🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Ẩn Quân Hậu Đen - Arturo Pérez-Reverte full prc pdf epub azw3 [Trinh thám Ebooks Nhóm Zalo BÍ ẨN QUÂN HẬU ĐEN —★— Tác giả: Arturo Pérez-Reverte Người dịch: Lê Đình Chi Nhã Nam phát hành Nhà xuất bản Lao Động - 10/2016 ebook©vctvegroup Dành tặng Julio và Rosa, những luật sư của Quỷ Và Cristiane Sanchez Azevedo NHỮNG BÍ MẬT CỦA DANH HỌA VAN HUYS Chúa điều khiển người chơi cờ, người chơi di chuyển các quân cờ. Nhưng vị thần nào ở trên Chúa đã khởi động ván cờ của cát bụi, và thời gian, của giấc ngủ và những nỗi thống khổ. _ Nhà văn Argentina Jorge Luis Borges _ Một chiếc phong bì dán kín là một bí ẩn chứa đựng trong nó những điểu bí ẩn khác. Chiếc bì thư cụ thể này là loại bìa nâu cỡ lớn, dày cộp, với tên phòng thí nghiệm được đóng dấu ở góc dưới bên trái. Và khi cô cảm nhận khối lượng của nó đè lên bàn tay mình trong lúc lục tìm con dao rọc giấy giữa đống cọ lông và những lọ màu vẽ cùng véc ni, Julia không thể hình dung ra động tác mở chiếc phong bì sẽ thay đổi cuộc đời cô tới mức nào. Thực tế, cô đã biết trước chiếc phong bì chứa đựng thứ gì bên trong. Hay, như sau này khám phá ra, chí ít cô cũng nghĩ là mình đã biết. Có lẽ vì thế cô không cảm thấy chút linh tính đặc biệt nào cho đến khi đã lấy những tấm ảnh ra khỏi phong bì, rải chúng lên mặt bàn và nhìn vào chúng, hầu như nín thở. Chỉ tới lúc ấy cô mới nhận ra rằng nghiên cứu của cô về bức Ván cờ sẽ không phải là một công việc thông thường. Những khám phá không ngờ tới trong các bức họa, trong các món đồ nội thất, hay thậm chí trên bìa những cuốn sách cổ là chuyện thường tình trong nghề của cô. Trong sáu năm gắn bó với công việc phục chế các tác phẩm nghệ thuật, cô đã khám phá ra không ít các bản phác thảo, các bức họa gốc bị vẽ đè lên, các nét chỉnh sửa, vẽ lại, và thậm chí là những tác phẩm giả mạo. Nhưng chưa bao giờ cô gặp một dòng chữ khắc dưới lớp màu vẽ của một bức họa: đó là ba từ được phát hiện ra nhờ ảnh chụp tia X. Cô cầm bao thuốc lá không đầu lọc nhàu nhĩ của mình và châm một điếu, không thể rời mắt khỏi những tấm ảnh. Với bằng chứng trên những tấm ảnh chụp tia X cỡ 30 × 40 cm, không còn gì để nghi ngờ nữa. Bức họa là một tác phẩm vẽ trên ván gỗ từ thế kỷ 15 thuộc trường phái Flemish*, và bản phác họa gốc màu đen trắng hiện lên cũng rõ ràng như những vân gỗ hay các mép nối được dính keo gắn liền ba mảnh gỗ sồi thành tấm ván mà trên đó, từ những nét phác họa, những nhát cọ và những lớp sơn lót, người họa sĩ đã dần định hình nên tác phẩm của mình. Dưới đáy bức tranh, được đưa ra ánh sáng sau năm thế kỷ nhờ vào kỹ thuật chụp tia X, là dòng chữ ẩn giấu, các chữ cái Gothic của nó hiện lên rõ nét, tương phản với tấm ván màu đen trắng. QUIS NECAVIT EQUITEM? Vốn tiếng Latin của Julia đủ để có thể dịch dược dòng chữ mà không cần đến từ điển: Quis, đại từ nghi vấn có nghĩa là “ai”, necavit, xuất phát từ neco, nghĩa là “giết”, và equitem, đối cách số ít của eques, nghĩa là “hiệp sĩ”. Ai đã giết hiệp sĩ? Việc thêm vào một dấu chấm hỏi mà trong tiếng Latin là dư thừa vì quis đã mang sắc thái nghi vấn, làm cho dòng chữ đượm vẻ bí hiểm. AI ĐÃ GIẾT HIỆP SĨ? Thật khó hiểu. Cô rít một hơi thuốc dài, giữ điếu thuốc trên tay phải trong lúc dùng tay trái sắp xếp lại các tấm ảnh chụp tia X trên mặt bàn. Ai đó, nhiều khả năng là chính tác giả bức họa, đã lồng một kiểu câu đố vào bức tranh rồi giấu nó dưới một lớp sơn. Hoặc có thể là một người khác đã làm việc ấy vào một thời điểm muộn hơn. Có nghĩa là có cả một quãng thời gian xấp xỉ năm trăm năm để cô phỏng đoán thời điểm xuất hiện dòng chữ. Ý nghĩ đó khiến Julia thích thú. Tìm ra lời giải cho câu đố này hẳn sẽ không quá khó khăn. Xét cho cùng, đó chính là nghề của cô. Cô cầm các tấm ảnh lên rồi đứng dậy. Luồng sáng ảm đạm chiếu qua khung cửa sổ lớn trên mái nhà nằm nghiêng rọi thẳng vào bức tranh đặt trên giá vẽ. Bức Ván cờ, chất liệu sơn dầu trên nền gỗ, được Pieter Van Huys vẽ vào năm 1471. Cô đứng trước bức họa, chăm chú nhìn nó hồi lâu. Đó là một bức họa vẽ cảnh nội thất với những chi tiết tỉ mỉ của thế kỷ 15, kiểu bối cảnh mà cùng với nó các bậc thầy hội họa vĩ đại của trường phái Flemish, những người đầu tiên sử dụng sơn dầu, đã đặt nền móng cho hội họa hiện đại. Các nhân vật chính trong tranh là hai người đàn ông trung niên có dáng vẻ quý phái ngồi hai bên một bàn cờ với ván cờ đang chơi dở. Ở hậu cảnh phía bên phải, gần khung cửa sổ có đỉnh hình chóp mở ra phong cảnh bên ngoài, một quý bà mặc đồ đen đang chăm chú đọc cuốn sách đặt trong lòng. Bối cảnh được hoàn tất với những chi tiết tỉ mỉ điển hình của trường phái Flemish, được họa lại với sự hoàn hảo gần như ám ảnh: nội thất và đồ trang trí, nền nhà lát gạch trắng đen, các họa tiết trên tấm thảm, một vết nứt nhỏ trên tường, bóng của một cái đinh nhỏ xíu trên một trong những thanh rầm nhà. Bàn cờ và các quân cờ được thể hiện cũng chính xác như những khuôn mặt, bàn tay và trang phục của các nhân vật trong tranh, với mức độ tả thực hoàn hảo, đem đến cho toàn bộ bức họa dáng vẻ tinh xảo đến khó tin, màu sắc của nó vẫn còn sống động khác thường dù không tránh khỏi bị tối màu do quá trình ôxy hóa từ từ của lớp dầu véc ni nguyên bản. Ai đã giết hiệp sĩ? Julia nhìn xuống tấm ảnh đang cầm trong tay, rồi nhìn trở lại bức họa, không thể phát hiện ra trên đó bất cứ dấu vết nào của dòng chữ bị che giấu nếu nhìn bằng mắt thường. Thậm chí việc kiểm tra kỹ càng hơn bằng cách sử dụng một chiếc kính hiển vi hai mắt có độ phóng đại bảy lần cũng không giúp phát hiện ra điều gì. Cô kéo tấm rèm cuốn trên cửa sổ trần xuống, làm cả căn phòng chìm vào bóng tối, rồi kê một chiếc giá ba chân có lắp đèn soi tử ngoại bên trên lại gần giá vẽ. Dưới ánh đèn tử ngoại, tất cả các chất liệu lâu đời nhất, màu vẽ và dầu bóng sẽ phát huỳnh quang, trong khi những chất liệu có tuổi đời ngắn hơn sẽ hiện màu tối hoặc đen, nhờ đó để lộ ra bất kỳ chi tiết chỉnh sửa hay vẽ lại nào sau này. Tuy nhiên, trong trường hợp này ánh đèn tử ngoại chỉ làm hiện lên một bề mặt phát huỳnh quang đồng nhất, kể cả phần che đi dòng chữ. Kết quả này cho thấy những từ bí hiểm đó hoặc đã bị chính họa sĩ vẽ đè lên, hoặc đã bị che phủ không lâu sau khi bức họa hoàn tất. Cô tắt đèn và kéo rèm lên. Thứ ánh sáng xám mờ như ánh thép của buổi sáng mùa thu lại rọi vào chiếc giá vẽ và bức họa; nó tràn ngập khắp gian phòng bừa bộn sách với những chiếc giá chật ních sơn, cọ vẽ, véc ni và dung môi, sàn nhà bày la liệt dụng cụ thợ mộc, khung tranh và các dụng cụ đo chính xác, những bức tượng cổ, khung căng toan bằng gỗ và đồng, những bức tranh dựng úp vào tường, nằm trên tấm thảm Ba Tư đắt giá nhưng đã dính đầy màu. Trong một góc nhà, trên chiếc bàn viết kiểu Louis XV, đặt một dàn âm thanh hifi vây quanh bởi những chồng đĩa của: Don Cherry, Mozart, Miles Davis, Satie, Lester Bowie, Michael Hedges, Vivaldi*… Tấm gương khung mạ vàng kiểu Venice treo trên tường đang hiện lên hình ảnh hơi mờ của Julia: tóc ngang vai, hai quầng thâm nhẹ (do thiếu ngủ) dưới đôi mắt to, đen và chưa được trang điểm của cô. Mỗi khi César nhìn thấy khuôn mặt cô hiện lên giữa chiếc khung mạ vàng của tấm gương đó, ông thường nói trông cô đáng yêu như một trong những người mẫu của Leonardo da Vinci, mỹ nhân đẹp nhất của tôi. Và cho dù có thể coi César là một chuyên gia sành sỏi về các chàng trai trẻ hơn là các cô gái đẹp, Julia biết rõ những gì ông nói hoàn toàn đúng. Ngay cả cô cũng rất thích ngắm mình trong tấm gương có khung mạ vàng đó, vì nó luôn đem đến cho cô cảm giác vừa đột ngột đi qua bên kia một cánh cửa thần kỳ, một cánh cửa đã giúp cô vượt qua không gian và thời gian, trả lại cho cô hình ảnh của chính mình với tất cả sự khỏe khoắn đầy sức sống của một vẻ đẹp thời Phục hưng của Italia. Cô mỉm cười khi nghĩ về César. Cô luôn mỉm cười mỗi khi nghĩ đến ông, kể từ khi còn là một cô bé. Đó là một nụ cười trìu mến, thường cũng là một nụ cười đồng lõa. Cô đặt những tấm ảnh chụp tia X xuống bàn, dụi điếu thuốc vào chiếc gạt tàn nặng nề bằng đồng có chữ ký của nhà điêu khắc Tây Ban Nha Benlliure* rồi ngồi xuống trước chiếc máy chữ của mình. VÁN CỜ Sơn dầu trên ván gỗ. Trường phái Flemish. Vẽ năm 1471. Nghệ sĩ: Pieter Van Huys (1415-1481). Vật liệu nền: Ba tấm ván gỗ sồi được ghép lại bằng keo. Kích thước: 60 × 87 cm (gồm ba tấm ván giống hệt nhau có kích thước 20 × 87 cm). Độ dày của ván: 4 cm. Tình trạng bảo tồn vật liệu nền: Không bị cong vênh. Không có tổn hại đáng kể do mọt gây ra. Tình trạng bảo tồn bề mặt tranh: Các lớp cấu trúc gắn và liên kết với nhau tốt. Không có thay đổi về màu sắc. Có vài vết rạn do lão hóa theo thời gian, nhưng không có hiện tượng phồng hay bong tróc. Tình trạng bảo tồn lớp phủ bề mặt: Không có vết gỉ muối hay bị ẩm rõ rệt. Lớp sơn bóng bề mặt bị sẫm màu nghiêm trọng do quá trình ôxy hóa; nên tách bỏ lớp sơn véc ni cũ để sơn lại lớp véc ni mới. Bình cà phê reo lục bục trong bếp. Julia đứng dậy rót cho mình một cốc to, cà phê đen, không đường. Cô quay lại với cốc cà phê cầm ở một tay, tay kia chùi vào chiếc áo len rộng thùng thình kiểu đàn ông đang mặc bên ngoài bộ pyjama. Một cú bấm nhẹ bằng ngón trỏ, và giai điệu bản Concerto cho đàn luýt và viola trữ tình của Vivaldi tràn ngập khắp căn phòng, bồng bềnh trong ánh sáng xám mờ của buổi sáng. Cô nhấp một ngụm cà phê đen đặc quánh và đắng đến tê đầu lưỡi. Sau đó cô lại ngồi xuống, đôi chân trần đặt lên tấm thảm, và tiếp tục gõ bản báo cáo. Kiểm tra dưới đèn tử ngoại và tia X: Không phát hiện thấy thay đổi quan trọng nào, dù là chỉnh sửa hay vẽ lại sau này. Các ảnh chụp tia X cho thấy một dòng chữ khắc chìm được viết bằng kiểu chữ Gothic vào cùng thời điểm bức tranh được vẽ (xem các ảnh chụp kèm theo). Dòng chữ này không thể được phát hiện bằng các phương pháp kiểm tra thông thường. Có thể khiến cho dòng chữ lộ ra mà không làm tổn hại đến bức tranh gốc bằng cách loại bỏ lớp sơn đang phủ đè lên nó. Cô rút tờ giấy ra khỏi chiếc máy chữ, cho nó vào một chiếc phong bì cùng các bức ảnh chụp tia X, uống nốt chỗ cà phê lúc này vẫn còn nóng, rồi ngồi xuống hút một điếu thuốc nữa. Trên chiếc giá vẽ trước mặt cô, ở đằng trước quý bà chăm chú đọc sách bên cửa sổ, hai kỳ thủ đang để hết tâm trí vào ván cờ tới giờ đã kéo dài được năm thế kỷ, ván cờ được Pieter Van Huys họa lại một cách chân thực và tài tình đến mức, giống như tất cả những chi tiết khác trong bức tranh, những quân cờ trông như thể nổi bật hẳn lên trên bề mặt. Cảm giác hiện thực rõ rệt đến mức bức tranh dễ dàng đạt được những hiệu ứng mà các bậc thầy Flemish cổ điển tìm kiếm: đưa người xem hòa nhập vào tổng thể của bức họa, thuyết phục anh ta rằng không gian anh ta đang đứng cũng chính là không gian được thể hiện trong tác phẩm, như thể bức họa là một mảnh ghép của thực tế, hay thực tế là một mảnh ghép của bức họa. Bổ sung cho hiệu ứng này là khung cửa sổ bên phải của bối cảnh, mở ra một phong cảnh nằm phía sau bối cảnh trung tâm, và một tấm gương lồi tròn treo trên bức tường bên trái, phản chiếu hình ảnh thu nhỏ của các kỳ thủ và bàn cờ, bị biến dạng theo đúng góc nhìn phối cảnh của người xem, những người sẽ đứng đối diện với bối cảnh trong tranh. Nhờ đó, bức họa đã đạt được thành công đáng kinh ngạc trong việc kết hợp ba tầng mặt phẳng – khung cửa sổ, căn phòng và tấm gương – vào một không gian. Như thể, Julia thầm nghĩ, người xem được phản chiếu vào giữa hai kỳ thủ, vào hẳn bên trong bức tranh. Cô đứng dậy đến bên giá vẽ. Khoanh hai tay trước ngực, cô đứng nhìn bức họa hồi lâu, hoàn toàn bất động, ngoại trừ việc thỉnh thoảng rít một hơi thuốc lá và nheo mắt trước làn khói. Một trong hai kỳ thủ, người ngồi bên trái, có vẻ chừng ba mươi lăm tuổi. Mái tóc nâu của ông ta được cạo sát ngay bên trên tai theo kiểu thời Trung cổ; ông ta có chiếc mũi diều hâu mạnh mẽ, cái nhìn tập trung cao độ. Ông ta mặc một chiếc áo chẽn được vẽ bằng một thứ màu đỏ mà đáng ngưỡng mộ thay, đã kháng cự lại cả thời gian và quá trình ôxy hóa của lớp sơn dầu. Người đàn ông này đeo trên cổ phù hiệu Hiệp sĩ Cừu Vàng* và gắn bên vai phải là một cây trâm vô cùng tinh xảo, các đường nét chạm khắc trên đó được vẽ lại rất chi tiết tỉ mỉ, thậm chí cả nhưng tia sáng nhỏ long lanh trên mỗi viên đá quý. Ông ta ngồi với khuỷu tay trái và bàn tay phải đặt xuống hai bên bàn cờ. Giữa các ngón tay của bàn tay phải, ông ta đang cầm một quân cờ: một quân hiệp sĩ trắng*. Bên cạnh đầu ông ta là dòng chú thích nhận diện viết bằng kiểu chữ Gothic: FERDINANDUS OST. D. Kỳ thủ còn lại có vóc người gầy hơn, trạc bốn mươi tuổi. Trán ông ta nhẵn thín, và mái tóc màu sậm gần như đen bắt đầu ngả xám ở hai bên thái dương, nơi chỉ có thể lờ mờ nhận ra những nét cọ trắng loại mảnh nhất. Chi tiết này, cùng với vẻ mặt và toàn bộ thần thái ở con người ông ta, đem đến cho kỳ thủ thứ hai vẻ chín chắn từng trải hơn độ tuổi. Khuôn mặt nhìn nghiêng của ông ta toát lên vẻ bình thản và cao quý. Không như kỳ thủ thứ nhất, người đàn ông này không mặc triều phục sang trọng mà chỉ khoác trên mình một chiếc áo giáp da đơn giản với miếng giáp che cổ bằng thép sáng bóng, đem lại cho người mặc dáng vẻ của một chiến binh không lẫn vào đâu được. Ông ta cúi người xuống bàn cờ nhiều hơn đối thủ của mình, như thể đang dồn hết tâm trí vào ván cờ, dường như hoàn toàn lãng quên mọi thứ xung quanh mình, hai cánh tay ông ta khoanh lại bên mép bàn. Sự tập trung cao độ của người đàn ông có thể được thấy rõ qua những nếp nhăn mờ thẳng đứng giữa hai bên lông mày của ông ta. Ông ta nhìn chăm chăm vào các quân cờ như thể chúng đang thách thức ông ta với một tình thế cực kỳ khó khăn mà người ta phải dốc hết năng lực trí tuệ mới có thể tìm ra lời giải. Dòng chú thích trên đầu ông ta ghi: RUTGIER AR. PREUX. Quý bà ngồi bên cửa sổ được tách riêng ra khỏi hai kỳ thủ bằng việc sử dụng một đường phối cảnh sắc bén đưa bà lên một mặt phẳng cao hơn bên trong khuôn khổ bức tranh. Lớp vải nhung đen trên chiếc váy của bà, được tạo độ phồng với những chỗ điểm xuyết khéo léo bằng bóng mờ màu trắng và xám, dường như đang vượt ra khỏi bức tranh và hướng về phía người xem. Vẻ chân thực của nó không hề kém cạnh ngay cả khi so sánh với những chi tiết tỉ mỉ đến hoàn hảo của đường viền tấm thảm, hay độ chính xác trong việc thể hiện sàn nhà lát gạch cũng như từng mắt gỗ, khớp nối và từng ván gỗ trên rầm nhà. Nhoài người lại gần bức tranh để nghiên cứu những hiệu ứng này kỹ càng hơn, Julia run lên vì cảm giác ngưỡng mộ của một người trong nghề trào lên trong lòng. Chỉ một bậc thầy như Van Huys mới có thể sử dụng màu đen trên một bộ xiêm y ấn tượng đến vậy, tận dụng màu sắc bằng chính sự thiếu hụt màu sắc ở một mức độ mà ít người dám làm. Và tất cả sống động đến mức Julia có cảm giác bất cứ lúc nào cô cũng có thể nghe thấy tiếng sột soạt khe khẽ của nhung trên lớp da được chạm nổi của chiếc ghế đẩu lùn. Cô ngắm nhìn khuôn mặt người phụ nữ. Một khuôn mặt rất xinh đẹp và quá nhợt nhạt so với mốt thời thượng lúc bấy giờ. Mái tóc dày vàng óng được cẩn thận chải mượt mà từ hai bên thái dương ra phía sau và búi gọn lại trong một tấm mạng màu trắng. Hai cánh tay nằm trong lần vải dệt hoa Damask màu xám nhạt, hé ra từ trong các ống tay áo xòe; hai bàn tay dài và mảnh mai cầm một cuốn sách ghi các bài kinh cầu nguyện. Ánh sáng chiếu qua khung cửa sổ làm lóe lên ánh kim loại từ cả chiếc khóa cài đang mở của cuốn sách lẫn chiếc nhẫn vàng duy nhất tô điểm cho bàn tay của người phụ nữ. Hai hàng mi đang cụp xuống, che khuất đôi mắt chắc hẳn có màu xanh lam, thể hiện vẻ bình yên và khiêm tốn đầy đức hạnh đặc trưng của chân dung phụ nữ thời kỳ đó. Ánh sáng trong tranh đến từ hai nguồn, khung cửa sổ và tấm gương, vừa kết nối người phụ nữ với hai kỳ thủ vừa tách bà riêng ra một cách tinh tế, khiến chân dung người phụ nữ càng trở nên ấn tượng hơn với các góc nhìn theo phối cảnh và các mảng bóng tối. Dòng chú thích của người phụ nữ ghi: BEATRIZBURG. OST. D. Julia lùi lại vài bước để nhìn tổng thể bức họa. Không còn nghi ngờ gì nữa: đây là một kiệt tác, với đầy đủ tài liệu làm bằng chứng được các chuyên gia công nhận. Có nghĩa nó