🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Ẩn Sun Down - Simone St. James & Thu Vân (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo BÍ ẨN SUN DOWN Tác giả: Simone St. James Dịch thuật: Thu Vân Thể loại: Trinh thám, kinh dị Nhà xuất bản:Thanh Niên Phát hành: Bách Việt Nguồn sách: Waka Năm xuất bản: 12/09/2022 Gửi tới những cô gái kỳ lạ, những cô nàng mọt sách, và cả những kẻ sát nhân. Cuốn sách này dành cho các bạn. Fell, New York Tháng Mười một, năm 1982 VIV K hi màn đêm dần trôi qua, Vivian đang ở một mình. Cô ấy cảm thấy ổn với điều đó. Cô ấy muốn như vậy. Nó là điều mà cô ấy đã khám phá ra từ khi làm ca đêm tại nơi khỉ ho cò gáy này: Ở với mọi người rất dễ dàng, nhưng ở một mình thì khó khăn. Đặc biệt là ở một mình trong bóng tối. Một người có thể thực sự ở một mình khi xung quanh không có ai ngoài bản thân cùng với những suy nghĩ của chính mình – thì người đó mạnh mẽ hơn bất kì ai khác. Sẵn sàng hơn. Chuẩn bị tốt hơn. Nhưng rồi, cô ấy vẫn tấp vào bãi đỗ xe của nhà nghỉ Sun Down ở thị trấn Fell, thuộc thành phố New York, và dừng lại, cảm nhận nhịp đập quen thuộc của nỗi sợ hãi. Cô ấy ngồi trên con xe Cavalier tồi tàn, chìa khóa vẫn cắm vào ổ, máy sưởi và radio vẫn đang chạy, chiếc áo khoác của cô ấy vẫn choàng vai. Cô ấy nhìn lên tấm biển rực rỡ có màu xanh và vàng, hai dãy phòng vuông góc tạo thành hình chữ L, và nghĩ, Mình không muốn bước chân vào nơi đó. Nhưng mình sẽ làm như vậy. Cô ấy đã sẵn sàng, nhưng cô ấy vẫn còn sợ hãi. Đã là 10 giờ 59 phút đêm. Cô ấy cảm thấy như đang khóc. Cô ấy cảm thấy như mình đang gào thét. Một cảm giác mệt mỏi và ghê tởm. Mình không muốn bước chân vào nơi đó. Nhưng mình sẽ làm như vậy. Bởi vì mình luôn luôn làm như vậy. Ngoài kia, cơn mưa đá lạnh giá bắt đầu rơi lộp bộp trên kính chắn gió. Một chiếc xe tải đang lao vút trên đường hiện lên qua gương chiếu hậu. Đồng hồ điểm qua 11 giờ, và chiếc đài radio bắt đầu phát tin tức. Một phút nữa thôi là cô ấy sẽ bị muộn giờ, nhưng cô ấy không quan tâm. Không ai có thể sa thải cô ấy. Không ai quan tâm cô ấy có đi làm hay không. Nhà nghỉ Sun Down không có quá nhiều khách lui tới, và không ai trong số họ sẽ để ý đến việc một cô nhân viên ca đêm có tới muộn hay không. Nó thường xuyên vắng vẻ tới mức khiến cho người quản lý nghĩ rằng chưa từng có chuyện gì xảy ra ở đây. Viv Delaney biết rõ điều này hơn ai hết. Sun Down chỉ mang một bề ngoài vắng vẻ. Nhưng thực chất, nó không phải như vậy. Với những ngón tay lạnh lẽo, cô ấy kéo tấm che nắng ở phía ghế lái xuống. Cô đưa tay chạm vào mái tóc đã được cắt ngắn, vuốt sáp đến dưới dái tai và xịt gôm để tạo độ phồng. Cô ấy ngắm nghía lớp trang điểm mắt của mình – đó không phải là kiểu trang điểm tông màu lạnh, tạo hiệu ứng ánh lên màu băng tuyết thường thấy ở các cô gái, mà đó là một màu tím oải hương nhẹ nhàng. Màu mắt này trông hơi hơi giống vết bầm tím một chút. Người ta thậm chí có thể dùng thêm những vệt vàng và cam để tạo nên hiệu ứng vết nám trên da, nhưng lúc này, cô ấy chẳng phiền lòng vì điều đó. Chỉ đơn giản là màu tím trên làn da mỏng manh của mi mắt kết hợp với đường kẻ mắt đậm và mi giả của cô ấy. Tại sao cô ấy lại thích trang điểm? Cô ấy cũng không thể nhớ nữa. *** Ở trên đài phát thanh, họ đang đưa tin về việc mới phát hiện một thi thể. Nạn nhân là một cô gái được tìm thấy trong một con mương trên đường Melborn, cách nơi này khoảng mười dặm. Mà thực ra nơi này cũng chẳng có gì đặc biệt cả, chỉ là một nhà nghỉ nằm ở bên cạnh đường cao tốc hai làn xe dẫn ra khỏi thị trấn Fell, đi qua vùng phía Bắc hẻo lánh của New York rồi kết thúc là Canada. Nhưng nếu như bạn đi tiếp con đường hai làn đó khoảng một dặm và rồi rẽ phải khi thấy một ngọn đèn treo lơ lửng bởi một dây điện trên cao, và đi xuôi theo con đường này rồi nối liền bởi một con đường khác, bạn sẽ tới nơi mà thi thể của cô gái xấu số đó được tìm thấy. Cô gái đó tên là Tracy Waters, lần cuối được nhìn thấy là khi rời khỏi nhà của một người bạn ở thị trấn lân cận. Mười tám tuổi, bị lột sạch quần áo và bị vứt xác xuống mương. Họ đã tìm thấy thi thể của cô gái hai ngày sau khi bố mẹ của cô thông báo rằng con gái họ đã mất tích. *** Vẫn ngồi trên xe của mình, tay của cô gái hai mươi tuổi Viv Delaney run lên khi cô ấy lắng nghe vụ việc từ đài phát thanh. Cô ấy nghĩ về cảm giác khi một người bị bỏ lại dưới cơn mưa đá lạnh buốt trút xuống làn da không còn gì che chắn. Khó mà hình dung điều đó sẽ lạnh lẽo khủng khiếp đến độ nào. Làm thế nào mà các cô gái luôn là những người có kết cục bị lột trần truồng và chết thảm giống như xác những con vật bị xe cán chết trên đường cao tốc. Chẳng quan trọng bạn sợ hãi hay cẩn thận như thế nào – việc đó luôn có khả năng xảy ra với bạn. Đặc biệt là ở nơi đây. Đó luôn có thể là bạn. Ánh mắt của cô ấy hướng về phía nhà nghỉ, tới sự phản chiếu của tấm biển neon lòe loẹt màu xanh dương và vàng đang nhấp nháy không ngừng ở trong bóng tối. CÒN PHÒNG TRỐNG. CÓ TRU YỀN HÌNH CÁP! CÒN PHÒNG TRỐNG. CÓ TRU YỀN HÌNH CÁP! Thậm chí sau ba tháng làm việc ở nơi này, cô ấy vẫn còn cảm thấy sợ hãi. Thật kinh khủng, cảm giác sợ hãi toàn phần, những suy nghĩ làm cô ấy lạnh gáy và trong sự hoảng loạn bao trùm lấy cô. Mình sẽ phải ở một mình trong vòng tám tiếng đồng hồ, một mình trong bóng đêm. Một mình với cô ấy cùng những người khác. Và mặc cho bản thân không muốn vậy, Viv vẫn tắt lò sưởi cũng như đài phát thanh – cái thứ vẫn đang nói về Tracy Waters. Cô ấy ngoảnh mặt và đẩy cửa bước ra ngoài. Bước từng bước vào trong cái lạnh. Cô thu mình sâu hơn vào chiếc áo mưa và bắt đầu băng qua bãi đậu xe. Hôm nay cô mặc một chiếc quần bò cùng một đôi giày thể thao màu xanh nước biển với dây giày màu trắng, đế giày quá mỏng để có thể chịu được sự lạnh lẽo và ẩm ướt này. Cơn mưa làm ướt mái tóc của cô ấy, còn gió làm chúng trở nên lộn xộn. Cô ấy đi xuyên qua chỗ để xe để tới chiếc cửa ghi chữ VĂN PHÒNG. Ở trong văn phòng, Johnny đang đứng đằng sau quầy, kéo khóa áo khoác lên chiếc bụng mỡ của anh ta. Anh ta có lẽ đã nhìn thấy cô ấy qua cửa sổ. “Cô lại đến muộn à?” anh ta cố tình hỏi, dù cho có một chiếc đồng hồ treo trên tường ở đằng sau anh ấy. “Năm phút,” Viv cãi lại, cởi áo khoác của cô ấy xuống. Bụng cô quặn thắt lại, cảm giác nôn nao vì hiện giờ cô đã ở bên trong văn phòng. Mình muốn trở về nhà. Nhưng nơi đâu mới là nhà? Thị trấn Fell không phải là nhà. Cả bang Illinois, nơi mà cô ấy được sinh ra, cũng không phải. Khi cô ấy bỏ nhà ra đi lần cuối cùng, sau trận tranh cãi ầm ĩ cuối cùng với mẹ, cô ấy đã định sẽ tới New York để trở thành một nữ diễn viên. Nhưng điều đó, cũng giống như tất cả những thứ khác trong cuộc đời cô tính tới thời điểm đó, đều chỉ là một phần của vở kịch mà cô ấy đóng vai. Cô ấy không biết làm cách nào để trở thành một nữ diễn viên ở New York – điều đó đã khiến mẹ cô phẫn nộ, như vậy là đủ rồi. Điều mà Viv thực sự muốn, hơn bất cứ điều gì khác, chỉ đơn giản là được di chuyển, được rời đi. Thế là cô ấy đã rời đi. Và nơi dừng chân là đây. Hẳn thị trấn Fell phải là nhà ở thời điểm hiện tại. “Bà Bailey đang ở phòng 217,” Johnny nói, lướt mắt xuống số khách ít ỏi của nhà nghỉ. “Bà ấy đang uống rượu, vì vậy hãy chuẩn bị cho một cuộc điện thoại vào bất cứ lúc nào.” “Tuyệt,” Viv nói. Bà Bailey tới Sun Down để uống rượu, có lẽ bởi vì nếu bà ấy làm điều đó ở nhà thì bà ấy sẽ gặp phải chút rắc rối. Bà ấy gọi một cuộc điện thoại tới bàn lễ tân trong lúc say xỉn để đề ra những yêu cầu mà bà ấy thường quên. “Còn ai khác nữa không?” “Cặp đôi đang trên đường tới Florida đã trả phòng,” Johnny nói. “Chúng ta có hai cuộc điện thoại