🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Ẩn Của Não Phải - Makoto Shichida
Ebooks
Nhóm Zalo
BÍ ẨN CỦA NÃO PHẢI
MỖI ĐỨA TRẺ LÀ MỘT THIÊN TÀI!
NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI
Trụ sở chính:
Số 46. Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Tel: 0084.24.38253841 – Fax: 0084.24.38269578 Chi nhánh:
Số 7. Nguyễn Thị Minh Khai, Quận I, TP. Hồ Chí Minh Tel: 0084.28.38220102
Email: marketing@ thegioipublishers.vn
Website: www.thegioipublishers.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc - Tổng Biên tập: TS. TRẦN ĐOÀN LÂM Biên tập: Bùi Thế Khoa
Bìa: Lê Đỗ Thảo Tiên
Trình bày: Bích Trâm
Thực hiện liên kết
Công ty TNHH Văn hóa Sáng tạo Trí Việt (First News) 11H Nguyễn Thị Minh Khai, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM In 3.000 cuốn, khổ 13 x 20.5 cm tại Công ty TNHH Văn Hóa In SX-TM-DV Liên Tường (240/59 Nguyễn Văn Luông, P. 11, Q. 6, TP. HCM). Xác nhận đăng ký xuất bản số 290 -
2018/CXBIPH/19-12/ThG - QĐXB số 1122/QĐThG cấp ngày 18/10/2018. In xong và nộp lưu chiểu năm 2018. ISBN: 978-604-77-2479-6.
LỜI GIỚI THIỆU
M
ột trong những điều kỳ diệu nhất trong vũ trụ này có lẽ là loài người. Một trong những sở hữu mà loài người biết ít nhất là bộ não của chính mình. Con người dùng bộ não
của mình để nhận thức chính mình trong vũ trụ. Và khi đó, nếu dùng bộ não để nhận thức chính bộ não luôn là điều khó khăn nhất. Chính vì thế, nhận thức của loài người về bộ não sẽ luôn luôn và mãi mãi là điều bí ẩn. Điều này bao hàm rất nhiều ý nghĩa triết học mà loài người cứ tranh luận trong bao đời nay.
Loài người luôn tiến bộ. Trong thế kỷ gần đây, những thành tựu khoa học ghi nhận những điều kỳ diệu về bộ não loài người càng nhiều, nhất là những bí ẩn bên trong và biểu hiện của não phải. Vài điều chúng ta giải thích được, và nhiều điều hơn chúng ta chưa giải thích được. Cuốn sách này được Giáo sư Makoto Shichida dùng để dẫn dắt đến những biểu hiện kỳ diệu mà ông cho rằng sẽ đạt được bằng các phương pháp luyện tập não phải và từ đó cân bằng phát triển hai bán cầu não. Chúng ta không bao giờ biết được chính xác hai bán cầu não tác động một cách chi tiết ra sao để con người có thể đạt được một kết quả nào đấy vượt trội. Nhưng bằng những phương pháp tiếp cận khoa học theo quan điểm của một nhà giáo dục sư phạm, một nhà phân tâm học, một nhà tâm lý học, những dẫn chứng và phương pháp của Giáo sư Makoto Shichida có tính thực nghiệm và kết quả có tính thuyết phục cao.
Đã có nhiều tranh luận. Nhưng với hơn 60 năm nghiên cứu và hơn 40 năm thực hành, kết quả của một trường phái giáo dục sớm cho trẻ em từ không cho đến bảy tuổi không phải và không thể là điều ngẫu nhiên. Nhất là khi những kết quả này đến trong giai đoạn mà các bậc phụ huynh thường “bỏ quên”. Vì nhiều lý
do, có thể là vì cha mẹ có con trong độ tuổi này thường tập trung nhiều cho thành công cho sự nghiệp và người ta có thể đánh đổi bằng sự chú ý đúng mực trong giáo dục cho con trẻ. Có lý do tại sao các nước Bắc Âu họ cho cha mẹ nghỉ làm có lương để chăm con; các nước này hiểu được tầm quan trọng của giáo dục sớm cho những người chủ tương lai đất nước họ.
Viện Giáo Dục Shichida rất vui mừng khi thấy được càng nhiều cha mẹ ở Việt Nam chú trọng và dành nhiều quan tâm hơn cho giáo dục sớm cho thế hệ tương lai của đất nước. Chúng tôi có hàng ngàn phụ huynh hàng ngày thực hành theo phương pháp Shichida để chứng minh cho xu hướng này. Viện Giáo Dục Shichida mong muốn tất cả các phụ huynh có thể hiểu và thực hành triết lý giáo dục Shichida cho tương lai của thế hệ trẻ tốt đẹp hơn. Nỗ lực của Viện sẽ mang đến cho các bậc cha mẹ những kiến thức, những phản biện khoa học về giáo dục và đây là cuốn sách thứ ba trong “Tủ Sách Shichida Vì Một Giáo Dục Việt Nam Tốt Đẹp Hơn” và là cuốn sách thứ hai First News hợp tác xuất bản.