sẽ đạt được một mức giá cao trong cuộc bán đấu giá do công ty Claymore tổ chức vào tháng Một. Biết đâu một dòng chữ được giấu kín, cùng với những tài liệu bằng chứng lịch sử phù hợp, sẽ còn nâng giá trị của bức tranh lên cao hơn nữa. Mười phần trăm cho Claymore, năm phần trăm cho Menchu Roch, phần còn lại cho chủ sở hữu của bức tranh. Chưa đến một phần trăm cho phí bảo hiểm cũng như thù lao của cô trong việc phục chế và làm sạch bức họa. Cô cởi quần áo, bước vào dưới vòi hoa sen, cửa để mở, cho phép giai điệu của Vivaldi tiếp tục bầu bạn với mình dưới làn hơi nước. Phục chế bức Ván Cờ để đưa nó ra thị trường nghệ thuật có thể đem lại cho cô một khoản kha khá. Chỉ trong vòng vài năm sau khi được cấp bằng, Julia đã tạo dựng được danh tiếng vững chắc và trở thành một trong những chuyên gia phục chế tác phẩm nghệ thuật được các bảo tàng và nhà buôn đồ cổ săn đón nhất. Làm việc có phương pháp và nghiêm ngặt, bản thân cũng là họa sĩ vào thời gian rảnh, cô được biết đến như một chuyên gia phục chế luôn tôn trọng tác phẩm gốc, một khía cạnh mang tính đạo đức không phải lúc nào các đồng nghiệp của cô cũng đồng tình. Trong mối quan hệ tinh thần đầy khó khăn và thường khá lúng túng giữa một chuyên gia phục chế và tác phẩm mà anh ta hay cô ta phải xử lý, trong cuộc giằng co quyết liệt giữa bảo tồn và phục chế mới, cô gái trẻ có ưu điểm là không bao giờ để tầm nhìn của mình chệch khỏi một nguyên lý cơ bản: không tác phẩm nghệ thuật nào có thể được phục chế về trạng thái nguyên thủy của nó mà không phải chấp nhận những tổn thất đáng kể. Julia tin rằng những điều như quá trình lão hóa tự nhiên theo thời gian, những lớp gỉ, sự thay đổi của màu sắc và lớp véc ni, thậm chí cả những tì vết, những chỗ vẽ lại hay chỉnh sửa, tất cả, cùng với dòng chảy của thời gian, đều trở thành một hợp phần hữu cơ của tác phẩm nghệ thuật, không kém gì sáng tác ban đầu. Có lẽ cũng vì điều đó, những bức họa từng qua tay cô chưa bao giờ gặp nguy cơ bị trang hoàng lại bởi những màu sắc và ánh sáng lạ hoắc mới tinh được giả thiết là vóc dáng ban đầu của chúng – “những ả điếm bự son dày phấn,” César vẫn hay gọi chúng như thế – mà luôn được xử lý một cách tinh tế, cho phép hòa nhập các dấu ấn của thời gian vào tác phẩm. Cô bước ra khỏi phòng tắm, người quấn trong một chiếc áo choàng, mái tóc ướt đẫm nhỏ nước xuống hai bờ vai. Châm một điếu thuốc lá nữa, cô đứng trước bức họa trong lúc mặc đồ: một đôi giày đế thấp, một chiếc váy có xếp li màu nâu và một chiếc áo khoác da. Cô đưa mắt nhìn hình ảnh của mình trong tấm gương Venice treo trên tường một cách hài lòng, rồi quay sang hai kỳ thủ mặt mày căng thẳng và nháy mắt với họ đầy khiêu khích. Ai đã giết hiệp sĩ? Trong lúc cô cho những bức ảnh và bản báo cáo vào túi, câu hỏi đó cứ lởn vởn trong đầu cô như một câu đố đầy thách thức. Cô bật hệ thống báo động điện tử lên, rồi xoay hai vòng chìa trong ổ khóa an toàn. Quis necavit equitem. Theo cách này hay cách khác, câu hỏi đó phải có ý nghĩa nào đó. Cô nhẩm đi nhẩm lại những từ đó trong lúc xuống cầu thang, lướt các ngón tay theo lan can mạ đồng thau. Cô thực sự bị bức tranh và dòng chữ bí ẩn khơi dậy trí tò mò, song vẫn còn một chuyện khác nữa: Cô đang có một dự cảm xấu rất lạ, giống hệt như cảm giác cô đã từng có khi còn là một cô bé đứng ở đầu cầu thang, cố tìm đủ can đảm để nhìn vào tầng áp mái tối om. ♛ ♛ ♛ “Cô phải thừa nhận kia quả là một kiệt tác tuyệt đẹp. Thuần chất quattrocento*.” Không phải Menchu Roch đang nhắc đến một trong những bức họa đang được trưng bày trong phòng tranh mang tên bà. Đôi mắt nhạt màu được trang điểm rất đậm của bà đang nhấn nhá dừng lại trên đôi vai vạm vỡ của Max, anh chàng đang nói chuyện với một người quen của anh ta tại quầy phục vụ cà phê. Max cao một mét tám mươi, với đôi vai của một vận động viên bơi lội dưới chiếc áo khoác được cắt may hoàn hảo. Anh ta cột mái tóc dài của mình ra sau gáy thành một túm đuôi ngựa ngắn với một dải ruy băng lụa sẫm màu và cử động với phong thái uyển chuyển một cách biếng nhác. Menchu ngắm nhìn anh ta hồi lâu với vẻ tán thưởng, rồi nhấp một ngụm martini trong ly của bà, không che giấu sự hài lòng đặc trưng của người sở hữu. Anh chàng này chính là nhân tình mới nhất của bà. “Thuần chất quattrocento,” bà lặp lại, nhâm nhi cả những từ ngữ đó lẫn món đồ uống của mình. “Anh ta có làm cô liên tưởng tới một trong những bức tượng đồng Italia tuyệt vời không?” Julia miễn cưỡng gật đầu. Hai người đã trở thành bạn bè từ lâu, nhưng vẻ thoải mái của Menchu trong việc thêm những ngụ ý đầy khêu gợi vào bất cứ nhận xét nào liên quan đến nghệ thuật dù chỉ là mơ hồ nhất chưa bao giờ khiến cô thôi ngạc nhiên. “Một bức tượng đồng Italia, ý tôi muốn nói tới một trong những bức tượng nguyên bản, sẽ rẻ hơn nhiều.” Menchu bật ra một tiếng cười ngắn đượm vẻ chua chát. “Rẻ hơn Max ư? Chắc vậy rồi.” Bà thở dài một cách hơi phô trương rồi cắn vào quả ô liu trang trí trên ly martini của mình. “Michelangelo quả là may mắn; ông ta tạc nên các anh chàng đó hoàn toàn khỏa thân. Ông ta không phải trang trải các hóa đơn mua sắm quần áo cho bọn họ qua thẻ American Express.” “Không ai buộc bà phải thanh toán các hóa đơn cho anh ta.” “Tất cả vấn đề nằm ở đấy, cô em thân mến,” Menchu nói, chớp mắt một cách uể oải như thể đang diễn kịch. “Rằng chẳng có ai buộc tôi phải làm chuyện đó cả, ý tôi là vậy. Thế nên cô thấy không…” Bà uống nốt ly martini, luôn chú ý giữ cho ngón tay út ghếch lên; bà làm vậy một cách có chủ ý, hoàn toàn để khiêu khích. Menchu đang ở gần cột mốc năm mươi tuổi hơn là bốn mươi và luôn kiên định với niềm tin rằng tình dục có thể được tìm thấy ở bất cứ nơi nào, kể cả trong những sắc thái mơ hồ nhất của một tác phẩm nghệ thuật. Có lẽ cũng vì thế bà có thể ngắm nhìn những người đàn ông bằng chính con mắt đầy ham muốn pha lẫn toan tính mà bà vẫn dùng khi đánh giá tiềm năng của một bức tranh. Với những người biết rõ bà, chủ nhân của phòng trưng bày Roch luôn có tiếng chưa bao giờ để lỡ dù chỉ một cơ hội để đoạt lấy bất cứ thứ gì thu hút sự chú ý của bà, cho dù đó là một bức tranh, một người đàn ông hay một vệt bột cocain. Bà vẫn còn hấp dẫn, cho dù tuổi tác đã khiến việc tảng lờ đi cái mà César vẫn cay độc nhắc đến như một thứ “thẩm mỹ sai niên đại” mỗi lúc một khó khăn hơn. Menchu không chấp nhận để mình trở nên già đi, chủ yếu vì bà không muốn vậy. Và, có lẽ như một cách thách thức bản thân, bà chống lại nó bằng cách chọn cho mình một phong cách thô thiển có tính toán trong trang điểm, trang phục và cả người tình. Phần còn lại, đúng như niềm tin rằng những người kinh doanh tác phẩm nghệ thuật và đồ cổ chẳng khác gì những tay buôn đồng nát được tô điểm cho bảnh chọe, bà luôn đóng vai một kẻ thiếu văn hóa, một điều còn xa mới là sự thật, luôn chủ tâm sử dụng các trích dẫn về nghệ thuật và văn chương một cách cẩu thả, và công khai giễu cợt chính cái thế giới khá chọn lọc nơi bà gây dựng nên sự nghiệp của mình. Bà khoe khoang tất cả những điều này với cùng sự thẳng thắn như có lần bà từng tuyên bố rằng đã trải qua sự cực khoái tuyệt vời nhất đời mình khi thủ dâm trước một bản sao tượng David của nhà điêu khắc Italia Donatello đã được đánh số và lập danh sách trong ca ta lô, một giai thoại mà César, với sự tàn nhẫn tinh tế gần như nữ tính của ông, luôn trích dẫn như ví dụ duy nhất về khiếu thẩm mỹ đích thực mà Menchu Roch từng bộc lộ trong cuộc đời mình. “Vậy chúng ta sẽ làm gì với bức họa của Van Huys đây?” Julia hỏi. Menchu nhìn lần nữa vào những bức ảnh chụp tia X đang nằm trên mặt bàn giữa ly rượu của bà và cốc cà phê của cô bạn trẻ. Bà đánh phấn mắt màu xanh và mặc chiếc váy cũng màu xanh, một chiếc váy quá ngắn đối với bà. Julia thầm nghĩ, hầu như không hề có chút ác ý nào, rằng có lẽ hai mươi năm trước Menchu chắc hẳn trông thực sự rất đẹp khi mặc màu xanh. “Tôi vẫn chưa rõ,” Menchu nói. “Claymore đã cam kết sẽ đưa bức tranh ra đấu giá với đúng giá trị của nó… Chúng ta sẽ phải cân nhắc xem dòng chữ đó có ảnh hưởng tới giá trị của nó như thế nào.” “Hãy chỉ nghĩ xem dòng chữ đó có nghĩa gì thôi.” “Tôi thích điều này đấy. Cô đã trúng độc đắc mà thậm chí còn không nhận ra chuyện đó.” “Hãy hỏi chủ của bức tranh xem ông ta muốn làm gì.” Menchu cho mấy bức ảnh lại vào phong bì, rồi bắt tréo chân. Hai người đàn ông trẻ đang uống rượu khai vị ở bàn kế bên lén đưa mắt ném những cái nhìn đầy hứng thú về phía cặp đùi rám nắng của bà. Julia không khỏi thấy bồn chồn xen lẫn chút bực bội. Cô vẫn thường thấy thú vị trước cách thức công khai mà Menchu hay làm để tạo ra ấn tượng đặc biệt nhằm thu hút những đối tượng khán giả nam giới của mình, song đôi lúc cô cảm thấy những màn trình diễn kiểu đó hoàn toàn không cần thiết. Cô nhìn xuống chiếc đồng hồ hãng Omega mặt vuông đeo quay mặt vào trong trên cổ tay trái. Vẫn còn quá sớm để một người đàn bà phô diễn bộ đồ lót gợi tình nhất của mình ra. “Về phần chủ của bức tranh, sẽ không có rắc rối gì đâu,” Menchu giải thích. “Ông ta là một ông lão vui tính ngồi xe lăn. Và nếu việc khám phá ra dòng chữ làm tăng khoản lợi nhuận mà ông ta thu được, ông ta sẽ chỉ càng thêm hài lòng… Cô cháu gái của ông ta và anh chồng là một cặp đỉa hút máu thứ thiệt.” Max vẫn đang tán gẫu ở quầy bar, nhưng luôn ý thức được trách nhiệm của mình, thỉnh thoảng anh ta quay lại để tặng Julia và Menchu một nụ cười chói lóa. Đúng là một con đỉa hút máu người thứ thiệt, Julia thầm nghĩ, song quyết định không nói ra thành lời. Không phải vì Menchu sẽ phật ý khi nghe nó – bà luôn thể hiện một thái độ hoài nghi chua chát đáng ngưỡng mộ mỗi khi nhắc tới đàn ông – song Julia là người có ý thức rất cao về phép tắc, điều luôn giúp cô dừng lại đúng lúc để không đi quá xa. Tảng lờ Max, cô nói: “Chỉ còn hai tháng nữa là tới cuộc bán đấu giá. chừng đó thời gian chắc chắn không đủ nếu tôi phải tẩy đi lớp véc ni bên trên, loại bỏ lớp sơn che phủ dòng chữ, rồi quét lại véc ni. Ngoài ra, việc tập hợp các tài liệu liên quan tới bức họa cùng những nhân vật trong đó và viết lại thành một báo cáo cũng cần đến thời gian. Tốt nhất nên xin phép chủ sở hữu càng sớm càng tốt.” Menchu đồng ý, tính cách đồng bóng phù phiếm của bà không bao giờ lấn sang công việc chuyên môn, trong lĩnh vực này lúc nào bà cũng hành động với tất cả sự khôn khéo của một kẻ lão luyện sành sỏi. Bà đang giữ vai trò trung gian trong cuộc rao bán này, vì chủ sở hữu bức họa của Van Huys không biết chút gì về cách thức hoạt động của thị trường nghệ thuật. Chính bà là người đã đảm đương việc thương thảo với chi nhánh của Claymore ở Madrid để đưa bức tranh ra bán đấu giá. “Mai tôi sẽ gọi điện cho ông ta. Ông ta là don* Manuel Belmonte, bảy mươi tuổi, và theo lời ông ta, ông ta rất vui khi được hợp tác với một phụ nữ trẻ xinh đẹp mà lại có đầu óc công việc đến thế.” Còn một việc nữa, Julia chỉ ra. Nếu dòng chữ vừa được phát hiện có khả năng liên quan tới câu chuyện của các nhân vật trong tranh, chắc chắn Claymore sẽ dựa vào đó để nâng giá chào bán lên. “Bà đã xoay xở để thu thập được thêm tài liệu hữu ích nào chưa?” “Rất ít,” Menchu nói, bà mím môi trong lúc cố vắt óc nhớ lại. “Tôi đã đưa cho cô tất cả những gì tôi có cùng với bức tranh. Vậy nên cô sẽ phải tự tìm hiểu thêm vậy.” Julia mở túi xách và dành nhiều thời gian hơn mức cần thiết để tìm thuốc lá của mình. Cuối cùng, cô chậm rãi lấy ra một điếu thuốc và đưa mắt nhìn người bạn. “Chúng ta có thể hỏi Alvaro.” Menchu nhướng mày và lập tức nói rằng ý tưởng ấy khiến bà chết điếng, hay hóa muối, hay một cách diễn đạt nào đó đại loại như thế, giống như bà vợ của Noah, hay của Lot? Nói tóm lại, giống bà vợ của gã ngớ ngẩn đã thấy ngán tận cổ cuộc sống ở Sodom*. “Tất nhiên là tùy cô thôi,” bà nói, giọng bà hơi khàn đi vì trông đợi. Bà có thể cảm nhận thấy một sự xúc động mạnh mẽ trong không khí. “Nói cho cùng, cô và Alvaro…” Bà bỏ dở câu nói và phô ra bộ dạng quan tâm hơi phóng đại thái quá, như bà vẫn luôn làm bất cứ lúc nào chủ đề nói chuyện chuyển sang những rắc rối của người khác, những người bà vẫn thích coi là những kẻ không thể tự bảo vệ bản thân trong chuyện tình cảm. Julia giữ nguyên ánh nhìn, không chút bối rối và chỉ nói: “Anh ta là nhà sử học nghệ thuật giỏi nhất mà chúng ta biết. Và chuyện này không liên quan gì đến tôi, mà đến bức họa.” Menchu giả bộ cân nhắc vấn đề một cách nghiêm túc rồi gật đầu. Dĩ nhiên việc này là tùy vào Julia. Nhưng nếu ở vị trí của Julia, bà nhất định sẽ không làm vậy. In dubio pro reo*, như ông già César hay lên lớp luôn nói. Hay là in pluvio* nhỉ? “Tôi có thể đảm bảo với bà rằng, về chuyện của Alvaro, tôi đã hoàn toàn bình phục rồi.” “Cưng ạ, có một số loại bệnh người ta chẳng thể nào vượt qua. Và một năm chưa là gì cả. Như lời bài hát ấy đã nói.” Julia không thể dừng được một nụ cười đầy giễu cợt dành cho chính mình. Một năm trước, Alvaro và cô đã đặt dấu chấm hết cho một cuộc tình dài, và Menchu biết tất cả về nó. Chính Menchu, một cách khá vô tình, đã đưa ra lời phán quyết cuối cùng, một câu nói đi thẳng tới tâm điểm của vấn đề, một lời tổng kết chua chát theo kiểu: Cuối cùng thì, cô gái thân mến của tôi ơi, một gã đàn ông đã lập gia đình kiểu gì cũng nghiêng về phía bà vợ chính thức của anh ta. Bấy nhiêu năm giặt đồ lót và sinh con luôn chứng tỏ chúng là yếu tố quyết định. “Chỉ đơn giản đó là bản chất của họ rồi,” bà tổng kết lại giữa hai lần hít mạnh, mũi dán sát xuống một dải bột cocain. “Trong sâu thẳm con người, bọn họ đều là những gã chung thủy đến bệnh hoạn.” Thêm một cú hít nữa. “Đám con hoang mắc dịch.” Julia thở ra một đám khói đặc quánh rồi chậm rãi nhâm nhi nốt chỗ cà phê còn lại của cô, cố không để sánh ra ngoài. Cuộc chia tay đó quả thực rất đau đớn, khi những lời cuối cùng đã được nói ra và cánh cửa đã được đóng sập lại. Và nó vẫn tiếp tục đau âm ỉ ngay cả sau đó. Hai hay ba dịp Alvaro và cô tình cờ gặp nhau trong các buổi thuyết trình hay tại các bảo tàng, cả hai đều xử sự với vẻ kiên cường mẫu mực: “Trông anh tuyệt lắm.” “Em nhớ chăm sóc bản thân nhé.” Nói cho cùng, cả hai đều coi mình là những con người văn minh, vốn chia sẻ cùng một mối quan tâm trong thế giới nghệ thuật bên ngoài mảnh quá khứ chung đó. Nói tóm lại, họ đều đã trưởng thành, đều là người lớn. Cô biết rằng Menchu đang quan sát mình một cách hứng thú đầy ma mãnh, hân hoan dự đoán về một cuộc phiêu lưu tình ái vụng trộm mới mà bà có thể can dự vào với tư cách một cố vấn chiến thuật. Bà vẫn không ngừng phàn nàn rằng từ khi Julia cắt đứt với Alvaro, những mối quan hệ tiếp theo của cô diễn ra thưa thớt đến mức hầu như chẳng đáng nhắc đến: “Cô đang trở nên khắt khe quá đấy, cô gái thân mến,” bà luôn nói vậy, “và điều đó thật tẻ nhạt chết đi được. Thứ cô cần là một chút đam mê, đắm mình trở lại trong vòng xoáy của ái tình.” Từ góc nhìn đó, chỉ riêng việc nhắc đến Alvaro dường như cũng đủ cho phép nghĩ tới những khả năng vô cùng thú vị. Julia nhận ra tất cả những điều này nhưng không hề cảm thấy khó chịu một chút nào. Menchu là Menchu và bà vẫn luôn là thế. Bạn không chọn những người bạn của mình, chính họ là người chọn bạn, và hoặc bạn chối bỏ họ, hoặc chấp nhận họ mà không hề nghi ngại. Đó là một điều nữa cô đã học được từ César. Điếu thuốc đã cháy gần hết, cô liền dụi nó vào gạt tàn và uể oải mỉm cười với Menchu. “Alvaro không phải là điều quan trọng. Thứ làm tôi bận tâm là bức tranh của Van Huys.” Cô ngập ngừng, cố tìm đúng từ thích hợp để diễn tả thật rõ ý nghĩ của mình. “Có điều gì đó lạ lùng ở bức tranh này.” Menchu lơ đãng nhún vai, như thể bà đang nghĩ đến một chuyện khác. “Đừng quá đau đầu vể chuyện đó, cô em yêu quý. Một bức tranh chỉ đơn giản là toan vẽ, gỗ, màu và véc ni. Điều đáng bận tâm là nó để lại bao nhiêu tiền trong túi cô khi nó được chuyển sang tay chủ mới.” Bà đưa mắt nhìn về phía đôi vai vạm vỡ của Max và nháy mắt đầy tự mãn. “Những thứ còn lại chỉ là chuyện cổ tích cho trẻ con mà thôi.” ♛ ♛ ♛ Trong suốt thời gian qua lại với Alvaro, Julia luôn nghĩ về anh như một người phù hợp hoàn hảo với những khuôn mẫu chuyên nghiệp khắt khe nhất, phù hợp tới cả vẻ bề ngoài và phong cách ăn mặc của anh. Anh