🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Ẩn Tuổi Thơ Ebooks Nhóm Zalo Bí Ẩn Tuổi Thơ Maria Montessori Nguyên tác: Il segreto dell'infanzia Người dịch: Nghiêm Phương Mai Dịch theo bản Anh ngữ: The Secret of Childhood của Barbara Barclay Carter, (1998), Sangam Books Limited, U.K. Nhà xuất bản: NXB Tri Thức Kích thước: 12 x 20cm Số trang: 382 trang Ngày xuất bản: 2015 ∞ ∞ ∞ ∞ ∞ Thực hiện ebook: Bố & Mẹ Bủm Xì Ngày hoàn thành: 17-06-2017 Nguồn: http://tve-4u.org Maria Montessori (1870-1952) Maria Montessori sinh ra ở Chiaravelle, nước Ý, và mất tại Noordwijk, Hà Lan. Bà là phụ nữ đầu tiên tốt nghiệp Y khoa Đại học Rome (1894). Năm 1899, bà bắt đầu nghiên cứu về các vấn đề giáo dục trẻ, dựa theo một số khái niệm do bác sĩ E. Seguin khởi xướng. Bác sĩ Montessori nhận thấy các phương pháp thử nghiệm thành công đối với các trẻ em có khuyết tật về tâm thần cũng có thể áp dụng cho trẻ em bình thường. Bà bắt đầu làm việc với trẻ em tại các trường tư và công lập ở Roma và nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của giới cải cách. Từ 1900 đến 1907, Maria Montessori giảng dạy về khoa Giáo dục nhân chủng học tại Đại học Roma và được bổ nhiệm làm thanh tra các trường học (1922) của nhà nước tại Ý. Bà viết sách về giáo dục mà bà đã khai triển. Bà thực hiện nhiều khóa huấn luyện cho các giáo viên ở Tây Ban Nha, Ấn Độ, Anh và Hà Lan. Ngày nay, hệ thống giáo dục mang tên bà do tổ chức Association Montessori Internationale (AMI) đại diện và giám sát, có mặt tại hơn 100 quốc gia trên thế giới đã góp phần tạo dựng một nền tảng thiết yếu và đích thực cho việc giáo dục trẻ nhằm xây dựng một thế giới hòa bình và tiến bộ cho con người. Dành tặng Mẹ Hiền Kính Yêu, Thương tặng các con VT, VL và gia đình cùng tất cả trẻ em Việt Nam Mục lục Lời tựa Dẫn nhập Phần I PHÔI THAI TINH THẦN Chương 1 ĐỨA TRẺ NGÀY NAY Chương 2 PHÔI THAI TINH THẦN Chương 3 TRÍ TUỆ ĐANG HÌNH THÀNH Chương 4 NHỮNG VIỆC NGƯỜI LỚN GÂY TRỞ NGẠI Chương 5 NHỊP ĐIỆU Phần II GIÁO DỤC MỚI Chương 1 VAI TRÒ CỦA NHÀ GIÁO Chương 2 PHƯƠNG PHÁP CỦA CHÚNG TÔI Chương 3 NHỮNG ĐIỀU ĐÃ ĐƯỢC KHAI TRIỂN THÊM Chương 4 NHỮNG LỆCH LẠC TÂM THẦN Phần III ĐỨA TRẺ VÀ XÃ HỘI Chương 1 HOMO LABORANS - CON NGƯỜI LAO ĐỘNG Chương 2 ĐỨA TRẺ TRONG VAI TRÒ CHỦ NHÂN Lời tựa Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Nguyên tác tiếng Ý cuốn Bí ẩn tuổi thơ của bác sĩ Maria Montessori xuất bản lần đầu tiên năm 1936. Ngày nay, nếu không lưu ý rằng bác sĩ Maria Montessori sinh ra và lớn lên tại Âu châu cuối thế kỉ 19 “đầu thế kỉ 20, độc giả có thể sẽ bỡ ngỡ vì văn phong, ngôn từ và cách diễn đạt tư tưởng của tác giả. Có lẽ điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì tự thân mỗi con người là kết quả của thời đại và môi trường, nơi họ sinh ra và lớn lên. Xuyên qua lớp vỏ văn phong mang đậm sắc thái của một con người sinh trưởng ở nơi đạo Công giáo Roma ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt hằng ngày của xã hội, cái cốt lõi thâm thúy có giá trị đại đồng và có tính khai phá của đường lối giáo dục trẻ thơ của bác sĩ Maria Montessori ngời sáng với những nguyên tắc giáo dục mang tính phổ quát mà nền tảng là những quan sát và phân tích khoa học khách quan. Với bác sĩ Maria Montessori, có lẽ quan niệm thần học về Thiên Chúa vô hình “nhập thể” mang lấy thể xác và thân phận con người để cứu rỗi nhân loại khỏi Tội tổ tông ngõ hầu phục hồi bản chất nguyên thủy cao trọng của con người, kẻ mang hình ảnh của Thiên chúa, là một tư tưởng khá quen thuộc. Maria Montessori đã sử dụng ý niệm “nhập thể” này để đề cao vai trò rất cao quý của trẻ thơ là “Cha của Con người” do tiềm năng vô song của đứa trẻ có thể đổi mới nhân loại. Maria Montessori đồng thời cũng nhấn mạnh đến bản chất sâu sắc của đứa trẻ dưới sáu tuổi, khi “tâm thức hấp thụ” (hay trí tuệ thấm hút) của đứa trẻ hoàn toàn khác biệt với trí óc của người lớn. Cái tâm thức này có khả năng tiếp thu tất cả những gì xung quanh nó để kiến tạo nên cá tính của đứa trẻ. Dù các “giai đoạn mẫn cảm” này có tính đoản kì, chồng qua, đôi khi khó nhận ra, chúng lại có tầm quan trọng tiên quyết về mặt định hình nhân cách và cá tính của trẻ sau này. Maria Montessori đưa ra quan điểm rằng chúng ta cần cung cấp cho đứa trẻ một “môi trường dược chuẩn bị” với đầy đủ các yếu tố thiết yếu cho sự tự kiến tạo của trẻ. Trong môi trường này, các học cụ đều mang tính phản hồi, qua một cơ chế “tự kiểm tra sai lầm” giúp trẻ tự diều chỉnh, tự xác định sự thành công và tiến bộ của bản thân mà không cần đến sự can thiệp của người lớn. Nhờ vậy đứa trẻ tự quyết định, tự giải quyết thách thức, do đó củng cố ý chí và gia tăng lòng tự tin và tự trọng. Trong “môi trường được chuẩn bị”, sự “bình thường hóa” là một quá trình tự nhiên xảy ra, mang lại một trạng thái thăng bằng về trí tuệ, thể chặt và tinh thần khi đứa trẻ có cơ hội được tự do vận động, hoạt động hồn nhiên và tự phát để thỏa mãn các nhu cầu của trẻ. Độc giả đôi khi cũng sẽ gặp thuật ngữ “thiên nhiên-trên-thiên nhiên” (supranature), với cụm từ này, Maria Montessori muốn nói đến những gì đã được thêm vào, khuếch trương hay triển khai từ thiên nhiên, về mặt văn hóa, xã hội và khoa, học kĩ thuật, dọ biến đổi của nhu cầu, tri thức và sức sáng tạo theo tiến hóa của con người. Hơn 100 năm qua cũng như hiện nay, triết lí và phương pháp giáo dục Montesssori được thử nghiệm và kiểm chứng từng giờ, từng phút khắp địa cầu, từ Ngôi Nhà của Trẻ ở New York hay Paris đến Làng Trẻ Tây Tạng ở Dhamrasala hay ngôi trường làng các trại tị nạn ở Phi châu, từ những trung tâm cho trẻ em của những cộng đồng thổ dân ở Torres Strait của Úc châu cho đến các trường mẫu giáo ở Hàng Châu hay ở Thái Lan. Điều này cho thấy các thuật ngữ xem chừng như lạ lẫm trong các tác phẩm của Maria Montessori đã trở thành kinh điển quen thuộc cho giới quan tâm đến việc giáo dục trẻ em trên thế giới; chúng không hề là rào cản đối với những ai muốn tìm hiểu và áp dụng đường lối giáo dục Montessori. Lối giáo dục này hiện nay đã được nghiệm chứng bởi các khám phá mới nhất do các nghiên cứu khoa học về phát triển não bộ, về thần kinh học, về tâm lí học và di truyền học v.v. Dịch giả đã cố gắng trung thành với nguyên tác, về nội dung và về văn phong đặc thù của Maria Montessori. Hiểu rõ một số thuật ngữ thường gặp trong các tác phẩm của bà sẽ giúp độc giả tiếp cận dễ dàng hơn với tư tưởng của bác sĩ Maria Montessori. Chúng tôi cảm ơn bà Sandra Girlato, Giám đốc và giảng viên Trung tâm Huấn luyện của AMI tại Toronto (Canada) đã viết lời dẫn nhập cho bản dịch và góp phần lí giải một số thuật ngữ của Maria Montessori. Chúng tôi cảm ơn nhà giáo Phạm Toàn đã góp ý và hỗ trợ một phần trong việc hiệu đính, và cảm ơn Nhà xuất bản Tri thức, đặc biệt là Ban biên tập đã làm việc rất cẩn trọng trong vai trò của mình. Mong rằng các tác phẩm của Maria Montessori, được giới thiệu rộng rãi đến độc giả qua các bản địch do Nhà xuất bản Tri thức xuất bản, sẽ đem đến cho độc giả những kiến giải độc đáo và mở ra hướng đi mới cho nền giáo dục trẻ em của chúng ta. Nghiêm Phương Mai Dẫn nhập Tôi đọc quyển II segreto deiv irifanzia (Bí ẩn tuổi thơ) ở tuổi 15. Bản nguyên tác bằng tiếng Ý là một quyển sách đã thay đổi cuộc đời tôi. Lời văn thấm sâu vào tâm hồn non trẻ của tôi và thúc giục tôi tiến bước, đem đến cho tôi niềm hi vọng rằng đã có người hiểu được trẻ thơ, hay hơn thế nữa, đã có kẻ hiểu được nhân loại. Tôi còn nhổ đã cảm thấy mình phải đọc lại quyển sách ngay khi vừa đọc xong, bởi mỗi chữ, mỗi đoạn đều mang ý nghĩa sâu sắc mà tôi không thể nắm bắt hết được nếu chỉ đọc qua một lần. Tác giả, bác sĩ Maria Montessori được biết đến là nữ bác sĩ đầu tiên ở Ý, nhưng điều quan trọng hơn là với tác phẩm này, bà nổi bật trong vai trò của một nhà khoa học nghiên cứu sự phát triển của con người nhằm mục đích đem đến những môi trường bảo vệ và nâng cao con người đang tăng trưởng. Chín năm sau, tôi gặp Renilde Montessori, cháu nội gái trẻ nhất của bác sĩ Maria Montessori, và bắt đầu hành trình tìm hiểu về Montessori của mình. Renilde là người đã hướng dẫn tôi ngay từ ban đầu, cho tôi cơ hội trực tiếp không những để thấu hiểu phương pháp của Montesssori mà còn để hiểu được người phụ nữ đằng sau phương pháp ấy, bà nội của bà. Renilde là người bạn và là cố vấn tin cậy của tôi, cả về phương diện nghề nghiệp lẫn phương diện cá nhân, khi khai mở thế giới Montessori cho tôi. Tôi tiếp tục sự nghiệp của bà tại Trung tâm Foundation for Montessori Education ở Toronto, Canada, và luôn biết ơn bà đã cho tôi cái thoáng nhìn hiếm hoi vào thế giới Montessori từ một góc độ sâu xa và riêng tư. Renilde qua đời năm 2012, do đó đề tặng lời dẫn nhập này đặc biệt cho bà là điều thích đáng. Tác phẩm cơ bản này (Bí ẩn tuổi thơ) được xuất bản lần đầu vào năm 1938, nó giúp độc giả biết được những điều bí mật: những bí mật có thể quan sát được bởi người quan sát kiên nhẫn, khách quan, quan tâm và nhân ái. Thật vậy, cuốn Bí ẩn tuổi thơ trình bày các nguyên tắc mấu chốt của triết lí Montessori. Phần đầu của quyển sách đưa ra rất nhiều bằng chứng khoa học và tâm lí cần thiết để đưa trẻ thơ vào vị trí của một nguồn lực được khảo sát và kính trọng. Đối với một sinh linh chỉ được xem là một sự phóng to, Montessori khẩn cầu chúng ta nên tỏ ra “tôn kính bậc thầy của sáng tạo”. Ngày nay, chúng ta vẫn còn vất vả để tìm hiểu tất cả những sự kiện khoa học xung quanh đứa trẻ sơ sinh. Bé thật đẹp đẽ, thật dễ thương, thật ngây thơ, thật mê hoặc đến nỗi chúng ta chóng quên rằng đằng sau dáng vẻ non nớt bên ngoài của nó là một sức mạnh nội tại tương tự nền móng của những đá tảng nguyên khối hay nền tảng của những nền văn minh lớn. Có lẽ chính việc là một bác sĩ y khoa đã cho phép Montessori mô tả các thời kì mẫn cảm ở đứa trẻ đang lớn. Ngày nay chúng ta có thể chọn các từ ngữ khác nhau để bàn luận về các bản năng nhất thời đã khiến con người đang phát triển được thúc đẩy hướng đến các sinh hoạt đã ấn định. Khoa học thần kinh hiện đại tập trung vào các cơ hội cho phép trẻ sơ sinh được biến đổi từ một khối điện năng khuếch tán với những phản ứng tổng quát đối với thế giới bên ngoài thành một đứa trẻ sẽ có khả năng hoạch định và thực hiện những hành động đặc thù có ý thức tác động lên thế giới xung quanh. Bác sĩ Montessori đã suy luận nhiều về cái tri thức này trước khi người ta có thể chứng minh được nó bằng khoa học kĩ thuật, và bà còn tuyên bố rằng đứa trẻ có một tâm thức hoàn toàn khác người lớn - đó là tâm thức hấp thụ. Sự tôn trọng mãnh liệt sự sống của con người, mối quan tâm sâu sắc đến sự hỗ trợ cho phát triển con người và các kĩ năng của một quan sát viên khoa học đã cung cấp cho bà bằng chứng về đời sống nội tâm và quá trình tự hình thành của đứa trẻ. Bác sĩ Montessori cho chúng ta mục đích để suy tư và động lực để hành động. Bà cho thấy con trẻ của loài người không sinh ra trong thế giới với sự hiểu biết về cách để sống hay để là thành viên của một cái gì đó. Không như các con non của các loài khác luôn tuân thủ các định luật về bản năng và có đời sống được chỉ đạo bởi đường lối gián tiếp của sự chuyên hóa, con trẻ của chúng ta hoàn toàn nguyên sơ khi sinh ra, sẵn sàng sáng tạo ra khả năng mới, và được thiên nhiên khéo léo phú cho những tiềm năng độc đáo. Con trẻ của chúng ta là những bậc thầy xây dựng nên bản thân và tập thể, bởi con trẻ là niềm hi vọng của cái sẽ đến. Hãy tưởng tượng rằng với mỗi đứa trẻ, chúng ta được chúc phúc bởi vì một thế hệ mới đã sinh ra, một viễn tượng mới trở thành khả dĩ và một lịch sử mới có thể được khám phá. Là người lớn, chúng ta phải tôn kính vì đấng cứu tỉnh của chúng ta đang đi giữa chúng ta trong hình hài của trẻ sơ sinh. Sự tôn kính không phải do mù lòa như niềm tin của những kẻ chìm đắm trong sự ngu dốt, nhưng phải được thấm nhuần hiểu biết về cách phát triển của con người mới này. Chúng ta phải nhận ra các tiềm năng của trẻ sơ sinh, như thể nó là một kẻ hành hương với hành trang cần thiết để hoàn tất một hành trình đặc biệt. Là người lớn, chúng ta có trách nhiệm đối với hành trình vĩ đại này, và trách nhiệm đó là có được kiến thức và hiểu biết về trẻ sơ sinh, về trẻ thơ, và hơn nữa là có phương tiện để hỗ trợ, che chở và tạo ra những môi trường có chuẩn bị cần thiết mà từ đó đứa trẻ sẽ tìm được những chất liệu thiết yếu để hoàn tất công việc của nó: đó là công việc sáng tạo ra một con người độc lập bên trong một thế giới của tương quan. Con người, kẻ chinh phục vĩ đại, nhà ngôn ngữ học tuyệt vời và kẻ sáng chế phi thường, trong thời kì sơ sinh, lại yếu kém hơn mọi loài khác, bị lệ thuộc và đòi hỏi sự chú ý và chăm sóc kĩ lưỡng. Tuy nhiên, từ một khởi đầu chậm chạp như thế, chúng ta thấy con người cuối cùng trở thành kẻ biến đổi thế giới của chính nó và thế giới tự nhiên. Những khởi đầu thanh đạm tương phản với các sự chinh phục tối hậu của nó. Bác sĩ Montessori chỉ ra rằng “người lớn chúng ta được giàu có bởi chúng ta là những kẻ thừa kế của trẻ thơ; kẻ đã đem lại các nền tảng của đời sống từ cái không có.” Con người đã hoàn tất mà ta hầu như khó nhận ra được, đã sử dụng các sáng tạo trọng yếu nhất ở giai đoạn đầu đời trong sáu năm đầu tiên của cuộc đời của nó. Và sự sáng tạo quan trọng nhất, cái sẽ không bao giờ có thể hoàn thành trở lại trong đời người, đó là sự sáng tạo để trở thành một con người của không gian, thời gian và văn hóa của nó. Không một loài nào, không một động vật nào, không một sinh vật nào có thể làm được như vậy. Sự xây dựng độc đáo và xuất sắc này tạo nên mối quan hệ của con người đối với chính nó và với những kẻ xung quanh trong suốt phần còn lại của cuộc đời nó. Sinh linh bé nhỏ, trẻ sơ sinh, có vẻ yếu ớt, thực ra có sức lực để phát triển tất cả các phẩm chất thiết yếu để đồng hành với những kẻ khác. Thiên nhiên, vĩ đại và tinh thông, ban cho trẻ sơ sinh với bề ngoài tuy mong manh, nhưng sâu thẳm bên trong, một quyền năng phát triển bản thân và khả năng biến đổi cả nhân loại. Nếu trẻ thơ là kẻ sáng tạo, thì chúng ta là người lớn phải cung cấp những phương tiện mà qua đó vị thần linh này có thể hoàn thành sứ mệnh trần gian của mình. Không mù quáng như thành viên của một giáo phái, không thụ động như kẻ kinh ngạc bên đường, không khờ dại như những kẻ thiếu hiểu biết, hay ngu dốt như những kẻ không hiểu rõ, nhưng là những người ủng hộ một quá trình luôn lặp lại với từng con người mới. Bác sĩ Montessori nhắc chúng ta rằng “nay chính người lớn là một thành phần của môi trường của trẻ thơ; người lớn phải tự điều chỉnh theo các nhu cầu của đứa trẻ nếu không muốn mình là một chướng ngại cho trẻ và không muốn thay thể đứa trẻ trong các hoạt động thiết yếu cho sự tăng trưởng và phát triển.” Con trẻ hấp thụ và không phân tích những cái xung quanh chúng, bởi chúng đang trong thời kì của tâm thức hấp thụ. Montessori thúc giục chúng ta nên hiểu rằng đấy là “một Cuộc sáng tạo đang luôn luôn trong quá trình hiện thực hóa, một năng lượng xây đựng luôn luôn mới mẻ, một sự lao động nhập thể của tinh thần không ngừng nghỉ. Do đó cá tỉnh con người tự hình thành chính nó, giống như phôi thai (thể chất), và đứa trẻ trở thành đấng sáng tạo ra con người, là cha mẹ của con người”. Đứa trẻ đang trong quá trình tự kiến tạo. Thời kì này sẽ luôn được khắc sâu trong tiểu sử của mỗi người. Trong cuộc đời của mình, chúng ta sẽ không bao giờ viết lại được chương sách này, bởi phần lớn, chúng ta hầu như không hề ý thức được cái đã viết trong bản hồ sơ lưu lại vĩnh viễn này. Vậy mà sự hiện hữu của thời kì này lại ảnh hưởng lên mỗi chi tiết, mỗi quyết định và mỗi khía cạnh trong cá tính của chúng ta. Chính trong thời kì đầu tiên này mà đứa trẻ cần một môi trường rộng lớn hơn ở nhà. Trong khi cuộc sống gia đình cung cấp các yếu tố cần thiết cho sự gắn bó đầu tiên của trẻ với thế giới, bây giờ trẻ cần hoàn thành phần hành trình chỉ có thể hoàn tất bằng cách ở chung với những kẻ không có quan hệ với nó, kẻ không nhất thiết chấp nhận nó một cách vô điều kiện, kẻ sẽ không hoàn toàn chịu sự sai khiến của nó, nhưng hẳn sẽ cho nó những cơ hội trao đổi về mặt xã hội. Nó phải ở một nơi có thể giúp cá thể hòa nhập vào tập thể. Vì vậy nó phải vào một môi trường đã được phát triển một cách đặc biệt và khoa học - đó là Ngôi Nhà của Trẻ (La Casa del Bambini). Người lớn phải ngày càng ý thức hơn về các môi trường nơi trẻ con của mình sẽ sinh sống, học tập, và quan trọng nhất là nhận thức được rằng những điều xảy ra trong những môi trường đầu tiên này không trở thành một lớp đắp hời hợt bên trên tâm lí của trẻ, nhưng chúng sẽ vẫn tồn tại như một yếu tố sâu sắc bên trong chính bản ngã của đứa trẻ. Ngôi Nhà của Trẻ không phải là một thiết kế ngẫu nhiên, dựng lên một cách tùy tiện với sự áp đặt chủ quan. Ngược lại, Ngôi Nhà của Trẻ là một không gian được suy tính, cân nhắc kĩ lưỡng. Tôi quả quyết rằng không phải vô lí khi cho rằng Ngôi Nhà của Trẻ, với thiết kế thông minh, là một nơi ẩn náu cho đứa trẻ từ ba đến sáu tuổi. Theo thời gian, không gian và theo từng nền văn hóa, Ngôi Nhà của Trẻ đã tự chứng minh là chốn an toàn nuôi dưỡng cái linh hồn của thể chất, trí khôn và tâm linh của đứa trẻ. Có phải bác sĩ Montessori đã thiết lập nên khung cảnh này không? Không, hoàn toàn không, chính trẻ em đã và đang lập ra nó, nhưng chính thiên tài của bác sĩ Montessori đã nhận ra cái mà trẻ em đang tìm kiếm và bà đã đáp ứng các nhu cầu của trẻ. Bác sĩ Montessori, không phải với trí óc của một thuyết lí gia, mà với trí tuệ và tinh thần của một khoa học gia; luôn kiên nhẫn, khách quan, nhũn nhặn và đầy khiêm tốn, đã tìm cách học hỏi từ đối tượng bà đang quan sát và đã có thể khám phá ra những phẩm chất bị ẩn giấu trong con người đang lớn cho đến lúc được bà nhận ra. Thực vậy, qua hành động độc đáo là cung cấp những môi trường tối ưu cho trẻ em, bác sĩ Montessori đã cho chúng ta thấy rằng đạo đức là đóng góp vào sự hoàn thiện hóa nhân loại. Nếu chúng ta nhận ra cái tiềm năng nằm trong thời thơ ấu, chúng ta có thể bắt đầu quá trình thay đổi cái dòng lịch sử của chính chúng ta và của những kẻ sẽ đến sau chúng ta trong thế giới này. Renilđe Montessori, trong bài “Educateurs sans Frontières” (Giáo dục không biên giới) đã khẳng định “Hãy nhìn đứa trẻ, hãy theo chấn đứa trẻ, cùng với trẻ vâng theo các lời hướng đẫn nội tại của trẻ; cung cấp những môi trường nơi trẻ có thể tăng trưởng mạnh mẽ, phát triển và hoàn tất cái tiềm năng phi thường và vô biên của nó ví lời tiên đoán về một tương lai lành mạnh cho giống loài của chúng ta nằm chính bên trong đứa trẻ“. Điều mà bác sĩ Montessori đã nhìn thấy là một quang cảnh có hệ quả khó quên, thật rõ ràng đến nỗi bà thay đổi cả cuộc đời của mình để tranh đấu cho quyền lợi của tất cả trẻ thơ, tự cống hiến cho nhiệm vụ đánh thức trong tất cả chúng ta khả năng để nhìn thấy. Bà nói, “Trẻ thơ là cha mẹ của con người“. Cái chúng ta cần để hiện hữu như những con người có năng lực, thành công và hiệu quả trên hành tinh này, đang sinh sống và lao động bên trong cái kiến trúc của con người, nơi kết hợp sự đồng dạng với sự đa dạng, là cái đã khởi sự từ lúc mới sinh ra đến năm sáu tuổi. Mỗi đứa trẻ phải sáng tạo ra chính cơ thể, chính trí tuệ và chính tinh thần của nó. Mỗi đứa trẻ đứng ồ khởi đầu của cuộc đời của nó. Montessori nói, “Đứa trẻ không đơn thuần là khởi đầu của một cơ thể con người, hay chỉ là khởi đầu của linh hồn một con người. Đứa trẻ đứng ở cái điểm nơi mà tất cả những gì con người thật sự là và phải là có thể được bộc lộ - thậm chí một cách dễ dàng và đẹp đẽ.” (Hội thảo Montessori Quốc tế, London). Đứa trẻ sẽ không mãi mãi là kẻ ba tuổi nhưng một ngày kia sẽ là một người lớn ba mươi, bốn mươi và năm mươi tuổi. Tất cả chúng ta đều suy nghĩ, vì đó là bản chất của chúng ta, nhưng chúng ta phải ý thức được rằng suy nghĩ của chúng ta có thể bị lệch lạc, méo mó, đồng bộ hay bị định kiến, vậy mà, phẩm chất đời sống của chúng ta và của con cái chúng ta sẽ dựa trên phẩm chất tư duy của chúng ta một cách trực tiếp và sâu sắc. Chúng ta phải hoàn hảo trong tư tưởng, bởi vì tư tưởng của chúng ta biến thành lời nói, và lời nói thành hành động, và hành động thành thói quen và thói quen thành cá tính; và trong cuộc đời này, tất cả cái ta có là cá tính bởi chính cá tính quyết định vận mệnh của chúng ta. Vì thế, người làm công tác giáo dục là một con dao hai lưỡi, chúng ta là những kẻ với tất cả sự hoàn hảo và bất toàn của mình, với tất cả tiềm năng mà cũng với tất cả thất bại của chúng ta. Nay chúng ta đã chọn ở với con người mới, con người non trẻ hiện hữu trong tiềm năng của nó. Chuẩn bị môi trường hữu hình hoàn hảo là chưa đủ, mà chúng ta còn phải chuẩn bị môi trường phí vật thể nữa. Môi trường hữu hình cụ thể, các sinh hoạt khác nhau, với rất nhiều món đồ, vật liệu đã được chế tạo ra: những món thủ công, bàn ghế, kệ tủ, cả căn phòng nữa, với cửa sổ và cửa ra vào. Những thứ chúng ta có thể xây đựng, mua, sơn, sửa, lau chùi và đánh bóng. Chúng tạ biết rất nhiều về những gì mà một môi trường được chuẩn bị nên có: bao nhiêu khu vực cụ thể cần phải có giữa các bức tường, loại sách phải để trên kệ, hay cả những từ ngữ nào là cần lưu lại. Cái phần hữu hình là cái chúng ta thấy, nhưng nó không hẳn là thành phần xác định sự thành công của đứa trẻ trong không gian đó, bởi có một yếu tố mạnh mẽ hơn bên dưới bất cứ điều gì có giá trị về mặt vật chất, và đó chính là môi trường phi vật thể. Cái phi vật thể sẽ trở thành nhân tố hỗ trợ sự phát triển lành mạnh và toàn diện của đứa trẻ. Là người lớn trong thế giới của đứa trẻ, dù với tư cách nhà giáo hay cha mẹ, cô hay thím, chú hay bác, hay dì, cậu, bạn bè, hàng xóm hay ngay cả những người xa lạ, chúng ta sẽ có một trong những ảnh hưởng lớn nhất lên tính khí của đứa trẻ. Montessori nó Ị, “Chúng ta thấy người lớn đã bỏ thời thơ ấu của họ lại sau lưng nhưng lại tự đặt vấn đề làm sao đề giáo dục đứa trẻ về mặt đạo đức và tôn giáo. Việc đào tạo chuẩn bị người thầy (người lớn) trong trường hợp này, có tầm quan trọng sâu sắc, bởi người ấy cố tinh luyện về mặt lương tâm hay không? và giả dụ nếu người ấy có lương tâm, họ có biết những con đường của kỉ luật nội tâm, qua đó ân lành lan tòa bằng chính các suối nguồn của nó hay khống. Tất cả chúng ta đều tin rằng chúng ta có đạo đức và lương tâm nhạy cảm; tuy nhiên rõ ràng là chúng ta chưa đạt được mức tỉnh tế như thế, để có được sự nhạy bén đặc biệt này với sự tành mạnh của lương tâm song song với sự nhạy cảm bên ngoài”. (Bài thuyết trình ở Khóa Huấn luyện Montessori Quốc tế Đầu tiên). Tất cả trẻ em sẽ cho chúng ta những “sự bất ngờ về tính cá nhân”. Trẻ em thật thà, cởi mở và linh động. Chúng thiết tha sôi nổi, tràn đầy từ tâm và đồng cảm sâu sắc hơn bất cứ người lớn nào. Nếu người lớn chúng ta, ít nhất không ngăn cản tinh thần vui tươi, và sự chính trực không khoan nhượng của chúng, chúng ta có thể sẽ học được nhiều điều từ trẻ thơ. Trẻ em làm bạn dễ dàng và nhanh chóng, chúng không phân biệt màu da, tôn giáo, địa vị xã hội, khuyết tật hay yếu kém. Chúng dường như không để ý đến quá trình mà mỗi em đang thực hiện, mà chỉ giúp đỡ khi cần thiết và tán dương sự thành công của người khác, chúng chưa phải là người lớn bị thu nhỏ nhưng là sự hứa hẹn của một đời sống tốt hơn với sự huy hoàng của nó. Nếu chúng ta theo dõi trẻ em trong một môi trường đặc biệt đã được tạo ra cho riêng chúng, chúng ta sẽ thấy có hi vọng cho nhân loại. Montessori thúc giục chúng ta, “Người lớn, không ý thức về sự lao động bí ẩn nậy, có thể phá tan hình mẫu tiên khởi trong tâm thức của đứa trẻ, như biển cả khi tràn vào bờ cát sẽ mang theo tất cả những lâu đài cát, khiến những kẻ xây lâu đài trên cát phải luôn bắt đầu lại từ đầu”. Chúng ta biết rằng bất cứ điều gì còn lưu lại như một năng lượng bị sai hướng sẽ mãi mãi giống như một sợi dây điện đang tải điện, bắn ra một cách vô ích, làm khổ kẻ xung quanh, chúng ta biết rằng những thòi kì mẫn cảm bị bỏ đói kích thích sẽ khiến con người luôn thiếu dinh dưỡng, không bao giờ có khả năng tiếp nhận thức ăn tinh thần ở bất cứ bình diện phát triển nào khác; chúng ta cũng biết trẻ em bị tổn thương sẽ tiếp tục quậy phá như đó là cách hành xử của chúng. Chúng ta hiểu rằng những trẻ em thiếu động lực cần thiết để tương tác với môi trường và sợ hãi môi trường sẽ khó phát triển và không thích ứng được về mặt xã hội; William Blake tuyên bố, “Nếu các cánh cửa nhận thức được thanh tẩy, mọi thứ sẽ hiện ra cho con người đúng như cái nó là: vô tận. Bởi con người đã tự khép kín, cho đến khi nó thấy mọi sự qua những khe hở chật hẹp của cái hang của nó” (Giáo dục tâm hồn). Chúng ta biết con người không phải được tạo ra trong giây lát hay trong một khoảnh khắc, nhưng con người là kết quả của từng trải nghiệm, từng nỗ lực và từng xây dựng, và chúng ta phải ý thức rằng nền tảng vững chắc và sâu sắc nhất cho kẻ trưởng thành xảy ra trong thời gian của tâm thức hấp thụ một cách vô thức. Ảnh hưởng vĩnh viễn của thời kì này lên cá tính con người là không thể phủ nhận. Montessori nhắc chúng ta rằng, “Một khoa học phải được hình thành để nghiên cứu việc này trong từng giai đoạn của nó: Nghiên cứu sự kiến tạo con người qua đứa trẻ đang xẩy nên ‘con người-sẽ là’ của tương lai qua trải nghiệm. Bất cứ nơi nào có con người, ở đó trẻ em ra đời. Và nếu chúng ta lôi cuốn được tình yêu và sự quan tâm của những người nam và nữ đối với trẻ thơ; chúng ta phải nhô rằng không phải đối với đứa trẻ mà chúng ta muốn kêu gọi sự chứ ý của họ nhưng đối với những người nam và nữ mà một ngày kia sẽ là những người lớn, những người lớn chỉ mới tiến lên con đường hướng thượng; và đối với những đám người lớn đã và sẽ sản xuất ra (qua nhiều thế kỉ) tất cả những điều kì diệu đã từng được sáng tạo để hình thành ra văn minh” (Giáo dục là một hỗ trợ cho sự sống). Trong quyển Bí ẩn tuổi thơ, Montessori tránh xa các quan điểm giáo dục truyền thống để chỉ ra một hướng đi mới cho thấy rằng giáo dục không chỉ là trao truyền lại kiến thức từ một cá thể này cho một cá thể khác, mà là để tìm cách khai phóng tiềm năng của con người. Hãy nhìn xung quanh, đây là các con trẻ của chúng ta. Bây giờ là người lớn nhưng đã từng là những em bé của những năm về trước. Người lớn được sinh ra hai lần, một lần do thể chất và một lần do môi trường. Ra khỏi cơ thể của người mẹ và ra khỏi các giới hạn của cái ‘thiên nhiên-trên-thiên nhiên’ (supranature). Trong tác phẩm rất quan trọng này, Montessori đã sử dụng một cách tài tình khả năng tuyệt vời về quan sát và nhận thức, tầm hiểu biết của bà về y học, tâm lí và nhân học để hướng dẫn chúng ta một cách thuyết phục và khéo léo đến sự hiểu biết thu hút mối quan tâm của chúng ta đối với trẻ thơ với thấu thị mới mẻ, cái hiểu biết sẽ cho ta thấy những công dân tận tâm, vẹn toàn, thông minh, tự quyết, tự tin và có khả năng mang đến một xã hội hòa bình. Sandra Girlato, Giám đốc Trung tâm Huấn luyện Foundation for Montessori Education, Toronto. 