có khả năng xử lý xuất sắc các mối quan hệ, kể cả với cấp rất cao) dự báo lời chỉ trích ấy – ông ta vẫn tiếp tục soạn thảo và phân phát các tờ trình mang kiến giải riêng của mình đi các nơi. Rồi Viện Mỹ và Canada với tư duy ban đầu là một viện hàn lâm khoa học. Trong hồi ký mang tiều đề rất đặc biệt “Những giải thích cho bạn đọc ham hiểu biết. Về Viện Mỹ và Canada của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô”, Giám đốc viện là G. A. Arbatov viết rằng “Dự kiến khi thành lập viện là xây dựng một trung tâm nghiên cứu cơ bản không chỉ xuất bản sách và tạp chí của viên hàn lâm khoa học mà còn đưa ra các kết quả nghiên cứu thành những kết luận và kiến nghị thực tế, trước hết là trong lĩnh vực quan hệ Xô – Mỹ trên cơ sở luật quốc tế cho các nhà kinh tế học, chính trị học, sử học, xã hội học và những chuyên gia về vấn đề chiến tranh. Tôi cho rằng, ở mức độ nào đó, bản thân ý tưởng thành lập viện đã được gợi ra từ việc công bố (đôi lúc là quảng cáo) về công việc của Viện “RAND Corporation” Mỹ, của Viện Hudson của German Kan và những trung tâm nghiên cứu tương tự khác, cũng như đã được gợi ý ra từ những tin tức về những cái gì mà “họ”, tức ở Mỹ “và ở hàng chục viện nghiên cứu về Liên Xô ở Mỹ có”. Những cơ quan này và nhiều cơ quan nghiên cứu nước ngoài khác, rút cuộc đã rơi vào vòng ảnh hưởng phương Tây và trở thành những phát ngôn viên cho Mỹ. Ngay trong những năm trì trệ, các trung tâm, viện nghiên cứu này đã phát triển để cuối cùng biến tướng thành cầu nối các phân viện phân tích – thông tin của những nghiệp đoàn liên quốc gia. Tài liệu N°2. Cơ quan KGB của Liên Xô. 1953-1985. Trong quá khứ ủy ban An ninh quốc gia (KGB) Liên Xô đã có niềm vinh quang thực sự xứng đáng. Đặc điểm công tác của ngành an ninh là không chỉ hoàn thành điệp vụ mà còn không để lại bất cứ dấu vết nào kể cả trên mặt trận trong hay ngoài nước. Nhưng đặc điểm này cũng để lại mảng tối không tránh khỏi. Tiến hành phân tích trong lĩnh vực này cực kỳ khó khăn. Tính chất kín đáo của “Văn phòng mũi khoan xanh”, tính chất bí mật và những khái niệm như: “danh dự hiệp sĩ”, lời tuyên thệ, tình anh em, luôn buộc những con người làm công việc này trong công sở cũng như khi đã nghỉ hưu im hơi lặng tiếng về những gì họ được nghe, được thấy, được biết. ấn phẩm về cơ quan an ninh có rất nhiều, nhưng những gì ta muốn biết, như: trong KGB có sự phản bội; vì sao chúng ta đã thua trong “chiến tranh lạnh”; về áp lực trên toàn bộ đất nước hay hệ thống yêu nước Nga, … lại quá ít. Điều này cũng dề hiểu. Người ta đã từng ghê tởm, còn bây giờ, để tránh cơn phẫn nộ của nhân dân, đành thoát hiểm bằng luật bí mật. Để hiểu mâu thuẫn bên trong bất cứ cơ cấu nào, luôn cần