có ngoại hình dễ ưa, khoảng hơn bốn mươi tuổi, hay mặc những chiếc áo vest bằng vải tuýt kiểu Anh, đeo cà vạt len, và, trên hết, hút thuốc bằng tẩu. Lần đầu tiên khi cô trông thấy anh bước vào giảng đường – chủ đề hôm đó của anh là “Nghệ thuật và con người” – cô đã mất hẳn mười lăm phút trước khi thực sự nghe được những gì anh đang nói, vì cô vốn không thể tin bất cứ ai có vẻ ngoài trông giống một vị giáo sư trẻ đến thế lại thực sự là một vị giáo sư. Sau đó, khi Alvaro cho lớp nghỉ cho đến buổi học của tuần tiếp theo và khi tất cả sinh viên đang ùa ra ngoài hành lang, cô đã tới gặp anh như thể đó là việc tự nhiên nhất trên đời, dù cô biết quá rõ những gì sẽ xảy đến: tình tiết cũ rích của một câu chuyện cũng chẳng có gì mới mẻ, kịch bản kinh điển về mối quan hệ thầy – trò, và Julia chỉ đơn giản là diễn tiếp vở kịch ấy, thậm chí từ trước cả khi Alvaro, lúc đó đang đi qua cửa lớp học, quay lại mỉm cười với cô lần đầu tiên. Có điều gì đó tất yếu trong toàn bộ câu chuyện này – hay ít nhất đó là những gì Julia cảm thấy khi cô đắn đo cân nhắc về những điều được mất từ nó – chút mơ mộng về một fatum* cổ điển đầy ngọt ngào, về những con đường do Số phận chỉ dẫn, một cách nhìn cô vẫn luôn cổ vũ từ ngày còn học phổ thông, khi cô dịch những vở kịch xuất chúng về gia đình của tác gia Hy Lạp đầy ảnh hưởng đó, ngài Sophocles. Cô đã không đủ can đảm để nhắc đến chuyện này với César cho tới mãi sau này, còn ông, người luôn đóng vai người chia sẻ mọi tâm tình thầm kín của cô trong chuyện tình cảm suốt nhiều năm qua – lần đầu có lẽ là từ khi Julia vẫn còn đang đi tất ngắn và để tóc đuôi sam – chỉ bình thản nhún vai rồi, bằng giọng điệu nông cạn một cách có chủ ý, lên tiếng phê phán cách lựa chọn vô cùng thiếu độc đáo một cốt truyện mà, cô bé yêu quý của bác ơi, vốn đã cung cấp cảm hứng lãng mạn cho chí ít cũng ba trăm cuốn tiểu thuyết và chẳng ít hơn từng ấy bộ phim, nhất là – đến đây ông chường ra một khuôn mặt đầy vẻ dè bỉu – nhất là phim Pháp và phim Mỹ: “Và bác tin chắc cháu sẽ đồng ý với bác, công chúa thân mến ạ, rằng điều đó đã rọi một thứ ánh sáng mới mẻ và thực sự kinh khủng xuống toàn bộ vấn đề này.” Nhưng tất cả chỉ có vậy. César không bao giờ đi xa tới những nhận xét đượm vẻ trách cứ hay những lời cảnh báo của một người cha, điều mà cả hai người đều hiểu quá rõ sẽ chẳng đem lại gì hữu ích. César không có đứa con đẻ nào, mà cũng sẽ không bao giờ có, song quả thực ông đặc biệt tinh tế khi xử trí những tình huống như thế. Ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời mình, César đã nhận ra rằng chẳng có ai từng học được điều gì từ những sai lầm của bất cứ người nào khác, vậy nên một người bảo trợ chỉ nên có một thái độ đúng đắn và đáng tôn trọng duy nhất – mà nói cho cùng đó quả thực đúng là vị thế của ông – và thái độ đó bao gồm ngồi xuống bên cạnh con người trẻ tuổi được ông bảo trợ, nắm lấy bàn tay cô và lắng nghe câu chuyện về những mối tình và những nỗi muộn phiền của cô với lòng nhân ái vô bờ, để yên cho tự nhiên đi theo con đường khôn ngoan và không thể tránh khỏi của nó. “Trong chuyện tình cảm, công chúa thân mến,” César thường hay nói, “người ta không nên đưa ra lời khuyên hay giải pháp… chỉ cần một chiếc khăn mùi soa sạch vào thời điểm thích hợp.” Và đó chính xác là những gì ông đã làm khi mọi thứ giữa cô và Alvaro chấm dứt, vào buổi tối hôm đó, khi cô tìm tới căn hộ của César, vật vờ như một kẻ mộng du, mái tóc vẫn còn ướt, và ngủ thiếp đi trong lòng ông. Nhưng chuyện đó diễn ra rất lâu sau cuộc gặp gỡ đầu tiên ngoài hành lang của trường đại học, thời điểm vẫn chưa hề có biến động nào đáng để ý tới ngoài kịch bản đã được tiên liệu trước. Vở diễn cứ thế trôi đi theo cách thức dễ đoán vốn đã được bao bước chân đi mòn lối, song dẫu thế vẫn chứng minh sự hài lòng mà nó đem lại quả là không ngờ. Julia từng có những mối quan hệ khác, nhưng trước đó chưa bao giờ – như vào buổi chiều khi lần đầu tiên cô và Alvaro cùng gieo mình xuống một chiếc giường chật hẹp trong phòng khách sạn – cô cảm thấy sự cần thiết phải nói ra câu “Em yêu anh” như thể đó là tiếng vọng nức nở từ một con tim đang bị vò xé, đồng thời tự lắng nghe mình nói ra những từ đó với tâm trạng ngỡ ngàng đầy vui sướng, những từ cô vẫn luôn từ chối nói ra, bằng một giọng nói hầu như cô không còn nhận ra là của mình nữa, mà giống một tiếng rên rỉ hay một lời than thở nhiều hơn. Thế là, vào một buổi sáng, khi cô thức giấc, mặt áp vào ngực Alvaro, cô đã cẩn thận vuốt những lọn tóc xõa xuống khuôn mặt mình, rồi ngắm những đường nét trên khuôn mặt nhìn nghiêng của anh trong lúc anh còn đang ngủ một hồi lâu, cảm nhận nhịp đập nhẹ nhàng của trái tim anh trên má cô, cho tới khi anh mở mắt và mỉm cười đáp lại. Trong khoảnh khắc đó, Julia biết một cách hoàn toàn chắc chắn rằng cô yêu anh, và cô cũng biết rồi đây cô sẽ còn có những người tình khác, nhưng cô sẽ không bao giờ tìm lại được thứ cảm xúc cô đang cảm thấy khi ở bên anh. Hai mươi tám tháng sau, những tháng cô đã sống qua và gần như đếm từng ngày, cuối cùng cũng đến lúc bừng tỉnh đau đớn khỏi mối tình đó, đến lúc cô cần tới chiếc khăn mùi soa trứ danh của César. “Cái khăn mùi soa đáng ghê sợ,” ông đã gọi nó như thế, đầy chất kịch như bất cứ lúc nào khác, nửa đùa cợt nhưng cũng sáng suốt như nàng Cassandra*, “chiếc khăn chúng ta giơ lên vẫy chào khi chia tay nhau mãi mãi.” Và về cơ bản, đó là câu chuyện xảy ra giữa họ. Một năm đủ để làm các vết thương lành sẹo, nhưng những kỷ niệm thì không, những kỷ niệm mà dù sao Julia cũng không có ý định ném vào quên lãng. Cô đã trưởng thành lên khá nhanh, và toàn bộ quá trình biến đổi về tinh thần ấy đã kết tinh thành niềm tin – mà cô rút ra không chút xấu hổ từ những gì César rao giảng – rằng cuộc sống cũng giống như một nhà hàng sang trọng đắt tiền, nơi mà sớm hay muộn ai đó cũng sẽ đưa cho bạn hóa đơn thanh toán, nhưng nói vậy không có nghĩa là bạn phải chối bỏ niềm vui và khoái cảm mà những món ăn bạn đã ăn mang lại. Lúc này, Julia đang nghĩ ngợi về chuyện đó trong khi quan sát Alvaro ngồi tại bàn làm việc, lật giở từng trang của một cuốn sách và ghi chú lên những tấm thẻ màu trắng, vẻ ngoài của anh hầu như không hề thay đổi, ngoại trừ mái tóc có thêm vài sợi bạc. Đôi mắt anh vẫn bình thản và thông minh như trước. Cô từng yêu đôi mắt đó biết chừng nào, cũng như đôi bàn tay thon dài với móng tay tròn cắt tỉa gọn gàng. Cô ngắm nhìn trong lúc các ngón tay anh lật giở từng trang sách, cầm bút, và bỗng cảm thấy bối rối bất an khi nghe thấy một tiếng vọng buồn bã xa xăm, thế rồi sau một thoáng thầm suy nghĩ, cô quyết định chấp nhận nó như một chuyện hoàn toàn bình thường. Giờ đây đôi bàn tay anh không còn thổi bùng lên trong cô cùng một thứ cảm xúc như trước, nhưng dẫu sao chúng cũng từng vuốt ve mơn trớn cơ thể cô. Mỗi lần tiếp xúc dù nhỏ nhất với đôi bàn tay đó, cũng như hơi ấm của chúng, vẫn còn lưu lại trên làn da cô; dấu ấn của chúng không người tình nào khác có thể xóa mờ đi được. Cô cố kìm nén cho dòng cảm xúc của mình dịu xuống. Cô không hề có ý định nhượng bộ những cám dỗ vừa nảy sinh từ hồi ức đó. Hơn nữa, lúc này nó không phải là mối bận tâm hàng đầu. Cô không tới đây để khuấy động những hoài niệm về quá khứ. Vì thế cô buộc mình tập trung vào những gì người tình cũ nói thay vì vào chính con người anh. Sau vài phút lúng túng ban đầu, Alvaro nhìn cô với vẻ suy tư, như thể anh đang cố ước lượng tầm quan trọng của điều đã đưa cô tới đây sau ngần ấy thời gian. Anh mỉm cười trìu mến như một người bạn cũ hay một đồng nghiệp lâu ngày gặp lại, thoải mái và chăm chú, sẵn sàng đáp ứng những gì cô cần với sự hiệu quả âm thầm mà cô vốn quen, với những khoảng trống im lặng và những nhận xét đầy cân nhắc được anh đưa ra bằng giọng nói trầm trầm. Sau những ngạc nhiên ban đầu, chỉ còn lại một thoáng bối rối trong đôi mắt anh khi Julia hỏi anh về bức tranh, mặc dù cô không đả động gì đến dòng chữ bị phủ kín mà cô và Menchu đã quyết định giữ bí mật. Alvaro xác nhận anh biết khá rõ về người họa sĩ này, về các tác phẩm của ông ta cũng như thời kỳ lịch sử đó, nhưng anh không hề biết bức họa sắp được đưa ra bán đấu giá hay việc Julia được giao nhiệm vụ phục chế nó. Thậm chí, anh không cần đến những bức ảnh màu mà Julia mang theo, và anh có vẻ rất quen thuộc với những nhân vật trong tranh. Lướt ngón tay trỏ dọc một trang trong cuốn sách cũ về lịch sử thời Trung cổ để kiểm tra lại ngày tháng, anh tập trung cao độ vào công việc của mình và có vẻ hoàn toàn dửng dưng với mối quan hệ thân mật trong quá khứ mà Julia cảm thấy đang lơ lửng giữa họ như một bóng ma. Nhưng rất có thể anh cũng đang cảm thấy điều tương tự, cô thầm nghĩ. Có thể theo cách nhìn nhận của Alvaro, dường như cô cũng có vẻ xa cách và dửng dưng một cách kỳ lạ. “Đây rồi,” anh nói, và Julia bám lấy âm thanh giọng nói của anh chẳng khác gì người sắp chết đuối vớ được cọc, ý thức được một cách nhẹ nhõm rằng cô không thể làm hai điều dưới đây cùng một lúc: nhớ về anh như anh ngày đó và lắng nghe anh lúc này. Không chút hối tiếc, cảm giác hoài niệm của cô lập tức bị bỏ lại sau lưng, và vẻ nhẹ nhõm trên khuôn mặt cô chắc phải rất rõ ràng, đến mức anh nhìn cô đầy ngạc nhiên trước khi dành sự chú ý trở lại với trang sách. Julia liếc qua tiêu đề của cuốn sách: Thụy Sĩ, Burgundy* và Vùng Đất Thấp* trong thế kỷ 14 và 15. “Xem này.” Alvaro chỉ vào một cái tên trong sách. Sau đó chỉ sang tấm ảnh chụp bức họa mà cô để trên bàn. “FERDINANDUS OST. D. là dòng chú thích cho kỳ thủ ngồi bên trái, người đàn ông mặc bộ đồ màu đỏ. Van Huys vẽ bức Ván cờ năm 1471, vậy thì không còn gì nghi ngờ nữa. Người đàn ông này chính là Ferdinand Altenhoffen, công tước xứ Ostenburg, Ostenburguensis Dux*, sinh năm 1435, mất năm… đúng, phải rồi, năm 1474. Ông ta khoảng ba mươi lăm tuổi khi ngồi làm mẫu cho họa sĩ.” Julia cầm một tấm thẻ trên mặt bàn và chỉ vào từ được viết trên đó. “Ostenburg từng nằm ở đâu vậy?… Ở Đức phải không?” Alvaro lắc đầu và mở một cuốn bản đồ lịch sử ra. “Ostenburg là một công quốc có lãnh thổ gần tương đương với vùng Rodovingia thời vua Charlemagne*… Nó nằm ở đây, bên trong biên giới Pháp – Đức, giữa Luxembourg và Flanders. Vào các thế kỷ 15 và 16, các công tước của Ostenburg đã cố gắng duy trì nền độc lập, nhưng rốt cuộc công quốc này vẫn bị thôn tính, đầu tiên bởi Burgundy, sau đó đến vua Maximilian của nước Áo. Trên thực tế, triều đại Altenhoffen bị diệt vong cùng với chính vị công tước Ferdinand này. Nếu em muốn, anh có thể sao chép cho em vài bản.” “Em sẽ biết ơn anh lắm.” “Không có gì đâu.” Alvaro ngồi xuống ghế, lấy một chiếc hộp thiếc đựng thuốc lá từ trong ngăn kéo bàn làm việc rồi bắt đầu nhồi thuốc vào chiếc tẩu của mình. “Vậy thì theo lý, quý bà ngồi bên cửa sổ, với dòng chú thích BEATRIX BURG. OST. D. chỉ có thể là Beatrice xứ Burgundy, phu nhân của vị công tước này. Thấy chưa? Beatrice kết hôn với Ferdinand Altenhoffen năm 1464 khi bà hai mươi ba tuổi.” “Vì tình yêu à?” Julia hỏi kèm theo một nụ cười đầy ẩn ý, trong lúc đưa mắt nhìn xuống tấm ảnh. Alvaro đáp lại bằng một tiếng cười ngắn, có phần gượng gạo. “Như em biết đấy, rất ít cuộc hôn nhân kiểu này là vì tinh yêu… Đám cưới chính là một nỗ lực của Philip Nhân Từ, bác của Beatrice và cũng là công tước xứ Burgundy để thiết lập một mối liên hệ mật thiết hơn với Ostenburg trong liên minh chống lại Pháp, lúc đó đang tìm cách thôn tính cả hai công quốc.” Alvaro nhìn vào tấm ảnh và kẹp chiếc tẩu giữa hai hàm răng. “Tuy thế, Ferdinand xứ Ostenburg đã gặp may, vì cô dâu rất xinh đẹp. Ít nhất là theo những gì sử gia đáng chú ý nhất thời đó, Nicolas Flavin, đã viết trong cuốn Biên niên xử Burgundy của ông ta. Ông bạn Van Huys của em dường như cũng có cùng suy nghĩ như vậy. Có vẻ ông ta đã từng vẽ vị nữ công tước này trước khi thực hiện bức họa, vì có một tài liệu được sử gia Pijoan viện dẫn cho biết Van Huys từng có thời gian là họa sĩ cung đình tại Ostenburg. Năm 1463, Ferdinand Altenhoffen đã dành cho ông ta một khoản trợ cấp tương đương một trăm bảng mỗi năm, được trả một nửa vào dịp Lễ Thánh John, và nửa còn lại vào dịp Giáng sinh. Tư liệu đó cũng nói tới việc ông ta được giao vẽ một bức chân dung của Beatrice, người lúc đó đang là vị hôn thê của Ferdinand.” “Còn tài liệu nào khác không?” “Vô khối. Van Huys đã trở thành một nhân vật khá quan trọng.” Alvaro lấy một cặp tài liệu từ trong tủ ra. “Jean Lemaire, họa sĩ Pháp thế kỷ 17, trong bài Vương miện của Margaret được ông ta viết để ca tụng Margaret của nước Áo, toàn quyền của Vùng Đất Thấp, có nhắc tới các danh họa thế kỷ 15, 16 là Pierre xứ Brugge (Van Huys), Hughes xứ Gand (Van der Goes) và Dietric xứ Louvain* (Dieric Bouts*), bên cạnh người ông ta coi như vua của các danh họa trường phái Flemish là Johannes (Van Eyck). Những từ chính xác mà ông ta sử dụng trong bài thơ như sau: ‘Pierre de Brugge, qui rant eut les traits utez’, câu này có thể dịch nghĩa là ‘người vẽ nên những đường nét thật rõ ràng’. Vào thời gian bài thơ này được viết ra, Van Huys đã qua đời được hai mươi lăm năm.” Aivaro cẩn thận kiểm tra thêm vài tấm thẻ khác. “Ngoài ra còn có những lần vị họa sĩ này được nhắc đến sớm hơn. Chẳng hạn, những bản kê khai có nguồn gốc từ vương quốc Valencia, ngày nay thuộc Tây Ban Nha, cho biết vua Alfonso Hào Hiệp của họ sở hữu các tác phẩm của Van Huys, Van Eyck và các họa sĩ khác, ngày nay tất cả đều đã thất lạc. Bartolomeo Fazio, một cận thần thân tín của vua Alfonso cũng nhắc tới vị họa sĩ của chúng ta khi viết cuốn Các danh nhân, mô tả Van Huys với cách gọi ‘Pietrus Husyus, insignis pictor’*. Một số tác giả khác, nhất là các tác giả người Italia, gọi ông ta là ‘Magistro Pietro Van Hus, pictori in Bruggia’*. Có một bài viết vào năm 1470 trong đó Guido Rasofalco nhắc đến một trong các bức tranh của ông ta, một bức họa vẽ cảnh Đức Chúa chịu nạn đóng đinh trên thánh giá, là ‘Opera buona di mano di un chiamato Piero di Juys, pictor famoso in Fiandra’*, bức họa này cũng không còn tồn tại tới ngày nay. Và một tác giả Italia khác, lần này khuyết danh, đề cập tới một bức họa của Van Huys còn được bảo tồn tới hiện tại, bức Hiệp sĩ và Quỷ dữ, viết rằng ‘A magistro Pietrus Juisus magno et famoso flandesco fuit depictum’*. Người họa sĩ của chúng ta còn được sử gia Guicciardini và họa sĩ Van Mander nhắc đến vào thế kỷ 16 và sử gia nghệ thuật James Weale nhắc đến vào thế kỷ 19 trong các tập sách của ông ta về các họa gia trường phái Flemish bậc thầy.” Anh thu các tấm thẻ lại, cẩn thận cho chúng vào tập tài liệu rồi cất trở về chỗ cũ trong tủ. Sau đó, anh ngồi xuống ghế, nhìn Julia mỉm cười. “Hài lòng chứ?” “Rất hài lòng.” Cô đã ghi lại tất cả và lúc này đang rà soát lại những gì thu thập được. Sau một lát, cô đưa tay vuốt tóc ra sau lưng rồi nhìn Alvaro với vẻ tò mò: “Bất cứ ai cũng sẽ nghĩ anh đã chuẩn bị trước mọi thứ. Em thực sự thấy ấn tượng đấy.” Nụ cười trên khuôn mặt vị giáo sư nhạt đi đôi chút, anh tìm cách lảng tránh ánh mắt của Julia. Một tấm thẻ trên mặt bàn dường như đột ngột thu hút sự chú ý của anh. “Đó là công việc của anh,” anh nói. Và cô không dám chắc giọng nói của anh chỉ đơn giản hơi lơ đãng hay đang cố tình lẩn tránh. Không rõ vì sao, điều này làm cô cảm thấy bất an một cách mơ hồ. “Chà, tất cả những gì em có thể nói, là anh vẫn cực kỳ xuất sắc trong công việc đó.” Cô tò mò quan sát anh rồi quay trở lại với những ghi chú của mình. “Chúng ta có khá nhiều thông tin về người họa sĩ và hai trong số các nhân vật của bức họa.” Cô cúi người xuống nhìn tấm ảnh chụp lại bức tranh và đưa một ngón tay chỉ vào kỳ thủ thứ hai. “Nhưng không có gì về ông ta.” Alvaro đang bận bịu nhồi tẩu thuốc và không trả lời ngay. Trán anh hơi cau lại. “Khó mà nói chính xác được gì,” anh nói giữa những lần rít tẩu. “Dòng chú thích RUTGIER AR. PREUX. không được rõ ràng lắm. Mặc dù cũng đủ để đi tới một giả thiết.” Anh dừng lại, nhìn chăm chú vào đầu tẩu như thể hy vọng nó xác nhận ý tưởng của mình. “Rurgier có thể là Roger, Rogelio, Ruggiero, tất cả đều là những dạng biến thể dễ tìm thấy của một cái tên rất thông dụng vào thời đó – mà có ít nhất