chơi khăm, nhấc máy lên chỉ toàn nghe thấy những tiếng thở hổn hển. Đúng là lũ trẻ ranh ngu ngốc. Và tôi đã viết một lời nhắn tới Janice về cánh cửa phòng số một-không-ba. Có điều gì đó không ổn với nó. Nó luôn bị mở tung khi gió thổi, kể cả khi tôi đã khóa nó lại.” “Nó luôn luôn bị như vậy,” Viv nói. “Anh đã nói với Janice về nó một tuần trước rồi.” Janice là chủ nhân của nhà nghỉ này, và Viv đã không thấy bà ấy trong nhiều tuần. Có lẽ là nhiều tháng. Bà ấy sẽ không tới nhà nghỉ nếu bà ấy không có việc gì đó cần làm, và chắc chắn bà ấy sẽ không tới đây vào buổi tối. Bà ấy để những tấm séc của Vivian ở trong một chiếc phong bì và đặt nó trên bàn làm việc, và toàn bộ những liên lạc đều được xử lý qua những tờ ghi chú. Thậm chí, người chủ khách sạn này cũng không dành thời gian ở đây nếu như bà ấy có thể tránh né việc này. “Ồ, bà ấy nên sửa cánh cửa,” Johnny nói. “Ý tôi là, nó thật kì lạ nhỉ? Tôi là người đã khóa nó mà.” “Chắc chắn rồi,” Viv nói. “Thật kì lạ.” Cô đã quen với điều này. Không ai khác làm việc ở nhà nghỉ này phải chứng kiến những gì cô chứng kiến hoặc trải qua những gì cô đã trải qua. Những thứ mà cô ấy nhìn thấy chỉ xảy ra vào giữa đêm. Những nhân viên làm ca khác đều không hay biết gì. “Hi vọng rằng sẽ không có ai khác sẽ nhận căn phòng đó,” Johnny nói, chùm chiếc mũ đằng sau áo hoodie qua đầu. “Hi vọng nó sẽ yên tĩnh.” Nó sẽ không bao giờ yên tĩnh, Viv nghĩ, nhưng cô ấy nói: “Vâng, hi vọng như vậy.” Viv nhìn anh ta đi ra khỏi văn phòng, tiếng xe nổ máy vang lên và anh ta rời đi. Johnny ba mươi sáu tuổi và sống cùng với mẹ của anh ấy. Viv mường tượng hình ảnh anh ta về nhà, có lẽ là sẽ xem tivi trước khi đi ngủ. Một người đàn ông mà không bao giờ nỗ lực thêm một chút vì chính cuộc sống của anh ta, sống một cuộc đời tương đối tẻ nhạt, hoàn toàn không mang nỗi sợ hãi mà Viv đang có. Một cuộc đời mà ở đó anh ta chưa từng nghĩ về Tracy Waters, ngoại trừ nhớ lại tên cô ấy một cách mơ hồ vì đã nghe qua trên đài phát thanh. Có lẽ chỉ có cô ấy mới là người trở nên phát điên. *** Sự im lặng dần chiếm lấy không gian, chỉ thi thoảng bị phá vỡ bởi tiếng xe cộ từ trên đường Số Sáu và tiếng gió rì rào trong những hàng cây ở phía sau nhà nghỉ. Giờ đã là 11 giờ 12 phút. Đồng hồ treo trên tường đằng sau bàn làm việc điểm qua 11 giờ 13 phút. Cô ấy treo chiếc áo khoác của mình lên móc treo ở trong góc. Từ một móc treo khác, cô lấy chiếc áo vest bằng vải polyester màu xanh nước biển có thêu dòng chữ Nhà nghỉ Sun Down ở ngực trái và khoác nó trùm ra ngoài chiếc áo trắng cô đang mặc. Cô ấy kéo chiếc ghế gỗ cứng ở đằng sau quầy và ngồi xuống. Cô nhìn qua mặt bàn sứt sẹo và bị ố màu: lọ đựng bút và những chiếc bút chì, một khối vuông màu đen: thứ sẽ phát ra tiếng xoèn xoẹt khi bạn kéo tay cầm lên và xuống để lưu thông tin thẻ tín dụng, và một chiếc điện thoại quay số có màu sắc sặc sỡ. Ở giữa bàn là một cuốn sổ lớn, mở phẳng, dùng để khách ghi thông tin và ký tên khi nhận phòng. Cuốn sổ lưu trú đó được mở đến tháng Mười một năm 1982. Lấy một cuốn sổ từ trong ví ra, Viv rút chiếc bút từ giữa những trang giấy, mở cuốn sổ lên bàn làm việc, và viết. Ngày 29 tháng Mười một Cánh cửa phòng 103 lại bắt đầu mở ra một lần nữa. Những cuộc gọi chọc ngoáy. Không có ai ở đây cả. Tracy Waters đã chết. Một âm thanh phát ra từ bên ngoài, cô ấy dừng lại, hơi ngẩng đầu lên nhìn. Một tiếng rầm, lại một tiếng rầm nữa. Nhịp nhàng và hoang dã. Cánh cửa phòng 103 bị mở bung và đập vào tường vì cơn gió. Lại một lần nữa. Trong một khoảnh khắc, Viv nhắm mắt lại. Nỗi sợ hãi đã xâm chiếm lấy cô theo từng đợt, nhưng hiện giờ cô ấy đã chìm quá sâu vào nó. Cô ấy đã ở đây. Cô ấy phải sẵn sàng đối mặt với chuyện này. Nhà nghỉ Sun Down đã chiếm trọn buổi tối của cô ấy. Cô ấy hạ chiếc bút xuống. Sẽ ra sao nếu như mọi thứ tôi đã thấy, mọi thứ tôi nghĩ về, đều là thật? Bởi vì tôi nghĩ nó là thật. Mắt cô liếc sang cuốn sổ lưu trú rồi ghi tên vào đó. Cô chỉ dừng lại khi đồng hồ trên tường kêu tích tắc ở đằng sau, rồi sau đó cúi xuống viết tiếp. Những con ma luôn thức giấc vào buổi đêm. Không hề ngơi nghỉ. Tôi nghĩ điều này sẽ kết thúc sớm thôi. Cô cố gắng giữ cho bàn tay mình khỏi run rẩy. Tôi rất xin lỗi, Tracy. Tôi thất bại mất rồi. Một âm thanh nhỏ thoát ra từ vòm họng, nhưng cô ấy cố nén nó vào bên trong. Cô ấy đặt bút xuống và dụi mắt, một ít phấn mắt màu oải hương vương trên đầu ngón tay. Ngày 20 tháng Mười một, năm 1982, vào lúc 11 giờ 24 phút đêm. Gần 3 giờ sáng, Viv Delaney đã đột ngột bốc hơi. Đó mới chỉ là sự khởi đầu. Fell, New York Tháng Mười một, 2017 CARLY N ơi này thật xa lạ. Tôi mở to đôi mắt, nhìn chằm chằm vào trong bóng tối và cảm thấy hoảng sợ, Chiếc giường lạ lẫm, căn phòng lạ lẫm, ánh sáng lọt qua ô cửa sổ cũng lạ lẫm. Tôi đã có một phút chìm trong cơn ác mộng, thứ khiến tôi vừa cảm thấy sợ hãi, vừa cảm thấy phấn khích. Rồi sau đó tôi nhận ra: Mình đã ở thị trấn Fell, thành phố New York. Tôi là Carly Kirk, hai mươi tuổi, và đáng lẽ ra tôi đã không sống ở đây. Tôi kiểm tra điện thoại của mình ở trên tủ đầu giường; đã là 4 giờ sáng, chỉ có ánh sáng từ đèn đường và biển hiệu nhà hàng mở cửa hai tư giờ Denny’s chiếu xuyên qua tấm rèm che cửa sổ phòng và tạo thành một ô vuông mờ ảo trên tường. Giờ tôi không thể quay lại giấc ngủ được nữa. Tôi xoay chân qua cạnh giường, đưa tay với lấy cặp kính trên kệ tủ và đeo lên. Tôi đã lái xe từ bang Illinois đến đây ngày hôm qua, một quãng đường đủ dài để khiến tôi mệt mỏi đến mức ngủ như chết trong cái khách sạn vô danh nhạt nhẽo ở thị trấn Fell này. Đây không phải là một nơi ấn tượng gì cho lắm; Google Earth đã chỉ cho tôi biết có thế. Trung tâm thị trấn là một mạng lưới các quán cà phê, tiệm giặt là, cửa hàng đồ cổ cũ kỹ, tòa nhà cho thuê căn hộ và hiệu sách cũ; chúng đang đang nép mình ngay ngắn ở giữa cửa hàng tạp hoá với một cửa hàng tiện lợi. Con phố mà tôi đi qua, với chuỗi khách sạn và chuỗi nhà hàng Denny’s, cắt ngang thị trấn, như thể có rất nhiều người tới thị trấn Fell và chỉ đơn giản là tiếp tục lái xe mà không rẽ ngoặt vào những chỗ còn lại của thị trấn. Tấm biển CHÀO MỪNG TỚI THỊ TRẤN FELL tôi đi qua tối qua đã bị phá hoại bởi một gã ất ơ nào đó, kẻ đã dùng bình xịt sơn để thêm vào tấm biến dòng chữ TRỞ VỀ ĐI. Tôi đã không trở về. Sau khi đeo kính vào, tôi cầm điện thoại lên lần nữa, lướt qua những e-mail và tin nhắn được gửi tới trong lúc tôi đang ngủ. E-mail đầu tiên được gửi tới từ vị luật sư của gia đình chúng tôi. Phần còn lại của quỹ đã được gửi vào tài khoản của cô. Vui lòng xem bảng phân tích được đính kèm. Tôi đã lướt qua nó mà không đọc phần còn lại, không mở luôn cả tệp đính kèm. Tôi không cần phải xem nó; tôi biết rõ ràng tôi được thừa kế một số tiền từ mẹ, sau khi chia tài sản với anh trai tôi, Graham. Tôi biết rằng cũng chẳng nhiều nhặn gì, nhưng nó cũng đủ giúp tôi sống qua ngày trong một thời gian. Tôi không thích những con số, thế nên tôi chẳng buồn nhìn vào chúng. Sau cú sốc vì sự ra đi của mẹ – bà mất vì căn bệnh ung thư khi mới năm mươi mốt tuổi – những thứ như là tiền đã trở nên phù phiếm và ngu ngốc đối với tôi. Sự thật là, nó khiến bạn phải suy nghĩ lại về mọi thứ trong cuộc sống. Đó cũng chính là thứ khiến tôi đưa ra một quyết định điên rồ sau mười bốn tháng chìm trong tuyệt vọng và đau khổ đến cùng cực. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không thể ngừng lại được việc tự xem xét lại mọi thứ trong đời mình. Có một loạt những mẩu tin nhắn đứt quãng được gửi đến từ Graham: Em nghĩ em đang làm gì vậy, Carly? Rời trường đại học? Trong bao lâu? Em nghĩ em có thể theo kịp sao? Mà thôi, sao cũng được. Nếu như toàn bộ số tiền học bị lãng phí, em sẽ phải tự xoay sở lấy. Em biết điều đó, phải không? Bất kể điều em đang làm là gì, chúc em gặp may. Cố gắng đừng để bị giết. Tôi ấn nút trả lời và nhắn: Này, ông hoàng sân khấu. Chỉ mất mấy ngày thôi mà, và em vẫn đang lo liệu tốt mọi thứ. Đây chỉ là một chuyến đi nhỏ, bởi vì em quá tò mò. Anh có giỏi thì chỉ ra chỗ sai của em đi. Em sẽ ổn thôi. Không có dự định bị giết, nhưng cảm ơn anh vì đã quan tâm nhé. Sự thật là, tôi đang hi vọng sẽ ở đây lâu hơn là một vài ngày. Kể từ khi mất đi Mẹ, việc ở lại trường để lấy tấm bằng Kinh tế dường như trở nên vô nghĩa. Khi tôi bắt đầu học đại học, tôi đã từng nghĩ rằng tôi có rất nhiều thời gian trên đời này để tìm hiểu xem mình muốn gì. Nhưng, cái chết của mẹ đã chứng minh cho tôi thấy rằng cuộc sống này không hề dài lâu như những gì chúng ta nghĩ. Và tôi đã có những câu hỏi mà tôi muốn có câu trả lời. Đây là lúc để tìm ra chúng. Vị hôn thê của Graham, chị Hailey, đã tự mình gửi tin nhắn cho tôi: Này! Em ổn chứ?? Chị lo cho em lắm. Chị luôn ở đây nếu em muốn nói chuyện. Có thể em cần một nhà trị liệu tâm lý và cảm xúc khác? Chị có thể tìm cho em một người! Được không? Ôm hôn em! Chúa ơi, chị ấy tốt thật. Tôi đã đi trị liệu tâm lý và cảm xúc. Liệu pháp tâm lý. Hồn hoàn. Yoga. Thiền. Tự chăm sóc bản thân. Trong khi làm tất cả những điều đó, tôi nhận ra rằng những buổi trị liệu không phải thứ tôi cần. Về lâu về dài, những gì tôi thực sự cần, chính là những câu trả lời. Tôi đặt điện thoại xuống và mở chiếc máy tính xách tay của mình lên, gõ gõ để đánh thức trạng thái ngủ. Tôi mở tệp tài liệu ở màn hình chính và lướt qua các mục. Tôi chọn ra một bản quét của một tờ báo từ năm 1982, với tiêu đề CẢNH SÁT ĐANG TÌM KIẾM NGƯỜI PHỤ NỮ ĐỊA PHƯƠNG MẤT TÍCH. Bên dưới tiêu đề là bức ảnh chụp một người phụ nữ trẻ, được cắt ra từ một tấm ảnh chụp nhanh. Cô ấy xinh đẹp, hoạt bát, hay cười trước ống kính, mái tóc buông xoã, phần tóc mái của cô ấy được vuốt ngược lên qua trán trong khi phần tóc còn lại xoã xuống trông giống như phong cách cổ điển của những năm tám mươi. Làn da của cô ấy trắng sáng cùng với đôi mắt lấp lánh, kể cả khi trong một bức ảnh chỉ có hai màu đen trắng. Chú thích bên dưới bức ảnh cho biết: Vivian Delaney, hai mươi tuổi, đã biến mất kể từ đêm ngày 20 tháng Mười một. Bất kể ai thấy cô ấy đều được yêu cầu gọi điện trình báo cảnh sát. Điều này. Điều này chính là câu trả lời mà tôi cần. Tôi là kẻ mọt sách suốt cả cuộc đời mình, luôn chúi mũi vào một cuốn sách nào đó. Ngoại trừ lần tôi đọc xong cuốn sách The Black Stallion, những cuốn sách tôi đọc đều có nội dung u tối – về những thứ đáng sợ như mất tích hay giết người, đặc biệt là những truyện có thật. Trong khi những đứa trẻ khác đọc J. K. Rowling, thì tôi đọc Stephen King. Trong khi những đứa trẻ khác làm bài tập lịch sử về cuộc nội chiến, thì tôi đọc về Lizzie Borden. Bản tường thuật mà tôi viết về nó – được hoàn chỉnh bởi những chi tiết chính xác nơi mà chiếc rìu giáng xuống cha và mẹ của Lizzie – đã khiến cho cô giáo tôi phải gọi cho mẹ tôi đầy lo lắng. Carly vẫn ổn chứ? Mẹ tôi gạt nó đi, bởi vì đến lúc đó bà ấy mới biết đời sống nội tâm của con gái mình đen tối như thế nào. Con bé ổn. Con bé chỉ là thích đọc về thể loại giết người, vậy thôi. Điều mà mẹ không đề cập tới – thực ra là rất ghét phải nói tới – chính là việc tôi đến với sở thích đó một cách hoàn tự nhiên. Đơn giản là có một vụ giết người chưa được giải quyết ở trong gia đình tôi, và tôi đã bị ám ảnh trong một khoảng thời gian dài. Tôi ấn vào mẩu báo được cắt ra một lần nữa. Viv Delaney, cô gái ở trong tấm ảnh, là chị gái của mẹ. Vào năm 1982, bà ấy biến mất trong lúc làm việc ca đêm tại nhà nghỉ Sun Down và từ đó không ai thấy bà ấy nữa. Biến cố này tạo ra một sự hụt hẫng ghê gớm trong gia đình tôi, là điều mà tất cả mọi người đều hiểu nhưng e ngại nhắc đến. Sự mất tích của Viv là một nỗi mất mát không thể phủ nhận. Đừng bao giờ hỏi mẹ con về chuyện đó, bố tôi đã nói như vậy vào một năm trước khi ông ấy qua đời. Bố sợ làm bà ấy tổn thương. Thậm chí anh trai của tôi, tên phiền phức ấy, cũng khá nhạy cảm về chuyện đó. Chị gái của mẹ đã bị giết, anh ấy nói với tôi như vậy. Ai đó đã bắt cóc và giết hại bà ấy, giống như gã sát nhân với chiếc lưỡi câu. Nó khiến anh thấy sợ hãi. Hèn gì mẹ không hề nhắc tới chuyện đó. Bác Viv của tôi đã mất tích suốt ba mươi lăm năm. Cả ông và bà ngoại của tôi đều đã không còn nữa. Không hề có những bức ảnh chụp bác Viv trong nhà của chúng tôi, cũng chẳng còn lại kỷ vật nào về bác ấy. Cái năm trước khi mẹ mất, tôi về nhà vào kỳ nghỉ hè, tôi đọc được một bài viết trên mạng và đó là lần đầu tiên tôi được thấy mặt bác Viv. Tôi cứ tưởng thời gian trôi qua đủ lâu để làm phai nhạt đi nỗi đau, thế nên tôi đã in mẩu báo được cắt ra và đưa cho bà ấy xem. “Hãy xem con tìm được gì này,” tôi nói. Mẹ đang ngồi trên ghế sô pha ở trong phòng khách, xem Tivi sau bữa tối. Bà ấy lấy mẩu báo từ tay tôi và đọc nó. Bà nhìn chằm chằm vào bức ảnh và dường như không thể rời mắt khỏi nó. Bà quay lại nhìn tôi, một ánh mắt kì lạ mà tôi chưa từng thấy trước đây và cũng không bao giờ được thấy thêm một lần nữa. Đau đớn, có lẽ vậy. Kiệt quệ. Một nỗi sợ hãi khắc sâu, già cỗi và mục nát. Vào thời điểm đó, tôi không hề hay biết rằng bà ấy đang mắc ung thư, rằng tôi sẽ chỉ còn ở bên bà ấy chưa đầy một năm nữa. Có lẽ lúc đó bà ấy đã biết và không nói cho tôi, nhưng tôi không cho là như vậy. Ánh mắt ấy, nỗi sợ ấy, đều là về bác Vivian. Cuối cùng bà ấy cũng cất tiếng nói, một giọng nói đều đều, không nhấn nhá. “Vivian chết rồi,” bà ấy nói, đặt mẩu báo xuống, đứng dậy và rời khỏi phòng. Tôi không nhắc đến chuyện đó trước mặt mẹ thêm một lần nào nữa. *** Chỉ sau khi mẹ mất thì tôi mới phát cuồng lên. Không phải với mẹ, thật sự – bà ấy đang là trẻ vị thành niên khi bác Viv mất tích, bà ấy đâu thể làm được gì nhiều. Nhưng còn những người khác thì sao? Cảnh sát? Những người dân địa phương? Ông bà ngoại tôi? Tại sao họ lại không nỗ lực tìm kiếm trên toàn tiểu bang? Tại sao người ta lại để bác Viv biến mất một cách bặt vô âm tín như thế? Người đầu tiên tôi hỏi chuyện là anh Graham, người lớn tuổi hơn tôi và nhớ nhiều chuyện hơn tôi. “Ông bà ngoại đã ly hôn từ trước đó,” Graham nói. “Khi bác Viv mất tích, bà ngoại chỉ là một người mẹ đơn thân.” “Thế thì sao? Thế thì bà ngoại không cần phải tìm kiếm đứa con gái mất tích của mình à? Còn cả ông ngoại nữa?” Graham nhún vai. “Bà không có nhiều tiền. Mẹ nói với anh rằng bà ấy và bác Viv từng cãi nhau suốt ngày. Họ không hợp nhau chút nào.” Tôi nhìn chằm chằm vào anh ấy và hoàn toàn bị sốc. Chúng tôi đang trong căn nhà mà mẹ từng thuê để đóng gói vài vật dụng của bà ấy, hai anh em tôi đang nghỉ tay và ăn nhẹ. “Mẹ kể với anh thế à? Bà ấy chưa từng nói với em như vậy.” Anh trai tôi nhún vai thêm lần nữa, dựa lưng vào thùng đồ và lướt điện thoại. “Hồi đó họ không có Internet hay xét nghiệm ADN. Nếu em muốn đi tìm một người bị mất tích, em phải lái xe, chạy quanh quanh để đi tìm. Bà không thể bỏ làm và đi tới thị trấn Fell. Và ông thì đã tái hôn vào thời điểm đó. Anh không nghĩ ông ấy bận tâm quá nhiều về họ đâu.” Điều đó là sự thật. Mẹ tôi không có mối quan hệ quá tốt với ông ngoại, người đã để cho gia đình của chính mình sống nay chết mai mà không ai hay. Mẹ thậm chí còn không tới viếng đám tang của ông. “Thế còn cảnh sát thì sao?” Tôi nói. Graham bỏ điện thoại của anh ấy xuống và suy nghĩ lại. “Ồ, bác Viv đã rời khỏi nhà khi bác ấy hai mươi tuổi,” anh ấy nói. “Anh đoán họ nghĩ rằng bác