🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Ẩn Mãi Mãi Là Bí Ẩn - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Kỳ Bí] Ebooks Nhóm Zalo THÔNG TIN EBOOK Tên sách BÍ ẨN MÃI MÃI LÀ BÍ ẨN Tập 5 Tác giả NHIỀU TÁC GIẢ sưu tầm và biên soạn Thể loại Khoa Học, Bí Ẩn Nhà Xuất Bản NXB TP HCM Ebook BẢN KHÁ SAI CHÍNH TẢ 2021 kindlekobovn —★— NHỮNG BÍ ẨN VỀ XÁC ƯỚP Ở MỘ CỔ GIANG TÔ Bảo tàng thành phố Liên Vân Cảng (Giang Tô, Trung Quốc) vừa mở cửa cho du khách tham quan Bí ẩn nghìn năm - Lăng Huệ Bình, xác người được ướp từ đời nhà Hán. Trưng bày thi hài Lăng Huệ Bình Điều lạ là trải qua hơn 2.000 năm mà da dẻ xác ướp khi khai quật vẫn tươi như vừa mới qua đời. Xác ướp này có nhiều bí ẩn mà tới nay các nhà khoa học chưa thể giải thích sau 6 năm nghiên cứu. Ông Lưu Chính - Giám đốc Bảo tàng - cho biết: Khi xây dựng con đường từ Liên Vân Cảng tới khu danh lam thắng cảnh Hải Châu cách thành phố chừng 7 km về phía Tây Nam, ngày 7 tháng 7 năm 2002 đội công trình của Cục Giao thông đường bộ đã phát hiện mộ cổ này. Các chuyên gia và nhân viên bảo tàng đã nhanh chóng tới hiện trường và thấy trong mộ có hai chiếc quách với 4 chiếc quan tài được đánh số thứ tự theo chiều bắc-nam từ 1 tới 4. Hai chiếc quách có 4 quan tài cùng 81 hiện vật được đưa về bảo tàng để chuyên gia các ngành có liên quan tiến hành phân tích và giám định. Chiếc quan tài số 1, số 2 có chữ đề “Đông Công” và ghi rõ là nam giới. Chiếc thứ 4 giống như chiếc số 1 và số 2 hầu như hài cốt không còn gì cả, chỉ còn lại mấy mẩu xương dính liền với đất. Nhưng khi các chuyên gia mở nắp chiếc quan tài số 3 thì trong quan tài có dung dịch màu nâu đỏ dâng lên nắp tỏa mùi thơm, phát hiện thấy một xác ướp của phụ nữ da dẻ vẫn còn tươi như vừa mới qua đời. Người phụ nữ trong quan tài khoảng 50 tuổi, cao 1,58 m, trong số các hiện vật chôn cùng quan tài có một chiếc ấn kiểu hình khuy rùa bằng đồng bán kính 1,3 cm, bên trong khắc chữ vẫn còn rất rõ nét là “Lăng Huệ Bình”, như vậy đó là xác ướp của bà Lăng Huệ Bình. Đây là xác ướp thứ ba sau hơn 2.000 năm từ đời nhà Hán được tìm thấy mà da dẻ không bị phân hủy. Xác ướp này là xác ướp kiểu “Mã Vương Đối” được phát hiện ở khu mộ cổ đời Hán thuộc Trường Sa (tỉnh Hồ Nam) và khu mộ cổ ở Kinh Châu (tỉnh Hồ Bắc). Nhưng so với hai xác ướp phát hiện ở Hồ Nam và Hồ Bắc, thì xác ướp này có nhiều bí ẩn: - Một là, thân phận của bà Lăng Huệ Bình: Ba quan tài khác đều có ấn bằng đồng tương tự như ấn của bà Lăng Huệ Bình, nhưng đều gỉ và mờ nhạt tới mức không thể đọc rõ. Theo sử sách thời nhà Hán chỉ có quan lại có đẳng cấp được hưởng bổng lộc từ 300 - 2000 thạch (một đơn vị đo lường cũ) thì vua mới ban cho quyền khắc ấn kiểu khuy rùa bên trong có tên. Bà Lăng Huệ Bình cũng được ban ấn đồng như vậy thì ít nhất chức vụ cũng phải từ cấp thái thú trở lên. Qua ghi chép của lịch sử, thời Hán có quy chế phong hầu tước cho phụ nữ, như vậy liệu thân phận của bà Lăng Huệ Bình có phải là vương hầu hay không hay chỉ là vợ của Đông Công? - Trong khi quan tài của hai xác ướp ở Hồ Nam và Hồ Bắc được bao bọc bởi những công trình lăng tẩm đồ sộ, thiết kế hoàn chỉnh với nhiều tầng bảo quản, thì môi trường bên ngoài quan tài ở Liên Vân Cảng rất sơ sài: Xung quanh quách chỉ có một tầng thạch cao mỏng, không có lớp than dày cùng các lớp bảo vệ khác như mộ ở Hồ Bắc, đất lấp xung quanh mộ cũng mỏng chứ không dày như mộ ở Hồ Nam. Nhưng thi thể vẫn được bảo quản hoàn hảo hơn 2.000 năm. Cùng trong một môi trường như vậy mà ba hài cốt ở ba quan tài khác chỉ còn lại chút xíu xương không đáng kể. Vì sao cùng một điều kiện mà thi thể của bà Lăng Huệ Bình lại được bảo quản hoàn hảo như vậy? - Ba là, liệu chất dịch trong quan tài có liên quan tới việc bảo quản thi thể bà Lăng Huệ Bình? Kết quả phân tích cho thấy dịch trong mộ ở Liên Vân có độ pH là 7,55, thuộc chất kiềm yếu. Còn dịch trong mộ ướp xác ở tỉnh Hồ Nam có nồng độ pH là 5,18, đây là acid. Rõ ràng hai chất này khác hẳn nhau. Như vậy, phải chăng chất kiềm trong quan tài đã bảo vệ cho thi thể của bà Lăng Huệ Bình không bị phân hủy? Liệu chất dịch này được bơm vào quan tài trước khi khâm liệm hay được hình thành bởi nước ngầm dưới đất thẩm thấu vào quan tài kết hợp với chất liệu trong quan tài qua nhiều năm tháng sau khi chôn cất? - Bốn là, về nghi lễ của đẳng cấp được an táng: Qua nghiên cứu những văn vật trong quan tài cho thấy đẳng cấp của bà Lăng Huệ Bình rõ ràng không thấp hơn hai người đàn ông “Đông Công”, nhưng so với hơn 3.000 văn vật ở khu mộ cổ tại Hồ Nam được khai quật trước đây thì trong mộ của bà Lăng Huệ Bình chỉ có hơn 80 hiện vật. Đối với một nhân vật đẳng cấp cao mà chỉ có sơ sài mấy văn vật cổ như vậy, rõ ràng rất đơn giản, hơn nữa công trình xây dựng khu mộ cũng sơ sài, không hoành tráng như mộ cùng đẳng cấp khác. Chuyên gia khảo cổ Lưu Kiếm Vân cho rằng tất cả dấu hiệu tại hiện trường cũng như việc xây cất cùng số ít văn vật cổ trong mộ cho thấy nghi lễ mai táng tiến hành rất vội vã, hình như còn thiếu rất nhiều công đoạn không được tiến hành. Vậy khi đó đã xảy ra sự kiện gì mà bốn người đều có đẳng cấp cao lại phải chôn cất vội vã như vậy? Thông qua việc trưng bày lần này, Giám đốc Bảo tàng Lưu Chính hy vọng các giới tới thăm quan và giúp bảo tàng tìm giải đáp những bí ẩn trên của khu mộ cổ ở Liên Vân Cảng. BỘ HÀI CỐT BÍ HIỂM TRÊN BIỂN NEWFOUNDLAND Giới khoa học hiện đang vô cùng bối rối trước những tấm hình chụp trên biển Newfoundland: Một bộ xương thú khổng lồ nằm phơi trên núi băng trắng xóa, rõ mồn một những dẻ xương sườn nâu và cột sống lưng cong gập. Các nhà nghiên cứu ở Canada, thậm chí cả ở Greenland và Na Uy hiện chưa có ai dám khẳng định nguồn gốc của bộ hài cốt bí hiểm này - Garry Stenson, chuyên viên sinh vật biển thuộc Bộ Thủy sản Liên bang phát biểu trước báo giới: “Đây cũng là lần đầu tiên tôi bắt gặp trường hợp lạ lùng như thế”. Lúc này, đồng nghiệp của Stenson ở Bộ Thủy sản hiện đang tranh cãi sôi nổi về việc: liệu đây có phải là xác của loài hải cẩu có râu, hay của hà mã, hoặc cũng có thể là của cá voi trắng không chừng. Tuy nhiên khi chưa có bằng chứng xác thực trong tay, họ vẫn chưa thể đi đến kết luận chắc chắn. Được biết bức ảnh gây chấn động được chụp trên vùng biển thuộc Vịnh Bonavista, phía đông Newfoundland (Canada). Tác giả bức hình là hai vợ chồng Eli và Donna Norris sống gần th ị trấn Newtown, sau đó một người bạn tên Ruth Knee đã gửi tới Bộ Thủy sản để xác minh nguồn gốc. Knee cho biết đôi vợ chồng già không muốn bị phiền toái khi trở thành tâm điểm của các phương tiện truyền thông, tuy nhiên họ có thể minh chứng tính xác thực của tấm ảnh. Ngay cả chuyên viên Stenson cũng khẳng định bức ảnh không phải là một trò đùa. Theo lời kể của ông bà Norris, cột xương sống khổng lồ nhô ra khỏi tảng băng chừng 2,4 mét - điều này khiến Stenson phỏng đoán đây là bộ hài cốt của một động vật có vú kích thước vô cùng lớn. Tuy nhiên ông không dám chắc về nguyên nhân dẫn đến tư thế chết lạ lùng như vậy: là do con thú trượt chân ngã xuống kẽ nứt sông băng, hay do nó chết khô từ trước rồi sau đó bị các lớp băng tuyết lần lượt bao phủ? Việc xác định tuổi thọ của bộ xương cũng rất khó khăn, do môi trường lạnh có thể làm nhòa đi dấu vết. Thêm một thách thức không kém phần quan trọng khác: Làm sao để xác định núi băng đó hiện đang trôi dạt nơi đâu. Đây không phải lần đầu tiên những bộ hài cốt kỳ lạ xuất hiện ở miền duyên hải này. Hồi tháng 6/2001, một người dân ở St. Bernard’s, thuộc Vịnh Fortune được phen kinh hãi khi phát hiện ra bộ xương dài 7 mét trôi dạt vào bờ. Khi đó phần lớn bộ hài cốt đã bị phân hủy nghiêm trọng nên người ta không thể xác định nguồn gốc thuộc sinh vật nào, chỉ gọi nó bằng cái tên giản đơn “quái vật biển”. BÍ ẨN VỀ CÁC XÁC ƯỚP Cách trung tâm thành phố Kiev thủ đô nước Cộng hòa Ukraina khoảng 50 km về phía bắc có một nhà mồ nổi tiếng bởi có hàng trăm xác ướp; nhưng kỳ lạ vì những xác ướp lại được bảo quản trong một điều kiện hết sức đơn giản của tự nhiên chứ không phải trong những Kim tự tháp. Bên cạnh dòng sông hung dữ là một dãy núi cao sừng sững. Người xưa đào vào lòng đất những đường hầm rộng và zíc zắc chạy dài theo triền núi. Cách một đoạn, phần thành hầm ở trên cao được khoét vuông vắn sâu thêm vào lòng đất vừa vặn đặt được một cỗ quan tài; và đó chính là nơi yên nghỉ của người quá cố. Gọi là quan tài nhưng không có tấm ván thiên mà chỉ có một khung và lưới hình chóp chữ nhật cụt hay hình vòm mà qua tấm lưới có thể chiêm ngưỡng rất rõ ràng dung mạo người quá cố. Có khi, quan tài là một khúc gỗ khoét lõm và khung lưới đặt trực tiếp lên trên, nom như chiếc “giường”. Tất cả những chiếc “giường ngủ” ở đây đều được trang trí rất đẹp. Đi trong nhà mồ có cảm giác mát lạnh. Tất cả những xác chết ở đây đều cùng một màu nâu đen khô quắt lại. Lạ là không có dù chỉ là tí