16 tháng 3, 2013 Phần I PHÔI THAI TINH THẦN Chương 1 ĐỨA TRẺ NGÀY NAY Thế kỉ của trẻ Sự tiến bộ nhanh chóng đến mức đáng kinh ngạc, những năm gần đây, trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em có thể một phần do nguyên nhân chất lượng cuộc sống nói chung được nâng cao, song phần nhiều hơn nữa còn do lương tri con người đã thức tĩnh. Không những mối quan tâm đến sức khỏe trẻ em ngày càng gia tăng (điều này đã bắt đầu từ thập niên cuối của thế kỉ 19) mà một ý thức mới về nhân cách của đứa trẻ, được xem là cái tối quan trọng, cũng đã hình thành. Ngày nay không thể nghiên cứu sâu bất cứ lĩnh vực nào của y khoa, triết học hay xã hội học nếu bỏ qua những đóng góp nhờ sự hiểu biết về đời sống của đứa trẻ. Tương tự, nhưng ở mức độ thấp hơn, đó là ánh sáng chiếu rọi từ khoa phôi thai học lên sinh lí học nói chung và lên sự tiến hóa. Nhưng việc nghiên cứu đứa trẻ không chỉ về thể chất mà còn về tâm lí còn có thể có tầm ảnh hưởng rộng lớn hơn đến vô cùng, bao trùm tất cả những vấn đề của con người. Trong tâm trí đứa trẻ, có thể chúng ta sẽ tìm thấy chìa khóa dẫn đến sự tiến bộ, và biết đâu đấy đến cả cuộc khởi đầu của một nền văn minh mới nữa. Nhà thơ, tác giả người Thụy Điển Ellen Key tiên đoán thế kỉ của chúng ta sẽ là thế kỉ của trẻ thơ. Nếu có ai kiên nhẫn tìm kiếm trong những tài liệu lịch sử hẳn sẽ bắt gặp những tư tưởng tương tự trong bài Diễn văn Đức vua lần đầu tiên của vua Victor Emmanuel III nước Italia vào năm 1900, ở ngưỡng cửa thế kỉ (20) khi ngài lên ngôi, sau vụ ám sát người tiền nhiệm, ông đã nói đến một thời đại mới bắt đầu với thế kỉ mới và cũng đề cập đến nó như là “Thế kỉ của Tuổi thơ”. Có vẻ như những cái nhìn thoáng qua nhưng lại gần như tiên tri này đã nảy sinh từ ấn tượng tạo ra bởi các cuộc khảo sát khoa học trong những thập niên cuối của thế kỉ 19, từ hình ảnh đứa trẻ bệnh hoạn được khảo sát, với tỉ lệ tử vong vì bệnh truyền nhiễm cao gấp mười lần so với người lớn, hay từ hình ảnh đứa trẻ là nạn nhân của chế độ học đường khắc nghiệt. Không ai có thể tiên đoán được rằng trẻ thơ nắm giữ toàn bộ bí mật về sự sống trong chính bản thân nó, có thể vén lên bức màn bao phủ những bí ẩn của tâm hồn con người, rằng đứa trẻ biểu thị cả một khối lượng những điều chưa được biết mà nếu khám phá ra, có thể giúp người lớn giải quyết những vấn đề cá nhân và xã hội của họ. Có thể, khía cạnh này đủ làm nền tảng cho một ngành khoa học mới nghiên cứu về trẻ em, có khả năng ảnh hưởng đến toàn thể đời sống xã hội của con người. Trẻ em và phán tâm học Phân tâm học đã mở ra lĩnh vực nghiên cứu cho đến nay vẫn chưa được biết đến, rọi sáng lên những điều bí mật của tiềm thức, nhưng lại không đưa ra những giải pháp thực tiễn cho những vấn đề cấp bách của cuộc sống thực tế. Tuy nhiên, nó có thể góp phần vào việc giúp chúng ta hiểu được nhiều điều khi đi vào cuộc sống còn ẩn khuất của đứa trẻ. Có thể nói phân tâm học đã xuyên thủng lớp vỏ của miền ý thức mà tâm lí học từng nghĩ là không thể nào xuyên qua - ne pỉus ultra, giống như những Cột trụ của Hercules trong lịch sử cổ đại mà các thủy thủ Hi Lạp do mê tín từng coi là những giới hạn thực sự của thế giới. Phân tâm học đã thăm dò đại dương của miền vô thức. Không có khám phá này, có lẽ sẽ khó mà giải thích cho mọi người vì sao hiểu sâu được tâm trí của đứa trẻ lại có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn về các vấn đề của con người. Như chúng ta đã biết, phân tâm học ban đầu là một kĩ thuật mới để điều trị các chứng bệnh tâm thần và do đó là một nhánh của y khoa. Nó đã đem đến một khám phá thật sự rọi sáng lên sức mạnh của vô thức đối với các hành động của con người. Nó nghiên cứu những phản ứng tâm lí đằng sau cái ý thức, những phản ứng phô bày các yếu tố ẩn tàng ra ánh sáng và những thực tại không ngờ, làm đảo ngược mọi ý niệm đã từng được công nhận. Chúng mở ra một thế giới rộng lớn chưa từng được biết đến mà ta có thể nói là được gắn kết mật thiết với vận mệnh của con người cá thể. Nhưng phân tâm học không thể thám hiểm hoàn toàn thế giới chưa biết này. Vào thời của Charcot, ở thế kl trước, khoa tâm lí học đã khám phá ra tiềm thức. Giống như trong ngọn núi lửa, những chất sôi sục trong trung tâm của trái đất bị phun trào lên mặt đất, ta thấy tiềm thức được lộ ra trong những trường hợp ngoại lệ của những tình trạng trầm trọng hơn của bệnh tâm thần. Do đó, hiện tượng lạ lùng của nó, xung đột với các biểu lộ có ý thức, chỉ được xem đơn thuần là những triệu chứng của căn bệnh. Freud đã chọn hướng nghiên cứu ngược lại. Bằng một kĩ thuật vất vả khó khăn, ông tìm được lối thâm nhập vào miền vô thức, thế nhưng đến tận gần đầy, ông hình như cũng chỉ tự giới hạn trong lĩnh vực bệnh lí. Bởi vì đã có bao nhiêu người bình thường sẽ tự nguyện trải qua những thí nghiệm đau đớn của phân tâm học? Bao nhiêu người chịu trải qua một dạng giải phẫu tâm hồn? Chính từ việc điều trị bệnh nhân mà Freud đã suy ra những nguyên tắc về tâm lí học của ông, và học thuyết tâm lí mỗi phần lớn đã được xây dựng trên các suy luận cá nhân từ cái không thường. Do vậy, các học thuyết của Freud không thỏa đáng, cũng như kĩ thuật điều trị bệnh nhân của ông không phải lúc nào cũng chữa lành được “căn bệnh tâm hồn”. Hệ quả là những truyền thống xã hội, nơi tích tụ những kinh nghiệm nghìn đời đã đựng lên một rào cản chống lại một số điều đã được tổng quát hóa trong học thuyết của Freud. Có lẽ việc thám hiểm cái bản chất mênh mông của miền vô thức còn cần đến điều gì đó hầu như khác hơn là kĩ thuật trị liệu lâm sàng hay những suy diễn lí thuyết. Bí ẩn tuổi thơ Nhiệm vụ thăm dò cái đại dương của miền vô thức này còn chờ những đóng góp của các ngành khoa học khác và đòi hỏi một cách tiếp cận khác là nghiên cứu con người từ nguồn gốc của nó, trong nỗ lực giải mã sự phát triển của nó ở tâm hồn đứa trẻ qua xung đột với môi trường, để tìm cho ra điều bí ẩn sâu sắc hay bi thảm trong các cuộc tranh đấu qua • đó tâm hồn con người vẫn còn biến dạng và tăm tối. Phân tâm học đã chạm tay đến điều bí ẩn này. Một trong những khám phá ấn tượng nhất của phân tâm học, qua kĩ thuật của nó, là nhận ra rằng chứng rối loạn tâm thần có thể bắt nguồn từ thời thơ ấu xa xăm. Những kí ức được gợi lên từ tiềm thức chứng minh rằng trong tuổi ấu thơ đã có những tổn thương khác ngoài những tổn thương mà mọi người đều biết, chúng ẩn sâu trong ý thức, khác xa với những ý tưởng đã được chấp nhận, đến nỗi phát hiện này là điều gây ấn tượng sâu sắc và hoang mang nhất trong tất cả các khám phá của phân tâm học. Những đau khổ như vậy thuộc lĩnh vực hoàn toàn về tâm thần, chúng diễn ra chậm chạp và dai dẳng, chúng không bao giờ được nhìn nhận là những sự kiện dẫn đến bệnh tấm thần trong nhân cách người lớn tuổi. Chúng xuất phát từ những ức chế các hành động tự phát của trẻ bởi người lớn có quyền hành đối với đứa trẻ, do vậy mà chúng liên quan đến người lớn có ảnh hưởng nhất đối với trẻ, là người mẹ. Chúng ta nên phân biệt rõ ràng hai bình diện khảo sát của phân tâm học. Một bình diện thì nông cạn hơn, bao gồm sự xung đột giữa các bản năng tự nhiên của cá nhân và môi trường mà nó phải thích ứng. Xung đột này có thể giải quyết được, vì không khó để nhận thức được các nguyên nhân gây rối loạn nằm bên dưới miền ý thức. Nhưng có một bình diện khác, nằm ở sâu hơn, đó là những kí ức tuổi ấu thơ, nơi mà mâu thuẫn không phải giữa con người và môi trường xã hội đương thời, mà là giữa đứa trẻ và người mẹ, hay nói chung là giữa trẻ con và người lớn. Xung đột này có thể dẫn đến những chứng bệnh còn khó chữa hơn. Giờ đây, người ta đã nhận ra tầm quan trọng của những gì xảy ra ở thời thơ ấu trong tất cả các chứng bệnh, dù là về thể xác hay về tâm lí. Nhưng chính trong vấn đề này, ta cần một phương pháp khác ngoài phân tâm học. Chính cái kĩ thuật thăm dò vô thức đã dẫn đến các khám phá ở người lớn nay lại trở thành một trở ngại ở trường hợp của đứa trẻ. Do bản chất, đứa trẻ không phải là đối tượng thích hợp cho một phương pháp như vậy, trẻ chẳng có gì để hồi tưởng lại thời thơ ấu của nó. Đứa trẻ sống cái tuổi thơ của nó. Trẻ phải được quan sát hơn là được đem ra phân tích, nhưng đó phải là quan sát từ quan điểm tâm thần để xác định được cái xung đột trẻ đã trải qua trong các quan hệ với người lớn và với môi trường xã hội của trẻ. Rõ ràng là cách tiếp cận này sẽ dẫn chúng ta rời xa khỏi học thuyết và kt thuật phân tâm học để đi vào lĩnh vực mới: quan sát trẻ trong đời sống xã hội của nó. Đấy không phải là những mê lộ quanh co của một tâm trí bệnh hoạn mà là một không gian trải rộng của đời người ngay trong thực tại của nó, xoay quanh đời sống tâm lí của đứa trẻ, bởi vấn đề thực tiễn bao hàm toàn bộ đời sống con người khi nó phát triển từ lúc mới sinh ra. Chúng ta vẫn còn chưa đọc tới trang lịch sử của nhân loại kể về những cuộc phiêu lưu của con người như là tâm thức, của đứa trẻ có sự nhạy cảm phải đối mặt với các trở ngại và tự thấy nó lâm vào những xung đột không thể khắc phục được, với người lớn mạnh bạo hơn, kẻ thống trị đứa trẻ mà chẳng hiểu gì về nó cả. Đây là trang giấy trống còn đợi viết lên đó câu chuyện về những đau khổ chưa ý thức được khiến đời sống tinh thần nguyên vẹn và mong manh của đứa trẻ phải đau đớn quằn quại, dựng lên một con người thấp kém trong tiềm thức đứa trẻ, khác hẳn cái con người mà thiên nhiên chủ định tạo thành. Vấn đề phức tạp này, phân tâm học đã thấy rõ ràng rồi, nhưng không giải quyết. Phân tâm học chủ yếu chỉ quan tâm đến bệnh trạng và cách chữa trị. Khi liên quan đến phân tâm học, vấn đề tâm thần của trẻ thơ chứa đựng một vị thuốc ngừa; bởi nó sẽ ảnh hưởng đến việc chữa trị thông thường và nói chung cho nhân loại còn ấu thơ, một phép chữa trị có thể giúp ngăn chặn các trở ngại, các xung đột và do đó ngăn chặn cả các hệ lụy của chúng - đó là những chứng bệnh tâm lí do phân tâm học phụ trách hoặc là các thích ứng tâm lí sai lệch đã tiêm nhiễm hầu hết cả nhân loại. Do vậy mà đã hình thành một lĩnh vực nghiên cứu khoa học mới mà đối tượng là trẻ em, khác biệt với phân tâm học là lĩnh vực duy nhất tương ứng với nó. Về cơ bản, lĩnh vực khoa học mới này là một hình thức hỗ trợ đời sống tâm thức của tuổi ấu thơ, chú trọng đến đặc tính bình thường và sự giáo dục. Do đó đặc điểm của nó là sự xác định các dữ kiện tâm lí liên quan đến trẻ em vẫn còn chưa được biết đến, đồng thời là sự thức tỉnh của người lớn, kẻ đã có những thái độ sai lầm bắt rễ trong tiềm thức, đối với trẻ em. Buộc tội Từ ngữ “ức chế” mà Freud sử dụng để mô tả căn nguyên sâu xa của rối loạn tâm lí ở người lớn đã tự giải thích chính nó. Đứa trẻ không thể tăng trưởng theo cách thức mà một sinh thể đang trong quá trình phát triển của nó đòi hỏi, vì người lớn “ức chế” đứa trẻ. Từ ngữ “người lớn” là một từ trừu tượng. Đứa trẻ bị cô lập trong xã hội; nên nếu có “người lớn” nào ảnh hưởng đến nó, thì đó phải là một người lớn cụ thể, người gần gũi nhất với nó, trước hết là người mẹ, rồi đến người cha và cuối cùng là thầy cô giáo. Xã hội gán cho người lớn gần như một vai trò khác, khi công nhận vai trò của họ trong sự giáo dục và phát triển của đứa trẻ. Nhưng giờ đây, ngược lại, sự thăm dò các vực sâu của tâm hồn phơi bày ra ánh sáng một lời buộc tội đối với những người trước đây được cho là quản gia và ân nhân của nhân loại. Nhưng bởi hầu như tất cả người lớn đều là mẹ, cha, thầy cô giáo hay kẻ được giao phó công việc chăm sóc trẻ, nên lời buộc tội được áp dụng cho thế giới người lớn nói chung, cái xã hội chịu trách nhiệm đối với đứa trẻ. Có điều gì đó có tính chất khải huyền về sự luận tội đáng kinh ngạc này, nó huyền bí và khủng khiếp giống như lời nói vang lên trong Ngày Phán Quyết: “Các ngươi đã làm gì với bọn trẻ ta giao phó cho?”. Phản ứng đầu tiên là tự bênh vực và phản đối: “Chúng tôi đã cố hết sức. Chúng tôi yêu con cái. Chúng tôi hi sinh bản thân cho chúng”, và điều này sắp cạnh kề hai thái độ mâu thuẫn đối chọi nhau, một thái độ có ý thức, còn thái độ kia xuất phát từ cái vô thức. Sự biện hộ nghe quen thuộc, thâm căn cố đế, không cọ gì đáng để chúng ta quan tâm. Điều đáng chú ý là ở sự cáo buộc, hay đúng ra là những kẻ bị cáo buộc. Họ nhọc nhằn và gắng sức để kiện toàn việc chăm sóc và giáo dục con cái, và họ bỗng nhận thấy mình lâm vào một mạng lưới những rắc rối, bởi vì họ không thấy được sai lầm của họ che giấu trong bản thân họ. Tất cả những ai vẫn rao giảng vì quyền lợi của trẻ em phải duy trì lời buộc tội này vào người lơn, một lời buộc tội không khoan nhượng, không ngoại lệ. Khi đó ngay lập tức cáo buộc này trở thành trung tâm thu hút sự chú ý, vì không những nó tố cáo những sai lầm không cố ý mà cả những sai sót hoàn toàn vô ý, do đó nó nâng cao tầm vóc của chúng ta và dẫn ta đến sự khám phá về chính bản thân mình. Và mọi tiến bộ đích thực đều xuất phát từ sự khám phá và sử dụng những gì không quen thuộc Vì lí do này, ở mọi thời đại, thái độ của con người đối với sai lầm của chính họ đều mâu thuẫn. Ai cũng cảm thấy bị xúc phạm bởi sai lầm có ý thức nhưng lại bị hấp dẫn và mê hoặc bởi lỗi lầm vô thức. Lỗi lầm chưa biết chứa đựng cái bí quyết của sự tiến bộ vượt qua mục tiêu đã biết và đã mong ước và nâng chúng ta lên một lĩnh vực cao hơn. Do đó người hiệp sĩ thời Trung cổ, dù sẵn sàng đấu kiếm tay đôi vì sự xúc phạm nhỏ nhặt nhất ảnh hưởng đến quy tắc đạo đức có ý thức của họ, lại sẽ phủ phục trước bàn thờ và khiêm nhường chấp nhận “Tôi có tội, xin xưng ra trước tất cả mọi người, và tội lỗi chỉ do riêng tôi”. Kinh Thánh cho chúng ta vài ví dụ lí thú về những thái độ mâu thuẫn như vậy. Cái gì đã khiến đám đông tụ tập quanh Jonah ở thành Nineveh, khiến cho cả nhà vua và dân chúng đều tràn đầy phấn khởi, rồi đổ xô ra đường theo sau nhà tiên tri này? Ông tuyên bố họ là những kẻ tội đồ đáng khinh, nếu họ không hoán cải, thành phố Nineveh sẽ bị hủy diệt. Làm thế nào mà John Tẩy Giả (làm phép Thánh Tẩy Rửa tội - ND) kêu gọi được mọi người tụ tập bên bờ sông Jordan? ông đã dùng những ngôn từ hấp dẫn nào để khiến một đám đông khác thường tụ họp lại như vậy? ông gọi tất cả bọn họ là “lũ rắn độc”! Đây là một hiện tượng tâm linh: người ta đổ xô đến để nghe mình bị kết tội, và khi hành động như vậythọ đồng ý và công nhận lỗi lầm của mình. Có những cáo buộc gay gắt và dai dẳng đưa những điều bị chôn vùi trong tiềm thức lên thành ý thức; cả quá trình phát triển tâm linh là một thành tựu của ý thức đã nhận lấy vào bản thân nó cái đã từng tồn tại ở bên ngoài nó. Vì vậy, văn minh quả nhiên tiến triển do những khám phá liên tiếp với nhau. Giờ đây, để cứu con trẻ khỏi những xung đột đe dọa cuộc sống tâm thần của chúng, để cho con trẻ nhận được cách đối xử khác với những gì nó nhận được hiện nay, thì bước đầu tiên, căn bản và tất yếu mà mọi thứ khác sẽ phụ thuộc vào, đó là phải làm cho người lớn thay đổi. Thực vậy, nếu người lớn đã làm tất cả mọi điều có thể làm, và như họ vẫn sẽ nói, họ yêu trẻ đến độ có thể hi sinh, người lớn công nhận rằng họ đang đối diện với một khó khăn không thể khắc phục. Họ cần phải đi tìm xa hơn cái đã biết, cái đã cố ý và đã ý thức. Có bao nhiêu điều chưa được biết đến ngay trong bản thân đứa trẻ. Có cái phần tâm hồn đứa trẻ luôn được giấu kín nhưng lại là điều phải được biết cho rõ. Cũng trong đứa trẻ, ta cần một khám phá sẽ đưa ta đến điều chưa biết ở chúng, bởi bên cạnh đứa trẻ đã được quan sát và nghiên cứu bởi tâm lí học và giáo dục học, vẫn còn một đứa trẻ ẩn tàng. Chúng ta cần tìm kiếm nó với một tinh thần phấn chấn, như kẻ biết có kho vàng ấn giấu và như kẻ đi thám hiểm những vùng đất xa lạ, như kẻ xẻ núi dời non để tìm ra kim loại quý giá. Đấy là điều người lớn phải làm khi tìm kiếm điều chưa biết ấy, cái đang ẩn náu tận nơi sâu thẳm tâm hồn đứa trẻ. Đây là công việc mà tất cả phải gánh vác, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay quốc gia, vì điều đó có nghĩa là mang lại một yếu tố không thể thiếu cho sự tiến bộ về đạo đức của nhân loại. Người lớn không hiểu đứa trẻ hay đứa thiếu niên thì hệ quả là họ liên tục xung đột với nó. Giải pháp không nằm ở chỗ người lớn phải học hỏi về mặt tri thức hay bổ sung một văn hóa còn khiếm khuyết. Họ phải tìm một khởi điểm khác. Người lớn phải tìm ra ngay trong bản thân mình cái lỗi lầm mãi tới bây giờ vẫn chưa nhận ra, đã ngăn cản họ nhìn thấy đứa trẻ như chính là nó. Nếu thiếu sự chuẩn bị này, và nếu họ không thụ đắc được cái khả năng mà sự chuẩn bị này đòi hỏi, người lớn sẽ không thể tiến xa hơn được. Hành động tự biết mình là điều không khó như ta tưởng bởi mọi sai lầm dù không ý thức đều khiến người lớn đau khổ và khắc khoải, và chỉ một gợi ý nhỏ đến cách chữa trị cũng khiến ta cảm nhận được điều gì ta đang vô cùng cần đến. Như người có ngón tay trật khớp cảm nhận được nhu cầu muốn nó trở lại đúng vị trí vì anh ta biết rằng bàn tay không thể cử động và cơn đau sẽ chỉ chấm đứt chừng nào việc nắn khớp được thực hiện. Tương tự, ngay khi ta hiểu được lỗi lầm của mình, ta cảm thấy có nhu cầu chấn chỉnh lương tri, bởi từ lúc ấy ta sẽ không còn chịu đựng nổi sự yếu kém và đau đớn đã cam chịu từ lâu. Và khi đã làm được điều này, thì mọi việc trở nên dễ dàng. Ngay khi chúng ta quả quyết khẳng định là mình đã quy tụ quá nhiều uy tín cho bản thân và tin là ta có thể làm những điều thật sự nằm ngoài giới hạn của lĩnh vực và khả năng của mình, chúng ta sẽ có khả năng và quan tâm đến việc nhìn nhận sự khác biệt đa dạng trong các đặc tính tâm hồn chúng ta và tâm hồn trẻ em. Trong quan hệ đối với trẻ, người lớn đã trở thành những kẻ chỉ biết đến bản thân mình, không phải họ vị kỉ, mà là họ tự kỉ. Họ nhìn mọi thứ liên quan đến đời sống tinh thần của đứa trẻ từ lập trường của người chỉ biết soi vào bản thân mình, do đó mà họ hiểu lầm đứa trẻ. Vì người lớn chỉ biết đứng trên lập trường này, nên họ mới có quan niệm rằng đứa trẻ là một sinh thể trống rỗng mà chính người lớn phải nỗ lực đổ cho đầy, đứa trẻ chỉ như kẻ bất lực và vô dụng mà mọi thứ phải được làm giúp nó, như kẻ thiếu sự hướng dẫn nội tại nên người lớn phải chỉ dẫn từng bước từ bên ngoài. Cuối cùng, người lớn hành xử như thể họ là đấng sáng tạo ra đứa trẻ và phán quyết hành động của trẻ xấu hay tốt từ quan điểm của mối quan hệ của họ với trẻ. Người lớn là tiêu chuẩn cho cái tốt và cái xấu. Họ không thể sai lầm, họ lả cái tốt làm gương cho trẻ tự uốn nắn theo. Bất cứ điều gì đứa trẻ làm khác với cách đặc thù của người lớn đều bị coi là xấu xa, cần phải nhanh chóng sửa đổi. Và khi thể hiện thái độ gạt bỏ nhân cách của đứa trẻ một cách vô thức như vậy, người lớn cảm thấy đúng là họ có nhiệt huyết, họ có tình yêu thương và họ có lòng hi sinh! Chương 2 PHÔI THAI TINH THẦN Khúc dạo đầu sinh học Khi K.F, Wolff công bố những khám phá về sự phân chia của nguyên bào, ông cho thấy quá trình tạo ra các sinh vật sống, đồng thời qua sự quan sát trực tiếp, đã giúp kiểm chứng sự hiện hữu của những năng lực nội tại hoạt động theo đúng một cái mẫu có sẵn. Chính ông đã đánh đổ một số tư tưởng triết học như của Leibnitz và Spallanzani, cho rằng trong cái mầm sống đã giả định có chứa cái hình thể hoàn chỉnh của sinh vật tương lai ở dạng nhỏ bé. Họ giả định rằng trong tế bào trứng, có nghĩa là từ lúc khởi đầu, đã hình thành cái sinh thể sẽ phát triển nếu được đưa vào một môi trường thích hợp, mặc dù sinh thể này chưa hoàn thiện và ở kích cỡ cực nhỏ. Ý tưởng này xuất phát từ sự quan sát hạt giống cây trồng có chứa, bên trong giữa hai lá mầm, một cái cây bé xíu mà ta thấy rõ cả lá và rễ, và nếu gieo xuống đất, hạt giống này sẽ phát triển thành một cây mới. Người ta ngờ rằng một quá trình tương tự cũng xảy ra ở động vật và con người. Tuy nhiên sau phát minh ra kính hiển vi, khi Wolff có thể quan sát cách một sinh thể thật sự hình thành ra sao (ông bắt đầu bằng quan sát phôi của chim), ông đã phát hiện ra rằng giai đoạn đầu tiên bắt đầu từ một đơn bào mầm, và kính hiển vi với khả năng hiển thị những cái không thể nhìn thấy bằng mắt thường, đã cho thấy là không hề có sẵn một hình thái tiền định nào. Tế bào mầm, kết quả từ sự phối hợp của hai tế bào đực và cái, chỉ đơn thuần bao gồm chất nguyên sinh và màng bên ngoài với hạt nhân, như bất cứ tế bào nào khác; thật vậy, nó chỉ là một đơn bào, ở dạng sơ khai nhất, không có sự phân hóa rõ rệt nào. Mỗi sinh vật sống, dù là thực vật hay động vật, đều xuất phát từ một đơn bào gốc chưa phân hóa. Cái cây bé tí nằm trong hạt giống là cái phôi đã phát triển từ một nguyên bào mầm, đã hoàn tất các giai đoạn phát triển trước đó trong quả chứa hạt giống đã chín muồi rồi rơi xuống đất. Tuy nhiên tế bào mầm có một tính chất đặc biệt hơn cả là nó trải qua quá trình phân chia nhanh chóng và phân chia theo một hình mẫu đã được định trước. Nhưng người ta lại không thấy chút dấu vết nhỏ nhất của hình mẫu này trong tế bào sơ khởi. Nếu theo dõi sự phát triển ngay từ đầu của phôi động vật, ta sẽ thấy tế bào đầu tiên phân thành hai, sau đó đến lượt các tế bào này phân thành bốn, và sẽ tiếp tục cho đến khi chúng có dạng