ấy chỉ đang đi đâu đó.” Anh ấy nhìn tôi. “Em thực sự rất hứng thú với chuyện này phải không?” “Đúng vậy, em thực sự rất hứng thú với nó. Họ thậm chí đã không tìm thấy thi thể. Giờ không còn là năm 1982 nữa. Giờ chúng ta có Internet và xét nghiệm ADN. Có lẽ điều gì đó sẽ khác đi.” “Bởi em?” Đúng thế, bởi tôi. Dường như cũng không thể là ai khác ngoài tôi. Giờ mẹ đã mất, tôi có thể hỏi bất cứ điều gì mà không làm tổn thương bà ấy. Mẹ đã mang theo toàn bộ những ký ức về bác Viv khi bà ấy qua đời, những điều tôi chưa từng nghe. Sự tức giận của tôi về chuyện đó trở nên không thể cứu vãn nổi, một điều mà cả nhà trị liệu và nhà cố vấn đều nói rằng tôi phải vượt qua. Nhưng sự tức giận của tôi về những người khác, lòng phẫn nộ khi sự biến mất và cái chết của bác tôi bị coi nhẹ, tất cả như chỉ mới xảy ra ngày hôm qua – tôi chỉ có thể vượt qua chuyện đó bằng việc tới thị trấn Fell và tự tìm kiếm câu trả lời của riêng mình. Tôi ấn vào trang báo khác mà tôi lưu trữ ở trên máy tính cá nhân của mình. Tiêu đề của bài báo chỉ đơn giản là CÔ GÁI MẤT TÍCH VẪN CHƯA ĐƯỢC TÌM THẤY. Chi tiết của bài báo khá sơ sài: Viv hai mươi tuổi; sống tại thị trấn Fell trong vòng ba tháng; nhân viên ca tối ở nhà nghỉ Sun Down. Cô ấy đi làm và thi thoảng biến mất vào giữa ca làm, cô ấy đã để lại xe, ví và những vật dụng cá nhân của cô. Bạn cùng phòng của cô ấy, một cô gái tên là Jenny Summers, nói rằng bác Viv là “một người tốt bụng, dễ dàng để làm quen.” Viv còn được miêu tả – bởi một người không được đề cập tới – là “xinh đẹp và hoạt bát”. Không ai có thông tin gì về bạn trai cô ấy. Cô ấy không sử dụng chất gây nghiện hay đồ uống có cồn. Mẹ cô ấy – tức là bà ngoại tôi – được được cho là “lo lắng đến mức ngã bệnh.” Cô ấy là một cô gái xinh đẹp, đã ra đi. Chân trần. Không có bất cứ đồng nào trong người. Vivian đã chết. Trường hợp của bác Viv không nhận được sự chú ý đến từ truyền thông quốc gia hay thậm chí đến từ truyền thông tiểu bang. Tờ báo địa phương của thị trấn Fell không được số hóa – các thông tin chỉ được lưu trữ bằng giấy tờ tại thư viện. Khi tôi bắt đầu khai thác chúng, tất cả những gì tôi tìm thấy là những blog về những vụ phạm tội có thật và những chủ đề trên Reddit bởi những vị thám tử chỉ biết xét đoán mọi thứ qua tài liệu. Không có một bài blog hoặc một chủ đề nào là về bác Vivian, nhưng lại có rất nhiều trong số những bài này viết về thị trấn Fell. Bởi vì thị trấn Fell, hoá ra là, có nhiều hơn một vụ giết người chưa được giải quyết. Với một nơi nhỏ bé như thế này, đây quả thực là thiên đường cho những người ưa thích tìm hiểu những vụ án có thật. Bài báo thứ hai nằm trong đống tư trang của mẹ. Tôi tìm thấy nó trong khi dọn tủ quần áo của mẹ sau khi bà ấy qua đời, nó nằm trong một chiếc bao thư ở đằng sau ngăn kéo. Một chiếc bao thư màu trắng, sắc nét và mới tinh. Đằng sau bao thư là dòng chữ viết tay đáng yêu của mẹ: Số 27 phố Greville, dãy nhà C. Có lẽ đó là địa chỉ của bác Viv chăng? Mẩu báo ở trong chiếc bao thư này đang mủn dần, vì vậy tôi đã chụp lại nó lại và coi như đây là thứ đầu tiên mà tôi tìm thấy. Vivian đã chết Mẹ không còn muốn nhắc tới những kỷ niệm về cô em gái và tuyệt đối tránh bàn luận, nhưng rồi bà ấy vẫn giữ bài báo này suốt ba mươi lăm năm qua cùng với địa chỉ. Bà ấy thậm chí đã bỏ nó vào chiếc bao thư mới, chép lại dòng địa chỉ; điều đó có nghĩa là bà ấy đã bỏ bài báo ra khỏi chiếc bao thư cũ và có lẽ đã đọc nó một lần nữa. Bác Viv có thật. Bác ấy không phải một câu chuyện kinh dị hay một câu chuyện ma. Bác ấy có thật, bác ấy là chị gái ruột của mẹ – và khi nhìn vào chiếc bao thư trắng mới cứng, tôi biết rằng bác ấy quan trọng đối với mẹ, rất nhiều, theo một cách nào đó mà tôi đã đánh mất cơ hội để thấu hiểu. Đây là tất cả những gì mà tôi có: hai bài báo và một kỷ niệm đau buồn. Nhưng bây giờ tôi đã có nhiều hơn thế, tôi có một chút tiền và tôi có một bản đồ cực kỳ rõ ràng từ bang Illinois tới thị trấn Fell, New York. Tôi có địa chỉ căn hộ, đó có thể là của bác Viv, và nhà nghỉ Sun Down nữa. Tôi không có bạn trai và cũng không theo đuổi một sự nghiệp mong ước. Tôi có một chiếc xe ô tô với số đồ đạc ít ỏi tới nỗi chúng để vừa vặn ở ghế sau. Tôi hai mươi tuổi và vẫn còn chưa bắt đầu sống cuộc sống của mình. Cũng giống như bác Viv vậy. Vì vậy tôi đã bỏ học – Anh Graham thực sự coi đây là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng – rồi thực hiện chuyến đi xa của mình. Và giờ tôi ở đây. Tôi thích việc lang thang xung quanh thị trấn và vùi mình vào đống tờ báo địa phương ở trong thư viện. Tôi thích tự mình đi ngắm nhìn nhà nghỉ Sun Down, vì theo thông tin trên mạng thì nó vẫn hoạt động. Có lẽ người nào đó đã sống ở đây sẽ biết đến bác Viv, nhớ ra bác ấy, rồi kể cho tôi nghe về bác. Có lẽ tôi có thể khiến cho bác ấy không còn mờ nhạt như mẩu giấy in báo phai màu được giấu ở trong ngăn kéo của Mẹ. Sự biến mất của bác ấy là một bí ẩn lớn nhất của gia đình tôi – tôi muốn được tận mắt chứng kiến, và tất cả những gì mà tôi phải trả giá cho chuyện này chỉ là vài ngày nghỉ học. Đừng để bị giết. Anh trai tôi là vậy, luôn cố gắng hù dọa tôi. Nhưng nó không hiệu quả. Tôi không dễ dàng bị hù dọa như vậy. Tuy nhiên, khi đóng chiếc máy tính xách tay lại thì những ám ảnh lại hiện lên: người phụ nữ xấu số trong bức ảnh đã chịu những đau đớn như thế nào, ai đó đã bắt cô gái hai mươi tuổi ấy rồi lôi đi đâu đó, có thể là làm chuyện gì đó đồi bại rồi giết chết cô. Vứt xác cô ấy ở một nơi nào đó đơn độc, nơi mà có lẽ cô ấy vẫn còn ở đó. Có lẽ giờ đây cô ấy chỉ còn lại một bộ xương khô. Có lẽ tên sát nhân đó, dù hắn có là ai đi chăng nữa, giờ có thể đã chết hoặc là ở trong tù. Nhưng cũng rất có thể là chưa. Vivian đã chết. Thật không công bằng khi bác Vivian bị lãng quên, chỉ còn lại vài mẩu báo in và không có bất cứ thứ gì khác. Thật không công bằng khi mẹ ra đi rồi mang theo những ký ức và cả nỗi buồn theo cùng bà ấy. Thật không công bằng khi bác Viv không còn quan trọng với bất cứ ai ngoài tôi. Tôi đã ở thị trấn Fell. Tôi không thuộc về nơi này. Tôi không biết mình phải làm gì nữa. Tôi vẫn chờ đợi, nhưng không ngủ tiếp, chờ đợi mặt trời xuất hiện một lần nữa. Fell, New York Tháng Tám, năm 1982 VIV V iệc tới đây là một sự cố. Chiếc xe bus đi lòng vòng đã đưa cô ấy tới tận Pennsylvania, và sau đó cô ấy cố gắng tiết kiệm tiền bằng cách đi nhờ xe của người khác. Chuyến xe đầu tiên chỉ tới Binghamton. Chuyến xe thứ hai, người lái xe nói với cô ấy rằng họ đang đi tới New York, nhưng sau một tiếng đồng hồ thì cô ấy nhận ra rằng ông ấy đang đi nhầm đường. “Đây không phải đường đi tới New York,” Viv nói với người đàn ông đó. “Chúng ta đang đi về vùng Tiểu bang.” “Ồ,” người đàn ông nói. Ông ấy ở trong độ tuổi bốn mươi, mặc một chiếc áo sơ mi có cổ màu vàng nhạt và một chiếc quần âu. Ông ấy mày râu nhẵn nhụi và đeo một cặp kính không viền. “Cô đáng nhẽ ra nên nói rõ ràng hơn. Khi cô nói tới New York, tôi nghĩ ý của cô là vùng Tiểu bang.” Cô ấy đã nói rõ ràng. Cô chắc chắn như vậy. Cô ấy nhìn ra ngoài cửa sổ theo hướng mặt trời lặn, tự hỏi rằng liệu ông ấy đang đưa mình đi đâu, trái tim cô bắt đầu những nhịp đập hoảng loạn. Cô ấy không muốn trở nên bất lịch sự. Có lẽ cô ấy nên làm quen với nó. “Tới đây là được rồi,” cô ấy nói. “Ông có thể cho tôi xuống từ đây.” “Đừng có ngốc nghếch như vậy,” người đàn ông nói. “Tôi sẽ đưa cô tới Rochester, nơi mà tôi có thể mời cô một bữa. Cô cũng có thể bắt xe bus ở đó.” Viv nhoẻn miệng cười với ông ấy, như thể ông ấy vừa giúp cô ấy một việc, đó là đưa cô ấy tới nơi mà cô ấy cần. “Ồ, ông không cần phải làm vậy.” “Chắc