chút mùi của chết chóc, ngay đến cả mùi ẩm mốc cũng không hề có. Lũ trẻ tan học về trên đường ngang qua nhà mồ thường vứt cặp sách trên mặt đất rồi chạy xuống nhà mồ chơi trò đuổi bắt như thể đây là một chỗ vui chơi của chúng. Thỉnh thoảng lại có những người đến thăm người quá cố vốn là tổ tiên của họ... Người ta thấy rằng trong Kim tự tháp Ai Cập có những hiện tượng kỳ lạ. Chẳng hạn để trong tháp một đồng tiền kim loại đã rỉ, chừng hơn một tháng sau nó sáng lại như còn mới. Sữa tươi vừa vắt ra từ một con bò nếu để bên ngoài tháp thì hỏng, còn để trong tháp mùi vị vẫn bình thường với khoảng thời gian như nhau. Trái cây và rau xanh để trong tháp khoảng 15 ngày vẫn tươi, không khô héo. Hai cây cà chua cùng trồng một lúc, cây trong tháp ra hoa kết quả trước cây ngoài trời... Nhưng đó là không khí bên trong Kim tự tháp, những công trình kiến trúc vĩ đại cả về văn hóa, tiền của, sức người, trí tuệ, thời gian xây dựng cũng như tồn tại và đặc biệt được cho là hấp thụ “sóng vũ trụ” nào đó qua các cửa và lỗ thông hơi hướng về phương Bắc, nên mới tạo ra một môi trường có thể gìn giữ thi thể các Pharaon hàng nghìn năm. Còn ở đây rõ ràng không phải Kim tự tháp, mà chỉ là một nhà mồ được đào trong lòng đất hết sức mộc mạc, nhưng những xác người ở đây đã tồn tại hàng nghìn năm... Điều gì làm các xác chết trường tồn với thời gian? Do thuật ướp xác? Do môi trường lưu giữ xác? Hay vì cả hai? Đó là những câu hỏi lớn mà sau nhiều thập kỷ tìm tòi người ta vẫn chưa có lời giải đáp hoàn toàn chính xác. Hiện thời, đã biết nhiều cách ướp xác khác nhau, con người mặc nhiên thừa nhận đi tiên phong trong lĩnh vực này nói riêng vày học nói chung vẫn là người Ai Cập cổ đại. Nhiều thành tựuy học ghi trên giấy papyrus chứng tỏ người Ai Cập cổ hiểu biết khá rõ về cơ thể người. Họ rất coi trọng việc thờ người chết vì cho rằng, người tuy chết nhưng linh hồn là bất tử. Trong mỗi con người đều có một hình bóng giống như mình khi soi gương - gọi là linh hồn (ka), khi ra đời linh hồn trùng trong thân xác, khi chết linh hồn rời khỏi xác nhưng vẫn tồn tại. Linh hồn chỉ bị chết hẳn khi thể xác hủy nát. Nếu thân xác nguyên vẹn thì đến một lúc nào đó linh hồn lại nhập vào xác và con người sẽ sống lại. Tín ngưỡng này thể hiện trong chuyện thần thoại về Thần Orisis (Thần sông Nil) và Thần Seth (Thần Sa mạc). Thuật ướp xác đã ra đời như thế và được cho là xuất hiện từ thời kỳ Cổ vương quốc (khoảng 3000 – 2200 TCN) và duy trì đến thế kỷ thứ năm. Người chuyên nghề ướp xác dùng một cái móc đưa qua đường mũi lên đầu để lấy hết não, rồi rửa sạch khoang sọ bằng một loại nước sắc nhiều cây cỏ thơm và rượu... Ngực và bụng được mổ bằng dao đá rất sắc để lấy hết phủ tạng, chỉ còn tim được giữ nguyên trong lồng ngực vì tim được coi là nơi phát sinh ra thông minh và tình cảm nên phải được giữ lại để chờ ngày phán xử cuối cùng. Khoang ngực, bụng cũng được đổ đầy dung dịch hương liệu và rượu rồi khâu lại. Xác được ngâm trong nước muối khoảng 70 ngày nên teo nhỏ lại chỉ còn da bọc xương. Sau đó được xoa bằng dầu thơm và một dung dịch đặc biệt rồi được bó chặt bằng vải, có khi ngực, bụng còn được nhồi mạt cưa tẩm hương liệu (lại có nhà nghiên cứu cho rằng, sau khi xử lý não và phủ tạng, xác được chôn hoặc đặt trong hang không có gió khoảng 70 ngày, rồi bó bằng vải tẩm nhựa cây). Các ngón tay được lồng vào túi bằng vàng để khỏi rơi rụng. Đầu quan tài (bằng đá) người ta tạc khuôn mặt người quá cố, thân quan tài chạm hình quần áo để dễ nhận ra phần xác của mình, vì thế nhìn quan tài có hình người không có tay chân, bên cạnh mồ còn dựng tượng người chết bằng đá hoặc gỗ. Thuở sơ khai, ướp xác là một nghi táng bất khả xâm phạm của vua và hoàng hậu. Từ khoảng 1500 năm TCN, giới quý tộc mới được phép dùng nghi táng này. Sau đó tục này lan đến những người giàu có và đến cả tầng lớp bình dân. Tuy nhiên, trong tục này cũng có phân biệt đẳng cấp: Vua chúa dùng kỹ thuật ướp phức tạp nhất, sau đến giới quý tộc và nhà giàu, tất nhiên phải trả một khoản tiền lớn, còn tầng lớp bình dân thì không phải trả tiền nhưng kỹ thuật ướp đơn giản nhất bằng dung dịch kiềm tính, và trát một lớp vôi bên ngoài. Năm 1996, ở gần vùng El Bawiti phát hiện khoảng 10.000 xác ướp có niên đại 300 năm TCN đến năm 300 CN. Viện Bảo tàng Ai Cập ở Cairo hiện đang trưng bày xác ướp 26 Pharaon cách chúng ta khoảng 4.000 – 5.000 năm nhưng tình trạng các xác vẫn rất tốt. Gần đây, các nhà khảo cổ Nhật Bản khai quật một xác ướp nguyên vẹn trong một ngôi mộ chưa bị xâm hại ở Nam Ai Cập. Ông Sakugi Yosimura, nhà nghiên cứu hàng đầu Đại học Tokyo cho biết, xác người đàn ông này được ướp trước triều đại Pharaon Tutankhamen (khoảng 1336 – 1327 TCN). Người Ukraina và châu Âu có cách ướp xác riêng của mình hay học của người Ai Cập? Câu hỏi này hiện vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Nhưng người ta thiên về giả thiết thứ hai bởi thời Cổ đại, phương Đông và phương Tây với hai nền văn minh rực rỡ đã có sự giao lưu. Người (Liban ngày nay) đã đi lại buôn bán khắp Địa Trung Hải từ TK XI TCN đến TK VI TCN. Các nhà khoa học Hy Lạp cổ đại Pythagor, Thales đã đi du lịch Ai Cập, Lưỡng Hà; TKV TCN nhà sử học Hy Lạp Herodos đi du lịch nhiều nơi ở phương Đông. Cuối TK IV TCN, Alexandre. Đại đế của Macedonia chinh phục phương Đông (đến tận tây bắc Ấn Độ) gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa (334 – 30 TCN) và hình thành những quốc gia Hy Lạp hóa trong đó có Ai Cập. Có lúc Ai Cập chỉ là một tỉnh của La Mã. Thời kỳ Trung đại, châu Âu suy thoái nên lạc hậu hơn phương Đông về mọi mặt. Nhà nướcA rập thành lập từ TK VII, đến TK VIII trở thành một đế quốc rộng lớn trải dài trên ba châu Á, Âu, Phi từ lưu vực sông đến Tây Ban Nha và là cầu nối giữa các nền văn minh Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Âu nên việc học tập, trao đổi lẫn nhau những thành tựu khoa học, trong đó có cách ướp xác là một tất yếu. Từ TK XI – XIII các nước Tây Âu đã có 8 cuộc viễn chinh về phương Đông bởi những kị sĩ trên áo có hình cây thánh giá. Các cuộc thập tự chinh cũng là một cầu nối khác cho văn minh Đông – Tây. Tuy nhiên, ở nước Nga xưa kia có một cách ướp xác hoàn toàn khác với phương pháp truyền thống do nhà khoa học, bác sĩ Vyvodxev phát minh sử dụng chất hóa học, đó là các chất glycerin, acid phenic, cồn và long não. Cho đến nay, theo phương pháp này thì mới chỉ phát hiện được duy nhất một xác ướp nhà phẫu thuật Nga nổi tiếng thế giới N. I. Pirogov. Xác ướp nhà phẫu thuật đã qua 124 năm và chỉ được bảo quản sơ sài trong hầm mộ một nhà thờ nhỏ ở ngoại ô Vinxina, dù khuôn mặt và hai bàn tay của ông để hở trong không khí nhưng màu sắc hầu như không biến đổi. Điều đặc biệt là các phủ tạng của Pirogov vẫn được giữ nguyên trong cơ thể. Thế nhưng, hiện thời vẫn chưa biết được tỉ lệ các chất mà Tiến sĩ Vyvodxev đã pha chế thành dung dịch ướp và cách xử lý cũng như những cách bảo vệ xác mà ông đã sử dụng. Ở Việt Nam, nhiều người đã biết đến hai pho tượng giáp cốt ở chùa Đậu, Thường Tín, Hà Tây, là xác ướp để trong môi trường không khí bình thường chịu nhiều tác động thường xuyên và lâu dài của nhiệt độ, độ ẩm không khí, nghĩa là điều kiện bảo quản xác khó nhất. Những pho tượng xác ướp như thế này có thể thấy ở Tây Tạng, Nhật Bản, Việt Nam thường là di cốt những chân sư. Năm 2005, khi khai quật ở cánh đồng đào Nhật Tân, Hà Nội người ta đã tìm thấy một xác ướp khô nhưng vẫn nguyên vẹn sau 10 ngày lộ thiên chịu tác động của nắng mưa. Dù tấm thiên đã bị phá, nước đã vào quan tài nhưng xác ướp 200 năm vẫn khô quắt, nguyên vẹn cả nội tạng, râu tóc; quần áo, chăn gối, vải chèn vẫn còn giữ được màu trắng. Đặc biệt là từ những đồ liệm này bay ra một mùi thơm và còn lưu lại rất lâu. Các nhà khảo cổ Việt Nam đã lập hồ sơ 75 ngôi mộ xác ướp nhưng chưa có điều kiện khai quật. Họ cho rằng, cách ướp xác thường được sử dụng ở Trung Quốc và Việt Nam là phương pháp ngâm xác vào dung dịch ướp và cũng là trong môi trường yếm khí (không có không khí). Cốt lõi của phương pháp ướp này là làm cơ thể trở thành vô khuẩn. Khi người được ướp xác hấp hối thì cho uống thuốc hồi dương (chủ yếu là quế chi) để nhiệt độ cơ thể giảm chậm trong một thời gian sau khi chết và hạn chế vi khuẩn đường ruột. Lúc ngừng thở sẽ đổ khoảng một lít rượu nếp mạnh vào miệng để sát khuẩn đường tiêu hóa. Người ta cho rằng rượu có tác dụng giữ cho mô cơ thể không bị phân hủy. Người quá cố được tắm bằng nước ngũ vị hương nhằm diệt khuẩn trên da, rồi mặc quần áo tẩm hương liệu, liệm bằng nhiều lớp vải lụa để tránh không khí tác động và nhập quan rất nhanh. Áo quan phải ghép rất kín và sơn trong ngoài để lượng không khí trong áo quan thấp nhất. Trong quan tài ngôi mộ Nhật Tân có dịch màu xanh đen xỉn được cho là dung dịch ướp. Cách ướp này thường sử dụng tinh dầu mà ngày nay phân tích biết