một khối cầu rỗng gọi là “morula”, khối cầu này, sau đó, gập vào bên trong thành hai lớp, chừa ra một lỗ hổng do đó tạo thành một cái hốc rỗng có vách đôi, gọi là “gastrula”. Thế là, bằng quá trình phân chia tế bào liên tục và lũy tiến, gấp vào trong và chuyên hóa, nó trở thành một tổng thể phức tạp gồm các cơ quan và mô. Do đó, cái tế bào mầm đơn giản, trong suốt, và không có bất kì phác thảo cụ thể nào, nó hoạt động và xây dựng, hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh vô hình mang trong bản thân, như người đầy tớ trung thành khắc ghi trong lòng sứ mệnh được giao phó và hoàn tất dù tự thân không mang bất cứ tư liệu nào có thể tiết lộ mệnh lệnh bí mật đó. Bản thiết kế chỉ có thể nhận thấy qua hoạt động không mệt mỏi của những tế bào và chúng ta chỉ có thể thấy công việc đã hoàn tất. Bên trên tác phẩm đã hoàn tất, không có cái gì cả. Trong phôi của động vật có vú, tức cũng như của con người, cơ quan đầu tiên xuất hiện là trái tim, hay đúng hơn, cái sẽ trở thành trái tim, một cái túi bắt đầu đập ngay với nhịp đều đặn, nhanh gấp hai lần nhịp đập của mẹ. Và nó sẽ tiếp tục đập không mệt mỏi vì nó là động cơ thiết yếu bơm chất dinh dưỡng cần thiết đến tất cả các mô sống giúp chúng hình thành và cần đến trong cả cuộc đời. Toàn bộ công cuộc lao động này diễn ra một cách bí mật và kì diệu chính vì nó được thực hiện một cách đơn độc. Đây là phép lạ sáng tạo hầu như bắt đầu từ cái hư vô. Những tế bào sống tí hon khôn ngoan này không bao giờ phạm sai lầm và tìm ra trong tự thân cái năng lực biến hóa lớn lao, một số trở thành tế bào sụn, số khác thành tế bào thần kinh,, số khác thành tế bào da, và mỗi mô tìm ra được vị tri chính xác của nó. Sự sáng tạo kì diệu này là một trong những bí mật của vũ trụ được nghiêm ngặt giấu kín; thiên nhiên bao phủ nó trong những bức màn che và lớp vỏ không gt xâm nhập nổi, vả chỉ mình nó mới có thể tự tách bỏ, khi cuối cùng, một sinh vật mới, hoàn chỉnh và đầy đủ, được sinh ra trong thế giới. Nhưng tạo vật được sinh ra không chỉ đơn thuần là cơ thể vật chất. Đen lượt nó, giống như tế bào mầm, nó sở hữu những chức năng tinh thần tiềm ẩn đã định sẵn. Cơ thể mới không chỉ đơn thuần hoạt vận động qua các cơ quan của nó. Nó có những chức năng khác - những thôi thúc không thể đặt trong một tế bào mà trong một cơ thể sống, trong một sinh vật đã được sinh ra. Giống như mỗi tế bào mầm chứa trong mình hình mẫu của cả cái cơ thể sẽ hình thành đầy đủ, dù không có một dấu hiệu nào nhìn thấy được bằng mắt, tương tự, mỗi cơ thể sơ sinh, dù thuộc bất cứ giống loài nào, đều có trong chính mình một hình mẫu về các bản năng tâm thần, về các chức năng sẽ đặt nó vào trong mối quan hệ với môi trường của nó, để nó hoàn tất một sứ mệnh có tính hoàn vũ. Và điều này đúng với bất kì sinh vật sống nào, ngay cả ở một con côn trùng. Những bản năng kì diệu của loài ong, khiến chúng có một cơ cấu xã hội rất mực phức tạp, chỉ bắt đầu hoạt động ở con ong chứ không hoạt động ở trứng hay ấu trùng. Con chim có bản năng bay được, nhưng chỉ sau khi nở ra. Và v.v. Giai đoạn thứ hai này liên quan đến đời sống tinh thần trong mối quan hệ với môi trường bên ngoài, vốn đã có trong giai đoạn đầu, trong sự sống của phôi thai mà thiên nhiên đã cách li và giấu kín. Thật vậy, khi một sinh vật mới được thành hình, nó giống như một cái trứng của tâm linh, mang trong lòng một sự hướng dẫn huyền bí mà kết quả là những hành vi, những đặc tính, những lao động, nói ngắn gọn là những chức năng tác động lên môi trường bên ngoài của nó. Môi trường bên ngoài này phải cung cấp không chỉ những phương tiện cho sự tồn tại về mặt sinh lí mà còn cung cấp những kích thích cho sứ mệnh huyền bí được khắc sâu trong mỗi sinh vật đã sinh ra, tất cả chúng được triệu tập bởi môi trường của chúng không những cho sự sống mà còn để thực thi một nhiệm vụ cần thiết hầu bảo tồn thế giới và sự hài hòa của thế giới đó. Điều đó xảy ra với mỗi sinh thể, tùy theo giống loài của nó. Chính xác là mỗi cơ thể có hình dạng thích nghi với cái siêu chức năng về tinh thần này, và phải xảy ra vì lợi ích của vũ trụ. Những chức năng cao cả như thế vốn đã cố hữu trong các sinh vật ngay từ khi vừa sinh ra, chẳng hạn như ở loài động vật. Chúng ta biết một động vật có vú sẽ tỏ ra hiền hòa vì nó là cừu, loài khác sẽ tỏ ra hung tợn vì nó là sư tử, một loài côn trùng sẽ lao động theo một nhịp kỉ luật không thay đổi vì nó là kiến, và loài khác nữa thì sẽ không làm gì ngoài việc kêu trong cô độc vì nó là dế mèn. Và như thế, một đứa trẻ sơ sinh không chỉ là một cơ thể sẵn sàng hoạt động đơn thuần như là một cơ thể, mà đó còn là cái phôi thai tâm linh với những khả năng tâm thần tiềm tàng. Sẽ vô lí khi nghĩ rằng chỉ có con người, có tính đặc thù và khác biệt tất cả các sinh vật khác bởi sự cao quý của đời sống tinh thần của nó, là loài duy nhất không có một khuôn mẫu phát triển về tinh thần. Tinh thần có thể tiềm ẩn sâu kín đến nỗi sẽ không bộc lộ ra giống như bản năng ở con vật, có thể ngay lập tức lộ ra trong các hành động của chúng. Sự vắng mặt của các bản năng chỉ đạo cố định và tất định ở con vật, là chỉ dấu của một nguồn tự do hành động, đòi hỏi một sự triển khai đặc biệt, gần như thể nó phải được sáng tạo ra và phát triển bởi mỗi cá thể và do đó không thể tiên đoán. Vì thế mà có một sự bí ẩn không thể xâm nhập trong tâm hồn đứa trẻ trừ phi chính nó tự biểu lộ dần dần trong tiến trình hình thành bản thể của nó. Cũng giống như sự phân đoạn ở tế bào mầm, ở đó ta chẳng thấy gì ngoài một hình mẫu tiền định vô hình, không có cách nào nhận ra được và sẽ chỉ tự biểu lộ qua sự sáng tạo dần dần ra các chi tiết của sinh vật. Và chính vì thế chỉ có đứa trẻ mới có thể phơi mở cái khuôn thức tự nhiên của con người. Nhưng chính vì sự tinh tế của mọi sáng tạo từ cái hư không, nên đời sống tinh thần của đứa trẻ mới cần đến sự bảo vệ và cần đến một môi trường tương tự những lớp vò hay tấm màng mà tự nhiên đã bao phủ lên phôi thai vật chất. Đứa trẻ sơ sinh Một giọng nói run rẩy vang lên trên mặt đất, chưa từng nghe thấy. Đến từ một cổ họng chưa từng được kích thích. “Họ kể tôi nghe về một con người đã sống trong tối tăm sâu thẳm nhất, mắt nó chưa hề thấy chút ánh sáng yếu ớt nhất, như thể nó ở tận đáy vực sâu. “Họ kể tôi nghe về một con người đã sống trong cõi im lặng, tai chưa hề nghe một tiếng động nhẹ nhất… “Tôi nghe kể về một con người đã thực sự sống, luôn luôn ở dưới nước, nước ấm lạ lùng, và bỗng bị nhúng vào một dòng nước lạnh giá như băng. “Và nó mở ra buồng phổi chưa hề thở. Không khí lập tức mở toang buồng phổi của nó, lúc đầu vẫn còn được gấp lại, và con người ấy cất tiếng khóc… “Một giọng nói run rẩy vang lên trên mặt đất, chưa từng nghe thấy, đến từ một cổ họng chưa từng được kích thích. “Nó là con người đã sống trong trạng thái nghỉ ngơi. “Ai có thể tưởng tượng được sự nghỉ ngơi hoàn toàn như thế? “Sự nghỉ ngơi của kẻ chưa từng phải lo ăn vì có kẻ khác đã ăn cho nó. Tất cả mô của nó đều thư dãn, vì các mô khác đã tạo ra hơi ấm cần thiết cho sự sống của nó. Ngay cả những mô ở nơi sâu nhất của nó cũng không phải làm việc để bảo vệ nó khỏi chất độc và vi trùng, và dưỡng khí được cung cấp cho nó mà không qua hơi thở của nó - một đặc ân duy nhất trong các sinh vật sống. “Lao động duy nhất của nó là lao động của trái tim, nhịp tim đập từ trước khi nó từng hiện hữu, đập nhanh gấp đôi nhịp tim của bất kì trái tim nào khác. Đó là trái tim của con người. “Và bây giờ… Nó bước ra. Nó lãnh nhận tất cả công việc. Nó bị thương tổn vì ánh sáng và tiếng động xuyên thấu qua phẩm chất của bản thể nó, và nó vừa tiến tới, vừa kêu to lên: “Chúa ơi, sao Ngài bỏ rơi con? “Và như thế đó, lần đầu tiên, mỗi con người là ánh phản chiếu của Đấng Ki-Tô đã chết và Đấng Ki- Tô đã thăng thiên.” Lúc mới sinh ra đứa trẻ không bước vào một môi trường tự nhiên mà là vào một môi trường vãn minh dành cho đời sống của con người. Nó là môi trường “thiên nhiên-trên-thiên nhiên” được con người xây dựng bên trên thiên nhiên và bằng cái giá phải trả của thiên nhiên, thông qua động lực cung cấp sẵn mọi thứ sẽ hỗ trợ cuộc sống đến từng chi tiết của con người và khiến con người thích ứng dễ dàng hơn. Nhưng ông Trời nào đã chuẩn bị sẵn được một nền văn minh để hỗ trợ trẻ sơ sinh, kẻ phải hoàn tất nỗ lực thích ứng vĩ đại nhất khi, vào lúc ra đời, bé phải chuyển từ đời sống này sang một đời sống khác? Giai đoạn chuyển tiếp kinh khủng khi ra đời đòi hỏi một sự chăm sóc khoa học cho đứa trẻ sơ sinh vì không cổ giai đoạn nào trong đời người, nó sẽ phải trải qua một tình huống đấu tranh và xung đột dữ dội và do đó đau đớn như vậy. Ấy thế nhưng chẳng có sự chuẩn bị nào để làm cho cuộc chuyển tiếp khủng khiếp này được dễ chịu hơn. Trong lịch sử vãn minh loài người, một trang sách cần phải được dành ra, trước tất cả các trang khác, để kể ra những gì con người văn minh đã làm để giúp trẻ sơ sinh. Ấy thế mà ở đây trang giấy vẫn còn trống không. Nhiều người sẽ nói rằng, đâu có chuyện ấy, thế giới văn minh vô cùng quan tâm đến trẻ sơ sinh. Nó quan tâm thế nào đây? Khi đứa trẻ ra đời, mọi người chỉ quan tâm đến người mẹ. Bà mẹ chịu quá nhiều đau đớn. Nhưng trẻ không bị đau đớn sao? Người mẹ cần sự chăm sóc đặc biệt. Nhưng đứa bé không cần được chăm sóc đặc biệt như vậy sao? Phòng người mẹ tối và yên lặng vì bà quá kiệt sức. Nhưng chính đứa bé là người vừa đến từ nơi không chút ánh sáng và không chút tiếng động đến tai. Vậy thì phải chuẩn bị yên lặng và bóng tối cho bé. Bé đến từ trạng thái hoàn toàn nghỉ ngơi mà bây giờ bỗng nhiên phải vận dụng tất cả chức năng của nó. Vì thế, chắc chắn là bé cũng rất mệt mỏi và kiệt sức. Kiệt sức không chỉ do tương phản giữa hai môi trường trái nghịch, bé vừa tự mình vật lộn qua cuộc lao động sinh nở kiệt lực. Cơ thể của bé bị dồn ép lại, như trong một nhà máy xay siết nó đến mức xương cốt trật đi. Bé đến với cuộc đời kiệt sức do sự tương phản to lớn giữa trạng thái hoàn toàn nghỉ ngơi và cố gắng không tưởng tượng nổi để được sinh ra. Bé đến với đời như một kẻ lữ hành từ một nơi xa xăm, người tả tơi với thương tích. Và chúng ta đã làm gì để tiếp đón và cứu giúp bé trước nhu cầu lớn lao như vậy? Bác sĩ chỉ liếc qua đứa bé để xem nó sống hay không. Chắc hẳn ông nghĩ rằng: “Nó sống, thôi để bé qua một bên, bây giờ ta không thể bận tâm đến nó.” Ngược lại, cha mẹ nhìn bé trìu mến và vui mừng, và họ tiếp đón bé với sự vị kỉ của kẻ vui mừng nhận được một món quà từ thiên nhiên: “Nó đẹp đấy chứ? Con trai chúng ta đấy à?” Mọi người chờ đợi bé đều vội vã thưởng thức nó, chiêm ngưỡng nó, chạm tay vào nó. Người cha thì muốn nhìn màu mắt của bé, và sẽ cố vạch mí mắt của sinh vật mới kia, háo hức nhìn thật kĩ và vui mừng mỉm cười như thể ông thấy con ngươi kia rồi sẽ một ngày nhìn thấy ông và nhận ra ông. Nhưng không có ai nhìn thấy trong đứa bé một con người đau khổ, hình ảnh đầu tiên của Đức Ki-Tô, tinh khiết và không được thấu hiểu. Người lớn tới gần kẻ đã đến từ hư không như thế nào, kẻ bỗng thấy mình ở giữa thế giới, với đôi mắt non nớt chưa từng thấy ánh sáng, với đôi tai từng chìm lắng trong thinh lặng? Sinh linh với tứ chi chưa từng chạm đến điều gì, nay bị hành hạ. Cơ thể mong manh phải chịu đựng sự tiếp xúc thô bạo với vật cứng và bị cầm nắm bởi bàn tay vô tâm thô bạo của một người đàn ông đang quên mất đó là một cơ thể mong manh. Vâng, đứa trẻ sơ sinh đã bị cầm nắm thô bạo, làn da mỏng manh bị cọ xát bởi những bàn tay nặng nề, và quần áo thô nhám. Thật ra, những người trong gia đình không dám chạm vào đứa trẻ sơ sinh vì nó quá mỏng manh; bà con anh chị và mẹ nó có vẻ sợ sệt. Nên họ giao phó nó cho những bàn tay chuyên nghiệp để họ được an tâm, lương tâm được thanh thản. Thế là chẳng còn ai cảm thấy cần phải canh giữ và che chở cho cái cơ thể bé bỏng chưa từng bị sờ chạm đến. Thiên hạ sẽ hỏi: “Vậy chúng ta sẽ phải làm gì? Phải có ai đó chạm tay đến đứa bé.” Đúng, nhưng những bàn tay chuyên nghiệp này bây giờ sờ đến đứa bé chưa từng học cách chạm đến một sinh linh mỏng manh như vậy. Đó là những bàn tay thô nhám có khả năng duy nhất là giữ bé chắc chắn, không để nó rơi. Người ta chỉ nghĩ rằng, đứa bé, sinh ra, còn sống, là đủ rồi; điều duy nhất họ muốn là đứa bé không bị mất cái nỗ lực tồn tại kia. Nhưng họ chưa hề tìm hiểu cách tiếp cận với sinh linh mong manh này. Bác sĩ mạnh tay bế nó lên và khi đứa bé vừa cất tiếng khóc tuyệt vọng, mọi người đều cười mãn nguyện, đó là tiếng nói của bé. Khóc là ngôn ngữ của nó, và những điều như thế là cần thiết để lau sạch mắt và làm căng buồng phổi của nó. Trẻ sơ sinh lập tức được mặc quần áo. Bé bị quấn chặt trong vải tã thô cứng như thể bị bó bột, và tay chân của bé trước đây vốn xếp vào nhau, nay bị căng ra và giữ cố định một cách tàn bạo. Nhưng quần áo chưa cần thiết cho trẻ sơ sinh, ngay từ khi mới sinh ra hay trong suốt tháng đầu tiên của đời nó. Nếu chúng ta muốn theo dõi câu chuyện về quần áo của trẻ sơ sinh, ta sẽ thấy có sự biến đổi dần từ sự thay thế tã vải thô cứng bằng những quần áo nhẹ và vải mềm; cùng với sự giảm dần về số lượng trang phục của bé. Thật vậy, ngày nay, quần áo của trẻ sơ sinh ở ngưỡng gần như là khỏa thân. Thêm một bước nữa thì bé sẽ được để trần truồng. Thật ra, tốt hơn nên để trẻ sơ sinh trần truồng để bé được sưởi ấm bởi không khí xung quanh hơn là bởi quần áo. Tự nó không có đủ hơi ấm để đối phó với nhiệt độ bên ngoài, bởi vừa trước đấy nó vẫn còn sống ấm áp trong cơ thể của bà mẹ. Quần áo chỉ có thể giữ ấm cơ thể, ngăn hơi ấm cơ thể thoát ra ngoài. Nếu gian phòng đã ấm áp rồi, thì quần áo thành vật cản giữa sức ấm của không khí và cơ thể. Ta có thể quan sát các động vật, những con vật còn non tuy được bao phủ bằng lông măng hay lông tơ, song mẹ chúng vẫn ấp ủ, sưởi ấm chúng bằng cơ thể của mình. Chúng tôi không muốn bàn cãi quá lâu về vấn đề này. Chắc chắn là nếu hòi ý kiến của những bậc cha mẹ người Mỹ, họ sẽ kể về những chăm sóc dành cho trẻ sơ sinh ở nước họ, và người Đức và người Anh cũng sẽ ngạc nhiên hỏi tôi có biết gì hay không về tiến bộ đạt được trong chuyên môn này của khoa y và khoa điều dưỡng tại các nước họ. Đáng lẽ tôi phải trả lời rằng tôi biết tất cả điều này và bản thân tôi đã nghiên cứu tất cả những cải thiện mới nhất trong lĩnh vực chăm sóc trẻ tại một số các quốc gia đó. Song đồng thời tôi cũng phải tuyên bố rằng ở đâu cũng đều thiếu sự cao thượng của lương tâm cao quý được đòi hỏi cho sự tiếp đón xứng đáng đối với con người mới được sinh ra. Đúng là rất nhiều điều đã được thực hiện, nhưng tiến bộ là gì nếu nó không là một ý thức về cái chúng ta từng biết và thêm vào cái gì có vẻ như là đã hoàn chỉnh và thậm chí cả cái có vẻ như không thể vượt được? Không có nơi nào trên thế giới mà trẻ sơ sinh được hiểu rõ như ta cần phải hiểu. Tôi muốn đề cập đến một điểm khác, đó là chuyện tuy chúng ta có thể yêu đứa trẻ sơ sinh một cách sâu sắc đấy, song chúng ta vẫn có cái bản năng phòng chống lại đứa bé, ngay từ thời điểm đầu tiên lúc nó vào đời. Đó không những là một bản năng tự vệ mà còn là một bản năng keo kiệt khiến chúng ta vội vàng bảo vệ mọi thứ sở hữu của mình khỏi tay đứa bé, ngay cả khi chúng không có giá trị. Ví dụ, để gìn giữ tấm nệm nhỏ tồi tệ khỏi bị bẩn, chúng ta trải một tấm che không thấm nước giữa nệm và cơ thể của bé và để cơ thể của nó phải gánh chịu các hậu quả. Kể từ lúc bé vào đời ấy, tâm trí người lớn sẽ giữ nguyên nhịp điệu tiết tấu: coi chừng để em bé không làm bẩn đến tôi, không gây phiền toái cho tôi. Hãy đề phòng nó! ***** Tôi tin rằng khi chúng ta dần dần hiểu về trẻ em đầy đủ hơn, chúng ta sẽ tìm ra những phương pháp hoàn thiện hơn để chăm sóc trẻ. Chỉ mới gần đây, ở Vienna (Áo - ND) người ta đã bắt đầu có những phương pháp để giảm thiểu những đau đớn của trẻ sơ sinh. Tấm nệm trải đón bé rơi vào khi ra đời được làm ấm và nệm được chế tạo bằng các vật liệu có tính thấm, có thể vứt đi khi bị bẩn. Những biện pháp này là khúc dạo đầu, một dấu hiệu đầu tiên của một sự kiện có tầm quan trọng lớn lao, rằng người lớn đã bắt đầu có ý thức về đứa bé. Nhưng chăm sóc trẻ sơ sinh không chỉ nên giới hạn trong việc ngăn ngừa cái chết, trong việc tránh để bé bị nhiễm trùng, như người ta làm ngày nay trong các bệnh viện hiện đại, nơi các nữ điều dưỡng đến gần trẻ với khăn che mặt để vi trùng trong hơi thở của họ không truyền sang đứa bé. Có những vấn đề về “sự chăm sóc tinh thần của trẻ” từ ngay lúc mới sinh ra và những biện pháp để đứa bé thích nghi dễ dàng với thế giới, về mặt này, các thí nghiệm vẫn còn đang thực hiện ở bệnh viện và cần được tuyến truyền rộng rãi đến các gia đình nhằm thay đổi thái độ đối với trẻ sơ sinh. Trong những gia đình giàu có, người ta vẫn còn nghĩ đến việc dùng những chiếc nôi lộng lẫy và quần áo nhiều rua ren đẹp đẽ cho con cái. Những thứ xa xỉ như thế cho thấy một sự hoàn toàn thiếu tôn trọng đối với bản thể nội tại của đứa bé. Của cải có thể dùng để cung cấp tiện nghỉ, chứ không phải để đem lại sự xa hoa cho những đứa bé được đặc quyền như thế. Đối với trẻ sinh ra, tiện nghi là có một căn phòng che chắn khỏi tiếng ồn ào của thành phố, với đủ yên lặng, và một ánh sáng ôn hòa, có thể điều chỉnh, bằng các cửa sổ có kính màu như trong nhà thờ. Một nhiệt độ ấm, không thay đổi, như ở các nhà hát trong vài năm gần đây, khiến cho trẻ có thể ở trần. Một vấn đề khác là việc di chuyển và bế đứa bé trần truồng, làm thế nào để trẻ bị tay ta chạm vào càng ít càng tốt. Đứa bé phải được nâng dậy bằng một phương tiện nhẹ và mềm mại, như một cái võng nhồi bông mềm, nâng đỡ sao cho cả cơ thể co lại trong tư thế tương tự khi còn trong bụng mẹ. Việc nâng bế như vậy cần được thực hiện với sự tinh tế và hết sức chú tâm bởi những bàn tay sạch, khéo léo nhờ đã thực tập kĩ lưỡng. Thay đổi tư thế của bé từ thẳng đứng sang nằm ngang cần đến kĩ năng đặc biệt. Từ lâu các điều dưỡng viên đã ý thức được rằng cần có một kĩ thuật đặc biệt để nâng một người bệnh lên và đưa họ đi trong thế nằm ngang một cách chậm rãi. Di chuyển một bệnh nhân là một trong những bài học sơ đẳng của ngành điều dưỡng. Không ai kéo mạnh một bệnh nhân đứng thẳng lên, bệnh nhân được dời đi bằng một vật nâng đỡ mềm mại, khéo léo đặt bên dưới cơ thể họ, và bằng phương pháp này, người ta có thể di chuyển bệnh nhân đi mà không cần thay đổi vị trí nằm ngang của họ. Trẻ sơ sinh cũng giống như một bệnh nhân. Như mẹ của nó, bé đã trải qua cơn thập tử nhất sinh. Niềm vui và sự mãn nguyện khi thấy bé sống sốt cũng làm nhẹ gánh lo âu đối với nguy hiểm bé vừa trải qua. Đôi lúc bé gần như nghẹt thở và được hồi sinh bằng cách áp dụng nhanh hô hấp nhân tạo. Đầu bé thường bị móp méo bởi một khối máu tụ, do hiện tượng xuất huyết dưới da. Vậy phải xem bé là thực sự bị bệnh nặng. Nhưng đồng thời, không nên nhầm là trẻ sơ sinh cũng giống bệnh nhân người lớn. Nhu cầu của trẻ không giống như của người bệnh, nhưng là nhu cầu của kẻ đã có một cố gắng tái thích nghi quá sức tưởng tượng, kèm theo những ấn tượng tâm thần đầu tiên của kẻ đã đến từ hư không nhưng các giác quan đều hoạt động. Tôi đã thấy một trẻ sơ sinh được cứu sống khỏi tình trạng nguy hiểm vì bị ngạt do bị nhúng xuống cái bồn nước gần sát mặt đất: khi đang bị rơi nhanh xuống nước, đứa bé mở to đôi mắt, lao mình tới trong co giật, duỗi thẳng tay chân, như thể nó cảm thấy mình đang bị rơi. Đó là kinh nghiệm đầu tiên của bé về sợ hãi. Tình cảm của chúng ta đối với trẻ sơ sinh không nên chỉ là sự đồng cảm đối với người bệnh hay kẻ yếu, mà nên là lòng tôn kính trước bí ẩn của sự hình thành tạo vật, sự bí ẩn về cái vô biên bị giam hãm trong một hình thể hữu hạn. Cách chúng ta chạm tay bế ẵm và di chuyển trẻ sơ sinh, và cảm xúc về sự tinh tế cần có trong cách đối xử ấy khiến chúng ta nghĩ đến vị linh mục công giáo khi cầm Bánh Thánh trên bàn thờ. Với đôi tay sạch sẽ, các động tác được luyện tập kĩ càng, vẻ khéo léo tinh tế và tập trung, ông di chuyển Bánh Thánh, lúc dọc, lúc ngang, đôi lúc đặt xuống như thể nó bị kiệt sức, như thể những động tác này đã quá mạnh bạo và cần tạm nghỉ. Và trong khi tay ông nâng Bánh Thánh lên, chân ông quỳ phục trong sự phụng thờ. Sự im lặng, ánh sáng chiếu nhẹ nhàng qua lớp kính màu; một cảm giác hi vọng, thăng hoa bao trùm khắp một môi trường như thế thật xứng đáng cho việc đón đứa bé mới ra đời. Người ta nói đứa bé không có ý thức, và đã không có ý thức thì không có đau đớn hay vui thú, do đó có tinh tế tao nhã thì cũng chỉ phí phạm. Nhưng sao người ta lại chăm sóc chu đáo cho bệnh nhân người lớn trong nguy cơ mất mạng và hôn mê bất tỉnh? Đó là nhu cầu được chăm sóc, chứ không phải là ý thức về nhu cầu đó, đối với bất cứ giai đoạn nào của đời người thì cũng đòi hỏi sự chú ý của khoa học và tình cảm. Không thể có sự biện minh nào. Chúng ta không có tình cảm thật đối với trẻ sơ sinh, vì đối với chúng ta nó không phải là người. Khi nó bước vào thế giới của chúng ta, chúng ta không biết làm cách nào để đón nhận nó, mặc dù thế giới chúng ta tạo ra là để cho nó, sao cho nó có thể tiếp nối và-tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn cái thế giới của chúng ta. “Người đến với thế gian, và thế gian được làm ra cho Người nhưng thế gian không nhìn biết Người. Người đến với đồng loại nhưng họ không tiếp đón Người,” Lời dạy của thiên nhiên Các động vật cấp cào hơn, loài có vú, với sự khôn ngoan bất biến của bản năng, đã không xem thường giai đoạn thích nghi mong manh và khó khăn mà con non của chúng phải đối mặt. Con vật nhũn nhặn như mèo là một ví dụ; nó giấu lũ mèo con vừa mới đẻ ở nơi tối, khuất để chăm sóc chúng, và nó rất cảnh giác không để ai nhìn đến đám mèo con. Rồi sau một khoảng thời gian ngắn, những chú mèo con ra ngoài và công khai theo sau mèo mẹ. Loài động vật có vú sống hoang dã cũng có những đặc điểm chứng minh rõ ràng hơn về sự chăm sóc con non. Hầu hết chúng sống theo bầy đàn; nhưng khi sắp đẻ, con cái rời đàn và tìm một nơi kín đáo đẻ con, giữ con trong yên tĩnh và tách biệt khoảng hai hay ba tuần cho đến một tháng hay lâu hơn nữa, tùy theo chủng loài. Con mẹ lập tức trở thành “vú nuôi” trợ giúp sinh vật mới. Con non không thể sống giữa bầy, phơi ra ánh sáng và tiếng ồn, do đó nó giữ con ở nơi yên tĩnh kín đáo. Mặc dù con non nói chung có thể đứng trên đôi chân và bước đi, con mẹ vẫn giữ chúng tách đàn cho đến khi chúng làm chủ được các chức năng thiết yếu cho sự sống của mình và có thể tự thích ứng với môi trường xung quanh. Chỉ khi đó nó mới dẫn con về với bầy, với quần thể đồng loại. Câu chuyện về cách chăm sóc con non thật độc đáo, về cơ bản đều giống nhau, ngay cả ở các loài thật khác nhau như ngựa, bò rừng, heo rừng, sói hay hổ. Bò rừng cái một mình giữ bê con cách xa đàn nhiều tuần, nó âu yếm chăm sóc con. Khi bê con lạnh, nó ủ con giữa đôi chân trước; khi bê con bẩn, nó liếm cho sạch; và khi bê con bú, nó đứng trên ba chân để con có thể bú dễ dàng hơn. Và sau khi dẫn con trở lại đàn, nó tiếp tục cho bê con bú với vẻ dửng dưng kiên nhẫn thường thấy ở những con cái thuộc động vật bốn chân. Đôi khi con mẹ không chỉ tìm một nơi hẻo lánh để đẻ con mà còn chuẩn b[ một nơi thích hợp cho lũ con sắp sinh. Chẳng hạn, cáo mẹ tìm một nơi ẩn náu rậm rạp, xa xôi, yên tĩnh, kiểu như cái hang để ở. Nhưng nếu nó không thể tìm thấy nơi ẩn náu thích hợp, nó sẽ đào một cái lỗ hoặc chuẩn bị một lớp nệm trong thân cây rỗng hay đào một chỗ trũng giữa bụi rậm, rồi nó làm một cái ổ lót với chất liệu mềm, hầu như luôn luôn bằng lông rứt ra từ ngực, quanh núm vú của nó, như vậy thuận tiện cho đám cáo con bú dễ dàng hơn. Ở đó nó đẻ sáu hay bảy cáo con mắt nhắm và tai khép kín; nó giấu chúng ở đó và ít khi rời xa. Trong suốt giai đoạn đầu này tất cả con cái đều thận trọng canh giữ con non và tấn công bất cứ ai muốn đến gần con của chúng. Đối với động vật đã thuần dưỡng, đôi lúc ta không thấy rõ những bản năng làm mẹ này hoặc là chúng đã bị mất đi. Chẳng ai lạ gì chuyện lợn nái thường ăn con mình, thế nhưng lợn rừng cái là một trong