chắn tôi sẽ làm như vậy.” Họ ở trên một con đường hai chiều, và cô ấy trông thấy biển hiệu của một nhà nghỉ ở trước mặt. “Dù sao đi nữa thì tôi cũng cần nghỉ qua đêm,” cô ấy nói. “Tôi sẽ nghỉ chân ở đây.” “Nơi đó sao? Trông nó khá sơ sài.” “Tôi đảm bảo rằng nó ổn.” Khi ông ấy không nói gì nữa, cô ấy nói: “Tôi không có ý làm phiền.” Cổ họng cô ấy nghẹn lại khi người đàn ông bắt đầu tấp xe vào lề đường. Cô ấy nghĩ có lẽ mình nên bỏ chạy. Cô ấy đã không thể nói ra điều khiến cô ấy sợ hãi, điều làm cho cô ấy cảm thấy thật nhẹ nhõm khi ông ấy đã làm theo lời cô nói. Ông ấy có thể làm được gì nữa đâu? Cô ấy tự trách bản thân. Ông ấy là một người đàn ông tốt bụng và mình chỉ đang nghĩ quá thôi. Có lẽ cảm giác sợ hãi này đến từ sự im ắng ở nơi này. Và rồi, khi cửa xe vừa mở và cô đặt một chân xuống mặt đường trải sỏi. Cô với tay lấy chiếc túi cá nhân của mình, và trong suốt khoảng cô quay lưng về phía người đàn ông, cô rơi vào trạng thái hoang mang cực độ Khi vừa vặn đặt chiếc túi vào lòng, cô ấy cảm thấy có thứ gì đó ấm nóng đặt trên đùi cô ấy. Cô nhìn xuống và thấy tay của người đàn ông đang đặt ở đó. “Cô không cần phải làm như vậy,” ông ấy nói. Đầu óc của Viv trở nên trống rỗng. Cô ấy lẩm bẩm điều gì đó, thoát khỏi bàn tay của ông ấy, bước xuống xe và đóng sầm cửa vào. Nhưng những lời mà cô ấy thốt ra được – khi chiếc xe rời đi, lúc mà người đàn ông không thể nghe cô ấy nói – đó là “Cảm ơn” và “Xin lỗi.” Cô ấy không biết tại sao mình lại nói như vậy. Cô chỉ biết rằng mình đang đứng bên lề của một con đường vắng bóng người qua lại, ở đằng trước một nhà nghỉ vắng vẻ, tim đập thình thịch như muốn vỡ tan lồng ngực. *** Trở lại Grisham, Illinois, Viv là một đứa con gái có nhiều vấn đề. Năm năm sau khi bố mẹ ly hôn, cô ấy dường như hoàn toàn mất phương hướng. Trong khi em gái của cô ấy luôn hành xử theo các nguyên tắc, thì Viv lại làm những việc mà đáng nhẽ ra cô ấy không nên làm: cúp học, đi chơi về khuya, nói dối mẹ, gian lận trong thi cử. Cô ấy thậm chí còn không biết vì sao mình làm vậy; có một nửa trong số đó cô ấy còn chẳng muốn làm. Đôi khi cô thấy dường như mình đang sống trong hình hài của một ai đó vậy, một người khi hết tức giận thì tới kiệt quệ. Cô ấy đã làm tất cả những điều khiến cho cô ấy càng ngày càng trở nên tệ hại và khiến mẹ mình vừa tức giận, vừa xấu hổ. Một đêm nọ, sau khi cô ấy bị bắt gặp về nhà lúc hai giờ sáng, người mẹ trong cơn hoảng sợ đã suýt chút nữa tát cô. Con nghĩ rằng con thật sự thông minh sao, người mẹ hét thẳng vào mặt cô ấy. Con sẽ làm gì nếu như con thực sự gặp rắc rối? Giờ đây, đứng bên lề một con đường, cô độc và xa nhà, với ánh đèn hậu từ chiếc xe của người đàn ông đang khuất xa dần, những từ ngữ đó trở lại. Con sẽ làm gì nếu như con thực sự gặp rắc rối? Bầu trời tháng Tám đang chuyển sang đỏ rực, những tia nắng hạ làm cay mắt cô. Cô mặc một chiếc áo sơ mi cộc tay màu lam ngọc, một chiếc quần bò cùng với một chiếc thắt lưng màu bạc, cùng một đôi giày tennis. Cô khoác túi lên vai và nhìn lên bảng hiệu của nhà nghỉ. Nó có hai màu xanh dương và vàng, dòng chữ SUN DOWN được viết theo phông chữ cổ điển mà bạn thường thấy trong những năm năm mươi và sáu mươi. Bên dưới là những dòng chữ neon mà hầu như đều được bật sáng mỗi tối: CÒN PHÒNG TRỐNG! CÓ TRU YỀN HÌNH CÁP! Đằng sau tấm biển là một nhà nghỉ được bố trí theo hình chữ L, phần chính của nhà nghỉ nhô ra phía đường chính, phần cuối của chữ L chạy song song với con đường. Nhà nghỉ có phần mái che và một lối đi bằng bê tông, các cửa phòng xếp thẳng nhau theo hàng ngang. Một nơi không có gì nổi bật được trang trí với tông màu nâu và màu kem nhem nhuốc, kiểu địa điểm mà người ta chỉ tá túc khi không thể cưỡng nổi buồn ngủ. Ở góc vuông của hình chữ L có một cầu thang dẫn lên tầng trên. Chỉ có một chiếc xe duy nhất trong bãi, đậu cạnh cánh cửa phòng gần với đường cái nhất, với tấm biển ghi VĂN PHÒNG. Viv lau trán. Lượng adrenaline nãy còn tăng vọt sau khi rời khỏi xe người đàn ông đang giảm dần; giờ đây cô thấy rất mệt mỏi, vai và lưng của cô đều đau nhức. Mồ hôi ướt đẫm dưới hai cánh tay áo. Cô ấy có khoảng hai mươi đô-la – đó là toàn bộ số tiền mà cô có. Cô có một tài khoản ngân hàng với số tiền tiết kiệm từ công việc ở quê nhà tại một quầy bỏng ngô chuyên phục vụ khách ở trong ô tô, thêm vào đó là khoản tiền ít ỏi kiếm được từ việc làm người mẫu cho một ấn phẩm quảng cáo địa phương. Cô ấy đứng trước ống kính nguyên một buổi chiều khi đang mặc một chiếc quần bò loang cạp cao và một chiếc áo cài kín cổ màu tím sáng; cô đút tay vào túi quần và mỉm cười. Tổng số tiền tiết kiệm mà cô có được là bốn trăm tám mươi lăm đô-la mỹ. Đó vốn dĩ là số tiền dành dụm cho cuộc sống ở New York, một số tiền mà đáng nhẽ sẽ giúp cô có một cuộc sống mới. Đáng lẽ ra, cô ấy không nên tiêu đến số tiền ấy trước khi cô ấy đi bất cứ đâu. Tuy nhiên, cũng giống như mọi thứ về cuộc hành trình này cho đến giờ, cô ấy dường như đều đã tính toán sai. Đây không giống như một nhà nghỉ đắt tiền. Có lẽ hai mươi đô-la sẽ giúp cho cô ấy có một chiếc giường và một vòi hoa sen. Nếu không, có lẽ có một cách để lẻn vào một trong những căn phòng. Trông có vẻ như sẽ không có ai có thể phát hiện ra được điều đó. Viv đến gần cửa văn phòng và đặt tay lên tay nắm cửa lạnh lẽo. Ở đâu đó xa xa trên những hàng cây, một con chim đang kêu rền rĩ. Chẳng có xe cộ trên đường. Nếu anh chàng ở phía bên kia cánh cửa này trông giống Norman Bates, cô ấy tự nhủ, Tôi sẽ quay người và bỏ chạy. Cô hít một hơi thật sâu và mở tung cánh cửa. Người đàn ông bên trong trông không giống như Norman Bates – vì đó hoàn toàn không phải là một người đàn ông. Đó là một người phụ nữ đang ngồi trên một chiếc ghế ở sau một cái bàn đã cũ. Cô ấy khoảng ba mươi, vóc dáng mảnh mai và nhanh nhẹn với mái tóc nâu buộc đuôi ngựa; khuôn mặt có những đường nét rắn rỏi. Cô ấy đang mặc một chiếc áo len rộng quá khổ màu xám, quần bò ống rộng và đôi bốt màu nâu đậm, Viv có thể nhìn thấy vì cô ấy đang gác chân ngay trên bàn làm việc. Cô ấy đang đọc tạp chí nhưng đột nhiên ngẩng đầu lên khi cánh cửa mở ra. “Tôi có thể giúp gì cho cô?” người phụ nữ nói mà không hạ chân khỏi bàn. Viv đưa vai ra sau và mỉm cười với người phụ nữ. “Xin chào,” cô ấy nói. “Tôi muốn có một căn phòng, nhưng tôi chỉ có hai mươi đô-la tiền mặt. Làm ơn hãy nói cho tôi biết giá tiền một căn phòng?” “Thường thường là ba mươi,” người phụ nữ không hề ngập ngừng cũng như không hề thay đổi tư thế của mình. Tờ tạp chí vẫn giơ cao đến cằm của cô ấy. “Nhưng tôi là chủ nhà nghỉ này và vì cũng chẳng có ai khác đến đây, thế nên tôi sẽ không từ chối hai mươi đô-la.” Cảm giác hân hoan tràn ngập, Viv đặt tờ 20 đô-la xuống bàn và đợi. Người phụ nữ vẫn không hề nhúc nhích. Cô ấy đã không đặt tạp chí xuống, cũng chẳng cầm lấy tờ hai mươi đô. Thay vào đó, ánh mắt của cô ấy di chuyển qua Viv. “Em vừa mới đến đây hả cưng?” Cô ấy nói. Đó có vẻ là một câu hỏi đủ an toàn. “Vâng.” “Vậy sao? Tôi không nghe thấy tiếng xe hơi.” Viv nhún vai, cố gắng giữ vẻ nhẹ nhàng và vô hại – dáng vẻ mà nhiều người đã phải si mê nó. Người phụ nữ cuối cùng đã đóng cuốn tạp chí và đặt nó lên đùi. “Em tới đây bằng Số Sáu?” “Số Sáu?” Viv bối rối nói. “Đường Số Sáu.” Lông mày của người phụ nữ cụp xuống. “Nếu tôi là mẹ của em, tôi sẽ đánh em một trận. Con đường đó rất nguy hiểm đối với mấy cô gái nếu chỉ đi có một mình.” “Tôi đã không đi một mình. Người lái xe vừa thả tôi ở đây. Anh ấy đón tôi ở ngoại ô Binghamton. Tôi đang muốn đến New York.” “Ôi cưng à, đây không phải là New York. Đây là thị trấn Fell. Cưng đang đi sai đường mất