là tinh dầu thông, bạch đàn, khuynh diệp, những chất lưu giữ mùi thơm rất lâu. Những phát hiện trên khẳng định người Việt Nam xưa đã nắm được kỹ thuật ướp xác hoàn hảo và tinh tế. Chỉ tiếc là hiện các nhà khoa học chưa tìm được bằng chứng về nguồn gốc và bí mật thuật ướp xác của người Việt. NHỮNG XÁC ƯỚP TỰ NHIÊN DƯỚI GÓC NHÌN PHÁP Y Ở thành phố Guanajuato, Mexico có một nghĩa địa lưu giữ 117 xác chết khô đét như được ướp, xác chết cách chúng ta khoảng 140 năm. Những xác chết này không hề được ướp mà chỉ chôn cất bình thường. Nhưng do khí hậu ở đây rất khô và trong đất có rất nhiều chất khoáng, nên xác chôn không hề phân hủy mà teo quắt lại và rất rắn. Dân chúng lấy nơi đây để mai táng những ai không muốn trở về “ cát bụi”. Hiện tượng này có thể giải thích đầy đủ là do khí hậu khô nóng, đất có nhiều khoáng chất là môi trường mà vi khuẩn không thể hoạt động được. Vì thế xác không bị phân hủy mà dần khô đét lại. Các nhà phápy gọi những trường hợp này là xác tượng hóa (momification). Tuy nhiên, ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ và độ ẩm cao như Việt Nam vẫn có không ít những xác chết sau 3 năm chôn cất thông thường hoặc lâu hơn vẫn còn nguyên vẹn phần mềm mà nhân dân thường gọi là mả kết, và hiện tượng này được gán cho những ý nghĩa không đúng theo quan niệm mê tín của mình. Khi người chết được chôn cất theo phương pháp truyền thống xưa nay, nếu nhiệt độ, môi trường thuận lợi, các loại vi khuẩn có sẵn trong cơ thể, trong đất sẽ sinh sôi rất nhanh và phần mềm của xác là nguồn dinh dưỡng lý tưởng để chúng phát triển. Nơi chôn cất nhiều nước thì phần mềm càng tiêu biến nhanh. Tuy nhiên, nếu vùng đất mai táng có nhiều ion natri, kali, calci, megne, mangan, sunfat... ngoài việc có tác dụng sát khuẩn trong đất, các ion này ngấm vào cơ thể và liên kết với chất glycerin, acid béo phân hủy từ mỡ để thành xà phòng gọi là hiện tượng xà phòng hóa. Hầu hết các xác đều có hiện tượng này nhưng vì chất xà phòng ít, không đủ để ngăn cản tác động phân hủy của vi khuẩn, cuối cùng chỉ còn lại phần cứng. Một số ít xác xà phòng hóa mạnh toàn bộ nên cơ thể trở thành môi trường sát khuẩn hữu hiệu. Da xác có màu vàng, cứng, khó cắt, mùi khó chịu. Vai trò phân hủy phần mềm rất cần thiết và duy nhất chỉ có vi khuẩn làm được, nay không còn ý nghĩa nữa. Vì thế sau ba năm thi thể người chết thấy vẫn còn nguyên vẹn. Tương tự, ở vùng núi đá vôi có hiện tượng xác hóa đá mà vai trò chính là ion calci và sunfat. Nếu chôn cất ở nơi cao, khô nóng xác cũng phân hủy rất chậm... Người giám định phápy thấy được giá trị bảo tồn những thương tích, bệnh lý ở các xác dạng này để tính toán có nên khai quật giúp cho điều tra vụ án? Còn người dân giải thích hiện tượng bằng quan niệm mê tín của mình! PHẪU THUẬT KHÔNG DAO MỔ Thông tin về những “nhà phẫu thuật không dao mổ thần bí” (thường được gọi là các healer - theo tiếng Anh là người chữa bệnh) tại Philippines đã gây xôn xao từ cả vài chục năm nay và cho đến nay vẫn chưa có ai đưa ra được lời giải thích chính xác về mặt khoa học. Một dạng thôi miên Vấn đề của những tranh luận này xuất phát ở chỗ, các healer: người chữa bệnh ở Philippines có khả năng tiến hành những ca phẫu thuật phức tạp nhất mà không hề dùng đến bất kỳ một thứ gì khác ngoài… đôi tay. Khi trong một trạng thái xuất thần (tương tự như một dạng thiền), họ chỉ cần dùng những ngón tay có thể dễ dàng rạch da thịt người bệnh, đưa tay Những hình ảnh phẫu thuật của Fiorentino Rino sâu vào trong cơ thể, kéo ra cơ quan bị bệnh hay một khốiu nào đó (một cuộc phẫu thuật như vậy chỉ khoảng từ 1 đến 10 phút), trong khi máu của bệnh nhân chảy ra rất nhiều. Tuy nhiên, khi healer kết thúc phẫu thuật, rút tay ra khỏi vết thương, trên cơ thể bệnh nhân lại hầu như không phát hiện một chút dấu vết nào, thậm chí ngay cả một vết sẹo nhỏ. Bản thân người được phẫu thuật không hề cảm thấy đau, ngoại trừ những “cảm giác nhức buốt kỳ lạ” ở vùng da đang tiến hành phẫu thuật. Các healer (hiện ước tính có tới vài trăm người) sinh sống chủ yếu ở phía Bắc Philippines, xung quanh thành phố Bagio. Những chuyện kỳ lạ xung quanh thành phố này cũng có khá nhiều: Mỗi khi có con tàu nào cập bến tại đây, các thiết bị lắp đặt trên đó đều rung lên bần bật. Điều tương tự này cũng xảy ra đối với các máy bay trực thăng, dẫn đến quy định cấm chúng bay xung quanh thành phố. Có một giả thuyết cho rằng, trong khu vực hòn đảo này tồn tại một trường năng lượng rất mạnh nào đó. Điều đó giải thích vì sao các healer rất hiếm khi có khả năng phẫu thuật tại một nơi nào đó ngoài khu vực phía bắc Luson và họ hầu như không có chút khả năng đặc biệt nào khi đi ra nước ngoài. Tổng thư ký Melvin Salvior của “Hiệp hội các healer Philippines” giải thích: “Trong thời gian phẫu thuật, healer sẽ rơi vào trạng thái thôi miên rất sâu, tương tự một dạng thiền định của các nhà yoga Ấn Độ”. Những lý giải Mối nghi ngờ chính của nhiều người là ở chỗ làm sao các healer có thể phẫu thuật mà không cần dao? Có một lời giải thích tương tự hình ảnh con người thò tay xuống nước và rút lên, mặt nước liền lại mà không để lại dấu vết. Khi phẫu thuật trong trạng thái thiền định, healer có thể đã rơi vào một chiều không gian khác, một phần cơ thể của bệnh nhân đang được chữa trị cũng tương tự như vậy. Thật ra, việc đó từ lâu không còn là chuyện quá lạ lẫm - các nhà sư, các nhà yoga Ấn Độ hay các phù thủy châu Phi cũng làm được như vậy. Một giả thuyết cho rằng, khả năng thôi miên sâu của healer giúp tạo ra một trường sinh học đặc biệt, tập trung tại các đầu ngón tay và hoạt động tương tự nguyên lý của tia laser chia cắt các lớp mô. Còn theo một giáo sưy khoa Thụy Sĩ, healer mang một năng lượng đặc biệt, có thể truyền nó vào cơ thể người bệnh. Năng lượng này như một sóng vô tuyến tới được các khối u, “mở” chúng ra và đưa chúng ra ngoài lên lòng bàn tay của healer. Người được phẫu thuật không cảm thấy đau vì vết cắt do các ngón tay không chạm tới phần đầu dây thần kinh, còn bản thân việc phát xạ năng lượng sẽ giúp “khử trùng” cho đôi tay của healer. Ngay khi phẫu thuật kết thúc và trường sinh học biến mất, các tế bào mô sẽ trở lại trạng thái trước đây và ngay lập tức khép lại. Khôn gchữ abện hch okẻxấu Healer nổi tiếng đầu tiên của Philippines chính là Eleuturio Terte (sau khi chữa khỏi cho một viên sĩ quan Mỹ đang hấp hối). Một lần khác, ngay trước mắt một hội đồng chẩn bệnh của Thụy Sĩ, healer này ấn tay thẳng vào mắt một bệnh nhân trong khi anh ta không hề cảm thấy đau đớn. Ông ta nhanh chóng làm lành các vết khoét và lấy ra phần thủy tinh thể bị đục. Tiến sĩ Steller, chuyên gia vật lý của Trường Đại học Tổng hợp Dortmund, đã viết cả một tác phẩm về Terte, trong đó ghi nhận phân tích và nghiên cứu hàng trăm ca phẫu thuật không dao mổ”. Cũng theo giáo sư này, các healer của Philippines có thể phẫu thuật bằng tay trần mà không cần thôi miên bệnh nhân, không cần gây mê hay gây tê, không bị đau và không hề bị nhiễm trùng. Đây cũng là luận điểm của bác sĩ người Nhật Isamu Kumura, người đã trực tiếp nghiên cứu máu lấy từ một loạt phẫu thuật của Terte và xác định đó chính là máu của bệnh nhân. Terte chết vào năm 1979 khi đã 80 tuổi trong một hoàn cảnh khá nghèo túng. Cựu Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos (bị lật đổ vào năm 1986) cũng thường xuyên phải nhờ đến sự giúp đỡ của một healer riêng là Emilio Lemes. Sau khi chạy ra nước ngoài, ông ta từng nhiều lần yêu cầu chính quyền mới cho phép Lemes tới chỗ mình nhưng bị từ chối. Chỉ 3 năm sau, Marcos chết ở tuổi 72. Còn nhiều nhân vật nổi tiếng khác như cố Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher đã từng được chữa trị bởi những healer tốt nhất qua lời giới thiệu của Marcos. Một healer nổi tiếng khác là Fiorentino Rino cho biết, nhiều healer đã từng khước từ việc chữa bệnh cho viên tướng Mỹ Geremy Stenson, một kẻ “nổi danh” vì những vụ sát hại các nông dân vô tội trong chiến tranh Việt Nam. “Họ đã nói thẳng ông là một người xấu xa. Thượng đế không muốn cho ông sống nữa. Stenson đã phàn nàn về điều này lên cả chính phủ, cảnh sát và đại sứ quán nhưng không ai có thể giúp được ông ta. Kết quả là một năm sau, ông ta chết” - Rino đã kể lại như vậy. XUẤT XỨ CỦA BÙA YÊU Cách đây khoảng gần một nghìn năm, các tài liệu cổ đã cho ghi nhận qua hình vẽ về một loại hoa kỳ lạ có thể làm cho người ta ngủ hay mê man. Về sau các nhà thám hiểm Tây phuơng đã lưu ý nhiều về các loại cây này. Vùng đảo CeyLon ở Ấn Độ Duơng là nơi xuât phát của loại cây huyền bí này. Cây có hoa đặc biệt mùi thơm của nó diệu kỳ đến độ ngửi phải đã thấy cảm giác tâm thần lâng lâng rã rời. Vào thời ấy Ceylon còn quá xa lạ và hoang vu nên khó có ai đặt chân đến. Nhiều người nghĩ rằng đây là loại cây thuộc giống thuốc phiện, cây thẩu. Nhưng thực sự tác dụng của loại cây này đối với hệ thần kinh khác xa với loại thuốc phiện. Để có thể nghiên cứu sâu về nó không có gì hơn là phải đến tận nơi để xem tận mắt. Về sau, những nhà thám hiểm và nhất là những nhà thực vật học đã vượt biển Ấn Độ để đến hòn đảo kỳ lạ này. Rồi họ đặt chân lên vùng đất Ceylon, lúc này đây là một hoang đảo kỳ bí với các thổ dân trần trụi thuờng sử dụng những loại vũ khí thô sơ như là tên cung và cả giáo dài gắn đá nhọn. Sau bao nhiêu gian khổ, trèo đèo vuợt suối, các nhà thực vật học mới tìm thấy một giống cây đặc biệt mà thổ dân vùng đất đảo này thuờng bảo vệ rất kỷ và họ tôn thờ như cây thần linh hiển. Cây Kỳ Lạ NaGa MaRu Một nhà sinh vật học người Pháp đã tìm đủ mọi cách để len lỏi vào đuợc giang sơn của thổ dân vùng đảo Ceylon. Ông này đuợc vị tù truởng tiếp đón lạnh nhạt. Nhưng sau khi chiếc hộp quẹt toé lửa bùng sáng từ tay nhà sinh vật này thì vị tù truởng mới lưu ý đến ông ta và cho vào lều để mời uống một thứ rượu lạ, được chiết từ một số rễ cây, chính nhà sinh vật học này đã lưu lại vùng đất này khá lâu để tìm hiểu tuờng tận về loại cây này. Cây đuợc gọi theo âm địa phuơng là Naga-maru. Đặc biệt hoa có mùi thơm thoảng nhẹ một cách lạ lùng trong không khí nhưng khi ngửi lại có mùi khó chịu. Thổ dân ở đây luôn luôn bảo vệ và giữ bí mật về công dụng của hoa này. Tuy nhiên, qua cách chế biến, tế tự, săn sóc, nhà sinh vật học ấy đã đoán đuợc mục đích của việc dùng loại hoa cho lãnh vực nào. Chỉ vào lúc nửa đêm, khi hoa nở (hoa giữ lâu trên cây), người ta sẽ hái hoa về và đem ép để lấy tinh chất của hoa. Tuy nhiên, phần lớn hoa Naga-maru đuợc đem phơi khô trên những giàn tre rồi tán nhỏ. Nước ép có mùi vị thật kỳ lạ, đặc biệt khi nếm vào đầu lưỡi sẽ có cảm giác lâng lâng trong người. Theo các tài liệu cổ thì cảm giác tương tự như trên cơ thể đuợc mân mê. Sau đó là tâm hồn như du vào cõi trần đầy tình cảm mến thương kỳ lạ. Nếu nhỏ vài giọt nuớc này vào chén nước mưa để uống sẽ cảm thấy trong người một niềm đê mê lưu luyến khó tả, và tự nhiên khiến người uống có cảm giác dễ thương yêu, dễ bày tỏ tình cảm với người đối diện nhất là người khác phái. Ngày xưa tại vùng đảo Ceylon hoang sơ, chỉ có vài vị tù truởng hoặc thầy phù thuỷ là đứng ra pha chế loại nuớc “yêu đuơng này” từ cây Naga-maru. Về sau, các tay buôn chuyên làm ăn trục lợi đã chế loại “bùa mê, bùa yêu” từ chất sắc của cây này để đem bán ở vùng nam và trung Ấn. Các tay lái buôn cũng thường “lận lưng” loại bùa yêu này để đem sang Ai Cập bán. Côn gdụn gcủ aloạ ibù ayê uchiế ttừcây Naga maru thực tếra sao Theo một số nhà sinh vật học đã thử nghiệm từ lâu về các chất ở cây này thì loại “bùa yêu” Naga-maru không có khả năng duy trì lâu dài sự yêu thương mê mệt kẻ khác. Nhà sinh lý học F. Franklin cho rằng tác dụng của các chất trong cây Naga-maru thường có khả năng làm giảm sự hoạt động bén nhạy của lý trí. Khi lý trí bị mê mờ thì bản năng thể xác dễ buông thả tự do. Hơn nữa, tình cảm còn được mơn mớn và ru ngủ nên dễ dàng đi đến tình trạng ngã theo cảm tính tự nhiên. Tác dụng của chất trong cây Naga- maru dễ tan trong máu và cũng dễ biến mất nhanh có lẽ do một số chất nào đó trong máu đã trung hoà . Vì thế người uống loại nuớc này sẽ dễ dàng “yêu đuơng” nhưng chỉ vài phút là tỉnh ngộ ngay khi thuốc tan. Mặc dù vậy, theo các bô lão ở Ceylon thì chỉ chừng ấy thời gian cũng đủ hại cho người uống thuốc ấy, không những bị gạt tiền và còn gạt luôn cả tình. Nạn nhân đau khổ nhất phải kể đến là đàn bà con gái và không có trường hợp nào đúng hơn câu “một phút lỡ lầm” vào lúc này. Các thổ dân ở đảo Ceylon có kinh nghiệm sử dụng loại bùa yêu này đã cho biết rằng: nhiều thầy phù thuỷ có kinh nghiệm trong việc pha chế đã chế loại bùa yêu có khả năng duy trì sự đam mê đắm đuối cho những người mới gặp nhau trong vòng một giờ, điều này phù hợp với câu tục ngữ của Việt Nam ta là “Khôn ba năm, dại một giờ”. Theo các thổ dân thì ngoài chất sắc của cây Naga-maru ra còn có thêm các chất trích từ các cây cỏ khác nữa. Cho đến nay, chưa có nhà sinh vật học hay sinh lý học nào tìm thấy thêm loại cây cỏ nào có khả năng tạo sự yêu đuơng mê mẩn cho người này đối với người khác. Các nhà sinh học chỉ tìm được một số cây gây hưng phấn cho tình dục mà thôi. Việc pha chế loại thuốc làm bùa yêu từ cây naga-maru ngày càng được nhiều thổ dân dùng. Về sau thổ thân dùng luôn cả cây, lá này đem sấy khô làm bùa để đeo (có khi đốt lấy chất than bỏ vào túi nhỏ để đeo ngay trước ngực, nơi tim). Tuy nhiên, theo kinh nghiệm thực tế của nhiều thổ dân thì kết quả do “bùa yêu” này mang lại không công hiệu bằng thuốc nuớc pha chế từ cây ra. Có một điều mà các thổ dân ở đảo Ceylon tiết lộ khi người nào đó hết bị bùa yêu tác động thì họ sẽ như qua cơn mê, ngơ ngác, buồn bã, rã rời, họ trở nên khinh ghét và ghê tởm người mà truớc đó họ đã say mê. BÍ ẨN BÉ GÁI 5 TUỔI Bé gái khoảng 5 tuổi, cao 1,20 m, người Ai Cập. Các khoa học gia đã dùng X-quang để tạo những hình ảnh gây ngạc nhiên. Bé gái đã chết lúc còn nhỏ. Nội tạng đã được lấy ra hết, xác được ướp bằng hương liệu, rồi được cuộn vải bên ngoài, sau đó được bọc một lớp chất cứng như bìa cứng. Xác ướp đã 2.000 tuổi, đặt ở Bảo tàng Ai Cập Roicrucian tại San Jose, California, Hoa Kỳ. Trong vài tháng qua, xác ướp được đặt tên là Sherit (theo tiếng Ả Rập cổ là “đứa bé”) và được đưa đến Trung tâm Định lượng sinh học Quốc gia của NASA ở Stanford, gần Palo Alto. Ở đó, các bác sĩ và các khoa học gia làm việc với các chuyên gia về hình ảnh đến từ Silicon Graphics - tìm hiểu về xác ướp. Họ đã sử dụng hơn 60.000 hình ảnh xử lý bằng X-quang kỹ thuật cao để có các thông tin nhiều gấp 35 lần khi tìm hiểu xác ướp vua Tut hồi đầu năm 2005. Nhóm nghiên cứu đã ráp các hình ảnh ba chiều của bé gái Ai Cập này. Qua hình ảnh các xương, các khoa học gia xác định Sherit có thể bước đi bình thường và không hề bị bệnh mãn tính. Rất có thể bé gái đã chết vì nhiễm trùng hoặc bị ngộ độc nước uống hay thực phẩm. Khoảng 50% trẻ em Ai Cập cổ đại bị như vậy trong vòng 1 hoặc 2 năm cai sữa. Xương và răng cũng góp phần giúp xác định độ tuổi: răng khôn chưa mọc. Mặt nạ bằng vàng chứng tỏ cha mẹ cô bé giàu có. Qua các chữ tượng hình (hieroglyphs) ở mặt trong phần vỏ bọc, hy vọng các nhà khoa học, khảo cổ sẽ sớm tìm ra bí ẩn và xác định được tên của bé gái này. B Í ẨN XÁC CHẾT 500 NĂM KHÔNG PHÂN HỦY Trên đỉnh một trong những ngọn núi cao ngất trời của khu tự trị Tây Tạng, có một ngôi nhà cầu siêu nhỏ nằm đơn độc trên rìa núi lộng gió. Tại đây có một thi hài vô cùng đặc biệt ngồi thi gan cùng tuế nguyệt. Người ta tin rằng cái xác này có tuổi thọ nhiều thế kỉ và không bao giờ bị phân hủy. Người dân địa phương tôn thờ ông, nhưng câu hỏi đặt ra là ông là ai? Bí mật của ông là gì? Liệu lời khẳng định của một số người rằng chính ông đã tự làm cho xác mình khô lại là đúng? Một nhóm các nhà khoa học quốc tế đã cố gắng tìm ra những bí ẩn đằng sau các câu hỏi này. Chuyến đi của họ tới Tây Tạng đã khám phá ra được sức phi thường của việc ngồi thiền, các nghi lễ bí ẩn và ranh giới mỏng manh giữa khoa học và siêu nhiên. Giáo sư Victor Mair - nhà nhân chủng học và là một chuyên gia nổi tiếng về Phật giáo tại Đại học Pennsylvania đã dẫn đầu nhóm nghiên cứu trong chuyến đi này. Các nhà khoa học xác định được đây là xác của một nhà sư Tây Tạng có tên Sangha Tenzin. Ông được đặt bên trong một ngôi mộ ở làng Ghuen tại thung lũng Spiti, thuộc bang Himachal Pradesh (Ấn Độ). Giáo sư Victor Mair cho hay xác ướp này ít nhất 500 tuổi: “ Sangha Tenzin qua đời vào khoảng thời gian Colombus tìm ra châu Mỹ”. Nhà sư đã viên tịch trong khi đang ngồi thiền theo đúng tư thế mà người ta phát hiện ra ông hơn 500 năm sau. Người dân làng Ghuen đã biết về cái xác từ năm 1975. Năm đó, ngôi làng bị một trận động đất tàn phá và khiến cho một phần của ngôi mộ bị sụt lở. Ghuen nằm ở khu vực gần với biên giới Trung Quốc, đồng thời là một khu vực cấm dưới sự kiểm soát của cảnh sát biên giới Ấn - Tây Tạng. Do đó, hầu như không có người nào biết về cái xác này ngoại trừ dân làng Ghuen. Vào năm 1997, thi hài của nhà sư Tây Tạng được thế giới biết đến nhờ hai lính tuần tra Ấn Độ được cử đi xem xét một đoạn đường bị sụt lún do động đất ở thung lũng Spiti. Dù đã hơn 500 tuổi nhưng xác của nhà sư Sangha ở trong tình trạng rất tốt, da không bị sứt mẻ và thậm chí vẫn còn tóc ở trên đầu. Không hề có bất cứ bằng chứng nào của các kỹ thuật ướp xác truyền thống. Giáo sư Mair nói rằng nguyên nhân một phần là do không khí cực kỳ khô và lạnh của khu vực và một phần có liên quan đến các trình tự ngồi thiền mà các nhà sư đạt đến trình độ luyện tập để xua trừ tà ma. “ Vào những tháng cuối cùng của cuộc đời, nhà sư không hề ăn uống, chính điều đó đã làm giảm lượng mỡ trong cơ thể và khiến các bộ phận nội tạng của cơ thể co nhỏ lại mà đáng lẽ ra chúng phải bị phân hủy”. Cái xác