mười biến thể khác nhau. Preux có thể là tên họ, trong trường hợp đó, chúng ta sẽ gặp phải ngõ cụt thực sự, vì không có vị Preux nào có sự nghiệp đủ hiển hách để được ghi danh vào các cuốn biên niên sử. Tuy thế, preux cũng được sử dụng vào thời Trung cổ như một tính từ mang nghĩa trang trọng, thậm chí như một danh từ, với nghĩa ‘can đảm’, ‘nghĩa hiệp’. Danh xưng này đã được dành cho Lancelot* và Roland*, đây chỉ là hai ví dụ nổi tiếng nhất để minh họa cho em thấy. Tại Pháp và Anh, người ta sẽ dùng cụm ‘soyez preux’ khi phong tước hiệp sĩ cho ai đó, có nghĩa là ‘hãy trung thành hoặc can đảm’. Đây là một danh xưng riêng biệt, dành để nhận biết những nhân vật tinh hoa xuất chúng nhất của giới hiệp sĩ.” Một cách vô thức, do thói quen nghề nghiệp, Alvaro đã sử dụng cách nói rất thuyết phục như thể đang giảng bài, đó là xu hướng mà sớm hay muộn anh cũng rơi vào mỗi khi tham dự một cuộc đối thoại liên quan tới khía cạnh nào đó trong chuyên môn của anh. Julia nhận ra điều đó và ít nhiều thấy giật mình, nó khiến cô nhớ đến những kỷ niệm cũ, làm sống dậy những dư âm của một mối tình đã từng nắm giữ một vị trí trong thời gian và không gian của cuộc đời cô, cũng như trong việc hình thành nên tính cách hiện tại của cô. Đó là dư vị của cuộc sống đã qua, cũng như của vô vàn cảm xúc khác mà một cuộc vật lộn mệt mỏi không ngừng nghỉ đã thành công trong việc bóp nghẹt và gạt bỏ nó, cũng giống như khi bạn bỏ mặc một cuốn sách trên giá cho bụi phủ, không hề có ý định giở nó ra xem lần nào nữa, thế nhưng mọi thứ vẫn luôn còn đó, bất chấp tất cả. Phải đối diện với những cảm xúc như thế, cô biết mình cần viện tới các chiến thuật khác: giữ cho đầu óc tập trung vào vấn đề đang cần giải quyết; trao đổi, hỏi thêm những chi tiết khác dù có cần đến chúng hay không; cúi người qua bàn, giả bộ tập trung cao độ vào việc ghi chú lại thông tin; tưởng tượng rằng cô đang đứng trước một Alvaro khác, mà đúng là vậy thật; hành động, cảm nhận như thể những kỷ niệm đó không phải thuộc về họ mà của hai người khác, ai đó cô từng có lần nghe người khác nhắc tới, những số phận chẳng đáng bận tâm đến. Một giải pháp khác là châm một điếu thuốc lá, và Julia làm đúng như thế. Khói thuốc choán đầy hai buồng phổi giúp cô dịu lại và đem đến cho cô ít nhiều sự tách biệt. Cô đưa mắt nhìn Alvaro, sẵn sàng tiếp tục. “Vậy giả thiết của anh là gì?” Giọng nói của cô nghe khá bình thường, và điều này làm cô cảm thấy bình tâm hơn nhiều. “Theo như em thấy, nếu Preux không phải là tên họ, vậy thì chìa khóa của lời giải rất có thể nằm trong hai chữ viết tắt AR.” Alvaro gật đầu. Hơi khép đôi mắt giữa làn khói tỏa ra từ chiếc tẩu, anh lần giở một cuốn sách khác cho tới khi tìm ra một cái tên. “Hãy nghe này. Roger de Arras, sinh năm 1431, cùng năm mà người Anh thiêu sống nữ tướng Jeanne d’Arc ở Rouen. Gia đình ông ta có họ hàng với dòng họ Valois, triều đại trị vì nước Pháp vào thời đó, và ông ta chào đời tại lâu đài Bellesang, nằm rất gần công quốc Ostenburg.” “Liệu ông ta có thể là kỳ thủ thứ hai không?” “Rất có thể. AR có thể hoàn toàn chính xác là viết tắt của Arras. Và Roger de Arras quả thực có xuất hiện trong mọi biên niên sử của thời kỳ này. Ông ta chiến đấu trong cuộc chiến tranh Trăm năm* bên cạnh Charles VII, vua nước Pháp. Thấy không? Ông ta tham gia vào quá trình chiếm lại Normandy và Guyenne* từ tay người Anh. Năm 1450, ông ta tham gia trận Formigny và ba năm sau, chiến đấu trong trận Castillon. Hãy nhìn vào bức tranh khắc này. Ông ta hoàn toàn có thể là một trong những người đó; có thể là vị hiệp sĩ với tấm giáp che mặt bị đóng xuống, người đã nhường ngựa của mình cho vua nước Pháp giữa sa trường khi ngựa của nhà vua bị giết, song nhà vua thì vẫn tiếp tục đi bộ chiến đấu…” “Anh làm em kinh ngạc đấy, thưa giáo sư,” Julia nói, nhìn anh với vẻ ngỡ ngàng không giấu giếm. “Ý em muốn nói đến hình ảnh sống động về người chiến binh giữa sa trường vừa rồi. Anh là người vẫn luôn nói tưởng tượng chính là bệnh ung thư đối với tính chính xác của lịch sử mà.” Alvaro bật cười. “Hãy coi đó là một phút ngẫu hứng đầy thi vị dành cho em. Làm sao anh quên được em thích vượt qua giới hạn đơn thuần của các sự kiện như thế nào chứ? Anh vẫn nhớ khi em và anh…” Anh ngừng bặt, đột nhiên trở nên do dự. Câu nói bóng gió về quá khứ của anh đã khiến cho khuôn mặt Julia tối sầm lại. Nhận ra mình vừa mới buột miệng nhắc về quá khứ, Alvaro vội vã lùi bước. “Anh xin lỗi,” anh khẽ nói. “Không sao đâu,” Julia đáp, hối hả dụi điếu thuốc vào gạt tàn đến mức làm bỏng cả mấy đầu ngón tay. “Thực sự đó là lỗi của em.” Cô nhìn anh một cách bình tĩnh hơn. “Vậy anh có những thông tin gì về vị hiệp sĩ của chúng ta rồi?” Với vẻ nhẹ nhõm thấy rõ, Alvaro quay lại với sân chơi quen thuộc của anh. Roger de Arras, anh giải thích, không chỉ là một chiến binh, ngoài chinh chiến ông ta còn nhiều khía cạnh khác đáng chú ý. Chẳng hạn, ông ta là một hình mẫu về tinh thần thượng võ, là nhà quý tộc hoàn hảo của thời Trung cổ. Vào những lúc rảnh rỗi, ông ta còn là một thi sĩ và một nhạc sĩ. Vị hiệp sĩ rất được ái mộ trong triều đình của dòng họ Valois, những người anh em họ với ông ta. Thế nên danh xưng “Preux” hợp với ông ta như găng tay với bàn tay vậy. “Ông ta có mối liên hệ nào với môn cờ vua không?” “Không có manh mối nào nhắc tới chuyện đó cả.” Julia đang bận rộn ghi chép, hoàn toàn bị cuốn theo dòng câu chuyện, nhưng rồi cô đột ngột dừng lại và nhìn Alvaro. “Điều mà em không hiểu,” cô vừa nói vừa cắn bút, “đó là Roger de Arras đang làm gì khi ngồi chơi cờ với công tước Ostenburg trong một bức họa của Van Huys chứ?” Alvaro cựa người trong chiếc ghế của mình với vẻ bối rối thấy rõ, như thể đột nhiên bị nỗi ngờ vực ám ảnh. Anh ngậm tẩu, đưa mắt nhìn chằm chằm lên bức tường sau lưng Julia với dáng vẻ của một người đang trải qua một cuộc tranh đấu nội tâm. Cuối cùng, anh cố nở một nụ cười thận trọng. “Anh không biết ông ta đang làm gì ở đó – trừ việc đánh cờ ra.” Julia biết chắc anh đang nhìn cô với vẻ thận trọng rất không bình thường, như thể anh không thể nói ra thành lời một ý nghĩ đang lởn vởn trong đầu mình. “Những gì anh thực sự biết,” cuối cùng anh nói thêm, “và anh biết vì điều đó được nói đến trong tất cả những cuốn sách viết về chủ đề này, là Roger de Arras không chết tại Pháp, mà tại Ostenburg.” Sau một thoáng chần chừ, anh chỉ vào tấm ảnh chụp bức họa. “Em có thấy thời điểm bức tranh được vẽ không?” Julia bối rối nói: “Có, 1471. Vậy thì sao?” Alvaro chậm rãi nhả một ít khói rồi phát ra một âm thanh nghe giống như một tiếng cười cộc lốc khẽ khàng. Anh đang nhìn Julia như thể cố tìm trong đôi mắt cô câu trả lời cho một câu hỏi anh không thể nói ra lời. “Có điều gì đó không được ổn lắm ở đây,” cuối cùng anh nói. “Hoặc thời điểm ghi trên tranh không chính xác, hoặc các cuốn biên niên ký đều nói láo, nếu không vị hiệp sĩ này không phải là quý ông Rutgier Ar. Preux. trong bức họa.” Anh cầm lên một bản sao in bằng máy ronéo của cuốn Biên niên sử các công tước xứ Ostenburg, và sau một hồi tìm kiếm trong đó, anh đặt cuốn sách trước mặt cô. “Cuốn sách này được Guichard de Hainaut, một người Pháp sống cùng thời với những sự kiện ông ta mô tả, viết vào cuối thế kỷ 15, dựa vào lời kể của những nhân chứng trực tiếp. Theo Hainaut, vị hiệp sĩ của chúng ta chết vào dịp lễ Hiển linh năm 1469, hai năm trước khi Pieter Van Huys vẽ bức Ván cờ. Em có hiểu không, Julia? Roger de Arras không bao giờ có thể ngồi làm mẫu cho bức tranh đó, vì vào thời điểm nó được vẽ, ông ta đã chết rồi.” ♛ ♛ ♛ Anh tiễn cô ra tận bãi đỗ xe của trường đại học và đưa cho cô cặp tài liệu đựng toàn bộ các bản sao. Gần như tất cả mọi thứ đều nằm trong đó, anh nói: các dẫn chứng lịch sử, một danh sách cập nhật các tác phẩm đã được thống kê của Van Huys, một danh mục sách tham khảo… Anh hứa sẽ gửi cho cô một bản tập hợp tư liệu theo trình tự thời gian cùng vài tài liệu khác ngay khi anh thu xếp được thời gian. Anh đứng nhìn cô, miệng ngậm chiếc tẩu, hai tay đút trong túi áo khoác, như thể vẫn còn điều gì đó muốn nói nhưng không dám chắc có nên nói ra hay không. Anh hy vọng, anh nói thêm sau một lát im lặng, rằng anh đã giúp được cô ít nhiều. Julia gật đầu, cảm thấy bối rối. Những chi tiết của câu chuyện cô vừa được nghe vẫn còn quay cuồng trong tâm trí cô. Và còn cả một thứ khác nữa. “Em rất ấn tượng, giáo sư. Trong chưa tới một giờ đồng hồ anh đã xây dựng lại một cách hoàn chỉnh cuộc đời của những nhân vật trong một bức tranh trước đây anh chưa hề nghiên cứu qua.” Alvaro quay đi, đưa mắt lướt quanh khuôn viên trường. Rồi nhăn mặt. “Thực ra bức tranh đó không hoàn toàn xa lạ với anh,” anh nói. Julia nghĩ cô vừa phát hiện ra một chút âm hưởng ngờ vực trong giọng nói của anh, và điều đó làm cô thấy bất an. Cô cẩn thận lắng nghe thật kỹ lưỡng những lời anh nói. “Không bàn tới bất kỳ điều gì khác, có một bức ảnh trong cuốn ca ta lô năm 1917 của bảo tàng Prado* cho thấy Ván cờ từng được trưng bày ở đó. Bức tranh được cho mượn trong khoảng hai mươi năm, từ đầu thế kỷ cho tới năm 1923, khi những người thừa kế yêu cầu lấy lại nó.” “Em không hề biết chuyện đó.” “Giờ thì em đã biết rồi đấy.” Anh để tâm trở lại vào chiếc tẩu, lúc này có vẻ sắp tàn hết thuốc. Julia nhìn anh qua khóe mắt. Cô biết rõ anh, hay nói đúng hơn, từng biết rõ anh, quá rõ để cảm nhận được có điều gì đó quan trọng đang ám ảnh tâm trí anh, một điều anh không thể nói ra. “Còn gì anh chưa nói với em sao, Alvaro?” Anh không cử động, chỉ đứng đó ngậm chiếc tẩu, đôi mắt nhìn chăm chăm vào khoảng không. Rồi anh chậm chạp quay về phía cô. “Anh không rõ ý em muốn nói gì.” “Em chỉ muốn nói rằng mọi thứ liên quan tới bức tranh này đều quan trọng.” Cô nhìn anh với vẻ nghiêm trọng. “Em đã đặt cược rất nhiều vào vụ này.” Cô nhận thấy Alvaro đang nhai cán tẩu một cách do dự. Anh phác một cử chỉ đầy mâu thuẫn trong không khí. “Em đang đẩy anh vào một tình thế rất khó xử. Dường như gần đây ông bạn Van Huys của em đang trở nên rất hợp mốt.” “Hợp mốt ư?” Cô cứng người lại hoảng hốt, như thể nền đất có thể bất ngờ mở toang dưới chân mình. “Ý anh là có ai đó đã trao đổi với anh vể ông ta trước em sao?” Đến lúc này Alvaro mỉm cười không được tự tin lắm, như thể hối tiếc vì đã nói quá nhiều. “Có thể.” “Ai vậy?” “Rắc rối là vậy đấy. Anh không được phép nói cho em biết.” “Đừng có ngốc thế.” “Anh không đùa đâu. Đúng là thế đấy.” Anh nhìn cô với ánh mắt van nài. Julia hít một hơi thật sâu, cố gắng lấp đầy cảm giác trống rỗng lạ lùng mà cô đang cảm thấy trong lòng; ở đâu đó một hồi chuông báo động đang réo vang. Nhưng Alvaro lại nói tiếp, vậy là cô chăm chú lắng nghe, cố tìm kiếm một dấu hiệu nào đó. Anh nói anh rất muốn được xem qua bức tranh, tất nhiên là nếu Julia không thấy phiền. Và anh cũng muốn gặp cả cô nữa. “Anh có thể giải thích tất cả,” anh chốt lại, “khi tới thời điểm thích hợp.” Có thể đó là một cái bẫy, cô thầm nghĩ. Anh hoàn toàn có khả năng dựng lên toàn bộ màn kịch ấn tượng vừa rồi chỉ để có cớ gặp lại cô. Cô cắn môi. Bên trong cô, bức tranh giờ đây đang phải chiến đấu với những cảm xúc và kỷ niệm chẳng có chút liên quan nào tới nó. “Vợ anh dạo này thế nào?” cô dửng dưng hỏi, nhượng bộ một cơn ác ý bộc phát. Cô ngước nhìn một cách ranh mãnh và trông thấy Alvaro đã cứng người lại và có vẻ đột nhiên cảm thấy lúng túng. “Cô ấy ổn,” là tất cả những gì anh nói. Anh chăm chăm nhìn vào chiếc tẩu đang cầm trên tay, như thể không nhận ra nó. “Cô ấy đang ở New York chuẩn bị cho một cuộc triển lãm.” Một mảnh ký ức lướt qua tâm trí Julia: một phụ nữ tóc vàng hấp dẫn trong bộ vest may đo màu nâu bước ra khỏi ô tô. Chỉ mười lăm giây về một hình ảnh khá mờ nhạt mà cô chỉ còn nhớ mang máng, nhưng chính nó đã đánh dấu chấm hết cho tuổi trẻ của cô, một cách sắc lẻm như vết cắt bằng dao mổ. Cô nhớ hình như vợ anh làm việc cho một tổ chức nào đó của chính quyền, thứ gì đó liên quan tới Bộ Văn hóa Nghệ thuật, tới những cuộc triển lãm và những chuyến đi. Đã có lúc điều đó khiến cho nhiều thứ trở nên thuận lợi. Alvaro chưa bao giờ nói về vợ anh, Julia cũng không, nhưng họ luôn cảm nhận được sự hiện diện của chị giữa hai người, giống như một bóng ma. Và bóng ma đó, mười lăm giây ngắn ngủi của một khuôn mặt thoáng nhìn thấy hoàn toàn tình cờ, rốt cuộc đã giành phần thắng trong cuộc đấu. “Em hy vọng mọi chuyện đều tốt đẹp với cả hai người.” “Cũng không đến mức quá tệ. Ý anh là không hoàn toàn tồi tệ.” “Tốt quá.” Hai người cùng bước đi một lát trong im lặng, họ không nhìn mặt nhau. Cuối cùng, Julia tặc lưỡi, nghiêng đầu và mỉm cười với không gian trống rỗng. “Dù sao thì điều đó bây giờ cũng chẳng quan trọng nữa,” cô nói rồi dừng bước trước mặt anh, hai tay chống nạnh, một nụ cười tinh quái trên môi. “Trông em giờ thế nào?” Anh nhìn cô từ đầu đến chân một cách không mấy tự tin, đôi mắt khép hờ. “Trông em tuyệt lắm. Thật đấy.” “Còn anh cảm thấy thế nào?” “Hơi lúng túng.” Anh mỉm cười rầu rĩ và trông có vẻ như đang hối lỗi. “Anh cứ mãi tự hỏi mình rằng quyết định anh đưa ra một năm trước có đúng không.” “Đó là một điều anh sẽ không bao giờ tìm ra câu trả lời.” “Em không bao giờ biết chắc được chuyện đó đâu.” Trông anh vẫn hấp dẫn, Julia thầm nghĩ, với một cơn nhói đau trộn lẫn lo âu và bực bội khiến dạ dày cô thắt lại. Cô nhìn vào đôi bàn tay và đôi mắt anh, biết rằng cô đang đi chênh vênh bên rìa của một thứ vừa khiến cô khó chịu vừa làm cô bị cuốn hút. “Em đang có bức tranh ở nhà,” cô chọn cách nói thận trọng, không hứa hẹn trước điều gì trong lúc cố sắp xếp lại các ý nghĩ trong đầu. Cô muốn trấn an bản thân về cái giải pháp cô đã có được một cách đau đớn đến thế, nhưng đồng thời cũng cảm nhận được những nguy cơ và sự cần thiết phải giữ vững cảnh giác. Bên cạnh đó – mà thực ra là hơn hết – cô đang phải bận tâm về bức họa của Van Huys. Lập luận đó ít nhất cũng giúp cô làm rõ được suy nghĩ của mình. Vậy là cô bắt tay anh, cảm nhận được trong khoảnh khắc tiếp xúc đó sự lúng túng của một người đang không chắc chắn về tình hình. Điều đó khiến cô thấy phấn chấn hơn, làm bùng lên trong cô một cảm giác vui vẻ ngấm ngầm pha chút ác độc. Trong khoảnh khắc bộc phát vừa có chủ đích vừa vô thức, cô hôn nhanh lên miệng anh – như một khoản ứng trước để tạo lập sự tin tưởng – trước khi mở cửa chui vào chiếc Fiat bé nhỏ màu trắng của mình. “Nếu anh muốn ngó qua bức họa, hãy tới gặp em,” cô nói lập lờ một cách hờ hững trong lúc nổ máy xe. “Chiều mai. Và một lần nữa, cảm ơn anh.” Cô biết, với anh cô không cần nói gì thêm. Cô nhìn anh xa dần trong gương chiếu hậu, còn anh đứng đó vẫy tay chào với vẻ mặt đăm chiêu bối rối, khoảng sân và khu nhà bằng gạch của trường đại học mờ dần sau lưng anh. Cô mỉm cười trong lúc nhấn ga vượt đèn đỏ ở một khúc đường giao nhau. Anh sẽ cắn câu thôi, giáo sư, cô thầm nghĩ. Em không biết vì sao, nhưng có ai đó, ở một nơi nào đó, đang tìm cách chơi khăm em. Và anh sẽ nói cho em biết kẻ đó là ai, nếu không tên em không phải là Julia nữa. ♛ ♛ ♛ Trên chiếc bàn nhỏ, thoải mái trong tầm tay với, chiếc gạt tàn đã đầy ắp đầu mẩu thuốc lá. Nằm trên xô pha, cô miệt mài đọc cho tới tận khuya. Câu chuyện về bức tranh, về họa sĩ và những nhân vật ông ta tạo ra dần dần định hình. Cô đọc hăm hở, chăm chú tìm tòi từng manh mối nhỏ nhất, hoàn toàn bị cuốn theo khao khát muốn tìm ra lời giải đáp cho ván cờ bí hiểm vẫn đang diễn ra dang dở trên chiếc giá vẽ đặt đối diện với xô pha, lẫn giữa những hình bóng tối đen khác trong căn phòng nửa tối nửa sáng: … Được giải phóng khỏi thân phận chư hầu của nước Pháp vào năm 1453, các công tước của Ostenburg cố vật lộn để duy trì trạng thái cân bằng khó khăn giữa Pháp, Đức và Burgundy. Chính sách của Ostenburg đã làm dấy lên những nghi ngờ từ vua nước Pháp là Charles VII, người lo sợ công quốc này có thể bị nuốt chửng bởi Burgundy hùng mạnh, đất nước lúc bấy giờ đang tìm cách nâng mình lên vị thế một vương quốc độc lập. Trong vòng xoáy quay cuồng của những âm mưu toan tính chốn cung đình, những liên minh chính trị và các hiệp ước bí mật, nỗi lo sợ của người Pháp càng gia tăng cùng với hôn lễ được cử hành năm 1464 giữa