rồi.” “Tôi biết.” Viv chỉ mong người phụ nữ đó mau chóng đưa cho cô chìa khóa phòng. Cô cần đặt chiếc cặp nặng của mình xuống. Cô ấy cần tắm. Cô ấy cần lấp đầy cái dạ dày của mình, mặc dù nếu không có hai mươi đô-la, cô ấy không biết mình sẽ trả tiền như thế nào. Cô chỉ vào cuốn sổ lớn đang mở trên bàn làm việc, rõ ràng đây là một sổ đăng ký cho khách. “Tôi có phải viết tên của mình vào đó không?” Sau đó, khóa đào tạo gái ngoan ở ngoại ô bang Illinois của cô ấy đã khiến cô ấy nói rằng: “Nếu mai tôi có thể tới ngân hàng, tôi có thể trả cô ba mươi đô-la. Nhưng giờ thì các ngân hàng đều đóng cửa rồi.” Người phụ nữ khịt mũi. Cô quăng cuốn tạp chí – Đó là tạp chí People, với Tom Selleck trên trang bìa – lên bàn làm việc và cuối cùng cũng hạ chân xuống. “Chị có một ý tưởng hay hơn,” người chủ nhà nghỉ nói. “Nhân viên làm ca đêm của tôi vừa nghỉ việc. Giúp chị trực đêm tại quầy đêm nay và giữ lấy hai mươi đô- la của cưng.” “Trực đêm tại quầy?” “Ngồi đây, nghe điện thoại. Nếu ai đó đến, hãy lấy tiền của họ và đưa cho họ chìa khóa. Chìa khóa ở đây.” Cô mở ngăn bàn bên tay phải. “Yêu cầu họ ký vào cuốn sổ. Chỉ có vậy thôi. Cô em có làm được không?” “Chị không còn nhân viên khác để giao điều đó sao?” “Chị vừa nói có cậu nhân viên mới nghỉ việc, phải không? Chị là chủ sở hữu, vì vậy chị nên biết. Hoặc cô em, hoặc chị, sẽ ngồi ở bàn này cả đêm. Và đương nhiên chị biết mình thích cái nào hơn.” Viv thở ra một hơi. Bản thân công việc này không khiến cô bận tâm; cô ấy đã làm rất nhiều công việc phục vụ ở Illinois. Nhưng việc phải thức cả đêm nghe không được vui cho lắm. Tuy nhiên, nếu cô ấy làm điều đó, cô ấy sẽ giữ được hai mươi đô-la của mình. Có nghĩa là cô ấy còn tiền để kiếm chút gì đó bỏ bụng. Cô liếc nhìn xung quanh văn phòng, tìm kiếm dấu hiệu cho thấy có người bị bắt cóc, nhưng tất cả những gì cô thấy chỉ là những bức tường nhạt nhẽo, một cái bàn làm việc, một vài cái kệ, chiếc cửa sổ bên trên cửa ra vào văn phòng. Có tiếng một chiếc xe chạy qua trên đường, bầu trời ngày càng tối. Ngạc nhiên thay, Viv ngửi thấy mùi khói thuốc lá thoang thoảng từ đâu đó. Nó hăng và khét, không phải mùi khói ám trên quần áo của người phụ nữ này mà chắc hẳn có người đang hút thuốc gần đó. Vì lý do nào đó, điều này khiến cô ấy cảm thấy được trấn an hơn một chút. Ít nhất thì cũng còn có ai đó ở nơi này, ngay cả khi cô không thể nhìn thấy họ. “Thôi được rồi,” cô nói với người phụ nữ. “Tôi sẽ làm ca đêm.” “Tốt,” người phụ nữ nói, mở ngăn kéo và ném chìa khóa lên bàn. “Phòng 104 là của cô em. Tắm rửa, ngủ một giấc, và đến gặp chị lúc mười một giờ. Cô em tên là gì?” Lại là mùi khói, giống như ai đó vừa nhả ra một làn khói thuốc. “Vivian Delaney. Viv.” “Chà, Viv,” người phụ nữ nói, “Tôi là Janice. Đây là nhà nghỉ Sun Down. Có vẻ như cô đã tìm thấy cho mình một nơi dừng chân.” “Cảm ơn,” Viv nói, nhưng Janice đã quay lại với Tom Selleck, gác đôi bốt của cô ấy lên bàn một lần nữa. Cô nhặt chìa khóa và hai mươi đô-la rồi rời đi, mở cửa văn phòng và bước lên lối đi. Cô đoán là mình sẽ thấy người hút thuốc ở đâu đó ngoài này, có thể là một vị khách đang hút thuốc trong không khí buổi tối, nhưng không có ai cả. Cô bước ra bãi sỏi, đi một vòng, và nhìn quanh. Trong ánh sáng yếu ớt của hoàng hôn, nhà nghỉ trông như đang đóng cửa, không có ánh sáng từ bất kỳ phòng nào. Cây cối phía sau tạo ra âm thanh rì rào trong gió. Có tiếng bước chân trên sỏi vọng từ phía góc tối của bãi đất. “Xin chào?” Viv lên tiếng gọi, nghĩ về người đàn ông đã đặt tay lên đùi cô. Không có ai. Cô đứng trong khoảng tối, chỉ có tiếng gió và tiếng thở của chính mình. Sau đó, cô đi đến phòng 104, tắm nước nóng và nằm trên giường, quấn một chiếc khăn tắm, nhìn chằm chằm vào trần nhà trống trơn, cảm nhận được sự thô ráp của tấm khăn trên người. Cô ấy lắng tai nghe những âm thanh thường thấy trong một khách sạn bình thường: tiếng bước chân đến và đi, tiếng người nói chuyện bên ngoài. Những âm thanh của con người. Nhưng không có gì hết. Không có bất cứ một âm thanh nào cả. Cái kiểu nhà nghỉ gì thế này? Nếu nó vắng vẻ như thế này, làm sao mà nó vẫn hoạt động được? Và tại sao họ lại cần một nhân viên trực đêm? Ngay cả ở rạp chiếu phim, người quản lý còn cho nhân viên về nhà lúc mười giờ tối vì anh ta không muốn mất thêm tiền công ca đêm. Chính xác là cô không được trả tiền, nhưng dù thế thì vẫn sẽ dễ dàng hơn cho Janice nếu tắt đèn, khóa cửa và về nhà, thay vì cố gắng tìm ai đó ngồi ở đây cả đêm. Bàn chân cô đau nhức, cô từ từ thả lỏng người xuống giường. Cô đơn hay không, điều này vẫn tốt hơn là chen chúc trên con đường cao tốc tăm tối đó, hi vọng có một người lạ khác đến đón cô. Cô bắt đầu hi vọng có một máy bán hàng tự động ở đâu đó trong Sun Down, tốt nhất có một thanh Snickers trong đó. Người đàn ông mặc áo sơ mi có cổ màu vàng đã đặt tay lên đùi cô như thể nó thuộc về anh ta, như thể có một giao ước ngầm rằng mọi thứ ở trong xe của anh ta đều thuộc về anh ta vậy. Hắn ta nhẹ nhàng luồn qua các ngón tay vào phía bên trong đùi cô trước khi cô giãy ra. Cô lại cảm thấy ruột của mình nhói lên, tràn ngập nỗi sợ hãi. Cô ấy chưa từng cảm thấy sợ hãi như thế bao giờ. Và cả giận dữ nữa. Còn nhớ trước đây, kể từ khi bố mẹ cô ấy ly hôn, cô ấy đã ngủ rất nhiều, đôi khi cho đến một hoặc hai giờ chiều, thường thì sau đó cô sẽ phải hứng chịu cơn tức giận của mẹ; và có lẽ đó là nỗi sợ lớn nhất mà cô từng trải qua. Nhưng nỗi sợ hãi mà cô cảm thấy hôm nay cực sâu và đột ngột, gần giống như một cú đánh tê tái. Lần đầu tiên trong đời, cô thấy sự tồn tại của bản thân bị đe dọa. Làm thế nào để thoát khỏi chuyện này ngay lập tức. Vivian Delaney có thể không bao giờ trở lại nữa. Mình sợ, cô ấy nghĩ. Sau đó: Đây có vẻ là nơi thích hợp cho việc đó. Cô đã chìm vào giấc ngủ trước khi cô có thể nghĩ tới bất cứ điều gì khác. Fell, New York Tháng Mười một, năm 2017 CARLY P hố Greville chỉ dài chưa đầy ba dãy nhà, một con phố gồm những căn hộ thấp tầng kết thúc bằng một ngõ cụt được bao phủ bởi một hàng rào dây xích kết thành mắt lưới. Các tòa nhà trông giống như được tạo ra từ các khối xếp hình dành cho trẻ em xếp chồng lên nhau theo các góc, phong cách hình hộp bằng bê tông và vách nhựa vinyl đã không còn được ưa chuộng vào khoảng năm 1971. Tôi lái xe chậm rãi băng qua những con đường ngắn, đếm từng tòa nhà, tìm kiếm số nhà 27. Tôi đỗ xe bên cạnh một chiếc Volvo màu xám sẫm với phần đuôi xe tròn trịa và lốp xe mòn vẹt, nhìn qua giống như một cỗ máy du hành thời gian. Tôi đến đây để xem nơi bác tôi đã từng sống, biết đâu có thể hình dung được cuộc sống của bác ấy, nhưng tôi không ngờ mình lại đứng trên một con phố trông gần như không thay đổi từ năm 1982. Nếu địa chỉ là đúng, những gì tôi đang thấy bây giờ sẽ chính xác là những gì bác ấy thấy ngày trước. Không có ai xung quanh ngoại trừ hai đứa trẻ đang đạp xe xuống phố, rung chuông trên ghi đông xe đạp và cười đùa. Tôi đi đến trước cửa phòng số 27 và thấy cửa mở, thế nên tôi đã đi vào. Có một hành lang ngắn xếp đầy những hộp thư của người thuê nhà và một dãy cầu thang. Hộp thư của căn hộ C cho biết chủ nhân của nó ATKINS, H. Tôi thò đầu qua mép cầu thang, nhìn lên và tự hỏi làm thế nào để trông không giống như một kẻ gian, thì có một cô gái xuất hiện ở hành lang trên lầu. Cô ấy trạc tuổi tôi, dáng người gọn gàng, săn chắc và mái tóc vàng sẫm xõa thẳng xuống cằm. Cô ấy đã kẹp tóc mái lên trán bằng một chiếc ghim cài nhỏ, cô gái đó nhìn tôi bằng đôi mắt trong veo và thông minh trên một khuôn mặt giàu biểu cảm. Cô ấy đang mặc một chiếc áo choàng poncho dệt kim lớn, về cơ bản là một hình vuông đặt