không đổ sập và rệu rã nhờ có một chiếc dây đay quấn quanh cổ và vòng qua bắp đùi. Chiếc dây đay đóng một vai trò rất quan trọng. Qua nó, các nhà khoa học biết được đây là một phương pháp ngồi thiền bí truyền ít người biết. Chiếc dây làm cho nhà sư phải ngồi thẳng và tập trung vào việc ngồi thiền của mình. Nếu ông thả lỏng người, nút đay sẽ xiết chặt cổ, chặn đường vào của khí oxy và khiến ông bị ngạt thở. Cho đến nay, trong các cuốn sách về đạo Phật ở Ấn Độ có rất ít thông tin nói về phương pháp ngồi thiền này. Chỉ có duy nhất một bản thảo trong thư viện của Chùa Tabo đã từng nhắc đến nó. Từ những hiểu biết của mình về các nghi lễ và môn phái đạo Phật, giáo sư Mair cho biết phương pháp này rất hiếm: “ Nó chỉ tồn tại trong một số môn phái ở Nhật và Tây Tạng, vô cùng bí truyền và xuất hiện trong phạm vi những vùng rừng núi hiểm trở. Phương pháp này pha trộn truyền thống Dzogchen của dòng Nyingma”. Thật tình cờ là ngôi làng Ghuen lại nằm cách Chùa Tabo khoảng 50 km, đây là ngôi chùa Phật giáo nghìn năm tuổi cổ nhất còn sót lại trên dãy núi Xuyên Himalaya. Làng Ghuen cũng nằm giữa tuyến đường thông thương thường vận chuyển gia vị, len, muối, các loại đá quý và là đường qua lại giữa Ấn Độ và Tây Tạng. Theo lời kể của những người dân địa phương thì khoảng 600 năm trước, ngôi làng Ghuen bị bọ cạp quấy nhiễu. Nhà sư Sangha Tenzin lập tức ngồi phục xuống để thiền theo tư thế đã định trước. Người ta nói rằng khi linh hồn của ông rời thể xác, có một chiếc cầu vồng bất ngờ xuất hiện trên bầu trời, còn bọ cạp biến mất một cách bí ẩn khỏi ngôi làng. LỜI NGUYỀN TRUYỀN THUYẾT HAY ĐIỀU CÓ THẬT ĐÃ ĐƯỢC MÃ HÓA Liệu những cái chết bí ẩn xung quanh Kim tự tháp Ai Cập có liên quan đến lời nguyền. Vào thế kỷ 17 và 18, những hầm mộ đầu tiên của các Pharaon bị khai quật. Từ đó, câu chuyện có thật về lời nguyền đã hơn một lần vượt khỏi các kim tự tháp, vang lên điều răn đe khủng khiếp. Người ta nhớ đến vụ cả nước Anh kinh hãi vì cái nắp quách được tìm thấy vào năm 1860, thuộc sở hữu của Viện Bảo tàng Hoàng gia Anh. Cái nắp đó lấy lên từ phần mộ của một nữ tu sĩ thời xưa. Khi về Anh quốc, vật phẩm lạ kia đã gieo rắc tai họa cho tất cả những người tiếp xúc với nó. Người chủ sở hữu đầu tiên là ông Douglas Murray. Ông này bị mất hẳn một cánh tay ngay sau khi mua cái nắp bởi một viên đạn phát nổ từ chính khẩu súng của mình. Ít lâu sau, người thứ hai nếm trải sự trừng phạt là một nhà báo ở London. Cô mượn cái nắp về nhà để… xem. Ít ngày sau, mẹ cô đột ngột qua đời, rồi lời hứa hôn bị tan vỡ và cô bị mắc một chứng bệnh nany bí hiểm,y học thời đó bó tay. Nhưng sự trừng phạt vẫn tiếp tục khi ông Murray “cung tiến” cái nắp quỷ quái nọ cho Viện Bảo tàng. Một nhà khoa học chuyên về Ai Cập, khi đang xem xét những dòng chữ cổ in trên nắp, bỗng lăn ra chết bất ngờ. Nạn nhân tiếp theo là một nhà nhiếp ảnh. Ông này đột tử sau khi chụp được tấm ảnh làm rõ nét gian ác của khuôn mặt vẽ phía ngoài nắp (mà ai cũng cho là gương mặt hiền lành, khả ái)… Tin đồn về sự ghê gớm của cái nắp quách lan nhanh đến nỗi vào thập niên 1930, đồ cúng lễ từ khắp hành tinh tới tấp gửi về Viện Bảo tàng Hoàng gia Anh, đặc biệt là các vòng hoa quanh nắp luôn tươi mới. Nhưng nhiều cái chết kỳ lạ và đột ngột vẫn liên tiếp diễn ra ở các điểm khai quật khảo cổ ở Ai Cập và những nơi khác trên thế giới. Lời nguyền không chỉ có từ các đồ vật ở mộ phần các Pharaon. Những vị chủ nhân khác cũng có khả năng “tẩm” lời nguyền độc địa vào cái mà họ cảm thấy cần giữ gìn. Thurston Hopkins ghi lại câu chuyện như sau: Vào thời Nữ hoàng Victoria, tên sát nhân William Corder đã giết chết tình nhân của hắn tại Polsted (nước Anh) vào khoảng tháng 5/1827. Hắn bị hành hình. 50 năm sau, phần thi thể của tên sát nhân được vị bác sĩ có tên Kilmer cất giữ. Ông là một nhà khoa học có quan điểm rõ ràng đối với hiện tượng kỳ bí. Vị bác sĩ đã tách chiếc sọ của tên giết người, đánh bóng nó và bày “làm cảnh” ở phòng làm việc. Thế rồi điều kỳ lạ xảy ra. Vị bác sĩ và cả cô hầu đều cùng nhìn thấy lúc mơ hồ, lúc rất rõ kẻ lạ mặt đứng trong phòng, vậny phục thời Victoria. Riêng bác sĩ Kilmer còn nghe rõ cả tiếng lẩm bẩm và hơi thở phì phò. Nhiều lần nửa đêm thức giấc, bác sĩ nghe nhiều tiếng động bất bình thường ở căn phòng chứa cái sọ. Một đêm, cơn gió lạnh từ đâu thốc tới, giữa lúc Kilmer bước vào phòng, cái giá đặt sọ rơi vỡ tung, còn sọ tên sát nhân tự dịch chuyển sang vị trí khác và ông thấy nó như cười nhăn nhở (?). Kilmer đã kiểm soát nhà cửa nhưng tịnh không thấy dấu hiệu nào của người lạ hiện diện bên trong. Vị bác sĩ, nhà khoa học, thật sự thảng thốt. Ông đem chiếc sọ Corder trả lại cho Thurston Hopkins, ông này đem các thứ ấy chôn cất ở nghĩa địa. Từ đó trở đi, hiện tượng kỳ lạ trong gia thất bác sĩ Kilmer cũng biến mất. Chuyện chiếc áo khoác của Nhà hát Công tước York gây ra nỗi khiếp sợ đến lạnh người. Vào năm 1948, Thora Hird, nữ diễn viên hài kịch nổi tiếng đã mặc chiếc áo đó khi trình diễn một vở kịch. Cô kinh hãi khi thấy chiếc áo cứ ngày càng thít chặt vào mình. Tất cả đồng nghiệp của cô cũng gặp nỗi sợ tương tự khi khoác chiếc áo này lên người... Phải chăng lời nguyền đã dẫn đến tai họa trong các câu chuyện trên, hay tai họa có nguyên do từ nỗi khiếp sợ ám ảnh. Câu hỏi vẫn lơ lửng khi người ta ngày càng tìm thấy nhiều bằng chứng kỳ bí ở những vật hiếm hoi, đắt tiền hơn. Viên kim cương “Hy vọng” là điển hình của chuỗi giai thoại theo mô típ ấy: Mở đầu là thảm họa của vị chủ nhân thứ nhất - mất cả người lẫn của. Sau đó tai ương giáng xuống Hoàng hậu Marie Antoinette, cũng từ việc sở hữu “Hy vọng”. Sau đó, nó liên tiếp reo rắc những vụ tự sát, khuynh gia bại sản cho một loạt những người khác, trong đó có một vị vua Hồi giáo bị mất ngôi. Đi tìm lời giải cho truyền thuyết có thật về lời nguyền, nhiều nhà khoa học đồng tình với ý kiến cho rằng nguyên nhân của những cái chết và cả loạt tai họa bí ẩn trên là do một loại vi khuẩn “chưa biết đến” đang nằm yên trong hầm mộ, tích tụ ngày một nhiều trong các đồ vật. Khi hầm mộ được khai quật, các “quái vật” nhỏ li ti giải phóng khỏi chổ ẩn náu, chúng liền chứng tỏ ngay sức mạnh tàn phá. Nhưng vẫn còn nhiều điều bí ẩn chưa biết đến. Và liệu lời giải thích bằng loại “vi khuẩn chưa biết đến” này có đủ sức chinh phục những người còn tin vào sự hiện hữu mang vóc dáng thêu dệt của lời nguyền? BÍ ẨN NHỮNG CON TÀU MA Hàng thế kỷ nay, sự thật về những con tàu ma vẫn luôn là nỗi ám ảnh của những người đi biển. Số phận và nguyên nhân biến mất đầy bí hiểm của những thủy thủ đoàn như thế nào?... Có lẽ vẫn sẽ là một ẩn số không có lời giải. “Tôi làngười duy nhất còn sống sót...” Vào khoảng những năm 40 của thế kỷ trước, sự biến mất đầy bí hiểm của toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên con tàu Urang Medana của Hà Lan được cho là một bí ẩn lớn nhất trong lịch sử ngành hàng hải thế giới. Ở thời điểm đó, một vài trạm rada của Anh đặt tại Singapore và Sumatra (Indonesia) thông báo có nhận được tín hiệu cấp cứu từ tàu Urang Medana của Hà Lan với nội dung: “SOS… SOS tất cả đã chết… tôi là người duy nhất còn sống sót…”, tiếp sau đó là hàng loạt các ký tự lộn xộn và các dấu chấm. Một lát sau tín hiệu được nối lại, nhưng chỉ có một câu duy nhất là “Tôi đang chết dần”, rồi kết thúc bằng một sự im lặng đến ghê rợn. Các cuộc tìm kiếm cứu hộ nhanh chóng được thiết lập và đã cho kết quả. Con tàu được tìm thấy tại vịnh Malacca, cách nơi phát tín hiệu trước đó khoảng 80 km. Khi bước chân lên Urang Medana, ngay lập tức các nhân viên cứu hộ phải sởn gai ốc trước cảnh tượng kinh hoàng trước những cái chết một cách bất thường của toàn bộ thủy thủ đoàn. Vị thuyền trưởng nằm ngay tại vị trí điều khiển, còn các sĩ quan và thuỷ thủ thì nằm rải rác khắp nơi trên tàu. Một nhân viên điện đài có lẽ là người đã phát ra tín hiệu cấp cứu, đã chết trong tình trạng đang làm việc. Ngay đến con chó trên tàu phải nhận một cái chết hết sức bất thường khi mõm của nó vẫn còn đang nhe nanh như đe dọa ai. Điểm chung duy nhất là trên khuôn mặt của tất cả mọi người đều hiện rõ một nỗi sợ hãi khủng khiếp. Càng kỳ lạ hơn, không hề có bất kỳ một dấu hiệu tổn thương nào trên tất cả các tử thi. Giả thuyết về một vụ tấn công của cướp biển ngay lập tức bị loại bỏ bởi toàn bộ những thứ có giá trị trên tàu đều còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, trong suốt chiều dài của thế kỷ 20, đây vẫn chưa phải là thảm hoạ duy nhất. Vào năm 1955, trên Thái Bình Dương người ta còn tìm thấy một chiếc thuyền buồm của Mỹ mang tên MB Elip cũng có những hiện tượng tương tự. Trên tàu, nước ngọt và đồ ăn dự trữ vẫn còn nguyên vẹn, các phương tiện cứu hộ vẫn chưa hề được sử dụng, vậy mà không có lấy một bóng người. Khoảng 5 năm sau, trên Đại Tây Dương cũng xuất hiện hai chiếc thuyền buồm của Anh trôi dạt. Năm 