Ferdinand, con trai và cũng là người thừa kế của công tước Wilhelmus xứ Ostenburg, và Beatrice xứ Burgundy, cháu gái của Philip Nhân Từ, đồng thời cũng là em họ công tước tương lai của Burgundy là Charles Can Đảm. Vậy là vào những năm tháng có ý nghĩa quyết định tới tương lai của châu Âu đó, hai phe nhóm không thể thỏa hiệp đã hình thành và đối kháng nhau trong triều đình Ostenburg: phe thân Burgundy, ủng hộ việc sáp nhập vào công quốc láng giềng, và phe thân Pháp, nghiêng về hợp nhất trở lại nước Pháp. Cho tới tận khi Ferdinand qua đời năm 1474, thời kỳ trị vì đầy sóng gió của ông ở Ostenburg vẫn in đậm dấu ấn của cuộc đối đầu giữa hai phe phái này. Cô đặt cặp tài liệu xuống sàn rồi ngồi dậy, hai tay bó gối. Căn phòng lặng như tờ. Cô ngồi bất động hồi lâu, sau đó đứng dậy bước tới bức tranh. QUIS NECAVIT EQUITEM. Không thực sự chạm vào bề mặt bức tranh, cô lướt một ngón tay lên trên vị trí dòng chữ bị ẩn kín dưới những lớp sơn màu lục mà Van Huys đã sử dụng để vẽ tấm khăn trải bàn. Ai đã giết hiệp sĩ? Với những thông tin mà Alvaro vừa cung cấp, lúc này, trên bức họa chỉ được một ngọn đèn nhỏ chiếu sáng lờ mờ, câu hỏi đó dường như vừa có thêm âm hưởng của một điềm gở. Cô ghé sát hết mức có thể vào khuôn mặt của RUTGIER AR. PREUX. Cho dù ông ta có phải là Roger de Arras hay không, Julia tin chắc dòng chú thích này là của ông ta. Dòng chữ đó rõ ràng là một kiểu câu đố, nhưng cô thực sự không thể hiểu được ý nghĩa của việc chơi cờ ở đây. Chơi cờ. Có thể tất cả chỉ đơn giản là vậy, một trò chơi. Cô vừa cảm thấy bực tức khó chịu, giống như những gì vẫn đến với cô mỗi khi phải dùng lưỡi dao mổ để bóc đi một lớp véc ni bướng bỉnh, và cô đan hai bàn tay lại sau gáy rồi nhắm mắt. Khi mở mắt ra, trước mặt cô là khuôn mặt trông nghiêng của vị hiệp sĩ vô danh, đang cau mày tập trung cao độ trong lúc đắm mình vào ván cờ. Chắc chắn ông ta từng là một người đàn ông hấp dẫn. Ông ta có phong thái quyền quý, một vầng hào quang nghiêm nghị cao cả được tạo ra một cách thông minh nhờ vào những màu sắc họa sĩ đã lựa chọn để vẽ quanh ông ta. Thêm vào đó, đầu ông ta được đặt vào đúng giao điểm giữa hai đường vẫn được xem là có tỷ lệ vàng trong hội họa, đó là một quy luật bố cục tác phẩm mà các họa gia cổ điển kể từ thời kiến trúc sư La Mã Vitruvius trở đi luôn dùng như kim chỉ nam trong việc phần chia bố cục các nhân vật trong một bức tranh. Khám phá này khiến cô sững sờ. Theo quy luật thông thường, nếu khi vẽ bức họa này, Van Huys có chủ ý làm nổi bật nhân vật công tước Ferdinand xứ Ostenburg – người rõ ràng xứng đáng với vinh dự này nếu xét tới địa vị của ông ta – người họa sĩ hiển nhiên sẽ đặt vị công tước vào giao điểm đặc biệt trong hình mẫu tỷ lệ vàng chứ không phải sang bên trái. Cũng có thể nói hoàn toàn tương tự với Beatrice xứ Burgundy, thực tế bà đã bị đẩy vào hậu cảnh cạnh cửa sổ, bên phải bức tranh. Vì thế, hoàn toàn có lý khi đưa ra giả thiết rằng nhân vật trung tâm trong ván cờ bí ẩn này không phải là vị công tước hay phu nhân của ông ta, mà là RUTGIER AR. PREUX., người rất có thể cũng chính là Roger de Arras. Ngoại trừ một điểm đáng bàn, đó là khi ấy Roger de Arras đã chết. Không rời mắt khỏi bức tranh mà quay đầu nhìn nó như thể sợ rằng ai đó bên trong bức họa có thể di chuyển trong lúc cô quay lưng lại, Julia tới một chiếc giá chất đầy sách. Pieter Van Huys chết tiệt, cô lẩm bẩm, ông ta đã bày ra những chi tiết khó hiểu khiến cô phải mất ngủ năm trăm năm sau đó. Cô lấy tập sách viết về hội họa Flemish trong bộ Lịch sử Mỹ thuật của giáo sư Amparo Ibanez, ngồi xuống xô pha với cuốn sách để trong lòng. Van Huys, Pieter. Brugge 1415 – Ghent 1481. … Trong khi Van Huys không hoàn toàn loại bỏ những mảng thêu thùa cầu kỳ, những món đồ trang sức và những khung cảnh tràn ngập đá cẩm thạch mà người họa sĩ cung đình thường hay đưa vào tranh, không khí gia đình trong các bức tranh của ông, cũng như con mắt tinh tế của ông trong việc tạo nên những chi tiết sống động đắt giá đã làm nên dấu ấn nghệ sĩ của tầng lớp thị dân ở ông. Mặc dù vẫn chịu ảnh hưởng từ Jan Van Eyck, và trên hết từ chính người thầy Robert Campin* của ông (Van Huys đã ứng dụng rất thông minh các kỹ thuật hội họa của cả hai nghệ sĩ bậc thầy đó), phong cách của ông thể hiện quá trình phân tích thực tế một cách sáng sủa, với con mắt quan sát thế giới bình thản đậm chất Flemish. Nhưng người họa sĩ này luôn thể hiện sự quan tâm tới các biểu tượng, và các tác phẩm của ông đều chứa đựng những thông điệp ngầm (chẳng hạn chai thủy tinh bị bịt kín hay cánh cửa trên tường được sử dụng như những biểu tượng cho sự trinh tiết của mẹ Mary trong bức Đức Mẹ Đồng Trinh trong nhà nguyện, hay cách những cái bóng chồng lên nhau trong cảnh nội thất của bức Gia đình Lucas Bremer). Tài nghệ bậc thầy của Van Huys nằm trong việc phác họa một cách sắc sảo cả những nhân vật lẫn các đồ vật, cũng như trong cách ông tiếp cận những vấn đề thách thức nhất với hội họa thời đó, chẳng hạn như thể hiện cấu trúc mềm dẻo của các bề mặt, sự tương phản khó phân định rạch ròi giới hạn giữa bối cảnh tranh tối tranh sáng trong nhà với khung cảnh ánh sáng ban ngày ở ngoài trời, hay sự thay đổi của những chiếc bóng tạo ra theo bản chất vật liệu của vật được ánh sáng chiếu vào. Những tác phẩm còn lưu giữ được: Chân dung người thợ kim hoàn Guillermo Walhuus (1448), bảo tàng Metropolitan, New York. Gia đình Lucas Bremer (1452), phòng trưng bày Uffizi, Florence. Đức Mẹ Đồng Trinh trong nhà nguyện (khoảng 1455), bảo tàng Prado, Madrid. Người đổi tiền ở Louvain (1957), bộ sưu tập tư nhân, New York. Chân dung thương gia Matteo Conzini và vợ (1458), bộ sưu tập tư nhân, Zurich. Ban thờ ở Antwerp* (khoảng 1461), một phòng tranh, Vienne. Hiệp sĩ và Quỷ dữ (1462), bảo tàng Rijksmusium, Amsterdam. Ván cờ (1471), bộ sưu tập tư nhân, Madrid. Đưa Đức Chúa xuống khỏi Thập Giá (khoảng 1478), nhà thờ Thánh Bavon, Ghent. Bốn giờ sáng, khi miệng đã nóng rát vì uống quá nhiều cà phê và hút quá nhiều thuốc lá, Julia cuối cùng cũng hoàn tất việc đọc các tài liệu cô có trong tay. Câu chuyện về người họa sĩ, về bức tranh và những nhân vật chứa đựng trong đó rốt cuộc cũng trở nên gần như rõ ràng. Họ không còn là những hình ảnh được vẽ trên một tấm ván gỗ sồi, mà là những con người thực, đã từng hiện hữu tại một thời gian và không gian cụ thể trong khoảng cách giữa sự sống và cái chết. Pieter Van Huys, người họa sĩ, Ferdinand Altenhoffen và vợ ông, Beatrice xứ Burgundy. Và Roger de Arras. Vì Julia đã tìm thấy bằng chứng khẳng định vị hiệp sĩ trong bức họa, kỳ thủ đang xem xét vị trí các quân cờ với sự tập trung cao độ trong yên lặng của một người mà cả cuộc sống phụ thuộc vào ván cờ đang diễn ra đó, quả thực chính là Roger de Arras, sinh năm 1431, mất năm 1469 tại Ostenburg. Cô hoàn toàn tin tưởng vào điều này, cũng như cô hoàn toàn tin bức họa được vẽ hai năm sau khi vị hiệp sĩ qua đời chính là mối dây liên hệ bí ẩn kết nối ông với hai nhân vật còn lại trong tranh và người họa sĩ. Một bản mô tả chi tiết về cái chết của ông đang nằm trên tay cô, trong một trang sách được sao chép lại từ cuốn Biên niên sử của Guichard de Hainaut: Vậy là, vào lễ Hiển linh năm 1469 của Kỷ nguyên Thiên Chúa, khi đức ông Ruggier đang đi tản bộ như thường lệ dọc con hào chạy qua Cửa Đông, một tay nỏ nấp ở đó đã bắn một mũi tên xuyên qua tim ông. Đức ông Ruggier nằm tại đó, thét lên thật lớn để người ta nghe thấy lời xưng tội của ông, nhưng khi những người trợ giúp đến nơi, linh hồn ông đã ra đi qua miệng vết thương hở. Cái chết của đức ông Ruggier, một hiệp sĩ mẫu mực, một nhà quý tộc chân chính, là một tổn thất nặng nề cho phái thân Pháp tại Ostenburg, phe phái mà theo đồn đại được ông ủng hộ. Sự kiện bi thảm đã khiến người ta đưa ra nhiều lời buộc tội nhằm vào những người ủng hộ triều đình Burgundy. Một số người khác gắn vụ ám sát ghê tởm này với một câu chuyện tình, trong đó Ruggier bất hạnh có can dự vào không ít. Vài người thậm chí còn nói chính công tước Ferdinand là người đứng sau vụ ám sát, và một kẻ thứ ba nào đó đã thực hiện việc này, vì đức ông Ruggier đã dám công khai tình yêu của mình dành cho nữ công tước Beatrice. Mối nghi ngờ về một vết nhơ như thế đã đeo đuổi công tước tới tận lúc xuống mồ. Và thế là biến cố đáng buồn khép lại mà không bao giờ tìm đuợc những kẻ sát nhân, cho dù dưới những mái hiên hay trong các tửu quán vẫn có thể nghe thấy những lời thì thầm đồn đại rằng bọn chúng đã thoát tội nhờ sự che chở của một bàn tay thế lực nào đó. Vậy là việc thi hành công lý chỉ còn có thể trông chờ vào Chúa. Và đức ông Ruggier quả là một người có thân hình và khuôn mặt đẹp đẽ, bất chấp những cuộc chiến đã kinh qua để phụng sự vua nước Pháp trước khi ông tìm tới Ostenburg để phụng sự công tước Ferdinand, người đã cùng lớn lên bên ông thuở thiếu thời. Và vị hiệp sĩ đã được rất nhiều phu nhân thương khóc. Khi bị sát hại, đức ông đang ở tuổi ba mươi tám, ở đỉnh cao quyền lực… Julia tắt đèn, và trong lúc ngồi trong bóng tối tựa đầu vào chiếc ghế xô pha, cô đưa mắt nhìn đầu điếu thuốc đang cháy lập lòe trên tay. Cô không thể nhìn thấy bức tranh ở trước mặt mình, mà cũng không cần làm thế. Mọi chi tiết trong bức họa đã được ghi lại trên võng mạc và trong bộ não của cô. Cô có thể thấy nó ngay cả trong bóng tối. Cô ngáp dài, đưa hai lòng bàn tay lên xoa mặt. Cô vừa mệt rũ vừa cảm thấy hân hoan tột độ, một cảm giác đắc thắng kỳ lạ, chưa toàn vẹn nhưng thật hứng khởi, giống như linh cảm vẫn thường đến với bạn giữa một cuộc đua dài, báo cho bạn biết bạn vẫn còn có khả năng về tới đích. Cô đã vén lên được một góc tấm màn che, và cho dù vẫn còn nhiều thứ cần tìm hiểu, có một điều đã rõ như ban ngày: không có gì đồng bóng hay ngẫu nhiên trong bức tranh này hết. Bức họa là tác phẩm được thực hiện kỹ lưỡng trong một kế hoạch được tính toán chu toàn, mục tiêu của nó gói gọn trong câu hỏi Ai đã giết hiệp sĩ?, một câu hỏi mà ai đó, xuất phát từ động cơ cá nhân hay từ nỗi sợ hãi, đã che đậy hoặc ra lệnh che đậy. Và cho dù kẻ đó là ai, Julia cũng sẽ tìm ra. Vào đúng lúc đó, đứng một mình trong bóng tối, mắt hoa lên vì mệt mỏi và thiếu ngủ, trong đầu đầy ắp những hình ảnh và những đường giao cắt về thời Trung cổ, mà bên dưới chúng rít lên những mũi tên bắn ra từ những cây nỏ nấp trong bóng tôi, tâm trí Julia không còn bận tâm tới việc phục chế bức tranh nữa, mà dồn cả vào việc phục dựng lại bí ẩn nó chứa đựng. Hẳn sẽ rất thú vị, cô thầm nghĩ trong lúc sắp đầu hàng cơn buồn ngủ, khi cô tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi mà một họa sĩ trường phái Flemish có tên Pieter Van Huys đã đặt ra sau năm thế kỷ chìm trong im lặng, như một bí ẩn cần được khám phá, cho dù tất cả những ai can dự vào câu chuyện giờ đây chỉ còn là những nắm xương tàn đã tan thành bụi đất dưới nấm mồ của họ. LUCINDA, OCTAVIO, SCARAMOUCHE30 “Tôi tuyên bố nó được kẻ giống như một bàn cờ lớn vậy!” cuối cùng Alice lên tiếng. _ Nhà văn Lewis Carroll tác giả của “Alice ở xứ sở diệu kỳ” _ Chiếc chuông gắn trên cánh cửa kêu leng keng khi Julia đẩy cửa bước vào cửa hàng đồ cổ. Cô chỉ cần bước vào trong là lập tức cảm thấy mình được bao quanh bởi một bầu không khí yên bình ấm áp, quen thuộc. Những ký ức đầu tiên cô còn lưu giữ được đều tràn ngập thứ ánh sáng vàng dìu dịu chiếu xuống các món đồ gỗ cổ, những bức phù điêu và cột chạm khắc theo phong cách Ba Rốc, những chiếc tủ nặng nề bằng gỗ óc chó, những món đồ bằng ngà voi, những tấm thảm thêu, rồi đồ sứ và những bức tranh đã sẫm màu lại theo thời gian với những nhân vật có khuôn mặt nghiêm nghị luôn đắm chìm trong sầu muộn, chính những khuôn mặt nhiều năm trước từng chứng kiến những trò chơi thời thơ ấu của cô. Kể từ thời đó nhiều món đồ đã bị bán đi và được thế chỗ bằng những món đồ khác, nhưng ấn tượng tạo ra bởi những căn phòng muôn màu muôn vẻ và ánh sáng phản chiếu trên các món đồ cổ được sắp xếp một cách lộn xộn nhưng rất hài hòa thì vẫn luôn không thay đổi. Giống như màu sắc trên những bức tượng các nhân vật hài kịch bằng sứ mong manh được bàn tay nhà tạo mô hình thế kỷ 18 Bustelli tạo ra: một bức tượng Lucinda, một bức tượng Octavio và một bức tượng Scaramouche, chúng không chỉ là những món đồ chơi ưa thích của Julia khi còn nhỏ, mà còn là niềm tự hào, niềm vui bất tận của César. Có lẽ chính vì thế ông chưa bao giờ muốn chia tay mấy bức tượng mà giữ chúng lại trong tủ kính phía sau cửa hàng, bên cạnh khung cửa sổ có ô kính đã mờ xỉn mở ra khoảng sân phía trong của cửa hàng, nơi ông vẫn hay ngồi đọc sách – những cuốn sách của các nhà văn nổi tiếng như Stendhal, Mann, Sabatini, Dumas, Conrad – trong lúc đợi chuông kêu thông báo sự xuất hiện của một vị khách hàng. “Chào bác, bác César.” “Chào công chúa thân mến.” César khoảng hơn năm mươi tuổi – Julia chưa bao giờ thành công trong việc ép ông khai ra tuổi thực của mình – và ông có đôi mắt xanh luôn tươi cười, giễu cợt của một đứa trẻ tinh quái, lấy việc thách thức thế giới mà ông buộc phải sống trong đó làm niềm vui lớn nhất cho mình. Ông có mái tóc trắng tinh lượn sóng – cô ngờ rằng ông đã nhuộm nó từ nhiều năm trước – và vóc dáng của ông vẫn rất chuẩn, ngoại trừ phần hông có hơi đẫy đà một chút. Ông luôn mặc những bộ đồ được cắt may rất đẹp, với chúng lời phê bình duy nhất người ta có thể nói là, trông chúng có vẻ hơi táo bạo so với một người ở độ tuổi như ông. Ông không bao giờ đeo cà vạt, thậm chí cả trong những sự kiện xã giao chọn lọc nhất, thay vào đó ông chọn những chiếc khăn Italia tuyệt đẹp thắt trên cổ áo sơ mi để mở, luôn bằng lụa, bên trên khăn có thêu hai chữ cái đầu tên họ của ông lồng vào nhau bằng chỉ màu xanh da trời hoặc trắng ở vị trí ngay bên dưới trái tim ông. Ông sở hữu một bề rộng và cấp độ văn hóa Julia chưa từng gặp ở bất cứ ai, ông thực sự là hiện thân hoàn hảo của câu nói rằng trong các tầng lớp thượng lưu, thái độ lịch thiệp đến thái quá chẳng qua chỉ là cách diễn đạt tinh tế nhất để một người thể hiện sự khinh thường dành cho những người khác. Trong môi trường xã hội của César, một khái niệm hoàn toàn có thể mở rộng để bao hàm toàn bộ nhân loại, Julia là người duy nhất có thể thoải mái tận hưởng thái độ lịch thiệp đó mà biết chắc cô hoàn toàn nằm ngoài tầm ngắm của sự khinh thường. Kể từ khi cô bắt đầu có khả năng tự suy nghĩ, với cô César là một sự pha trộn kỳ lạ của người cha, người tâm sự, người bạn và cha xưng tội, đồng thời cũng không thực sự chính xác là bất cứ ai trong số những vai trò ấy. “Cháu gặp một rắc rối, bác César.” “Thứ lỗi cho bác, nhưng trong trường hợp đó, chúng ta có một rắc rối mới đúng. Giờ hãy kể cho bác nghe đi nào.” Và Julia kể cho ông nghe, không bỏ sót điều gì, kể cả dòng chữ bị giấu kín, chi tiết được César tiếp nhận với một cái nhướng mày thoáng qua. Hai người đang ngồi bên khung cửa sổ có ô kính mờ xỉn, và César đang hơi nhoài người về phía cô, chân phải vắt tréo lên chân trái, một bàn tay, trên đó lấp lánh một viên đá topaz đắt giá cẩn trên chiếc nhẫn vàng, hờ hững đặt lên trên chiếc đồng hồ hãng Patek Philippe ông đeo ở cổ tay bên kia. Chính tư thế quen thuộc này của ông, không hề có chút tính toán nào (mặc dù rất có thể từng một lần có lúc như vậy), đã luôn dễ dàng thu hút được những chàng trai trẻ đang bối rối tìm kiếm những cảm xúc tinh tế, những họa sĩ, nhà điêu khắc, những nghệ sĩ non nớt mới vào nghề mà César đón nhận và che chở với sự tận tụy hết lòng và bền lâu mà, phải nói là, thường kéo dài hơn nhiều so với những mối quan hệ tình cảm của ông. “Cuộc đời rất ngắn và vẻ đẹp rất chóng tàn, công chúa thân mến ạ.” Bất cứ khi nào César lựa chọn giọng điệu tâm tình, hạ giọng xuống khẽ tới mức gần như thì thầm, những lời ông nói luôn mang chút âm hưởng buồn bã pha lẫn giễu cợt. “Và sẽ thật không phải khi muốn sở hữu nó mãi mãi. Vẻ đẹp nằm trong việc dạy một chú chim sẻ mới ra ràng tập bay, vì ẩn trong sự tự do của nó chính là việc ta thả cho nó bay đi. Cháu có nhận ra điểm tế nhị bác đang muốn nói trong câu chuyện ẩn dụ này không?” Như cô từng công khai thừa nhận trước đây khi César, nửa tự mãn nửa thích thú, buộc tội cô gây ra một màn