những “bà mẹ” dịu dàng nhất. Hổ cái và sư tử cái cũng vậy, khi bị nhọt trong chuồng ở sở thú, đôi khi chúng cắn chết con. Điều này cho ta thấy những năng lượng bảo vệ và che chở của thiên nhiên chỉ hoạt động khi các sinh vật được tự do đi theo mệnh lệnh nội tại của các bản năng chỉ đạo của chúng. Trong các bản năng này, chúng ta có thể phác họa ra một logic rõ ràng và đơn giản; con non của các động vật có vú phải được chăm sóc đặc biệt trong cuộc tiếp xúc đầu tiên với mối trường bên ngoài, và do đó ta cần nhận ra cái giai đoạn đầu tiên cực kì nhạy cảm khi sinh vật mới ra đời, là giai đoạn khi mà nó phải nghỉ ngơi sau cố gắng lớn lao để được sinh ra và cùng một lúc phải vận dụng thuần thục tất cả các chức năng của nó. Sau giai đoạn này, cái giai đoạn có thể gọi là thời kì ấu sinh thứ nhất, năm đầu đời, giai đoạn bú, giai đoạn đầu tiên của cuộc sống ở trần gian. Các con cái không chỉ quan tâm đến nhu cầu cơ thể của con non. Đúng là thiên nhiên, với sữa và hơi ấm cơ thể của con mẹ, đã cung cấp đủ để con non chống chọi với các khó khăn chính về thể chất cần khắc phục trong môi trường mới. Đúng là con mẹ đã đơn độc chờ đợi sự thức giấc huyền bí của các bản năng xuất phát từ bản thể sâu xa của sinh vật mới và sẽ biến nó thành một cá thể khác trong giống loài của nó. Sự thức tỉnh này phải xảy ra ở một địa điểm được che chắn khỏi ánh sáng chói chang và tiếng động ồn ào, và luôn yên tĩnh. Con mẹ chờ đợi sự thức tỉnh bản năng của con non trong khi nuôi dưỡng, liếm láp, thương yêu, huấn luyện con non trước khi đưa nó về với bầy. Lúc ấy, ngựa non sẽ linh hoạt trên đôi chân, học cách nhận biết mẹ nó và đi theo mẹ, nhưng trên hết, nó sẽ phải có thời gian để cho bản tỉnh ngựa lộ ra trong cơ thể mỏng manh và chưa vững vàng của nó. Nó phải làm cho tính di truyền của loài trở thành hiện thực. Ngựa cái sẽ không cho phép bất cứ ai thấy con của nó cho đến khi nó thật sự trở thành ngựa con; mèo cũng giấu con non cho đến khi chúng mở mắt và tập đứng trên đôi chân của chúng, nói ngắn gọn, cho tối khi nào chúng thật sự là những chú mèo con. RÕ ràng là thiên nhiên giám sát mạnh mẽ sự thức tỉnh này, sự hoàn tất mĩ mãn của công việc này. Mục đích của sự chăm sóc của con mẹ cao hơn là mục đích sinh lí thuần túy. Qua sự trìu mến và chăm sóc dịu dàng, sinh vật mẹ chờ đợi sự ra đời của các bản năng tiềm tàng. Và đối với con người, chúng ta cũng có thể nói rằng, qua sự chăm sóc tế nhị cho trẻ sơ sinh, chúng ta phải chờ đợi sự ra đời của tâm linh con người. Hoàn thành sự nhập thể Vậy là, có một đời sống tinh thần cần được chú trọng trong cách đối xử với trẻ sơ sinh hay không? Nếu đời sống tinh thần đó đã hiện hữu trong trẻ sơ sinh, thì nó cần được chú trọng hơn nữa trong năm đầu tiên của cuộc đời và những năm tiếp theo. Bước tiến đã thực hiện trong việc chăm sóc đứa trẻ ngày nay là ở chỗ không những sự sống thể chất của đứa trẻ được quan tâm đến mà cả sự sống tinh thần của nó cũng vậy. Ngày nay người ta thường lặp lại rằng giáo dục phải khởi sự từ lúc bé chào đời. Dĩ nhiên, không nên hiểu từ ngữ ‘giáo dục’ theo nghĩa giảng dạy, mà theo nghĩa trợ giúp sự phát triển tâm lí của trẻ. Bây giờ do sự phân biệt giữa ý thức và vô thức, ta có thể hiểu tại sao trẻ em có một đời sống tinh thần thật sự từ lúc mới sinh. Ý tưởng về một cõi vô thức đầy những động lực và thực tại tinh thần đã trở thành một trong những tranh luận phổ biến ở thời đại chúng ta. Nếu chúng ta hình dung em bé có một đời sống tinh thần với nhu cầu phát triển ý thức của nó bằng cách tự đặt mình vào một quan hệ năng động với thế giới xung quanh, hình ảnh hiện ra trước mắt chúng ta thật là ấn tượng, chúng ta thấy linh hồn bị giam cầm trong bóng tối cố gắng vươn ra ánh sáng để sinh ra và lớn lên trong một môi trường chưa được chuẩn bị cho một sự kiện lớn lao như thế. Chúng ta thấy mình đứng trước một linh hồn đang dấn thân vào nhiệm vụ khó khăn này, và chúng ta không biết cách nào để có thể hỗ trợ cho nó, thậm chí chúng ta còn có thể gây trở ngại cho nó nữa. Nhưng dù có tự bó mình trong những khái niệm sơ đẳng và hiển nhiên nhất, chúng ta vẫn có thể suy đoán trong đứa trẻ có sự hoạt động của những bản năng chi phối không riêng các chức năng về thể chất mà cả những chức năng tinh thần, như trường hợp con non của động vật có vú bỗng nhiên, do một sự kiện hướng nội, bộc lộ đặc tính của loài. Con trẻ của loài người, thật ra, chậm phát triển khả năng vận động hơn con non của các động vật. Khi các giác quan của chúng hoạt động lúc chào đời, đứa bé ngay lập tức nhạy cảm với ánh sáng, âm thanh, sự sờ chạm, song bé vẫn còn có ít khả năng vận động. Nó không thể tự đứng dậy, không thể bước đi hay nói năng. Nó nằm bất lực lâu hơn bất cứ tạo vật nào khác, nó bắt đầu bước đi sau một năm, với nhiều cố gắng trong một thời gian đài với nhiều lần thất bại. Bé sẽ chỉ tập đi đúng cách khi đã hai tuổi, việc nói năng cũng tương tự việc vận động. Trong một thời gian dài, đứa bé không nói được, lúc sáu tháng tuổi bé chỉ bập bẹ các vần. Nó là một sinh vật bất lực, la hét được nhưng không nói được, trong khi con non của động vật có tiếng kêu đặc thù. Tiếng kêu của chúng thật ra yếu ớt và rên rỉ, nhưng chó con phát ra tiếng sủa thật, mèo con kêu “meo meo” và cừu con kêu “be be”; nói chung, chúng đều có ngôn ngữ của chúng, chứ không chỉ la hét và khóc như những đứa con của loài người, thứ sinh -Ạt ngu ngơ nhất trong các loài. Sẽ lầm lẫn to nếu nghĩ rằng sự yếu ớt của cơ bắp ngăn cản em bé đứng lên và ngồi thẳng, hay cho rằng thiếu khả năng cử động nhịp nhàng là tính bầm sinh ở người. Không thể nghi ngờ sức lực của cơ bắp trẻ sơ sinh như ta đã thấy qua sự xô đẩy hay chống cự của tứ chi của bé. Và không gì có thể xem là hoàn hảo hơn sự phối hợp khó khăn của động tác bú và nuốt mà các em bé có được ngay từ đầu. Thiên nhiên đã huấn luyện đứa bé khác hơn so với con non của động vật. Thiên nhiên đặt lĩnh vực vận động ra khỏi sự lệ thuộc vào cái áp đặt độc đoán của bản năng. Bản năng rút lui; cơ bắp mạnh mẽ và tuân phục chờ đợi mệnh lệnh mới; chúng chờ sự chỉ huy của ý chí điều khiển chúng để phục vụ tinh thần của con người. Chúng phải bộc lộ không chỉ các đặc tính chung của giống loài mà còn của một tâm hồn riêng lẻ của cá nhân. Các bản năng của giống loài cũng chắc chắn sẽ xuất hiện và áp đặt một số đặc tính cơ bản: ta biết rằng tất cả những đứa trẻ bình thường đều sẽ đi theo dáng đứng thẳng lưng và sẽ biết nói. Nhưng mỗi đứa trẻ sẽ biểu lộ những biến đổi có tính cá nhân bất ngờ và đó là một điều bí ẩn. Với những con thú nhỏ, ta biết chúng sẽ ra sao khi hoàn toàn trưởng thành; một con nai sẽ có chân nhanh nhẹn; một con voi sẽ có dáng đi chậm chạp và nặng nề; một con hổ sẽ hung tợn với đôi hàm khỏe; và một con thỏ sẽ hiền lành và ăn cây cỏ. Những đặc tính này sẽ không thay đổi hay đảo ngược. Nhưng con người có thể làm bất cứ điều gì. Cái vẻ ù lì bên ngoài chuẩn bị những điều bất ngờ của cá tính. Cái tiếng không ra lời rồi một ngày sẽ thành lời, nhưng chúng ta không biết đó sẽ là ngôn ngữ nào. Trẻ sẽ nói thứ tiếng mà nó tiếp thu được khi lắng nghe những người xung quanh, và với cố gắng lớn lao, bé sẽ tạo nên âm, vần và cuối cùng là từ ngữ. Bé sẽ là người xây đựng cho riêng mình tất cả các chức năng trong quan hệ với môi trường; bé sẽ là kẻ sáng tạo ra bản thể mới của nó. Do đó sự kích hoạt các cơ quan vận động của bé là sự nhập thể chức năng của cá thể với những đặc điểm của riêng nó. Cái thông thường vẫn được biết như là thể xác là một hợp phức của những cơ quan vận động mà sinh lí học gọi là các cơ bắp cử động theo ý. Như tên gọi đã hàm ý, chúng có thể vận động theo ý (của chủ thể - ND). Không có gì cho thấy rõ hơn rằng vận động gắn chặt với đời sống tinh thần. Nhưng nếu không có các cơ quan là công cụ của ý chí, thì ý chí không làm được gì cả. Ngay các bản năng của sinh vật, ở loài nào cũng vậy, từ những loài côn trùng nhỏ bé nhất, cũng không thể tự biểu lộ nếu không có các cơ quan vận động, ở dạng tiến hóa cao như con người, hệ cơ cực kì phức tạp và nhiều đến nỗi các sinh viên môn cơ thể học nói rằng, “để nhớ tất cả các cơ, bạn sẽ phải quên chúng bảy lần”, về mặt chức năng, chúng phối hợp để thực hiện các hành động phức tạp nhất, có cái gây kích thích, có cái gây ức chế, có cái chỉ có thể tiến tới, nhưng cái khác chỉ thụt lùi. Vậy mà, với tất cả các chức năng đối lập nhau, chúng không hoạt động trong mâu thuẫn mà là trong hài hòa. Mỗi kích thích được điều chỉnh bằng một ức chế, do đó luôn đồng hành, cái tiến tới được kết hợp với cái thụt lùi. Chúng thực sự là những hiệp hội, những nhóm đoàn kết trong cùng một động tác, và do đó cử động có thể trở nên vô cùng tỉnh tế, như ta thấy ở một vũ công, trong bàn tay của người chơi vĩ cầm, người có thể truyền tải những động tác tinh tế nhất đến cây cung (vĩ) của đàn. Mỗi động tác là sự kết hợp của các đối nghịch, mỗi cải thiện tinh tế hơn huy động cái gần như là một đội quân của các cơ, hành động cùng lúc với nhóm đối kháng, và trong cả hai trường hợp, sự hoàn hảo được đạt đến trải qua một thời gian chuẩn bị. Nếu sự chuẩn bị này không được trao hẳn cho thiên nhiên, và đúng ra, nếu một phần, phần cao nhất, bao hàm định hướng và xây dựng, được trao phó cho mệt năng lượng của cá thể, cái năng lượng chồng bên trên thiên nhiên có tính thiên nhiên-trên- thiên nhiên này, thì đây chính là sự kiện đầu tiên chúng ta nên xét đến ở con người. Nói rõ hơn, tinh thần sinh động của con người phải nhập thể để có thể hoạt động, tự biểu lộ ra trong thế giới. Đây là chương sách đầu tiên trong cuộc đời của đứa trẻ, đó là nhiệm vụ đầu tiên của con người trong cuộc sống. Nếu có một sự nhập thể cá nhân chỉ đạo sự phát triển tinh thần của đứa trẻ, thì đứa trẻ phải sở hữu một đời sống tinh thần trước khi có đời sống vận động, đời sống tinh thần này hiện hữu trước và cách biệt với bất cứ biểu hiện bên ngoài nào. Ngập ngừng và mong manh, nó hiện ra ở ngưỡng cửa của ý thức, sắp đặt các giác quan vào mối tương quan với môi trường của chúng, và lập tức tác động qua các cơ bắp trong nỗ lực tìm cách biểu lộ. Có một tác động hỗ tương giữa cá thể, hay đúng hơn giữa phôi thai tinh thần, và môi trường của nó, và qua sự hỗ tương này, cá nhân tự hình thành, tự hoàn chỉnh chính nó. Hoạt động hình thành sơ khai này có thể so sánh với chức năng của cái túi đập theo nhịp tượng trưng cho quả tim trong phôi thai của thể chất, và đẩy chất dinh dưỡng đến tất cả các phần của cơ thể phôi thai, trong khi chính nó cũng tiếp nhận chất lọc từ mạch máu của người mẹ, môi trường sống của nó. Vậy tính cá thể về mặt tinh thần phát triển và tự tổ chức quanh hành động của cái nguyên tắc động lực này trong tương quan với môi trường bên ngoài. Đứa trẻ gắng sức hấp thu môi trường của nó và từ những nỗ lực như vậy, xuất phát sự thống nhất sâu xa của nhân cách đứa trẻ. Công cuộc lao động kéo dài và từ từ này là một quá trình liên tục, nhờ đó tinh thần chiếm lấy cái phương tiện của nó. Nó phải liên tiếp duy trì chủ quyền bằng chính sức lực của nó, nếu không, cử động sẽ nhường chỗ cho bất động hay trở thành cử động đồng loạt và máy móc. Nó phải liên tục chỉ huy, để sự vận động, khi được tách khỏ! sự chỉ đạo của một bản năng cố định, sẽ không bị chìm trong hỗn độn. Từ đó mà có thể thấy rằng sáng tạo là luôn luôn ở trong quá trình hiện thực, là một năng lượng có tính xây dựng luôn mới mẻ, là sự lao động không ngừng nghỉ của tình thần đang nhập thể. Và thế là nhân cách của con người tự tạo ra chính nó, giống như phôi thai, và đứa trẻ trở thành kẻ sáng tạo ra con người, đứa trẻ là cha của con người. Chương 3 TRÍ TUỆ ĐANG HÌNH THÀNH Những giai đoạn mẫn cảm Tính nhạy cảm ở trẻ sơ sinh, trước khi nó kích hoạt các phương tiện tự biểu lộ, dẫn đến một cấu trúc trí tuệ sơ khai có lẽ vẫn chưa bộc lộ ra. Có điều gì đó huyền nhiệm khi ta nghĩ rằng đứa bé nhỏ nhất cũng đã có đời sống tinh thần. Ý nghĩ này có thể dẫn ta đến sự chiêm ngắm đứa trẻ sơ sinh trong cùng một tinh thần giống như khi ta chiêm ngắm Giêsu Hài Đồng trong tôn giáo, như là sự nhập thể của một Đấng Thượng Đế thật sự hiện diện trong thân thể bé nhỏ kia. Vậy, chúng ta có thể tưởng tượng rằng có một linh hồn con người ẩn giấu trong cơ thể non nớt, chưa tự làm được việc gì của một em bé, một linh hồn đã phát triển và nhạy cảm, cho dù vẫn còn dại khờ. Nhưng quan niệm này không đúng. Cũng giống như ta nói rằng đứa trẻ sơ sinh đã có sẵn một ngôn ngữ hoàn chỉnh, nhưng các cơ quan phát âm vẫn còn bất lực, chưa có khả năng để biểu lộ. Cái đã có mới chỉ là một thiên hướng cho năng lực ngôn ngữ. Và, tương tự, cũng có thể áp dụng cho toàn bộ phức thể tâm lí mà ngôn ngữ là cái được biểu lộ. Em bé có một khả năng sáng tạo, một năng lượng tiềm tàng sẽ giúp nó có thể xây lên cả một thế giới tinh thần từ thế giới xung quanh nó. Trong việc này, bé sẽ gặp cản trở, nó phải đấu tranh cho sự hiện hữu về tinh thần, dù chưa có ý thức về cái tinh thần đó, nhưng nó vẫn có thật, với những hậu quả không ngăn được đối với mức cuối cùng của sự thành tựu của nó. Nếu không ai giúp nó, nếu môi trường không được chuẩn bị để tiếp đón nó, nó sẽ là một sinh vật luôn gặp hiểm nguy trong đời sống tinh thần. Ta có thể nói rằng khi đó đứa trẻ nhỏ bị đặt trong tình thế nguy hiểm, bị bỏ rơi giữa thế gian. Trong quá trình phát triển tâm lí, đứa bé hoàn thành nhiều điều kì diệu như là những phép lạ vậy, và chỉ do thói quen mà chúng ta đã trở thành những khán giả thờ ơ. Làm sao một đứa trẻ như vậy, đến từ hư vô, tự định hướng được trong cái thế giới phức tạp này? Làm sao nó phân biệt được vật này với vật khác, và do sự kì diệu nào mà nó thành công trong việc học một ngôn ngữ đặc biệt với nhiều chi tiết, không cần thầy, chỉ đơn giản học trong đời sống? Bé học đơn giản và vui vẻ, không mệt mỏi, trong khi một người lớn khi phải tự định hướng trong môi trường mới, sẽ phải cần đến rất nhiều trợ giúp, và để học một ngôn ngữ mới, sẽ phải trầy trật và không bao giờ đạt được sự hoàn hảo như trường hợp được học nói tiếng mẹ đẻ từ khi còn thơ. Chỉ mới gần đây chúng ta mới có thể tự hỏi rằng một sự phát triển như thế đã dựa vào điều gì và một sinh vật sống tăng trưởng như thế nào. Khi nói về sự phát triển, sự gia tăng của ý thức, chúng ta nói đến một sự kiện thấy rõ bên ngoài, gần đây chúng ta mới hiểu được cơ chế bên trong của vấn đề này. Khoa học hiện đại đã tạo thuận lợi cho những nghiên cứu khảo sát như thế qua hai cách. Một là qua nghiên cứu về các tuyến nội tiết tác động đến sự tăng trưởng, những khám phá trong lĩnh vực này đã ngay lập tức khơi đậy mối quan tâm do ảnh hưởng lớn lao của chúng đối với sự chăm sóc trẻ em trong thực tiễn. Cách kia là nghiên cứu các giai đoạn mẫn cảm, đã chiếu rọi ánh sáng lên sự phát triển về tinh thần của đứa trẻ. Chính nhà khoa học người Hà Lan Hugo de Vries là ngươi đã khám phá ra những giai đoạn nhạy cảm trong đời sống động vật, nhưng chính chúng tôi, ở trường của mình, quan sát đời sống của trẻ trong gia đình, là những người đầu tiên đã phát hiện các giai đoạn mẫn cảm trong thời ấu thơ, và đã đáp ứng lại theo quan điểm về giáo dục. Các giai đoạn này tương ứng với những sự nhạy cảm đặc biệt phát hiện thấy ở các sinh vật đang trong quá trình phát triển, chúng có tính chuyển tiếp và được giới hạn cho việc thụ đắc một đặc tính đã ấn định. Một khi đặc điểm này đã thay đổi, sự nhạy cảm tương ứng cũng biến mất. Vậy là, mỗi đặc điểm được thiết lập nên là nhờ có sự trợ giúp của một kích thích, của một sự mẫn cảm nhất thời kéo dài trong một giai đoạn tăng trưởng có giới hạn, tức là trong giai đoạn mẫn cảm tương ứng. Vì vậy tăng trưởng không phải là cái gì mơ hồ, một sự di truyền bẩm sinh bất biến, mà là một công việc được hướng dẫn tỉ mỉ bởi những bản năng nhất thời đem đến một sự thôi thúc hướng tới những hoạt động đã được ấn định, và những hoạt động này thường khác biệt lạ thường với những hoạt động của cùng cá thể ở giai đoạn trưởng thành. Trong sinh học, De Vries là người đầu tiên nghiên cứu các giai đoạn này, và thấy chúng xuất hiện rõ rệt ở các sinh vật đã đạt đến mức trưởng thành qua sự lột xác như trong trường hợp các côn trùng. Một ví dụ là ở con sâu bướm, sâu bướm phải ăn những búp lá rất non, thế nhưng con bướm lại đẻ trứng ở cái chạc ba nhánh kín nhất, gần thân cây. Ai sẽ chỉ cho các con sâu bướm nhỏ xíu ẩn kín ở đó, khi chúng chui khỏi vỏ rằng những lá mềm chúng cần ăn đều ở phía ngọn của nhánh, trong ánh sáng? Ở giai đoạn này, con sâu bướm cực kì nhạy cảm với ánh sáng. Ánh sáng thu hút, mời gọi nó như một tiếng gọi khó cưỡng, mê hoặc nó, và thế là con sâu ngọ nguậy bò lần đến nơi sáng nhất, tới khi nó đến tận cùng ngọn nhánh, và trong cơn đói cồn cào, nó thấy mình ở giữa những chồi lá non mềm có thể nuôi dưỡng nó. Điều kì lạ là khi con sâu bướm đã trải qua giai đoạn đầu tiên của nó và đã tăng trưởng hết mức, nó có thể ăn thức ăn khác và đến khi đó nó bỗng mất đi sự nhạy cảm với ánh sáng. Điều này đã được chứng minh trong các phòng thí nghiệm khoa học. Trong một cái hộp tối chỉ có con sâu và ánh sáng, con sâu sẽ bò nhanh về phía bất cứ tia sáng nào xuyên qua một cái lỗ trong hộp tối nơi nó bị nhốt làm thí nghiệm. Sau một thời gian nào đó, nó hoàn toàn dửng dưng với các tia sáng. Bản năng này không còn tác động đến nó nữa. Con sâu bướm sẽ đi theo những hướng khác, tìm những lối sống khác. Một sự nhạy cảm tác động tương tự bỗng nhiên biến con sâu, đã từng rất tham ăn phá hoại các cây cối đẹp đẽ, thành một kẻ khổ hạnh ăn kiêng. Kiêng cữ khắt khe, nó xây nên một thứ “quan tài” để chôn mình trong đó như không còn sống và công việc này nó làm thật ráo riết và khó cưỡng. Chôn mình như thế, nó sẽ chuẩn bị cho giai đoạn cuối; là sự ra đời của con bướm đẹp đẽ với đôi cánh lộng lẫy. Chúng ta biết rõ rằng ở các ấu trùng của loài ong, có một giai đoạn mà mỗi con ong cái đều có thể trở thành ong chúa. Nhưng bầy ong chỉ chọn một trong số đó. Các con ong thợ chuẩn bị một chất dinh dưỡng đặc biệt chỉ riêng cho con ong được chọn, cái mà các nhà động vật học gọi là “sữa ong chúa” được nó ăn ngấu nghiến. Thế là con ong được đặc ân nuôi bằng yến tiệc vua chúa này trở thành ong chúa của bầy. Nhưng sau một thời gian, nếu những con ong thợ muốn chọn con ấu trùng cái khác và cũng nuôi bằng sữa ong chúa tốt nhất, con ấu trùng này sẽ không bao giờ có thể trở thành ong chúa; giai đoạn thèm ăn dữ dội đã qua và cơ thể của nó không còn khả năng để phát triển như thế nữa. Những sự kiện này có thể giúp chúng ta thấu hiểu được then chốt của vấn đề, kể cả khi nó liên quan đến con trẻ của loài người, sự khác biệt to lớn là giữa động lực sinh động thúc đẩy thực hiện những hành động tuyệt vời đáng sửng sốt và sự lãnh đạm dẫn tới sự mù quáng và thiếu khả năng. Người lớn không thể làm gì được từ bên ngoài để tác động lên những trạng thái khác nhau này. Trong những giai đoạn nhạy cảm, đứa trẻ lĩnh hội nhiều thứ, những cái sẽ đặt nó vào trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài một cách cực kì mãnh liệt. Tiếp theo đó, mọi sự đều dễ dàng; tất cả đều là nhiệt huyết, là sự sống, mỗi nỗ lực đều là một sự gia tăng quyền năng cho mình. Và khi một số đam mê tinh thần này tàn lụi đi, thì những ngọn lửa khác lại nhen lên, thế là tuổi ấu thơ trải qua một loạt các chinh phục, trong một sự sôi nổi liên tục đầy sức sống mà ta gọi là niềm vui và sự giản dị. Công việc sáng tạo ra thế giới tinh thần của con người đã diễn ra qua chính cái ngọn lửa đẹp đẽ bùng cháy không tàn này. Vì vậy, cái sinh lực đầy phấn chấn của đứa trẻ là điều lí giải cho các phép lạ về sự chinh phục tự nhiên cần quan sát trong sự phát triển về tinh thần. Vậy là, cái ta gọi bằng thuật ngữ “nhập thể” và các giai đoạn mẫn cảm có thể so sánh được với lỗ nhòm để nhìn vào các quá trình nội tại của trí tuệ đang thành hình, để chúng ta thấy thực sự các cơ quan bên trong đang làm việc và xác định sự phát triển tinh thần của đứa trẻ như thế nào. Thế nên, chúng ta đã thấy rõ là sự phát triển tâm lí không xảy ra một cách ngẫu nhiên và không xuất phát từ các kích thích bên ngoài; nó được chỉ đạo bởi các nhạy cảm nhất thời, bởi các bản năng tạm thời kết nối với sự thụ đắc một số đặc điểm nào đó. Mặc dù sự phát triển này diễn ra bằng những phương tiện nằm ở thế giới bên ngoài, cái thế giới này không có tính xây dựng nào. Nó chỉ đơn thuần cung cấp những phương tiện cần thiết cho đời sống tinh thần, giống như cơ thể, do ăn và thở, tiếp thu từ môi trường bên ngoài những phương tiện cần thiết cho đời sống vật chất. Những sự mẫn cảm nội tại, mà chúng tôi đã đề cập, quyết định sự chọn lọc những gì cần thiết từ một môi trường đa diện và chọn lọc những tình huống thuận lợi cho sự phát triển. Hướng dẫn này được thể hiện qua cách làm cho đứa trẻ chỉ nhạy cảm với một số điều nào đó, nhưng lại để nó thờ ơ với những thứ khác. Khi trẻ tỏ ra mẫn cảm với cái gì đó, lúc đó như thể có một ánh sáng đến từ đứa trẻ chỉ chiếu rọi vào cái đó mà không vào thứ gì khác, và từ những thứ đó mà thế giới của đứa trẻ được tạo thành. Nhưng đây không chỉ là vấn đề của một khát khao mãnh liệt tự đặt mình vào những hoàn cảnh nào đó, hoặc chỉ để hấp thu các nhân tố nào đó. Đứa trẻ có một khả năng đặc biệt, độc nhất khiến trẻ sử dụng những mẫn cảm này để lớn, bởi chính trong giai đoạn nhạy cảm mà trẻ thụ đắc một số khả năng tâm lí, như khả năng tự định hướng trong môi trường bên ngoài, và trở nên có khả năng kích hoạt các cơ quan vận động của nó với tất cả những cái đặc thù kín đáo và tinh tế của chúng. Trong những mối quan hệ nhạy cảm này giữa đứa trẻ và môi trường của nó, ta có thể tìm ra chìa khóa dẫn đến ngõ ngách bí ẩn nơi phôi thai tinh thần hoàn tất các phép lạ của sự tăng trưởng. Chúng ta có thể mường tượng được cái hoạt động sáng tạo này như một loạt cảm xúc nhiệt tình trỗi dậy từ tiềm thức, qua sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà xây dựng nên ý thức của con người. Bắt đầu từ sự hỗn độn, chúng đạt đến sự phân biệt rõ ràng, rồi tạo ra hoạt động, ví dụ như trong thành tựu về tiếng nói. Lúc đầu các âm thanh của môi trường thật lộn xộn và hỗn độn, không sao phân biệt được và bỗng nhiên chúng trở nên rõ ràng, quyến rũ, mê hoặc, những âm thanh riêng lẻ của một ngôn ngữ rõ ràng tuy vẫn chưa hiểu được, và trí tuệ, lúc ấy dù chưa có tư duy, nghe thấy một thứ âm nhạc ngập tràn thế giới. Rồi sau đó, chính các thớ thịt trong bản thân đứa bé được kích động, không phải tất cả, mà chỉ những cái giờ đây phải đóng vai trò của chúng, dù trước đây vẫn ẩn tàng, chỉ rung lên qua những tiếng kêu lộn xộn vô nghĩa. Bây giờ chúng đã đánh thức trong một chuyển động đều đặn, có trật tự, thay đổi cách vang rung và do đó một nhịp độ và tiết tấu mới được chuẩn bị cho cái vũ trụ của phôi thai tinh thần. Nhưng chính nó đang sống mãnh liệt trong thì hiện tại và hoàn toàn tập trung vào hiện tại, chưa hề biết tới sự huy hoàng của bản thể tương lai của nó. Dần dần, đôi tai nghe được âm thanh, cái lưỡi trước đây chỉ giữ vai trò bú mút cũng được kích hoạt theo động tác mới, bây giờ bắt đầu cảm thấy một rung động hướng nội và như thể có một lực khó cưỡng, lôi cuốn nó tìm kiếm cổ họng, đôi môi, gò má. Những rung động này là sự sống, nhưng chưa phục vụ một mục đích nào, chỉ đem đến niềm khoái lạc khôn tả. Một giai đoạn mẫn cảm đang hoạt động, một mệnh lệnh thần thánh đang thổi qua các vật bất động, kích hoạt chúng bằng sinh khí của tinh thần. Vở diễn nội tại trong đời sống của đứa bé là một vở diễn về tình yêu. Tình yêu theo nghĩa rộng lớn nhất của nó là thực tại lớn lao duy nhất, biến hóa trong các hốc ẩn kín của tâm hồn và đôi lúc hoàn toàn tràn ngập tâm hồn. Những hoạt động kì diệu này không biến đi mà không để lại những dấu vết không phai mờ, qua đó con người sẽ thành kẻ vĩ đại hơn, và trao cho nó những đặc điểm cao quý hơn, sẽ đi theo nó suốt đời; tất cả đều đang diễn ra trong sự im lặng khiêm nhường. Tất cả những điều này diễn ra lặng lẽ và không thể nhận thấy được, chừng nào các điều