1970, tất cả thuỷ thủ đoàn cùng với con tàu chở hàng của Anh mang tên Minton đột ngột mất tích một cách lạ lùng mà cho đến nay sự kiện này vẫn còn là một ẩn số. Rồi đến năm 1973, một tai nạn đã xảy ra và làm đắm chiếc tàu đánh cá Anna của Na Uy. Những thủy thủ trên những con tàu khác gần đó vô tình chứng kiến vụ tai nạn. Họ lấy làm lạ khi sự việc diễn ra không thấy có bất kỳ ai trên boong tàu. BÍ ẨN CON TÀU MA “NGƯỜI HÀ LAN BAY” Con tàu của ông ta lướt đi trên đại dương như một bóng ma nhẹ bẫng nên ông ta có biệt danh là “người Hà Lan bay”. Không có điều gì chắc chắn về ông, ngoại trừ ông ta là người Hà Lan và là thuyền trưởng của một con tàu ma. Những điều khác về ông ta đều mờ ảo và đen thẫm như làn nước biển đêm bởi những cái chết đeo bám cho kẻ xấu số nào nhìn thấy “người Hà Lan bay”! Từhuyền thoại... Huyền thoại về “người Hà Lan bay” đã có từ lâu. Nhiều người đi biển nói rằng, vị thuyền trưởng tài ba người Hà Lan này trong một chuyến đi dọc qua mũi Hảo Vọng đã được thông báo sẽ có một cơn bão biển xuất hiện. Mặc cho sự kinh hãi của hành khách, mặc cho gió biển gào thét xé nát cột buồm, sóng đập vỡ thành tàu nhưng viên thuyền trưởng vẫn nhất quyết giữ vững hải trình. Một số thủy thủ và hành khách quá sợ hãi và quyết tâm nổi dậy để chuyển hướng tàu vào bờ, nhưng viên thuyền trưởng đã nhanh chóng đánh gục thủ lĩnh cuộc nổi dậy và ném xác hắn xuống biển, miệng không ngừng nguyền rủa... Vào đúng lúc xác kẻ xấu số chạm mặt nước, thì “Raaắcc!” con tàu đã bị bão biển nghiền nát. Viên thuyển trưởng gào lên trong điên dại: “ Ta thề bán linh hồn cho quỷ dữ nếu sống qua cơn bão này!”. Và, đó cũng là điểm khởi đầu về một bóng ma huyền thoại: “người Hà Lan bay”... Người đi biển tin rằng con tàu ma của “người Hà Lan bay” lướt đi không cần gió. Nó trông rất giản dị và đột ngột xuất hiện trước các thuyền khác, ra dấu hiệu chỉ đường rồi đột ngột biến mất để con thuyền đi theo mắc phải những lạch cạn. Có nhiều người thề sống thề chết là họ đã từng trông thấy con tàu ma, thậm chí nhìn thấy cả “người Hà Lan bay”. Họ nói bóng ma huyền thoại này luôn để đầu trần, mặt mũi rầu rĩ, bàn tay ông đang bấu lấy bánh lái trên boong tàu và cầu xin Thượng đế tha ông ta tội bất kính. Huyền bí hơn, người ta còn nói rằng toàn bộ thuỷ thủ đoàn của “người Hà Lan bay” là những bộ xương di động đang cần mẫn làm việc. Phải chăng đó là chỉ là huyền thoại? ...đến những ghi chép Câu chuyện “người Hà Lan bay” kích thích mạnh mẽ sự tò mò của mọi người, nhưng nó thực tế hơn nhiều so với hình ảnh sinh ra từ trí tưởng tượng của một số nhà văn. “Con tàu ma” đã nhiều lần được ghi nhận ngay cả trong thế kỷ 20... Một trong những ghi chép đầu tiên về “người Hà Lan bay” và con tàu của ông ta đã được một thuyền trưởng người Anh ghi lại vào năm 1835 tại bờ biển phía nam châu Phi. Toàn bộ thuỷ thủ trên tàu Anh quốc khi tránh bão bỗng thấy một con tàu nhẹ nhàng lướt trên những con sóng đang gào thét dữ dội. Nó hướng thẳng về phía con tàu của người Anh và khi tất cả mọi người nghĩ rằng hai con tàu sẽ đâm vào nhau thì con tàu ma... biến mất. Ngày 11/7/1881, tàu H.M.S Bacchante thuộc Hạm đội hải quân Hoàng gia Anh đang đi qua cực Nam châu Phi thì thấy con tàu của “người Hà Lan bay”. Một sĩ quan trên tàu đó chính là vua GeorgeV sau này - đã ghi lại lời kể của viên hoa tiêu khi anh này nhìn thấy tàu “người Hà Lan bay” trong đêm tối: “Tôi thấy con tàu sáng rực một màu đỏ, nó đứng im lìm trong sóng biển rất mạnh”. Sau đó vài ngày, viên hoa tiêu xấu số đã ngã từ cột buồm xuống biển. Vào một ngày tháng 3/1939, rất nhiều người ở dọc bờ biển phía nam châu Phi đã nhìn thấy “con tàu ma”. Con tàu có vóc dáng kiến trúc của thế kỷ 17, được ghi nhận ở Báo cáo thường niên của Thực dân Anh tại Nam Phi lúc đó: “Giữa lúc trời lặng sóng, con thuyền bỗng đột ngột xuất hiện ở bãi biển Glencairn. Mặc cho mọi người chỉ trỏ bàn tán về xuất xứ của con tàu theo kiểu cổ, một lúc sau con tàu bỗng dần tan biến ra một cách đầy bí hiểm như sự xuất hiện lạ lùng của nó”. Ghi nhận cuối cùng về con tàu của “người Hà Lan bay” là vào năm 1942, tại Cape Town - Nam Phi. Bốn nhân chứng cho biết họ đã nhìn thấy con tàu cổ đi vào vịnh Table và... biến mất. Và còn nhiều ghi chép nữa liên quan đến con tàu của “người Hà Lan bay” như một hạm đội tàu ngầm của Đức đã gặp nó giữa tâm một cơn bão giữ dội ở vùng biển châu Phi trong Thế chiến II. Tuy nhiên những ghi chép đó không ghi cụ thể thời gian và địa điểm con tàu xuất hiện. Con tàu của “người Hà Lan bay” vẫn đang được che phủ bởi một màn sương biển bí ẩn... ...vàtrởlạ ivớ ihuyề nthoại Cho đến bây giờ nhiều người đã viết về “người Hà Lan bay”. Một số người cho rằng huyền thoại này bắt nguồn từ một sự kiện có thực. Họ cho biết tên của vị thuyền trưởng đó là Vanderdecken, Van Demien, Van Straaten hoặc Van der Decken. Vào năm 1641, vị thuyền trưởng người Hà Lan quyết định thành lập một công ty tên là Đông Ấn tại mũi Hảo Vọng. Trên đường trở về, ông đã gặp bão cách mũi Hảo Vọng không xa, con tàu bị xé thành từng mảnh, toàn bộ thuỷ thủ và thuyền trưởng tử nạn. Trước khi bị cơn sóng khổng lồ vùi xuống biển, viên thuyền trưởng người Hà Lan đã hét lên một lời nguyền át cả gió bão: “Ta sẽ còn đi quanh vùng biển này cho tới ngày tận thế!” Từ câu chuyện bi thương trên, người ta tin rằng trong mỗi cơn bão ở mũi Hảo Vọng, nếu chú ý bạn có thể nhìn thấy con thuyền của “người Hà Lan bay”. Tuy nhiên người ta cũng vô cùng sợ hãi bởi họ tin rằng nếu ai nhìn thấy vị thuyền trưởng xấu số đó sẽ gặp tai họa. BÍ MẬT CỦA NHỮNG CON SÓNG MA Khác với những con sóng thần (tsumani, được sinh ra từ các vụ động đất hoặc trượt đất dưới đáy biển), sóng ma (freak wave) thường xuất hiện đột ngột không vì lý do gì. Lâu nay, người ta không giải thích nổi vì sao từ lòng biển yên bình bỗng dưng lại dựng đứng lên những cột sóng cao tới mấy chục mét. Trong những giai thoại do những người đi biển kể lại, thì sóng ma luôn là một nỗi ám ảnh, bởi vì nó xuất hiện đột ngột như một hung thần, không thể hiểu nổi. Nhiều người cho rằng, nó thực ra không có thật, mà chỉ là sản phẩm tưởng tượng của những đầu óc ưa phiêu lưu. Tuy nhiên gần đây, các nhà khoa học Anh đã tìm ra những bằng chứng khá thuyết phục về sự hiện hữu của sóng ma. Năm 1978, con tàu chở dầu khổng lồ Munchen (Đức), một trong những con tàu lớn nhất thế giới, đã bị chìm bất ngờ. Nhiều người cho rằng, nó gặp sự cố kỹ thuật. Tuy nhiên, gần đây khi phân tích những mảnh vỡ của nó, các nhà khoa học Anh thấy rằng con tàu đã bị tấn công bởi một lực lớn khủng khiếp, ập từ trên cao xuống. Rất có thể đấy là một con sóng ma. Trên thế giới hiện nay, cứ mỗi tuần lại có một con tàu nhỏ bị nhận chìm một cách hết sức khó hiểu. Nhiều nhà khoa học cho rằng, chúng đều bị tấn công bởi các con sóng ma đơn lẻ, đột ngột trồi lên từ đáy biển. Các bức ảnh chụp từ vệ tinh gần đây cho thấy, những con sóng ma này là hoàn toàn có thật. Các nhà khoa học giải thích rằng, sóng ma xuất hiện trong những trường hợp đặc biệt, khi sóng thủy triều kết hợp với các cơn gió mạnh bất chợt, tạo ra một khu vực nhỏ “bất thường”. Khu vực này nhanh chóng cuốn các con sóng “bình thường” khác vào nó, “nuốt” năng lượng của chúng để tạo ra một cột sóng lớn. Cột sóng này chỉ xuất hiện đơn lẻ, ào lên một lần rồi bị hóa giải ngay. Quá trình này xảy ra rất nhanh, khiến người ta hầu như không kịp phản ứng. Việc nghiên cứu sóng ma rất có ý nghĩa, vì nó giúp các nhà khoa học thiết kế những con tàu có thể chống lại nó. GIỌNG NÓI TỪ BIỂN KHƠI Trong lịch sử ngành hàng hải, sự mất tích kỳ lạ của toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên con tàu nổi tiếng Maria Chelesta luôn được nhắc đến như một bí ẩn vĩ đại nhất của đại dương. Vào tháng 12/1872, thuỷ thủ trên tàu Jea Grasia của Anh bất ngờ gặp một chiếc thuyền buồm di chuyển một cách không bình thường. Tiến lại gần, họ rất đỗi ngạc nhiên khi trên boong thuyền Chelesta không có bóng dáng của con người mà vô lăng lái lại không được cố định. Một hoa tiêu và hai thuỷ thủ người Anh quyết định thâm nhập vào con thuyền này để tìm hiểu tình hình. Không hề có bất kỳ dấu hiệu nào của con người. Vật giá trị nhất mà họ tìm được chính là cuốn nhật ký đi biển, trong đó ngày cuối cùng được đặt bút là ngày 24/11/1872 (con thuyền được tìm thấy vào ngày 02/12). Con thuyền này được đưa về eo biển Gibraltar của Anh để các chuyên gia giàu kinh nghiệm điều tra bí ẩn đã xảy ra với nó, tuy nhiên mọi nỗ lực đều trở nên vô vọng. Năm 1937, nhà vật lý của Liên Xô là Vladimir Suleykin đã đưa ra một giả thuyết được cho là tương đối thuyết phục. Trong một hành trình trên biển Kaspi trên tàu thuỷ văn Taimưr, một nhà khoa học đi cùng Vladimir Suleykin đã thực hiện thí nghiệm với một quả cầu thám không chứa đầy khí hydro: Khi quả cầu này được đưa đến gần ai thì người đó bỗng xuất hiện một cảm giác đau buốt trong màng nhĩ, còn khi đưa ra xa cảm giác đau đớn đó dần tan biến. Vladimir Suleykin liền để ý tới hiện tượng lạ lùng này để rồi không lâu sau đó đưa ra nhận định của mình trên báo chí rằng, gió thổi qua các cơn sóng trong những ngày biển động đã tạo ra trong không khí các dao động sóng hạ âm mà tai con người không nghe thấy. Sóng hạ âm này rất có hại đối với con người. Trong dải tần thấp hơn 15 Hz, sóng hạ âm không chỉ gây tổn thương cho màng nhĩ, mà còn gây rối loạn hệ thần kinh trung ương và ảnh hưởng đến thị giác. Ở dải tần dưới 7 Hz, sóng hạ âm đôi khi gây tử vong đối với con người. Như vậy, nơi nào xuất hiện bão thì ở đó xuất hiện sóng hạ âm. Hiệu ứng này được V. Suleykin gọi là “âm thanh của biển cả”. Liệu con người đã tìm ra được bí mật của những con tàu ma xấu số? Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến những cái chết vô cùng bí hiểm của các thủy thủ trên tàu? MỘT BIÊN NIÊN SỬ BUỒN... Sự biến mất bí ẩn của con người và các con tàu vẫn tiếp tục trong thế kỷ 21. Liệu có phải, những trường hợp đó đều có liên quan đến “giọng nói từ biển khơi” hay không may chạm trán với “người Hà Lan bay”? Năm 2003, máy bay thuộc Cục Bảo vệ Bờ biển Australia đã tìm thấy một chiếc thuyền buồm của Indonesia gần bờ biển nước này. Tàu vẫn trong tình trạng hoạt động tốt, khoang chứa đầy cá, thế nhưng trên tàu lại không có một bóng người. (trước đó, tàu ra khơi với 14 thủy thủ). (Ảnh trên) Năm 2006, Cục bảo vệ bờ biển Sardinhia (Italia) nhận thấy một chiếc thuyền buồm hai cột mang tên “Bel Amika” bị trôi dạt tự do mà không có người trên đó. Trên thuyền vẫn còn thức ăn thừa và những tấm bản đồ địa lý của Pháp. Cảnh sát nghi ngờ chiếc thuyền đã được những kẻ buôn lậu sử dụng để vận chuyển ma túy. Tuy nhiên giả thuyết này ngay sau đó bị bác bỏ khi họ sử dụng chó nghiệp vụ để điều tra. Cùng năm đó, cũng cách Australia không xa, người ta lại tìm thấy chiếc tàu chở dầu Yan Seng cũng không có bóng người. (Ảnh trên) Năm 2007 một chiếc tàu dài 12m trống không có tên “Kaz II” được tìm thấy khi đang trôi dạt ở vùng biển Đông Bắc Australia. Điều lạ là động cơ của tàu vẫn đang hoạt động, một máy tính xách tay và hệ thống định vị toàn cầu GPS, một bàn ăn đã dọn sẵn. Tất cả các phương tiện cứu hộ vẫn còn nguyên trên tàu. Cánh buồm vẫn được căng lên nhưng đã bị rách nát. Năm 2008, Cục an ninh biển Nhật Bản thông báo phát hiện một chiếc xà lan đang trôi dạt không có tên, không có số hiệu và không người trên boong. (Ảnh trên) ĐỊA DANH MA ÁM NỔI TIẾNG NHẤT THẾ GIỚI Lâu đài Edinburgh nổi tiếng là một trong những nơi nhiều ma nhất ở Scotland. Ngay chính thành phố Edinburgh cũng được gọi là thành phố ma trên toàn châu Âu. Lâu đài Edinburgh thành phố Edinburgh Scotland Trong rất nhiều dịp, khách thăm quan lâu đài cho biết họ nhìn thấy một bóng ma thổi sáo không đầu - linh hồn của các tù nhân Pháp trong Chiến tranh 7 năm và của các tù nhân thuộc địa trong Chiến tranh Cách mạng Mỹ ở thế kỷ 18. Thậm chí, hồn ma của một con chó đi lảng vảng quanh nghĩa địa của chó. Ngôi nhà Whaley House bang Cali fornia Mỹ Tọa lạc tại thành phố San Diego (bang California), Whaley House được người ta biết đến là “ngôi nhà ma ám nổi tiếng nhất nước Mỹ”. Thomas Whaley xây dựng nó vào năm 1857 trên khu đất trước kia từng là nghĩa trang, kể từ đó nhà Whaley House trở thành nơi các hồn ma quây quần. Nhà văn deTraci Regula gợi nhớ lại về những sự việc kỳ lạ mà bà đã chứng kiến: “Rất nhiều lần, trong khi đang ăn tối ở quán cafe Old Town Mexican đối diện bên kia đường, tôi thường để ý thấy những chiếc cửa chớp trên tầng 2 của ngôi nhà đôi lúc mở tung ra, sau khi Whaley House đã được đóng cửa rất lâu. Trong một lần thăm mới đây , tôi có thể cảm thấy năng lượng ở vài nơi trong nhà, tôi ngửi thấy mùi xì gà nhè nhẹ, đặc biệt là ở trong phòng xử án. Qua hành lang, tôi ngửi thấy mùi nước hoa, mới đầu tôi tưởng đó là của một nữ giảng viên đi cùng nhưng sau này tôi được biết Whaley House hoàn toàn chẳng có mùi gì cả”. Ngôi nhà Borley làng Borley Anh Ngôi nhà Borley được linh mục Henry Dawson Ellis Bull xây dựng gần nhà thờ Borley vào năm 1862 và ông đã chuyển đến sống tại đây sau một năm được bổ nhiệm làm chánh xứ của xứ đạo. Những người săn ma thích trích dẫn câu chuyện về Tu viện Benedict cho rằng ngôi nhà được xây dựng vào năm 1362. Theo đó, một vị linh mục của tu viện này đã quan hệ lén lút với một nữ tu ở tu viện khác gần đó. Sau khi cuộc tình bị bại lộ, vị linh mục này bị xử tử còn nữ tu bị đóng đinh vào bức tường gạch của tu viện. Trang trại Bell ban gTennessee Mỹ Trang trại Bell được nhắc đến trong rất nhiều cuốn sách, bộ phim và các chương trình truyền hình. Câu chuyện đằng sau trang trại ma Bell rất nổi tiếng bởi nó là câu chuyện duy nhất được ghi chép lại giữa những lời đồn thổi về ma quỷ, kể về một con ma đã gây ra cái chết của một người. Giữa năm 1817-1821, gia đình Bell bị khủng hoảng bởi một hồn ma có tên “ phù thủy Bell” hay “ Kate”. Họ tin rằng Kate đã giày vò và tra tấn John Bell (người cha của gia đình mắc bệnh rối loạn thần kinh), cuối cùng khiến ông bị chết. John không thể ngủ hay khỏi bệnh. Người ta đã tìm thấy một chiếc lọ có chất lỏng màu đen kỳ lạ trên giường John sau khi ông chết. Để kiểm tra chất lỏng, người nhà John đã nhỏ một giọt vào lưỡi con mèo của gia đình, ngay lập tức con mèo lăn quay ra chết. Trong ba năm trở lại đây, cộng đồng sống quanh trang trại Bell vẫn bị ám ảnh bởi người phụ nữ đó và họ tin rằng Kate đang làm điều gì đó rất xấu. Tòa nhà Raynham hạt Norfolk Anh Tòa nhà Raynham nổi tiếng nhờ hồn ma của “ bà Brown” được hai nhiếp ảnh gia chụp năm 1936. Nó là một trong những bức ảnh ma thật nhất từ trước đến nay. Người ta nói rằng bóng ma “ bà Brown” ám toàn bộ cầu thang của ngôi nhà Raynham. Đầu những năm 1800, Vua George IV, sống trong ngôi nhà này đã nhìn thấy một người phụ nữ mặc bộ quần áo màu nâu đứng bên cạnh giường của ông với khuôn mặt tái nhợt và đầu tóc rối bời. Đến năm 1836, Đại tá Loftus đến thăm ngôi nhà này nhân ngày lễ Noel, đã tình cờ nhìn thấy bóng ma. Một tuần sau đó, ông này lại nhìn thấy bóng ma mặc bộ quần áo xatanh màu nâu với hai hốc mắt trống rỗng. Một vài năm sau đó, sĩ quan Frederick Marryat và hai người bạn nhìn thấy “ bà Brown” đi lên xuống cầu thang với chiếc đèn lồng cầm trên tay. Ông Marryat dùng súng bắn vào con ma, viên đạn xuyên qua người của bóng ma này. Tàu Queen Mary bang California Mỹ Theo những người đã từng thăm và làm việc trên Queen Mary, phòng máy móc chính là khu vực ma ám của con tàu, bởi tại đây một thủy thủ 17 tuổi đã bị đè chết sau khi cố gắng trốn thoát một trận hỏa hoạn. Rất nhiều người đã kể lại rằng họ nghe thấy những tiếng gõ và đập cửa trên các ống dẫn nước quanh cửa. Ở khu vực phía bàn tiếp tân của khách sạn, khách thăm quan thường nhìn thấy bóng ma của một người phụ nữ mặc áo trắng. Thêm nữa, có rất nhiều bóng ma trẻ em ám ảnh hồ bơi của Queen Mary. Người ta thường nghe thấy tiếng một bé gái gọi tìm mẹ và búp bê của mình - bé gái bị ngã gãy cổ trong một tai nạn ở bể bơi. Còn đồ đạc trong phòng thay đồ thì tự dịch chuyển, khách du lịch có thể cảm thấy những bàn tay chạm vào người, sự xuất hiện của những linh hồn và tiếng kêu rên đau đớn của một bóng ma ở giữa thân tàu - một thủy thủ đã chết tại đây khi Queen Mary va chạm với một con tàu nhỏ hơn. NhàTrắng thủđôWashington Mỹ Nằm ở số 1600 trên đại lộ Pennsylvania, thủ đô Washington, Nhà Trắng không chỉ là nơi ở của các tổng thống Mỹ đương thời mà còn là “ điểm hẹn” của một vài cố tổng thống. Có người đã từng nghe thấy tiếng Tổng thống Harrison lục lọi trên tầng mặt thượng, Tổng thống Andrew Jackson thì không chịu rời bỏ phòng ngủ của mình, còn bóng ma đệ nhất phu nhân Abigail Adams bay lượn trong hành lang. Bóng ma thường được nhìn thấy nhiều nhất là của Tổng thống Abraham Lincoln. Một nữ thư ký trẻ dưới thời chính quyền Roosevelt nói rằng cô đã nhìn thấy bóng ngài Lincoln ngồi trên giường và đang cởi ủng ra. Một dịp khác, Nữ hoàng Hà Lan Wilhelmina đã bị đánh thức bởi tiếng gõ cửa nhưng khi bà trả lời thì nhận được cái nhìn chằm chằm của Lincoln từ hành lang. Tháp London thủ đô London Anh Là một trong những di tích lịch sử được bảo tồn nguyên vẹn nổi tiếng nhất trên thế giới, nhưng Tháp London cũng nằm trong những địa danh ma ám nổi danh nhất. Chẳng có gì phải bàn cãi bởi đây là nơi diễn ra hàng trăm vụ xử tử, giết người và tra tấn dã man trong hơn 1.000 năm qua. Hàng chục vụ “chạm trán” với ma bên ngoài và bên trong tòa tháp đã được ghi lại. Vào một ngày đông lạnh giá năm 1957, lúc 3 giờ sáng, một lính gác bị đánh thức bởi tiếng đập trên chòi canh. Khi anh bước ra ngoài để tìm hiểu thì nhìn thấy một bóng người trắng toát ở trên đỉnh tháp. Sau đó, anh lính mới biết rằng cũng vào chính ngày này cách đây hơn 500 năm trước, bà