ghen tuông, Julia luôn cảm thấy bực bội một cách không thể lý giải nổi với tất cả những con chim sẻ mới ra ràng đang bay lượn quanh César, và chỉ sự yêu mến cô dành cho ông cũng như ý thức đầy lý trí nhắc nhở cô rằng ông cũng có quyền sống cuộc sống của riêng mình mới ngăn cô không nói ra thành lời. Như Menchu vẫn hay nói với tính cách thiếu tế nhị thường thấy của bà: “Thứ mà cô có ở đây, cô em thân mến, là phức cảm Electra* giả dạng phức cảm Oedipus31, hoặc ngược lại…” những câu ví von ẩn dụ của Menchu, không giống như của César, thường có xu hướng quá rõ ràng. Khi Julia đã thuật lại xong câu chuyện liên quan tới bức tranh, César vẫn im lặng, trầm ngâm suy nghĩ về những gì cô vừa nói. Dường như ông không có vẻ ngạc nhiên – nếu nói về mỹ thuật, nhất là ở tuổi của ông, rất ít thứ có thể khiến ông ngạc nhiên – song sự giễu cợt trong mắt ông đã nhường chỗ cho vẻ quan tâm thực sự. “Rất hấp dẫn,” cuối cùng ông cũng lên tiếng, và ngay lập tức Julia hiểu cô có thể trông cậy vào ông. Kể từ khi cô còn là một đứa trẻ, mấy lời này luôn là sự khuyến khích dấn bước vào những lần đồng lõa giữa hai người và những cuộc phiêu lưu lần theo dấu vết của một bí mật nào đó: kho báu của bọn hải tặc được giấu trong ngăn kéo chiếc bàn viết Isabelline – chiếc bàn mà ông đã bán cho bảo tàng Romantico ở Bồ Đào Nha – và câu chuyện ông bịa ra về một tác phẩm được cho là của họa sĩ Pháp thế kỷ 19 Ingres, bức chân dung vị phu nhân mặc bộ váy viền đăng ten, có người tình là một sĩ quan khinh kỵ tử trận ở Waterloo khi đang gọi tên bà ta giữa lúc đoàn kỵ binh xung trận. César đã nắm tay cô cùng trải qua cả trăm cuộc phiêu lưu như thế trong hàng trăm cuộc đời khác nhau, và một cách bất di bất dịch, trong mỏi câu chuyện đó những gì cô học được từ ông luôn là hãy biết trân trọng cái đẹp, đức hy sinh và sự tế nhị dịu dàng, cũng như niềm vui tinh tế và sâu sắc có được khi chiêm ngưỡng một tác phẩm nghệ thuật, từ bề mặt trong mờ của một món đồ sứ cho tới một ánh phản chiếu khiêm tốn của một tia nắng mặt trời trên bức tường được một món đồ pha lê tinh khiết tách ra thành dải phổ lộng lẫy sắc màu. “Việc đầu tiên bác cần phải làm,” César nói, “là quan sát thật kỹ lưỡng bức tranh. Tối mai bác có thể ghé qua căn hộ của cháu, vào lúc khoảng 7 giờ 30.” “Hay lắm,” cô nói, thận trọng đưa mắt nhìn ông. “Chỉ là rất có thể Alvaro cũng sẽ có mặt ở đó.” Nếu César ngạc nhiên, ông cũng không nói ra lời. Ông chỉ phô ra một khuôn mặt tàn nhẫn với đôi môi bĩu lại. “Thật vui làm sao. Lâu lắm rồi bác chưa gặp con lợn bẩn thỉu đó, vậy nên bác sẽ rất vui nếu có cơ hội gửi tặng hắn vài mũi phi tiêu tẩm độc, được bọc ngoài bằng dăm ba lời quanh co tinh tế, tất nhiên rồi.” “Cháu xin bác mà, bác César.” “Đừng lo, cô bé yêu quý, bác sẽ rất dễ mến… vì hoàn cảnh là vậy. Tay bác có thể có chút hung hãn, nhưng sẽ không có giọt máu nào rơi xuống tấm thảm Ba Tư của cháu đâu… mà chuyện đó thực tình hoàn toàn có thể giải quyết được bằng một lần cọ rửa cẩn thận.” Cô dịu dàng nhìn ông, đưa hai bàn tay mình đặt lên hai bàn tay ông. “Cháu yêu bác, bác César.” “Bác biết. Cũng tự nhiên thôi mà. Hầu như ai cũng vậy.” “Tại sao bác ghét Alvaro đến thế?” Một câu hỏi thật ngốc nghếch, và ông dành cho cô một cái nhìn có phần chê trách. “Bởi vì hắn ta làm cháu đau khổ,” ông nghiêm nghị đáp. “Nếu cháu cho phép, bác sẵn sàng móc mắt hắn ra mang cho chó ăn trên những con đường bụi bặm của thành Thebes. Tất cả đều đượm chất cổ điển, cháu có thể đóng vai dàn hợp xướng. Ngay lúc này bác cũng có thể mường tượng ra cháu, lộng lẫy như một nữ thần, đưa đôi cánh tay trần hướng lên Olympus, nơi chắc hẳn các vị thần đang ngáy vang, ngủ lịm đi vì say.” “Cưới cháu đi, bác César. Ngay bây giờ.” César cầm một bàn tay cô nâng lên hôn, ép chặt đôi môi của ông lên nó. “Khi cháu lớn lên đã, công chúa.” “Nhưng cháu lớn rồi mà.” “Không, chưa đâu. Vẫn chưa đâu. Nhưng khi cháu đã lớn, công chúa yêu quý, bác sẽ dám nói với cháu rằng bác yêu cháu. Và rằng các vị thần, khi bọn họ tỉnh giấc, đã không tước đi của bác mọi thứ. Họ chỉ lấy mất vương quốc của bác.” Dường như ông có vẻ ngẫm nghĩ một lát trước khi nói thêm. “Mà nói cho cùng, đó cũng chỉ là một thứ vô giá trị.” Đó là một cuộc trò chuyện rất riêng tư, đầy ắp kỷ niệm, những câu chuyện chỉ họ mới biết, nó cũng lâu năm như chính tình bạn giữa hai người. Họ ngồi trong im lặng, chỉ có tiếng kêu đều đặn vọng lại từ những chiếc đồng hồ cổ làm bạn, trong lúc chúng cần mẫn đếm từng khoảnh khắc thời gian trôi qua trong khi chờ đợi ai đó tới mua chúng. “Nói tóm lại,” César nói, “nếu bác hiểu đúng cháu, vấn đề ở đây là tìm ra câu trả lời cho một vụ án mạng.” Julia ngạc nhiên nhìn ông. “Thật lạ khi bác có thể nói ra điều đó.” “Tại sao? ít nhiều thì đúng là vậy mà. Việc nó xảy ra vào thế kỷ XV chẳng làm thay đổi điều gì hết.” “Đúng thế. Nhưng từ ‘án mạng’ làm mọi thứ trở nên nhuốm màu tăm tối.” Cô lo lắng mỉm cười với César. “Có thể tối qua cháu quá mệt mỏi để có thể nhìn nhận sự việc theo hướng đó, nhưng cho tới lúc này cháu vẫn coi toàn bộ chuyện này như một trò chơi, giống như giải mã một bức mật thư… nói theo cách nào đó, như một chuyện hoàn toàn cá nhân. Một chuyện can hệ đến niềm tự hào cá nhân.” “Vậy giờ thì sao?” “À, như thể đó là điều tự nhiên nhất trên đời, bác nói đến việc điều tra một vụ án mạng thực sự, và đột nhiên cháu hiểu ra…” Cô ngừng lời, miệng há hốc, cảm thấy như thể mình đang đứng chới với bên bờ vực thẳm. “Bác không thấy sao? Vào ngày 6 tháng Một năm 1469, ai đó đã sát hại Roger de Arras, hay sai người sát hại ông ta, và danh tính của kẻ sát nhân nằm ẩn trong bức họa.” Cô đứng lên trong sự phấn khích. “Chúng ta có thể tìm ra lời giải cho một bí ẩn đã tồn tại từ năm trăm năm nay. Và có lẽ sẽ tìm ra lý do tại sao một sự kiện nhỏ trong lịch sử châu Âu đã diễn ra theo hướng này mà không phải hướng khác. Thử tưởng tượng xem giá của bức Ván cờ có thể lên tới mức nào trong cuộc đấu giá nếu chúng ta có thể làm được điều đó!” “Hàng triệu peseta*, cô bé của tôi ơi,” César xác nhận, với một tiếng thở dài như thể bị đẩy ra khỏi mũi ông chỉ đơn giản bởi sức nặng của sự hiển nhiên. “Rất nhiều tiền.” Ông ngẫm nghĩ về ý nghĩ ấy, lúc này đã hoàn toàn bị nó thuyết phục. “Với một chút quảng cáo khéo léo, Claymore có thể tăng giá chào bán lên gấp ba bốn lần. Bức tranh của cháu đúng là một mỏ vàng.” “Chúng ta cẩn đi gặp Menchu. Ngay lập tức.” César lắc đầu với vẻ dè dặt pha lẫn phật ý. “Ôi không. Bất cứ việc gì trừ việc đó. Quên nó đi. Sẽ không có chuyện cháu lôi bác vào bất cứ trò ma quái nào của bà bạn Menchu quý hóa của cháu đâu. Mặc dù bác sẽ rất hạnh phúc được đứng đằng sau rào chắn, như một trợ thủ cho võ sĩ đấu bò.” “Đừng khó khăn thế chứ. Cháu cần bác.” “Bác hoàn toàn sẵn sàng để cháu tùy ý sử dụng, cô bé yêu quý. Nhưng đừng ép bác phải kề vai với cô ả Nefertiti* mới được sơn lại đó cùng đám trai bao luôn thay đổi xoành xoạch của bà ta, hay nếu cháu thích ăn nói một cách sành điệu, đám chuyên gia đào mỏ của bà ta. Bà bạn quý hóa của cháu khiến bác phát chứng đau nửa đầu” – ông ấn vào một bên thái dương – “ngay ở đây này. Thấy chứ?” “Bác César…” “Thôi được, bác chịu thua. Vae victis*. Bác sẽ gặp Menchu.” Cô đặt một cái hôn thật kêu lên cái má được cạo nhẵn nhụi của ông, và cùng lúc ngửi thấy mùi nhựa thơm thoang thoảng. César luôn mua nước hoa ở Paris, còn những chiếc khăn quàng ở Rome. “Cháu yêu bác, bác César. Rất nhiều.” “Đừng cố làm bác mềm lòng. Thử hình dung cảnh cháu cố lượn lờ quanh bác như thế xem. Và ở độ tuổi của bác nữa.” Menchu cũng mua nước hoa ở Paris, nhưng mùi của nó có phần kém tinh tế hơn so với César. Bà xuất hiện, bước đi vội vã và không có Max bên cạnh, giữa mùi hương nước hoa Rumba của hãng Balenciaga tỏa ra phía trước bà như một đội tiền trạm, bay ngang qua phòng tiền sảnh của khách sạn Palace. “Tôi có vài tin mới đây,” bà nói, đưa một ngón tay gõ lên mũi rồi hít vào liên tiếp mấy lần trước khi ngồi xuống. Hẳn bà vừa ghé vào phòng vệ sinh nữ, vài chấm bột trắng nhỏ vẫn còn dính ở môi trên của bà. Điều này, Julia thầm nghĩ, lý giải vì sao trông bà lại đấy vẻ hào hứng như thế. “Don Manuel đang đợi chúng ta tại nhà ông ta để thảo luận về bức tranh,” bà nói. “Don Manuel ư?” “Chủ sở hữu bức tranh. Cô có bị đần không thế? Cô biết đấy, ông ta chính là quý ông bé nhỏ dễ mến mà tôi đã nói đến.” Cả hai người đều gọi cocktail nhẹ, và Julia bắt đầu cập nhật cho bạn cô những kết quả mà cuộc tìm kiếm của cô đem lại. Menchu mở to mắt trong khi nhanh chóng tính nhẩm các khoản phần trăm trong đầu. “Điều đó thực sự làm thay đổi nhiều thứ.” Trên tấm khăn trải bằng vải đũi phủ lên chiếc bàn thấp kê giữa hai người, bà bận rộn làm phép tính với một móng tay sơn đỏ như máu. “Khoản năm phần trăm của tôi quá ít. Vậy nên tôi sẽ đề nghị một thỏa thuận với người của Claymore: trong số mười lăm phần trăm hoa hồng tính trên giá bức tranh đạt được ở buổi đấu giá, họ sẽ được bảy phẩy năm, và tôi được bảy phẩy năm.” “Họ sẽ không bao giờ đồng ý. Như thế thấp hơn quá xa so với biên lợi nhuận thông thường của họ.” Menchu bật cười. Sẽ là như thế hoặc không gì hết. Bên Sotheby và bên Christie đang chờ sẵn, và bọn họ hẳn sẽ rú lên vui sướng trước triển vọng được giành lấy vụ bức tranh của Van Huys lần này. Đây sẽ là chuyện chấp nhận hay bỏ cuộc. “Thế còn chủ sở hữu ? Quý ông bé nhỏ của bà biết đâu lại có điều gì đó muốn nói về món tài sản của ông ta. Sẽ thế nào nếu ông ta quyết định tự mình thương thảo với Claymore? Hay với ai đó khác.” Menchu dành cho cô một cái nhìn ranh mãnh. “Ông ta không thể. Ông ta đã ký vào một cam kết.” Bà chỉ vào chiếc váy ngắn của mình, vốn cho phép phô bày một cách hết sức hào phóng đôi chân được lồng trong cặp tất sẫm màu. “Bên cạnh đó, như cô thấy đấy, tôi đã ăn vận sẵn sàng để xung trận. Nếu don Manuel bé bỏng của tôi không cắn câu, tôi sẵn sàng chấp nhận đeo mạng đi tu.” Như thể để kiểm tra thử hiệu quả, bà không ngừng gác tréo hai chân lên nhau rồi lại bỏ chân ra cho đám khách hàng nam giới của khách sạn tha hồ thưởng lãm. Hài lòng với kết quả thu được, bà chú tâm trở lại vào ly cocktail của mình. “Còn về phần cô…” “Tôi muốn một phẩy năm trong số bảy phẩy năm phần trăm của bà.” Menchu kêu lên như thể bị cắt ruột. Như thế là quá nhiều tiền, bà ta thốt lên đầy phẫn nộ. Gấp ba hay bốn lần mức thù lao người ta sẵn lòng trả cho công việc phục chế. Julia để cho bà thoải mái phản đối trong lúc lấy bao thuốc lá từ trong túi ra và châm một điếu. “Bà không hiểu rồi,” cô giải thích trong khi nhả khói ra. “Thù lao cho phần việc của tôi sẽ được lấy trực tiếp từ don Manuel của bà, từ mức giá bức họa đạt được trong cuộc bán đấu giá. Khoản phần trăm còn lại chỉ là phần thêm vào chỗ thù lao này, và sẽ được tính từ phần lợi nhuận bà thu được. Nếu bức tranh bán được một trăm triệu peseta, Claymore sẽ đút túi bảy triệu rưỡi, bà được sáu triệu và tôi một triệu rưỡi.” “Ai có thể ngờ được chứ?” Menchu nói, lắc đầu ra vẻ không thể tin nổi. “Cô dường như có vẻ là một cô gái đáng mến, với những chiếc cọ bé nhỏ và những lọ sơn dầu của cô. Vô hại biết chừng nào.” “Thế ư, vậy thì bà biết rồi đấy. Chúa từng nói chúng ta cần tử tế với đồng loại của mình, nhưng ông ấy có nói gì về việc chúng ta nên chấp nhận để ông ấy rút xương sườn của chúng ta ra đâu.” “Cô thực sự làm tôi choáng váng đấy. Hóa ra tôi vẫn ôm ấp một con rắn bên ngực trái của mình như Aida* vậy. Hay đó là Cleopatra* nhỉ? Tôi không thể ngờ cô lại biết về những khoản phần trăm.” “Bà thử đặt mình vào vị trí của tôi xem. Nói cho cùng, tôi chính là người đã khám phá ra bí mật đó.” Cô đưa ngón tay lên khua khua trước mũi người bạn. “Bằng chính đôi bàn tay duyên dáng của mình.” “Cô đang tận dụng sự mềm yếu của tôi đấy, cô nàng rắn độc bé bỏng.” “Thôi vờ vịt than thở đi. Bà còn cứng hơn cả đá.” Menchu trút ra một tiếng thở dài cường điệu thái quá. Vụ này sẽ giật mất miếng ăn khỏi miệng anh chàng Max của bà, nhưng bà tin chắc họ có thể đi tới một thỏa hiệp nào đó. Tình bạn dẫu sao vẫn là tình bạn. Bà liếc mắt nhìn ra cửa rồi làm bộ bí mật. “Nói đến quỷ sứ…” “Ý bà là Max?” “Đừng có xấu tính thế chứ. Max đâu phải là quỷ sứ, anh ta là một chàng trai ngọt ngào.” Bà đảo mắt sang bên, gợi ý Julia đưa mắt nhìn theo. “Paco Montegrifo, người của Claymore, vừa mới bước vào. Và anh ta nhìn thấy cô và tôi rồi.” Montegrifo là giám đốc chi nhánh của Claymore tại Madrid. Anh ta ngoài bốn mươi tuổi, cao ráo, hấp dẫn, ăn mặc với vẻ lịch lãm nghiêm chỉnh của một ông hoàng Italia. Mái tóc anh ta cũng bóng mượt như chiếc cà vạt anh ta đang đeo, và khi mỉm cười, anh ta phô ra một loạt những chiếc răng đều tăm tắp, quá hoàn hảo để có thể tin là thực. “Xin chào các quý bà. Một sự tình cờ mới hạnh phúc làm sao!” Anh ta vẫn đứng trong khi Menchu giới thiệu hai người với nhau. “Tôi đã từng chiêm ngưỡng một số công việc cô thực hiện,” anh ta nói với Julia khi được biết cô chính là người đang phục chế bức họa của Van Huys, “và tôi chỉ có một từ duy nhất để diễn tả chúng: hoàn hảo.” “Cảm ơn ông.” “Tôi tin chắc công việc phục chế bức Ván cờ của cô cũng sẽ có chất lượng cao như thế.” Anh ta lại phô ra hàm răng trắng bóng của mình trong một nụ cười đầy chuyên nghiệp. “Chúng tôi đang gửi gắm những hy vọng lớn lao vào bức họa này.” “Chúng tôi cũng vậy,” Menchu nói. “Nhiều hơn những gì anh có thể nghĩ.” Montegrifo hẳn đã nhận ra vẻ châm chọc của bà trong nhận xét đó, vì đôi mắt nâu của anh ta đột nhiên trở nên đầy cảnh giác. Anh ta không hề là một gã ngốc, Julia thầm nghĩ khi anh ta ra hiệu chỉ về phía một chiếc ghế trống. Có người đang chờ anh ta, anh ta nói, song những người này chắc chắn sẽ vui lòng đợi thêm vài phút. “Tôi có thể ngồi chứ?” Anh ta ra hiệu cho một người phục vụ đang lại gần rằng mình không muốn thứ gì rồi ngồi xuống đối diện với Menchu. Vẻ niềm nở thân mật của anh ta vẫn nguyên vẹn không hề suy suyển, song bên cạnh nó giờ đây có thêm chút trông đợi pha lẫn thận trọng, như thể anh ta đang căng tai ra lắng nghe để tìm kiếm một âm hưởng bất đồng xa xôi nào đó. “Có rắc rối gì sao?” anh ta bình thản hỏi. Menchu lắc đầu. Không có rắc rối nào hết, không hẳn thế. Không có điều gì đáng để lo ngại. Montegrifo dường như không hề có chút lo ngại nào, chỉ đơn giản là quan tâm một cách lịch sự. “Có lẽ,” Menchu đề xuất sau một lát cân nhắc, “chúng ta nên thương thảo lại các điều khoản trong hợp đồng giữa chúng ta.” Tiếp theo là một quãng im lặng lúng túng. Montegrifo đang nhìn bà như thể nhìn một khách hàng không thể kiềm chế được cơn phấn khích của mình trong bầu không khí sôi sục của cuộc đấu giá. “Thưa quý bà đáng mến, Claymore là một tổ chức nghiêm túc.” “Tôi không hề nghi ngờ về điều đó,” Menchu cương quyết đáp. “Nhưng những nghiên cứu tiến hành trên bức tranh của Van Huys đã giúp chúng tôi khám phá ra một vài chi tiết quan trọng làm thay đổi hoàn toàn giá trị của nó.” “Các chuyên gia đánh giá của chúng tôi không tìm thấy gì hết.” “Nghiên cứu này được thực hiện sau khi người của các vị tiến hành kiểm tra. Những điều được khám phá…” – Menchu dường như có phần do dự, và thái độ này không hề bị bỏ qua – “không thể thấy ngay lập tức bằng mắt thường.” Montegrifo quay sang Julia, trông có vẻ trầm ngâm. Đôi mắt anh ta lạnh như băng. “Cô đã tìm ra cái gì vậy?” anh ta hỏi một cách lịch sự, giống như một cha xưng tội mở lời để giúp ai đó trút bỏ gánh nặng lương tâm của họ. Julia nhìn Menchu với vẻ bối rối. “Tôi không nghĩ tôi…” “Chúng tôi không được phép nói,” Menchu chen vào cứu nguy cho cô. “Ít nhất cũng không phải hôm nay. Chúng ta phải chờ chỉ dẫn từ khách hàng của tôi.” Montegrifo trầm ngâm lắc đầu, rồi từ tốn đứng dậy với vẻ mặt uể oải của một người từng trải. “Tôi sẽ cân nhắc xem có thể làm được gì. Tôi xin phép…” Dường như anh ta không có vẻ lo lắng. Anh ta chỉ đơn thuần thể hiện một hy vọng – mà không rời mắt khỏi Julia dù chỉ một tích tắc, cho dù những lời anh ta nói đều dành cho Menchu – rằng “những khám phá” kia sẽ không tạo ra bất cứ thay đổi nào tới bản hợp đồng hiện tại giữa họ. Sau lời chào tạm biệt rất chân tình, anh ta quay đi, len lỏi giữa những dãy bàn để tới