🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ - Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo MÃ BÁ DUNG Tố Hinh dịch Danh Gia Cổ Vật #2 BÍ ẨN THANH MINH THƯỢNG HÀ ĐỒ dựa theo bản in của Nhã Nham & NXB Hội Nhà Văn 2019-12 Chương 1 Nửa đêm trộm mộ “ăn trên chiếu” Chơi đồ cổ quan trọng nhất là gì? Người nói là mắt nhìn, kẻ lại bảo là quan hệ, thực ra đều không chính xác. Ngành này xét đến cùng phải chú trọng hai chữ: “duyên phận”. Thế nên người chơi đồ cổ thế hệ trước phần nhiều đều tin số mệnh, cho rằng số đã có ắt có, số không có thì đừng cố. Nếu không có duyên với một món đồ mà cứ cố giành về tay, gọi là đi ngược ý trời, sẽ dẫn tới hậu họa khôn lường, món đồ ấy không còn là hàng tốt nữa, mà trở thành vật dữ cắn chủ, nhẹ thì thân bại danh liệt, nặng thì nguy tới tính mạng. Có điều đây đều là cách nói từ xưa, được quy vào mê tín dị đoan. Thời bây giờ ai cũng tiếp thu mấy chục năm giáo dục theo chủ nghĩa duy vật, chẳng tin mấy lời đó nữa. Hễ có tiền đưa tới tay thì bất chấp quy củ cách thức, ta cứ thế xông lên phá vỡ đạp bằng, chẳng sợ gì sất. Thần tài ngồi trên, yêu ma quỷ quái cũng phải đứng sang một bên. Ví như mấy người ngồi cùng xe với tôi hiện giờ, rõ ràng không phải hạng con buôn cổ hủ trọng truyền thống. Tôi đang ngồi trong một chiếc van Toyota chín chỗ cũ nát, ngoài lái xe ra tổng cộng có năm người. Bên trong xe lặng phắc như tờ, chẳng ai bắt chuyện, cũng chẳng ai hàn huyên. Bốn người kia đều ngồi im tại chỗ, trưng ra vẻ mặt hờ hững khó gần. Chỉ khi xe thình lình xóc nẩy lên, họ mới đảo mắt thật nhanh, vờ như vô tình liếc nhau một cái sắc lẻm. Tôi cảm giác được họ không giống mình. Tôi là chủ một tiệm đồ cổ nhỏ trong thành phố, còn họ là con buôn cổ vật chuyên thu mua đồ cũ từ nông thôn. Những người này quanh năm suốt tháng lê la dưới quê, qua lại với đám nông dân vừa chất phác vừa gian xảo nên người cũng thoang thoảng mùi bùn đất và sát khí. Bọn họ là ai? Xe chạy đi đâu? Tôi hoàn toàn không biết. Cửa xe đóng kín, bên ngoài đêm tối như mực, không trông rõ được cảnh vật. Chỉ có tiếng động cơ chạy ì ì cho thấy chúng tôi đang tiến tới một mục tiêu nào đó. Tôi cũng chẳng buồn nghĩ nhiều, dựa đầu vào cửa kính lạnh lẽo, huyệt Thái Dương tì vào chốt cửa, gà gật ngủ. Xe chạy lắc lư tròng trành dữ dội, trong lúc mê man, tôi chợt có một ảo giác lạ lùng: thùng xe chẳng khác nào cỗ áo quan khổng lồ vừa đóng đinh, kín mít không lọt một tia sáng. Tôi nằm trong, bên ngoài có mười sáu người khiêng quan tài băng qua nghĩa địa, bước xuống lối vào mộ, tiến về phía huyệt mộ cuối cùng... Phải rồi, quên chưa tự giới thiệu. Tôi tên Hứa Nguyện, hơn ba mươi, là một tay buôn cổ vật cò con dưới chân hoàng thành. Tôi có một cửa tiệm nhỏ ở Lưu Ly Xưởng, buôn bán kim thạch ngọc khí, gọi là Tứ Hối Trai. Tứ hối là gì? Chính là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời trăng trối của bố tôi, dạo Cách mạng Văn hóa, ông bị hãm hại phải nhảy xuống hồ Thái Bình tự tử, chỉ để lại tám chữ này. Song đằng sau đó còn ẩn giấu một câu chuyện dài. Tổ tiên tôi là một chi trong “Minh Nhãn Mai Hoa” gồm năm gia tộc lâu đời trong ngành cổ vật, mỗi nhà sở trường giám định một loại đồ cổ, có địa vị cực cao trong giới sưu tầm. Sau giải phóng, Minh Nhãn Mai Hoa cải tổ thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, vẫn có sức ảnh hưởng không nhỏ. Hứa Nhất Thành, ông nội tôi là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa thời Dân Quốc, xuất thân Bạch môn, về sau vì đánh cắp đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên tuồn cho người Nhật nên bị coi là Hán gian đem xử bắn. Từ đó nhà tôi cũng sa sút không gượng dậy nổi, rút lui khỏi Minh Nhãn Mai Hoa. Vào ngày sinh nhật ba mươi tuổi, do sự thúc đẩy của những người cố ý, tôi đã rơi vào vòng xoáy này. Trải qua một phen bôn ba trắc trở, cuối cùng xem như tôi cũng giải oan được cho ông nội, đưa đầu Phật về nước, kết thúc mối dây dưa ngàn năm giữa nhà họ Hứa và đầu Phật ngọc. Sau khi xong việc, tôi quay về Tứ Hối Trai, tiếp tục buôn đồ cổ, sống lặng lẽ. Đột nhiên nghe phanh két một tiếng, người tôi đổ nhào về phía trước, sực tỉnh khỏi dòng ký ức. Xe đã dừng lại, tôi mở mắt ra, lắc lắc đầu. Ngờ đâu vừa quay đầu sang, tôi chợt thấy một gương mặt trắng bệch với đôi mắt cực kỳ quái dị hiện lên giữa bóng tối bên ngoài xe, một bên to tướng như mắt trâu, lòng đen ít lòng trắng nhiều, bên kia lại nhỏ xíu, thi trừng mắt với rùa chưa chắc đã thắng nổi. Cặp mắt một to một nhỏ này, trông như lúc nào cũng đang ngắm bắn. Tôi giật thót mình, vô thức rụt người lại, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Bốn kẻ cùng xe cười nửa miệng, lộ vẻ khinh bỉ. Bấy giờ tôi mới nhớ ra, gương mặt này hẳn là của tài xế. Chẳng để tôi nghĩ nhiều, cửa xe đã bị kéo đánh “xạch”, tài xế ló đầu vào, đảo tròn con mắt to rồi làm động tác mời, giọng khàn khàn, “Tôi tên Mắt Trố, làm chân chạy bàn, mời các vị theo tôi.” Tôi vội điều hòa hơi thở, theo bốn người kia xuống xe. Vừa đặt chân xuống đất đã thấy mùi cỏ dại và cành thông xộc vào mũi man mát. Khỏi cần hỏi cũng biết, đây là mùi đặc trưng của chốn đồng không mông quạnh, hơn nữa còn là nơi hết sức hoang vu. Tôi nhìn quanh, lờ mờ thấy mấy ngọn núi đằng xa, trông như thú dữ mai phục trong đêm, có thể nhào tới bất cứ lúc nào. Mắt Trố bảo bọn tôi theo sát sau y. Mây đen đang bao phủ bầu trời, che khuất mặt trăng, chỉ có ngọn đèn pin loang loáng thoắt sáng thoắt tối trong tay Mắt Trố soi đường. Cây đèn pin của y có vẻ rất được chăm chút, bóng đèn bọc một khoanh giấy bìa cứng, như vậy cột sáng chỉ tập trung vào phía trước, không chiếu sang hai bên, nên cách hơi xa sẽ không thấy được. Chúng tôi bước thấp bước cao trên triền núi theo y chừng hơn mười phút, rẽ ngoặt liên tục, còn băng qua hai khoảng rừng. Rốt cuộc một người không kìm được lên tiếng hỏi, “Anh đưa chúng tôi đến đâu đây? Cỗ ở đâu vậy?” Mắt Trố quay lại nhe răng cười đáp, “Nôn nóng làm gì, chủ đâu có rời chiếu cỗ được.” Nói đoạn còn cười khà, tiếng cười như quạ. Y vừa cười, nhiệt độ xung quanh chợt hạ xuống, lạnh buốt cả người. Kẻ kia không dám hỏi thêm nữa, đành “hừm” một tiếng rồi đi tiếp. Đám chúng tôi đi chừng hơn nửa tiếng thì tới một khe núi vắng. Khe núi bị hai dãy núi cao ngất kẹp vào giữa, tạo nên một bình nguyên dưới chân núi. Từ đằng xa loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, hẳn là dòng suối từ trên núi chảy xuống, uốn quanh chỗ này, cắt khe núi thành hình tam giác. Khe suối là đáy, hai dãy núi sừng sững hai bên. Địa hình này trong phong thủy gọi là hai rồng xuống nước, là đất lành hợp xây mồ mả. Mắt Trố tiến vào khe núi thì dừng chân, rọi đèn pin về phía trước. “Bên này.” Chúng tôi nhìn theo ánh đèn, thấy thấp thoáng đằng xa một người trẻ tuổi mặc đồ rằn ri đang ngồi trước mặt là một cái hố rộng chừng nửa mét, mép hố còn gác ba chiếc xẻng cán thép và cả đống đất mới đào. Khỏi cần hỏi cũng biết ở nơi đất báu phong thủy thế này đào sâu ba thước ắt có mồ mả, có mồ mả tất có trộm mộ đánh hơi được kéo đến. “Đào tới đâu rồi?” Một tên mặt sẹo đi cùng tôi hỏi. Mắt Trố di chân xuống đất, hể hả đáp, “Tìm ra vị trí mộ rồi, vừa rồi chúng tôi mới đào đến vách sau, chỉ một nhát nữa là tới cửa thôi, đợi các vị đến mở chiếu đấy.” Mấy người đi cùng tôi đến trước hố đất, gạt lớp đất mới đào ra, vẻ mặt không ai giống ai. Nghe nói trộm mộ lâu năm chỉ cần nhìn đất là biết niên đại mộ. Có điều tôi chẳng có tài ấy, chắc hẳn mấy kẻ đi cùng cũng chẳng khá hơn. Chúng nhìn đất chỉ để yên tâm chứ đâu nhận ra cái gì. Kiểm tra đất xong, Mắt Trố cười khì, “Các vị may thật đấy, món lần này là thịt kho của bếp trưởng. Nếu không có gì thắc mắc thì lên món nhé?” Cả năm chúng tôi đồng loạt gật đầu, đứng tránh ra một quãng. Mắt Trố soi đèn pin về phía kia, hô “mở bát”, tức thì tên chạy bàn mặc đồ rằn ri đứng dậy, cầm chùy sắt và xẻng lên. Dáng gã gầy gò, lách vào hầm dễ như bỡn. Mắt Trố rút trong ngực áo ra một chai rượu trắng hàng chiết lẻ và năm cái chén, lần lượt đưa cho năm chúng tôi, “Trong núi sương dày lạnh giá, làm ít rượu trắng cho ấm người, phải chờ một lúc nữa cơ.” Không nói thì thôi, y vừa nói tôi liền thấy gió lạnh bốn bề, sương mù bảng lảng, vô thức liếc nhìn vào cánh rừng tối om. Mắt Trố đưa chén tới trước mặt tôi cười, “Chú em lần đầu ăn trên chiếu à?” Thấy tôi cười ngượng, y nói, “Ăn quen bén mùi, anh em mình vất vả một tí, nhưng chắc ăn hơn, có phải không?” Tôi gật đầu lia lịa, đón lấy chén rượu uống cạn, rượu trắng cay nồng như ngọn lửa cháy lan theo cổ họng xuống tận dạ dày, song mắt tôi vẫn dán vào đống bùn đất đang không ngừng đùn ra từ cửa hầm, lòng quặn lên. “Ăn trên chiếu” như lời Mắt Trố là một hoạt động khá kín đáo trong giới đồ cổ, trước đây tôi chỉ nghe nói, không ngờ hôm nay cũng được tận mắt chứng kiến. Phần lớn đồ cổ đến từ hai nguồn: một là đồ gia truyền đời đời lưu giữ, hai là đồ tùy táng bị đào ra. Loại trước được truyền đời rõ ràng, nhưng loại sau hơi khó phân định thật giả. Anh bảo món đồ này đào được trong mộ ra, bằng chứng đâu? Lỡ lừa gạt người ta thì sao? Phải biết có những món đồ cổ bản thân nó hoàn toàn không đáng tiền, tất cả giá trị đều nằm ở xuất xứ. Cùng một hạt dưa, mua từ hàng tạp hóa thì chẳng đáng một xu, nhưng nếu từ trong bụng xác nữ ở gò Mã Vương thì nghìn vàng chưa mua nổi. Thế là có kẻ nảy ra một cách, thăm dò xác định vị trí mộ đâu vào đấy, đào đường hầm đến cạnh mộ rồi để đó, mời vài người mua đến hiện trường, mở cửa mộ ngay trước mặt họ, đào lên bán sang tay luôn. Người mua chính mắt thấy đồ được đào dưới mộ lên, dĩ nhiên khỏi cần lo hàng giả. Trò này trong ngành đồ cổ gọi là “ăn trên chiếu”, không phải chiếu rượu, mà là chiếu cói, chiếu cói để làm gì? Thời xưa người ta dùng chiếu cói bọc xác chết, nên nó ý chỉ mồ mả. Những người mua như chúng tôi gọi là “khách”, trộm mộ thì gọi là “chạy bàn”, dĩ nhiên “chủ” chỉ người chết trong mộ. Bởi vậy vừa rồi Mắt Trố nói “chủ không rời được chiếu cỗ” khiến mấy người kia sợ quá nín thít. Mắt Trố nói hôm nay ăn thịt kho của bếp trưởng, ý nói đây là mộ thời Minh - Minh Thái Tổ họ Chu* mà. Bếp trưởng có nghĩa trước đây chưa từng bị đào xới, bên trong rất có khả năng có hàng ngon. Chúng tôi vừa uống rượu trắng vừa đợi, đợi hơn mười phút chợt thấy Mắt Trố nheo mắt, “Đến rồi.” Cả đám người đổ dồn mắt vào cửa hầm, thấy hai cánh tay người chết xám ngoét từ từ thò ra, lẽ nào là xác chết sống dậy bò ra ngoài? Thấy cảnh tượng rùng rợn trước mắt, tất cả vô thức lùi lại. Song Mắt Trố lại cười ha hả, giơ đèn pin lên soi, bấy giờ chúng tôi mới trông rõ cánh tay nọ là của tên chạy bàn vừa tụt xuống ban nãy, lấm lem bùn đất, hai tay còn ôm khư khư thứ gì đó. Trông thấy vật nọ, tất cả sáng mắt lên. Tên chạy bàn phải ôm bằng cả hai tay, chứng tỏ nó không nhỏ chút nào. Đào được vật lớn chừng này từ mộ thời Minh, có thể coi là dấu hiệu tốt. Nhưng năm người chúng tôi chẳng ai nhúc nhích, đứng yên tại chỗ nhìn Mắt Trố chạy đến. Đây là quy tắc ăn trên chiếu. Người mua tìm đến mua tận gốc để yên tâm, chứ không phải đến đào mồ quật mả, nên không thể nhúng tay vào quá trình trộm mộ, phải đợi đám trộm mộ bưng đồ đến trước mặt mới được xem. Như vậy người mua chỉ coi là mua đồ tùy táng chứ không phải trộm mộ, không tổn âm đức, cũng khỏi áy náy lương tâm. Xét trên góc độ pháp luật hiện đại, lỡ có bại lộ thì cùng lắm chỉ bị khép vào tội tiêu thụ tang vật mà thôi. Mắt Trố cầm lấy đồ rồi nhanh nhẹn quay lại, nhẹ nhàng đặt xuống đất, cầm đèn pin rọi vào. Năm người chúng tôi xúm lại xem, ra là một chiếc bình, miệng loe, cổ dài, bụng tròn, nhìn hình dạng có thể là bình tỳ bà*. Nhưng bên ngoài lấm lem bẩn thỉu, không nhìn ra màu gì cả. Mắt Trố đã có chuẩn bị trước, móc ra một cái chổi lông, cọ mạnh cho tróc hết bùn đất, rồi mở nửa chai rượu trắng còn lại, rút miếng da hươu tẩm rượu lau thật kỹ. Chẳng mấy chốc màu men bóng của bình đã lộ ra, hoa văn cũng hiện rõ, bên trên có hoa xanh như ý, cỏ lá cuốn, cúc liền cành, trông không tầm thường chút nào. Tất cả đều trố mắt ra, xem các đặc điểm này không chừng lại là gốm Thanh Hoa thời Minh, vậy thì tối nay đúng là vớ bở. Ăn trên chiếu có một đặc điểm: trước khi quật mộ, chẳng ai biết bên trong có gì. Có khả năng là báu vật hiếm có, song cũng có thể chẳng có gì cả. Thế nên người mua thông thường đều trả trước một khoản tiền công sức cho đám trộm mộ, gọi là treo thưởng, để bảo đảm dù đào ra được thứ gì, thì mấy tay trộm mộ cũng vẫn có ít tiền cọc giắt lưng, không đến nỗi công cốc, ngoài ra còn có tác dụng sắp hàng đặt gạch, ai bỏ nhiều tiền thưởng thì được ưu tiên chọn trước. Có kẻ lắm tiền thậm chí còn bao trọn. Thấy đào được chiếc bình quý giá nhường này, Mắt Trố tiếc rẻ ra mặt. Đã nhận tiền cọc, dù đây là bình gốm Sài, cũng phải hai tay dâng cho người khác. Y đặt bình xuống đất, lùi lại mấy bước, gượng cười, “Các vị lại xem đi.” Người thưởng nhiều tiền nhất bước ra, cười tươi rói cầm lấy bình, ngắm nghía kỹ lưỡng mấy lần, song không đưa cho ai khác mà ôm khư khư trong tay, ngẩng lên nói, “Các vị, món này tôi xin phép ăn trước.” Bốn người chúng tôi thẫn ra, thi nhau lộ vẻ miễn cưỡng. Ăn trên chiếu thông thường phải đợi đưa tất cả mọi thứ trong mộ lên, bày hàng ngang ra, rồi mỗi người lựa một món theo mức độ thưởng tiền nhiều ít, nếu còn thì lại theo thứ tự lần lượt chọn lại, cho tới khi hết đồ. Người này vừa bước ra đã ẵm gọn cái bình, không khỏi ngang ngược, nhưng về quy tắc cũng không thể nói là sai. Huống hồ hắn đã dùng quyền ưu tiên một lần, sẽ phải đợi bốn chúng tôi chọn xong mới được chọn lần nữa. Tới lúc đó có còn gì không cũng không biết chắc được. Về điểm này thì ăn trên chiếu cũng như cược đá*, đều trông vào may mắn. Có người chỉ bỏ mấy trăm đồng đã vớ được gốm màu đời Đường; kẻ dốc túi bao trọn cả mộ, lại chỉ được mấy cân xương khô. Thế nên chúng tôi cũng đành nín nhịn, đợi xem còn món gì bưng lên nữa. Chẳng bao lâu sau, Mắt Trố lại bưng dưới hầm lên sáu bảy món, chất đống dưới đất. Trong đó có một lư hương bằng đồng gỉ ngoèn không ra hình dạng gì, một mảnh khóa bạc trường thọ, nửa tấm lụa nát, hai bát gốm nhỏ và một đống tiền đồng sặc mùi ẩm mốc. Bốn chúng tôi nhíu mày bới móc trong đống lỉnh kỉnh, nhìn đi nhìn lại chẳng ưng được món nào. So với chiếc bình gốm kia, mấy thứ này đúng là đồ đồng nát. Gã mặt sẹo ngẩng lên cau có hỏi Mắt Trố, “Bên trong còn gì nữa không?” “Hết rồi.” Mắt Trố xòe tay. “Tìm trên người chủ chưa?” Mặt Sẹo gặng. Mắt Trố ngẩn ra rồi cười trừ, “Ông Trương, chúng tôi có lệ, không động vào quan tài.” Trộm mộ thông thường chỉ nhặt đồ tùy táng trong mộ, không mở quan tài, không lục tìm trên thi thể xem như tôn trọng người chết. Nào ngờ gã họ Trương “xì” một tiếng, khinh khỉnh nói, “Đào mồ quật mả còn bày vẽ lắm lề luật vớ vẩn! Chẳng lẽ các người không biết, phỉ thúy ngậm trong miệng chủ mộ, mã não nhét ở hậu môn và châu báu đeo trên người mới là hàng tốt hay sao!” Mắt Trố xua tay lia lịa, “Đổ đấu đã là thất đức lắm rồi, còn động đến thi thể sẽ bị quả báo đấy. Đây là đất của người ta mà.” Nói đoạn y đảo con mắt thô lố một vòng, thấy sương đêm trong khe núi đang bốc lên trắng xóa, như người chết trợn mắt nhìn ra, không khí rờn rợn bảng lảng. Nếu là kẻ nhát gan, thấy cảnh tượng này hẳn đã rúm lại rồi, nhưng gã họ Trương vẫn chẳng thèm để tâm, “Làm đĩ còn đòi giữ trinh. Bọn tao nửa đêm nửa hôm chạy đến đây là để phát tài, không phải nghe mày giảng đạo!” Tay này cũng khá thông minh, biết phải lôi kéo phe phái nên quàng luôn mấy người khoanh tay đứng ngoài vào để gây áp lực với Mắt Trố. Mấy kẻ khác cũng thi nhau gật đầu. Chuyến này mọi người lặn lội đường xa đến tận đây, đã vào núi báu đời nào chịu về không vì mấy lề luật cũ rích vớ vẩn? Quá là hoang đường! Ngay cả kẻ đã ẵm được chiếc bình ban đầu cũng gật gù đồng ý, chỉ riêng tôi nín lặng không nói gì. Mắt Trố vẫn nhăn nhó phân trần, “Không được đâu, làm thế thất đức quá...” Thấy Mắt Trố không chịu, gã họ Trương nổi giận đẩy phắt y ra, đi đến trước miệng hầm xách xẻng lên quát vọng xuống, “Có chịu mở quan tài không? Không mở tao lấp đất đấy!” Mắt Trố tái mặt. Dưới hầm còn một người chưa lên, nếu gã Trương lấp đất, kẻ kia sẽ bị chôn