kiện môi trường bên ngoài còn phù hợp tương ứng với những nhu cầu nội tại của đứa trẻ. Chẳng hạn như trong trường hợp tiếng nói, đây là một trong những quá trình kích hoạt khó khăn nhất, tương ứng với giai đoạn nhạy cảm dài nhất, nó nằm tiềm ẩn vì đứa trẻ luôn được bao quanh bởi những người biết nói, và do đó họ cung cấp cho trẻ những yếu tố cần thiết cho thành tựu của nó. Dấu hiệu duy nhất bộc lộ ra bên ngoài cho thấy trạng thái mẫn cảm của đứa bé là nụ cười của nó, là niềm vui rõ ràng nó bộc lộ ra khi chúng ta trực tiếp nói với trẻ bằng những từ ngắn, phát âm rõ ràng, để nó có thể phân biệt như ta phân biệt âm thanh của hồi chuông. Hoặc chúng ta thấy đứa trẻ trở nên yên tĩnh trong bình an hạnh phúc vào buổi tối khi có người lớn ca bài ru em, lặp đi lặp lại những từ giống nhau; chính trong trạng thái thích thú như thế mà trẻ rời thế giới ý thức để đi vào thế giới của giấc mộng. Bởi vì chúng ta biết rõ điều này nên chúng ta nói với đứa trẻ những lời dịu dàng ve vuốt để nhận được nụ cười đầy sức sống của nó; và đây là lí do tại sao từ thời xa xưa cha mẹ vào buổi tối lại đến bên con trẻ đang chờ đợi và đòi được nghe lời ca và tiếng nhạc với sự khẩn khoản của kẻ xin được an ủi khi sắp chết. Đó là những bằng chứng tích cực về tính nhạy cảm sáng tạo của trẻ. Nhưng cũng có những bằng chứng rõ ràng hơn, với ý nghĩa tiêu cực. Đó là những điều bộc lộ ra khi có những hoàn cảnh bên ngoài nào đó ngăn cản hoạt động bí ẩn nội tại của trẻ, gây nên những xáo trộn dữ dội và những méo mó dẫn đến những khiếm khuyết sẽ lưu lại suốt đời. Nếu đứa trẻ không có khả năng làm việc phù hợp với những hướng dẫn trong giai đoạn nhạy cảm của nó, thì có nghĩa là nó đã mất đi cơ hội chinh phục tự nhiên và sẽ mất hẳn cơ hội đó. Khi có cái gì trong môi trường của nó cản trở hoạt động bên trong của nó, sự hiện hữu của một giai đoạn nhạy cảm được bộc lộ qua những phản ứng dữ dội, trong một nỗi tuyệt vọng ta nghĩ là vô cớ, và do đó bị xem là “ngỗ nghịch” và tính khí thất thường. Ngỗ nghịch là một biểu hiện của sự rối loạn bên trong hay của một nhu cầu không được thỏa mãn, một trạng thái căng thẳng; tâm hồn của trẻ lên tiếng khóc đòi cái nó cần, để tự vệ. Điều này được bộc lộ qua sự gia tăng hoạt động vô ích và không ngừng nghỉ, tương tự cơn sốt cao thường hay xảy ra ở các em bé mà ta không biết được nguyên nhân, về mặt thể chất. Ta thường thấy trẻ em bị thân nhiệt cao đáng ngại khi bị bệnh nhẹ mà nếu ở trường hợp người lớn thì hầu như chẳng có chuyện gì, cơn sốt chợt đến rồi cũng chợt biến nhanh. Tương tự, ở lĩnh vực tâm lí, ta có thể thấy trạng thái kích động dữ dội xuất phát từ nguyên nhân cực nhỏ, tương ứng với sự nhạy cảm cực độ của đứa bé. Ai cũng từng biết về những phản ứng này, và thật vậy, những cơn nổi nóng thất thường của trẻ nhỏ hầu như từ lúc sinh ra đều được xem là bằng chứng của tính xấu bẩm sinh của bản chất con người. Tuy nhiên, nếu mỗi sự rối loạn chức năng được xem là bệnh về chức năng, chúng ta cũng phải gọi rối loạn tâm thần tác động cả đời người là bệnh về chức năng, cơn “ngỗ nghịch” đầu tiên của bé là cơn bệnh đầu tiên của tâm hồn một con người. Những phản ứng dữ dội này đã được quan sát vì những sự kiện bệnh lí rõ ràng luôn là những cái đầu tiên được ta để ý đến ngay; không phải sự yên tĩnh mà chính sự mất yên tĩnh tự lộ ra như một vấn đề mà ta cần suy nghĩ. Những gì hiển nhiên nhất của thiên nhiên không phải là các quy luật của nó mà là các lệch lạc của thiên nhiên. Do vậy không ai để ý thấy các dấu hiệu bên ngoài khó nhận thấy của nhiệm vụ sáng tạo sự sống hay những chức năng tiếp theo làm công việc duy trì sự sống đó. Các sự kiện sáng tạo và bảo tồn đều bị giấu kín. Trong hoạt động của cơ thể, cơ chế của các cơ quan nội tạng thật sự kì diệu, nhưng không ai nhìn thấy hay để ý đến chúng. Ngay cả người được sống nhờ vào các cơ quan này cũng không nhận thức được sự sắp đặt lạ lùng của chúng. Thiên nhiên làm việc mà không hiển lộ, và ta gọi sự cân bằng hài hòa giữa các năng lượng tổng hợp là sức khỏe, là sự bình thường. Sức khỏe! chuyện đơn giản, nhưng lại có nghĩa là sự chiến thắng trong từng chi tiết, là sự chiến thắng của mục đích đối với mọi nguyên nhân. Chúng ta khách quan ghi nhận mọi chi tiết về căn bệnh mặc dù vẫn chưa hiểu biết đầy đủ những điều kì diệu của hiện tượng sức khỏe. Đúng là trong lịch sử y khoa, từ thời xa xưa nhất con người đã hiểu biết về bệnh tật. Chúng ta tìm được vết tích lưu lại của người tiền sử về cách trị bệnh bằng giải phẫu, trong khi nguồn gốc khoa y học đã có từ các nền văn minh của Hi Lạp và Ai cập. Nhưng khám phá về những chức năng của các cơ quan nội tạng thì mới có gần đây. Khám phá về tuần hoàn của máu là vào thế kỉ 17, còn cuộc giải phẫu đầu tiên trên cơ thể con người với mục đích tìm hiểu về cơ quan nội tạng của nó diễn ra vào năm 1600. Chính bệnh lí học, có nghĩa là bệnh tật, đã gián tiếp dẫn đến việc khám phá ra các bí ẩn của sinh lí học, hay của những chức năng bình thường. Do đó, ta không nên ngạc nhiên khi người ta chỉ biết đến những chứng bệnh tâm thần của trẻ em, còn hoạt động bình thường của tâm hồn đứa trẻ thì vẫn bị che khuất hoàn toàn trong bóng tối. Và điều này càng dễ hiểu hơn do sự tinh tế cực kì của những chức năng tâm thần đó, chúng hoạt động trong bóng tối, trong bí mật, không thể biểu lộ ra ngoài. Do đó, nói rằng người lớn chỉ biết về các rối loạn tâm lí của đứa trẻ mà không biết gì về sức khỏe tâm thần của nó sẽ gây sửng sốt nhưng lại không vô lí. Tâm lí khỏe mạnh vẫn bị che khuất, giống như các lực khác trong vũ trụ vẫn cần được khám phá. Nếu hẳn như vậy, một khi ta phải xem đứa bé là một trong những lực còn giấu kín, vẫn còn là điều bí mật đối với chúng ta, và nếu đời sống tinh thần của đứa trẻ phát triển trong tình trạng rối loạn chức năng và bệnh tật, thì hậu quả đương nhiên sẽ là một loạt méo mó dị dạng cùng với sự mù lòa, yếu ớt và ngừng phát triển. Đây không phải là chuyện tưởng tượng, mà chính là thực tại. Những nguyên nhân nho nhỏ xảy ra trong giai đoạn đầu của sự sống có thể dẫn đến sự chệch hướng nghiêm trọng; con người lớn lên và trưởng thành dưới một cái vẻ đặc trưng khác hẳn, không còn là chính nó nữa. Sự chăm sóc cần thiết Người lớn không trợ giúp bởi họ không hiểu những nỗ lực của trẻ, và do đó không nhận ra phép lạ đang diễn ra, phép lạ của sự sáng tạo từ cái gần như không có, như thể sự sáng tạo đang được thực hiện bởi một sinh thể không có đời sống tinh thần. Nhờ quan niệm này mà chúng ta có được một phương cách cư xử mới đối với đứa trẻ vốn vẫn bị coi như là một cơ thể nhỏ sống lay lắt, có nhu cầu cấp bách được chăm sóc về thể chất, và chỉ có thế. Ngày nay, điều ưu tiên trước nhất phải là một thái độ mong chờ các biểu hiện của trí tuệ: trong việc chăm sóc trẻ, chúng ta phải quan tâm không chỉ đến cái đang có mà còn phải chú ý đến cái sẽ có. Người lớn không được nhắm mắt trước cái thực tại tinh thần đang trong quá trình trở thành hiện thực dù là ở một đứa trẻ sơ sinh; người lớn phải theo dõi sự phát triển sơ khởi của bé và khuyến khích nó. Người lớn không cần phải giúp đỡ đứa bé tự thành hình, vì đó là việc của thiên nhiên, nhưng người lớn phải tỏ sự tôn trọng tế nhị đối với các biểu hiện của cái hiện thực tinh thần này, cung cấp cho nó cái nó cần nhưng không thể cung cấp cho sự hình thành của chính nó. Nói một cách ngắn gọn, người lớn phải tiếp tục cung cấp một môi trường thích hợp cho cái phôi thai tinh thần, giống như thiên nhiên dưới dạng người mẹ đã cung cấp một môi trường thích hợp cho cái phôi thai vật chất. Để chứng minh sự hiện hữu của đời sống tinh thần trong đứa trẻ nhỏ bé nhất, chúng ta không cần đến các thí nghiệm khoa học, hiểu theo nghĩa tâm lí học thực nghiệm, như đã từng được tiến hành bởi một số nhà tâm lí học hiện đại khi họ tìm cách kích thích các giác quan của trẻ để thu hút sự chú ý của nó, họ mong sẽ thấy được các phản ứng vận động như thế và xem đó là dấu hiệu của một phản ứng tâm lí. Trước hết, đây không phải là một điều có thể chứng minh, ngoại trừ ở một giai đoạn (đúng ra có thể xảy đến trong vòng năm đầu đời) khi một sự phối hợp tâm lí của các cơ quan của vận động đã được thiết lập, có nghĩa là, khi quá trình kích hoạt hay nhập thể đang diễn ra. Ấy thế nhưng nhất thiết phải có một sự sống tinh thần, dù là ở dạng phôi thai, cái sự sống tinh thần có trước bất cứ sự kích hoạt nào của vận động tùy ý, nói cho thật chính xác, đó là vì tinh thần đang kích hoạt động tác ấy. Dạng thức kích hoạt sớm nhất được tạo ra bởi cảm xúc. Ví dụ, như Levine đã cho thấy trong các bộ phim về tâm lí, khi đứa trẻ muốn một vật nào, nó phóng cả cơ thể lao vào vật ấy, và phải một thời gian lâu hơn sau đó, khi đã có được sự phối hợp các cơ quan vận động, đứa trẻ mới có thể tách biệt hành động này với hành động khác, ví dụ như vươn tay đến món đồ nó muốn. Một ví dụ khác có thể thấy ở bé bốn tháng tuổi, nó dán mắt vào đôi môi của một người đang nói và đôi môi nó biểu lộ những cử động mơ hồ, không âm thanh và đặc biệt là cái nhìn chăm chú trên gương mặt của bé, cho thấy bé hoàn toàn bị thu hút bởi hiện tượng thú vị trước mặt. Nhưng sau đó, chỉ sau sáu tháng, bé có thể bắt đầu phát ra một âm tiết, vậy là, trước khi đứa bé phát ra được những âm thanh rõ ràng, bé đã có một mối quan tâm mang tính xúc cảm rõ rệt, tích lũy âm thanh và bí mật chuẩn bị kích hoạt các cơ quan phát âm; vậy là, trước khi hành động, trẻ đã bị một nhân tố kích hoạt. Những sự nhạy cảm này là đối tượng của quan sát chứ không phải của thí nghiệm. Thật ra, những thí nghiệm do các nhà tâm lí học thực nghiệm thực hiện kiểu như vậy có lẽ thuộc vào những loại tình huống bên ngoài, chúng có thể gây tổn hại cho sự lao động bí mật của tâm thần ở trẻ sơ sinh vì đã sử dụng những năng lượng xây dựng trước thời điểm sẽ cần đến. Đời sống tâm thần của đứa trẻ phải được quan sát giống như Fabre đã quan sát côn trùng, đi tìm chúng trong môi trường tự nhiên của chúng, và ông đã ẩn mình để không tác động đến chúng. Và chúng ta cũng phải bắt đầu quan sát đứa trẻ trong thời gian khi các giác quan của trẻ, như các cơ quan cầm nắm, bắt đầu chụp lấy và tích lũy những ấn tượng có ý thức về thế giới bên ngoài; vì từ lúc đó, cũng bắt đầu nảy nở một cuộc sống tự phát theo môi trường bên ngoài của nó. Để giúp trẻ, ta không cần phát triển năng lực quan sát tinh vi khác thường hay có khả năng lí giải được nó. Chỉ cần một điều đơn giản hơn: đó là một tâm hồn đã được chuẩn bị để trợ giúp cái trí tuệ ẩn tàng của đứa trẻ. Rồi chỉ cần có sự khôn ngoan thông thường là đủ để ta đi theo được nó. Sự chăm sóc cần thiết vừa đơn giản lại thực tiễn, như tôi sẽ trình bày trong một vài ví dụ. Bắt đầu với một điều gì rất thông thường, người ta tin rằng vì đứa bé không thể ngồi dậy, nên bé phải luôn nằm thẳng. Và thế là các quan hệ giác quan đầu tiên của đứa bé với môi trường của nó là quan hệ với bầu trời hơn là với mặt đất, nhưng cảnh tượng bầu trời lại đúng là cái nó bị ngăn cản. Trong thực tế, trẻ nằm nhìn lên trần nhà của căn phòng, thường là có màu trắng và trơn nhẵn hoặc nhìn lên mui của chiếc xe đẩy. Ấy thế nhưng chính qua thị giác mà các ấn tượng đầu tiên phải được tiếp thu để nuôi dưỡng cái linh hồn đói khát. Những người quan niệm rằng đứa bé cần có cái để nhìn, đã nghĩ cách đặt các vật trước mặt bé, chứ không đem bé khỏi những điều kiện sai lầm đã tách biệt bé ra khỏi môi trường của nó. Bắt chước theo cách của các nhà tâm lí thực nghiệm, những người tốt bụng này sẽ treo một chuỗi quả bóng hay những đồ vật sặc sỡ trước cái nôi của bé. Em bé háo hức lĩnh hội hay đúng hơn là nó ngấu nghiến tiếp thu những hình ảnh từ môi trường của nó, bé đưa mắt dõi theo các trái bóng hay những món đồ chơi đang nhảy múa trước mặt, cơ thể bé cố vặn vẹo một cách không tự nhiên. Người lớn dùng một món quà nhân tạo, thô thiển về mặt hình thức lẫn vận động để áp đặt lên đứa bé và khiến chúng cố công cố sức tự tạo cho mình thành dị dạng. Thực ra, ta chỉ cần đặt đứa trẻ ở một nơi cao, trên một mặt phẳng hơi nghiêng, là đủ để trẻ có thể nhìn hết toàn cảnh, ít nhất là môi trường trong căn phòng của nó. Nhưng ta vẫn có thể đặt đứa trẻ theo cách đó trong khu vườn nơi hoa lá cây cỏ lung linh và các con thú đang chạy nhảy tạo thành một quang cảnh sống động cho bé. Các cảnh tượng cho em bé thám hiểm cần phải luôn giống như vậy trong một thời gian dài. Do nhìn thấy cũng những vật đó mà bé tập nhận ra chúng, luôn tìm thấy chúng ở cùng chỗ cũ, đồng thời bé học phân biệt được những chuyển động của những thứ đi chuyển do luồng không khí với các chuyển động của các sinh vật sống. Định hướng qua trật tự Một em bé mới một tháng tuổi chưa bao giờ ra khỏi nhà. Bảo mẫu của bé đang ôm bé trên đùi khi cha bé và một người chú sống trong nhà cùng lúc xuất hiện trước mặt bé. Cả hai người cao gần như nhau và cùng tuổi tác. Lúc đầu, bé nhìn sững sờ và gần như sợ hãi, cả hai đều ở trước mặt bé, nhưng đứng riêng, người đi về bên phải, người đi về bên trái. Em bé quay đầu chăm chú nhìn một trong hai người với vẻ lo lắng rõ rệt, và sau khi nhìn ông hồi lâu bé mỉm cười. Nhưng bỗng nhiên, nét mặt bé lại lộ vẻ lo âu, rồi thậm chí, bé tỏ ra sợ hãi. Với một động tác chớp nhoáng, bé quay đầu nhìn sang người kia, và sau khi nhìn một lúc, bé lại mỉm cười. Bé tiếp tục chuyển từ trạng thái lo âu sang mỉm cười gần hai mươi lần trước khi có một thứ ánh sáng vụt hiện trong bộ óc nhỏ bé của nó, và bé hiểu ra là có hai ông. Họ là những người đàn ông duy nhất mà bé đã thấy. Cả hai đều tíu tít vì bé, cho bé ăn, và nói lời trìu mến với bé, và bé đã hiểu ra việc có một kiểu người khác ngoài bà mẹ, bảo mẫu, và những người đàn bà khác mà bé đã có dịp để ý, nhưng chưa bao giờ thấy hai người đàn ông cùng một lúc, rõ ràng là trong đầu bé chỉ có một ông. Do đó, bé sợ vì bỗng nhiên nhận thấy rằng cái con người mà bé đã cố gắng phân loại từ đám hỗn độn kia đã biến thành hai người. Một đặc điểm của trẻ nhỏ là tình yêu trật tự. Các trẻ một tuổi rưỡi hay hai tuổi đã bộc lộ rõ ràng cái đã bộc lộ một cách mơ hồ từ trước đó; các bé cần sự trật tự trong môi trường xung quanh mình. Tình yêu trật tự này không thể so sánh được với điều người nội trợ tốt đã tuyên bố, “Tôi yêu cái nhà của tôi, tôi muốn nó phải luôn ngăn nắp”. Bà chỉ nói, nhưng em bé thì không thể sống trong hỗn loạn. Sự mất trật tự gây quấy rầy, xáo trộn cho đứa trẻ, và bé có thể bộc lộ nỗi đau khổ của mình bằng những tiếng khóc tuyệt vọng, hay một xáo động đôi khi như là cơn bệnh. Đứa bé nhận ra ngay lập tức có sự mất trật tự, điều mà người lớn và các trẻ em lớn hơn không để ý và nhận ra. Rõ ràng trật tự trong môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới sự mẫn cảm của bé rồi sẽ biến mất khi bé lớn lên. Vậy thì, đây đích thực là một trong những sự mẫn cảm có tính giai đoạn đặc thù ở các sinh vật đang trong quá trình phát triển và ta gọi là “giai đoạn mẫn cảm”; đây là một trong những giai đoạn quan trọng và bí ẩn nhất. Sẽ có vẻ bất thường và lạ lùng khi ta nói trẻ trải qua một giai đoạn nhạy cảm về trật tự bên ngoài, trong khi mọi người đều tin rằng trẻ em đương nhiên là bừa bãi. Lí do của điều mâu thuẫn này nằm trong sự kiện là bé không thể bộc lộ hết mình trong một môi trường không phải của chính nó, mà kẻ làm chủ môi trường là một người lớn mạnh hơn bé song lại không hiểu được bé, rồi với cách suy nghĩ của họ, họ lại cho bé là một sinh vật có tính khí thất thường. Nhưng chúng ta đã chẳng thường thấy một em bé khóc một cách vô vọng, không rõ lí do, hay như ta nói là do tính khí thất thường hay sao? Chúng ta đã chẳng thường thấy một em bé khóc mà không gì dỗ nín được hay sao? Trong tâm hồn của em bé, có những bí ẩn vẫn còn giấu kín đối với người lớn. Nhưng chỉ cần một gợi ý nho nhỏ, một lời hướng dẫn về sự hiện hữu của các nhu cầu bí mật này, để người lớn nhận ra chúng thì họ sẽ thấy tâm hồn của trẻ thơ bộc lộ các bí ẩn đó như thế nào. Trong trường chúng tôi, nếu có vật gì đặt không đúng chỗ, chính đứa trẻ hai tuổi sẽ nhận ra và để nó lại đúng chỗ. Điều này không xảy ra thường xuyên, vì theo lệ, trẻ hai tuổi không đến trường. Trẻ em phải cần tập thói quen, giữ mọi thứ ở đúng chỗ của nó, như ở trường chúng tôi, nơi tất cả những thứ thừa thãi đều bị loại bỏ. Chưa kể là để bộc lộ các xu hướng đó, trẻ em phải được tự do. Khá đông công chúng đã có thể quan sát hiện tượng như thế ở lớp học mẫu trong tòa nhà Trung tâm Triển lãm San Francisco vào năm khai trương Kênh đào Panama (1917). Có một đứa bé hai tuổi, sau giờ học, đã đem tất cả các ghế ngồi đặt lại vị trí của chúng dọc theo tường. Nó có vẻ như đang suy nghĩ trong lúc làm việc. Một ngày kia, đứng tựa vào một cái ghế to, nó có vẻ do dự, nó bỏ đi chỗ khác rồi trở lại đặt chiếc ghế ấy ra xa các ghế còn lại; ở đấy, đúng là vị trí thường đặt cái ghế lớn. Một lần khác, một đứa bé lớn hơn, khoảng bốn tuổi, khi rót nước từ một bình đựng sang bình đựng khác, làm rơi vài giọt trên nền nhà mà không để ý thấy. Một đứa bé tí hon đã lấy một miếng giẻ, ngồi xuống nền nhà và lau các giọt nước vừa rơi; đứa lớn không hề chú ý đến. Khi nước ngừng rơi, đứa nhỏ hỏi, “Không còn nữa hả?” “Còn cái gì?”, đứa lớn ngạc nhiên hỏi. Nhưng nếu môi trường không được chuẩn bị và em bé thấy mình đang ở giữa các người lớn, các biểu hiện thú vị từng xảy ra thật bình yên này, có lẽ sẽ trở thành một tình trạng khổ sở, một điều khó hiểu, hay một sự nghịch ngợm. Để có thể bất ngờ gây ra một biểu hiện tích cực về nhạy cảm này ở trẻ sơ sinh, như biểu hiện niềm vui và phấn chấn khi nhu cầu của trẻ được thỏa mãn, người lớn cần tìm hiểu khía cạnh này của tâm lí trẻ và hơn thế nữa cần lưu ý rằng giai đoạn mẫn cảm với trật tự tự bộc lộ trong những tháng đầu tiên của cuộc đời. Chỉ có các bảo mẫu được đào tạo theo các quy tắc của chúng tôi mới có thể đưa ra các dẫn chứng về điều này. Tôi có thể đưa ra ví dụ của một bảo mẫu đã quan sát được điều ấy khi cô đẩy một bé gái năm tháng tuổi trong xe đi chầm chậm trong phạm vi căn nhà, bé tỏ vẻ quan tâm đặc biệt và vui thích khi thấy một tấm đá cẩm thạch trắng ghép trên bức tường xám cũ kĩ. Mặc dù trên mặt đất có nhiều bông hoa xinh đẹp, bé luôn tỏ ra hào hứng và hài lòng khi xe đến gần tấm đá cẩm thạch. Do đó, mỗi ngày người bảo mẫu ngừng xe ngay trước đó, mặc dù ai cũng nghĩ rằng với một đứa trẻ sơ sinh thì tấm đá đó có lẽ là thứ cuối cùng có thể đem đến niềm thích thú thường trực cho nó. Mặt khác, có những cản trở mà qua đó ta dễ nhận thấy sự hiện hữu của một giai đoạn mẫn cảm; cớ lẽ đa số các trường hợp giận dữ ở lứa tuổi quá nhỏ xuất phát từ những sự mẫn cảm này. Tôi sẽ đưa ra vài ví dụ rút từ đời sống thực. Đây là chuyện xảy ra trong một gia đình nhỏ. Em bé trong câu chuyện, chỉ mới vài tháng tuổi, quen nằm trên một cái giường cao, đặt nghiêng, để có thể nhìn thấy toàn bộ môi trường trong căn phòng của nó. Phòng của bé không sơn màu trắng thông thường, có thể lau rửa đúng nguyên tắc vệ sinh vật lí; phòng này của em sạch sẽ về mặt tâm lí. Có những tấm bảng màu trên cửa sổ, có bàn ghế xinh xắn, có hoa và còn có một chiếc bàn có khăn trải màu vàng, trên đặt một chậu cây. Một bữa nọ, có một người khách đến và đặt chiếc dù của bà lên bàn. Bé trở nên kích động, chắc chắn chiếc dù phải là lí do, vì sau khi chăm chú nhìn chiếc dù đó, bé bắt đầu khóc. Người phụ nữ nghĩ rằng bé muốn chiếc dù, nên cầm lên và đưa cho bé, nhưng đứa bé đẩy nó ra. Chiếc dù được đặt trở lại trên bàn và bảo mẫu nhẹ nhàng ẵm bé đến đó và đặt bé trên bàn, gần chiếc dù, nhưng bé vẫn khóc và càng chống cự lại. Người không rành sẽ coi phản ứng này là một trong những cơn giận dữ quá sớm từ lúc sinh ra. Nhưng mẹ của bé, nhờ có chút hiểu biết về các triệu chứng tâm lí trẻ sơ sinh, đã lấy chiếc dù khỏi bàn và mang nó ra khỏi căn phòng. Bé lập tức trở nên bình tĩnh. Nguyên nhân kích động của bé là chiếc dù trên bàn không ở đúng chỗ và điều này gây xáo trộn dữ dội trong hình ảnh thông thường của vị trí các đồ vật trong trật tự mà đứa bé cần nhớ. Sau đây là một ví dụ khác. Trong trường hợp này đứa bé lớn hơn nhiều, khoảng một tuổi rưỡi, và bản thân tôi cũng đóng một vai tích cực trong cảnh này. Một ngày nọ, tôi cùng một nhóm người đi băng qua bang Nero ở Naples. Một phụ nữ trẻ dẫn theo đứa con quá nhỏ để có thể đi bộ hết đoạn đường hầm chạy xuyên một ngọn đồi. Bé khoảng một tuổi rưỡi. Đúng là sau một lúc thì bé thấy mệt mỏi và đòi mẹ bế nhưng cô ấy đã lượng quá sức lực của mình. Người phụ nữ thấy nóng, nên dừng lại để cởi áo khoác rồi vắt nó lên tay, thế là tay cô vướng víu với chiếc áo này, cô nhấc đứa bé lên, lúc này bé bắt đầu khóc, và tiếng kêu gào càng lúc càng lớn. Mẹ bé cố gắng dỗ dành bé trong vô vọng. Tiếng ồn ào khiến mọi người trong nhóm trở nên khó chịu và đương nhiên họ giúp bế đứa bé. Đứa bé được chuyền từ cánh tay này qua cánh tay khác, nó chống cự, la hét và mọi người dỗ dành nó, la mắng nó nhưng điều này chỉ làm tình trạng tồi tệ hơn. Có vẻ rồi thì mẹ của bé vẫn phải bế nó, nhưng bấy giờ bé đã đến mức bị coi rõ ràng là hư đốn, và tình trạng dường như không thể giải quyết được. Đến nỗi người hướng dẫn phải la lên, “Bà ơi, sao chồng bà lại có thể để bà đi một mình với đứa bé như vậy? Đưa nó cho tôi!”