Jane Grey đã bị chặt đầu ở đây (12/2/1554). Tuy nhiên, có lẽ bóng ma nổi tiếng nhất ngụ tại tòa tháp này là linh hồn của bà Ann Boleyn - một trong số những người vợ của vua Henry VIII, người cũng bị chặt đầu vào năm 1536. Bóng ma được nhìn thấy rất nhiều lần, đôi lúc ôm chiếc đầu của bà đi lang thang ở tháp Xanh và tháp Nhà Nguyện. Một trong những câu chuyện ma đáng sợ nhất gắn liền với tháp London là câu chuyện kể về cái chết của nữ bá tước Salisbury, người bị kết án tử hình sau khi bị buộc tội dính líu tới các hành động tội ác vào năm 1541(mặc dù người dân tin rằng bà vô tội). Khi đang vùng vẫy ở trên đoạn đầu đài, bà chạy thoát và bị tay đao phủ rượt đuổi theo vung dao chém rơi đầu. Màn xử tử kinh hoàng này thường được các linh hồn ở tháp Xanh diễn lại. Lâu đài Ballygally vịnh Ballygally Ireland Ngụ tại ngôi làng cùng tên, thuộc hạt Antrim (Bắc Ireland), lâu đài Ballygally quay ra biển phía trước vịnh Ballygally. Nó là tòa nhà duy nhất được xây dựng từ thế kỷ 17 vẫn đang được sử dụng làm nơi ở và là một trong những nơi nhiều ma nhất trong vùng. Một bóng ma thường được nhắc đến là bóng ma bà Isobel Shaw - người chủ cũ của lâu đài. Dân tình đồn rằng người sống trong nhà đôi khi nghe thấy những tiếng gõ cửa nhưng sau đó lập tức biến mất. Khi còn sống, Isobel đã bị chồng khóa vào trong phòng và không cho ăn, bà chết do nhảy từ cửa sổ xuống. Một bóng ma khác thường đi lại quanh lâu đài trong bộ váy lụa là bà Nixon, người đã sống ở đây vào thế kỷ 19. Lâu đài Rose Hall vịnh Montego Jamaica Rose Hall là lâu đài bằng đá nổi tiếng nhất được xây dựng vào những năm 1770 ở Jamaica. Với một tầng trên được trát vữa, Rose Hall nằm cheo leo trên sườn đồi đem đến cho khách tham quan một phong cảnh tuyệt đẹp nhìn ra biển. Rose Hall được biết đến với câu chuyện về người phụ nữ tên Annie Palmer tới đây vào năm 1820 và những truyền thuyết không có thật về những đường hầm dưới lòng đất, những vết máu và những câu chuyện ma. Annie Palmer là một phù thủy, người ta tin rằng ả đã giết ba người chồng (bằng đầu độc, đâm, treo cổ sau đó đổ dầu đun sôi vào tai họ) và rất nhiều tình nhân trong đó có các nô lệ với lý do đơn giản là ả đã chán họ. Mới đây, khách du lịch đã chụp được những bức ảnh xuất hiện các khuôn mặt ma quái. NHỮNG BÍ ẨN LỚN NHẤT TRONG LỊCH SỬ Bản thảo Rongorongo Được xem là một điều bí ẩn nữa của đảo Phục Sinh, Rongorongo là tên của bản thảo viết bằng chữ tượng hình do những cư dân đầu tiên của đảo viết ra. Rongorongo xuất hiện một cách đầy bí ẩn vào những năm 1700 trong khi cư dân những vùng đảo lân cận còn chưa có chữ viết. Ngôn ngữ này đã biến mất từ lâu khiến cho việc giải mã bản thảo trở nên vô vọng. Thực dân châu Âu cấm đoán ngôn ngữ này vì nguồn gốc ngoại giáo của người dân trên đảo. Bản thảo Voynich Bản thảo viết tay Voynich có lẽ là quyển sách khó đọc nhất trên thế giới. Di vật 500 tuổi này được phát hiện vào năm 1912 ở một thư viện thuộc Rome, bao gồm 240 trang chữ viết và tranh minh họa hoàn toàn xa lạ. Các nhà mật mã đã ra sức giải mã chữ viết lạ lùng này nhưng chưa ai thành công. Thậm chí một số người còn cho đây chỉ là một trò đùa của người xưa. Tuy nhiên, phân tích quyển sách cho thấy bản viết tay này dường như tuân theo các cấu trúc và quy luật của một ngôn ngữ thật sự. Thành phố Helike biến mất nh ư thế nào Nhà văn Hy Lạp Pausanias đã miêu tả lại cảnh tượng trận động đất kinh hoàng đã phá hủy thành phố Helike trong một đêm, kéo theo một cơn sóng thần khủng khiếp nhấn chìm tất cả những gì còn sót lại của thủ phủ phồn thịnh một thời. Thủ đô của các nước liên minh vùng Achaean này là trung tâm thờ phụng thần biển cả Poseidon. Ngoài các văn tự Hy Lạp cổ, không có dấu hiệu gì cho thấy thành phố này đã từng tồn tại cho đến khi một nhà khảo cổ phát hiện đồng tiền Helike có chạm khắc hình đầu thần Poseidon. Năm 2001, hai nhà khảo cổ đã xác định được vị trí của thành phố Helike bên dưới một lớp bùn và sỏi. Công tác khai quật đang được tiến hành và các nhà khoa học hy vọng sẽ tìm hiểu được quá trình lớn mạnh và diệt vong của thành phố vốn được một số người xem là thành phố Atlantis trong huyền thoại. Sự sụp đổ của Đế chế Minoan Trong khi các sử gia ngày càng khám phá thêm nhiều nguyên nhân khiến Đế chế La Mã sụp đổ thì bí ẩn vẫn bao trùm lên sự biến mất của Đế chế Minoan . Cách đây khoảng 3.500 năm, một trận động đất xảy ra trên đảo Thera đã cuốn đi tất cả sự sống trên đảo Crete, nơi xuất phát câu chuyện về một vị vua và con quái vật đã ăn thịt ông ta. Những tấm bảng đất sét do các nhà khảo cổ phát hiện ra lại cho thấy đế chế này vẫn còn tồn tại sau đó khoảng 50 năm trước khi biến mất hoàn toàn. Các giả thiết về sự sụp đổ bao gồm một lớp tro núi lửa làm mùa màng thất bát hoặc họ đã bị quân Hy Lạp chiếm quyền. Các cột đá Carnac Công trình đá Stonehenge ở Anh vẫn còn là bí ẩn đối với các nhà khoa học nhưng công trình Carnac tại bờ biển Brittany đông bắc Pháp có lẽ còn gây tò mò hơn nữa. Hơn 3000 cột đá cự thạch được sắp xếp thành một đường hoàn hảo trải dài hơn 12 km. Truyền thuyết địa phương kể rằng những cột đá này là một quân đoàn La Mã bị pháp sư Merlin hóa đá. Một nhà khoa học nghiên cứu công trình hơn 3 0 năm lại giả thiết rằng những cột đá này là một công cụ dự báo động đất. Nhân dạng của những người thuộc thời kỳ đồ đá mới xây dựng công trình này hiện vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. RobinHood là ai Các sử gia vẫn tiếp tục tìm kiếm nhân vật Robin Hood huyền thoại, một hiệp sĩ rừng xanh cướp của người giàu chia cho dân nghèo và danh sách những người tình nghi xuất hiện khá nhiều tên tuổi. Trong số đó bao gồm một người chạy trốn đến Yorkshire tên Robert Hod, Hobbehod và một Robert Hood vùng Wakefield. Việc lọc ra những cái tên trở nên ngày càng phức tạp vì “ Robin Hood” mang nghĩa người sống ngoài vòng pháp luật như trong trường hợp của William Le Fevre. Người này sau đó đổi họ thành RobeHod, theo như những ghi chép của tòa án. Cuộc tìm kiếm nhân vật huyền thoại này trở nên khó khăn hơn vì về sau những người kể chuyện lại thêu dệt thêm nhiều nhân vật, ví dụ như Hoàng tử John và Richard Dũng Mãnh. Sựmất tích của một binh đoàn La Mã Sau khi một đội quân La Mã kém cỏi của tướng Crassus bị quân Parthians đánh bại, người ta cho rằng một nhóm nhỏ tù binh chiến tranh đã lang thang qua sa mạc và cuối cùng gia nhập vào quân đội của 17 năm sau. Sử gia Ban Gu sống ở Trung Quốc thế kỷ thứ nhất có ghi lại một trận đối đầu với đội quân lạ lùng chiến đấu theo đội hình vảy cá, một nét đặc trưng của quân đội La Mã. Một sử gia thuộc Đại học Oxford so sánh các tài liệu cổ và cho rằng tàn quân La Mã đã xây dựng một thị trấn nhỏ tên Liqian gần sa mạc Gobi (cách viết của từ “La Mã” theo tiếng Trung). Các nhà khoa học đang tiến hành thử nghiệm DNA để chứng minh cho giả thiết trên và để giải thích một số đặc điểm của hậu duệ hiện nay: mắt màu lục, tóc vàng và thú vui đấu bò. Xác ướp đầm lầy Cho đến nay đã có hàng trăm xác ướp – chủ yếu từ thời đồ sắt – được phát hiện ở vùng đầm lầy phía bắc châu Âu. Phần nhiều các xác ướp được bảo quản rất tốt có niên đại đến 2000 năm và mang dấu vết của việc bị tra tấn và bạo lực. Những vết tích đáng sợ này khiến các nhà khoa học phải đặt giả thiết rằng họ là nạn nhân của một nghi thức cúng tế của người xưa. Xác ướp hồTarim Trong một cuộc khai quật bên dưới lưu vực Tarim phía tây Trung Quốc, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra hơn 100 xác ướp có tuổi thọ hơn 2000 năm. Victor Mair, một giáo sư đại học đã hết sức ngạc nhiên khi đối mặt với các xác ướp tóc vàng, mũi dài trong một cuộc trưng bày ở viện bảo tàng đến nỗi năm 1993 ông đã quay lại để thu thập các mẫu DNA. Xét nghiệm DNA đã củng cố giả thiết của ông là các xác ướp này mang bộ gien của người châu Âu. Văn tịch cổ Trung Quốc thuộc thế kỷ thứI trước Công nguyên có đề cập đến những nhóm người định cư da trắng được gọi là Bai, Yeuzhi và Tocharians. Tuy nhiên, vẫn chưa có lời giải thích nào về nguyên nhân tại sao những người này lại xuất hiện ở đây. BÍ MẬT VỀ NGÔI MỘ CẶP QUÂN NHÂN 1000 NĂM TUỔI Khi mới phát hiện ra ngôi mộ với hai thi thể này nhiều người đã nghĩ rằng họ là một cặp vợ chồng. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học thì họ không phải là vợ chồng mà là hai người đàn ông, hai người lính trong quân ngũ. Hai bộ hài cốt được phát hiện Trong khoảng 1.000 năm, hai thi thể đã được đặt cạnh bên nhau trong một phần mộ. Điều khiến các nhà khoa học nghi ngờ họ là một cặp vợ chồng vì một cánh tay của người này ôm lấy người kia. Các nhà khoa học đã chứng minh họ là những quân nhân Saxon. Rất có thể họ đã chết và được chôn cùng nhau như những người anh em. Họ được phát hiện tại khu vực gần Ramsgate, Kent. Ban đầu các nhà khoa học cho rằng họ là một cặp vợ chồng được chôn cất vào khoảng thời gian từ