ngồi xuống góc đối diện của căn phòng. Menchu nhìn chằm chằm vào chiếc ly của bà, khuôn mặt hiện lên vẻ ân hận. “Tôi đã tự đẩy mình vào thế bí rồi.” “Ý bà là sao? Sớm muộn gì ông ta cũng tìm ra thôi mà.” “Phải, nhưng cô không biết Paco Montegrifo đâu.” Bà quan sát người phụ trách đấu giá qua chiếc ly của mình. “Có thể cô không nghĩ thế khi ngắm nhìn anh ta, với phong thái niềm nở và khuôn mặt điển trai của anh ta, nhưng nếu anh ta biết don Manuel, chắc chắn anh ta đã mò tới chỗ ông lão nhanh như một tia chớp để tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra, đồng thời tìm cách gạt chúng ta khỏi cuộc chơi.” “Bà nghĩ vậy sao?” Menchu khẽ bật cười mỉa mai. Con người Paco Montegrifo chẳng còn gì là bí mật với bà. “Anh ta có khiếu mồm mép và là người tinh tế. Hơn nữa, anh ta không ngần ngại làm bất cứ việc gì và có thể đánh hơi thấy một vụ làm ăn hời từ cách xa năm mươi cây số.” Bà tặc lưỡi ngưỡng mộ. “Người ta còn nói anh ta có dính dáng đến chuyện đưa các tác phẩm nghệ thuật ra nước ngoài một cách bất hợp pháp cũng như việc anh ta thực sự là một nghệ sĩ thiên tài nếu bàn tới việc hối lộ các vị tu sĩ ở vùng nông thôn.” “Dẫu vậy đi nữa, ông ta vẫn tạo cho người ta ấn tượng tốt.” “Đấy chính là cách anh ta kiếm sống mà.” “Điều tôi không hiểu là, nếu anh ta sở hữu một quá khứ bất hảo như thế, tại sao bà không tìm tới một người phụ trách đấu giá khác.” Menchu nhún vai. Đời sống riêng và những gì Paco Montegrifo từng làm chẳng có gì liên quan tới chuyện đó. Bản thân Claymore vốn đã là một tổ chức hoàn hảo. “Bà đã từng ngủ với ông ta chưa?” “Với Montegrifo ư?” Menchu cười phá lên. “Không đâu, cô bé thân mến. Anh ta hoàn toàn không phải kiểu người tôi thích.” “Tôi nghĩ ông ta hấp dẫn đấy chứ.” “Đó là do lứa tuổi của cô thôi, cô bạn của tôi ơi. Tôi thích họ mãnh liệt hơn một chút, như Max chẳng hạn, kiểu những anh chàng lúc nào cũng có vẻ như họ sắp sửa nện cho cô một trận vậy. Những anh chàng như thế ấn tượng hơn nhiều khi ở trên giường và về lâu dài cô sẽ thấy họ kinh tế hơn.” ♛ ♛ ♛ “Tất nhiên cả hai người đều còn quá trẻ để có thể biết được thời kỳ đó.” Họ đang ngồi uống cà phê bên một chiếc bàn tròn nhỏ mặt sơn mài kiểu Trung Quốc, bên cạnh một ban công bày đầy các chậu cây xanh rậm lá. Bản Musical Offering của Bach đang được chơi trên một chiếc máy quay đĩa cổ. Thỉnh thoảng don Manuel Belmonte lại ngừng lời, như thể có vài đoạn nhạc thu hút sự chú ý của ông. Sau khi lắng nghe một hồi, ông bắt đầu khẽ đệm theo bằng cách gõ các ngón tay lên thanh vịn bằng kim loại của chiếc xe lăn. Trán và hai bàn tay ông lấm tấm những đốm đồi mồi của tuổi già. Những đường tĩnh mạch căng phồng, xanh lét và nổi hằn lên, chạy theo hai bên cổ tay và trên cổ ồng. “Lúc đó chắc khoảng năm 1940,” ông nói tiếp, đôi môi khô nẻ nở một nụ cười buồn bã. “Thời thế thật khó khăn, chúng tôi đã phải bán đi gần như toàn bộ các bức tranh. Tôi đặc biệt còn nhớ một bức của danh họa Muñoz Degrain và một bức khác của danh họa Murillo. Ana tội nghiệp của tôi đã không bao giờ nguôi ngoai được chuyện mất đi bức tranh của Murillo, mong Chúa giúp linh hồn bà ấy được yên nghỉ. Đó là một bức tranh vẽ Đức Mẹ Đồng Trinh khổ nhỏ rất đẹp, rất giống những bức họa trưng bày ở bảo tàng Prado.” Ông khép mắt, như thể cố gắng hình dung ra bức tranh đó từ ký ức của mình. “Một sĩ quan quân đội, người sau này trở thành mục sư, đã mua bức tranh. Tên ông ta là Garcia Pontejos, tôi nghĩ vậy. Tên vô lại đó thực sự đã lợi dụng tình thế bất lợi của chúng tôi. Ông ta đã trả cho chúng tôi một món tiền còm cõi rẻ mạt.” “Đó chắc hẳn là một mất mát rất đau đớn.” Menchu lựa chọn một giọng nói đầy cảm thông rất hợp ngữ cảnh. Bà đang ngồi đối diện với Belmonte, dành cho ông chủ nhà góc nhìn vô cùng hào phóng để ngắm nghía đôi chân của mình. Ông già tàn phế gật đầu đầy vẻ cam chịu, một cử chỉ đã hình thành từ nhiều năm trước, một cử chỉ quen thuộc của những người chỉ học hỏi được từ những ảo tưởng của chính mình. “Không còn cách nào khác. Thậm chí gia đình vợ tôi và tất cả bạn bè cũng đều quay lưng lại với chúng tôi sau chiến tranh, khi tôi bị sa thải khỏi vị trí nhạc trưởng của dàn nhạc giao hưởng Madrid. Vào thời kỳ đó, nếu bạn không thuộc về phe họ có nghĩa là bạn chống lại họ. Và chắc chắn tôi không thuộc về phe họ.” Ông dừng lại một lát, mọi sự chú ý của ông dường như đều tập trung vào tiếng nhạc đang vang lên từ góc phòng, giữa những chồng đĩa cũ, phía trên bày những bản phù điêu khắc hình dấu của các nhà soạn nhạc Schubert, Verdi, Beethoven và Mozart lồng trong những chiếc khung rất hợp nhau. Một lúc sau, ông lại nhìn Julia và Menchu với một thoáng ngạc nhiên, như thể vừa quay về từ một nơi rất xa và không trông đợi thấy hai người vẫn còn ngồi đó. “Thế rồi tôi bị đột quỵ, và tình hình còn trở nên phức tạp hơn. May thay chúng tôi vẫn còn khoản thừa kế của vợ tôi, khoản thừa kế mà không ai có thể lấy được của bà ấy. Và chúng tôi đã cố gắng giữ lại được ngôi nhà này, vài món đồ đạc và hai hay ba bức tranh đẹp, trong đó có bức Ván cờ.” Ông già buồn bã đưa mắt nhìn lên khoảng trống trên tường, lên chiếc đinh đang nằm trơ trọi cũng như dấu vết của một khoảng hình chữ nhật còn lưu lại trên lớp giấy dán tường, rồi ông đưa tay lên xoa cằm, trên đó còn vài sợi râu bạc trắng đã thoát khỏi lưỡi dao cạo của ông. “Đó luôn là bức tranh yêu thích của tôi.” “Ông được thừa kế bức tranh đó từ ai vậy?” “Từ một chi khác của gia đình, dòng họ Moncada. Một ông bác. Moncada chính là họ thứ hai của Ana. Một trong những tổ tiên của bà ấy, Luis Moncada, là một sĩ quan hậu cần dưới quyền công tước Alejandro Farnesio xứ Parma*, vào khoảng năm 1500 thì phải… Hẳn ông ta ít nhiều cũng là một người say mê nghệ thuật.” Julia tìm trong tập tài liệu đang nằm trên mặt bàn. “ ‘Có được năm 1585’, trong này viết như vậy, ‘có thể ở Antwerp, vào thời gian Flanders và Brabant* đầu hàng…’ ” Ông già gật đầu, như thể từng đích thân chứng kiến sự kiện đó. “À, phải rồi. Bức họa có thể là một trong những chiến lợi phẩm đoạt được khi cướp phá thành phố. Binh lính thuộc trung đoàn do vị tổ tiên của vợ tôi chỉ huy không phải loại người lịch sự gõ cửa và sẵn lòng ký hóa đơn.” Julia đang giở từng trang tài liệu. “Trước đó không có gì nhắc tới bức tranh,” cô nhận xét. “Ông có nhớ bất cứ câu chuyện nào trong gia đình liên quan tới bức tranh không, bất cứ câu chuyện truyền miệng nào? Bất kỳ thông tin nào ông có cũng sẽ giúp ích rất nhiều cho chúng tôi.” Belmonte lắc đầu. “Không, tôi không biết thêm gì khác nữa. Gia đình vợ tôi luôn gọi bức tranh là Flanders hay Bức tranh trên ván gỗ Farnesio, chắc chắn để không phải nhớ tới cách họ có được nó. Nó đã xuất hiện dưới những cái tên này trong suốt hơn hai mươi năm được mang cho bảo tàng Prado mượn, cho tới khi bố vợ tôi lấy lại nó năm 1923 nhờ Primo de Rivera, một người bạn của gia đình. Bố vợ tôi luôn rất trân trọng bức tranh này của Van Huys, vì ông cũng là một người ham mê cờ vua. Đó là lý do vì sao khi bức tranh được thừa kế lại cho con gái ông, bà ấy đã không muốn bán nó đi.” “Thế còn bây giờ?” Menchu hỏi. Ông già im lặng một lát, nhìn chăm chăm vào tách cà phê của mình như thể không hề nghe thấy câu hỏi. “Giờ mọi thứ đã khác,” cuối cùng ông lên tiếng. Dường như ông đang tự giễu chính mình. “Giờ tôi thực sự đã là một kẻ tàn phế già nua, điều này thì quá rõ rồi.” Ông vỗ lên đôi chân gần như vô dụng của mình. “Cô cháu Lola của tôi và chồng nó chăm lo cho tôi, vậy thì tôi cũng nên đền đáp chúng theo cách nào đó, bà không thấy thế sao?” Menchu khẽ xin lỗi. Bà không có ý thiếu tế nhị. Đây hoàn toàn là chuyện riêng của gia đình, tất nhiên rồi. “Không có gì phải xin lỗi cả,” Belmonte nói, đưa tay lên như thể ban sự xá tội. “Chuyện này cũng hoàn toàn tự nhiên thôi. Bức tranh đó đáng giá rất nhiều tiền và nó chẳng có ích gì nếu cứ được treo trong ngôi nhà này. Cháu tôi và chồng nó nói chúng có thể làm nên chuyện nếu được giúp đỡ ít nhiều. Lola còn có tiền trợ cấp của bố nó, nhưng chồng cháu tôi, Alfonso…” Ông chủ nhà nhìn Menchu như thể muốn van nài bà hãy thấu hiểu. “Thế đấy, bà cũng biết nó thế nào rồi: nó chưa bao giờ làm việc gì trong đời cả. Còn về phần tôi…” Nụ cười chua chát trở lại trên môi ông. “Nếu tôi cho bà biết tôi phải trả bao nhiêu tiền thuế mỗi năm chỉ để giữ lấy ngôi nhà này và được sống trong đó, chắc bà sẽ thấy kinh hoàng.” “Nơi này là một khu vực đẹp,” Julia nói. “Và đây là một ngôi nhà đẹp.” “Phải, nhưng khoản lương hưu của tôi rất còm cõi. Đó là lý do khiến tôi phải bán dần đi từng kỷ vật của mình. Bức tranh sẽ giúp tôi dễ thở hơn.” Ông già giữ nguyên vẻ trầm ngâm, chậm chạp gật đầu, dù dường như ông không chán nản lắm. Ngược lại, thậm chí có vẻ ông còn thấy tất cả chuyện này rất thú vị, như thể trong đó có những khía cạnh hài hước mà chỉ mình ông biết. Có thể ban đầu chỉ đơn giản là một trò đào mỏ tầm thường của cô cháu gái vô liêm sỉ và chồng cô ta, giờ với ông nó còn là một thử nghiệm kỳ dị về thói tham lam trong gia đình: lúc nào cũng luôn là “bác thế này và bác thế kia”, giờ chúng cháu ở đây hầu hạ bác đủ đường, và khoản lương hưu của bác chỉ vừa đủ trang trải các khoản chi phí, tốt hơn bác nên dọn tới ở với những người cùng độ tuổi như bác; thật xấu hổ, cả đống tranh treo trên tường chẳng để làm gì cả. Giờ thì với bức họa của Van Huys làm mồi nhử, Belmonte chắc hẳn đang cảm thấy rất an tâm. Ông có thể lấy lại thế thượng phong sau bấy nhiêu năm bị sỉ nhục. Nhờ bức tranh, cuối cùng ông cũng có thể tính sổ với cô cháu gái cùng chồng cô nàng. Julia mời ông một điếu thuốc, ông dành cho cô một nụ cười biết ơn song lại do dự. “Thực sự tôi không nên hút,” ông nói. “Lola chỉ cho phép tôi uống một tách cà phê sữa và hút một điếu thuốc lá mỗi ngày.” “Quên Lola đi,” Julia đáp, với sự bột phát khiến chính cô cũng phải ngạc nhiên. Menchu có vẻ bất ngờ, nhưng ông già dường như lại chẳng hề bận tâm chút nào. Ông hướng về Julia với một cái nhìn trong đó cô nghĩ có một tia tán đồng vừa lóe lên rồi lập tức tắt đi, và chìa những ngón tay gầy guộc của ông ra. Nhoài người qua bàn để châm điếu thuốc, Julia nói: “Về bức tranh… Có một điều không ngờ tới đã xảy ra.” Ông chủ nhà khoan khoái nuốt một ngụm khói, giữ nó lại trong phổi mình lâu nhất có thể rồi khép hờ mắt lại. “Không ngờ tới theo hướng tốt hay xấu vậy?” “Theo hướng tốt. Chúng tôi đã khám phá ra một dòng chữ được giấu kín dưới lớp sơn. Làm nó lộ ra rất có thể sẽ làm tăng giá trị của bức tranh.” Cô ngồi lại xuống ghế, mỉm cười. “Ông là người quyết định chúng ta sẽ làm gì.” Belmonte đứa mắt nhìn Menchu và Julia, như thể tự làm một phép so sánh nào đó, hay đang bị lôi kéo giữa hai sự trung thành đối lập nhau. Cuối cùng, dường như ông đã đi đến quyết định. Rít thêm một hơi thuốc dài nữa, ông đặt hai bàn tay lên trên đầu gối với vẻ hài lòng. “Cô không chỉ xinh đẹp, mà rõ ràng còn rất thông minh nữa,” ông nói với Julia. “Tôi dám cược thậm chí cô còn thích Bach.” “Tôi rất thích Bach.” “Nào, làm ơn cho tôi biết dòng chữ đó viết gì.” Và Julia thuật lại cho ông biết. “Ai có thể ngờ được chứ!” Belmonte, đầy hoài nghi, vẫn còn lắc đầu sau một hồi lâu im lặng. “Bấy nhiêu năm ngắm nhìn bức tranh đó và tôi chưa bao giờ ngờ đến, dù chỉ một lần…” Ông đưa mắt nhìn khoảng trống mà bức họa của Van Huys để lại trên tường trong khoảnh khắc, đôi mắt khép hờ trong lúc ông nở một nụ cười hài lòng. “Vậy là ông họa sĩ này thích những bí ẩn.” “Có vẻ là thế,” Julia nói. Belmonte chỉ vào chiếc máy quay đĩa đặt trong góc phòng. “Ông ta không phải là người duy nhất,” ông nói. “Các tác phẩm nghệ thuật chứa đựng các câu đố và những đầu mối ẩn giấu trong đó đã từng rất phổ biến. Hãy lấy Bach làm ví dụ. Mười luân khúc hợp thành bản Musical Offering của ông là tác phẩm hoàn hảo nhất mà ông sáng tác, ấy vậy mà không có bài nào trong chúng được viết ra trọn vẹn từ khởi đầu đến kết thúc. Ông đã làm vậy một cách có chủ ý, như thể tác phẩm là một chuỗi những câu đố ông đặt ra cho vua Phổ là Frederick. Đó là một phong cách đánh đố quen thuộc trong âm nhạc thời ấy. Nó bao gồm việc soạn ra một giai điệu chủ đề, kèm theo là những chỉ dẫn ít nhiều bí hiểm, rồi để một nhạc sĩ, nhạc công hay người thể hiện khác tự khám phá ra luân khúc dựa vào giai điệu chủ đề đó, vì thực ra đó là một trò giải đố.” “Thật thú vị làm sao!” Menchu nói. “Bà không tưởng tượng nổi nó thú vị đến mức nào đâu. Giống nhiều nghệ sĩ khác, Bach cũng là người thích đùa cợt. Ông luôn nghĩ ra những cách thức khác nhau để đánh lừa thính giả. Ông sử dụng các mẹo vận dụng nốt nhạc và ca từ, những biến tấu tài tình, những đoạn ngẫu hứng kỳ lạ. Chẳng hạn, ở một trong những bài hợp xướng ông viết cho sáu giọng, nhà soạn nhạc đã khéo léo lồng vào tên của chính mình, được chia ra giữa hai giọng cao nhất. Và những chuyện như thế không chỉ xảy ra trong âm nhạc. Lewis Carroll, một nhà toán học và say mê môn cờ vua không kém gì văn học, từng đưa trò chơi chữ theo chữ cái đầu vào các bài thơ của ông. Có những phương thức rất thông minh để ẩn giấu những thứ người ta muốn trong các bản nhạc, bài thơ hay các bức tranh.” “Chắc chắn rồi,” Julia nói. “Những biểu tượng và đầu mối ẩn vẫn hay xuất hiện trong nghệ thuật. Thậm chí cả trong nghệ thuật hiện đại. Rắc rối ở chỗ không phải lúc nào chúng ta cũng có trong tay đúng chìa khóa để giải mã những thông điệp ấy, nhất là những thông điệp cổ xưa.” Lúc này đến lượt cô trầm ngâm nhìn vào khoảng trống trên tường. “Nhưng với bức Ván cờ, ít nhất chúng ta cũng đã có vài manh mối để tìm kiếm. Chúng ta có thể thử tìm một lời giải.” Belmonte ngả người tựa lưng ra sau trên chiếc xe lăn của ông, đôi mắt giễu cợt nhìn chăm chăm vào Julia. “Được thôi, hãy thông tin thường xuyên cho tôi,” ông nói. “Tôi có thể cam đoan với hai người là không gì có thể đem đến cho tôi niềm vui lớn hơn thế.” Ba người đang chào tạm biệt trên lối đi thì cháu gái Belmonte và chồng cô ta về đến. Lola là một phụ nữ gầy trơ xương, đã vượt xa cột mốc ba mươi tuổi, với mái tóc đỏ hoe và đôi mắt nhỏ tham lam. Cánh tay phải của cô ta, lọt thỏm trong ống tay áo một chiếc áo choàng lông thú, đang cắp chặt lấy cánh tay trái của anh chồng. Anh ta có nước da ngăm, vóc người dong dỏng, trẻ hơn cô vợ một chút, bệnh hói đầu sớm được che giấu đi phần nào nhờ nước da sẫm màu. Kể cả chưa được nghe lời nhận xét của ông già đi nữa, Julia cũng dễ dàng đoán ra anh chàng này có một chỗ đứng vững chắc trong hàng ngũ những kẻ thích làm càng ít càng tốt để kiếm sống. Với hai bọng mắt hơi chảy xệ tô điểm làm tăng thêm vẻ phóng đãng, khuôn mặt anh ta phô ra một cái nhìn sưng sỉa đầy ngờ vực mà khuôn miệng to xảo quyệt như của một con cáo chẳng hề lạc quẻ. Anh ta mặc một chiếc áo khoác màu xanh đính khuy vàng, không đeo cà vạt, bộ dạng không lẫn vào đâu được của một kẻ chỉ phân chia quỹ thời gian rỗi chẳng mấy eo hẹp của mình giữa ngồi kề cà uống rượu khai vị ở những quầy bar đắt tiền và ghé thăm các hộp đêm thời thượng, dù rõ anh chàng cũng không xa lạ gì với các bàn chơi roulette hay các loại bài bạc. “Cháu tôi, Lola, và chồng nó, Alfonso,” Belmonte nói, và họ trao đổi những lời chào hỏi, không chút hào hứng từ phía cô cháu, nhưng đầy vẻ quan tâm không giấu giếm từ phía Alfonso, anh này giữ bàn tay Julia có phần lâu hơn cần thiết, liếc nhìn cô từ đầu đến chân bằng con mắt của một tay chơi sành sỏi. Sau đó anh ta quay sang Menchu, gọi bà bằng tên riêng như thể hai người là chỗ quen biết lâu ngày. “Hai quý cô đây đến vì bức tranh,” Belmonte giải thích. Alfonso chặc lưỡi. “Tất nhiên rồi, bức tranh. Bức tranh trứ danh của bác.” Belmonte cập nhật cho vợ chồng cô cháu biết tình hình mới. Alfonso đứng đút hai tay vào túi quần, mỉm cười nhìn chằm chằm vào Julia. “Nếu như thế có nghĩa là giá trị bức tranh sẽ tăng lên,” anh ta nói, “thì với tôi đây quả là một tin tuyệt vời. Cô có thể quay lại bất cứ lúc nào cô muốn nếu cô lại mang tới cho chúng tôi những điều ngạc nhiên như thế. Chúng tôi thích những điều ngạc nhiên thú vị.” Cô cháu ông chủ nhà không lập tức chia sẻ tâm trạng hài lòng với chồng mình. “Chúng ta cần thảo luận về việc này,” cô ta nói. “Liệu có gì đảm bảo