. Rồi ông ta ẵm lấy đứa bé trong đôi tay vững chắc với vẻ nghiêm trọng kiên quyết, nhưng khi đó đứa bé càng chống cự dữ dội. Tôi nghĩ đến bí ẩn của trẻ sơ sinh và nghĩ rằng các phản ứng của trẻ phải luôn có một nguyên do. Tôi đến bên mẹ của bé và nói với cô ấy: “Tôi có thể giúp cô mặc lại áo khoác được không?”, cô ấy nhìn tôi kinh ngạc vì cô vẫn còn thấy nóng; nhưng đang lúc bối rối, cô nhượng bộ và để tôi giúp mặc lại áo khoác. Đứa bé lập tức lắng dịu, những giọt nước mắt và sự kích động biến mất, bé nói, “Mẹ, áo khoác lên”, như thể nó muốn nói “Đúng, mẹ à, áo khoác là để mặc”, tựa như còn có ngụ ý rằng “Thế là mẹ đã hiểu con.”, và bé đưa tay về phía mẹ với nụ cười, chuyến hành trình kết thúc hoàn toàn êm đẹp. Áo khoác là để mặc và không phải để vắt như một miếng giẻ trên tay, và sự luộm thuộm của người mẹ đã tác động đến đứa bé như một xáo trộn gây bực bội. Tôi có mặt trong một cảnh có ý nghĩa soi sáng nhất, với một gia đình khác. Một người phụ nữ đau ốm, đang ngồi hay đúng hơn là đang ngả mình trên một chiếc ghế bành, nơi bảo mẫu đã đặt hai cái gối, và đứa con gái nhỏ của cô, mới hai mươi tháng, đứng bên và đòi cô kể một “câu chuyện”. Người mẹ nào có thể từ chối một lời yêu cầu như thế? Dù cảm thấy không khỏe, người phụ nữ bắt đầu kể một mẩu chuyện được bé theo dõi vô cùng chăm chú. Nhưng mẹ của bé thấy đau đến nỗi không thể tiếp tục. Cô phải ngồi dậy và yêu cầu giúp cô vào giường ở phòng bên cạnh. Bé gái nhỏ khóc, nó bám vào cái ghế, mọi người nghĩ rằng bé khóc là tự nhiên vì sợ và lo buồn cho cơn bệnh của mẹ, họ cố dỗ dành bé. Nhưng khi người bảo mẫu muốn lấy hai cái gối từ ghế để mang vào phòng bên kia, bé bắt đầu thét lên, “Không, không phải mấy cái gối…” Dường như bé đang cố nói, “Ít nhất cái gì cũng phải ở lại đúng vị trí của nó!” Mọi người âu yếm và nói lời an ủi đưa bé đến bên giường mẹ, và bất chấp cơn đau, mẹ nó cố gắng tiếp tục kể câu chuyện, nghĩ rằng như vậy có thể đỗ dành được bé. Nhưng bé vẫn nức nở, mặt đầm đìa nước mắt, bé nói liên tục “Mẹ ơi, cái ghế!” Bé không còn hứng thú với câu chuyện, cả mẹ và mấy cái gối đều thay đổi vị trí, câu chuyện đã bắt đầu ở phòng này nhưng lại kết thúc ở phòng khác và mâu thuẫn trong đầu óc của đứa bé quả thật sâu sắc và không thể giải tỏa được. Những ví dụ nấy cho thấy sự mãnh liệt của bản năng về trật tự và sự phát triển sớm đến mức đáng ngạc nhiên của đứa trẻ, ở đứa trẻ ba tuổi, nhu cầu về trật tự đã đi vào giai đoạn tĩnh lặng, hợp nhất với giai đoạn yên tĩnh và năng động về mặt thực hành ứng dụng của nó. Thật vậy, một trong những hiện tượng thú vị nhất trong các trường học của chúng tôi, như chúng tôi đã nói, là nếu vật nào nằm sai vị trí, chính đứa trẻ hai tuổi sẽ nhận thấy và đặt nó về chỗ cũ. Đứa trẻ cảm nhận được những chi tiết nhỏ nhặt về sự xáo trộn, nằm ngoài sự chú ý của người lớn và thậm chí của trẻ lớn hơn. Chẳng hạn, nếu một mẩu xà phòng nằm trên bồn rửa thay vì trong đĩa đựng xà phòng, hay chiếc ghế đặt không ngay ngắn hoặc sai chỗ, chính đứa bé hai tuổi sẽ nhìn thấy và đặt nó lại đúng vị trí. Sự bất trật tự dường như đem đến một kích động, một lời kêu gọi sinh động, nhưng hơn thế, việc đặt mọi vật trật tự đem lại niềm vui thật sự. Thật vậy, chúng tôi nhận thấy ở trường ngay cả những đứa trẻ lớn hơn, đã ba hay bốn tuổi, sau khi kết thúc một trò chơi hay bài học, sẽ đặt mọi thứ trở lại vị trí, và công việc này rõ ràng là tự phát và thú vị như bao việc khác. Trật tự là mọi vật ở đúng chỗ của chúng. Điều đó có nghĩa là trẻ đã nhận biết cách sắp xếp mọi vật xung quanh và ghi nhớ đúng vị trí của mỗi vật. Điều này có nghĩa là trẻ có thể tự định hướng trong môi trường của mình và nắm rõ môi trường đó đến từng chi tiết. Chúng ta làm chủ một môi trường trong trí óc khi chúng ta biết rõ nó và có thể nhắm mắt tìm ra lối đi và tìm ra mọi thứ mình muốn trong tầm tay. Một nơi như vậy là thiết yếu cho sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống. Đơn giản là tình yêu trật tự của trẻ không giống như cái người lớn hiểu qua câu chữ. Ở một độ tuổi nào đó, nó là nhu cầu thiết yếu cho sự sống, ở đó sự xáo trộn gây đau đớn, tạo ra một vết thương trong thẳm sâu linh hồn, như thể trẻ có thể nói, “Con không thể sống trừ phi có trật tự quanh con.” Thật vậy, đây là một vấn đề sống còn. Đối với người lớn, nó chỉ là một vấn đề thú vui bên ngoài, hoặc tiện nghi ít nhiều thoải mái, một chuyện không quan trọng. Nhưng trẻ nhỏ lại tự tạo ra chính bản thân nó từ các yếu tố của môi trường của nó, và sự tự tạo ra bản thân này không thể hoàn tất với những công thức mơ hồ, mà phải đi theo một sự hướng dẫn chính xác và xác định. Sự hướng dẫn của thiên nhiên áp đặt một chương trình và thời gian biểu phải tuân theo bởi một kỉ luật độc đáo trong đó sức khỏe và bệnh tật, sự sống và cái chết đều có vai trò của chúng. Đối với đứa trẻ nhỏ bé, trật tự giống như một mặt bằng nơi các sinh vật trên mặt đất nghỉ ngơi nếu chúng muốn tiến tới, như nước đối với cá. Điều cần thiết là từ thuở còn thơ, đứa trẻ phải thụ đắc những yếu tố về định hướng trong môi trường nơi mà tâm hồn nó phải tiến tới những cuộc chinh phục mới. Những đặc tính của niềm đam mê trật tự này được bộc lộ ra qua các trò chơi của con trẻ. Giáo sư Piaget, nhà tâm lí học Thụy Sĩ, người giữ chức vụ mà Giáo sư Claparède đã đảm nhiệm trước đó ở Geneva, đã làm những thí nghiệm lí thú với đứa con mình. Ông giấu một vật dưới tấm đệm của một chiếc ghế bành, và sau khi đưa bé ra khỏi phòng, ông lấy vật đó và đặt nó dưới tấm đệm của một chiếc ghế khác đối diện với chiếc ghế đầu tiên. Ý của giáo sư là bé sẽ đi tìm món đồ sau khi bé không tìm thấy ở chỗ ban đầu, và để cho sự tìm kiếm dễ dàng hơn, ông đã giấu nó ở một chỗ tương tự. Nhưng đứa bé chỉ đơn thuần giở tấm đệm của chiếc ghế thứ nhất và nói với ngôn ngữ trẻ thơ “Hổng có ở đó”. Phản ứng mà ông dự đoán là bé sẽ tìm kiếm cái vật bị biến mất đã không xảy ra sau đó. Giáo sư lặp lại thí nghiệm, nhưng lần này cho bé thấy ông mang đồ vật từ ghế này sang ghế kia. Nhưng cậu bé làm giống hệt lần trước và cũng nói “Hổng có ở đó”. Vị giáo sư sắp sửa kết luận là con trai mình ngu ngốc và gần như mất kiên nhẫn, ông giở tấm đệm của chiếc ghế thứ hai và nói, “Con không thấy bố để nó ở đây à?”. “Đúng” đứa bé trả lời, và sau đó chỉ vào chiếc ghế thứ nhất bé nói, “Nhưng nó phải ở đây”. Đứa trẻ không có ý niệm về việc tìm đồ vật, nó không quan tâm đến chuyện này, cái nó quan tâm là món đồ phải trở về đúng nơi của nó, và có lẽ chính bé sẽ kết luận là vị giáo sư không hiểu trò chơi. Trò chơi không phải là đem vật gì đi rồi đặt nó lại vào đúng vị trí của nó hay sao? Đem “giấu” theo ý người bố chỉ có nghĩa là giấu vật đó khỏi tầm mắt, dưới tấm đệm. Nhưng nếu không đặt món đồ trở lại chỗ cũ, thì đâu còn là trò chơi? Tôi cũng đã từng kinh ngạc khi theo dõi mấy đứa trẻ rất nhỏ (từ hai đến ba tuổi) chơi trò đi trốn-đi tìm. Trong những trò chơi kiểu này, trẻ em luôn hào hứng, sung sướng, và tràn đầy mong đợi. Chúng đã chơi như thế này: Một bé, trước mặt các bé khác, núp dưới một cái bàn được phủ tấm khăn trải kín đến tận sàn nhà. Sau đó, tất cả các bé khác đi ra rồi trở vào và giở tấm khăn bàn lên với những tiếng hét vui mừng như thể chúng đã vừa phát hiện ra bạn mình núp dưới đó. Trò chơi được lặp đi lặp lại. Chúng thay phiên nhau nói, “Bây giờ tớ sẽ trốn”, rồi chui xuống dưới tấm khăn trải bấn. Một dịp khác tôi thấy các bé lớn hơn chơi trò trốn tìm với một bé nhỏ. Chúng để đứa nhỏ giấu mình sau một đồ nội thất, rồi trở lại, giả vờ như không thấy bé và đi tìm kiếm khắp mọi nơi. Nhưng đứa bé kêu lên, “Em ở đây”, bằng giọng điệu rõ ràng như muốn nói rằng “Các anh chị không thấy em ở đây sao?”. Một lần, tôi đã tham gia vào một trò chơi tương tự. Tôi thấy một nhóm các bé nhỏ đang hò hét và vỗ tay trong niềm hân hoan vì chúng tìm thấy bạn mình trốn sau cánh cửa. Chúng vây quanh tôi và nói “Chơi với chúng con đi, cô trốn đi”. Tôi chấp nhận lời mời, và tất cả chúng chạy khỏi phòng như thể không muốn nhìn thấy nơi tôi sẽ trốn. Thay vì đứng sau cánh cửa, tôi trốn trong một góc tối sau tủ áo. Khi các bé trở vào, tất cả đều chạy tìm tôi phía sau cánh cửa. Tôi chờ một lúc và, cuối cùng, thấy rằng chúng sẽ không tìm tôi, tôi bước ra khỏi chỗ trốn. Các bé đều thất vọng và thiểu não. “Tại sao cô không chơi với chúng con?”, chúng trách móc, “Tại sao cô không trốn?”. Nếu mục đích của trò chơi là sự vui sướng (và đúng là trẻ hoàn toàn vui vẻ trong việc lặp lại nghi thức “ngớ ngẩn” của chúng), phải thừa nhận rằng ở một lứa tuổi nào đó, trẻ có thú vui đặc biệt trong việc tìm lại các món đồ ở nơi chúng đã được đặt trước đó, “Giấu” đối với trẻ là đặt cái gì ra khỏi tầm mắt, còn tìm thấy lại nó, đem đến một cảm giác về trật tự không chỉ trong cái có thể thấy được mà còn ở trong cái không thể thấy, để trẻ có thể tự nói với mình, “Bạn không thể nhìn thấy nó, nhưng tôi biết nó ở đâu và nhắm mắt cũng có thể tìm thấy, biết chắc nơi nó đã được đặt”. Thiên nhiên phú cho trẻ nhỏ sự nhạy cảm với trật tự, dựng lên bởi một giác quan bên trong là một giác quan không phải để phân biệt các vật mà để phân biệt mối quan hệ giữa các vật, để nó nhận thức môi trường như một tổng thể với những thành phần phụ thuộc lẫn nhau. Chỉ trong một môi trường được biết đến như một tổng thể như vậy, đứa trẻ mới có thể tự mình định hướng và hành động có mục đích; không có nó, trẻ sẽ không có một nền tảng để xây dựng cái nhận thức về quan hệ của nó. Điều này giống như có đồ đạc mà không có căn nhà để xếp vào. Có ích gì khi tích lũy những hình ảnh bên ngoài không có trật tự để đưa chúng vào mối quan hệ có tổ chức. Nếu một người chỉ biết các vật riêng lẻ mà không hiểu mối quan hệ giữa chúng, họ sẽ như ở trong một tình trạng hỗn độn không thể thoát ra. Chính nhờ lao động vất vả của đứa trẻ mà con người có được khả năng tìm ra lối đi trong thế giới, điều tưởng như là quà tặng của thiên nhiên để con người tự mình định hướng. Trong giai đoạn mẫn cảm về trật tự, thiên nhiên dạy bài học đầu tiên theo cách giáo viên sẽ chỉ cho đứa trẻ sơ đồ lớp học để chuẩn bị cho nó học bản đồ địa lí. Ta cũng có thể nói rằng qua bài học đầu tiên này, thiên nhiên đã cho con người chiếc la bàn để tự định hướng trong thế giới. Cũng theo cách này, tự nhiên trao cho đứa trẻ năng lực lặp lại chính xác những âm thanh cấu tạo nên ngôn ngữ, cái ngôn ngữ có thể phát triển đến vô tận và được con người phát triển qua các thời đại. Trí tuệ của con người không phải nảy sinh từ con số không; nó được hình thành dựa trên các nền tảng mà trẻ xây dựng trong những giai đoạn mẫn cảm của chúng. Định hướng vào bên trong Nhạy cảm về trật tự của đứa trẻ xảy ra cùng một lúc trên hai phương diện, cái hướng ra bên ngoài (cái ngoại tại - ND) liên quan đến các thành phần thuộc về môi trường của trẻ, cái hướng vào bên trong (cái nội tại - ND) khiến trẻ nhận thức được những phần cơ thể của mình, các cử động và vị trí của chúng. Phương diện thứ hai này có thể gọi là sự định hướng nội tại của trẻ. Đã có nhiều đề tài nghiên cứu định hướng nội tại này. Các nhà tâm lí học thực nghiệm đề cập đến một cảm giác cơ bắp cho phép đứa trẻ ý thức được những vị trí của các chi khác nhau và ấn định một dạng trí nhớ đặc biệt: trí nhớ cơ bắp. Lối giải thích này trở thành cơ sở của một lí thuyết hoàn toàn máy móc, dựa trên kinh nghiệm của những cử động có ý thức. Chẳng hạn, nếu ta cử động bàn tay để nắm lấy một vật gì, ta có ý thức về động tác đó, ghi nhớ và có thể lặp lại. Nhưng ngược lại, đứa trẻ đã chứng minh là có một giai đoạn nhạy cảm rất phát triển, liên quan đến những vị trí khác nhau của cơ thể từ lâu trước khi nó có thể di chuyển tự do và làm bất cứ thí nghiệm nào. Nói cách khác, tự nhiên đã trang bị cho trẻ sự nhạy cảm đặc biệt đối với các khả năng và vị trí của cơ thể. Những học thuyết cũ trước đây dựa vào cơ chế thần kinh; nhưng những giai đoạn nhạy cảm lại liên quan tới những sự kiện tâm lí, những bừng hiểu tâm linh và những “rung động”, chuẩn bị cho sự xuất hiện của ý thức, chúng là những năng lượng xuất phát từ “cái không hiện hữu”, đem lại sự hiện hữu của các yếu tố cơ bản mà từ đó thế giới tinh thần của trẻ cuối cùng được xây dựng. Những khả năng này khởi thủy là món quà của thiên nhiên, và các thử nghiệm có ý thức chỉ làm chúng phát triển thêm mà thôi. Có những bằng chứng tiêu cực cho thấy giai đoạn mẫn cảm này không những tồn tại mà biểu hiện mãnh liệt của nó, trong các điều kiện môi trường của đứa trẻ, còn cản trở sự tiến triển âm thầm của đứa trẻ trong các chinh phục sáng tạo của nó. Khi đó, đứa trẻ trở thành nạn nhân của sự xáo động gay gắt và thường là dữ dội được bộc phát không chỉ qua các cơn giận dữ, la khóc, đứa trẻ có vẻ như đang bị bệnh một khi các tình huống bất lợi không được dẹp bỏ, trong khi, ngay lúc vật cản được tháo gỡ thì cả cơn giận dữ và bệnh tật đều biến mất, đây là một bằng chứng rõ ràng về nguyên nhân của hiện tượng bất thường. Một cô bảo mẫu người Anh đã kể cho tôi một ví dụ thú vị về điều này. Cô phải nghỉ phép ngắn hạn, tạm xa cái gia đình đã thuê cô. Cô tìm được người bảo mẫu thay thế cũng khéo léo như cô để chăm sóc em bé. Mọi việc diễn ra thuận lợi cho cô bảo mẫu sau, cho tới khi cô này tắm cho em bé. Đứa bé trở nên khó bảo. Không những la hét, nó còn chống cự để thoát khỏi vòng tay người bảo mẫu. Còn người bảo mẫu thì vẫn cố gắng hết sức để chuẩn bị cho các lần tắm cho em bé, nhưng vô ích. Dần dần, đứa bé không còn muốn nhìn thấy cô. Khi người bảo mẫu đầu tiên trở về, bé lại hoàn toàn ngoan ngoãn và yên lặng, có vẻ thích thú với việc tắm rửa. Người bảo mẫu này đã được đào tạo theo các nguyên tắc của chúng tôi, do đó có hứng thú trong việc khám phá yếu tố tâm lí, trong việc tìm hiểu bí ẩn nào của tuổi thơ có thể giải thích cho hiện tượng đã xảy ra. Cô kiên nhẫn thử diễn giải những “lời nói” chưa hoàn chỉnh của em bé còn nhỏ như vậy. Cô phát hiện ra hai điều: Đứa trẻ sơ sinh coi người bảo mẫu thứ hai là xấu, nhưng tại sao? Bởi cô ấy cho bé tắm theo trình tự ngược lại. Hai người bảo mẫu, khi so sánh cách họ tắm cho bé đã phát hiện rằng trong khi người thứ nhất đỡ đầu của bé bằng tay phải và tay trái để gần chân của bé, người bảo mẫu thứ hai làm ngược lại. Cách làm đó khiến bé có cảm tưởng là đầu của bé sẽ được tắm vào lúc cuối trong khi nó đã quen rằng chân mới là phần cuối. Có lần tôi có liên can đến một trường hợp bệnh lí. Lần ấy, tôi không được trực tiếp mời đến với tư cách là bác sĩ, nhưng tôi chứng kiến mọi việc xảy ra. Một gia đình vừa trở về sau một chuyến đi rất dài và một trong các đứa trẻ quá nhỏ không chịu nổi sự mệt nhọc, hay đúng hơn những người lớn cho rằng như vậy. Tuy nhiên, mẹ của bé nói mọi việc trong cuộc hành trình đều ổn. Họ nghỉ đêm ở các khách sạn rất tốt, mọi sự đã được sắp xếp cho họ, bé có thức ăn và nôi phù hợp. Họ hiện đang sống tại một căn hộ có tiện nghi; không có nôi nhưng em bé ngủ trong một chiếc giường rộng với mẹ. Bệnh khởi phát với tình trạng bé lăn lộn mất ngủ về đêm và bị rối loạn tiêu hóa. Đêm đến, bé phải được bế lên đi tới đi lui, bởi người ta nghĩ bé khóc là do đau bụng, các bác sĩ chuyên gia được tham vấn và một người kê đơn cho bé ăn những món ăn mới giàu vitamin, được nấu rất kĩ lưỡng. Rồi còn tắm nắng, ra ngoài với khí trời trong lành, song mọi cách điều trị tân kì đều không hiệu quả. Tình trạng của bé ngày thêm trầm trọng và đêm đến là những buổi canh thức vô vọng cho cả gia đình. Cuối cùng, bé bị những cơn co giật. Bé lăn lộn trên giường trong những cơn co giật đáng ngại. Những cơn co giật này xảy ra hai đến ba lần một ngày. Bé còn quá nhỏ chưa biết nói, nên rất cần sự trợ giúp để tìm ra nguyên nhân. Họ quyết định tham vấn một trong các chuyên gia nổi tiếng nhất về bệnh thần kinh ở trẻ. Lúc ấy, tôi mới can thiệp. Đứa bé trông khỏe mạnh, và theo như lời cha mẹ của nó, bé có sức khỏe tốt và không quấy trong suốt chuyến đi. Do đó nguyên nhân của các triệu chứng có lẽ là về tâm lí - một trong những bí ẩn của trẻ sơ sinh. Bỗng nhiên tôi có một hành động theo trực giác. Đứa bé đang nằm trên một cái giường lớn, trong cơn xáo động. Tôi lấy hai cái ghế bành và đặt chúng đối diện nhau với hai thành ghế là vách giống một chiếc nôi; tôi đặt chăn và tấm trải vào, và lẳng lặng kéo nó đến cạnh chiếc nôi. Em bé nhìn nó, ngừng khóc, lăn trườn cho đến mép giường, và sau đó thả mình xuống chiếc nôi tôi vừa chế ra, miệng nói, “Ulla, ulla, ulla!”[1]. Và bé ngủ ngay lập tức. Các triệu chứng bệnh không xảy ra nữa. Bé đã theo cách của mình, phản đối lại một sự xáo trộn khủng khiếp là người ta đã lấy đi chiếc nôi của bé và đặt bé vào cái giường lớn của người lớn. Rõ ràng đứa bé tỏ ra nhạy cảm khi tiếp xúc với chiếc giường nhỏ, bao bọc lấy thân bé và làm chỗ tựa cho tay chân của bé, trong khi chiếc giường lớn không cho bé một nơi ẩn náu như thế. Hệ quả là một sự xáo trộn về định hướng nội tại của bé và xáo trộn này là nguyên nhân của xung đột đau đớn khiến bé bị rơi vào bàn tay chăm sóc của quá nhiều y sĩ. Quyền năng của các giai đoạn nhạy cảm là như thế. Chúng có sức mạnh đầy quyền uy của thiên nhiên sáng tạo. Đứa bé không có cảm giác về trật tự giống như chúng ta. Chúng ta đã có được vô số ấn tượng và chúng ta vẫn còn thờ ơ đối với trật tự, nhưng đứa bé thì nghèo nàn và đến từ số không. Trong mọi việc bé làm, bé khởi đầu từ cái không; bé chỉ biết sự lao động của sáng tạo và để chúng ta làm người thừa kế của nó. Chúng ta giống như đứa con trai của một người đã tích lũy của cải bằng mồ hôi nước mắt của ông ta, và chúng ta không hiểu gì về sự vất vả cực nhọc mà người ấy đã chịu đựng. Chúng ta vô ơn và lạnh lùng vì chúng ta mang thái độ kẻ cả, được cung cấp đầy đủ mọi thứ với một vị trí đã được thiết lập sẵn trong xã hội. Chúng ta chỉ cần sử dụng cái lí trí đứa bé đã phát triển cho chúng ta, cái ý chí bé đã dựng nên, cơ bắp mà bé đã kích hoạt để chúng ta có thể sử dụng chúng. Chúng ta tìm ra hướng đi trong thế giới, là vì trẻ đã ban cho chúng ta khả năng để làm điều đó. Chúng ta cảm nhận được bản thân, vì trẻ đã chuẩn bị cho ta sự nhạy cảm đó. Chúng ta giàu có vì chúng ta là những kẻ kế-thừa của đứa trẻ, người đã vẽ ra tất cả các nền tảng của đời sống của chúng ta từ cái không có gì. Đứa bé hoàn thành nỗ lực lớn lao của bước đầu tiên, cái bước từ hư không đến khởi điểm. Trẻ gần với chính suối nguồn của sự sống đến nỗi trẻ hành động chỉ vì hành động, vì đó là điều xảy ra trên bình diện của sáng tạo, và trẻ không thể tự mình cảm nhận và không thể khiến mình tự nhớ lại về mình. Trí tuệ đang khai mở Đứa trẻ cho chúng ta thấy rằng sự hiểu biết của nó không phải là cái gì được xây dựng dần từ bên ngoài. Thế nhưng, đấy lại là quan niệm của tâm lí học theo thuyết cơ giới, vẫn có ảnh hưởng chính về mặt thực hành cả trên khoa học thuần túy và giáo dục. Các nhà tâm lí của trường phái này khẳng định rằng hình ảnh của các vật ngoại tại gõ vào các cánh cửa giác quan, và gần như là xâm nhập vào, để được truyền đi bằng một luồng kích thích từ bên ngoài, nhưng, vẫn trên bình diện tâm lí, chúng liên hợp với nhau, và dần dần rơi vào một trật tự có tổ chức và tạo nên tâm trí. Điều này giả định rằng đứa trẻ hoàn toàn thụ động về mặt tâm lí, phó mặc cho ảnh hưởng của môi trường, do đó chịu sự kiểm soát hoàn toàn của người lớn. Ý tưởng này được bổ sung bởi một định đề phổ thông khác rằng về mặt tinh thần, đứa trẻ không những thụ động mà còn, như các nhà giáo dục xưa thường nói, giống như cái bình rỗng, phải được làm đầy và khuôn đúc. Chắc chắn là kinh nghiệm riêng của chúng tôi không khiến chúng tôi xem nhẹ tầm quan trọng của môi trường trong sự hình thành trí tuệ. Mọi người đều biết, đường lối sư phạm của chúng tôi đề cao môi trường của trẻ đến nỗi biến nó thánh tâm điểm của toàn bộ đường lối sư phạm, đồng thời chúng tôi cũng xem hoạt động giác quan của trẻ có tầm quan trọng cơ bản hơn và có tính hệ thống hơn bất cứ phương pháp giáo dục nào đã có trước đây. Tuy nhiên, có sự khác biệt tinh tế giữa cái quan niệm xưa xem trẻ em là thụ động và các sự kiện có thật. Sự khác biệt này là do sự mẫn cảm nội tại của trẻ. Có một giai đoạn nhạy cảm gần như kéo dài đến tận lúc năm tuổi, lúc này trẻ có một khả năng thực sự phi thường để tự mình sở hữu những hình ảnh của môi trường của nó. Trẻ là người quan sát chủ động hấp thụ các hình ảnh thông qua các giác quan của trẻ, điều này rất khác với quan điểm coi trẻ tiếp thu chúng như một tấm gương. Làm người quan sát có nghĩa là phải có một động lực nội tại được xác định bởi tình cảm hay hứng thú, do đó mà có sự chọn lọc những hình ảnh nào đó thay vì những hình ảnh khác. Ý tưởng này được William James minh họa khi ông nói rằng không ai từng nhìn thấy cái gì với toàn bộ chi tiết của nó, mà mỗi người chỉ thấy một phần của nó, được quyết định bởi tình cảm và sở thích của họ; vì lí do đó, những người khác nhau. Sẽ có mô tả khác nhau về cùng một vật. James cho một ví dụ hóm hỉnh về điều này, ông nói nếu bạn đang mặc bộ cánh mới mà bạn ưa thích, khi bạn đi trên đường, bạn sẽ đặc biệt để ý đến quần áo của những người mặc đẹp đến nỗi bạn có nguy cơ sẽ bị xe cán. Bây giờ, có một vấn đề được đặt ra: những sở thích của trẻ nhỏ là gì khi chúng làm công việc chọn lọc từ đống hỗn độn vô tận những hình ảnh cấu thành môi trường của chúng? Điều hiển nhiên là em bé sẽ không bị ảnh hưởng gì bởi các động lực bên ngoài, như những điều mà James đã nêu ra, bởi đứa trẻ không có kinh nghiệm nào hết. Đứa trẻ bắt đầu từ, cái không, nó là một hữu thể chủ động tiến lên bằng chính năng lực của nó. Chúng ta hãy đi thẳng vào vấn đề, cái trục mà xoay quanh đó, giai đoạn nhạy cảm đang hoạt động bên trong đứa trẻ chính là lí trí. “Hoạt động tư duy” này phải được xem như là một chức năng sáng tạo tự nhiên dần kết nụ, dần phát triển và mang một hình dạng cụ thể từ các hình ảnh mà nó thu nhận từ môi trường. Đây là cái sức mạnh khó cưỡng, là thứ năng lượng sơ khai. Các hình ảnh lập tức rơi vào khuôn thức phục vụ cho lí trí: chính nhằm để phục vụ lí trí mà trẻ hấp thụ trước hết những hình ảnh như vậy. Đứa trẻ khao khát hình ảnh, và chúng ta có thể nói, nó không hề biết no biết chán hình ảnh. Như chúng ta đều biết, trẻ con bị thu hút mạnh mẽ bởi ánh sáng, màu sắc, âm thanh, tất cả những thứ này làm chúng vui thích rõ ràng. Nhưng cái chúng tôi muốn chứng minh là sự thực nội tại về một lí trí (của con trẻ - ND) hiện hữu ở một trạng thái đơn thuần là của cái mầm. Không cần chúng tôi phải nhấn mạnh rằng chúng ta phải tôn kính và hỗ trợ sự chuyển tiếp từ hư vô đến một khởi nguyên như thế; đứa trẻ đang làm sống dậy cái món quà quý báu nhất đem đến sự cao cả cho con người, đó là lí trí. Trẻ sẽ tiến bước trên con đường lí trí này ngay từ trước khi đôi chân nhỏ bé của nó có thể đủ sức nâng đỡ cơ thể nó bước đi. Một ví dụ sẽ làm sáng tỏ hơn hẳn sự tranh luận nên tôi sẽ nhắc lại trường hợp rất ấn tượng của một đứa trẻ bốn tuần tuổi đã kể ở trang 98. Trong một môi trường khác, nơi người lớn có liên quan không biết gì về quá trình tâm trí đã hoạt động từ khi bé mới sinh, biến cố có lẽ xảy ra mà không ai để ý tới, và đứa bé hẳn là đã bị mất đi sự trợ giúp lớn lao mà hai người đàn ông đã cho bé, bằng cách giúp bé đi qua một bước khó nhất để gắng sức hiện thực hóa ý thức cửa nó. Tôi muốn nêu thêm các ví dụ từ những trải nghiệm với các trẻ lớn hơn. Một bé bảy tháng đang ngồi trên sàn chơi với một cái gối. Cái áo gối được trang trí với hình hoa lá và trẻ con, cô bé ngửi hình bông hoa và hôn hình trẻ con với sự thích thú rõ ràng. Một cô hầu thiếu hiểu biết phụ trách việc chăm sóc bé, diễn giải điều này rằng bé thích chơi trò ngửi và hôn mọi thứ, nên cô vội vã mang cho bé đủ món đồ và nói, “Ngửi cái này! Hôn cái này!”. Thế là tư duy của bé đang hình thành các khuôn thức của riêng nó, đang nhận ra các hình ảnh và cố định chúng bằng cách vận động, đang hoàn thành công việc xây dựng nội tại trong niềm vui và yên tĩnh, bỗng bị đẩy vào cảnh hỗn loạn. Những nỗ lực huyền bí của trật tự nội tại bị phá tan bởi sự thiếu hiểu biết trong lối suy nghĩ của người lớn. Người lớn do đó có thể cản trở công việc nội tại này khi họ bỗng gặp các trẻ nhỏ mà không hiểu chúng, họ bế bồng nhún nhảy chúng lên xuống hay cố làm vui và can thiệp một cách thô bạo đồng suy nghĩ của chúng làm cho chúng bị phân tâm. Cũng như khi họ nắm bàn tay của trẻ mà hôn, như một trò đùa, hay khi họ cố làm trẻ ngủ mà không chú ý đến quá trình tâm thần đang hoạt động trong trẻ. Vì không ý thức được công việc bí ẩn này, người lớn có thể phá tan khuôn thức sơ khai trong tâm trí của trẻ, như sóng biển quét trên cát và cuốn đi các lâu đài cát, khiến kẻ xây trên cát cứ mãi mãi phải làm lại từ đầu. Trong khi đó, điều quan trọng là đứa trẻ phải làm sao bảo tồn được những hình ảnh mà nó thu nhận với sự sáng suốt tối đa; vì chính qua sự rõ ràng và rực sáng về ấn tượng phân biệt cái này với cái khác mà bản ngã có thể xây nên trí tuệ. Một trải nghiệm thú vị nhất đã xảy đến với một bác sĩ chuyên về cách nuôi trẻ sơ sinh bằng thức ăn không tự nhiên (thay vì bú sữa mẹ - ND) trong những năm đầu đời, ông ta lập một bệnh viện lớn và các thí nghiệm cho ông thấy rằng có một yếu tố cá nhân cần phải xét đến ngay trong việc nuôi dưỡng đứa bé; do đó, không có một thực phẩm nào thay thế sữa mẹ lại có thể được cho là “bổ dưỡng cho trẻ em” ở thời gian nào đó của năm đầu đời, bởi một thức ăn bổ cho đứa trẻ này có thể có hại cho đứa trẻ khác. Bệnh viện của ông là kiểu mẫu hoàn hảo nhất, về cả phương diện khoa học lẫn thẩm mĩ. Những kết quả về sức khỏe cho trẻ đến sáu tháng tuổi thật tuyệt vời, nhưng sau giai đoạn đó, sức khỏe của chúng bắt đầu suy giảm. Đây là một bí ẩn, vì việc nuôi trẻ bằng thức ăn không tự nhiên trở nên dễ dàng sau sáu tháng đầu tiên. Nay, ông có một phòng mạch, kết nối với bệnh viện của ông, cho các bà mẹ nghèo không thể nuôi con bằng sữa mẹ, do đó cần thức ăn không tự nhiên cung cấp theo lời hướng dẫn của bệnh viện, và các trẻ này, khác với các trẻ ở bệnh viện, sau sáu tháng lại không ngã bệnh. Sau khi lặp lại những quan sát này. Vị giáo sư nghĩ rằng phải có nhân tố tâm thần nào đó có thể giải thích hiện tượng này, và ông lập tức nhận thấy các trẻ hơn sáu tháng tuổi trong bệnh viện bị bệnh vì “buồn chán, do thiếu thức dinh dưỡng cho tâm trí”, ông cho các bé những trò giải trí và tạo thay đổi trong đời sống của trẻ, chú ý khi cho chúng ra ngoài thay vì chỉ cho chúng tới vườn hoa cảnh của bệnh viện; kết quả là chúng phục hồi được sức khỏe. Vô số thí nghiệm đã cho thấy chắc chắn rằng trẻ con, trong năm đầu tiên của cuộc đời, đã lĩnh hội những ấn tượng giác quan về môi trường của chúng rõ ràng đến mức chúng có thể nhận ra mình trong các bức hình, cả hình ảnh phối cảnh hay trên mặt phẳng. Nhưng ngoài điều này, chúng tôi có thể khẳng định rằng các ấn tượng này đã bị vượt qua và không còn vẻ lôi cuốn sinh động nữa. Từ lúc bắt đầu năm thứ hai, trẻ không còn bị lôi cuốn bởi những món đồ lòe loẹt và màu sắc sặc sỡ với sự hấp dẫn rất đặc trưng của những giai đoạn nhạy cảm, nhưng trẻ chú ý đến những vật bé xíu mà chúng ta không để ý. Thậm chí có thể nói bây giờ cái thu hút sự chú ý của trẻ là cái vô hình, hoặc những gì nằm ngay bên lề của ý thức. Tôi nhận thấy sự mẫn cảm này lần đầu tiên ở một bé gái mười lăm tháng tuổi. Tôi nghe bé cười phá lên từ trong vườn, lối cười khác thường ở những trẻ em nhỏ như vậy. Bé tự đi ra một mình và ngồi trên nền đá lót sân hiên nhà. Gần đó là một thảm hoa phong lữ lộng lẫy nở rộ dưới ánh nắng gần như của miền nhiệt đới. Nhưng bé không nhìn đến hoa. Mắt bé dán vào mặt đất, nơi rõ ràng không có gì để nhìn. Đây là một trong những bí mật của trẻ nhỏ. Tôi bò đến và xem xét chỗ bé đang nhìn nhưng không thấy gì cả. Chính bé giải thích cho tôi bằng những từ gần như không phải là các từ ngữ, “Có cái gì nhỏ đang động đậy ở đó”, với lời chỉ dẫn này, tôi có thể thấy một côn trùng cực nhỏ, hầu như không thể thấy được, gần như cùng màu với các viên gạch, đang bò rất nhanh. Điều đập mạnh vào trí óc của bé là việc một sinh vật nhỏ đến vậy, có thể di chuyển, có thể chạy! Sự kinh ngạc trước điều kì diệu khiến bé thích thú cười lớn, lớn hơn bình thường ở các trẻ nhỏ như vậy, và niềm vui của bé không phải từ ánh mặt trời, hoa lá, hay sắc màu. Tôi có một kinh nghiệm tương tự với một bé trai khoảng tuổi em bé đó. Mẹ của bé đã cho bé một bộ sưu tập lớn những tấm bưu thiếp màu, và bé dường như rất mong khoe bộ sưu tập với tôi. “Bam-bam”, bé nói, đó là chữ bé dùng, nghĩa là, “xe hơi”, và tôi hiểu rằng bé muốn chỉ cho tôi tấm hình một chiếc xe hơi. Bé có vô số tấm hình, rõ ràng là mẹ bé đã kết hợp việc dạy dỗ với việc làm cho con vui thú. Có những tấm hình những động vật lạ như hươu cao cổ, sư tử, gấu, khỉ, chim chóc và có những tấm hình thú nuôi, những thứ chắc hẳn sẽ thu hút một đứa trẻ nhỏ - cừu, mèo, lừa, ngựa, và bò. Và cũng có cả những bức phong cảnh nhỏ có thú vật, nhà cửa, và con người. Tuy nhiên, điều lạ là không có hình xe hơi trong bộ sưu tập phong phú này. “Cô không thấy chiếc xe hơi nào”, tôi nói với bé. Bé tìm hết trong bộ ảnh rồi lấy ra một tấm hình và nói một cách đắc thắng, “Đây này!”. Bức hình có cảnh đi săn nhưng chủ thể chính là một chú chó săn tuyệt đẹp. Ở phía xa hơn là người thợ săn vác súng trên vai, ở một góc, phía xa, có một túp lều nhỏ với một đường ngoằn ngoèo chắc là một con đường, và trên con đường này có thể thấy một chấm đen. Đứa trẻ chỉ tay vào chấm đen và nổi, “Bam-bam”. Và thực ra, dù kích thước của cái chấm quá nhỏ gần như vô hình, tôi cũng có thể thấy nó thật sự tượng trưng cho một chiếc xe hơi. Chính sự khó khăn để nhìn thấy nó, chính cái sự kiện chiếc xe đã được làm nhỏ như vậy khiến bức hình thành lí thú và đáng được chỉ cho tôi xem. Tôi nghĩ có thể không ai chỉ cho bé thấy những hình ảnh đẹp đẽ và hữu ích trên các tấm bưu thiếp khác. Tôi chọn ra một tấm có hình đầu và cổ của một con hươu cao cổ và bắt đầu giảng giải, “Nhìn cái cổ ngồ ngộ, quá dài này!”, “Affa!” (Hươu cao cổ), bé trả lời một cách nghiêm túc. Tôi không còn dám tiếp tục nữa. Dường như trong năm thứ hai cuộc đời của đứa trẻ, có một thời kì khi đó thiên nhiên, qua các giai đoạn liên tiếp, dẫn dắt trí tuệ của trẻ đến sự hiểu biết hoàn toàn về các sự vật trong môi trường của nó. Đây là vài ví dụ từ kinh nghiệm bản thân tôi. Hôm đó, tôi muốn cho một bé trai khoảng hai mươi tháng tuổi xem một quyển sách đẹp dành cho người lớn. Nó là bản sao của Kinh Tân Ước được Gustave Dore minh họa. Đâu đó, ông có vẽ lại những bức tranh của các danh họa xưa, như bức “Biến Hình” của Raphael. Tôi chọn một tấm hình có chúa Giêsu đang gọi các em nhỏ đến bên Ngài và tôi bắt đầu giảng giải: “Đây là một em bé đang trong vòng tay của Chúa Giêsu. Bé khác đàng tựa đầu vào Ngài. Tất cả đều ngước nhìn Ngài và Ngài đều yêu thương chúng…”. Mặt của cậu bé không biểu lộ chút hứng thú nào, và ra vẻ như không để ý, tôi lật trang sách và tìm một bức hình khác trong quyển sách. Bỗng nhiên đứa bé nói, “Ngủ”. Câu nói khiến tôi nhận ra cái bí ẩn đáng ngạc nhiên về tâm trí của trẻ con. “Ai ngủ?”. “Giêsu” bé sốt sắng trả lời. “Giêsu ngủ”. Và bé ra hiệu cho tôi lật lại các trang sách. Hình tượng Đức Ki-Tô được vẽ trên cao nên khi Ngài nhìn xuống các các đứa trẻ, mí mắt Ngài hạ xuống giống mắt người đang ngủ. Sự chú ý của bé bị lôi cuốn bởi một chi tiết mà không người lớn nào để ý đến. Tôi tiếp tục giảng giải về những bức hình và dừng lại ở hình lấy từ bức “Biến Hình” của Raphael. Tôi nói “Nhìn này, Giêsu được nâng lên khỏi mặt đất và mọi người hoảng sợ. Nhìn đứa bé có đôi mắt tròn xoe và người phụ nữ đang dang đôi cánh tay ra này!”. Tôi nhận ra lời giải thích của tôi không thực sự thích hợp với cậu bé, và tôi đã không chọn một bức hình tốt. Nhưng nay cái tôi quan tâm là gây ra một phản ứng bí ẩn, gần như để so với cái mà người lớn thấy trong một bức ảnh thật phức tạp với cái một đứa bé nhỏ như vậy có thể thấy. Nhưng lần này, bé chỉ lẩm bẩm như đang nói “Lật tiếp đi”, và gương mặt nhỏ nhắn của bé không biểu lộ chút quan tâm nào. Trong lúc tôi chuẩn bị lật trang sách, bé sờ vào chiếc mề-đay nhỏ đeo ở cổ, có hình như con thỏ. Rồi bé nói, “Thỏ con!” “Bé bị phân tâm bởi cái ảnh đeo cổ”, tôi nghĩ vậy. Nhưng đột nhiên bé giục tôi lật lại trang sách, và đây rồi, đúng là có một con thỏ nhỏ được vẽ ở một bên của bức “Biến Hình”. Có ai từng để ý đến con thỏ đó chưa? Người lớn tin rằng trẻ con chỉ nhạy cảm với những vật lòe loẹt, những màu sắc rực rỡ, và những tiếng động ồn ào, v.v. Đúng là các kích thích dữ dội thu hút sự chú ý của trẻ, tất cả chúng ta đều thấy trẻ em bị thu hút bởi người đang ca hát, bởi tiếng chuông ngân, bởi những là cờ bay hay ánh đèn rực rỡ. Nhưng những thu hút mạnh mẽ từ bên ngoài này chỉ có tính nhất thời, có thể làm các em sao nhãng trong phút chốc, có thể đánh thức sự chú ý và khuếch tán nó ra trên những gì đã kích thích các giác quan. Chúng ta cũng vậy, mặc dù sự so sánh không hoàn toàn đúng hẳn, như khi chúng ta đang tập trung đọc một quyển sách hay và đột nhiên nghe một ban nhạc ồn ào đi qua dưới cửa sổ, chúng ta đứng dậy xem điều gì đang xảy ra. Nếu ta không để ý đến việc một người đang yên lặng tập trung cao độ ngồi đọc sách mà chỉ thấy việc anh ta đứng lên để nghe ban nhạc, có lẽ ta sẽ nói con người bị kích thích bởi âm thanh nhiều hơn bất cứ yếu tố nào khác. Đó cũng là cách mà chúng ta phán đoán về trẻ nhỏ. Sự thật là một kích thích mạnh mẽ bên ngoài thu hút sự chú ý của trẻ chỉ hoàn toàn là ngẫu nhiên và xảy ra do may rủi. Nó không có mối liên hệ với phần hình thành sâu sắc đặc điểm tư duy của trẻ, cái thuộc về đời sống nội tại của trẻ. Chúng ta có thể nhìn thấy các biểu hiện của quá trình nội tại này khi chúng ta thấy trẻ chú tâm đến những vật nhỏ bé rất khó nhận biết. Kẻ nào quan sát sự nhỏ bé của các vật sẽ quan tâm nhiều đến chính các vật ấy và không còn cảm thấy chúng là những ấn tượng của giác quan mà là sự biểu hiện của một “trí khôn của tình yêu”. Đối với tất cả các mục tiêu thực tiễn, mặt tinh thần của đứa trẻ là một bí mật đối với người lớn, vì họ đánh giá nó đơn thuần từ sự bất lực về phản ứng trong thực tiễn, chứ không từ cái năng lượng tâm thần tự nó có đầy uy lực. Chúng ta phải nghĩ rằng đằng sau mỗi biểu hiện đều có một nguyên nhân có thể giải mã. Không có hiện tượng nào lại không có động cơ của nó, cái raison d’ être (“lí do tồn tại” - ND) của nó. Thật quá dễ đánh giá mỗi phản ứng khó hiểu, mỗi giai đoạn khó khăn chỉ là một sự bốc đồng. Phải giả định rằng những bốc đồng này có tầm quan trọng của một vấn đề phải giải quyết, một bí ẩn phải được giải mã. Điều này chắc chắn khó khăn nhưng cực kì thú vị. Hơn hết, nó có nghĩa là một thái độ mới và cao thượng hơn từ phía người lớn. Nó khiến người lớn trở thành một học trò hơn là kẻ thống trị mù quáng hay một quan tòa chuyên chế, như nhiều lúc họ đã ứng xử trong mối quan hệ với trẻ. Một nhóm phụ nữ có những quan niệm tân tiến thảo luận với nhau chỉ riêng về đề tài này, ở một góc phòng khách. Gần bên họ, đứa con trai nhỏ của bà chủ nhà khoảng một tuổi rưỡi đang yên lặng ngồi chơi một mình. Cuộc nói chuyện đi từ lí thuyết sang những chuyện cụ thể hơn và rồi họ cũng bàn cãi về các cuốn sách viết cho trẻ em. “Mấy cuốn sách ngớ ngẩn với những hình ảnh vô lí”, một bà mẹ trẻ nói vậy. “Tôi có một quyển tựa là Chủ bé Sambo Đen. Sambo là em bé da đen. Vào ngày sinh nhật của nó, cha mẹ cho nó đủ thứ, một chiếc ô, một chiếc quần, giày, tất, và một cái áo khoác màu và họ chuẩn bị một bữa tối ngon lành cho bé. Sambo thì muốn khoe quần áo mới, nó mặc vào và trốn ra khỏi nhà. Trên đường bé gặp nhiều loại thú hoang dã, khiến nó sợ hãi, và để dụ chúng bé phải dần dần cho hết tư trang của mình. Con hươu cao cổ lấy chiếc ô, hổ lấy đôi giày, và cứ thế cuối cùng chú bé Sambo trở về nhà trần truồng và khóc lóc, nhưng bố mẹ tha thứ cho bé và câu chuyện kết thúc vui vẻ trong một buổi tiệc lớn, như có thể thấy ở trang cuối cùng của quyển sách.” Quyển sách được chuyền tay mọi người. Bỗng đứa bé lên tiếng, “Không, Lola”. Mọi người đều ngạc nhiên, đây có lẽ là một trong những bí ẩn của tuổi thơ. Đứa bé đã nói. Đúng vậy nó tiếp tục quả quyết lặp lại câu khẳng định bí ẩn này, “Không, Lola.” Mẹ nó nói “Lola là bảo mẫu mới trông nom bé được vài ngày”. Nhưng đứa bé bắt đầu hét lên, “Lola”, trong cơn giận dữ hầu như vô lí. Rồi có người đưa cho bé quyển sách và bé chỉ vào bức hình cuối cùng, không phải ở trong nội dung câu chuyện mà ở bìa sau có hình một chú bé da đen đang khóc. Lập tức mọi người đều hiểu từ “Lola” bé đang nói, với ngôn ngữ trẻ con của nó. Từ “llorar“, tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là “khóc”. Sự thật là thế này, kết thúc của câu chuyện không phải là buổi tiệc vui, mà là bức hình Sambo đang khóc ở bìa sau. Không ai chú ý có bức hình này ở đó. Sự phản đối của bé do vậy là hợp lí bởi mẹ của bé nói, “Mọi chuyện đều kết thúc một cách vui vẻ”. Đối với bé, rõ ràng là quyển sách kết thúc với cảnh Sambo đang khóc. Cậu bé đã quan sát quyển sách kĩ hơn mẹ của nó, và bé chính xác và độc đáo khí quyết định đấy mới là bức ảnh cuối. Nhưng cái đáng kinh ngạc hơn là đứa bé hầu như chưa nói trọn được một từ, lại có thể theo dõi toàn bộ cuộc trò chuyện khá dài của người lớn. Hiển nhiên là đứa trẻ và người lớn là hai nhân cách khác biệt. Đây không phải là trường hợp cái tối thiểu (đứa trẻ - ND) phát triển dần dần thành cái tối đa (người lớn - ND). Đứa trẻ thấy được những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong cái thực tại của chúng hẳn phải xem thường chúng ta như những sinh vật hạ đẳng, những kẻ đem áp đặt những điều trí óc mình tổng hợp lên những gì mình thấy, coi chúng ta như những kẻ không biết cách nhìn sự vật. Có lẽ, trẻ em đánh giá chúng ta là không có đầu óc chính xác, hơn thế nữa, chúng ta đã dửng dưng hoặc vô thức bỏ qua những điều thú vị. Chắc hẳn là, nếu tự bày tỏ được, trẻ em sẽ bộc lộ rằng từ thẳm sâu trong thế giới tâm thức, chúng không tin tưởng chúng ta, cũng hệt như chúng ta không tin ở con trẻ, vì chúng quá xa lạ với cách nhận thức sự vật của chúng ta. Đây là lí do tại sao người lớn và trẻ con không hiểu nhau. Chương 4 NHỮNG VIỆC NGƯỜI LỚN GÂY TRỞ NGẠI Chuyện giấc ngủ Xung đột giữa người lớn và trẻ em bắt đầu lúc đứa trẻ đạt đến thời điểm có khả năng tự làm được nhiều việc. Trước thời điểm đó, không ai có thể tuyệt đối cấm trẻ nhìn và nghe, có nghĩa là ngăn trẻ không được chinh phục thế giới của chúng bằng giác quan. Và người lớn nào có ý thức về sự hiện hữu của một đời sống tinh thần mãnh liệt trong trẻ sẵn sàng làm cho các điều kiện môi trường của trẻ hợp lí hơn, nhằm tạo thuận lợi hơn cho quá trình hấp thụ thầm lặng đang diễn ra trong tâm trí đứa trẻ. Nhưng khi đứa trẻ năng động lên, chúng đi lại, chúng sờ chạm đồ vật, lúc đó lại là một chuyện khác rồi. Người lớn, dù thật sự yêu trẻ, cũng vẫn cảm thấy có một bản năng tự vệ khó cưỡng đối với trẻ. Đó là một cảm giác vô thức sợ bị quấy rầy bởi một tạo vật thiếu lí trí, lại thêm vấn đề sở hữu khi lo các đồ vật có thể bị làm bẩn hay hư hại. Thái độ lo âu, tự vệ phức tạp này xung đột với tình yêu vốn vẫn khiến cho người lớn tin rằng sự hiện diện của đứa trẻ đem lại cho họ nguồn vui lớn nhất và chính họ sẵn sàng hi sinh tất cả, dâng hiến tột độ cho đứa trẻ. Nhưng tới lúc này, hai trạng thái tâm lí của người lớn và đứa trẻ đã khác nhau quá nhiều, khiến cho đứa trẻ và người lớn không có khả năng sống chung trừ phi có những sự điều chỉnh cần thiết. Đây là vấn đề quan trọng về cách đối xử với trẻ ngay trong phạm vi gia đình của trẻ. Ta dễ dàng nhận thấy rằng những điều chỉnh này sẽ hoàn toàn bất lợi cho trẻ, là kẻ ở vị thế hoàn toàn thấp kém trong xã hội. Việc áp chế các hành động bất tiện của trẻ trong môi trường do người lớn ngự trị, trở nên khó tránh khỏi do người lớn không có ý thức về thái độ tự vệ của chính họ, mà chỉ có ý thức về tình yêu thương và sự tự dâng hiến quảng đại của họ. Sự ngụy trang mà Freud từng đề cập đến chính xác là từ các mối xung đột này. Bản năng tự vệ của tiềm thức xuất hiện có ý thức dưới một dạng che giấu khác, đầu óc sở hữu khiến người lớn lo lắng bảo vệ những cái mà họ yêu thích khỏi bị đứa trẻ đụng tới bỗng trở thành “trách nhiệm dạy dỗ đứa trẻ để nó có những thói quen tốt”, và nỗi sợ hãi đối với đứa trẻ quấy phá sự bình yên của họ trở thành “nhu cầu cho trẻ ngủ nghỉ thật nhiều để bảo vệ sức khỏe của trẻ”. Một cách đơn giản, người phụ nữ thuộc giới lao động công khai tự vệ bằng những cái tát, bằng la mắng, bằng bạo hành và bằng cách tống đứa trẻ khỏi nhà, cho nó ra ngoài đường - đan xen với những cái ôm dạt dào và những cái hôn chùn chụt tương ứng với niềm thương yêu dành cho con của người đàn bà. Ở mức cao hơn của xã hội, nơi vài hình thức tình cảm như tình yêu, hi sinh, trách nhiệm, và tự chủ trong hành vi bên ngoài được xem là đương nhiên, thì các bản năng như thế phải được che giấu. Những bà mẹ ở những tầng lớp trên thậm chí còn sẵn sàng giải thoát bản thân khỏi con cái hơn các bà mẹ ở tầng lớp thấp trong nhân dân, bằng cách giao phó con cái cho bảo mẫu, người sẽ dẫn chúng đi dạo hay dỗ cho chúng ngủ triền miên. Sự nhẫn nại, vẻ tốt bụng, và thậm chí sự nhún nhường của những phụ nữ tầng lớp trên này đối với các bảo mẫu mà họ thuê thật sự là một sự hiểu ngầm là họ sẽ tha thứ, sẽ chấp nhận bất cứ điều gì, miễn là khi nào đứa trẻ gây rắc rối, nó sẽ được tách ra xa cha mẹ nó và những đồ sở hữu của họ. Và thế là khi vừa thoát khỏi sự giam cầm trong một cơ thể bất lực, và đang vui mừng hân hoan trong chiến thắng của cái Tôi, nay đang điều khiển các cơ quan hoạt động tuyệt vời - những cơ quan vận động có ý thức, đứa trẻ lại đụng đầu với một nhóm người khổng lồ đầy quyền năng đang ngăn chặn bước dấn thân của nó vào thế giới. Hoàn cảnh này khác gì sự ra đi của một dân tộc sơ khai, tìm cách tự giải phóng khỏi sự nô lệ và tiến vào những vùng đất khắc nghiệt mà chưa ai thám hiểm, như những người Do Thái dưới sự lãnh đạo của Moses (ra khỏi Ai Cập ND). Cuối cùng, khi đã bỏ lại đằng sau những cái khắc nghiệt của miền hoang vu và tìm ra ốc đảo phì nhiêu nơi họ có lẽ được sống bình yên, họ chỉ gặp thấy chiến tranh, thay vì được tiếp đón niềm nở. Bản tính tự nhiên của con người khiến kẻ sở hữu một môi trường đã được thiết lập sẽ tự vệ chống lại kẻ xâm lăng. Điều này xảy ra rõ ràng và dữ dội ở trường hợp những kẻ có xung đột, có điều là nguồn gốc của hiện tượng như vậy lại ẩn kín bên dưới lớp tiềm thức thẳm sâu của tâm hồn con người. Và biểu hiện ban đầu, thường không ai để ý, được bộc lộ khi người lớn bảo vệ sự bình yên và tài sản của họ chống lại những kẻ xâm lăng thuộc về thế hệ mới. Nhưng bước tiến của kẻ xâm lăng không bị ngăn chặn, chúng chiến đấu một cách vô vọng, vì chúng đang đấu tranh cho sự sống của mình. Cuộc xung đột này, trong tiềm thức, lại được ngụy trang, xảy ra giữa sự ngây thơ của đứa trẻ và tình yêu của cha mẹ nó. Thật là thuận tiện cho người lớn khi họ nói, “Trẻ con không nên chạy lung tung, không được chạm vào những thứ của người lớn, không nên nói hay la hét, phải nằm yên thật nhiều. Nên ăn và ngủ”. Hay là quyết định rằng điều “tốt nhất” cho đứa trẻ là “nên gửi nó đi xa khỏi nhà”, thậm chí là đến ở cùng với người không hề thương yêu nó hay chẳng có quan hệ nào với gia đình của nó. Do thói quen bởi quán tính, người lớn chọn con đường dễ dãi nhất là cho đứa trẻ đi ngủ. Có ai lại không công nhận rằng trẻ cần ngủ chứ? Nhưng nếu đứa trẻ đang linh hoạt, lanh lợi, đầy khả năng quan sát, đứa trẻ trước hết không phải là “người ngủ”. Trẻ sẽ cần giấc ngủ bình thường, và chúng ta phải bảo đảm cho trẻ ngủ đủ. Nhưng ta cần phân biệt giữa giấc ngủ bình thường và giấc ngủ gây ra một cách giả tạo. Người lớn buộc trẻ đi ngủ nhiều hơn mức trẻ cần. Chúng ta biết một kẻ có cá tính mạnh mẽ có thể áp đặt ý muốn của mình lên kẻ có ý chí yếu hơn, và cái áp đặt đầu tiên là cho bệnh nhân đi ngủ. Và thế là người lớn theo lời góp ý dù là một cách vô thức, đã cho trẻ đi ngủ. Các bà mẹ thất học công khai cho con cái uống các liều thuốc ngủ; nông dân biết pha chế những hỗn hợp với ngọn hoa anh túc để làm cho các bé ngủ lâu. Nhưng ngoài điều này ra, chúng ta có thể nói rằng người lớn nói chung, có văn hóa hay không văn hóa, ngay cả giới chuyên môn về nuôi trẻ, như các bảo mẫu, cũng đồng ý buộc các sinh linh sống này phải ngủ trong khi thiên nhiên lại muốn đánh thức chúng. Không chỉ các trẻ mới vài tháng tuổi mà thậm chí trẻ hai, ba, hay bốn tuổi, đều bị buộc đi ngủ nhiều hơn chúng cần. Trong trường hợp sau, điều này không áp dụng cho con cái của thường dân. Chúng rong chơi cả ngày ngoài đường, để mẹ chúng không phải lo nghĩ, và do đó chúng không bị mối nguy hiểm này. Như ta biết rõ, trẻ em trong những gia đình nghèo ít nhút nhát cáu bẳn hơn những trẻ xuất thân từ các gia đình khá giả hơn trong xã hội. Vậy mà người ta cứ khăng khăng rằng “ngủ lâu” là cần thiết cho sức khỏe của trẻ em, như ăn uống và không khí trong lành; họ chỉ quan tâm đến cái ta gọi là đời sống thực vật của đứa trẻ. Tôi nhớ một bé bảy tuổi thổ lộ với tôi rằng bé chưa bao giờ nhìn thấy các ngôi sao vì cha mẹ luôn cho bé đi ngủ trước khi trời tối. Bé nói với tôi “Con muốn dù chỉ một đêm thôi được lên đỉnh một ngọn núi và duỗi mình trên mặt đất để nhìn các vì sao”. Nhiều cha mẹ khoe khoang rằng con họ thường đi ngủ sớm đến nỗi họ hoàn toàn tự do đi ra ngoài vào buổi tối. Giường chuẩn bị cho trẻ em, một khi chúng có thể chạy nhảy, là cái gì khá đặc biệt, chúng không giống cái nôi đẹp đẽ và mềm mại, cũng không giống như giường người lớn, giường trẻ em đơn giản phải là để trẻ em có thể ngủ thoải mái. Cái giường có song của trẻ là một cũi tù độc địa được tạo ra cho sinh vật đang tranh đấu cho sự hiện hữu tinh thần ấy. Trong đó, trẻ là người tù, và cái lồng sắt nơi bé được đặt xuống ngoài ý muốn, vừa là một thực tại, vừa là một biểu tượng. Bé là người tù của nền văn minh xây đắp lên bởi người lớn vì sự tiện lợi cho người lớn; và dường như ngày càng gò bó và chừa ít chỗ cho sự tự do của bé. Xung quanh đứa trẻ, chỉ có nhà tù và sự trống rỗng. Cái giường có song là một cái lồng có chân cao, để người lớn có thể bồng bế em bé mà không cần cúi xuống, và họ có thể để bé một mình, an toàn, ở trong đó dù bé có khóc thì cũng chẳng hề hấn gì, căn phòng tối tăm để không ánh sáng nào, ngay cả ánh sáng bình minh cũng không chiếu được vào và đánh thức bé. Đứa bé phải đi ngủ sớm ban đêm để cha mẹ được tự do, và bé phải ngủ dậy trễ buổi sáng để người lớn được ngủ đủ vì họ lên giường muộn. Một trong những trợ giúp đầu tiên cho sự phát triển tâm lí của trẻ nên là cải tiến cái giường của trẻ và bỏ thói quen ép trẻ ngủ giấc dài không tự nhiên. Trẻ nên được phép đi ngủ khi buồn ngủ, và thức giấc khi đã ngủ đủ, và thích dậy sớm lúc nào thì dậy lúc ấy. Do đó chúng tôi có lời khuyên - và nhiều gia đình đã làm theo - rằng nên vứt cái giường cũ có song của trẻ, và thay vào đó, nến có một chiếc giường rất thấp, nơi trẻ có thể nằm xuống và đứng lên khi trẻ muốn. Sự sửa đổi nhỏ đơn giản này sẽ giải quyết được nhiều khó khăn tưởng chừng như không có giải pháp. Một cái giường nhỏ, thấp, gần như trên sàn nhà, rất tiết kiệm, như tất cả các cuộc cải thiện, sẽ hỗ trợ cho trẻ trong đời sống tâm trí, bởi trẻ cần những vật đơn giản xung quanh nó; không nên sử dụng những món đồ phức tạp bất lợi cho trẻ. Trong nhiều gia đình, sự cải thiện này được thực hiện bằng cách đặt một tấm đệm nhỏ trên sàn, trên một tấm thảm to và mềm, để trẻ có thể lên giường theo ý muốn, vui vẻ đi ngủ vào buổi tối và thức dậy vào buổi sáng mà không đánh thức làm phiền ai. Nhiều ví dụ cho thấy sự sai lầm trầm trọng khi muốn sắp đặt trật tự cho đời sống của một đứa trẻ, và cách thức của người lớn, vì lo lắng muốn làm điều tốt cho trẻ, thực ra lại đi ngược nhu cầu của nó và bị thúc đẩy một cách vô thức bởi một bản năng phòng thủ có thể dễ dàng vượt qua. Từ những điều này mà người lớn nên thử diễn giải các nhu cầu của trẻ để có thể đáp ứng tốt nhất bằng cách chuẩn bị một môi trường thật sự thích hợp. Đây có thể là khởi nguyên cho một thời đại giáo dục mới, sẽ chú trọng đến cách trợ giúp cho đời sống của đứa trẻ. Chúng ta phải từ bỏ tư tưởng rằng đứa trẻ là một món đồ để bế lên và mang đi bất cứ nơi nào khi nó còn nhỏ, và khi nó lớn hơn, nó chỉ có việc vâng lời và bắt chước người lớn. Tư tưởng này là một trở ngại khó vượt qua đối với bất cứ nỗ lực nào để làm cho đời sống của đứa trẻ hợp lí hơn. Người lớn phải nhìn nhận rằng họ đóng vai trò thứ yếu, họ phải cố gắng làm tất cả để hiểu trẻ, phải đi theo và giúp trẻ trong sự phát triển đời sống của nó. Đây phải là mục tiêu và là niềm khao khát của người mẹ và người thầy. Nếu phải hỗ trợ sự phát triển nhân cách của đứa trẻ, bởi trẻ là kẻ yếu hơn, người lớn với cá tính mạnh hơn phải tự xem xét mình và đi theo sự dẫn đắt của đứa trẻ, người lớn phải cảm thấy hãnh diện vì họ có thể hiểu và theo chân đứa trẻ. Vui bước chân đi Nhiệm vụ của người lớn phải tương đồng với nhu cầu của sinh vật chưa trưởng thành do họ chăm nom, phải tự điều chỉnh theo các điều thiết yếu của nó và phải từ bỏ cách hành động riêng của mình. Những động vật cấp cao hơn đã hành động như thế theo bản năng và chúng điều chỉnh bản thân theo các nhu cầu của con non. Không có gì thú vị hơn cảnh voi con được mẹ dẫn đến với bầy. Cả đám thú to lớn chậm bước chân theo nhịp chân của con nhỏ, và khi nó mệt và dừng lại, tất cả chúng cũng dừng theo. Ý tưởng hi sinh tương tự cho đứa trẻ cũng được thấy ở một số hình thái văn minh. Tôi có lần đã quan sát và đi theo một ông bố người Nhật dẫn con trai nhỏ, khoảng một tuổi rưỡi, đi dạo. Bỗng đứa trẻ vòng tay ôm chân bố. Người đàn ông đứng yên và để đứa bé xoay tròn quanh cái chân nó đã chọn cho trò chơi. Khi bé chơi chán rồi, hai người lại tiếp tục chậm rãi đi dạo. Sau một lúc đứa trẻ ngồi xuống lề đường, còn ông bố đứng im bên cạnh, khuôn mặt ông nghiêm nghị, nhưng hoàn toàn tự nhiên, ông ta không làm gì khác thường. Đơn giản chỉ là một ông bố dắt đứa con nhỏ đi dạo. Đây là kiểu đi ra ngoài thích hợp nhất cho trẻ, giúp trẻ có thể tập luyện thao tác cần thiết cho bước đi ở thời điểm khi cơ thể của nó cần thiết lập một số động tác phối hợp khác nhau để giữ thăng bằng. Chúng ta phải nhận thức được sự khó khăn lớn lao, chỉ dành riêng cho con người, trong việc đi đứng thẳng chỉ trên đôi chân của mình. Dù tứ chi của cơ thể con người cũng tương ứng với tứ chi của các động vật có vú khác, con người phải đi trên hai chân thay vì bốn chân. Ngay loài khỉ cũng có cánh tay dài để chúng có thể cho một tay nghỉ trên mặt đất khi bước đi. Chỉ có con người là giao phó cả công việc đi với thăng bằng cho hai chân, thay vì bước đi