sống trong mộ. Mắt Trố vật nài, “Ông Trương, đừng phá luật mà.” Gã Trương bực bội, “Tiền lù lù trước mặt không kiếm mới là phá luật ấy!” Nói đoạn làm bộ định lấp đất. Mắt Trố cuống quýt lao đến ngăn, song bị mấy người khác kéo lại, chỉ biết luôn miệng lúng búng can đừng làm thế. Thấy vậy, tôi nhíu mày. Xưa nay tôi ghét nhất hạng người như gã họ Trương này, bèn lên tiếng khuyên nhủ, “Tôi thấy người quật mộ đã nhiều, nhưng chưa gặp ai ép người ta quật mộ thế này cả. Nếu ông thấy chưa đã thì tự xuống mà tìm, ép đám chạy bàn thì hay ho gì?” Gã ta vung xẻng trở mặt tôi cười nhạt, “Bỏ cái thói ngụy quân tử đi. Mày bỏ ít tiền thưởng nhất, theo lý thì chẳng xơ múi được mấy tí. Nếu không mở quan tài, coi như chuyến này mày công cốc đấy.” “Quân tử yêu tiền, nhưng lấy tiền phải có đạo lý. Ông liệu mà ghìm cương trước vực, quay đầu còn kịp.” Tôi không chịu lép. “Đệt! Mày tưởng mày là phát thanh viên đấy à!” Gã họ Trương chửi tục rồi nheo mắt gian xảo bảo mấy người kia, “Trên xe tôi đã đánh hơi thấy thằng ranh này không được ổn, không cùng bọn với anh em mình rồi.” Đoạn lại nhìn sang tôi, “Mày có mưu mô gì?” Đây là cố ý chia rẽ, mấy người kia tức thì đổi ngay thái độ. Ăn trên chiếu nguy hiểm nhất điểm này. Địa điểm quật mộ thường là nơi hoang vu hẻo lánh, lỡ như bên mua hoặc bên bán nổi lòng tham muốn giết người cướp của, sau đó ném xác xuống hầm phi tang thì e rằng mấy chục năm sau cũng chưa phát hiện được, bởi vậy người tham gia đều là chỗ quen biết, rất kỵ những kẻ không liên quan, còn phải để lại người bảo lãnh bên ngoài. Lần này Mắt Trố xui xẻo, mấy người mua chúng tôi đều không quen nhau, chẳng biết lai lịch thế nào, mà bản thân y cũng không khống chế được cục diện. Kết quả gã họ Trương vừa châm ngòi ly gián, tình hình đã trở nên căng thẳng. Thấy thế nguy, Mắt Trố vội giật tay áo tôi, “Anh Nguyện đừng đôi co với họ nữa, cùng lắm tôi chịu tội thất đức, xuống mở quan là xong...” “Gã định chôn sống người của ông mà ông vẫn nhịn được à?” Tôi trợn mắt. Thật phí cho con mắt thô lố của Mặt Trố, mới thế mà đã rân rấn nước mắt như đàn bà, “Tôi dẫn các vị đến đây ăn trên chiếu, nếu xô xát dính đến cả mạng người thì về sau ai dám tin tôi nữa?” Tôi bĩu môi, “Hóa ra ông cũng nghĩa khí gớm nhỉ.” Mắt Trố không nghe ra là tôi mỉa mai, còn vỗ ngực tự hào, “Từ lúc Mắt Trố tôi xuất đạo đến giờ, lúc nào cũng đặt chữ nghĩa lên trên hết.” Gã họ Trương đợi mãi phát sốt ruột, vung xẻng chỉ mặt Mắt Trố quát, “Hôm nay nhất định phải có một đứa chôn thây ở đây. Hoặc là mày hoặc là nó, chọn đi!” Hành động của gã khiến người ta không nén được nghi ngờ, chẳng biết có phải gã đã rắp tâm trở mặt từ trước, vừa rồi chỉ lựa gió bẻ măng không. Hôm nay vừa mở chiếu đã bưng lên một bình tỳ bà, khiến tất cả người tham gia đều động lòng tham, gã Trương chỉ đâm chọc vài câu, cả đám đã hùa nhau phá luật. Nhân tính quả thực không chịu nổi thử thách. Mắt Trố tuân thủ luật lệ, nhưng gặp phải mấy tay chỉ biết đến tiền thì coi như xui tận mạng. Tôi trầm ngâm một thoáng rồi vỗ vai Mắt Trố, “Cứ để tôi.” “Anh Nguyện? Anh...” Tôi lắc đầu, đi đến giữa hai người, giơ tay phải lên cao giọng, “Ông Trương, tôi cho ông biết, nếu còn không chịu tỉnh ngộ thì xui xẻo ập xuống ngay đấy.” Gã họ Trương có lẽ cho là tôi dọa nên chỉ nhướng mày cười hung ác rồi xúc một xẻng đất đổ xuống hầm. Mắt Trố hét lên thất thanh: “Ông Trương, đừng mà!” Tiếng hét của y làm chim chóc xung quanh giật mình bay vụt lên, cả cánh rừng chỉ nghe tiếng đập cánh phành phạch. Gã họ Trương lờ đi, vung xẻng lên định xúc thêm nhát nữa, chợt thấy trên ngực xuất hiện một đốm sáng vàng nhạt. Gã vội ngẩng lên, thấy đèn pin vẫn nằm trong tay Mắt Trố, lại nhìn ra sau lưng Mắt Trố và tôi, mới phát hiện quầng sáng nọ từ đám sương mù trong rừng chiếu ra, rọi thẳng lên ngực mình. Mấy người xung quanh tức thì cuống cả lên, chẳng hiểu là chuyện gì. Gã họ Trương sững ra một thoáng, rồi thấy quầng sáng nọ cũng chẳng gây ra tổn hại gì, bèn cười nhạt, nhanh nhẹn xúc ngay một xẻng đất đổ xuống. Nhưng khi xúc đến xẻng thứ ba, trong đám sương mù xung quanh chợt lóe lên vô số đốm sáng, áng chừng phải đến hai ba chục đốm, lơ lửng lững lờ trôi về phía này, cùng lúc đó, tiếng sàn sạt không biết từ đâu rộ lên. Mắt Trố bỗng gào to như xé gan xé phổi: “Chủ mộ đến lấy mạng đấy!” Tiếng hét thảm thiết khôn tả, khiến gã họ Trương run bắn, xẻng trong tay rơi đánh “keng” xuống đất. Gã vốn không tin ma mãnh, nhưng tình cảnh này quá mức quái gở, lòng đã căng thẳng sẵn, lại nghe Mắt Trố hét lên, không khỏi giật mình. Mấy người mua kia cũng đờ ra, một kẻ còn len lén rút tràng hạt run run lần từng hột. Tôi đứng khoanh tay tại chỗ bất động, tủm tỉm cười đầy thâm ý. Cùng lúc đó, một giọng trầm trầm nghiêm nghị từ thăm thẳm rừng sâu vẳng đến, “Các người đã bị bao vây, lập tức bỏ vũ khí xuống, giơ hai tay lên.” Giọng nói lẫn với tiếng xèn xẹt, rõ ràng là nói qua loa. Gã họ Trương và mấy người mua kia nghe vậy tức thì tái mét mặt mày, có lẽ đang nghĩ thà gặp quỷ dữ đòi mạng còn hơn. Chỉ thấy từ màn sương mù trong rừng sâu rầm rập tiến ra hai ba chục cảnh sát, những đốm “ma trơi” chập chờn kia thực ra là đèn pin công suất lớn của họ. Bốt da giẫm lên thảm cỏ xào xạc, huy hiệu trên mũ kê pi lấp loáng, tỏa ra khí thế uy nghiêm nghiêng trời lệch đất. Họ lẳng lặng chẳng nói chẳng rằng, chạy thoăn thoắt như bay, chẳng mấy chốc đã vây chặt khe núi, không lọt một con ruồi. Trước là Mắt Trố, sau đến gã họ Trương và mấy tên khách mua đều ngoan ngoãn ngồi xuống, hai tay ôm đầu, động tác hết sức thành thạo. Chỉ riêng tôi vẫn đứng yên tại chỗ, giữ nguyên tư thế giơ tay, như thể những cảnh sát này được tôi triệu tới vậy. Đến nước này, gã họ Trương và đám người kia vẫn chưa hiểu đầu đuôi ra sao, chỉ gằm ghè nhìn tôi như muốn ăn tươi nuốt sống. Theo lệ cũ thì tôi làm vậy là đuối lý. Giới đồ cổ cũng hơi giống xã hội đen, ân oán trong giới chỉ giải quyết nội bộ, hễ có tranh chấp thì tìm bậc đức cao vọng trọng phân xử, không lôi nhau ra trước pháp luật. Nếu kẻ nào gọi Công an tới phá hỏng việc buôn bán của người khác, sẽ bị coi là nối giáo cho giặc, bị người người khinh bỉ. Có điều nói đi cũng phải nói lại, thời buổi này ai quan tâm mấy lề luật đó nữa, chỉ có hạng người như Mắt Trố mới khư khư giữ lề thói cũ mà thôi. Chính vì thích những kẻ gìn giữ luật tục cổ như y, nên tôi mới tiết lộ cho y chút manh mối. Người giữ vững nguyên tắc, lúc nào cũng đáng được kính trọng. Trong một bộ phim điện ảnh Hồng Kông tôi từng xem, có câu thế này, “Người sống trên đời, luôn phải kiên trì theo đuổi vài việc trông có vẻ cực kỳ ngu xuẩn.” Một cảnh sát trẻ thấy tôi còn chưa ngồi xuống liền trừng mắt định đạp cho một cú, nhưng bị người bên cạnh ngăn lại. Kẻ này tay xách loa điện, chính là người gọi loa trong rừng vừa nãy. Dáng người y gọn gàng, gương mặt sạm đen gầy quắt phảng phất vẻ nghiêm nghị, chỉ cần đứng đó đã xua tan hết không khí âm u rờn rợn xung quanh. Y đưa loa cho cậu cảnh sát trẻ, rồi chắp tay sau lưng từ từ bước lại gần tôi, đưa mắt nhìn bao quát hiện trường. Đám người kia chạm phải ánh mắt y, tức thì cúi gằm mặt xuống như chuột thấy mèo. “Cậu lại đây tôi bảo.” Y lạnh lùng lên tiếng, vẫy tay gọi. Tôi theo y đi sâu vào bụi cây bên cạnh đến mười mấy bước, tới khi thấy đã đủ xa, nói chuyện không sợ bị nghe lỏm nữa, y mới dừng bước nhíu mày, “Đồng chí Hứa Nguyện, làm thế này hơi bị liều đấy.” “Đồng chí Phương Chấn, chẳng phải tôi vẫn luôn phối hợp với các đồng chí sao?” Tôi thản nhiên đốp lại. Tôi và tay “cảnh sát già” Phương Chấn này vốn quen nhau từ trước, có thể coi là cùng vào sinh ra tử. Nhưng y chẳng mảy may mừng rỡ vì gặp lại bạn cũ, trái lại còn sa sầm mặt, “Sao vừa rồi cậu lại ra mặt bộc lộ thân phận hả?” Tôi đáp, “Chúng ức hiếp kẻ thành thực, tôi khoanh tay đứng nhìn sao được. Những người giữ lề lối cũ như Mắt Trố giờ chẳng được mấy ai, tôi cũng muốn bênh vực lẽ phải chứ. Đằng nào các anh chả bao vây khu này rồi, cứ dọa cho chúng vỡ mật một phen.” “Vớ vẩn! Lẽ ra cậu phải để bị bắt cùng cả đám, đến đồn công an cách ly ra rồi sẽ thả cậu. Giờ chúng đã biết cậu là người của cảnh sát cài vào, chẳng lẽ cậu không sợ chúng báo thù sao, nguy hiểm lắm đấy!” Phương Chấn nghiêm túc phê bình tôi. “Bọn chúng ít nhất cũng phải bóc lịch mười hai mươi năm, sợ cóc gì?” Tôi vung tay hùng hổ. Phương Chấn lắc đầu thở dài, vẻ rất bực bội trước hành vi không cần thiết của tôi. Tôi lờ đi, vươn vai hỏi, “Không nói mấy chuyện vớ vẩn này nữa, việc của tôi chuyến này xong chưa?” “Chưa, lát nữa về đồn cậu còn phải cho lời khai.” Nghe vậy, tôi than khổ bai bải, “Các anh bắt được cả người lẫn tang vật rồi, còn cần tôi khai gì nữa?” “Đây là quy định.” Phương Chấn đáp, “À phải, lúc hỏi cung, cậu cũng phải dự thính dưới vai trò cố vấn về văn vật, đây là cục trưởng Lưu sắp xếp đấy.” “Được rồi, được rồi...” Tôi giơ hai tay đầu hàng. Tranh luận với hạng người như Phương Chấn đúng là vô nghĩa. Y như một tảng đá, một con đê, có xô bao nhiêu sóng gió vào, y cũng trơ trơ bất động. Tôi quay sang, thấy xa xa nhoáng lên một luồng sáng trắng. Đó là mấy kỹ thuật viên đang chụp ảnh hiện trường căn hầm mới đào. Cảnh sát đi đi lại lại xung quanh, kẻ thu giữ tang vật, người trông chừng đối tượng phạm tội, lấy dấu bánh xe, trình tự đâu ra đấy, chỉ nghe tiếng lao xao chứ không ầm ĩ. Cứ nghĩ bấy nhiêu người lẳng lặng bám theo chúng tôi trong núi, đến lúc bao vây xong xuôi rồi vẫn không ai phát hiện ra, tôi lại phục sát đất. Muốn làm được như vậy phải có tố chất gần bằng bộ đội đặc chủng ấy chứ. Người của Phương Chấn, đúng là thâm sâu khó lường, hệt như y vậy. “Từ nãy đến giờ, các anh vẫn bám theo tôi à?” “Phải.” “Xe tải rẽ ngoặt bao nhiêu vòng trong núi, trời lại tối như bưng, thế mà các anh vẫn theo được.” “Công việc thôi.” “Nếu lúc nãy tôi để lộ thân phận, các anh lại chưa đến kịp thì sao? Có kế hoạch dự phòng nào không?” Tôi tò mò hỏi. “Cục sẽ có tiền tuất cho các trường hợp hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.” “…” Nhìn mặt Phương Chấn thấy chẳng có vẻ gì là đang đùa, tôi rụt cổ lại, không nói chuyện này nữa. Trao đổi xong, chúng tôi quay trở lại. Mắt Trố đột nhiên ngẩng lên, “Thủ trưởng ơi, dưới hầm vẫn còn một người, xin các thủ trưởng đừng quên.” Tay cảnh sát đang coi chừng y không hề khách khí, cốc cho một cái, “Im đi!” Mắt Trố vội ngậm miệng lại, cúi gằm mặt xuống. Tôi thấy vậy liền gật đầu, “Anh cũng nghĩa khí gớm, yên tâm đi, lưới trời lồng lộng, các anh không ai chạy thoát được đâu.” Chẳng mấy chốc tay chạy bàn mặc đồ rằn ri phụ trách đào mộ đã bò ra khỏi đường hầm, vừa nhô lên liền bị ba người đàn ông giữ chặt. Vừa thấy mặt hắn, tôi đã buồn cười, tên này cũng mắt to mắt nhỏ, giống y khuôn Mắt Trố. Phía cảnh sát bắt được cả người lẫn tang vật, hoàn thành nhiệm vụ, Phương Chấn tuyên bố có thể thu quân. Bên ngoài rừng có mấy chiếc xe đợi sẵn, tôi và Phương Chấn lên xe đầu tiên, mấy tên ăn trên chiếu bị tống cả vào xe thứ hai. Các xe đồng thời nổ máy, nháy đèn lấp loáng, chính khí lẫm liệt xua tan không khí âm u trong cánh rừng tối tăm. Phương Chấn ngồi ghế sau cùng tôi, hai tay đặt trên đầu gối, mắt nheo nheo, nhìn thẳng phía trước chẳng nói nửa lời. Đây là thói quen của y khi ngồi xe, tôi cũng biết ý không tán gẫu, mà nhìn ra màn đêm tối mịt ngoài cửa sổ, lòng ngổn ngang muôn mối. Lần hành động này là cục trưởng Lưu gọi tôi tới. Ông ta xuất thân từ Hồng môn trong Minh Nhãn Mai Hoa, giữ chức vụ quan trọng trong chính phủ, phụ trách quản lý về đồ cổ và văn vật, là người phát ngôn của Minh Nhãn Mai Hoa trên quan trường, ban đầu cũng chính ông đã bày kế hoạch kéo tôi vào vụ việc tìm kiếm đầu Phật. Mấy tháng trước, phía cảnh sát để ý thấy có một lượng đồ tùy táng được tuồn vào thị trường đồ cổ thủ đô, qua kiểm nghiệm của Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, những đồ tùy táng này đều là thật, hơn nữa có niên đại giống nhau, thành phần thổ nhưỡng tương đồng, giống như được đào từ cùng một ngôi mộ lên vậy. Nghi ngờ đám trộm mộ lại làm bậy, cảnh sát bèn đặt ra kế hoạch câu cá này. Kế hoạch này cần một người am hiểu đồ cổ, có tiếng tăm trên giang hồ, lại không quá nổi bật. Người trong Minh Nhãn Mai Hoa đều không phù hợp, cuối cùng nhiệm vụ rơi xuống đầu tôi. Dưới sự cài cắm của cục trưởng Lưu và Phương Chấn, tôi dạo một vòng trong chợ, quả nhiên đã tìm được một kẻ chuyên tổ chức “ăn trên chiếu”. Từ đó tôi bắt đầu tham gia với thân phận là một tay buôn cổ vật, phối hợp trong ngoài với Phương Chấn. Lần “ăn trên chiếu” này không được thuận lợi, trái lại còn kết thúc trong tranh chấp. Thực ra tôi đã dự liệu từ trước. Kiểu mua bán đượm nếp cổ xưa này, chủ yếu dựa vào lề luật và chữ tín, không còn phù hợp với thời nay nữa. Giờ kinh tế mở cửa, mọi người đều cho rằng tiền bày ra trước mắt, cần gì phải đếm xỉa đến đống lề luật cũ rích, miễn làm sao kiếm được tiền thì thôi. Ngay cả giới cổ vật vốn bảo thủ cũng không tránh khỏi xu thế này, hạng người như gã họ Trương ngày càng nhiều, dưới ảnh hưởng của xu thế, lề luật cũng dần dần biến mất. Rất nhiều lề lối trước đây trong giới cũng dần lui xuống khỏi vũ đài lịch sử, trở thành một thứ đồ cổ, giống như “ăn trên chiếu” vậy. Không biết nếu ông và bố tôi sống đến giờ sẽ thấy thế nào. Vừa nghĩ linh tinh, tôi vừa giơ ngón tay, vẽ một đóa hoa mai lên cửa sổ xe phủ mờ hơi sương. Đóa hoa tổng cộng có năm cánh, chụm lại với nhau. Tiếc rằng chỉ lát sau hơi ấm điều hòa trong xe đã phát huy tác dụng, bông mai cũng tan tác. Chẳng hiểu sao, dù đang ngồi trong xe cảnh sát, cảm giác ngột ngạt như rơi xuống hầm mộ tối om vẫn lởn vởn trong đầu tôi, không sao xua tan được, khiến tôi khó thở. Tôi khẽ tì trán lên cửa sổ xe, để hơi lạnh se se thấm vào đầu. Trong bầu không khí yên lặng đến ngột ngạt ấy, xe chầm chậm ra khỏi núi. Chẳng mấy chốc, cả đoàn xe đã đến đồn cảnh sát địa phương, chạy thẳng vào sân. Nhìn tình hình này, e rằng bọn Phương Chấn định thẩm vấn gấp tại đồn cảnh sát gần nhất, tôi không khỏi than thầm trong bụng, xem chừng trong chốc lát chưa thể về thành phố ngay được rồi. Đồn cảnh sát ở đây khá nhỏ, mấy chiếc xe cảnh sát chạy vào đã chật kín cả sân. Tôi và Phương Chấn xuống xe uống hớp nước nóng, ăn mấy miếng bánh quy rồi đi thẳng vào phòng thẩm vấn. Bên kia bàn là Mắt Trố, đối tượng thẩm vấn đầu tiên, hai tay bị còng, ngồi trên ghế. Có điều tên này cực kỳ bình tĩnh, con mắt thô lố nhìn quanh ngó quất, chẳng hề lộ vẻ căng thẳng. Tôi cứ nghĩ trông thấy mình ít nhất y cũng trợn mắt nhìn, nào ngờ Mắt Trố lại cười tươi, còn chủ động chào trước, “Chào thủ trưởng.” “Hắn nghĩ thoáng thật. ” Tôi lầm bầm rồi ngồi xuống sau bàn cùng Phương Chấn, bên cạnh còn một cảnh sát trẻ phụ trách ghi biên bản. Trước tiên, Phương Chấn theo trình tự thẩm vấn, hỏi tên tuổi nghề nghiệp của y. Mắt Trố ngẩng đầu ưỡn ngực, đối đáp trôi chảy, nói mình là người ở Khai Phong, Hà Nam, họ Liêu. Trông bộ dạng y cứ như vừa được chiến sĩ thi đua, đang trả lời phỏng vấn vậy, chẳng giống đối tượng tình nghi bị thẩm vấn chút nào. Đoán chừng nếu ngành công an hằng năm có bầu chọn đối tượng tình nghi chịu hợp tác nhất, nhất định y sẽ được giải. Hỏi xong mấy câu theo lệ, Phương Chấn gõ cán bút lên bàn, bắt đầu vào vấn đề chính: “Lần ‘ăn trên chiếu’ này là anh tổ chức à?” “Vâng, tôi loan tin trên chợ, sẽ có người chủ động tìm tới... Ôi chao, nếu biết trước là các thủ trưởng để mắt đến, tôi sẽ rủ thêm mấy tay buôn lậu nữa, coi như trừ hại cho dân.” Mắt Trố trưng ra vẻ mặt xả thân vì nghĩa. “Anh biết bị cảnh sát để mắt đến từ lúc nào?” “Vừa nãy thôi ạ. Thấy loạt đèn pin xuyên qua sương mù rọi đến, tôi hiểu ra ngay. Chỉ có cảnh sát mới được trang bị đèn pin siêu sáng chống sương mù. Từ lúc ấy, tôi đã quyết tâm phải dốc toàn lực phối hợp với cảnh sát rồi.” Vừa nói, con mắt thô lố của Mắt Trố vừa láo liên đảo một vòng. Tôi ngồi bên cạnh tò mò hỏi, “Anh đã biết là cảnh sát, sao còn hô rằng mộ chủ đòi mạng?” Mắt Trố hậm hực đáp, “Những kẻ đó thường ngày chẳng từ chuyện ác nào không làm nên cực kỳ mê tín. Tôi hô như vậy sẽ dọa được chúng. Ai bảo đám khốn nạn đó trở mặt trước, đòi chôn sống con tôi chứ?” Phương Chấn nhíu mày, “Tên