trên vai với một cái lỗ có thể chui đầu qua. “Bạn đến đây vì đã xem quảng cáo phải không?” - cô ấy hỏi tôi. “Tôi…” “Mới có một người đến,” cô nói. “Bạn cùng phòng ở căn hộ C.” Điều đó khiến tôi phải tạm dừng. “Căn hộ C?” “Đúng rồi. Lên đây nào. “ Tôi thậm chí không nghĩ đến việc mọi thứ sẽ xoay chuyển thế này. Thay vào đó, tôi đi theo cô gái mặc chiếc áo poncho lên một dãy cầu thang khác và qua một cánh cửa. Ngạc nhiên là căn hộ bên trong khá lớn, với một nhà bếp lát sàn bằng vải nhựa, một phòng xem tivi và hai cửa phòng ngủ mở từ hai đầu đối diện. “Tôi là Heather,” cô gái mặc áo poncho nói khi đóng cửa lại sau lưng tôi. Cô ấy đưa tay ra từ bên dưới những nếp len. Đó là một bàn tay mảnh mai, màu trắng sứ, và khi tôi bắt lấy bàn tay đó, nó mang tới một chút lạnh lẽo. “Carly,” tôi nói. “Để tôi dắt bạn đi tham quan một vòng.” Điều tiếp theo tôi biết là mười phút sau tôi đã được nhìn thấy tất cả các phòng. Tôi biết rằng nước nóng là một vấn đề khó khăn, wi-fi cũng không ổn định và tiền thuê nhà là hai trăm đô la mỗi tháng. Tôi cũng biết mình hơi ngớ ngẩn, vì tôi vẫn chưa nói sự thật với Heather. “Hai trăm một tháng không phải là con số lớn.” Tôi nói. Heather xoa gáy. Bên dưới mắt cô có những vòng tròn màu tím mờ nhạt, như thể cô đang rất mệt mỏi, nhưng cô vẫn tỏa ra một sức sống căng tràn khó rời mắt. “Được rồi, chẳng giấu gì bạn,” cô nói, những từ ngữ được bật ra một cách vội vàng. “Tôi thực sự không cần tiền. Cha tôi trả tiền cho nơi này trong khi tôi ở thị trấn Fell.” “Ở thị trấn Fell?” “Truờng Cao đẳng Fell,” cô ấy nói. “Tôi biết, nghe có vẻ hơi kỳ. Một cô gái địa phương đang theo học tại một trường cao đẳng địa phương, chuyển đến sống trong một căn hộ do cha mẹ mình trả tiền. Phải không?” Cô ấy nghiêng cằm như thể muốn tôi trả lời, nhưng cô ấy vẫn tiếp tục nói và không cho tôi cơ hội nào. “Tôi cần trải nghiệm, hoặc như những gì phụ huynh đã nói với tôi, để nuôi sống và tự trang trải cho bản thân, đại khái như vậy. Và tôi thích điều đó, nên tôi đã làm. Nhưng chỉ có một mình tôi ở đây, căn hộ thì hay phát ra tiếng động. Và tôi không có ai để nói chuyện. Tôi là một con cú đêm và không hay ngủ vào buổi tối. Tôi nghĩ tôi đăng quảng cáo để tìm bạn cùng phòng chỉ để tôi có một ai đó ở đây thôi. Vấn đề không phải là tiền. Bạn biết mà?” “Được rồi,” tôi nói, vì cô ấy có vẻ rất thân thiện. “Tôi chưa bao giờ nghe nói về Cao đẳng Fell.” “Chưa từng có ai nghe về nó,” Heather nói, nhún vai gầy bên dưới chiếc áo poncho. “Đó là một địa điểm địa phương. Không phải là một trường đại học theo nghĩa thông thường, thực sự. Nó mờ nhạt, và chỉ những người dân địa phương như chúng tôi đến đó. Nó làm cho chúng tôi cảm thấy như chúng tôi đang đi học đại học những vẫn không cần rời khỏi thị trấn.” “Không phải là mục đích của trường đại học là để rời khỏi thị trấn hay sao?” “Mục đích của học đại học là học,” Heather nói với logic dứt khoát. “Và tôi rất ngạc nhiên khi bạn không phải là một trong số chúng tôi. Vì tôi trông bạn giống như một người bạn cùng học với tôi.” Tôi nhìn xuống bản thân: chiếc quần bò sờn rách, đôi bốt cũ đến tận mắt cá chân, chiếc áo phông đen có dòng chữ SÁCH LÀ CUỘC SỐNG CỦA TÔI bên dưới một chiếc áo hoodie dài tay, một chiếc cặp sách đeo chéo. Thêm cặp kính gọng đen và kiểu tóc đuôi ngựa. “Thực ra tôi là một sinh viên. Nhưng không phải ở Cao đẳng Fell. Tôi…” Tôi nhìn quanh, hắng giọng. “Được rồi, tôi cũng chẳng giấu gì bạn. Tôi không đến đây để tìm bạn ở ghép. Là tự bạn kết luận thôi.” Heather mở to mắt. “Vậy tại sao bạn lại ở đây?” “Ừm, vì tôi thích kiến trúc khối kiểu Liên Xô?” Cô vỗ tay một cái, chuyển động khiến chiếc áo choàng gợn sóng. Đôi mắt cô ấy lấp lánh. “Tôi thích bạn! Được thôi! Hãy cho tôi biết lý do thực sự bạn tới đây. Cụ thể nhé.” Cô nhắm chặt mắt, rồi lại mở ra. “Bạn đang tương tư đến người bạn trai cũ. Có một anh chàng sống ở căn hộ B không tệ lắm, nhưng anh ta đã chuyển đi từ tuần trước rồi.” “Không,” tôi nói. “Không có tương tư ai cả.” “Ghét nhỉ. Được rồi. Bạn là một sinh viên khảo cổ học, một tấm bản đồ dẫn bạn đến đây và bạn muốn khám phá nó.” Tôi nhìn cô ấy chằm chằm. “Thực sự cũng gần giống như vậy, nhưng lý do của tôi thì kỳ lạ hơn.” “Tôi sống vì những điều kỳ lạ,” Heather nói. Tôi lại nhìn chằm chằm vào cô ấy, bởi vì cô ấy có ý đồ nên mới nói như vậy. Không ai ở bang Illinois sống vì những điều kỳ lạ. Không ai trong số những người tôi từng gặp. “Tôi nghĩ là bác tôi đã từng sống ở đây,” tôi nói với cô ấy. “Bác ấy biến mất vào năm 1982. Mẹ tôi đã mất và không bao giờ kể cho tôi nghe về bác, sau đó tôi rời trường học và tôi tới đây để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra.” Nghe có vẻ không quá ngu ngốc. Trong căn hộ này, nói với cô gái kỳ lạ này, nghe không hề ngu ngốc chút nào. Heather thậm chí không chớp mắt. “Ừm, năm 1982,” cô nói, suy nghĩ. “Tên bác ấy là gì?” “Viv Delaney.” Cô ấy lắc đầu. “Nghe không quen cho lắm. Nhưng trước đây, cũng đã có rất nhiều.” “Nhiều gì cơ?” “Những cô gái đã chết. Có rất nhiều. Nhưng bạn nói rằng bác ấy chưa chết, phải không? Bác ấy chỉ biến mất.” “Ph… phải.” “Và bác ấy từng sống ở đây, trong căn hộ này?” Heather nhìn quanh căn hộ, như thể hình dung ra câu chuyện, giống như tôi vậy. “Vâng, tôi nghĩ bác ấy đã từng sống ở đây.” “Bạn đã tìm trong hồ sơ khách thuê chưa?” “Bạn có nghĩ là tôi có thể làm vậy không?” Heather trông có vẻ trầm ngâm. “Chủ nhà là một người bạn của bố tôi. Tôi có thể hỏi ông ấy xem ông ấy còn lưu lại hồ sơ nào từ năm 1982 không. Và các kho lưu trữ trong Thư viện Trung tâm Fell có thể có thứ gì đó. Không có gì được số hóa ở đây. Chúng tôi đang mắc kẹt ở quá khứ trong một thời gian dài.” “Tôi đang tìm kiếm những người có thể đã biết bác tôi,” tôi nói. “Tôi có tên bạn cùng phòng của bác ấy. Theo Google, bà ấy có thể vẫn sống trong thị trấn. Tôi muốn tìm và nói chuyện với bà ấy. Bác tôi từng làm việc tại nhà nghỉ Sun Down. Có lẽ ai đó ở đó còn nhớ bác ấy.” Heather gật đầu, như thể tất cả những điều này không có gì lạ cả. “Tôi có thể giúp bạn. Tôi đã sống ở thị trấn Fell từ bé rồi. Những vụ án đúng là thể loại ưa thích của tôi.” Tôi không thể tin rằng mình đã nghe thấy điều này. “Tôi cũng thế.” Nụ cười của cô ấy hơi ngượng ngùng, nhưng tôi vẫn thích nó. “Chúa ơi, số phận đã an bài rồi. Bạn có nghĩ vậy không?” “An bài cái gì cơ?” “Tôi nghĩ bạn nên ở lại đây,” cô nói. “Đó là số phận. Hãy ở lại đây đến chừng nào bạn cần, và tôi sẽ giúp bạn tìm bác của bạn.” Fell, New York Tháng Mười một, năm 2017 CARLY H eather, hóa ra, đã không nói dối khi cô ấy nói rằng cô ấy biết rất nhiều về thị trấn Fell. “Bố tôi là một người cổ hủ,” cô ấy nói với tôi một cách thẳng thắn. “Ý tưởng về một kỳ nghỉ của ông ấy là lái xe đến làng Americana và đi bộ xung quanh. Ông ấy là một người đam mê lịch sử, vì vậy tôi lớn lên qua những bài học lịch sử về nơi này. Làm một người cổ hủ ở trong gia đình.” Phải vài giờ sau, chúng tôi mới trở lại căn hộ C. Tôi đã lấy đồ từ khách sạn và đặt vào phòng ngủ phụ. Chúng tôi đã đặt bánh pizza, bầu trời tối đen, mặc dù bây giờ mới chỉ là giờ ăn tối. Tôi đang ngồi trên ghế sô pha và Heather đang nằm ngửa trên sàn, vẫn quấn chiếc áo poncho. Cô ấy nói rằng lần tai nạn xe đạp hai năm trước đã khiến cô ấy bị mắc chứng đau lưng. “Tôi bị thoái hóa cột sống,” đó là lời giải thích của cô ấy. “Họ nói tôi phải phẫu thuật, nhưng tôi không dám làm. Tôi sợ.” Vì đã nhìn thấy kệ thuốc theo toa trong phòng tắm khi tôi ném đồ đạc của mình xuống, nên tôi không đã không hỏi gì thêm. “Tôi đang nói về năm 1982,” tôi gợi lại chuyện với cô ấy, thả lại một miếng vỏ bánh vào hộp bánh pizza. “Tôi không cần biết về những pháo đài và những khẩu đại bác cổ.” “Ha ha,” tiếng Heather vọng lại từ dưới sàn nhà. Cô co đầu gối lại và úp hai bàn chân xuống nền nhà, bàn tay nhợt nhạt đặt trên bụng khi cô nhìn chằm chằm lên trần nhà. “Thị trấn Fell không có pháo đài hay đại bác nào. Đó là một nơi kỳ lạ. Nó có phần nào giống như một loại bệnh tật, giống như tôi. “ “Tôi đã đọc một vài điều trên mạng. Nơi này có một số vụ giết người chưa được phá.” “Chỗ bọn tôi có rất nhiều vụ án. Bao gồm những vụ chưa được phá và đã được phá luôn. Tôi không biết số liệu thống kê, nhưng với mật độ dân số như thế này, thì đây được coi như một thủ phủ của các vụ giết người trên cả nước. Hoặc ít nhất là của New York.” Cô ấy nhấc một tay lên và tôi đặt một miếng bánh pizza vào đó. “Tôi không thể giải thích được. Đó chỉ là một nơi kỳ lạ, vậy thôi. Hãy kể cho tôi nghe về bác của bạn.” Tôi kể cho cô ấy nghe về bác Viv, về việc bác ấy mất tích vào nửa đêm ở Sun Down. Tôi đã đưa cho cô ấy hai bài báo của tôi. “Hừm, xem nào,” Heather nói, lướt qua chúng. “Không có bạn trai, không dùng ma túy. ‘Xinh đẹp và hoạt bát’. Chúng ta có thể tìm thấy người bạn cùng phòng trong danh bạ điện thoại nếu bà ấy vẫn ở thị trấn Fell.” Cô ấy đưa lại các bài báo cho tôi và lại nằm nhìn chằm chằm lên trần nhà. “Vậy, bà ấy đã làm ca đêm và biến mất. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết có bao nhiêu người cũng như thế – họ như thể biến mất vào trong không khí. Họ để cửa mở sau lưng, thức ăn trên quầy, giày dép cạnh cửa. Nghe có vẻ vô lý, nhưng nó là như vậy.” “Tôi biết,” tôi nói. “Bạn có nghĩ rằng cảnh sát sẽ cho tôi xem hồ sơ của họ?” “Tôi không biết, nhưng tôi đoán là bất cứ điều gì có thể xảy ra với một vụ án cũ như vậy. Một số nhân viên Internet đã cố gắng tìm hồ sơ từ Sở Cảnh sát Fell nhưng không có kết quả, nhưng lần này lại khác. Bạn là người nhà của nạn nhân.” “Bạn đang học để trở thành một thám tử đó à?” Tôi hỏi, cất tập tài liệu của mình đi. Heather bật cười. “Hầu như sự lo lắng của tôi là không thể giải quyết được. Không, tôi đang học văn học trung cổ. Nó hợp với tôi hơn.” “Họ dạy văn học thời trung cổ trong trường đại học Fell?” “Thực tế đó là tất cả những gì họ dạy. Tên đầy đủ của trường là Trường Cao đẳng trường phái Cổ điển Fell. Văn học Hy Lạp, tiếng Latinh, nghệ thuật và điêu khắc cổ điển, văn học Nga, những thứ đại loại như vậy. Đó là một trường cao đẳng tư thục nhỏ được sáng lập từ một trăm năm trước như một dự án phù phiếm của người đàn ông giàu nhất trong thị trấn. Trường chỉ có khoảng ba trăm sinh viên. Tôi chưa bao giờ học một lớp nào có sĩ số hơn mười người trong đó.” “Bạn có được nhận bằng không?” “Nói đi, hỏi thật đấy,” Heather nói với giọng thích thú,“chính xác thì người ta có thể làm gì với một tấm bằng văn học thời trung cổ? Tính hữu dụng không hẳn là sở trường của Cao đẳng Fell. Bạn nên nộp đơn. Đó là điều tôi thích ở đây.” “Tôi đang theo học ngành kinh doanh,” tôi nói với cô ấy. “Carly.” Giọng cô ấy bị sốc, giống như tôi đã nói rằng tôi đang tham gia các lớp học dành cho ngôi sao khiêu dâm. “Bạn không thể học kinh doanh. Bạn là một cô gái của thị trấn Fell. Tôi biết mà.” Tôi đưa cho cô ấy một miếng pizza khác. Cô ấy thật nhỏ bé dưới chiếc áo poncho đó, nhưng cô ấy cầm lấy miếng pizza đi. “Nguồn gốc về thị trấn, nhớ không?” “Được rồi,” cô nói, hạ miếng bánh xuống. “Nhà nghỉ Sun Down. Hãy để tôi suy nghĩ. Đã có lúc vào đầu những năm bảy mươi, mọi người nghĩ rằng thị trấn Fell sẽ là một địa điểm du lịch, mặc dù ở đây chẳng có hồ, núi hay bất cứ thứ gì để xem. Đã có dự án công viên giải trí lớn hứa hẹn đón hàng nghìn khách du lịch mỗi năm, vì vậy, vài người đã đến đây kinh doanh – Sun Down, một vài nhà nghỉ khác, một số cửa hàng kem và nhà hàng. Sau đó, dự án công viên giải trí thất bại và không có điều gì khác diễn ra. Hầu hết những cơ sở kinh doanh cũ đó đã biến mất, nhưng Sun Down vẫn còn đó.” “Nó chưa dừng hoạt động sao?” “Nơi đó khá là nguy hiểm,” cô thừa nhận. “Có lẽ nó hoạt động được bằng cách tiếp nhận những kẻ buôn bán ma túy và những thứ kiểu như vậy. Tôi không biết. Một vài đứa trẻ ở trường trung học thích đến đó vào cuối tuần để uống rượu, nhưng bố mẹ tôi là những người nghiêm khắc và không bao giờ cho phép tôi đến đó.” Tôi kéo máy tính xách tay ở trên ghế sô pha về phía mình và mở nó ra, tôi bắt đầu suy nghĩ. “Họ nói rằng nó bị ma ám,” Heather nói. “Có thật không?” Tôi ngạc nhiên hỏi. “Chà, là thật đấy,” Heather nói. “Không phải mọi khách sạn đều bị ma ám kể từ The Shining1 sao? Tôi cá là có thể có người chết ở đó.” 1 Tiểu thuyết được viết năm 1977 của nhà văn Stephen King cũng lấy chủ đề khách sạn bị ma ám. Tôi đã tra Google Maps về thị trấn Fell, với một ghim ở vị trí Sun Down. Nếu nó được xây dựng trong những năm 1970, thì nó vẫn còn tương đối mới trong năm 1982. Sau đó nó có xuất hiện những mùi khó chịu không? Liệu nó có bị ma ám không? Ngoài những câu chuyện ngu ngốc của Graham và bộ phim kỳ quặc đáng sợ, tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ về ma, cho dù chúng có thật hay không. Nhưng khi đang ngồi trong căn hộ của bác Viv, sống ở nơi bác ấy từng sống trước khi mất tích… Tôi đã nghĩ về chúng. Tôi nghĩ về những hồn ma và liệu bác ấy có ở đâu đó quanh đây không, nhìn qua cửa sổ hay bị mắc kẹt trong ngưỡng cửa, đang quan sát chúng tôi. Nếu bác ấy bị giết, liệu bác ấy có trở lại? Bác ấy sẽ đến nơi này hay nơi khác? Nếu mọi người biến mất đều quay trở lại, chẳng phải thế giới chỉ toàn bóng ma sao? Tôi gãi mũi dưới cặp kính và nói: “Heather, bạn có mệt không?” Nằm trên sàn, cô ấy thở dài. “Tôi không bao giờ mệt mỏi. Tôi đã nói rồi, tôi mắc chứng mất ngủ.” “Bạn không phải học hay sao?” “Tôi đã đọc sách giáo khoa của mình hai lần. Người ta phải đọc một thứ gì đó.” Tôi cười. “Chà, vậy khi ai đó không phải học, thì người ta có muốn đến nhà nghỉ Sun Down với tôi không?” Cô ấy nhô đầu lên từ phía sau chiếc bàn cà phê cổ điển. “Có thật không?” Tôi nhún vai. “Tôi không biết mình sẽ tìm thấy gì, nhưng tôi đã đi xa đến mức này rồi, tốt hơn hết là nên đi tiếp, và bây giờ là thời điểm thích hợp nhất.” Mắt cô ấy sáng lên, đúng như tôi đã dự đoán. “Ai đó sẽ rất vui mừng.” Tôi đóng máy tính xách tay của mình. “Đi nào.” BÍ ẨN SUN DOWN Simone St.James Thu Vân dịch ----------------*---------------- NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN Địa chỉ: Tầng 11, lô D29 Phạm Văn Bạch, Cầu Giấy, Hà Nội ĐT: 02422147825 Website: nxbthanhnien.vn; email: [email protected] Chi nhánh: 145 PASTEUR, P6, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh. ĐT: 028 39106962 - 028 39106963 Chịu trách nhiệm xuất bản Giám đốc - Tổng Biên tập Lê Thanh Hà Biên tập NXB: Nguyễn Thị Hảo Biên tập Bách Việt: Lê Thanh Sơn - Phạm Minh Hằng Sửa bản in: Nguyễn Thùy Trang Trình bày: Đinh Thúy Hằng Dựng bìa: ThànhK Liên kết xuất bản Công ty CP Sách Bách Việt Trụ sở chính: Địa chỉ: Số 9, ngõ 55/9 Huỳnh Thúc Kháng, P. Láng Hạ, Q. Đống Đa, Tp. Hà Nội Tel : (024) 3776 5580 - Fax: (024) 3776 5579 Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh: Địa chỉ: 233 Nguyễn Thượng Hiền, P.6, Q. Bình Thạnh, Tp. HCM Tel/Fax: (028) 3517 1788 Website: http://www.bachvietbooks.com.vn http://www.facebook.com/bachvietbooks.com.vn In 3.000 cuốn, khổ 14,5x20,5 cm tại Công ty Cổ phần In Bắc Sơn Địa chỉ: Số 262 Phúc Diễn, phường Xuân Phương, Q. Nam Từ Liêm, Tp. Hà Nội. Số xác nhận đăng ký xuất bản: 1952-2022/CXBIPH/34- 58/TN Quyết định xuất bản số: 1700/QĐ-NXBTN cấp ngày 22/7/2022 Mã ISBN: 978-604-371-877-5 In xong và nộp lưu chiểu năm 2022.