có điểm tựa. Khi động vật có vú bước đi, chúng nhấc hai chân, theo đường chéo, để cơ thể của chúng luôn có hai điểm tựa, nhưng khi con người bước đi, đầu tiên nó đặt trọng lượng cơ thể lên một chân và tiếp đó lên chân còn lại. Thiên nhiên đã giải quyết sự khó khăn theo hai cách, một cách theo bản năng, cách kia theo nỗ lực tự nguyện của cá nhân. Đứa trẻ không phát triển năng lực đi thẳng đứng bằng cách ngồi chờ điều đó xảy ra, mà bằng cách bước đi. Bước đi đầu tiên của trẻ, được cha mẹ chào đón với sự vui mừng, đúng là sự chinh phục của tự nhiên và hầu như là sự ra đời của con người năng động, thay cho con người bất động, bất lực, và đối với đứa trẻ, một cuộc sống mới bắt đầu. Trong sinh lí học, sự xuất hiện của chức năng mới này là một trong những thử thách chính trong sự phát triển bình thường của trẻ. Nhưng sau đó, chính sự luyện tập mới quan trọng. Đạt được thăng bằng và một dáng đi vững vàng là kết quả của sự luyện tập lâu dài và do đó, của nỗ lực cá nhân. Ta biết đứa trẻ bắt đầu bước đi với một động lực không thể cưỡng cùng với sự can đảm. Trẻ gan dạ và thậm chí liều lĩnh, giống như một chiến binh thực thụ, lao đến chiến thắng bất kể hiểm nguy. Vì lí do đó, người lớn tạo quanh trẻ những sự bảo vệ gây quá nhiều hạn chế và trở ngại, nó bị giam vào lồng chơi, cài vào xe đẩy, để đưa ra ngoài chơi mặc dù chân nó đã cứng cáp. Điều này là do bước chân của đứa trẻ ngắn hơn bước chân của người lớn nhiều, và nó ít khả năng chịu được những cuộc đi dạo dài. Và người lớn không chịu giảm tốc độ của mình. Thậm chí khi người lớn là một bảo mẫu - có nghĩa là người đã chuyên và tự hiến mình duy nhất cho việc chăm sóc trẻ - chính đứa trẻ phải tự thích ứng theo lối của bảo mẫu, chứ không phải bảo mẫu tự điều chỉnh theo trẻ. Người bảo mẫu sẽ đi theo tốc độ của mình, đẩy xe, trong đó đứa bé ngồi tựa như một trái cây xinh đẹp được đưa ra chợ. Chỉ khi cô ấy đến nơi định đến, có lẽ là một công viên đẹp, cô ấy sẽ ngồi xuống và nhấc đứa trẻ ra khỏi xe, và cho phép bé chơi dưới cặp mắt canh chừng của cô. Trong toàn bộ câu chuyện này, người ta chỉ quan tâm đến cơ thể của đứa trẻ, đời sống “thực vật” của nó phải được che chắn khỏi bất cứ nguy hiểm nào từ bên ngoài, không ai chú trọng đến những nhu cầu cơ bản và mang tính xây dựng của đời sống tâm trí của trẻ. Đứa trẻ ở giữa độ một tuổi rưỡi và hai tuổi thật sự có thể đi bộ nhiều dặm và leo trèo những nơi khó đi như bờ dốc hay cầu thang. Nhưng trẻ đi bộ với mục tiêu hoàn toàn khác với chúng ta. Người lớn đi bộ để đến một mục tiêu bên ngoài và cứ thế mà thẳng tiến đến đó. Hơn nữa, họ có nhịp bước riêng khiến họ đi tới đích một cách máy móc. Đứa trẻ nhỏ bước đi để phát triển các năng lực của nó, trẻ đang xây dựng nên chính bản thân nó. Trẻ bước chậm chạp, nó không bước theo nhịp hay có một mục tiêu. Nếu người lớn có giúp được gì, họ phải từ bỏ nhịp điệu và mục tiêu riêng của chính mình. Tôi từng biết một cặp vợ chồng trẻ ở Naples có đứa con nhỏ nhất mười tám tháng tuổi. Mùa hè, để đến bãi biển, họ phải đi bộ gần một dặm đường dốc xuống chân đồi, gần như hoàn toàn không thể vượt qua bằng phương tiện nào khác. Đôi vợ chồng trẻ muốn con theo cùng, nhưng bế nó trên tay thì quá mệt. Đứa bé tự giải quyết khó khăn bằng cách tỏ ra là nó có thể đi bộ suốt cả đoạn đường. Thỉnh thoảng bé dừng lại để ngắm một bông hoa, hoặc ngồi xuống cỏ đồng nội, hay đứng nhìn một con vật. Có một lần bé đứng yên gần mười lăm phút chăm chú nhìn một con lừa đang ăn cỏ. Và như thế, mỗi ngày, em bé này đi xuống và đi lên đoạn đường dài và khó khăn mà không mỏi mệt. Ở Tây Ban Nha, tôi được biết hai đứa bé khoảng hai và ba tuổi có thể đi bộ hơn một dặm. Nhiều đứa bé khác có thể đi hơn một giờ lên và xuống các cầu thang dốc với những bậc thang rất hẹp. Nói về chuyện cầu thang, tôi được nhắc rằng đây cũng là một cái cớ để các bà mẹ hay âu lo mắng con mình “nghịch ngợm”. Một phụ nữ từng hỏi tôi về những cơn nóng giận của cô con gái nhỏ chỉ mới biết đi. Hễ nhìn thấy cầu thang, là bé kêu gào, và khi có người bế bé lên hay xuống cầu thang, bé trở nên gần như điên cuồng. Mẹ của bé nghĩ rằng đây chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên vì không có lí do gì để bé khóc và chống cự chỉ bởi được bế lên bế xuống cầu thang. Nhưng rõ ràng là đứa bé chỉ muốn tự mình leo lên leo xuống cầu thang. Đối với bé, nơi này dường như là nơi hấp dẫn nhất, với nhiều chỗ để tay nắm và có nhiều chiếc ghế nhỏ (bậc thang), hấp dẫn hơn là đi trên các cánh đồng, nơi chân bé bị lún vào đám cỏ và tay không có gì để nắm. Nhưng các cánh đồng là nơi duy nhất bé được phép đi lang thang mà không bị bế trong tay người lớn hay bị nhốt vào trong một xe đẩy. Thật dễ để ý đến cách trẻ em muốn đi và chạy; và thấy vì sao những bậc thang ở ngoài luôn đầy trẻ con đi lên đi xuống, ngồi xuống, đứng dậy, và tuột xuống. Khả năng tìm ra lối đi giữa các chướng ngại, tránh các nguy hiểm, chạy, hay thậm chí bám theo chiếc xe đang chạy, cho thấy một tiềm năng khác xa sự chậm chạp của một đứa trẻ nhút nhát, cuối cùng thành đứa trẻ lười biếng của tầng lớp thượng lưu. Không đứa trẻ nào được giúp đỡ trong sự phát triển của nó; đứa thì bị bỏ mặc trong môi trường không thích hợp và nguy hiểm nơi người lớn sinh sống, đứa khác thì, nhằm bảo vệ nó khỏi môi trường nguy hiểm này, đã bị kiềm chế và rào ngăn che chắn bởi những chướng ngại. Đứa trẻ tranh đấu để xây dựng nên con người trong nó giống như Đấng cứu Thế, mà tiên tri đã nói rằng Ngài “không có nơi nào để gối đầu hay đặt chân”. Bàn tay và não bộ Thật thú vi khi ghi nhận rằng hai cột mốc mà sinh lí học xem là dấu hiệu của sự phát triển bình thường của một đứa trẻ lại liên quan đến sự vận động. Chúng khởi đầu cho bước đi và tiếng nói. Do đó, khoa học đã xem hai chức năng vận động này là một dạng số tử vi có thể đọc được tương lai của con người; bởi thật ra, hai biểu hiện phức tạp này cho thấy kẻ-sẽ-là-người đã đạt được chiến thắng đầu tiên của cái Tôi của nó đối với các công cụ biểu đạt và hoạt động của nó. Ngôn ngữ là một đặc tính riêng biệt của con người, vì nó diễn tả tư duy, còn bước đi là một hoạt động có chung trong các động vật. Động vật khác với thực vật ở chỗ nó có thể tự di chuyển. Và khi sự vận động này được giao phó cho các chi chuyên biệt, bước đi trở thành một đặc tính cơ bản. Tuy nhiên, ở con người, mặc dù khả năng di chuyển cơ thể của nó trong không gian lớn đến mức nó xâm chiếm cả trái đất, bước đi không phải là vận động đặc thù của loài thông minh. Thay vào đó, những “đặc tính vận động” gắn kết với trí tuệ của con người là những chuyển động của cơ quan phát âm và của bàn tay phục vụ cho trí tuệ để hình thành một ý tưởng. Ta biết những vết tích đầu tiên của con người thời tiền sử được suy ra từ những hòn đá được đẽo gọt và mài láng, những dụng cụ đầu tiên của con người, vậy đó chính là đặc tính đánh dấu một thời kì mới trong lịch sử sinh học của những sinh vật sống. Chính cái ngôn ngữ xuất hiện như một tài liệu về quá khứ của con người, khi từ những âm thanh tan biến đi trong không khí, nó đã trở thành cái gì đó mà bàn tay con người khắc ghi trên đá. Hình thái của cơ thể và thành tựu trong bước đi được đánh dấu đặc trưng bởi sự giải phóng này của bàn tay, bởi sự chuyên hóa của hai chi trên cho những chức năng khác hơn là các chức năng dành riêng cho sự vận động, khiến chúng trở thành cơ quan thừa hành của trí tuệ. Do đó mà trong sự tiến hóa của các sinh vật sống, con người chiếm lĩnh một vị trí mới, biểu thị sự thống nhất về chức năng của tâm thức và sự vận động của nó. Bàn tay là cơ quan tinh tế và phức tạp về cấu trúc, cho phép tư duy không chỉ biểu lộ, mà còn đi vào các mối quan hệ đặc biệt với môi trường của nó. Thậm chí chúng ta có thể nói rằng con người “sở hữu môi trường của mình bằng đôi tay” và dùng trí tuệ của mình để biến đổi môi trường, do vậy mà hoàn thành sứ mệnh trên sân khấu vĩ đại của vũ trụ. Vì vậy, sẽ là hợp lí nếu chúng ta muốn đánh giá sự phát triển tâm lí của một đứa trẻ, muốn xét đến các bước đầu tiên của cái ta gọi là hai dạng vận động do trí tuệ gợi hứng, đó là sự xuất hiện của tiếng nói và sự xuất hiện của hoạt động ở đôi tay, coi đó như là ước vọng lao động của con người. Do bản năng ở tiềm thức, con người luôn liên kết hai dạng biểu hiện vận động của tư duy đặc trưng ở loài người và thấy được tầm quan trọng của chúng, nhưng chỉ mới thấy trong một số biểu tượng gắn với đời sống xã hội của người lớn. Chẳng hạn, khi một người nam và một người nữ kết hôn, họ thốt lên vài lời và nắm tay nhau. Đồng ý cưới còn được diễn tả là “trao lời hẹn ước” và xin cưới một phụ nữ là “xin bàn tay” của cô. Khi tuyên thệ, người ta thốt ra một lời và làm một cử chỉ. Trong bất cứ nghi thức nào có sự thể hiện mạnh mẽ của cái Tôi, bàn tay đều có vai trò của nó. Để chối bỏ tất cả trách nhiệm bản thân (về cái chết của Đức Giêsu), Pilate tuyên bố trong một câu có tính nghi thức rằng ông ta đã rửa tay của mình và đồng thời thực sự rửa tay trước đám đông. Trước khi bước vào phần long trọng nhất của chức năng thiêng liêng, vị linh mục công giáo trong Thánh Lễ tuyên bố rằng ông sẽ rửa tay, “Tôi sẽ rửa tay trước người vô tội”, và rửa tay trong một chậu nước nhỏ, mặc dù tay ông không những đã rửa mà còn được làm cho tinh khiết trước khi bước đến bàn thờ. Tất cả điều này cho thấy trong tiềm thức của nhân loại, đôi tay được xem là biểu hiện của cái “Tôi” nội tại. Chúng ta có thể nghĩ đến điều gì thiêng liêng và tuyệt vời hơn sự phát triển của “cử động cơ bản đặc thù của con người” này ở đứa trẻ? Không gì đánh thức được sự mong đợi long trọng hơn thế. Động tác vươn ra đầu tiên của đôi tay bé nhỏ hướng tới những vật bên ngoài, động lực thúc đẩy cử động biểu thị nỗ lực đi vào thế giới của bản ngã phải khiến người quan sát đã trưởng thành thán phục và tôn kính. Nhưng thay vào đó, con người lại lo sợ đôi tay bé xíu đang vươn tới những thứ không có giá trị hay vô nghĩa trong tầm tay của chúng; họ cố bảo vệ các món đồ đó khỏi tay trẻ. Người lớn luôn miệng nói “Đừng sờ vào!”, luôn lặp lại, “Ngồi yên nào! Im lặng nào!”. Và trong mối lo âu này, trong vực sâu tối tăm của tiềm thức, người lớn tổ chức một sự tự vệ và kêu gọi sự trợ giúp của những người lớn khác, cứ như thể họ phải bí mật chiến đấu chống lại một quyền lực đang đe dọa tiện nghi và của cải của họ. Để nhìn thấy, để nghe được, nghĩa là để tiếp thu những yếu tố cần thiết từ môi trường xung quanh, hầu xây nên chất liệu tư duy đầu tiên của mình, đứa trẻ phải có thể chiếm hữu chúng, “nắm bắt” được chúng. Nay đứa trẻ phải vận động theo hướng xây dựng, sử dụng đôi tay để làm việc, trẻ cần có những vật bên ngoài mà nó có thể tiếp cận, có nghĩa là các “động cơ hoạt động” mà trẻ cần phải có trong môi trường của nó. Nhưng trong vòng vây của gia đình, nhu cầu này đã bị sao nhãng. Những đồ vật xung quanh trẻ thuộc về người lớn và chỉ dành cho họ sử dụng, chúng là điều cấm kị đối với trẻ. Mệnh lệnh “Đừng đụng vào!” là câu trả lời duy nhất cho vấn đề sinh tử của sự phát triển của trẻ. Nếu trẻ sờ đến vật đã bị cấm, nó bị phạt và la mắng. Nếu đứa trẻ thành công trong việc cầm nắm một vật gì, trẻ giống như chó cún con đói khát mang một khúc xương đến một góc để gặm nhấm, cố tìm kiếm chút chất dinh dưỡng, dù là không đủ, trước khi bị xua đuổi. Nay sự vận động của trẻ không còn do ngẫu nhiên nữa. Trẻ đang tạo ra sự phối hợp cần thiết cho vận động có tổ chức, dưới sự chỉ đạo từ bên trong của bản ngã. Bản ngã của trẻ, làm công việc tổ chức và điều hợp, thống nhất tâm thức nội tại và các cơ quan biểu hiện của nó nhờ các kinh nghiệm bổ sung liên tục. Do vậy, điều quan trọng là chính trẻ khi hành động tự phát phải chọn lựa và thực hiện hành động của mình. Vận động hình thành nhân cách này có những tính chất đặc biệt, nó không phải là kết quả do may rủi hay những động lực ngẫu nhiên. Đứa trẻ không đơn thuần chạy, nhảy, cầm mọi thứ không có mục đích, hay dời chúng đi để gây ra xáo trộn hoặc phá hoại chúng, vận động có tính xây dựng của trẻ tìm cảm hứng trong các hoạt động mà trẻ thấy người khác làm. Những hành động trẻ cố bắt chước luôn là những việc liên quan đến cách vận dụng hay sử dụng một vật mà trẻ cố dùng để thực hiện những hành động mà nó thấy người lớn đã làm. Do vậy, những hoạt động này được liên kết với những cách sử dụng môi trường khác nhau trong gia đình và xã hội. Đứa trẻ sẽ muốn quét nhà, rửa bát, giặt đồ, đổ nước, tự tắm rửa, tự mặc quần áo, và chải đầu. Bởi đây là một điều phổ quát, nó đã được gọi là “sự bắt chước”: đứa trẻ làm cái đã thấy người ta làm. Nhưng có một khác biệt giữa cái trẻ làm và hành động bắt chước trực tiếp của một con khỉ. Những vận động có tính định hình của trẻ bắt nguồn từ một cấu trúc tâm linh, được xây trên sự hiểu biết. Đời sống tâm thần của trẻ phải chỉ đạo các vận động của nó, luôn luôn hiện hữu trước các vận động được liên kết với nó. Khi đứa trẻ muốn làm điều gì, trẻ biết trước đó là cái gì; trẻ muốn làm cái nó biết, tức là cái nó đã thấy người ta làm. Chúng ta có thể nói rằng, về mặt phát triển tiếng nói, tình hình có lẽ cũng tương tự. Trẻ hấp thụ lời nói nó nghe thấy ở xung quanh, và khi trẻ nói một từ, nó nói vì nó đã học được khi nghe từ đó và giữ nó trong trí nhớ. Trẻ dùng nó theo nhu cầu lúc đó. Tri thức và việc sử dụng của một từ mà trẻ đã nghe không phải là bắt chước giống con vẹt. Trẻ không đơn thuần bắt chước một âm thanh mà sử dụng tri thức đã có và đã lưu trữ. Sự bắt chước của trẻ không hẳn là bắt chước ngay lập tức, nhưng là cái gì đã được quan sát, lưu trữ, là tri thức đã được lĩnh hội. Sự lặp lại lời nói là một hành vi đặc biệt. Sự phân biệt này rất quan trọng vì một mặt nó chiếu rọi ánh sáng lên các mối quan hệ giữa người lớn và đứa trẻ, mặt khác nó cho phép chúng ta có được sự thấu hiểu sâu sắc về các hoạt động của trẻ. Hoạt động có mục đích Trước khi đứa trẻ có thể thực hiện được các hành động theo một động cơ rõ ràng hợp lí như những điều trẻ thấy người lớn làm, trẻ bắt đầu hành động cho những mục tiêu của chính mình, sử dụng các vật cho những mục đích thường là khó hiểu đối với người lớn. Điều này thường xảy ra với trẻ ở độ một tuổi rưỡi đến ba tuổi. Chẳng hạn, có lần, tôi từng thấy một bé một tuổi rưỡi tìm thấy một xấp khăn ăn vừa được ủi xong và xếp gọn gàng, từng cái chồng lên nhau. Đứa bé lấy một trong những cái đã xếp, cầm nó một cách vô cùng cẩn thận và đặt một tay bên dưới để khăn không bị bung ra và mang nó đi theo hướng chéo ngang phòng đến góc đối diện, nơi bé đặt nó xuống sàn nhà rồi nói, “Một”. Sau đó bé trở lại chỗ cũ - một dấu hiệu cho thấy bé được chỉ đạo bởi sự nhạy cảm đặc biệt nào đó về phương hướng. Bé lấy cái khăn thứ hai theo cách tương tự, mang nó theo lộ trình cũ, và đặt nó lên trên cái khăn đầu tiên đã ở trên sàn, và lại nói, “Một”. Bé lặp lại công việc này cho đến khi đã mang cả chồng khăn ăn đến góc phòng. Sau đó, cũng theo quá trình như vậy, bé mang tất cả khăn lần lượt trở lại vị trí ban đầu. Mặc dù xấp khăn ăn không còn trong tình trạng gọn gàng như lúc người hầu đã đặt trước đây, chúng vẫn được xếp khá ngay ngắn, và chồng khăn dù trông hơi xấu đi, vẫn không thể xem là bị phá tung. May mắn cho bé là không ai trong gia đình có mặt trong suốt quá trình thao tác rất lâu này. Trẻ nhỏ thường hay được nghe người lớn la hét ở sau lưng, “Dừng lại! Để cái đó xuống!”. Và bao nhiêu lần, những đôi tay nhỏ bé này, đáng lẽ phải được tôn thờ, lại bị đánh khẽ để chúng học cách không được sờ vào đồ vật gì! Một công việc “cơ bản” khác hấp dẫn trẻ là vặn nắp chai ra rồi lại vặn vào, đặc biệt nếu nắp chai là thủy tinh dạng lăng kính, phản chiếu màu sắc của cầu vồng, như nắp của một chai dầu thơm. Vặn ra rồi vặn vào nắp chai dường như là một trong những động tác cơ bản được trẻ yêu thích; một hoạt động yêu thích khác là nâng lên và hạ xuống nắp đậy của hộp đựng bút hoặc nắp của một cái hộp lớn, hay thậm chí là việc mở và đóng cửa tủ, và không cần nói rằng xung đột sẽ xảy ra thường xuyên giữa trẻ và người lớn xung quanh những vật quá hấp dẫn, vô cùng cấm kị vì chúng thuộc về bàn trang điểm của mẹ hay bàn viết của cha, hoặc đồ nội thất của phòng khách, và hậu quả thường xuyến là “sự ngỗ nghịch”. Nhưng đứa trẻ không muốn một cái chai hay cái hộp đựng bút riêng biệt đó, trẻ sẽ thỏa mãn với những vật được làm cho trẻ, để trẻ được phép luyện tập những động tác như vậy. Những hành động này và hành động tương tự là những hành động cơ bản không có mục đích hợp lí, và có thể được xem là những bước dò dẫm đầu tiên của con người với tư cách là người lao động. Chính trong giai đoạn chuẩn bị này mà chúng tôi đã hình dung ra một số học cụ cho những trẻ rất nhỏ sử dụng, chẳng hạn như những tấm inset (mảnh lồng ghép có dạng hình học khác nhau, thường bằng kim loại - ND) được ưa chuộng khắp nơi. Ý tưởng để trẻ tự do hành động là điều dễ hiểu, nhưng việc thực hành gặp phải nhiều trở ngại phức tạp đã ăn sâu trong tư duy của người lớn. Nhiều khi người lớn có ý để trẻ được tự do sờ mó và di chuyển đồ vật nhưng lại không cưỡng nổi những động cơ mơ hồ rốt cuộc sẽ thống lĩnh họ. Một bà mẹ trẻ ở New York, tán thành các ý tưởng này, mong được áp dụng chúng cho đứa con trai xinh xắn hai tuổi rưỡi của mình. Ngày nọ, bà thấy bé mang một ca đựng đầy nước từ phòng ngủ vào phòng khách, chẳng biết để làm gì. Bà chú ý đến vẻ căng thẳng của bé, sự cố gắng ở mỗi bước đi của bé, miệng luôn lẩm bẩm, “Cẩn thận! cẩn thận!”. Cái ca nước thì nặng, và thế rồi bà mẹ không cưỡng lại nổi ý định giúp bé, nên bà lấy ca nước từ tay bé và mang nó tới nơi bé định mang đến, cậu bé khóc lóc và cảm thấy bị nhục, còn bà mẹ thì buồn rầu vì nghĩ mình đã gây đau đớn cho bé. Bà tự bào chữa nói rằng dù biết bé bị thôi thúc bởi nhu cầu nội tại nào đó, song bà cảm thấy không thể để con phải vất vả và phải mất quá nhiều thời gian để làm điều mà bà có thể làm cho bé ngay lúc đó. “Tôi biết mình sai”, bà nói với tôi, xin tôi tư vấn, như thể bà là bệnh nhân hỏi bác sĩ cách điều trị. Tôi suy ngẫm về khía cạnh khác của vấn đề, về cái bản năng bảo vệ các vật khỏi tay trẻ, cái cảm giác gần như “tính bủn xỉn” đối với trẻ. Tôi hỏi bà ấy, “Cô có đồ sứ nào hiếm không, vài cái tách chẳng hạn, thật quý giá? Để bé mang một trong số những cái tách nhẹ này và xem điều gì xảy ra”. Người phụ nữ theo lời khuyên của tôi, và kể rằng sau khi con trai cô mang những cái tách với sự cẩn thận và chú ý, nó dừng ở mỗi bước đi, cho đến khi đặt chúng an toàn ở đích đến. Người mẹ bị giằng xé giữa hai cảm xúc, nỗi vui mừng khi thấy con đang làm việc và nỗi lo lắng về mấy chiếc tách. Hai cảm xúc đối trọng nhau nên bà có thể tự để mình cho phép con thực hiện công việc đang mê hoặc hấp dẫn bé và có vẻ cần thiết cho sức khỏe tâm thần của bé. Một dịp khác tôi đưa cho một bé gái một tuổi rưỡi miếng giẻ lau, đó là niềm thích thú cho bé khi nó ngồi xuống và lau bụi làm nhiều vật sáng bóng lên. Nhưng trong lòng người mẹ của bé thì có một thứ ức chế không cho phép bà đưa cho đứa trẻ một vật có vẻ vô dụng và quá xa lạ với những quy tắc vệ sinh mà đứa bé đã học. Những biểu hiện đầu tiên của bản năng lao động làm chấn động sâu sắc bất cứ người lớn nào đã nhận thức ra tầm quan trọng của vấn đề này. Họ thấy phải khước từ hì sinh vô số điều, như thể nhân cách họ bị hạ nhục, phải từ bỏ môi trường của họ, nhưng điều này không tương thích nổi với đời sống xã hội hiện hành. Trong môi trường của người lớn, đứa trẻ chắc chắn là kẻ dư thừa của xã hội. Thế nhưng, nếu chỉ đơn thuần loại trừ đứa trẻ, như họ vẫn làm từ trước đến nay, thì lại có nghĩa là đè nén sự phát triển của trẻ, như thể đứa trẻ đã bị kết án sẵn là phải chịu trở thành kẻ ngu ngốc. Giải pháp cho xung đột này nằm trong việc chuẩn bị một môi trường thích hợp cho những biểu hiện cao hơn của đứa trẻ. Khi đứa trẻ thốt ra từ đầu tiên, thì không cần chuẩn bị bất cứ điều gì, và ngôn ngữ trẻ con của nó là âm thanh được vui vẻ đón nhận trong nhà. Nhưng công việc của đôi tay bé nhỏ đòi hỏi “những động cơ thúc đẩy hoạt động” dưới dạng của những vật thích hợp. Rồi chúng ta sẽ thấy những đứa bé thực hiện các hành động đòi hỏi một nỗ lực đầy ấn tượng, đôi khi vượt xa cái ta phải xem là phù hợp với năng lực thể chất của chúng. Tôi có bức hình một bé gái người Anh mang một chiếc bánh mì quê lớn, lớn đến nỗi hai cánh tay của nó không chịu nổi sức nặng và bé phải tựa chiếc bánh vào thân mình. Do đó, bé buộc phải bước đi với tấm thân ưỡn cong về phía sau nên không thể nhìn thấy chỗ đặt chân trên đường đi của mình. Trong bức hình, ta chỉ thấy vẻ lo âu của con chó của bé, nó không rời mắt khỏi đứa bé. Nó bồn chồn và dường như sắp nhảy đến để giúp đỡ bé. Nhưng xa hơn đó có những người lớn đang hết sức cố gắng tránh việc chạy đến để đỡ lấy chiếc bánh trên tay bé. Đôi lúc những đứa trẻ rất nhỏ bộc lộ một kĩ năng rất sớm và sự chính xác trong cử động khiến chúng ta phải vô cùng kinh ngạc. Nếu chuẩn bị được một môi trường cho trẻ, thì chúng sẽ nhận lãnh được những chức năng xã hội phức tạp trong thế giới trẻ em. Tôi còn nhớ ấn tượng sâu sắc mà một bé trai hai tuổi đã tạo ra, khi nó phục vụ các đứa trẻ khác cùng tuổi với vẻ trân trọng, nó chuẩn bị bàn ăn cho các bạn và lo việc đón tiếp trong nhà. Trong những công việc tuyệt vời này, bé rõ ràng chỉ ngạc nhiên vì hai ngọn nến thắp sáng mà mẹ của bé đã đặt trên bánh sinh nhật của nó; bị lẫn lộn ý nghĩa của sự vật, bé đi quanh và nói với mọi người, “Con hai tuổi và có hai cây nến”. Chương 5 NHỊP ĐIỆU Nhịp diệu Người lớn không hiểu nổi rằng sinh hoạt bằng tay là nhu cầu thiết yếu cho trẻ và không nhận ra được biểu hiện đầu tiên của bản năng lao động, vì thế mà đã ngăn cản sự làm việc của trẻ. Điều này không phải luôn là hậu quả của một thái độ tự vệ nhưng có thể có những nguyên nhân khác. Một trong số nguyên nhân đó là việc người lớn đi tìm mục đích bên ngoài cho hành động và bản chất tư duy của họ khiến họ có lối hành động cố định riêng, cố gắng đạt được mục tiêu của mình trong thời gian ngắn nhất có thể, đối với người lớn đã trở thành một thứ luật tự nhiên mà họ thật sự đã phát biểu thành công thức là “luật cố gắng tối thiểu”. Khi thấy trẻ hết sức nỗ lực thực hiện hành động dường như vô bổ, hay không thiết thực mà bản thân người lớn có thể làm trong nháy mắt và làm tốt hơn nhiều, người lớn bị thôi thúc phải xông ra giúp một tay, như để kết thúc một cảnh tượng khó chịu. Sự hăng say mà người lớn thấy ở đứa trẻ nhỏ đối với những điều tầm thường khiến họ bực bội vì thấy vô lí và thậm chí khó hiểu. Nếu trẻ thấy khăn trải bàn bị lệch, và nhớ cách chiếc khăn vẫn được trải ra, nó sẽ cố đặt nó lại y như kiểu nó nhớ, và nếu nó được làm như thế, nó sẽ làm một cách chậm chạp nhưng với tất cả năng lực và nhiệt tình vốn có; bởi nhớ là nhiệm vụ chính của tâm trí đứa trẻ, và đặt cái gì lại cho đúng như nó đã thấy, là chiến thắng tối thượng, tương ứng với trình độ phát triển của nó. Nhưng bé chỉ có thể làm được điều này khi không có người lớn nào ở gần đó chú ý đến sự gắng sức của bé. Nếu đứa trẻ muốn tự chải đầu, người lớn thay vì vui mừng trước sự cố gắng tuyệt vời này, lại cảm thấy chính các quy tắc của mình bị vi phạm. Người lớn biết là trẻ không thể chải đầu gọn gàng hay nhanh chóng, và trẻ sẽ không đạt đến mục đích yêu cầu, trong khi người lớn có thể làm nhanh chóng và tốt hơn trẻ. Thế là, đứa trẻ đang thích thú thực hiện một trong những hành động xây dựng nên nhân cách của nó, nó bỗng thấy người lớn, một kẻ khổng lồ cao gần trần nhà vô cùng mạnh mẽ, không gì có thể chống lại, đến trước mặt, lấy đi chiếc lược và nói rằng họ sẽ chải đầu cho nó. Điều tương tự xảy ra khi người lớn thấy trẻ cố tự mặc quần áo hay thắt dây giày một cách khó khăn. Mọi nỗ lực của trẻ đều bị gián đoạn. Người lớn bực bội không chỉ vì trẻ cố thực hiện một hành động không cần thiết, mà còn bực bội bởi nhịp điệu khác biệt, cách cử động khác biệt của trẻ. .Nhịp điệu không như một khái niệm cũ có thể thay đổi, hay một tư tưởng mới có thể hiểu