chui xuống quật mồ là con anh à?” Mắt Trố cười đáp, “Bố giữ hầm, con xuống mộ, đây là quy củ trong nghề.” Phương Chấn nhìn sang, tôi gật đầu, ý bảo y nói không sai. Đúng là có lệ này. Nguyên nhân rất đơn giản, lúc đổ đấu phải đào hầm, thông thường là một người đứng canh trên miệng hầm, một người chui xuống mồ hốt của. Nhưng con người vốn sẵn tính tham, kẻ đứng trên nếu nổi lòng tham, sau khi nhận đồ chuyền lên có thể sẽ đổ đất xuống chôn sống người bên dưới. Bởi thế những kẻ kết phường đi trộm mộ phần lớn đều là thân thích, hơn nữa còn phải có quan hệ máu mủ, nhưng thỉnh thoảng cũng có trường hợp con hại chết cha, về sau quy củ phải sửa thành con xuống mộ, cha đứng trên, như vậy mới được bình yên vô sự. Đừng tưởng chỉ là thay đổi nhỏ, thực ra bên trong bao hàm rất nhiều đạo lý về nhân tính. Thế nên gã trai trẻ xuống quật mồ kia cũng mắt to mắt nhỏ, có lẽ là bệnh di truyền gì đó trong dòng họ, không cần giám định, chỉ nhìn mặt đã biết chắc chắn là cha con rồi. Phương Chấn cúi đầu hí hoáy ghi mấy câu, rồi đập bàn, “Anh có biết bố con anh phạm tội gì không?” Mắt Trố gật đầu lia lịa, “Biết ạ, biết ạ, là tội lừa đảo. Theo bộ luật Hình sự Trung Quốc quy định, đây là hành vi bịa đặt hoặc giấu giếm sự thật để lừa đảo chiếm đoạt phi pháp một số lượng lớn tài sản của nhà nước và tư nhân.” Y đọc làu làu một lèo khiến cậu cảnh sát ghi biên bản suýt phì cười. “Lừa đảo ấy à?” Phương Chấn cười nhạt, “Hôm nay bố con anh làm từng ấy việc mà chỉ là lừa đảo thôi hả? Hình như sai sai thì phải?” Mắt Trố cười trừ, “Thủ trưởng sáng suốt, đúng là chỉ có tội lừa đảo thôi ạ.” Đoạn y chồm tới, mắt trợn tròn thô lố, hạ giọng thật thấp như đang tiết lộ một bí mật kinh thiên động địa, “Chuyện này tôi chỉ nói riêng với các vị thôi nhé, hàng tôi đưa cho chúng đều là giả đấy.” Phương Chấn sững người, vội sai cậu cảnh sát kia lấy tang vật đem đến. Khi họ chuyển tang vật đến, tôi biết đã tới lượt mình, bèn ung dung đứng dậy, cầm bình tỳ bà kia lên xem kỹ. Nói ra thì, lần ăn trên chiếu này xôi hỏng bỏng không, một phần lớn là vì chiếc bình này. Chính nó đã khơi dậy lòng tham của những kẻ tham gia, từ đó mới dẫn đến cuộc tranh chấp về sau. Thực ra tôi cũng không hiểu nhiều về đồ gốm, đó là sở trường của nhà họ Dược - Huyền môn, tiếc rằng gã Dược Bất Nhiên chẳng ra gì nọ đã phản bội, Dược Lai lại qua đời, Huyền môn không có người thừa kế, nên tôi đành đi cày thay trâu. Tôi cầm bình lật qua lật lại xem kỹ mấy lần, chợt tủm tỉm cười. Lúc mới lấy từ dưới mộ lên, trong cảnh tối tăm tù mù, tôi chỉ rọi đèn pin nhìn qua, không kịp xem kỹ. Giờ ngắm nghía kỹ lưỡng, mới nhận ra vấn đề. Phương Chấn hỏi tôi cười gì, tôi bèn đáp Mắt Trố nói không sai, đây là một món đồ giả, hơn nữa còn làm giả tới mức không thể giả hơn được nữa. Dứt lời tôi trỏ cho Phương Chấn xem, dưới đế bình có một dòng chữ viết “Năm Hồng Hi thứ nhất đời Minh Thành Tổ di chế”, tổng cộng mười một chữ khải bằng men xanh nhạt. Phương Chấn và cậu cảnh sát ghi biên bản nhìn đi nhìn lại vẫn chẳng thấy gì khác lạ. Tôi bèn lật úp bình xuống, di ngón trỏ qua từng chữ, bảo họ, “Sơ hở nằm ngay ở hàng chữ này đấy.” Cậu cảnh sát vỗ tay đánh đét, “Tôi biết rồi! Hồng Hi là niên hiệu của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, niên hiệu của Minh Thành Tổ Chu Đệ là Vĩnh Lạc kia mà! Mâu thuẫn rồi!” Tôi lắc đầu, “Không phải đâu. Cậu thấy hai chữ ‘di chế’ không? Chứng tỏ khi Chu Đệ còn ở ngôi đã sai làm chiếc bình này, nhưng làm chưa xong ông ta đã qua đời. Tới khi bình ra lò, đã là thời Hồng Hi, nên khi đề khoản phải viết niên hiệu của hoàng đế mới trước, sau đó mới viết Thành Tổ di chế, tỏ rõ vật này tuy ra đời vào thời Hồng Hi, nhưng được coi là di vật lúc tiên đế còn sống.” Cậu cảnh sát cố cãi, “Anh không xem màu gốm dưới đế, cũng chẳng nhìn hoa văn, chỉ dựa vào hàng chữ này, sao biết được là giả?” Tôi cả cười, “Chỗ sai nằm ở ba chữ Minh Thành Tổ kia kìa. Miếu hiệu của Chu Đệ không phải Minh Thành Tổ, mà là Minh Thái Tông.” Cậu ta trợn tròn mắt, “Sao thế được! Sách giáo khoa lịch sử trung học của tôi viết là Minh Thành Tổ Chu Đệ mà, có thấy ai gọi là Minh Thái Tông đâu.” Tôi lắc ngón tay, “Cậu không biết rồi. Sau khi Chu Đệ qua đời, đã định miếu hiệu là Minh Thái Tông. Hơn một trăm năm sau, tới những năm Gia Tĩnh mới đổi thành Minh Thành Tổ. Thế nên thời nay chúng ta gọi Minh Thành Tổ Chu Đệ thì không sao, nhưng thợ thủ công những năm Hồng Hi, khi nhắc đến Chu Đệ chỉ gọi là Thái Tông thôi. Những văn vật trước thời Gia Tĩnh, nếu có hai chữ Thành Tổ ắt là đồ giả. Đây là điểm mù kiến thức, rất nhiều người không biết đâu, hơi sơ ý là bị lừa ngay.” Mắt Trố như được vén mây mờ, vỗ tay đôm đốp thán phục, làm còng tay kêu leng keng, “Hóa ra sơ hở ở chỗ đó! Thủ trưởng đây đúng là mắt sáng như sao!” Tôi và Phương Chấn nhìn nhau, cảm thấy phản ứng của tên này hơi kỳ lạ, dường như y cũng chẳng biết món đồ giả này sơ hở ở đâu. Trong số tang vật chỉ có chiếc bình này đáng giá nhất, nếu nó đã là giả thì khỏi cần xem các món khác nữa. Phương Chấn gọi người mang hết cả đi, rồi lại hỏi Mắt Trố, “Ngay từ đầu anh đã định lừa mấy người kia rồi hử?” “Vâng!” Mắt Trố thẳng thắn gật đầu thừa nhận, không hề xấu hổ. Tôi chau mày, uổng công vừa nãy còn khen y giữ lề lối, hóa ra cũng là một tên lừa đảo. Nhưng ngẫm kỹ lại, tôi không thể không thừa nhận y tính toán rất giỏi. Nghĩ mà xem, nếu người mua nhìn lầm đồ giả thành thật, coi như y ẵm được một khoản tiền lớn, nếu người mua phát hiện ra sơ hở cũng chẳng sao, đồ được đào dưới mộ lên ngay trước mặt các người kia mà, dù là đồ giả, cũng là do mộ chủ tìm nhầm đồ giả để chôn theo, chẳng liên quan gì đến kẻ bày cỗ. Ăn trên chiếu vốn trông vào vận may, đừng nói là vớ phải đồ giả, dù chẳng lấy được gì, cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Lỡ như bị cảnh sát tóm gọn cũng chẳng sao, Mắt Trố chỉ cần chứng minh những thứ kia là giả, ít nhất sẽ thoát tội buôn bán văn vật, cùng lắm chỉ bị quy là lừa đảo thôi. Xem ra trước khi bắt tay làm, y đã suy xét kỹ càng đủ mọi khả năng rồi, tiến được lui được, thảo nào lúc vào phòng thẩm vấn, trông y bình tĩnh làm vậy. Phương Chấn nheo mắt ngẫm nghĩ, trong khi cậu cảnh sát bên cạnh không nhịn được quát, “Anh tưởng anh thoát được chế tài pháp luật đấy à? Đào xới mộ cổ cũng sẽ bị khép tội.” Mắt Trố cười ha hả, chớp mắt đầy gian xảo. Tôi sực nghĩ ra, lập tức buột miệng hỏi, “Lẽ nào... ngôi mộ kia cũng là giả?” Mắt Trố cười đáp, “Thủ trưởng sáng suốt quá.” Lần này, không khí trong phòng thẩm vấn bỗng trở nên khác lạ. Phương Chấn lạnh lùng gõ xuống bàn, “Nói kỹ xem nào.” Mắt Trố thưa, “Thực ra chuyện này rất đơn giản. Bố con tôi tìm một miếng đất báu phong thủy, đào một đường hầm giả, ước chừng khoảng mấy mét, chẳng chạm đến mồ mả nào cả. Sau đó chúng tôi giấu mấy món đồ giả chuẩn bị sẵn xuống đó, tới lúc mở chiếu, con trai tôi sẽ giả vờ xuống mộ đưa từng món lên bán cho họ. Những người đó rất mê tín, lại nhát gan, nhất định sẽ không xuống kiểm tra, nên không làm sao biết được.” “Chẳng trách anh khăng khăng không cho tay họ Trương mở quan tài. Tôi cứ tưởng anh giữ vững lề lối, hóa ra là sợ lộ tẩy!” Nghĩ lại những tình tiết khi nãy, tôi vừa ngượng vừa giận. Mắt Trố ưỡn ngực, nghiêm trang đáp, “Không phải sợ lộ tẩy, mà là tôi biết chuyện này không đúng. Đào mộ quật mả là tội lớn, đi ngược với đạo lý, tuy tôi văn hóa thấp, nhưng cũng không thể làm những chuyện như vậy. Huống hồ điều 328 bộ luật Hình sự nêu rõ, đào xới các di chỉ văn hóa cổ mộ cổ, trộm cắp hoặc phá hoại nghiêm trọng các văn vật quý báu sẽ bị xử phạt từ mười năm tù, chung thân hoặc tử hình, tôi đâu thể đưa đầu vào họng súng được.” “Anh thuộc luật Hình sự quá nhỉ.” “Biết luật mới phạm luật được chứ.” Mắt Trố dõng dạc đáp. Tôi ngả người vào lưng ghế, cảm giác đắc chí vừa nãy đã hoàn toàn tan biến. Tên khốn này đúng là quá xảo quyệt. Chuyện này từ đầu đến cuối là một cú lừa, gã này nhìn thì ngu thực ra đầu toàn sỏi, nếu tôi không phải người được cảnh sát cài vào, e rằng đã bị y đùa bỡn đến chết cũng không biết. Đường đường là người của Minh Nhãn Mai Hoa, vậy mà bị một tên lừa đảo nhà quê xoay như chong chóng, đúng là mất mặt. Phương Chấn nhìn tôi đầy ẩn ý, khiến tôi càng thêm ái ngại. Vừa rồi tôi còn nói đỡ cho Mắt Trố, cứ ngỡ y cũng coi như quân tử trong đám trộm cắp, vòng vèo một hồi, thì ra vẫn chỉ là hạng đen ăn đen! Mặt tôi thoắt xám ngoét, thoắt lại trắng bệch. Song Phương Chấn lờ đi, lạnh lùng thẩm vấn tiếp, “Cũng có nghĩa ‘ăn trên chiếu’ đều là lừa gạt, đào sẵn hầm giả, làm sẵn đồ giả, tất cả là một cái bẫy, đúng không?” Mắt Trố cải chính, “Thủ trưởng à, chuyện này phải giải thích rõ mới được. Mấy món đồ giả kia có thứ là bọn tôi tự làm, nhưng dạng như chiếc bình tỳ bà này phải đi đường thủy, bọn tôi không làm nổi đâu.” “Đường thủy là sao?” Thấy Phương Chấn nhìn sang, tôi tiu nghỉu giải thích, “Thủy ở đây ý nói nước pha vào rượu, chỉ hàng giả. Đi đường thủy có nghĩa là hàng giả mua lại từ tay những kẻ chuyên làm hàng giả, dùng để lừa mấy con gà.” Chuyện này rất phổ biến trong giới đồ cổ. Giới này nhiều kẻ lừa gạt, nhưng cực ít người tự làm được hàng giả. Làm giả cũng là một ngón nghề, đâu có dễ thế. Thông thường đám lừa gạt sẽ mua hàng giả giá bèo từ những kênh chuyên làm giả, sau đó lừa bán ra với giá cao. Ví như Trịnh Quốc Cừ ở làng Trịnh chuyên làm đồ đồng giả, người khắp nơi trên cả nước nhập hàng từ đó rồi bán ra với giá như đồ thật, gọi là đi đường thủy. Đám làm giả ấy núp dưới chiêu bài bán đồ mỹ nghệ phỏng cổ để hợp thức hóa việc buôn bán nên cảnh sát xưa nay vẫn chẳng làm gì được. Phương Chấn nghe xong bèn quay sang Mắt Trố, “Ai bán cho anh?” Mắt Trố nghiến răng, lần đầu tiên lộ vẻ lúng túng, “Thủ trưởng à, chuyện này... đừng hỏi được không, tôi thực không tiện nói ra đâu.” Cậu cảnh sát trẻ đập bàn, “Đây là đồn công an đấy! Ai cò kè mặc cả với anh! Khai mau!” “Đây, đây là luật lệ trong giới!” “Anh mà cũng nói đến luật lệ à!” Cậu cảnh sát tức quá phì cười. Phương Chấn chậm rãi bồi thêm, “Anh am hiểu pháp luật, hẳn cũng biết nếu lập được công lớn có thể giảm nhẹ tội hoặc hưởng án treo nhỉ.” Mắt Trố nhắm nghiền mắt, như đang đấu tranh tư tưởng rất găng. Cuối cùng y lên tiếng, “Các thủ trưởng đã bắt được tôi, chứng tỏ chúng ta có duyên, tôi xin kể thật với các vị vậy, có điều tôi cũng là bất đắc dĩ thôi, không phải cố tình...” “Đừng dài dòng nữa! Nói mau!” Mắt Trố thở dài, “Nói thực, chiếc bình này mua từ đâu, tôi cũng không biết.” “Anh còn dám nói láo à?” Cậu cảnh sát trẻ nổi xung. “Tôi không biết thật mà. Tôi nghe một người trong nghề nói có chỗ này đi đường thủy được, hàng tốt giá bèo, lại uy tín. Nhưng con đường thủy này chỉ có độc một dòng địa chỉ thôi. Tôi ghi tên món hàng cần đặt và yêu cầu cụ thể trong thư, bỏ cùng tiền vào phong bì rồi gửi đến địa chỉ đó. Chừng mười ngày sau, người ta sẽ gửi hàng đến. Suốt cả quá trình, không phải gặp ai cả.” “Anh không sợ họ nhận tiền rồi quỵt à?” “Họ uy tín lắm, bao nhiêu người đều lấy hàng chỗ đó. Hơn nữa còn rất chuyên nghiệp, muốn đòi hàng chất lượng cao hay thấp đều có cả. Hạng bày cỗ ăn trên chiếu như tôi, cần loại hàng giả không được có sơ hở lộ liễu, nhưng lại không thể không có sơ hở. Chiếc bình họ gửi đến rất vừa vặn, người thường không thể phân biệt được thật giả, nhưng chuyên gia thoáng trông là nhận ra ngay.” Dứt lời Mắt Trố liếc tôi, khiến lòng tự ái của tôi cũng được xoa dịu phần nào. Phương Chấn truy hỏi, “Địa chỉ đó là gì? Tên người nhận thế nào?” “Địa chỉ tôi để ở nhà, còn nữa, bức thư đặc biệt ở chỗ hai con tem phải dán đúng, còn phải viết ba chữ Lão Triều Phụng lên góc dán miệng bì thư.” Xoảng một tiếng, cốc nước nóng rơi xuống đất. Tôi tái mặt gặng, “Anh nói lại lần nữa xem nào.” “Phải viết ba chữ Lão Triều Phụng, chữ ‘Lão’ trong lão soái, ‘Triều’ trong Triều Tiên, ‘Phụng’ trong cung phụng. ” Mắt Trố nhìn tôi ngỡ ngàng, không hiểu sao tôi lại kích động như vậy. Tôi không kích động sao được. Kẻ có liên hệ sâu xa nhất, dính líu phức tạp nhất với tôi trên đất Trung Quốc, không ai hơn người này cả. Lão sống cùng thời với ông nội tôi, vụ án đầu Phật năm xưa và hàng loạt sự kiện xảy đến với người nhà họ Hứa sau này, đều từ lão mà ra. Mấy người bạn tôi, hoặc chết trong tay lão, hoặc là người do lão cài cắm vào. Đó là nói ân oán riêng tư, còn về việc công thì Lão Triều Phụng là một dòng chảy ngầm trong giới cổ vật, nắm giữ đường dây làm giả lớn, dấy lên gió tanh mưa máu trong thị trường văn vật Trung Quốc, có thể nói là kẻ địch ngàn năm của Minh Nhãn Mai Hoa. Bởi thế lão không chỉ là kẻ thù của tôi, mà còn là kẻ địch của cả Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa. Sau khi vụ án đầu Phật khép lại, Lão Triều Phụng đã biến mất, tôi cũng chẳng biết thân phận thật của lão. Người của Minh Nhãn Mai Hoa định đi sâu điều tra, nhưng manh mối quá ít ỏi, chỉ tổ tốn công vô ích. Lão như một con nhện độc, giấu mình trong mạng lưới giăng mắc vô cùng phức tạp, không sao phát hiện ra được. Rốt cuộc lão là ai? Sao lại căm thù nhà họ Hứa như vậy? Cái tên Lão Triều Phụng này có liên quan gì với Ngư Triều Phụng, kẻ địch của cụ tổ Hứa Hoành nhà tôi? Những bí ẩn trùng trùng không giải quyết được, khiến tôi như có gai sau lưng, không dám lơi lỏng. Ngày nào còn chưa tìm hiểu rõ ngọn ngành thì từ nhà họ Hứa chúng tôi đến Minh Nhãn Mai Hoa, thậm chí cả thị trường cổ vật, đều không được yên ổn. Thực không ngờ, một vụ án tưởng chừng cách xa tít tắp lại dính dáng đến lão, khiến tôi vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Xem ra nhà họ Hứa chúng tôi vẫn thật “có duyên” với lão. Tôi cúi xuống lẳng lặng nhặt cốc nước lên, nhìn chằm chằm Mắt Trố, như thể coi y là Lão Triều Phụng. Mắt Trố thấy thế cũng sởn gai ốc, vội giơ hai cánh tay bị còng lên xua xua, “Không được đâu, đồng chí à, không được đâu.” “Cái gì không được?” Cậu cảnh sát trẻ hỏi. Mắt Trố nhìn tôi đầy vẻ quan tâm, “Đồng chí này mũi rồng cao thẳng, ấn đường phẳng mà rộng, đường pháp lệnh hai bên cánh mũi sâu dài mở rộng, hình như cái chuông, vốn là tướng đại phúc. Nhưng vừa rồi không biết cậu nảy ra ý thù địch với ai, hai đường pháp lệnh đột nhiên thu lại, hẹp như vách đứng, chẳng khác cây kéo treo ngược, đây là...” Y ngập ngừng. Tôi nhìn xoáy vào y, “Là sao?” Mắt Trố thở dài, “Xưa nay tướng mạo luôn đi đôi với số mệnh, biến đổi theo tâm tính. Đồng chí đã động sát khí, kiếp số lộ ra mặt, chuông đồng đúc thành kéo vàng, lại dựng ngược dọc mũi, nhằm thẳng vào nhân trung. Nếu không tu tâm dưỡng tính, bình ổn lại tâm trạng, e rằng...” “E rằng làm sao?” “E rằng số mệnh sẽ bị cắt làm đôi.” Chương 2 Tìm ổ làm giả đồ gốm ở Trịnh Châu Đây là một nghĩa trang gần ngoại ô, nằm dưới chân núi Linh thành phố Tam Hà, tỉnh Hà Bắc, cách Bắc Kinh hơn 50 kilomet, phong thủy không đẹp lắm, được cái vắng vẻ. Giờ không phải lễ tết gì nên rất ít người lai vãng, vô cùng yên tĩnh. Ánh nắng rải khắp khu nghĩa trang yên ả, gió lùa qua hai hàng cây nửa vàng nửa xanh bên đường tạo thành tiếng xào xạc sâu thẳm bình yên. Tôi mua hai bó cúc, thong thả băng qua nghĩa trang. Việc thụ lý vụ Mắt Trố về sau đều giao cho Phương Chấn, tôi một mình quay về Bắc Kinh trước, đến thẳng đây. Góc râm mát gần sát rừng cây nhất, có hai tấm bia đá vuông vức trông rất tầm thường, chính là chỗ của gia đình tôi. Hai tấm bia đặt cạnh nhau này, một là tôi mua cho bố mẹ. Năm xưa họ nhảy xuống hồ Thái Bình, tro cốt bị thu nhặt qua quýt bỏ vào hũ, mãi tới bảy tám năm trước, tôi mới mua một miếng đất ở đây, chuyển họ tới. Còn tấm kia là của ông bà tôi, sau khi giải quyết xong vụ đầu Phật ngọc ở minh đường Tắc Thiên, rửa oan cho ông nội Hứa Nhất Thành, tôi bèn đưa cả ông và bà nội tới đây chôn cạnh bố mẹ, để đôi bên ở dưới kia cũng tiện chăm sóc cho nhau. Tiếc rằng xương cốt ông tôi đã chẳng còn, tôi đành thay bằng cuốn Tố đỉnh lục viết tay của ông, coi như mộ gió. Tất cả người thân của tôi đều nằm ở góc nghĩa địa này. Mỗi lần tôi đến đây tảo mộ, coi như một lần cả nhà đoàn tụ. Từ năm mười mấy tuổi trở đi, gia đình sum họp đã trở thành ước mơ xa xỉ mãi mãi nằm ngoài tầm tay với của tôi. Mỗi lần đến đây, tôi đều bần thần nhìn những