làm thế không phải chỉ làm hỏng bức tranh mà thôi?” “Nếu thế thì quả là không thể tha thứ,” Alfonso hùa theo. “Nhưng anh không nghĩ quý cô trẻ tuổi đây lại bất cẩn đến mức gây ra việc đó.” Lola ném về phía ông chồng một cái nhìn bực bội. “Anh đừng chõ vào việc này. Đây là chuyện làm ăn của tôi.” “Thế thì em sai rồi, em yêu quý,” nụ cười của Alfonso càng nở rộng hơn. “Chúng ta cùng chia sẻ mọi thứ mà.” “Tôi nói với anh rồi đấy: đừng chõ vào việc này.” Alfonso chậm rãi quay về phía cô vợ. Khuôn mặt anh ta trở nên cứng rắn và càng hiện rõ vẻ cáo già ranh mãnh, nụ cười của anh ta giờ có vẻ giống một lưỡi dao sắc lẻm. Julia nghĩ có lẽ tay chơi này cũng không hẳn vô hại như ấn tượng ban đầu mà anh ta đem lại. Sẽ là không khôn ngoan nếu để xảy ra bất cứ chuyện làm ăn lửng lơ nào với một gã sở hữu nụ cười như thế. “Đừng có ngốc thế… em yêu.” Hai từ “em yêu” được nói ra với đủ mọi sắc thái cảm xúc, trừ sự âu yếm dịu dàng, và Lola có vẻ ý thức được điều đó rõ hơn ai khác. Họ lặng lẽ quan sát cô ta cố gồng mình che giấu sự ê chề và căm hận của mình. Menchu bước lên một bước, quyết định can thiệp vào cuộc cãi cọ. “Chúng tôi đã trao đổi với don Manuel về vấn đề này,” bà thông báo. “Và ông ấy đã đồng ý.” Hai bàn tay đặt trong lòng, ông già tàn tật đã theo dõi màn đấu khẩu từ chiếc xe lăn như một khán giả đã lựa chọn đứng ngoài nhưng luôn quan sát mọi diễn biến với vẻ hào hứng thích thú đầy ác ý. Quả là một gia đình không giống ai! Julia thầm nghĩ. “Đúng thế,” ông già xác nhận, không cụ thể với ai trong những người còn lại. “Tôi đã đồng ý. Về mặt nguyên tắc.” Cô cháu gái đang vặn vẹo hai bàn tay, những chiếc vòng cô ta đeo trên cổ tay va vào nhau rổn rảng. Dường như cô ta đang lâm vào trạng thái đau khổ tột độ – hoặc vậy, hoặc đang giận sôi lên. Mà cũng có thể cô ta đang rơi vào cả hai tâm trạng đó cùng một lúc. “Bác, đây là vấn đề cần phải bàn bạc. Cháu không hề nghi ngờ thiện ý của hai quý bà đây…” “Hai quý cô trẻ tuổi,” chồng cô ta chen vào, mỉm cười với Julia. “Thì hai quý cô trẻ tuổi.” Lola khó khăn lắm mới thốt được nên lời, lưỡi cô ta ríu lại vì tức giận. “Nhưng đáng ra họ cũng phải hỏi ý kiến cả vợ chồng cháu nữa.” “Nếu nói đến phần tôi,” ông chồng lên tiếng, “hai quý cô đây nhận được sự tán đồng hoàn toàn.” Menchu đang ngắm nghía Alfonso một cách khá lộ liễu và dường như định nói gì đó. Nhưng rồi bà chọn không lên tiếng và đưa mắt nhìn cô cháu gái ông chủ nhà. “Cô đã nghe chồng mình nói gì rồi đấy.” “Tôi không quan tâm. Tôi mới là người thừa kế hợp pháp.” Belmonte đưa một bàn tay xương xẩu lên làm một cử chỉ mỉa mai, như thể xin phép được chen vào. “Tôi vẫn còn sống đây, Lola. Cô sẽ nhận được gia tài thừa kế của cô khi thời điểm đó chính thức đến.” “Amen,” Alfonso lẩm bẩm. Cô cháu gái chìa cái cằm xương xẩu ra theo cách thức độc địa nhất, hướng thẳng vào Menchu, và trong một khoảnh khắc Julia đã nghĩ cô ta chuẩn bị nhảy xổ vào họ. Với bộ móng tay để dài của cô ta cùng dáng vẻ của một con chim săn mồi, quả thực có chút gì đó đầy đe dọa trong con người cô cháu gái ông chủ nhà. Julia thầm chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đối đầu, tim đập rộn lên. Khi cô còn là một đứa trẻ, César từng dạy cô vài mẹo nhỏ khá tệ hại nhưng hữu dụng nếu cần phải hạ thủ những tên cướp biển. May thay, thái độ hung dữ của cô cháu chỉ dừng lại trên vẻ mặt cô ta, cũng như cách cô ta vùng vằng quay người, đùng đùng bỏ ra khỏi phòng. “Các người sẽ biết tay tôi,” cô ta nói. Và tiếng nện gót giày bực bội của cô ta nhỏ dần trên lối đi. Hai bàn tay vẫn để nguyên trong túi quần, Alfonso giữ nụ cười bình thản nhẹ nhàng trên khuôn mặt. “Đừng để ý đến cô ấy,” anh ta nói, rồi quay sang Belmonte. “Phải không nào, bác thân mến? Bác hẳn chưa bao giờ nghĩ đến, nhưng Lolita thực sự có một trái tim vàng. Cô ấy đúng là một cô gái dễ thương.” Belmonte lơ đãng gật đầu. Rõ ràng ông chủ nhà đang bận suy nghĩ về chuyện khác. Cái nhìn của ông dường như hướng tới khoảng trống hình chữ nhật trên tường, như thể nó chứa đựng những dấu hiệu bí ẩn mà chỉ mình ông, với đôi mắt mệt mỏi của mình, có thể đọc được. ♛ ♛ ♛ “Vậy là trước đây bà đã từng gặp Alfonso rồi,” Julia lên tiếng ngay khi hai người ra đến ngoài đường. Menchu, lúc này đang nhìn vào khung cửa kính của một cửa hiệu, gật đầu. “Phải, trước đây ít lâu,” bà nói, cúi người xuống để xem giá của vài đôi giày. “Ba hay bốn năm trước, tôi nghĩ vậy.” “Giờ thì tôi hiểu cả về bức tranh rồi. Không phải ông già là người tiếp cận bà, mà là Alfonso.” Menchu nở nụ cười ranh mãnh. “Cô đáng được trao giải nhất về suy đoán, cô bé thân mến. Cô đoán cũng không sai đâu. Tôi và anh ta từng có với nhau thứ mà chắc cô sẽ kín đáo gọi là một ‘vụ ngoại tinh’. Chuyện đó đã qua lâu lắm rồi, nhưng khi nảy sinh ra vụ bức tranh của Van Huys, anh ta vẫn còn đủ tử tế để nghĩ đến tôi.” “Tại sao anh ta không trực tiếp đứng ra thương lượng?” “Vì chẳng ai tin tưởng anh ta cả, kể cả don Manuel.” Bà bật cười. “Alfonsito Lapena, con bạc và tay chơi trứ danh, kẻ thậm chí quỵt cả tiền của những gã đánh giày. Mấy tháng trước chỉ chút nữa là anh ta đã phải vào tù. Một vụ rắc rối nào đó với những tấm séc không có khả năng thanh toán.” “Vậy anh ta sống bằng cách nào ?” “Dựa vào cô vợ, vào việc xoáy trộm của những người bất cẩn cũng như sự vô liêm sỉ hoàn toàn của anh ta.” “Và anh ta trông đợi vào Van Huys để giúp mình thoát khỏi khó khăn?” “Đúng thế. Anh ta đang nóng lòng được biến bức tranh thành những chồng xèng đánh bài nhỏ nhắn đặt trên nền vải nỉ bóng bẩy màu xanh lục.” “Tôi thấy anh ta có vẻ là một kẻ chẳng ra gì.” “Ồ, đúng vậy đấy. Nhưng tôi luôn yếu đuối trước những gã đồi bại, và tôi thích Alfonso.” Bà giữ nguyên vẻ trầm ngầm thêm một lát. “Mặc dù, như tôi còn nhớ, kỹ năng của anh ta chắc chắn chẳng có gì đáng gọi là đặc sắc. Anh ta… biết nói thế nào nhỉ…?” Bà ngẫm nghĩ cố tìm từ thích hợp. “Hơi thiếu trí tưởng tượng. Không thể so sánh với Max. Quá đơn điệu, cô biết đấy: kiểu đàn ông chỉ biết hùng hục cật lực, nổ bùng rồi thều thào cảm ơn quý bà. Nhưng với anh ta cô có thể cười thoải mái. Anh ta biết vài câu đùa bỡn thực sự bẩn thỉu.” “Vợ anh ta có biết chuyện của bà và anh ta không?” “Tôi nghĩ cô ta có cảm thấy điều gì đó, vì rõ ràng cô nàng không phải là một ả ngốc. Đó là lý do vì sao cô ta dành cho tôi cái nhìn đó, đồ bò cái thối tha.” MỘT THẾ CỜ VUA Trò chơi cao quý này, than ôi, có những vực thẳm sâu không đáy nơi vô vàn linh hồn tinh tế và hồn hậu đã bị cuốn vào mất hút. _ Một kiện tưởng cờ vua lớn tuổi người Đức _ “Tôi nghĩ,” César nói, “ở đây chúng ta đang đối diện với một thế cờ vua.” Họ đã thảo luận về bức họa được nửa giờ đồng hồ. César đang tựa lưng vào tường, điệu đà cầm một ly gin pha chanh bằng ngón cái và ngón trỏ, Menchu ngồi uể oải trên xô pha, còn Julia đang ngồi bệt dưới thảm trải sàn, một chiếc gạt tàn để giữa hai chân, bận rộn cắn móng tay. Cả ba người đều chăm chú nhìn vào bức tranh như thể nhìn vào một màn hình ti vi. Sắc màu trên bức tranh của Van Huys sẫm dần lại trước mắt họ khi những tia sáng cuối cùng của buổi chiều muộn biến mất khỏi bầu trời. “Hai người có nghĩ ai đó nên bật đèn lên không?” Menchu gợi ý. “Tôi có cảm giác như thể đang dần trở nên mù lòa.” César bật công tắc sau lưng ông, và những luồng ánh sáng gián tiếp, phản chiếu từ các bức tường, đem vẻ sống động và các sắc màu trở lại với Roger de Arras và hai vợ chồng công tước xứ Ostenburg. Gần như cùng lúc, chiếc đồng hồ treo tường đổ tám tiếng chuông theo nhịp đu đưa của quả lắc có cần dài bằng đồng thau. Julia quay đầu lại, trông đợi tiếng bước chân vẫn chưa chịu vang lên ngoài cầu thang. “Alvaro đến muộn rồi,” cô nói, và thấy César nhăn mặt. “Cho dù gã phàm tục đó có đến muộn thế nào đi nữa,” ông lẩm bẩm, “chừng đó cũng chẳng bao giờ đủ muộn để tránh mặt bác.” Julia dành cho ông một cái nhìn đầy trách móc. “Bác đã hứa với cháu sẽ cứ xử đàng hoàng. Đừng quên đấy.” “Bác sẽ không quên đâu, công chúa thân mến. Bác sẽ kìm nén cái thôi thúc muốn giết người của mình, nhưng chỉ vì tình cảm bác dành cho cháu thôi.” “Cháu sẽ biết ơn bác mãi mãi.” “Bác hy vọng là thế.” Ông nhìn chiếc đồng hồ trên cổ tay như thể không tin vào chiếc đồng hồ treo tường, một món quà cũ của chính ông. “Nhưng con lợn này rõ ràng không được đúng giờ cho lắm, phải không nào?” “Bác César.” “Được rồi, cô bé thân mến. Bác sẽ không nói thêm lời nào nữa.” “Không, bác cứ tiếp tục nói đi.” Julia chỉ về phía bức tranh. “Bác đang nói chuyện này có gì đó liên quan tới một thế cờ vua mà.” César gật đầu. Ông dừng lại đầy kiểu cách như thể đang diễn kịch, nhấp một hớp rượu gin, rồi lau khô môi bằng chiếc khăn mùi soa trắng tinh vừa lấy từ túi áo ra. “Hãy để tôi giải thích cho cả hai người,” ông đưa mắt nhìn Menchu và khẽ thở dài. “Có một chi tiết trong dòng chữ mà cho tới lúc này chúng ta chưa nhận ra, hay ít nhất là tôi chưa nhận ra. Quis necavit equitem quả thực có thể dịch là ‘Ai đã giết hiệp sĩ?’ Và như thế, theo những hiểu biết của chúng ta, có thể được suy đoán như một câu hỏi về cái chết hay vụ ám sát Roger de Arras. Tuy nhiên, ba từ đó còn có thể được hiểu theo cách khác.” Ông trâm ngâm đưa mắt nhìn bức tranh, thầm đánh giá mức độ đúng đắn trong lý lẽ sắp đưa ra. “Diễn dịch lại theo các khái niệm trong môn cờ vua, rất có thể câu hỏi ở đây không phải ‘Ai đã giết hiệp sĩ?’ mà là ‘Quân nào đã đoạt mất, hay ăn mất, quân hiệp sĩ?’ ” Không ai nói gì. Cuối cùng Menchu phá vỡ sự im lặng, khuôn mặt bà hiện rõ vẻ thất vọng. “Những kỳ vọng lớn lao của chúng ta thế là xong. Chúng ta đã dựng nên cả câu chuyện này chỉ căn cứ vào một câu hỏi vớ vẩn vô nghĩa.” Julia, lúc này đang nhìn chằm chằm vào César, lắc đầu. “Không hề; bí ẩn vẫn còn nguyên đó. Phải vậy không, bác César? Roger de Arras đã bị ám sát trước khi bức họa được vẽ.” Cô đứng dậy chỉ vào góc bức tranh. “Thấy không? Thời điểm bức tranh hoàn thành được ghi ở đây: Petrus Van Huys fecit me, anno MCDLLXXI*. Hai năm sau khi Roger de Arras bị sát hại, Van Huys đã chọn cách sử dụng một trò chơi chữ khéo léo để vẽ một bức tranh trong đó cả nạn nhân và thủ phạm cùng xuất hiện.” Cô dừng lại, vì một ý tưởng nữa vừa chợt lóe lên trong đầu cô. “Và, rất có thể, cả nguyên nhân gây ra tội ác: Beatrice xứ Burgundy.” Menchu đang lúng túng, đồng thời cũng rất phấn khích. Bà nhích người ra mép xô pha, đưa mắt nhìn bức họa Flanders như thể lần đầu tiên nhìn thấy nó. “Tiếp tục đi. Tôi đang hồi hộp phát điên lên đây.” “Theo những gì chúng ta biết, có thể có nhiều lý do tại sao Roger de Arras bị ám sát, và một trong số chúng là lời đồn đại về mối quan hệ lãng mạn giữa ông ta và nữ công tước Beatrice, quý bà mặc bộ đồ màu đen đang ngồi đọc sách bên cửa sổ.” “Có phải cô đang định nói công tước đã giết ông ta vì ghen tuông không?” Julia xua tay phủ nhận. “Tôi không định nói gì hết. Tôi chỉ đưa ra một khả năng, vậy thôi.” Cô chỉ về những chống sách, tài liệu và ảnh để đầy trên bàn. “Có lẽ họa sĩ muốn thu hút sự chú ý tới tội ác này. Rất có khả năng đó là điều khiến ông quyết định vẽ bức tranh này, mà cũng có thể ông được đặt hàng để vẽ nó.” Cô nhún vai. “Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết chắc chắn được, nhưng có một thứ đã rõ ràng: bức tranh chứa đựng chìa khóa để làm sáng tỏ vụ ám sát Roger de Arras. Dòng chữ ấy minh chứng cho điều đó.” “Dòng chữ bị giấu kín,” César đính chính lại. “Điều đó càng khẳng định lập luận của cháu.” “Nếu chỉ đơn giản là họa sĩ sợ rằng ông ta đã quá lộ liễu thì sao?” Menchu hỏi. “Ngay cả vào thế kỷ 15 cô cũng không thể bỗng dưng khơi khơi buộc tội người khác như thế.” Julia nhìn vào bức họa. “Rất có thể Van Huys sợ rằng ông đã thể hiện mọi thứ quá rõ ràng.” “Hoặc có thể ai đó đã vẽ đè lên dòng chữ vào một thời điểm muộn hơn,” Menchu đề xuất. “Không. Tôi cũng đã nghĩ tới khả năng này, và ngoài việc kiểm tra bức tranh dưới đèn tử ngoại, tôi đã lấy một mẫu lát cắt dọc rất nhỏ để kiểm tra dưới kính hiển vi.” Cô cầm một tờ giấy lên. “Kết quả ở cả đây, lần lượt từng lớp một: lớp ván gỗ sồi, một lớp lót rất mỏng được làm từ canxi cacbonat và keo dính có nguồn gốc động vật, lớp phủ nền từ bột trắng chì và dầu, sau đó là ba lớp gồm trắng chì, đỏ thần sa và màu đen từ than xương động vật, trắng chì và màu xanh lục nhựa đồng, và véc ni, cứ như thế. Tất cả đều tương thích với phần còn lại: cùng thành phần pha trộn, cùng loại màu. Chính Van Huys là người đã vẽ đè lên dòng chữ, chỉ ít lâu sau khi viết ra nó. Về chuyện này không còn gì phải nghi ngờ nữa.” “Vậy thì sao?” “Hãy nhớ chúng ta đang lần theo sợi dây mong manh kéo dài năm thế kỷ, về điều này tôi hoàn toàn nhất trí với César. Rất có thể chìa khóa của bí ẩn nằm trong ván cờ. Còn về việc ngoài nghĩa ‘giết’, ‘necavit’ hoàn toàn có thể hiểu là ‘đoạt lấy’, thì tôi chưa bao giờ tính đến khả năng này.” Cô nhìn César. “Bác nghĩ thế nào?” César ngồi xuống đầu đối diện của chiếc xô pha, bắt tréo hai chân sau khi nhấp một hớp gin nhỏ. “Bác cũng nghĩ như cháu, cô bé yêu quý. Bác nghĩ bằng việc hướng sự chú ý của chúng ta từ vị hiệp sĩ thật sang quân cờ hiệp sĩ, người họa sĩ đã cung cấp cho chúng ta manh mối đầu tiên.” Ông điệu bộ uống cạn ly của mình rồi đặt nó xuống chiếc bàn nhỏ kê bên cạnh ông, những viên đá còn lại trong ly đập vào nhau kêu lách cách. “Bằng cách hỏi ai đã ăn quân hiệp sĩ, ông ta buộc chúng ta phải nghiên cứu ván cờ. Ông già Van Huys ma mãnh này, một người mà bác bắt đầu cho rằng sở hữu khiếu hài hước lạ lùng đến mức đáng ghi nhận, có vẻ đang mời chúng ta chơi cờ.” Mắt Julia sáng lên. “Vậy thì chúng ta chơi cờ thôi,” cô reo lên, quay về phía bức tranh. Những lời cô nói khiến César buông ra một tiếng thở dài nữa. “Bác cũng muốn thế lắm, nhưng bác e rằng chuyện này vượt quá khả năng của bác.” “Thôi nào, bác César, bác phải biết chơi cờ vua chứ.” “Một phỏng đoán cực kỳ ngốc nghếch, cô bé thân mến. Cháu đã bao giờ tận mắt thấy bác chơi cờ chưa?” “Chưa bao giờ. Nhưng ai mà chẳng biết qua loa về cách chơi.” “Trong trường hợp này, cháu cần nhiều hơn hiểu biết chung chung mơ hồ về cách di chuyển các quân cờ. Cháu đã thử quan sát kỹ lưỡng bàn cờ trong tranh chưa? Vị trí các quân cờ rất phức tạp.” Ông ngả người ra sau với vẻ uể oải cường điệu quá mức, như thể bị kiệt sức. “Ngay cả bác cũng có những hạn chế hết sức đáng bực mình, cô bé yêu quý. Chẳng ai hoàn hảo cả.” Đúng lúc đó có người bấm chuông cửa. “Chắc là Alvaro,” Julia nói rồi chạy ra mở cửa. Người bấm chuông không phải là Alvaro. Cô chủ nhà quay vào cầm theo chiếc phong bì vừa được một người mang đến đưa cho cô. Trong đó có vài bản sao chụp tài liệu và một danh sách sự kiện được đánh máy theo trình tự thời gian. “Xem này. Có vẻ như anh ấy quyết định không đến, nhưng đã gửi cho chúng ta thứ này.” “Vẫn khiếm nhã như xưa,” César lẩm bẩm dè bỉu. “Đáng ra hắn ta phải gọi điện đến để xin lỗi trước, đồ chuột cống thối tha.” Ông nhún vai. “Nhưng hai người biết không, tự trong lòng, tôi thực sự thấy mừng đấy. Gã thối tha này gửi gì cho chúng ta vậy?” “Đừng xấu tính với anh ấy như thế,” Julia nói. “Phải mất rất nhiều công sức để tập hợp được những thông tin này đấy.” Rồi cô bắt đầu đọc thành tiếng. PIETER VAN HUYS VÀ CÁC NHÂN VẬT ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG BỨC TRANH VÁN CỜ. SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI THEO TRÌNH TỰ THỜI GIAN 1415: Pieter Van Huys sinh ra tại Brugge, Flanders, thuộc Bỉ ngày nay. 1431: Roger de Arras ra đời ở lâu đài Bellesang, tại Ostenburg. Bố ông, Fulk de Arras, là một chư hầu của vua Pháp và có họ hàng với dòng họ Valois đang trị vì. Mẹ ông, không rõ tên, thuộc gia đình công tước xứ Ostenburg, dòng họ Altenhoffen. 1435: Burgundy và Ostenburg xóa bỏ quan hệ chư hầu với Pháp. Ferdinand Altenhoffen, công tước tương lai của Ostenburg, ra đời. 1437: Roger de Arras được nuôi nấng tại triều đình Ostenburg, là bạn cùng chơi cùng học với công tước Ferdinand tương lai. Đến năm mười bảy tuổi, ông tháp tùng bố mình, Fulk de Arras, tham gia cuộc chiến chống lại người Anh do vua Pháp Charles VII phát động. 1441: Beatrice, cháu gái công tước xứ Burgundy là Philip Nhân Từ, ra đời.