bức ảnh và tên tuổi trên bia mộ thật lâu, tưởng tượng ra cảnh bố mẹ càm ràm, ông bà dìu nhau đi ra, xoa đầu tôi, có lúc cứ nghĩ mãi nghĩ mãi, nước mắt lại ứa ra. Tôi nhẹ nhàng đặt hai bó cúc xuống trước mộ, định cúi xuống nhổ cỏ, bỗng kinh ngạc “ồ” lên một tiếng. Trước bia mộ, chẳng biết ai đã đặt hai bát hương xinh xắn. Tôi nhận ra đây là loại hai tai ba chân bằng gốm xanh, tuy không phải đồ cổ, nhưng chất lượng khá tốt, cũng coi như đồ mỹ nghệ thượng hạng. Bên trong còn cắm mấy nén nhang, trước mộ ông tôi có tám nén, trước mộ bố tôi có sáu nén, đều đã cháy quá nửa, khói xanh bảng lảng tỏa mùi ngòn ngọt. Dù không hiểu về nhang, tôi vẫn nhận ra loại nhang này không phải tầm thường. Nhìn độ dài tàn nhang, chắc đã thắp được chừng hơn mười phút. Tôi nhíu mày đứng dậy nhìn quanh, trông thấy hai người đứng ở đầu kia lối đi đang nhìn sang bên này. Một người ngoài năm mươi, phong thái quan chức, bên cạnh là một ông cụ râu tóc bạc phơ, tay cầm gậy mây, dẻo dai quắc thước như tùng bách. Hai người này tôi đều quen biết, một là cục trưởng Lưu, hai là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa hiện nay, cụ Lưu Nhất Minh đứng đầu Hồng môn. Tôi không vội sang chào mà ngồi xuống nhổ hết cỏ dại quanh mộ trước, lau sạch vết bẩn trên bia rồi quỳ xuống. “Ông bà, bố mẹ...” Nói tới đó, mũi tôi chợt cay cay, lâu lắm không gọi bốn chữ này, chính tôi cũng thấy ngượng miệng, “Lão Triều Phụng gây thù chuốc oán với cả ba đời nhà mình đã lòi đuôi ra rồi. Nợ máu của nhà mình, con nhất định bắt lão hoàn trả, đừng ai hòng ngăn cản. Nhà họ Hứa chúng ta từ đời tổ tiên đã trừ giả giữ thật mấy trăm năm, chưa bao giờ sinh ra hạng con cháu hèn nhát, con quyết không đi ngược lại truyền thống cha ông. Xin mọi người hãy phù hộ cho con.” Dứt lời tôi khom lưng dập đầu mấy cái. Mãi tới khi hương sắp tàn, tôi mới vẩy nước cho tắt hẳn, xách hai bát hương lên đi về phía hai người kia. “Nghĩa trang quy định không được thắp lửa.” Tôi đưa bát hương cho cục trưởng Lưu, vẻ không vui. Cục trưởng Lưu cười khà nhận lấy, “Mấy lão già này định thắp nén nhang cho lão chưởng môn để tỏ lòng thôi mà. Tôi đã có lời với quản lý nghĩa trang rồi, họ sẽ thông cảm cho đồng chí già này thôi.” “Hừm, ai dám không thông cảm.” Tôi mắng thầm. Cục trưởng Lưu giữ chức vụ quan trọng trong chính phủ, tai mắt thấu trời, bảo một tay quản lý nghĩa trang linh động chút chút, thật dễ như trở bàn tay. Nói thực lòng, tôi không muốn người của Minh Nhãn Mai Hoa đến đây. Ông nội và bố mẹ tôi đều chết vì Minh Nhãn Mai Hoa, tôi chỉ muốn họ được yên lòng an nghỉ, không bị những chuyện nhiễu nhương này quấy rầy. Thế nên tôi mới lẳng lặng đưa ông nội về chôn ở đây. Có điều cục trưởng Lưu thế lực nhường ấy, muốn tra được cũng chẳng có gì khó. Hôm nay họ đến đây, tôi không lấy gì làm kinh ngạc. Như đã đi guốc trong bụng tôi, Lưu Nhất Minh chống gậy bước lên một bước, nhìn thẳng vào mắt tôi, “Cậu đừng trách tôi đa lễ. Năm môn phái trong Minh Nhãn Mai Hoa như cây liền cành, Hứa chưởng môn năm xưa ngậm oan mà chết vì đại nghĩa dân tộc, thầy Hứa Hòa Bình ẩn nhẫn giữ bí mật bao năm. Hai người đều có công lớn với Minh Nhãn Mai Hoa, tám nén là thờ, sáu nén là kính, về lễ về tình, lão đều phải đích thân thắp cho họ mấy nén nhang.” Lưu Nhất Minh đã nói thế, tôi cũng chẳng tiện càm ràm, đành khom người vái lão một vái theo lễ người dưới. Lưu Nhất Minh cười khà, xoay xoay cây gậy trong tay nói, “Được rồi, được rồi.” Đoạn quay người đi khỏi. Người nhà họ Lưu lúc nào cũng có thói thích úp mở, ăn nói mập mờ, ra vẻ thâm sâu khó dò, chẳng bao giờ chịu nói thẳng. Thấy tôi vẫn đứng yên tại chỗ, cục trưởng Lưu bất ngờ kéo tay tôi, “Cậu Nguyện, ông cụ nhà tôi có mấy lời muốn nói.” “Ông ấy nói luôn ở đây không được sao?” “Nghĩa trang ẩm thấp, ông cụ không ở lâu được, đến nhà rồi nói chuyện.” Đừng nhìn cục trưởng Lưu tươi cười vui vẻ mà lầm, thực ra ông ta luôn tính toán đâu vào đấy, nắm chắc mười phần mới lên tiếng, nên người ta thường không cách nào từ chối được. Lưu Nhất Minh là hội trưởng Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, lại đích thân đến thắp hương cho ông nội và bố tôi, nể mặt gia đình tôi như thế, dĩ nhiên tôi không thể khước từ. Tôi đành theo hai người kia rời nghĩa trang, lên một chiếc Santana. Lần này cục trưởng Lưu không ra vẻ bí hiểm nữa, dọc đường mở toang rèm xe, tha hồ ngắm phong cảnh. Nhưng tôi cứ miên man nghĩ mãi không biết Lưu Nhất Minh tìm mình có việc gì, lòng đầy tâm sự, nên chẳng còn bụng dạ đâu ngắm cảnh. Xe chạy chừng nửa tiếng thì tới một ngôi biệt thự gạch đỏ gần Tiểu Thang Sơn. Nhìn bề ngoài, biệt thự được xây theo phong cách Liên Xô, song cách trang trí bên trong lại đầy vẻ cổ kính. Tôi theo hai người kia đi thẳng tới phòng đọc sách. Thấy trên cửa phòng treo tấm biển đề ba chữ “Tứ Hối Trai”, tôi khựng lại. Cục trưởng Lưu thấy tôi kinh ngạc bèn giải thích đây là do Lưu Nhất Minh mới viết, vừa treo lên được vài ngày. Đáng ngạc nhiên là, bên trong phòng đọc sách bài trí rất đơn giản. Ngoài một trà kỷ và mấy chiếc đôn tròn trong góc phòng, chỉ có chiếc bàn làm việc bằng gỗ trắc rộng thênh thang kê cạnh cửa sổ, bên trên bày văn phòng tứ bảo và một lọ cúc trắng, cùng một tờ giấy viết dở. Cạnh bàn dựng tấm bình phong bằng trúc, bên trên chạm đôi câu đối: “Biết đủ ắt vừa lòng, không cầu tự thanh cao”. Mấy thứ này thoạt trông sơ sài, song lại toát lên vẻ cao nhã. Một con mèo mướp béo ú đang nằm dài ra bàn ngủ khò, chiếc đuôi xù thỉnh thoảng lại phất qua giá treo bút, khiến hàng bút lông sói to lông dê nhỏ lay động, càng thêm phần đầm ấm thư nhàn. “Hà hà, thằng oắt này nuông quá hóa hư rồi, đuổi cũng không đi.” Lưu Nhất Minh cười đầy trìu mến, xua tay làm bộ đuổi. Con mèo ú ngáp dài, như ở chỗ không người. Lưu Nhất Minh cầm tờ giấy viết dở trên bàn lên, lắc đầu, “Chữ theo tiếng lòng. Lòng không tĩnh, bức chữ này cũng hỏng.” Dứt lời bèn vò tờ giấy lại, ném vào sọt giấy. Cục trưởng Lưu đùa, “Đem bức chữ này ra chợ bán, bét cũng được mười nghìn tệ, cụ vo viên vứt đi như thế, coi như vứt mấy cái ti vi màu đi rồi.” Lưu Nhất Minh trừng mắt nạt, “Anh ra ngoài suồng sã thế nào thì tùy, đừng đem thói con buôn ấy vào đây.” Chúng tôi lần lượt ngồi xuống đôn. Lưu Nhất Minh gác cây gậy mây sang một bên, nhắm mắt dưỡng thần một lúc mới mở ra bảo tôi, “Người một nhà cả, ta cứ nói thẳng ra nhé. Lẽ trời vần chuyển, biến ảo là thường. Giờ xã hội biến động, Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa cũng đang ấp ủ ý định cải cách thay đổi, chính là lúc dùng người. Cậu Nguyện, tôi hy vọng cậu sẽ quay về giúp đỡ Hội.” Trước lời mời của Lưu Nhất Minh, tôi lắc đầu, “Tôi nhàn nhã quen rồi, trình độ cũng chẳng ra sao, e rằng không giúp được các vị.” Sau vụ án đầu Phật, về danh nghĩa nhà họ Hứa đã chính thức quay về, nhưng tôi chỉ có một thân một mình, không quyền không thế, ngành buôn bán kim thạch cũng đã bị mấy môn phái khác xâu xé, ai cũng có lợi ích bên trong, vô cùng phức tạp. Tôi chẳng muốn tranh giành với họ nên vẫn tự mở cửa hiệu của mình, giữ quan hệ khi gần khi xa với Minh Nhãn Mai Hoa, cũng như Nhị Lang thần ở Quán Giang khẩu*, chỉ nghe lệnh không nghe tuyên. “Hà hà, cậu không giúp được, hay không muốn giúp?” Lưu Nhất Minh nheo mắt, nói không nhanh không chậm. Tôi bị nói trúng tim đen, không khỏi ngượng ngùng, tay bất giác hơi vươn ra, bấy giờ mới nhớ từ lúc bước vào phòng, Lưu Nhất Minh còn chẳng cho lấy một chén trà, khiến tôi không có cả cơ hội bưng chén trà lên nhấp để che giấu nữa. Thực ra tôi vẫn để bụng oán nhà họ. Vụ việc đầu Phật và nhà họ Hứa chúng tôi quay về Minh Nhãn Mai Hoa, đều do người nhà họ Lưu giật dây đằng sau. Tuy kết quả tốt đẹp, rửa được oan cho ông tôi, nhưng suốt quá trình tôi đã mấy phen thập tử nhất sinh. Trong khi bọn họ chỉ ngồi thả lưới, mà lại vớt được một mẻ lớn. Huyền môn tổn thất nặng nề, Hoàng môn không gượng dậy nổi, chỉ còn Thanh môn tay lẻ khó vỗ, cả Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa chẳng còn ai lay chuyển nổi thế lực nhà họ. Tôi luôn cảm thấy mình bị họ lợi dụng, nên lúc nào cũng giương cao cảnh giác. Dĩ nhiên những điều này tôi giữ kỹ trong lòng, không hề nói ra. Huống hồ tôi còn một lý do nữa, không thể không từ chối. “Cụ Lưu, không phải tôi không muốn giúp, mà còn một việc chưa làm xong nên tôi không muốn phân tâm.” “Lão Triều Phụng ư?” Lưu Nhất Minh dường như đã đoán được tôi sẽ nhắc tới chuyện này. “Đúng thế, lần này khó khăn lắm mới lần ra được manh mối, tôi nhất định không thể bỏ qua. Tôi đã thề trước mộ ông nội, quyết phải tóm được lão già ấy.” Tôi nói rành rọt từng chữ. Lưu Nhất Minh và cục trưởng Lưu nhìn nhau, rồi cục trưởng Lưu lên tiếng, “Phương Chấn đã báo cáo vụ Mắt Trố với tôi rồi. Có điều giờ đang giai đoạn nhạy cảm, phải từ từ đã.” “Giai đoạn nhạy cảm là sao?” “Ông cụ vừa nói đấy thôi. Hội đang ấp ủ kế hoạch cải tổ, ắt sẽ động tới đủ mọi thế lực trên mọi phương diện, thậm chí có thể gây ra xáo trộn lớn trong toàn giới cổ vật, rất nhiều người đều nhìn vào. Thế nên lúc này không thể tùy tiện làm bừa, gây thêm phiền toái.” Nghe đến đây, tôi bật cười giễu cợt, “Ra là sợ tôi làm phiền các vị à. Các vị yên tâm. Tôi điều tra dưới danh nghĩa cá nhân, quyết không gây phiền hà cho tổ chức, chẳng liên quan gì tới Minh Nhãn Mai Hoa hết.” Lưu Nhất Minh thấy tôi tỏ thái độ, vội giơ tay lên vuốt xuôi, “Cậu Nguyện à, người một nhà trò chuyện, đừng kích động như thế, bình tĩnh đi.” Tôi không dằn được cơn giận, đứng phắt dậy, “Hai đời nhà họ Hứa đều chết vì lão, lão còn giết mấy người bạn của tôi, giữa chúng tôi đã kết thù sâu như biển rồi. Tôi bất cần biết người khác thế nào, riêng tôi sẽ không bao giờ dừng tay đâu!” Lưu Nhất Minh thở dài, “Lão Triều Phụng xảo quyệt như hồ ly, tàn nhẫn như lang sói, nhiễu nhương như chuột, đấu với Minh Nhãn Mai Hoa bấy nhiêu năm mà chưa một ai biết được thân phận thật của lão. Việc này quan hệ trọng đại, phải suy xét kỹ lưỡng, đừng nhất thời nôn nóng. Chờ Hội cải tổ đâu vào đấy, tôi sẽ dốc hết nhân lực Minh Nhãn Mai Hoa giúp cậu tìm lão ta, được chưa nào?” “Xin lỗi, tôi không muốn mượn tay người ngoài để báo thù nhà.” Tôi lạnh lùng đáp. Tôi không tin lời hứa của Lưu Nhất Minh, lẽ nào các hội đó mười năm không cải tổ thì tôi cũng phải đợi mười năm không báo thù? Huống hồ Lão Triều Phụng giờ chắc đã ngoài chín mươi, có thể qua đời bất cứ lúc nào, lỡ tôi chưa lần ra lão đã chầu trời thì sao? Lưu Nhất Minh rõ ràng đang giở kế hoãn binh, Minh Nhãn Mai Hoa không đi bắt kẻ làm giả, còn khuyên tôi ngừng tay, hễ nghĩ tới tôi lại giận sôi lên. “Cái thật mới bền bỉ, cái giả chẳng dài lâu, trời ắt có báo ứng.” Lưu Nhất Minh tiếp tục khuyên. Tôi đốp lại ngay, “Tôi không đợi được báo ứng, phải tự mình ra tay thôi.” Lưu Nhất Minh liếc tôi, “Giờ cậu đang kích động, nóng ruột nóng gan, làm sao đấu được với lão?” “Minh Nhãn Mai Hoa ngọa hổ tàng long mà mãi không bắt được lão. Một mình tôi có thể lật lại vụ án đầu Phật, chưa chắc đã không đấu được với lão.” Tôi nói vẻ giễu cợt. Không khí trong phòng bỗng chốc trở nên gượng gạo. Lưu Nhất Minh cũng chẳng lấy làm điều, chỉ nhướng đôi mày bạc, giơ ngón tay trỏ tôi, nửa cười nửa không, “Một người lòng dạ thế nào suy nghĩ ra sao, cổ vật sẽ nhìn thấu suốt nhất. Con người giám định cổ vật, cổ vật cũng có thể giám định con người, cậu nôn nóng hay không, chúng ta tìm một món đồ cổ kiểm tra là biết.” “Được thôi.” Tôi ngẩng đầu, không mảy may chịu lép. Xưa nay tôi chỉ nghe nói người giám định đồ, chưa nghe đồ giám định người bao giờ. Tuy trình độ tôi kém xa Lưu Nhất Minh, nhưng tôi không sợ. Lưu Nhất Minh phẩy tay áo, trỏ nghiên mực trên bàn, “Nghiên mực hình dạng vuông vắn, cứng rắn bền chắc, từ xưa đã được coi là quân tử. Để nó giám định cho cậu đi.” Tôi vốn chẳng hiểu gì về giám định thư họa, có điều nghiên mực cũng được liệt vào hàng kim thạch, coi như chuyên ngành của Bạch môn nhà tôi. Đề bài này của Lưu Nhất Minh cũng không phải làm khó dễ. Tôi cầm nghiên mực lên xem qua, không khỏi thầm khen lạ. Chiếc nghiên này thuộc loại nghiên Đông Lỗ Giá màu xanh mai cua. Còn được tạo hình cổ cầm thu nhỏ, khác hẳn những chiếc nghiên thông thường. Lòng nghiên hơi trũng để đựng mực, từ đầu đến cuối khắc hình bảy dây, nhạc sơn và các huy, vô cùng tinh xảo, nhìn như mặt đàn thật vậy. Lưng nghiên khéo léo dùng hộ chẩn và yến túc làm đế, khiến chiếc nghiên trông hệt như một cây đàn. Tại long trì ở đáy đàn, tôi còn thấy một lời đề bằng chữ triện: “Đi vào núi thẳm, đẽo lấy đá này, đem về mài giũa, thành đàn bảy dây.” Lạc khoản là... Phóng Ông? Lục Phóng Ông? Lục Du? Tay tôi hơi run. Lỗ Giá tức huyện Tứ Thủy, Sơn Đông ngày nay, có một nơi là khe Giá, chất đất trong lòng khe rất hợp để làm nghiên gốm. Tiếc rằng công nghệ làm nghiên Giá từ thời Nam Tống về sau đã thất truyền, số lượng nghiên mực truyền lại cực ít. Đã là nghiên Đông Lỗ Giá lại được Lục Du đề tựa, có thể coi là một vật phi phàm, có lẽ chỉ hội trưởng Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa như Lưu Nhất Minh mới có thể sở hữu. Tôi đặt nghiên mực vào lòng bàn tay ước chừng, thấy trọng lượng vừa phải, còn trơn nhẵn mát lạnh. Lại dùng ngón tay nâng đài nghiên gõ nhẹ, thấy chất nghiên đặc quánh. Tôi đưa mắt nhìn Lưu Nhất Minh, thấy ông ta khẽ gật đầu. Bèn nhặt một thỏi chu sa trâm ngọc trên bàn, thong thả mài vào lòng nghiên. Chu sa từ từ tan chảy, khẽ động đã loang đều. Cái này tên gọi là “sen mực hứng sương”, ý nói giống như lá sen hứng sương, chú trọng như tan mà chưa tan, như ngưng đọng mà chưa ngưng đọng. “Sen mực hứng sương” đã xuất hiện, tôi biết chẳng cần kiểm tra các điểm khác nữa, bèn đặt nghiên xuống, nói với Lưu Nhất Minh, “Là hàng tốt.” Lưu Nhất Minh đáp, “Cậu đừng nóng vội, cứ xem tiếp đi.” Thấy ông ta lại ra vẻ bí hiểm, tôi nghi hoặc lật đi lật lại ngắm nghía, chẳng nhận thấy gì khác lạ, bụng nghĩ chắc là lại lừa mình, bèn đặt nghiên xuống, bảo Lưu Nhất Minh, “Ông là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa, đồ vật trong nhà ông, tôi chẳng thấy có gì không ổn cả.” Lưu Nhất Minh thở dài lắc đầu, “Cậu trước giờ đâu có ẩu như thế, xem kỹ lại lời đề nghiên đi.” Tôi nhìn lại, thấy vẫn là mười sáu chữ “Đi vào núi thẳm, đẽo lấy đá này, đem về mài giũa, thành đàn bảy dây”. Câu này chẳng có gì khó hiểu, chủ yếu nói về chuyện thợ đá đi vào núi sâu, đẽo đá từ mỏ, chế thành nghiên mực dạng như cây đàn, tóm lại là không dễ dàng gì. Bất luận thể chữ hay thủ pháp chạm trổ đều không có gì đặc biệt. Tôi thậm chí còn nhớ láng máng hai câu “Đem về mài giũa, thành đàn bảy dây” được trích từ bài “Phú đàn” của Kê Khang. “Có vấn đề gì?” Tôi sốt ruột hỏi lại. Lưu Nhất Minh thoáng thất vọng, “Vội sẽ lơ là, giận ắt sơ suất. Cậu còn bảo mình không nôn nóng à? Vấn đề lồ lộ như vậy mà cũng không để ý.” Ngừng một thoáng, ông ta khẽ nhắc, “Nghiên Đông Lỗ Giá phải đẽo đá bao giờ?” Tôi “a” lên, suýt nữa làm rơi chiếc nghiên xuống đất, nhận ra mình đã phạm phải một sai lầm cực kỳ ngu xuẩn và hiển nhiên. Nghiên Đông Lỗ Giá thuộc loại Trừng Nê, một dạng nghiên làm bằng gốm, được nung mà thành, sao lời đề nghiên có thể nhắc tới quá trình gian khó khi đẽo đá được? Lục Du là danh gia một đời, dĩ nhiên không lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia như vậy, chiếc nghiên này rõ ràng là giả. Đây vốn là thường thức, song tôi giám định qua loa lại sơ ý bỏ qua. Lưu Nhất Minh lắc đầu, “Đến nghiên mực này cũng nhìn ra lòng cậu đang nôn nóng. Cậu làm sao đấu với Lão Triều Phụng được?” “Đồ ông bày trong thư phòng, tôi nghiễm nhiên coi là của báu, đây là do ấn tượng ban đầu.” Tôi cãi cố. Song Lưu Nhất Minh đã nghiêm giọng, “Thư phòng của tôi thì sao? Thật là thật, giả là giả, liên quan gì đến người dùng? Lẽ nào tôi là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa thì không sợ gặp phải hàng giả nữa à? Cậu nhìn người đoán vật là hỏng rồi.” Dứt lời Lưu Nhất Minh đi đến trước bàn, tay phải cầm nghiên, tay trái giơ lên xoa nhẹ. Lúc này ông ta đã chẳng còn phong thái bình thản thoát tục nữa, thay vào đó là vẻ buồn bã của người già, môi dưới run run kéo theo cả mấy nếp nhăn trên mặt, như đang cảm khái chuyện xưa, thương tâm vô hạn. Tôi cũng nhất thời chạnh lòng, không dám chen vào. Lưu Nhất Minh xoa một hồi mới đặt lại nghiên xuống bàn, quay người bảo tôi, “Chiếc nghiên này hồi tôi còn trẻ đã thay một ông bạn già giám định. Bấy giờ tôi đương lúc đắc chí, nhất thời chủ quan lơ đễnh nên đã nhìn lầm giống như cậu vậy. Kết quả để kẻ thù của tôi tóm được sơ hở, truy tra đến cùng, tôi suýt nữa mất hết thanh danh đã đành, còn làm lụy người bạn kia tan nhà nát cửa. Về sau tôi dùng đủ cách tìm cho được nó, giữ bên người luôn luôn để tự răn mình. Cậu phải biết Minh Nhãn Mai Hoa chúng ta xây dựng trên cơ sở ‘theo đuổi cái thật’, chữ ‘Thật’ này rất khó đạt được. Lúc thì thật dễ, lúc lại thật khó, nếu không cẩn thận, danh tiếng trăm năm có thể tan tành sau một lần giám định. Thế nên tôi mới bảo cậu phải bình tâm tĩnh trí, không chỉ vì cậu, mà còn vì cả Minh Nhãn Mai Hoa.” Nghe ông ta lên giọng thuyết giáo, tôi đành gật đầu cho qua chuyện. Lưu Nhất Minh thấy tôi chẳng để vào tai, bèn thở dài, “Tôi thấy hôm nay cậu không nên quyết định gì vội, về nghỉ ngơi trước đi. Tôi cũng không ép cậu, khi nào nghĩ thông thì lại đến tìm tôi.” Cuộc nói chuyện đến đây là kết thúc, Lưu Nhất Minh quay vào nhà nghỉ ngơi, cục trưởng Lưu tiễn tôi ra cửa, bảo tài xế đưa tôi về. Trước lúc đi, ông ta cầm tay tôi cười nói, “Ông cụ mọi ngày hiếm khi nói nhiều thế này nên hơi mệt. Cậu thông cảm nhé.” Nghe vậy, tôi chợt nghĩ, xem ra về vấn đề này, cách nghĩ của cục trưởng Lưu và Lưu Nhất Minh cũng không hoàn toàn đồng nhất. Nhưng ẩn ý của cục trưởng Lưu quá mơ hồ, cả đám bọn họ lúc nào cũng có lối úp mở mập mờ như thế. Tôi còn mải lo tìm Lão Triều Phụng, chẳng bụng dạ nào suy đoán mấy chuyện râu ria, chỉ ậm ừ vâng dạ cho qua. “Hứa với tôi, đừng hành động bộp chộp.” Cục trưởng Lưu lại dặn. “Được.” Tôi đáp. Rời biệt thự ở Tiểu Thang Sơn, tôi về thẳng cửa hàng của mình ở Lưu Ly Xưởng, vừa đẩy cửa đã thấy Hoàng Yên Yên ngồi vắt vẻo trên giường xếp xem ti vi. Cô là cháu gái Hoàng Khắc Vũ của Hoàng môn, đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong lúc điều tra vụ án đầu Phật, giờ là... ừm... quan hệ giữa chúng tôi rất khó miêu tả, chưa phải người yêu, nhưng lại thân thiết hơn bạn bè bình thường. Cô gái này hơi giống mèo, nếu tôi nịnh nọt lấy lòng, cô ta sẽ hờ hững phớt lờ nhưng nếu tôi rụt lại, cô ta bèn ngon ngọt dịu dàng, khiến tôi cũng chẳng biết đâu mà lần. Có người hỏi tôi làm sao quen được người đẹp như Hoàng Yên Yên, tôi bèn kể lại câu chuyện đầu Phật, song họ không tin, nói rằng chuyện cũng coi như ly kỳ, song phần tình cảm xây dựng kém quá. Tôi nói không phải là xây dựng, họ bèn nói vậy là do cậu kể chán quá. Cũng phải, người ta yêu đương đều là trước hoa dưới trăng, đi xem phim hay tặng hoa gì đó. Song tôi có lẽ bẩm sinh đã thiếu dây thần kinh lãng mạn, không biết mấy chiêu mùi mẫn đó, ngày ngày ru rú trong cửa hàng ở Lưu Ly Xưởng, có ra ngoài thì chỉ đến Phan Gia Viên dạo một vòng, người ta có lấp lửng cũng dễ hiểu thôi... Bạn xem, hôm nay tôi đi tảo mộ, nhờ cô trông hộ cửa hàng một hôm. Nếu là người khác, có khi đã cho tôi một bạt tai rồi. Thấy tôi bước vào, Hoàng Yên Yên tắt phụt ti vi, rót chén trà bưng đến. Tôi đón lấy uống một hơi cạn sạch, quẹt mồm rồi hỏi cô hôm nay buôn bán thế nào. Yên Yên đáp chẳng bán được gì hết. Tôi cười nói, thế là bình thường, bình thường. Sau đó ngồi phịch xuống giường xếp, sát cạnh cô. Yên Yên cũng không tránh, tiếp tục cắn hạt dưa. Tôi đang lưỡng lự không biết có nên quàng vai cô cho tình cảm chút không thì Yên Yên đột nhiên hỏi, “Nghe nói anh đến chỗ ông Lưu hả?” Tôi thầm nhủ, Minh Nhãn Mai Hoa đúng là như cây liền cành, chẳng giấu được chuyện gì, bèn thuật lại cuộc gặp Lưu Nhất Minh. Nghe xong, Hoàng Yên Yên thoáng trầm tư, “Tuy ông Lưu thâm sâu khó lường, nhưng lần này ông nói rất đúng.” Tôi ngạc nhiên, “Em cũng thấy anh không nên hành động nóng vội ư?” Nên biết rằng ông nội Hoàng Yên Yên là Hoàng Khắc Vũ vẫn luôn đối đầu với Lưu Nhất Minh, từ sau kháng chiến, lịch sử phát triển của Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa là lịch sử đấu đá của Hồng môn và Hoàng môn. Thường ngày cô vẫn hay chế nhạo nhà họ Lưu, hiếm khi thấy nói tốt cho Lưu Nhất Minh. Yên Yên liền giải thích, “Ông Lưu không lừa anh đâu, gần đây Hội quả thực đang rục rịch cải tổ, mọi người đều tăng cường hoạt động, gây dựng thế lực khắp nơi.” “Cải tổ thế nào?” “Ông Lưu muốn thâu tóm tất cả nguồn lực ở thủ đô, liên kết giới sưu tầm, giới buôn đồ cổ, các trường đại học, viện bảo tàng, Cục Quản lý hiện vật văn hóa và các ban ngành liên quan lại để ổn định thị trường cổ vật.” “Gớm thật,” tôi tặc lưỡi trầm trồ. Quả là bước cải tổ không nhỏ. “Nếu chuyện này thành, sẽ gây ra xáo trộn lớn trong giới. Người mấy phái còn lại cũng đang tất bật lo liệu đấy. Lần cải tổ này tuy chỉ thâu tóm các nguồn lực ở thủ đô, nhưng vẫn có ảnh hưởng rộng khắp cả nước. Bởi vậy mấy hôm nữa em phải tới Nam Kinh một chuyến, đằng đó có mấy bậc tiền bối trong giới quen biết ông em, người nhà cử em đi nhờ họ giúp đỡ.” “Em đi bao lâu?” “Chắc cũng phải hơn nửa tháng.” Dứt lời Yên Yên chìa tay xoa mặt tôi, “Em biết anh nóng lòng nhưng để anh một mình đi điều tra, em không yên tâm được. Anh cũng biết Lão Triều Phụng nguy hiểm thế nào rồi đấy. Chỉ cần hơi sơ ý, ta sẽ bị một vố đau. Anh đừng quên chuyện Dược Bất Nhiên chứ.” Nghe Yên Yên nói vậy, khóe miệng tôi giần giật. Cái tên Dược Bất Nhiên này tôi đã khắc cốt ghi tâm. Tôi từng coi gã là bạn thân, chẳng ngờ gã lại là tai mắt Lão Triều Phụng cài cắm, suýt nữa đã hại chết tất cả chúng tôi. Tôi thề quyết tìm ra Lão Triều Phụng để trả thù, một nửa là vì ân oán gia tộc, phần còn lại là bởi Dược Bất Nhiên. Thấy tôi biến sắc, biết cái tên kia đã chạm trúng chỗ đau trong lòng tôi, Yên Yên dịu dàng nắm lấy tay tôi, thủ thỉ khuyên, “Thế nên anh phải cố kiên nhẫn, đợi em về đã. Em sẽ nói với ông một tiếng, huy động nhân lực của Minh Nhãn Mai Hoa, còn sợ không bắt nổi lão ư?” Tôi ậm ừ, đoạn tươi nét mặt, “Được rồi, nghe em hết. Nhưng anh không chịu nghe suông đâu.” Nói rồi tôi cười khi quay sang định hôn lên môi cô. Nào ngờ thân hình cô nhoáng một cái, nhanh nhẹn lách người né tránh. Tôi cũng chẳng làm gì được, dẫu sao Hoàng Yên Yên võ nghệ cao cường, nếu đánh nhau tôi hoàn toàn không đấu lại cô. Hoàng Yên Yên cười khanh khách, xách chiếc túi đỏ đi thẳng. Hoàng Yên Yên đi rồi, tôi ngồi một mình trên giường xếp, châm một điếu thuốc, nụ cười tan dần trong làn khói thuốc. Mọi người đều khuyên tôi đừng đi tìm Lão Triều Phụng, nhưng tôi không thể chỉ vì một câu “đừng đi” mà buông tay được. Mấy ngày tiếp theo tôi quanh quẩn trong Tứ Hối Trai, chẳng đi đâu hết, chỉ gọi mấy cú điện thoại. Hôm Yên Yên đi Nam Kinh, tôi đưa cô đến ga tàu. Yên Yên nói đâu phải sinh ly tử biệt, đưa đến cửa soát vé là được. Tôi cãi lại vậy sao tỏ được tấm lòng, khăng khăng mua một vé vào ga, tiễn cô lên tận toa, cất túi du lịch lên giá để hành lý rồi mới xuống. Xuống tàu rồi, tôi vẫn chưa đi mà quanh quẩn ở sân ga nhìn vào toa tàu qua lớp cửa kính, thấy Hoàng Yên Yên nói gì đó với mình, còn áp tay vào tai nghiêng nghiêng đầu, nhìn khẩu hình có lẽ ý bảo đến Nam Kinh sẽ gọi điện vào di động cho tôi. Tôi cười gật đầu, ra dấu bảo cô cứ yên tâm. Tôi đứng yên tại chỗ nhìn theo đoàn tàu từ từ rời ga. Tới khi nó biến mất đằng xa, tôi mới vờ đi vài bước về phía đường hầm, giả bộ cúi xuống buộc dây giày để quan sát xung quanh. Lúc này những người đưa tiễn trên sân ga đã tản đi hết, chỉ còn mấy xe đồ ăn, dăm người bán hàng túm tụm lại tán gẫu. Thấy không ai để ý đến mình, tôi lỉnh ra sau cây cột xanh lá ở cuối sân ga, nhìn con tàu ở đường ray bên kia. Sân ga này có hai mặt, bên kia cũng có một đoàn tàu khác sắp khởi hành, nhìn bảng hiệu là tới Quảng Châu. Theo quy định, sân ga chỉ có thể khởi hành một chiều, chuyến này đi rồi mới đến chuyến khác. Đợi tàu đi Nam Kinh chuyển bánh, tàu đi Quảng Châu mới mở cửa soát vé. Tôi giơ tay nhìn đồng hồ, thấy đã sắp đến giờ. Quả nhiên ít lâu sau từ đường hầm vang lên tiếng chân dồn dập, rồi cả toán hành khách lỉnh kỉnh mang vác hành lý tràn lên sân ga, ai nấy đều phấn khởi, hẳn là định đi miền Nam đào vàng. Nhân viên nhà tàu lần lượt đi đến trước cửa các toa, chuẩn bị đón khách. Tôi ném đầu mẩu thuốc lá xuống đất di nát, bám theo một hành khách đeo túi vải dù to. Nhân viên nhà tàu chìa tay hỏi vé, tôi bèn vung vẩy tấm vé vào ga trong tay rồi trở vào dòng khách phía trước, không nói câu nào, thế là chen được lên toa. Sau khi lên, tôi lẹ làng ra đứng cạnh bồn rửa tay chờ đợi. Đợi những người đưa tiễn xuống hết, tàu vừa chuyển bánh, tôi chủ động tìm nhân viên nhà tàu, xin mua thêm một vé nằm. Nhân viên nhà tàu hỏi tôi đi đâu, tôi nhìn ra cửa sổ đáp ngay, “Trịnh Châu.” Đúng vậy, Trịnh Châu. Tôi phải tới Trịnh Châu. Địa chỉ của Lão Triều Phụng mà Mắt Trố cho tôi nằm ở Trịnh Châu. Lưu Nhất Minh cũng thế, Hoàng Yên Yên cũng vậy, đều là người trong Minh Nhãn Mai Hoa, xét việc luôn nhìn từ đại cục, đặt lợi ích của Hội lên hàng đầu. Nhưng tôi thực chẳng có thiện cảm gì với Minh Nhãn Mai Hoa, tôi có ơn với họ chứ không phải họ có ơn với tôi. Mối thù của nhà họ Hứa, người khác cho qua thì cho, nhưng tôi sẽ không bao giờ bỏ qua. Dĩ nhiên tôi đã hứa với cục trưởng Lưu và Yên Yên, tạm thời không đi tìm Lão Triều Phụng thì sẽ giữ lời. Có điều tôi không hứa sẽ không điều tra các manh mối vòng ngoài. Tôi vốn định thế này: Âm thầm điều tra ở Trịnh Châu, hễ phát hiện được manh mối sẽ lập tức ngừng tay, tới khi Hội có thời gian lại tiếp tục điều tra. Trước khi đi tôi đã sắp xếp ổn thỏa mọi việc ở Tứ Hối Trai, đóng kín cửa giả, nói là đi lùng hàng. Tôi tính đến Trịnh Châu cùng lắm một tuần, thần không hay quỷ chẳng biết, chỉ cần về trước Yên Yên là được. Mắt Trố sa cơ bị bắt, có lẽ chẳng bao lâu nữa Lão Triều Phụng sẽ biết tin. Nếu lần lữa mấy ngày để đứt manh mối này thì có hối cũng đã muộn. Tôi nằm trên giường nghĩ ngợi miên man rồi thiếp đi. Chừng mười tiếng sau, nhân viên nhà tàu lay tôi dậy, nói đã đến ga. Tôi dụi mắt nhìn ra ngoài thấy sân ga ngoài cửa sổ dựng một tấm biển to tướng, hai chữ “Trịnh Châu” màu đen nổi bần bật trên nền trắng. Tôi thầm nhủ, coi như bước vào trại giặc rồi đây. Người chơi đồ cổ đều biết, Hà Nam là vựa đồ cổ lớn, ba vùng Khai Phong, Lạc Dương, An Dương tạo thành thế chân vạc. Đồ cổ ở cả ba vùng này đều tụ về tỉnh lỵ Trịnh Châu. Trịnh Châu từ xưa đã là cửa vào bảy quận, năm lối thông nhau, là nơi tập kết và lưu thông văn vật quan trọng, tự hình thành lề lối riêng. Muốn được chia một miếng bánh trong thị trường văn vật Hà Nam, ở Trịnh Châu tất phải nắm giữ đầu mối then chốt. Vì vậy các tai to mặt lớn trong giới đều có thế lực tại đây, phe phái chồng chéo phức tạp, không kém gì thủ đô. Nghe nói Minh Nhãn Mai Hoa mấy lần Nam tiến hòng thu Trịnh Châu vào dưới trướng, cuối cùng cũng chỉ được kết quả bằng mặt không bằng lòng, đủ thấy nơi này khó nhằn nhường nào. Rời khỏi ga Trịnh Châu nhộn nhạo, tôi sà vào quán ven đường ăn ngay một bát mì cay ú ụ. Món này nhìn cứ tưởng nấu kiểu tả pí lù, thực ra mùi vị rất ngon, hớp một thìa nước dùng cay sè, cả người sẽ tê tê như chạm phải công tắc điện, dễ chịu vô cùng. Tôi chiêu thêm hai chiếc bánh rán, húp hết bát mì cay, thấy tinh thần phấn chấn hẳn, bao mệt mỏi vì nằm tàu suốt đêm đều bốc hơi qua lỗ chân lông hết. Lần này đến Trịnh Châu, tôi giấu nhà họ Lưu nên cũng chẳng nhờ vả được người của Minh Nhãn Mai Hoa, đành độc lập tác chiến. Nghĩ đến đó, tôi chẳng những không sợ, mà còn thêm phần hào khí. Ân oán ba đời giữa Lão Triều Phụng và gia đình tôi giờ đã đến lúc phải đặt dấu chấm hết, dù sống dù chết, tôi cũng không hối hận. “Thư kia đến đúng lúc lắm thay, trời giúp Hoàng Trung lập công này, đứng giữa nha môn cao giọng nói, ba quân tướng sĩ gắng nghe đây...” Tôi cao hứng cất giọng hát mấy câu trong vở Núi Định Quân* rồi ợ một tiếng, rút mẩu giấy nhỏ và bản đồ trong túi áo ra. Mảnh giấy này tôi đã lén chép lại trong lúc thẩm vấn Mắt Trố, ghi địa chỉ của Lão Triều Phụng. Có lẽ Phương Chấn đoán được ý tôi nên xem rất kỹ biên bản khai nhận, không cho tôi đụng vào. Tôi phải giở đủ mọi mánh lới mới trộm được từ cậu cảnh sát ghi biên bản. Tôi mò mẫm dò bản đồ tìm đường đến địa chỉ trên giấy, đổi mấy chuyến xe buýt, cuối cùng cũng tới được một ngã tư. Đây là khu nhà cũ, phóng mắt trông ra toàn nhà cấp bốn ngói xám, ngõ ngách ngoằn ngoèo, xa xa là mấy công trường đang xây nhà cao tầng, nhưng ngày một ngày hai vẫn chưa thể thay đổi được diện mạo cả khu. Giữa những căn nhà lúp xúp, nổi lên một gò đất dài, cỏ mọc lơ thơ. Tôi hỏi thăm xung quanh mới biết đó là di tích tường thành thời nhà Thương, không khỏi ngắm nghía thật kỹ. Đúng là Trịnh Châu, đâu đâu cũng thấy di tích từ thời thượng cổ. Tường thành từ mấy ngàn năm trước lại nằm lù lù giữa khu dân cư hỗn tạp, hay thật. Địa chỉ ghi trên giấy nằm cuối con ngõ gần đó, là một căn nhà cấp bốn bình thường, tường thành đời Thương chạy qua phía sau, trông như núi tựa cho nhà này. Tôi đến trước cửa, thấy khóa trái, ngoài cửa còn treo một thùng thư xanh biếc màu mực, bên cạnh là hòm đựng sữa tươi, trên viết nguệch ngoạc số nhà bằng phấn. Tôi chưa vội gõ cửa mà thận trọng đi vòng quanh nhà xem xét, tìm được một tiệm tạp hóa ngay đầu ngõ. Chủ tiệm là một bà béo, thoạt đầu khá hờ hững, song thấy tôi móc tiền ra mua hai vỉ pin năm hào và một cuộn phim Lạc Khải thì vồn vã hẳn. Tôi thừa dịp lân la hỏi han về người nhà nọ. Hỏi chuyện là kỹ năng thiết yếu của dân chơi đồ cổ, tục gọi là lưỡi đào, uốn ba tấc lưỡi là đào bới được chuyện cần biết. Một phụ nữ trung niên bình thường như bà chủ tiệm hẳn không hề đề phòng tôi nên chỉ dăm ba câu tôi đã hỏi được tường tận về người sống trong nhà kia. Chủ nhà đó họ Diêm, tên Diêm Sơn Xuyên, là nhà báo, vợ làm cô giáo dạy Văn ở trường trung học, có một đứa con bảy tuổi. Có điều theo lời bà béo thì Diêm Sơn Xuyên là phóng viên kinh tế, cô vợ cũng thuộc dạng yên phận, chẳng nghe nói họ có dính dáng gì đến đồ cổ hay văn vật cả. Dĩ nhiên những điều này chẳng nói lên được gì. Nếu họ có qua lại với Lão Triều Phụng cũng chẳng để người ngoài biết được. Tôi chào bà béo, mua một chiếc tua vít ở cửa hàng kim khí gần đó, nhân lúc ngõ đang vắng, lén cạy thùng thư nhà Diêm Sơn Xuyên. Trong thùng chỉ có một tờ Tin ngày Hà Nam, một tờ Tin chiều Trịnh Châu, đều là báo hôm nay, bên trên cũng không có ký hiệu gì. Tôi nhét lại báo, đóng kín thùng thư rồi lẳng lặng ra khỏi ngõ, tạt vào một nhà trọ tên Ái Dân gần đó nghỉ tạm. Sáng sớm hôm sau, tôi mua một chiếc ống nhòm đồ chơi ở hàng rong, trèo lên di chỉ tường thành đời Thương. Đứng từ đây có thể nhìn thẳng xuống nhà Diêm Sơn Xuyên, thấy hết động tĩnh người ra kẻ vào. Tôi quan sát suốt ba ngày, đã nắm được đại khái thời gian biểu của gia đình nọ. Diêm Sơn Xuyên mỗi sáng sáu giờ rưỡi rời nhà, đến bảy giờ thì cô vợ dẫn đứa con đi, trưa cũng chẳng ai về nhà. Năm giờ chiều con nhà họ tan học tự về nhà lấy chìa khóa mở cửa. Sáu giờ cô vợ lỉnh kỉnh xách cá thịt về nhà nấu cơm, Diêm Sơn Xuyên thông thường phải sau bảy giờ mới về. Bưu tá đưa báo mỗi ngày đúng hai giờ chiều sẽ đưa tới hai tờ báo, không có bưu thiếp hay thư từ gì, đến tối vợ Diêm Sơn Xuyên về nhà sẽ mở thùng thư ra lấy. Trước tình hình ấy, tôi rất lấy làm khó hiểu. Theo Mắt Trố khai, y mua chiếc bình thời Minh dởm từ Lão Triều Phụng với giá hai trăm năm mươi tệ, vậy có lẽ Lão Triều Phụng lời chừng trăm tệ. Tỷ suất lợi nhuận thì cao, nhưng lượng sản phẩm lại không lớn. Lão Triều Phụng muốn kiếm tiền bằng đường này, ít nhất một ngày cũng phải đẩy đi được mười hai mươi món, chứ như điểm nhận đơn hàng này, suốt ba hôm chẳng được nổi một đơn thì ăn thua gì. Tôi thầm nghĩ, lẽ nào trong nhà giấu giếm bí mật gì? Phải nghĩ cách lẻn vào xem mới được. Người nhà họ Diêm đi vắng cả ngày, nhưng nhà họ khá gần đường cái, người qua kẻ lại luôn luôn. Huống hồ bà hàng xóm đã biết mặt tôi, đường đột lẻn vào lỡ người ta tưởng là trộm cắp bắt lại thì lợi bất cập hại. Nghĩ vậy, tôi bèn đổi ý, nhằm vào con trai nhà họ. Diêm Tiểu Quân, con trai Diêm Sơn Xuyên học lớp hai, mỗi ngày sau khi tan học sẽ cùng các bạn xếp hàng về nhà, tới đầu đường mới rời hàng, móc chìa khóa ra mở cửa. Đây quả là một điểm đột phá tuyệt vời. Tôi kiếm một chiếc mũ phóng viên và áo jacket, lại tới cửa hàng đồ chơi mua một robot biến hình hai trăm tệ, còn là loạt robot hợp thể biến hình Devastator. Xong xuôi, tôi cầm hộp đồ chơi đợi sẵn đầu ngõ. Sắp đến năm giờ, thấy một đoàn học sinh xếp hàng rồng rắn đi về nhà, tôi liền bước lên gọi to, “Diêm Tiểu Quân!” Nghe tiếng gọi, một đứa bé trong hàng tức thời quay lại. Nó quan sát tôi, thấy không phải người quen, liền lộ vẻ bối rối, nhưng vừa nhác thấy con robot biến hình trong tay tôi, thì không rời mắt nổi nữa. Trẻ con mê robot biến hình không kém gì thư pháp gia si mê thiếp Lan Đình bản gốc. Tôi cố ý chìa hộp robot biến hình ra, cười hỏi, “Tiểu Quân quên chú rồi à? Chú làm cùng cơ quan với bố cháu, hồi xưa còn bế cháu đấy. Bố mua robot cho cháu này, bố có việc, nhờ chú đem về cho cháu trước.” Tôi cố ý nói thật to, khiến đám bạn học của thằng bé đổ dồn mắt lại nhìn đầy thèm muốn. Trẻ con rất nhạy cảm, Diêm Tiểu Quân chẳng còn bụng dạ nào nghi ngờ tôi nữa, háo hức nhận ngay bộ robot, ôm khư khư không rời. Tôi cười khà, làm bộ trách: chưa cảm ơn chú Nguyện à, nó vội đáp cảm ơn chú Nguyện, không quên vênh vang quay lại liếc nhìn đám bạn. Tôi xoa đầu nó nói lát nữa bố cháu sẽ về, để chú đưa cháu về nhà rồi ngồi đợi bố luôn nhé. Diêm Tiểu Quân đang mê tít con robot, chẳng còn nghi ngờ gì, ngoan ngoãn rút chìa khóa ra mở cửa cho tôi vào nhà. Bước qua cửa là tới phòng khách nhỏ, kê một bàn tròn bằng nhựa. Bên trong chia làm hai gian, một gian cho người lớn, gian còn lại cho trẻ con, đều che màn vải hoa mai. Trên kệ tủ búp phê đặt giữa phòng khách là chiếc ti vi màu 21 inch và bộ dàn karaoke. Xa hơn là giá sách, cạnh đó bày cây đàn organ Yamaha, trên bức tường bên cạnh treo ảnh cưới của hai vợ chồng, có vết nứt. Xem ra gia cảnh Diêm Sơn Xuyên cũng khá, song nhìn mãi vẫn chẳng thấy có quan hệ gì với giới cổ vật cả. Tôi nhìn lướt qua giá sách, thấy xanh đỏ lòe loẹt, không phải tạp chí hay sách tham khảo thì là mấy loại sách về cổ phiếu, thời trang, cũ nhất cũng chỉ là sách những năm 70, 80. Tôi gọi Diêm Tiểu Quân lại, hỏi thăm hằng ngày bố mẹ nó ở nhà làm gì, nó đáp rằng vật nhau. Tôi nghe mà phì cười, thằng bé này đúng là bạo mồm bạo miệng... Tôi lại hỏi ngoài vật nhau còn gì không, Tiểu Quân đáp rằng cãi vã. Tôi kiên nhẫn gọi chuyện, bảo nó nghĩ kỹ xem nhà đã bao giờ nhận được thư từ hay chai lọ bình hoa gì không? Diêm Tiểu Quân sáng mắt lên khoe bố cháu có cái này hay lắm, giấu trong thùng các tông dưới gầm giường phòng cháu. Tôi nén kích động, rủ nó cho mình xem. Thằng bé này cũng vô tâm vô tư, dẫn ngay tôi vào phòng, chổng mông cúi xuống lôi dưới gầm giường ra một thùng các tông to tướng, dán băng dính kín mít. Muốn gỡ băng tốt nhất là xông hơi nước, không để lại dấu tích. Nhưng tôi xem đồng hồ thấy đã sắp sáu giờ, sợ vợ Diêm Sơn Xuyên về, cái khó ló cái khôn, bèn lật úp thùng lại. Quả nhiên đáy thùng không dán băng dính, chỉ có bốn mép gập lại cài vào nhau. Tôi xua Diêm Tiểu Quân đi chơi robot, bảo rằng ở đây có chú rồi. Thằng bé lập tức chạy đi ngay, hẳn là sốt ruột lắm. Khui thùng ra, tôi tức thì hộc máu. Thì ra bên trong là một xấp tạp chí Long Hổ Báo của Hồng Kông, ngay ngoài bìa đã thấy ảnh người mẫu nữ khỏa thân õng ẹo tạo dáng. Tôi hiểu vì sao Diêm Sơn Xuyên giấu chúng ở đây, có điều đây rõ ràng không phải thứ tôi muốn tìm, vội cất ngay vào thùng, trả về chỗ cũ. Vừa quay lại phòng khách, tôi đã nghe tiếng chuông xe đạp leng keng, nhìn ra ngoài thì thấy mẹ Diêm Tiểu Quân xách thức ăn về sớm. Tôi thầm than trong lòng, kéo Diêm Tiểu Quân lại, vờ như đang dạy nó chơi robot. Vợ Diêm Sơn Xuyên đẩy cửa vào, thấy người lạ trong nhà thì giật nẩy mình. Tôi vội đặt con robot xuống, tươi cười chìa tay ra bắt, vồn vã chào hỏi, giới thiệu mình là đồng nghiệp của Diêm Sơn Xuyên, có người tặng Diêm Tiểu Quân đồ chơi nên Diêm Sơn Xuyên nhờ tôi mang về hộ. Rơi vào cảnh này nhất định không thể bỏ đi ngay được, nếu bỏ đi là lòi đuôi ngay. Oan gia ngõ hẹp, ai cứng thì khỏi bẹp, bạn phải chủ động thao thao nói chuyện, không cho đối phương thời gian suy nghĩ, mới có thể chớp thời cơ ra tay trước. Thấy tôi đon đả chào hỏi, cô vợ Diêm Sơn Xuyên ngớ ra, không kịp phản ứng. Thừa thắng xông lên, tôi bồi thêm một câu, “Anh Xuyên đã cho em xem ảnh, nhưng nhìn ngoài mới thấy chị đúng là trẻ quá đi mất.” Câu này trước là giải thích việc chúng tôi chưa từng gặp nhau, lại tiện thể nịnh đầm, gạt bỏ nghi ngờ. Vợ Diêm Sơn Xuyên bị tôi quay mòng mòng, bèn đặt thức ăn sang một bên, ngượng ngập đáp, “Cái anh Xuyên này, chẳng báo trước cho tôi gì cả, biết trước tôi đã mua thêm thức ăn rồi.” “Không cần đâu, thằng em có việc phải đi ngay đây.” Tôi xua tay, song không hề cất bước. Vợ Diêm Sơn Xuyên vừa nghe nói tôi phải đi, vội giữ lại nói cậu mất công đến tận đây đưa đồ, ít ra cũng phải ở lại ăn bữa cơm đã chứ. Nói được câu này, chứng tỏ cô ta đã bớt nghi ngờ quá nửa, tiếp theo đây tôi chỉ cần khăng khăng đòi ra về, cô ta sẽ đãi bôi mấy câu rồi tiễn tôi ra ngoài, thế là coi như qua ải. Dân buôn đồ cổ ít nhiều đều có năng khiếu diễn xuất, mấy mánh lới này đem ra lừa người thường dễ như bỡn. Tôi thầm thở phào nhẹ nhõm, nhẩm tính xem lúc nào đứng dậy ra về thì vừa. Ngờ đâu ngoài cửa lại có tiếng lạch cạch, tôi và vợ Diêm Sơn Xuyên nhất loạt quay ra nhìn thì thấy một người trung niên mở cửa bước vào, chính là Diêm Sơn Xuyên. Lần này dù tôi tâm lý vững, cũng không khỏi phát hoảng. Ông trời thật khéo trêu ngươi, mọi ngày vợ chồng nhà này lúc nào cũng đúng giờ, sao hôm nay lại nối nhau về sớm thế cơ chứ. Thấy trong nhà có người lạ, Diêm Sơn Xuyên liền dừng bước, nhìn tôi chằm chằm. Tôi biết nếu để anh ta có thời gian suy nghĩ thì chưa đầy hai giây, tôi sẽ nguy to. Cái khó ló cái khôn, tôi săm soi anh ta như xem đồ cổ, thấy mặt anh ta đỏ gay như vừa uống rượu, bèn nghĩ ngay ra một cách, bước tới cao giọng nói, “Sơn Xuyên! Anh mãi không bỏ được thói rượu chè, thảo nào bao năm không lên chức nổi!” Nghe câu này, Diêm Sơn Xuyên rùn vai, lộ vẻ ngượng ngập, quả nhiên đã bị tôi nói trúng tim đen. Thực ra chuyện này rất dễ thấy. Trong nhà bày khá nhiều bình rượu, ảnh cưới còn bị rơi vỡ, lại thêm vừa rồi Diêm Tiểu Quân nói bố mẹ hay cãi vã, chứng tỏ vợ chồng nhà này xung đột liên miên. Một nhà báo trung niên làm trong cơ quan nhà nước mà lại sống trong căn nhà cấp bốn bé bằng lỗ mũi thế này, rõ ràng là ở cơ quan cũng chẳng có vai vế gì. Nỗi bất đắc chí của Diêm Sơn Xuyên, dù không phải nguyên nhân chính gây ra mâu thuẫn gia đình, song cũng góp một phần không nhỏ. Giờ mới sáu giờ, Diêm Sơn Xuyên đã uống tây tây quay về, nhất định không phải là do thù tạc tiếp khách, mà rất có khả năng tự đi uống rượu giải sầu. Tổng hợp các manh mối lại, tôi đánh bạo dấn thêm một bước, đánh trúng ngay chỗ yếu của anh ta. Được đà, tôi rảo bước đến gần, nói nửa như khuyên nhủ, nửa như trách móc, “Chị nhà vất vả nuôi Tiểu Quân lớn ngần này, anh là trụ cột trong nhà, cũng phải cố mà phấn đấu chứ.” “Cậu là..” Diêm Sơn Xuyên ngớ ra. Tôi vội vàng cắt ngang, không để anh ta nói hết, “Phải, tôi là người ngoài, nhưng có những lời phải để người ngoài nói mới được!” Đoạn tôi ghé tai Diêm Sơn Xuyên nói nhỏ, “Bà chị phát hiện ra đống tạp chí dưới gầm giường rồi đấy.” Diêm Sơn Xuyên trợn mắt, cuống cà kê, lắp bắp nói là do Đại Chung đưa. Vợ anh ta nhướng mày, đã đánh hơi thấy mùi không ổn. Tôi thở dài trỏ chị vợ nói, “Anh đi mà giải thích với chị ấy, tôi xin chịu.” Câu này cực ác, bởi tôi cố tình ăn nói lập lờ, nếu vợ chồng họ đang sẵn mâu thuẫn thì sẽ tự động vận vào. Quả nhiên chiêu “dẫn lũ về Đông” phát huy tác dụng, vợ Diêm Sơn Xuyên sầm mặt, chưa chừng đã nghĩ tới chuyện cũ nào đó. Diêm Sơn Xuyên định giải thích, song chẳng biết phải nói từ đâu. Tôi chớp thời cơ hầm hầm đi thẳng ra ngoài, còn cố ý sập cửa thật mạnh. Ra khỏi đó rồi, tôi cắm cúi đi thẳng một mạch về nhà trọ Ái Dân, chẳng dám quay đầu lại nữa. Bước vào phòng, tôi ngồi phịch xuống ghế, giờ mới thấy lưng đã ướt đẫm mồ hôi. Nói thực lần này tôi cũng hơi ác, tôi và tay họ Diêm đó xưa chẳng thù nay không oán, vậy mà lại lôi anh ta ra đỡ đạn thay mình, song chẳng làm sao khác được, đành xem sau này có cách nào đền bù lại không thôi. Tôi ngồi thừ ra xô pha, chờ cho hơi thở bớt dồn dập mới đứng dậy cầm phích rót lấy một cốc nước ấm, bình ổn lại tâm trạng. Hôm nay cũng không thể nói là không thu hoạch được gì. Quan sát phản ứng của ba người nhà họ Diêm khi thấy tôi thình lình xuất hiện, có thể thấy họ không liên quan gì tới Lão Triều Phụng hay đường dây làm giả đồ cổ. Hoặc là Mắt Trố cố tình cho địa chỉ giả, hoặc là Lão Triều Phụng xảo quyệt, thấy có biến đã rút ngay trạm tiếp nhận ở đó về. Bất luận thế nào thì manh mối này cũng đã trở nên vô giá trị. Lưu Nhất Minh và Yên Yên nói không sai, Lão Triều Phụng quả là xảo quyệt như hồ ly, tàn nhẫn như lang sói, nhiễu nhương như chuột. Nói không chừng chính việc Mắt Trố sa lưới đã đánh động lão thu hết mọi hoạt động lại. Tôi ngán ngẩm lắc đầu. Đã đánh liều mò đến đây, bất chấp bị Minh Nhãn Mai Hoa lẫn Yên Yên trách cứ, vậy mà lại tay trắng về không. Ăn mắng là chuyện nhỏ, quan trọng là Lão Triều Phụng đã rút vào bóng tối, chẳng biết đến bao giờ mới lại tóm được đuôi lão lần nữa. Ngày nào chưa nhổ được cái dằm này, nhà họ Hứa chúng tôi còn chưa thể yên ổn. “Ông ơi, bố ơi, con phải làm gì đây?” Tôi nhìn lên trần nhà lẩm bẩm. Trần nhà loang lổ vết nước ố, vừa giống hoa văn khắc chìm trên đồ đồng vừa giống gương mặt già nua đầy nếp nhăn của ông tôi. Tôi cứ nhìn mãi nhìn mãi, hy vọng nhìn ra đáp án từ đó, mí mắt nặng dần, rồi từ từ chìm vào giấc ngủ... Ngủ suốt một đêm, chẳng có ai báo mộng cho tôi. Sáng hôm sau tôi dậy sớm, định bắt chuyến tàu gần nhất về Bắc Kinh. Nhà trọ Ái Dân nhận mua hộ vé tàu nên tôi đưa tiền cho phục vụ rồi ngồi trên xô pha cạnh quầy tiếp tân đợi lấy vé. Tiện tay tôi rút một tờ báo trên giá, bồn chồn giở ra đọc. Mới đọc được hai mẩu tin thì nghe tiếng xôn xao bên ngoài. Tôi ngẩng lên nhìn, thấy một gã Loắt Choắt mặc jacket đỏ lê lết chạy vào, trông còn khá trẻ, cổ đeo máy ảnh lủng lẳng. Loắt Choắt nhớn nhác, vừa vào đã luôn miệng giục báo cảnh sát. Lễ tân đang định thò đầu ra hỏi han thì rụt ngay lại, vì thấy bốn năm gã tóc dài, cởi trần mặc quần bò đang đuổi riết theo sau. Thấy lễ tân không dám phản ứng, Loắt Choắt phát hoảng, sơ ý vấp phải cây lau nhà ngã nhào, đồ trong túi áo lăn ra rơi xuống đất đánh xoảng. Nghe tiếng rơi, tai tôi bất giác dỏng lên. Âm thanh này tôi đã quá quen, là tiếng đồng, hơn nữa còn là đồng ròng! Thời cổ đồng được gọi là thanh kim, dễ phát ra tiếng nhất trong số năm thứ kim loại, nhà họ Hứa chúng tôi thuộc Bạch môn, chuyên nghiên cứu kim thạch, nên tôi đã nghe âm thanh này rất nhiều lần. Tôi đặt tờ báo xuống, nhìn xuống đất, nhận ra đó là một lư hương đồng ba chân có tai, màu đen, khá nhỏ, trông khá giống đồ cổ. Thấy lư hương rơi ra, Loắt Choắt hốt hoảng cúi xuống nhặt lên nhét vào ngực áo. Chỉ chậm lại mấy giây, vậy mà đám người kia đã đuổi kịp, tóm lấy vai cậu ta, bắt giao đồ ra. Loắt Choắt vùng vẫy dữ dội, “Tôi là phóng viên, buông tôi ra!” Mấy tên kia nổi giận, đạp cho cậu ta hai cái, “Phóng viên là cái thá gì! Mau nôn đồ mày thó ra trả chúng ông!” “Cái này là tôi mua mà!” Loắt Choắt hét lên. “Chúng ông không bán!” Tên cầm đầu móc ra một cọc tiền ném xuống đất rồi lệnh cho đồng bọn soát người cậu ta. Loắt Choắt cứng đầu nằm bò ra đất, liều mạng ôm khư khư cái lư hương, “Các người bán hàng giả. Đây là chứng cứ, không thể trả lại được!” Nghe hai chữ “hàng giả”, tôi nhíu mày, đưa mắt nhìn sang. Vừa hay chạm phải ánh mắt một tên trong bọn, hắn săm soi tôi một thoáng rồi bước đến gằn giọng hỏi, “Nhìn gì mà nhìn?” “Liên quan quái gì đến mày?” Hắn đã làm căng, dĩ nhiên tôi cũng chẳng chịu lép. “Còn một thằng bố láo nữa này!” Hắn vừa gọi, lập tức hai tên từ bên kia hùng hổ chạy sang, vây lấy tôi định đánh. Tôi sực nhận ra mình vẫn đang mặc nguyên bộ đồ nhà báo đến nhà Diêm Sơn Xuyên hôm qua, chắc chúng hiểu lầm rằng tôi cùng một bọn với cậu phóng viên nhỏ thó kia. Thấy tôi ngồi im trên xô pha, chúng tưởng tôi sợ, bèn chỉ mặt mắng, “Ngồi im đấy cho bố mày, không chúng bố đập cả mày đấy!” Vốn dĩ tôi cũng chẳng định ra tay giúp đỡ cậu kia, nhưng đám khốn kiếp này đã chọc đến tôi, tôi cũng chẳng cần khách sáo nữa. Phân biệt đồ giả, nhận biết hàng dỏm là chức trách của Minh Nhãn Mai Hoa. Trước lúc đi tôi tiện tay hành hiệp trượng nghĩa một lần, cũng không uổng tới Trịnh Châu chuyện này. Nghĩ vậy, tôi gạt tay hắn ra, cười nhạt đáp, “Giữa ban ngày ban mặt, chúng mày cướp giật ở nhà trọ Ái Dân, đồn ra không sợ lau mâm à? Người ta đã không đảo chắn, chúng mày cũng chớ ép người quá đáng, bằng không đừng trách tao đào chày lên đấy.” Đây đều là tiếng lóng trong giới chơi đồ cổ, “lau mâm” là bẽ mặt, “đảo chắn” là người bị lừa quay lại đòi tiền, “đào chày” ý nói người trong nghề phá cho sập tiệm. Nghe những lời này, hẳn chúng sẽ nhận ra tôi là người trong nghề. Quả nhiên, tên cầm đầu dịu hẳn đi, trỏ Loắt Choắt bảo, “Thằng này thó đồ của bọn tao, bị bắt tận tay. Chú mày đừng can thiệp vào, đôi bên khỏi va chạm.” “Cái lư hương kia ấy à?” “Lò Tuyên ba chính hiệu đấy! Mày bảo tội nó có to không?” Tên kia dõng dạc đáp. Nghe vậy, tôi phì cười. Lò Tuyên ba ý chỉ đồ đồng đúc ra vào năm Tuyên Đức thứ ba thời Minh. Bấy giờ hoàng đế Tuyên Đức đích thân giám sát, dùng đồng nhập từ Xiêm La, tinh luyện cả thảy mười hai lần, chất lượng cực thuần. Tổng cộng đúc ra được ba nghìn món đồ đồng, không hơn không kém, dân sưu tầm gọi là “lò Tuyên ba”. Lò Tuyên Đức mà chúng ta hay gọi, nói đúng ra chính là lò Tuyên ba. Tuy người đời sau vẫn luôn làm phỏng theo, nhưng chẳng bao giờ đạt đến trình độ chế tác như năm ấy. Bởi vậy những thứ còn lưu truyền đến ngày nay đều là báu vật hiếm thấy. Thế mà gã này cũng dám há miệng ra nói là lò Tuyên ba. Loắt Choắt nằm bò dưới đất hét lên, “Nói láo! Chúng bán hàng giả, tôi mua về làm chứng cứ định vạch mặt nên chúng muốn cướp lại.” Tôi gật đầu. Thực ra vừa rồi nghe tiếng rơi, tôi đã biết là hàng giả. Lò Tuyên Đức thật chất đồng cực thuần, khi rơi sẽ rất vang, trong khi đồ giả thường phát ra tiếng trầm đục. Huống hồ lò Tuyên Đức chính hiệu bề ngoài sẽ xỉn màu, thu liễm vào trong, giống như chỉ thấy ánh lửa trong lò chứ không bốc ra ngoài. Trong khi chiếc lò cậu chàng kia ôm lại sáng bóng, nhìn giả hết biết. Nhưng quan trọng là, phải nói thế nào mới được. Giới cổ vật xưa nay không gọi là “giả”, mà gọi là “không cũ”, “còn mới”, bởi không muốn đắc tội với người khác. Huống hồ giờ đám lưu manh này đang có ưu thế về vũ lực, không thể nói quá rốt ráo được. Tôi nghĩ ngợi giây lát, bèn cười nói, “Lò này của ông anh màu không được trầm, hơi khó bán đấy.” Thấy tôi nói năng đĩnh đạc đường hoàng, lại dùng toàn tiếng lóng trong nghề, bọn chúng cũng hơi chợn. Tên cầm đầu vẫn già mồm, “Hàng của chúng tao thật trăm phần trăm, có chuyên gia giám định rồi đấy.” “Được rồi, nếu các anh bảo cậu ta thó lò Tuyên ba, thì giá trị món hàng cũng đủ lập án rồi. Hay là thế này, chúng ta đến đồn công an trình báo, ông anh thấy sao?” Đến đây, chúng đã bị tôi chiếu tướng. Nếu đến đồn công an trình báo, chỉ cần giám định qua, cái lư hương sẽ lộ tẩy ngay; còn không tới thì ngang bằng thừa nhận đổ vấy cho cậu nhà báo kia. Đám làm giả đều vì lợi nhuận, không ham tranh hơn thua. Bị người trong nghề phá, kẻ hiểu chuyện sẽ không lằng nhằng dây dưa nữa, khỏi tự chuốc cái nhục. Tôi vốn định dọa cho chúng thấy khó mà lui, nào ngờ gã Loắt Choắt lại hùa theo, “Phải phải, đến đồn Công an đi! Bọn chúng chuyên làm giả đồ cổ, lừa gạt bao nhiêu người rồi! Không thể tha cho chúng được!” Mép tôi giần giật, chỉ muốn đạp cho cậu ta một cái, cậu đợi thoát thân hẵng nói không được à! Quả nhiên mấy tên kia nghe vậy, ánh mắt lại hung hãn hẳn lên, gã cầm đầu vung tay, “Quan tâm đếch gì lắm thế, cứ bắt thằng này nôn đồ ra đã! Còn nữa, đập luôn máy ảnh nó cho tao!” Mấy tên kia lập tức tay năm tay mười lao vào xâu xé Loắt Choắt. Đúng lúc này bên ngoài có tiếng chân rầm rập rồi ba bốn cảnh sát ùa vào. Thấy tình cảnh ấy, họ nhất loạt rút súng ra, quát bảo tất cả đứng yên. Cảnh sát nhân dân ở đây, tất cả xã hội đen đều thành hổ giấy. Đám kia thấy họng súng đen ngòm chĩa vào mình, lũ lượt quỳ xuống giơ hai tay lên ôm đầu, bao hung hăng hống hách phút chốc đã xẹp lép. “Vừa rồi ai báo cảnh sát?” Viên cảnh sát dẫn đầu hạ súng xuống nhìn quanh. “Tôi đây.” Tôi rút trong túi áo ra chiếc Motorola 3200 lắc lắc, đèn xanh đàm thoại trên máy vẫn còn nhấp nháy. Trước khi nhập cuộc, tôi đã biết chuyện này khó mà dàn xếp êm xuôi nên nhanh nhẹn bấm số gọi cảnh sát, rồi giấu điện thoại vào túi áo. Sau đó chúng tôi nói những gì, cảnh sát đều nghe rõ mồn một, tôi còn cố ý nói to tên nhà trọ Ái Dân để họ tìm đến. Bấy giờ di động còn hiếm, người bình thường không hề có khái niệm về nó. Đám người kia làm sao ngờ nổi tôi ăn mặc giản dị như thế mà trong túi áo lại giấu di động. Cảnh sát đưa tất cả chúng tôi về đồn công an gần đó. Khi viết tờ khai tôi mới biết, cậu phóng viên Loắt Choắt kia tên Chung Ái Hoa, mới ngoài hai mươi, vừa tốt nghiệp đi làm không lâu, phụ trách trang văn hóa của tờ Tin chiều Trịnh Châu. Gần đây cậu ta có chuyên đề điều tra thị trường văn vật Trịnh Châu. Cậu chàng này gan to óc bé, lần theo manh mối mò tới một cửa hàng phi pháp, định mua một món đồ giả làm chứng cứ lật tẩy chúng, nào ngờ lại sơ ý để chúng phát hiện ra, bị đuổi đánh đến tận đây. Nếu không phải tôi ra tay giúp đỡ, e rằng giờ cậu ta đã nằm thẳng cẳng trong viện rồi. Thằng nhóc này đúng là ngớ ngẩn. Những kẻ mở được hiệu đồ cổ giữa đất Trịnh Châu rồng rắn hỗn tạp này sau lưng đều phải có chỗ dựa. Huống hồ cuộc chiến thật giả trong giới đồ cổ xưa nay đều được giải quyết âm thầm với nhau, báo cảnh sát hoặc tiết lộ cho báo giới để vạch trần đều là đại kỵ, phạm vào quy củ trong giới. Lần này cậu ta chọc phải tổ ong bầu, chẳng trách bị đuổi đánh. Đám người kia bị tình nghi cố ý gây thương tích, bắt giữ người trái phép và lừa đảo, bị tạm giam, còn tôi và Chung Ái Hoa chỉ bị hỏi han vài câu là được thả. Tôi thấy đã sắp đến giờ, định quay lại nhà nghỉ lấy vé tàu về Bắc Kinh song Chung Ái Hoa cứ níu lấy tay đòi mời cơm để cảm ơn. Tôi đã toan từ chối nhưng nể tình cậu ta nài ép mãi, thiếu điều khóc toáng lên, đành phải miễn cưỡng nhận lời. Dù sao bốn giờ chiều tàu mới chạy, ăn bữa cơm cũng chẳng hề gì. Thấy tôi nhận lời, Chung Ái Hoa mừng rỡ đề nghị, để em đưa anh đi ăn mì xào thịt dê, em biết chỗ này ngon lắm. Tôi nhận ra con người Chung Ái Hoa có thể tổng kết bằng một chữ “tồ”, hoặc nói giảm nói tránh gọi là “thẳng thắn”. Cậu ta gần như không hiểu thế nào là khéo léo hoặc giấu giếm, có gì nói nấy, tâm trạng lộ hết ra ngoài mặt, tung tăng nhảy nhót. Người như thế mà đòi thâm nhập giới đồ cổ để điều tra, không lộ tẩy mới lạ. Chung Ái Hoa dẫn tôi đi vòng vèo mãi mới tới một cửa hiệu nhỏ trông khá bình thường, tên là Mì xào thịt dê Lưu Ký. Cậu ta giới thiệu, anh đừng nhìn quán này nhỏ mà lầm, nó mở lâu lắm rồi, đồ ăn ngon cực kỳ đấy. Chúng tôi ngồi chờ một lát thì phục vụ bưng lên hai bát sứ trắng to tướng, bốc khói nghi ngút, trên mặt tô mì phủ đầy tương ớt là mấy cọng rau thơm. Tôi dùng đũa trộn đều, tức thì mùi thịt dê thơm phức bên dưới xộc ngay vào mũi, khiến gân cốt toàn thân thư thái hẳn ra. Mấy hôm nay vì bận theo dõi nhà Diêm Sơn Xuyên nên tôi chẳng được bữa nào ra hồn, ngửi thấy mùi mì, bụng liền đói ngấu. Tôi cũng chẳng khách sáo nữa, cúi xuống xì xụp ăn. Ăn hết mì húp hết nước, tôi mới ngẩng lên, ợ một cái đầy thỏa mãn. Chung Ái Hoa ngồi đối diện cũng đã ăn hòm hòm, miệng bóng nhờn mỡ, ngượng nghịu rút khăn tay ra lau. “Sao sáng nay chú hung thế?” Tôi hỏi. Nhắc tới chuyện này, Chung Ái Hoa lập tức mở máy, “Thầy dạy Văn em hồi cấp ba rất thực thà, tận tụy dạy học cả đời, để dành được ít tiền, nghe người ta nói đồ cổ sinh lời, bèn tới cửa hiệu hôm nay xem thử. Mới lượn xem được mấy vòng, chợt có người ghé lại gần mách nhỏ rằng gã thấy phía sau cửa hiệu có cái lư đồng nhỏ vứt lăn lóc, ông chủ không coi vào đâu, nhưng thực ra lại là của báu, là lư Tuyên Đức, bán sang tay một cái đút túi ngay mấy trăm nghìn tệ. Thầy em hỏi lại, cơ hội vàng như thế sao anh không bắt lấy? Kẻ kia nói hôm nay không đem tiền, lại sợ mình vừa đi thì kẻ khác nẫng mất, thấy thầy em là giáo viên nhân dân, tin tưởng được nên mới tìm đến thầy. Đoạn gã xui thầy em móc tiền ra mua lấy cái lư, rồi gã sẽ trả cho ông một nửa tiền vốn, khi nào bán được giá tốt, hai bên lại cưa đôi tiền. Thầy em tin là thật, ngỡ mình lời to, vội rút tiền tích góp cả đời ra mua, tiền trao cháo múc Xong xuôi, quay lại thì chẳng thấy tên kia đâu nữa. Mời chuyên gia đến giám định, họ nói là đồ giả, thế là công sức cả đời thầy đổ sông đổ biển. Thầy tìm đến cửa hiệu nọ thì chúng chối đây đẩy rằng chẳng liên quan gì tới gã kia hết. Thầy em uất đến xuất huyết não phải vào viện, vợ cũng đổ bệnh theo, cả gia đình đang yên ổn bỗng chốc tan nhà nát cửa.” Tôi tủm tỉm cười. Chiêu này gọi là mượn hoa dâng Phật, có thể coi là mánh lừa đảo phổ biến nhất trong giới. Trông đơn giản là vậy, nhưng lại rất nhiều người mắc lỡm. Con người luôn tham lợi, thấy lợi mờ mắt, hễ nảy ra ý trục lợi, ắt sẽ sa bẫy. Đặc biệt là người ngoại đạo, lừa đâu trúng đó. “Thế nên chú mò tới cửa hiệu đó, định thay thầy rửa hận hả?” “Đâu chỉ rửa hận! Em làm đề tài này là định vạch trần hiện trạng đồ cổ giả mạo. Giờ thị trường rất loạn, hàng giả nhan nhản, nếu không lôi chuyện này ra ánh sáng, e rằng sẽ còn nhiều người nữa mắc lừa.” “Chú không sợ bị đánh như sáng nay à?” “Sợ chứ, nhưng đằng nào cũng phải có người đứng ra gánh vác chuyện này đúng không - vạch rõ chân tướng là thiên chức thần thánh của nhà báo chúng em mà.” Nói đến đây, cậu ta mân mê chiếc máy ảnh Phượng Hoàng 205 đeo trên cổ, vẻ mặt vô cùng kiên quyết. Cậu này hơi bộp chộp, nhưng tôi lại thích tinh thần trượng nghĩa vô tư chưa bị đời mài mòn của cậu ta. Chung Ái Hoa chợt nhìn tôi, nghi hoặc hỏi, “Em nghe anh nói có vẻ rất sành sỏi, anh cũng là người trong giới à?” “Ừm.” Tôi gắp một miếng sứa, nhai nhồm nhoàm. “Thế anh có biết Minh Nhãn Mai Hoa không?” Tôi cắn ngay phải lưỡi. Minh Nhãn Mai Hoa là cách gọi khác của Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, người trong giới cũng chẳng mấy ai biết cái tên này, một tay phóng viên mới ra ràng ở Trịnh Châu sao lại hay được? Thế này là thế nào? Tôi không khỏi nghi ngờ. “Đó là cách gọi cũ rồi, chú cũng biết nhiều đấy nhỉ.” Tôi vặn lại, nhìn xoáy vào cậu ta. Chung Ái Hoa lấy làm đắc chí, hào hứng khua đũa, “Để thực hiện đề tài thực trạng thị trường đồ cổ này, em đã tra cứu bao nhiêu tài liệu đấy. Dạo trước anh có nghe nói về vụ đầu Phật ngọc không?” Tôi chậm rãi gật đầu, chẳng ừ hử gì. Vụ việc đầu Phật ngọc khiến cả giới đồ cổ chấn động, nhưng bị cục trưởng Lưu ém đi nên báo chí không hề đưa tin. Có điều bấy giờ có rất nhiều phóng viên ở đó, muốn tìm hiểu chẳng thiếu gì tư liệu. Cậu ta đã có hứng thú với cổ vật thì tra được chuyện này cũng chẳng lạ. “Nghe nói chính Minh Nhãn Mai Hoa đứng sau vụ việc đầu Phật ngọc. Người ta có tận năm môn phái cha truyền con nối, giờ đổi tên thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, nắm giữ việc giám định cổ vật ở thủ đô. Anh nghĩ mà xem, năm gia tộc lớn tập trung đánh hàng giả mấy trăm năm, đúng là Thái sơn Bắc Đẩu, bảo thật là thật, bảo giả là giả, có ngầu không!” Nói đến đây, mắt Chung Ái Hoa sáng lên, chẳng khác nào Diêm Tiểu Quân thấy robot biến hình vậy. “Cậu có vẻ ngưỡng mộ họ nhỉ?” Tôi thích thú hỏi. Chung Ái Hoa vỗ ngực, “Dĩ nhiên rồi, họ là thần tượng của em đấy. Lúc thi đại học, em định đăng ký ngành khảo cổ nhưng cả nhà phản đối, mới phải chọn ngành báo chí, bằng không em đã đến Bắc Kinh đầu quân cho Minh Nhãn Mai Hoa rồi. Thực ra em cũng biết nhiều về Minh Nhãn Mai Hoa lắm, họ còn có quan hệ sâu xa với Trịnh Châu bọn em đấy nhé… ” Đang nói, cậu ta chợt cứng người lại, trợn trừng mắt, run rẩy chỉ vào tôi, “Anh... anh?” “Tôi làm sao cơ?” “Em nhớ ra rồi, anh chính là... cháu nội ông Hứa Nhất Thành, Hứa Nguyện đập vỡ đầu Phật!” Môi Chung Ái Hoa run run. Tôi thầm nhủ, mình có biệt hiệu mới từ bao giờ ấy nhỉ, rồi gật đầu liền, “Ừ, sao cậu nhận ra được thế?” Chung Ái Hoa đứng phắt dậy, chìa tay ra toan níu lấy tay tôi, “Em đúng là mù mắt chó rồi! Rõ ràng đã thấy ảnh chụp buổi họp báo, sao vừa rồi lại không nhận ra nhỉ! Anh đúng là Hứa Nguyện! Đúng là Hứa Nguyện ấy rồi!” Lần này xem như tôi đã được nếm cảm giác của các ngôi sao Đài Loan, Hồng Kông khi đến Đại Lục, chỉ thấy hai mắt cậu ta sáng rực lên như gặp thần tượng, nhiệt tình đến mức khiến người ta bối rối. Tôi vừa khó chịu vừa hả hê, anh em ơi cuối cùng tôi cũng có người hâm mộ kìa. Khách khứa xung quanh tò mò nhìn sang, tôi khó khăn lắm mới khuyên được Chung Ái Hoa ngồi xuống. Cậu ta xúc động đến đỏ mặt tía tai, rót đầy cốc bia rồi lại đứng dậy, “Anh hùng, để em kính anh một cốc!” “Ngồi xuống, ngồi xuống rồi uống.” “Em phỏng vấn anh một bài được không?” “Thôi khỏi.” Tôi vội từ chối. Tôi lén rời Bắc Kinh, nếu lại lên báo ở Trịnh Châu thì lộ hết hành tung à? “Ông anh đến Trịnh Châu chắc là có việc liên quan đến giám định đồ cổ à? Có phải anh đang điều tra một vụ động trời không?” Chung Ái Hoa háo hức hỏi, rồi chẳng đợi tôi trả lời, cậu ta đã tự cốc cho mình một cái, giễu cợt nói, “Phải rồi, đây là việc bí mật, đâu thể tiết lộ với một tay phóng viên quèn như em được.” Thằng nhóc này không phải tồ tẹt bình thường đâu. Nhìn Chung Ái Hoa, tôi chợt nảy ra một ý. Có thể thấy cậu chàng ta khá mê ngành này. Cậu ta là người bản xứ, lại đang theo đuổi chuyên đề về thị trường văn vật Trịnh Châu, nhất định trong tay nắm giữ nhiều tư liệu về việc làm đồ giả. Tìm hiểu từ chỗ cậu ta, chưa chừng lại moi được tài liệu gì về Lão Triều Phụng cũng nên. Dù tôi giỏi giám định tới đâu chăng nữa thì đến đây cũng là người nơi khác, phải có thổ địa giúp sức mới phát huy được. Rồng mạnh không thắng nổi rắn nhà là vậy. Nghĩ thế, tôi bèn bảo cậu ta bình tĩnh lại rồi nghiêm trang nói, “Tôi đến Trịnh Châu quả là có việc cần làm rõ. Tôi kể chú nghe, để chú nghĩ hộ tôi nhé.” Chung Ái Hoa kích động đến đỏ cả mặt, luống cuống rút bút bi và sổ tay trong ngực áo ra, chỉ sợ bỏ sót câu nào. Tôi bèn kể lại từ đầu đến cuối chuyện nhà Diêm Sơn Xuyên, dĩ nhiên đã giấu tên Lão Triều Phụng, chỉ nói qua loa là điều tra một đường dây làm hàng giả, đoạn hỏi, “Chú nghĩ thư làm sao gửi được đến nhà Diêm Sơn Xuyên?” Bấy giờ Chung Ái Hoa đã hơi bình tĩnh, nghe tôi nói xong bèn cắn bút, hỏi thêm mấy câu về những việc tôi gặp ở nhà họ Diêm, rồi trầm tư nghĩ ngợi. Bỗng “rắc” một tiếng, cậu ta đã cắn vỡ đuôi bút bi. Chung Ái Hoa nhổ vụn nhựa ra, cười toe toét, “Anh Nguyện ơi, em nghĩ ra rồi.” “Gì?” “Địa chỉ Mắt Trố cho anh chắc không sai đâu, mà Diêm Sơn Xuyên không biết gì cũng là thật.” “Thế chẳng phải mâu thuẫn sao?” Tôi nhíu mày. “Không mâu thuẫn, anh bỏ qua tình tiết quan trọng rồi. Thư đâu có tự bay đến nhà Diêm Sơn Xuyên được.” Nói rồi Chung Ái Hoa làm động tác đưa thư. Được Chung Ái Hoa gợi ý, đầu tôi chợt sáng hẳn ra. Đúng thế, người tiếp xúc với những đơn đặt hàng kia, ngoài Diêm Sơn Xuyên ra, còn bưu tá ngày ngày đưa thư nữa! Nếu bưu tá là người của Lão Triều Phụng, thì khi đi đưa thư, ông ta có thể giữ tất cả thư gửi đến nhà họ Diêm. Như thế, đơn đặt hàng sẽ được âm thầm đưa đến xưởng. Dù cảnh sát có chú ý đến địa chỉ này, muốn điều tra kẻ làm giả, đầu tiên cũng sẽ nhằm vào tay Diêm Sơn Xuyên không biết gì kia, để Lão Triều Phụng có thời gian rút lui. Lão Triều Phụng sắp xếp chu đáo nhường này, có thể gọi là ẩn cư giữa chợ, tài tình hết mực. Tôi nhìn đồng hồ, thấy đã một rưỡi. Còn nửa tiếng nữa tay bưu tá kia sẽ tới nhà Diêm Sơn Xuyên đưa báo. Thấy tôi đứng dậy định đi, Chung Ái Hoa vội hỏi, “Anh muốn đi đón đầu tay bưu tá, vén bức màn làm giả cổ vật hả?” Tôi gật đầu, việc không thể chậm trễ, phải nhân lúc chúng chưa phát hiện, nắm lấy manh mối này. Chung Ái Hoa rụt rè hỏi tôi có thể cho cậu ta theo không, vẻ mặt đầy trông đợi. Tôi thoáng phân vân, nhưng lại không nỡ phụ lòng cậu ta, bèn đáp cậu đi theo cũng được, song đừng cho ai biết. Chung Ái Hoa mừng như điên, hết giơ máy ảnh lên rồi lại hạ xuống, “Em hứa. Nhưng nếu phá được vụ này, anh phải cho em đưa tin độc quyền nhé.” “Chắc chắn rồi.” Hai chúng tôi rời quán mì, đến thẳng nhà Diêm Sơn Xuyên. Cửa nhà vẫn khóa im ỉm, chẳng biết đêm qua họ cãi vã thế nào. Chúng tôi ngồi đợi gần đầu ngõ, chẳng bao lâu thì thấy một bưu tá để tóc dài chấm vai cưỡi xe đạp lọc cọc đi đến, lấy ra hai tờ báo, nhanh nhẹn đút vào thùng thư rồi đánh tay lái vòng đi. Sau xe y vắt một túi thư to tướng, bên trong đựng đủ thứ bưu phẩm. Chung Ái Hoa đưa mắt nhìn tôi ra ý hỏi, tôi phát lệnh bám theo. Chúng tôi không có thời gian gọi xe, đành phải chạy bộ. May mà tay bưu tá cứ ghé nhà này nhà kia đưa thư nên đi không nhanh, chúng tôi cũng tạm bám đuôi được. Cứ thế, chúng tôi lần theo y lòng vòng trong thành phố suốt cả buổi chiều, bưu tá đi từng đường đưa thư, chẳng có chỗ nào đáng nghi hết. Bám đuôi tay bưu tá nào có dễ dàng gì, tôi đâu phải trinh sát như Phương Chấn, chạy hùng hục theo sau y mệt đến gãy cả lưng. Trái lại Chung Ái Hoa vẫn khỏe như vâm, thỉnh thoảng còn giơ máy ảnh lên chụp tanh tách mấy tấm. Chốc chốc cậu ta lại quay sang nhìn tôi đầy ngưỡng mộ, khiến tôi ngại chẳng dám than mệt, đành nghiến răng chạy tiếp. Vừa rồi, tay bưu tá đưa một chồng bưu phẩm cho phòng Văn thư của cơ quan nọ rồi men đường cái đi tiếp. Chung Ái Hoa nhìn theo y, ngạc nhiên buột miệng, “Lạ thật.” Tôi bèn hỏi có chuyện gì. Chung Ái Hoa đáp bưu tá bình thường đều chia khu vực, mỗi người chỉ phụ trách mấy con phố cố định trong thành phố mà thôi, song vừa nãy rõ ràng y đang ở quận Kim Thủy, giờ đã sang đường, tiến vào địa phận quận Quản Thành rồi, không hợp lẽ thường chút nào. Tôi xoa cằm ngẫm nghĩ, “Nói vậy là y chạy sang khu khác là để chuyển thư đặt hàng gửi đến nhà Diêm Sơn Xuyên ư?” Nghĩ tới khả năng này, hai chúng tôi phấn khởi hẳn, vội tiến lại gần, thấy tay bưu tá băng qua đường, dừng xe trước một tòa nhà năm tầng, khệ nệ bưng một đống bưu phẩm vào, năm phút sau mới đi ra. Sau đó y không đi tiếp mà quay xe về khu Kim Thủy. Hành động này của y đã chứng minh suy đoán của chúng tôi. Chung Ái Hoa hỏi tôi tiếp theo phải làm gì, tôi bèn bảo cậu ta tiếp tục theo đuôi tay bưu tá, đưa máy ảnh để tôi vào tòa nhà kia xem thử, đến tối hẹn gặp ở tiệm mì xào Lưu Ký. Chung Ái Hoa nghiêm túc chào tôi theo kiểu nhà binh, học theo anh lính Trương Ca* rồi xoay người chạy biến. Bước qua cửa tòa nhà là đại sảnh thênh thang, cạnh hai cây cột hai bên đặt hai lọ lục bình cỡ đại. Chính giữa bày một chiếc đồng hồ để bàn cỡ lớn, phía trên còn treo một bức tranh mẫu đơn đất Lạc. Đây có lẽ là cơ ngơi của một đơn vị quốc doanh nào đó cho các công ty nhỏ thuê làm trụ sở. Tôi nhìn biển hiệu thì thấy đa phần là công ty du lịch, công ty kế toán, tư vấn pháp luật, văn phòng đại diện tại Trịnh Châu hoặc nhà xuất bản v.v... Người đến người đi vô cùng tấp nập. Tôi đi đến quầy lễ tân, làm bộ vội vã nói có một bức thư vô cùng quan trọng bị đưa nhầm, phải lấy lại ngay. Cô nàng lễ tân hết sức thông cảm với tôi, liền trỏ thùng giấy to tướng sau lưng, nói là bưu phẩm vừa đưa tới, còn chưa chia ra bỏ vào thùng thư. Tôi lục lọi tìm kiếm, chẳng thấy bưu phẩm nào ghi địa chỉ nhà Diêm Sơn Xuyên cả, bèn hỏi lễ tân đã có ai đi qua lấy thư từ chưa. Lễ tân ban đầu đáp chưa, về sau lại nói có một công ty được bưu tá đưa đến tận nơi, không để ở quầy lễ tân, nằm ở tầng bốn, tên là Công ty trách nhiệm hữu hạn Mỹ nghệ Tân Trịnh Đồ Lương. Tôi cảm ơn rối rít rồi sải bước chạy lên tầng bốn, vừa rẽ trái đã thấy nó nằm ngay đầu lối đi. Cũng lạ, các Công ty xung quanh đều treo biển màu đồng thau, giăng áp phích, trước cửa quét tước sạch sẽ. Vậy mà công ty này trước cửa lại chất đống mấy thùng các tông giấy vụn và hàng chồng giấy tờ bỏ đi, khung cửa còn dấu băng dính, trên ô cửa kính mờ đóng im ỉm dán một tờ giấy in bốn chữ “Tân Trịnh Đồ Lương”, trông đã thấy không phải công ty đàng hoàng. Thấy cái tên này, tôi biết ngay có điều ám muội. Nhà nước đã quy định rõ, chế tạo và buôn bán hàng thủ công mỹ nghệ phỏng cổ là hợp pháp, chế tạo và buôn bán đồ giả mới phạm pháp. Nhưng ranh giới giữa phỏng cổ và làm giả hết sức mong manh, thường chỉ khác ở chỗ lúc mua bán có nói rõ với nhau hay không mà thôi. Nói trắng ra là, cùng một món gốm màu thời Đường, bảo đây là hàng phỏng cổ, mời ông mua thì hợp pháp, nói rằng đào được từ Càn lăng, là bất hợp pháp. Dĩ nhiên giá cả cũng là một yếu tố quan trọng để nhận biết. Thế nên rất nhiều kẻ làm giả đã tìm cách lách luật, khoác lên cái danh hợp pháp là chế tác hàng thủ công mỹ nghệ phỏng cổ để ngang nhiên sản xuất số lượng lớn. Còn như đống đồ phỏng cổ này lưu thông trên thị trường dưới danh nghĩa nào, thì không thể tiết lộ với người ngoài được. Tôi đứng trước cửa quan sát một hồi, chưa vội gõ cửa mà quay xuống gác, lân la tán gẫu mấy câu với cô em lễ tân, tranh thủ thó trong hộp giấy một phong thư gửi đến tòa soạn báo tầng bốn, rồi lại xin một tờ giấy viết thư và một phong bì không. Tôi viết qua quýt mấy câu lên giấy, bỏ vào phong bì, đề địa chỉ nhà Diêm Sơn Xuyên, xé một con tem dán lên rồi lại lên gác. Mới gõ mấy tiếng, cửa đã hé mở, một phụ nữ ló ra nhìn tôi đầy cảnh giác. Tôi tươi cười chìa ngay hai phong thư ra, “Chào chị, tôi là người ở văn phòng luật sư tầng ba, vừa rồi lúc lên gác tôi thấy bưu tá làm rơi hai bức thư, nghĩ chắc là của chị nên đưa đến đây.” Nét mặt chị ta hơi dịu lại, nhận lấy đọc lướt qua bì thư rồi rút bức gửi cho tòa soạn báo trả lại tôi, “Bức này không phải.” Tôi đón lấy, nửa vô tình nửa cố ý nhìn vào bên trong, “Ồ? Công ty chị làm hàng thủ công mỹ nghệ à? Tôi cũng quen mấy ông bạn, họ cần mua nhiều lắm, chị có muốn hợp tác không?” “Xin lỗi, chúng tôi chỉ sản xuất theo đơn.” Chị ta máy móc trả lời rồi đóng sầm cửa lại. Tôi cầm phong thư, nhìn chằm chằm cánh cửa đóng kín, cười khẩy giơ máy ảnh lên chụp mấy tấm. Công ty Tân Trịnh Đồ Lương này quả nhiên là một mắt xích trong đường dây làm giả của Lão Triều Phụng. Tôi như nhìn thấy một tia sáng từ trên trời rọi xuống, khóa chặt một bàn chân của Lão Triều Phụng trong bóng tối. Ngày tôi lôi lão ra ngoài sáng nhất định không còn xa nữa. Tôi trả phong thư gửi cho tòa soạn báo về quầy lễ tân rồi bỏ đi. Đến quán mì mới biết Chung Ái Hoa đã đợi từ lâu. Tôi trả máy ảnh lại cho cậu ta, để cậu ta đưa tới hiệu rửa ảnh quen gần đó rửa ra, chừng một tiếng là lấy được. Hai chúng tôi vào quán gọi hai bát canh thịt dê, hai đĩa thức ăn, vừa ăn vừa nói chuyện. Chung Ái Hoa kể, sau khi quay về bưu điện, tay bưu tá kia không tiếp xúc với ai cả mà đi thẳng về nhà, cậu ta còn ghi lại địa chỉ nhà y, tôi cũng kể chuyện về Tân Trịnh Đồ Lương cho cậu ta nghe. “Anh không nghĩ cách lẻn vào xem à?” Tôi lắc đầu, “Tôi đoán đó chỉ là nơi liên lạc, bên trong chắc chẳng có món gì giá trị đâu. Đường đột xông vào e sẽ rút dây động rừng, mất nhiều hơn được.” “Vậy tiếp theo đây anh định thế nào?” “Về Bắc Kinh báo với hội, đợi họ nghiên cứu kế hoạch tiếp theo.” Tôi đáp. “Keng” một tiếng, Chung Ái Hoa đánh rơi thìa sắt trong tay xuống bàn, kinh ngạc hỏi, “Anh về luôn à?” “Ừm.” Tôi đáp. Trước khi lên đường tôi đã tự đặt ra quy định, tìm được manh mối sẽ ngừng tay lập tức, không ham chiến. Mánh lới của Lão Triều Phụng đã bị lật tẩy, Tân Trịnh Đồ Lương lộ ra, nếu tiếp tục điều tra, e rằng phải mượn thế lực Hội. Song Hội không có quyền chấp pháp, chỉ có quyền kiến nghị, muốn động đến các ổ làm hàng giả ắt phải thông qua cục trưởng Lưu và bọn Phương Chấn, phối hợp với cảnh sát địa phương, hết sức phức tạp, không phải ngày một ngày hai mà thực hiện được. Chung Ái Hoa nhíu mày, thất vọng ra mặt, “Em cứ tưởng anh sẽ tận dụng thời cơ điều tra đến cùng chứ.” Tôi hơi không đành lòng, bèn an ủi, “Khi thời cơ chín muồi tôi sẽ quay lại, cùng lắm chỉ một tháng thôi. Yên tâm, tin độc quyền của chú không chạy đi đâu mà sợ.” Chung Ái Hoa ngả phắt ra sau, đập bàn, vẻ giận dữ như vừa bị xúc phạm, “Anh coi em là hạng gì hả? Em đưa tin là để vạch trần sự thật, không phải để tranh giành độc quyền!” “Được rồi được rồi, là anh nói sai.” Tôi vội vuốt xuôi cậu phóng viên nóng tính. Chung Ái Hoa tức giận vung tay phải lên, “Anh có biết chỉ cần chúng ta điều tra thêm chút nữa thôi, chưa chừng sẽ vạch trần được một hang ổ làm hàng giả. Đúng lúc mấu chốt thế này anh lại đòi về Bắc Kinh, hoãn lại một tháng. Trong một tháng này chẳng biết chúng lại làm ra thêm bao nhiêu đồ giả, lừa gạt bao nhiêu người. Minh Nhãn Mai Hoa các anh tồn tại chẳng phải để ngăn những bi kịch như thế xảy ra ư?” “Tôi đâu bảo là không ngăn chặn. Nhưng kẻ địch của chúng ta quá xảo quyệt, chuyện này phải thận trọng hơn mới được...” Nói được nửa chừng, tôi khựng lại, nhận ra đây chính là những lời Lưu Nhất Minh khuyên mình cách nay không lâu, quả thực mỉa mai hết sức. Chung Ái Hoa không để ý thấy tôi nhăn nhó, cậu ta cầm máy ảnh lên, cáu kỉnh xoay xoay ống kính, “Anh có biết em cứ nghĩ anh là Sherlock Holmes còn em là Watson, đi theo bên cạnh chụp lại cảnh anh giám định cổ vật, loại bỏ hàng giả không? Giờ xem ra em không có cơ hội chụp lại tư thế hiên ngang của anh khi theo đuổi sự thật rồi.” “Cũng không hẳn đâu.” Tôi hơi ngập ngừng. Nỗi thất vọng nặng nề ánh lên trong mắt Chung Ái Hoa như một đứa bé không được bố mua cho đồ chơi. Cậu ta đứng dậy, nói rành rọt từng tiếng, “Anh muốn đi, em cũng chẳng giữ nổi, chúc anh thuận buồm xuôi gió. Có điều manh mối này em sẽ tự điều tra tiếp, quyết không bỏ cuộc. Sau này thế nào thì anh cứ đợi xem trên báo.” Tôi quát khẽ, “Đừng làm bậy! Đám làm đồ giả luôn được xã hội đen bảo kê. Chú một thân một mình xông bừa vào, nguy hiểm lắm!” Chung Ái Hoa khoác máy ảnh lên cổ, ngẩng cao đầu, “Chức trách của phóng viên cũng như máy ảnh, đều là theo đuổi sự thực, tìm ra chân tướng. Em không biết gì về giám định, nhưng em tin nếu là Minh Nhãn Mai Hoa năm xưa, hẳn cũng sẽ lựa chọn giống em.” Chỉ một câu nhẹ tênh, song lại khiến tôi đờ ra tại chỗ, cứng họng. Tổ tiên họ Hứa lập ra Minh Nhãn Mai Hoa chính vì bốn chữ “trừ giả giữ thật”, vậy mà giờ lại phải nhờ người ngoài răn dạy. Nhìn cậu chàng bừng bừng nhiệt huyết ấy, tôi như thấy bóng dáng ông cha mình khi theo đuổi sự thực. Điều mà những kẻ chỉ biết đấu đá lẫn nhau trong Minh Nhãn Mai Hoa giờ đây đang thiếu, chính là khát khao sự thực, không chùn bước trước nghịch cảnh thế này. Thấy cậu ta thất vọng tràn trề, tim tôi cũng thắt lại, cảm giác như mình đã đi ngược lại tinh thần thực sự của Minh Nhãn Mai Hoa. Lặng đi hồi lâu, cuối cùng tôi thở dài, “Được, chú thắng rồi. Tôi sẽ ở lại thêm mấy ngày, chúng ta tiếp tục điều tra chuyện này.” “Thật à?” “Thật, chú ngồi xuống đi, tôi chịu chú rồi đấy.” Cơn giận thoắt chốc đã bị Chung Ái Hoa ném ra xa tuốt chín tầng trời, cậu ta cười hì hì, “Em biết ngay mà, chắc chắn anh không yên tâm để em đi một mình, đúng không nào?” Tôi ngán ngẩm giơ ba ngón tay lên, “Nhưng phải nói trước ba việc: một, chú phải nghe lời tôi; hai, hễ tình hình không ổn phải rút ngay, không được hiếu thắng; ba, chuyện này tuyệt đối không được tiết lộ cho người thứ ba, kể cả bố mẹ chú.” “Yên tâm, bọn em làm nhà báo hơi bị nhiều đạo đức nghề nghiệp đấy.” Chung Ái Hoa vỗ ngực cam đoan. Thực lòng, tôi cũng không cam tâm cứ thế bỏ đi. “Tân Trịnh Đồ Lương” như một dây dưa, hễ kéo nhẹ sẽ lôi ra được cả loạt dưa. Phải bỏ qua một manh mối hấp dẫn nhường vậy, tôi tiếc lắm chứ. Giờ đây được Chung Ái Hoa cho một lý do, tôi bèn nghĩ, điều tra thì điều tra. Chung Ái Hoa vui vẻ ngồi xuống, phấn khởi như một anh lính mới, “Vậy tiếp theo anh em mình điều tra thế nào đây? Quan sát những kẻ ra vào Tân Trịnh Đồ Lương à?” Tôi ngẫm nghĩ rồi lắc đầu. Khối lượng công việc theo cách này khá lớn, chỉ hai chúng tôi thì không thể làm được. Huống hồ Lão Triều Phụng tinh ranh là thế, hẳn đã sắp đặt vỏ bọc cho từng mắt xích trong đường dây làm ăn, ví như vỏ bọc của mắt xích đầu tiên là Diêm Sơn Xuyên. Nếu cảnh sát lần theo địa chỉ đặt hàng tìm đến nhà họ, Lão Triều Phụng sẽ chuồn ngay lập tức. Khi cảnh sát phát hiện ra vấn đề nằm ở tay bưu tá đưa thư thì manh mối đã đứt. Công ty Mỹ nghệ Tân Trịnh Đồ Lương này hẳn là vỏ bọc cho mắt xích thứ hai. Chưa gỡ vỏ bọc mà đã hấp tấp ra tay, ắt sẽ đánh rắn động cỏ. Theo tôi quan sát, Tân Trịnh Đồ Lương chỉ là vỏ bọc, không phải điểm kinh doanh, nhiệm vụ duy nhất là tiếp nhận thư từ, giữ liên hệ đơn tuyến với xưởng làm đồ giả. Lão Triều Phụng sẽ phái người gọi điện hoặc tới lấy đơn đặt hàng. Nhân viên công ty không biết điện thoại từ đâu gọi tới, cũng không biết ai đến lấy đơn hàng. Dù cảnh sát lật tung công ty này lên, cũng chẳng hỏi được gì hết. Không biết liệu Lão Triều Phụng có làm vậy không, nhưng nếu là tôi, tôi sẽ làm thế. “Vậy phải điều tra thế nào?” Chung Ái Hoa đâu ngờ lại có nhiều mối dây giăng mắc phức tạp đến vậy, nghe mà thuỗn cả mặt ra. Tôi chậm rãi húp một ngụm canh dê cay xé lưỡi, “Chú đi lấy ảnh đi đã, câu trả lời ở trong đó đấy. Tôi vốn định đem về Hội làm bằng chứng, giờ xem ra chúng ta phải tự dùng thôi.” Chung Ái Hoa phủi đít rời Lưu Ký, chẳng bao lâu sau đã quay về, cầm theo một xấp ảnh. Ảnh rửa ra rõ mồn một, tôi xem lần lượt rồi nhặt ra một tấm, bày lên mặt bàn cho Chung Ái Hoa xem. Đó là ảnh chụp cận cảnh cửa chính công ty Tân Trịnh Đồ Lương, Chung Ái Hoa gãi đầu gãi tai săm soi mãi vẫn chẳng nhìn ra vấn đề gì. Tôi bèn gõ gõ ngón tay vào mấy thùng các tông màu nâu trước cửa. “Đống giấy vụn ấy làm sao cơ?” Cậu ta ngớ ra. “Chú nghĩ kỹ mà xem. Kẻ đứng đằng sau đường dây làm hàng giả (tôi cố ý giấu không gọi thẳng tên Lão Triều Phụng trước mặt cậu ta) không chỉ phải nhận đơn đặt hàng, mà còn phải gửi hàng, huống hồ lượng hàng lại lớn. Bấy nhiêu hàng hóa tuồn ra, nếu đều gửi từ những bưu cục địa phương nhỏ thì chỉ cần điều tra sẽ tóm được ngay người gửi nên chúng buộc phải về nơi cửa ngõ giao thông như Trịnh Châu mới dễ bề chuyển hàng. Bởi vậy Tân Trịnh Đồ Lương không chỉ phụ trách nhận đơn đặt hàng, mà chắc chắn cũng gánh nhiệm vụ gửi hàng.” “Chẳng phải anh nói công ty này chỉ giữ liên hệ đơn tuyến với kẻ đứng sau thôi sao? Thế chẳng mâu thuẫn à?” “Không mâu thuẫn. Nếu tôi là kẻ kia, tôi sẽ để nhân viên của Tân Trịnh Đồ Lương làm hai việc: gửi đơn đặt hàng đến địa chỉ được chỉ định và tới nơi được chỉ định lấy hàng gửi đi. Về phần gửi cho ai, ai chuyển đến, người đó không được biết. Như vậy có thể giữ kín thông tin về kẻ làm hàng giả đến mức tối đa.” Chung Ái Hoa trợn tròn mắt, “Vậy mấy cái thùng kia…” “Trong thùng có những hạt xốp trắng nhỏ, chứng tỏ bên trong đựng đồ dễ vỡ, rõ ràng là cổ vật. Hơn nữa chú xem, mấy thùng các tông đều cùng một loại, bên ngoài cùng đề ‘Vận tải Chấn Viễn’, không thể là tiện tay nhặt về được, hẳn là thùng dùng để giao hàng số lượng lớn. Anh đoán công ty vận tải Chấn Viễn này chính là nơi phụ trách vận chuyển hàng giả.” “Nhưng nếu thống nhất dùng cùng một loại hộp, há chẳng dễ bị lần ra ư? Sao kẻ kia lại bất cẩn thế?” Tôi lắc đầu, “Công ty vận tải Chấn Viễn này tám mươi phần trăm là của chúng, chỉ phụ trách chuyển hàng từ xưởng làm giả đến Trịnh Châu thôi. Sau đó người của Tân Trịnh Đồ Lương sẽ nhận hàng, đóng bưu kiện gửi đi tiếp. Chuỗi thủ tục này nhìn thì phức tạp, song lại là cách tốt nhất để che giấu tung tích.” “Chắc nhân viên công ty kia không ngờ chúng ta lại phân tích được nhiều điều như thế từ đống giấy vụn đâu nhỉ?” Chung Ái Hoa hào hứng vỗ tay cái độp. Tôi tự hào lắc lắc ngón tay, “Chúng tính toán trăm đường, song không tính đến việc nhân viên lười biếng. Công ty này không kinh doanh nên nhân viên cũng chẳng mấy quan tâm tới việc dọn dẹp mặt tiền cho gọn gàng. Chị ta gửi hàng đi xong thì bỏ đám thùng các tông của vận tải Chấn Viễn ngổn ngang trước cửa chẳng buồn dọn, thành ra mới bị chúng ta tóm được sơ hở.” Chung Ái Hoa đập bàn thán phục, “Anh đúng là Sherlock Holmes!” “Chú làm Watson cũng khá lắm, hỏi câu nào câu nấy trúng phóc.” Tôi cười đáp. Khả năng suy đoán của tôi đều được tôi rèn từ việc giám định cổ vật. Người tinh mắt, chỉ nhìn bọt khí trên đồ gốm cũng đọc vị được vấn đề, chứ đừng nói gì mấy thùng các tông giấy vụn. “Bên vận tải Chấn Viễn cứ giao cho em!” Chung Ái Hoa liếm môi xung phong. Phóng viên địa phương như cậu ta điều tra về phương diện này dĩ nhiên sẽ thuận lợi hơn tôi, nên tôi để cậu ta thỏa sức vẫy vùng. Đáng ngạc nhiên là cậu Watson này tháo vát hơn Watson trong truyện nhiều, chưa đầy một tiếng đã có kết quả. Chung Ái Hoa nói cậu ta có bạn ở sở Công thương và sở Quản lý Giao thông, gọi mấy cú điện thoại là hỏi han được tường tận nội tình vận tải Chấn Viễn. Thì ra công ty vận tải này trực thuộc xí nghiệp quốc doanh, được tư nhân thầu, chuyên vận chuyển hàng trong phạm vi Trịnh Châu, Khai Phong và Lạc Dương. Người đứng tên họ Tôn, có điều chắc chỉ là vỏ bọc ngụy trang thôi. Chung Ái Hoa còn điều tra được địa chỉ của công ty đó, nằm ở một khu vực nửa làng nửa phố phía Tây Bắc Trịnh Châu. “Giờ hơi muộn rồi, sáng mai đợi bạn em đi làm sẽ tra được kỹ hơn.” Chung Ái Hoa ngượng ngùng nói. “Thế là đủ rồi, việc không thể chậm trễ được, giờ chúng ta đi luôn. Nếu muốn làm gì phải làm ngay, không thì đừng làm.” Tôi ra vẻ quyết đoán. Giờ trước mặt Chung Ái Hoa, tôi thường nửa cố ý nửa vô tình răn dạy vài câu vắn tắt mà đanh thép, như một người thầy vậy. Cậu này ngưỡng mộ tôi như thế, tôi có trách nhiệm uốn nắn cậu ta. Chúng tôi rời Lưu Ký, gọi một chiếc taxi. Tài xế nghe địa chỉ chúng tôi muốn đến thì rụt cổ lại, siết chặt vô lăng làu bàu, “Các anh cẩn thận đấy, công ty vận tải ấy làm ăn không đàng hoàng đâu, toàn bọn cà chớn.” Tuy không hiểu tiếng địa phương Trịnh Châu, tôi cũng biết đó chẳng phải từ tử tế gì, vội hỏi cặn kẽ, song bác tài không chịu nói. Quay sang định hỏi Chung Ái Hoa, lại thấy cậu ta đang loay hoay xoay ống kính, lắp phim, trông như sắp xông vào hang ổ địch hốt một mẻ lớn. Rời khỏi thành phố, đường sá không hề có đèn đường. Nhà cửa hai bên lúp xúp tối om, thỉnh thoảng còn thấy mấy cánh đồng và công trường lướt qua. Chạy chừng hai mươi phút thì xe đỗ lại, tài xế nói đã đến nơi. Tôi nheo mắt nhìn đằng trước, thấy một bức tường bao gạch đỏ ở bên phải đường, cao hơn 2 mét, đầu tường giăng dây thép gai và mảnh thủy tinh, còn treo một dải đèn vàng, trông như trạm gác thời xưa vậy. Nói thế nào bác tài cũng không chịu đi thêm quãng nữa, chỉ nhận nửa tiền rồi lật đật quay xe chạy thẳng. Tôi và Chung Ái Hoa dò dẫm xuống xe, lần theo tường bao đi một vòng mất chừng hai mươi phút. Có thể thấy diện tích bên trong tường bao này không nhỏ, có lẽ bao gồm tất tật cả nhà kho, phân xưởng, văn phòng làm việc, bãi đỗ xe. Lối vào duy nhất là hai cánh cổng bằng sắt tây đóng im ỉm, bên cạnh còn một tấm biển nền trắng chữ đen “Công ty vận tải Chấn Viễn thành phố Trịnh Châu”. Tôi ngẩng đầu nhìn tường bao cao ngất, không khỏi bối rối. Hai chúng tôi chẳng thể vượt nóc băng tường như các đại hiệp trong truyện chưởng được, xem ra chỉ có cách vào từ cổng chính thôi. Còn đang suy tính, tôi chợt nhận ra Chung Ái Hoa chẳng biết đã đi đâu mất, vội nhìn quanh ngó quất tìm kiếm, bỗng nghe thấy tiếng gọi khe khẽ, bèn lần đến, thấy cậu ta đang chật vật bò ra khỏi bụi cây cạnh tường. “Sao thế?” Tôi chạy đến đỡ cậu ta dậy. “Em định đi tiểu, không ngờ lại hụt chân.” Chung Ái Hoa xuýt xoa vì đau. Cậu ta xoa xoa mông, phủi sạch cỏ dại và gai góc vướng vào mình. Tôi nhìn xuống, thấy dưới bụi cỏ có một lạch nước sâu, từ chân tường bao chảy thẳng ra ngoài. Chắc Chung Ái Hoa giẫm phải lạch nước nên mới ngã nhào. Trông con lạch ngoằn ngoèo, mép lạch mấp mô, có vẻ không phải do con người đào, mà do dòng nước xói mòn nhiều năm tạo thành. Tôi vạch cây cỏ lần theo, phát hiện được một lỗ hổng to tướng dưới chân tường bao. Lỗ hổng này áng chừng một người chui lọt, những mảng tường xung quanh loang lổ bong tróc, thậm chí còn thấy cả móng. Mùi tanh tưởi từ trong lỗ bốc ra khiến tôi khịt mũi, chắc hẳn người bên trong coi đây là cống thoát nước. Tôi cúi xuống thò đầu vào nhìn thấy có thể chui lọt, bèn quay lại ra hiệu cho Chung Ái Hoa im lặng rồi làm dấu bảo cậu ta chui vào.