Các bạn đọc thân mến, giáo dục tính trung thực chính là giáo dục đích thực. Bạn có thể đang đọc bản copy cuốn sách này hay bản ebook. Sẽ không có sự khác biệt nhiều về câu chữ, có thể chỉ khác biệt về chất lượng giấy hay bạn không trả đồng nào hay không nỗ lực để có sách đọc. Nhưng một ngày nào đó, bạn không thể nào dạy con mình điều cơ bản về tính trung thực. Và những nỗ lực của bạn cho giáo dục não phải hay vượt trội của con bạn sẽ là vô nghĩa vì bạn không trung thực trong việc giáo dục. Hãy tôn trọng bản quyền bằng chính hành động nhỏ nhất này: bỏ những bản in và xuất bản lậu và mua cho mình một cuốn sách có tác quyền bằng tất cả sự tôn trọng. Ý nghĩa mà bạn hiểu được sẽ nhiều hơn biết bao nhiêu. Sóng não của bạn sẽ thuần khiết và hiệu quả của giáo dục sẽ cao hơn.
Hồ Văn Hữu
Viện Giáo Dục Shichida Việt Nam
VIỆN GIÁO DỤC SHICHIDA VIỆT NAM V
iện Giáo Dục Shichida Việt Nam mang đến chương trình Giáo dục sớm từ Nhật Bản, với hơn 60 năm nghiên cứu khoa học và thực hành. Phương pháp được phát triển
dựa trên nền tảng khoa học và chứng thực về não phải, cân bằng phát triển hai bán cầu não. Từ đó, khả năng của trẻ không chỉ dừng lại ở các kỹ năng cơ bản như đọc, toán, nhạc, họa… mà qua đó phát triển hình thành tính cách, năng lực tư duy, tình yêu và sự gắn kết giữa cha mẹ và con cái.
Ở Viện Giáo Dục Shichida, điều đầu tiên chúng tôi dạy là Yêu Thương và Tin Tưởng tuyệt đối, con bạn sẽ làm được, rồi bạn sẽ thấy tự hào về con mình. Học tập ở Viện Giáo Dục Shichida là một hành trình trải nghiệm nghiêm khắc nhưng tràn đầy hạnh phúc. Niềm vui dễ dãi là niềm vui không vững bền; chính vì vậy, hạnh phúc từ tri thức trong quá trình học tập ở Viện đòi hỏi tính kỷ luật cao, và luyện tập bền bỉ, giống như tinh thần Nhật Bản.
Tại Viện Giáo Dục Shichida, chúng tôi có các lớp học dành cho các bé từ 0 – 6,5 tuổi. Nội dung học được thiết kế theo từng tuần, phù hợp cho sự phát triển riêng biệt của con bạn, mô phỏng một xã hội thu nhỏ trong lớp học với sự kích thích tương tác đa chiều. Hiện Viện Giáo Dục Shichida Việt Nam có cơ sở tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
LỜI ĐỀ TỰA
N
hân loại đã bước vào thế kỷ hai mươi mốt. Bạn có bao giờ tự hỏi điều gì đang chờ đón chúng ta ở phía trước không? Tôi tin rằng đây là một thế kỷ đầy ắp niềm hy vọng, một thế kỷ làm thay đổi cả thế giới.
Việc quan sát các bé ở Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản, nghiên cứu báo cáo của giáo viên trong lớp học hoặc đọc thư của các phụ huynh đã chứng minh cho tôi thấy một cách rõ ràng sự thực này và càng khẳng định vững chắc niềm tin của tôi.
Trẻ em đang vươn đến những khả năng mà chúng ta chưa từng biết đến như thể đây là những năng lực hoàn toàn bình thường. Khi nhìn thấy khả năng kỳ diệu của những đứa trẻ tự chữa lành cho bản thân hay cho những thành viên trong gia đình, dễ dàng ghi nhớ được một lượng thông tin khổng lồ, dự đoán trước các sự kiện trong tương lai, cải thiện năng lực thể chất nhanh chóng hoặc làm sạch môi trường ô nhiễm chỉ bằng cách sử dụng năng lực tưởng tượng(1), tôi có cảm giác như mình đang quan sát những sinh vật đến từ hành tinh khác.
(1) Năng lực tưởng tượng: Năng lực của não bộ giúp chuyển những ý nghĩ thành thông tin dưới dạng hình ảnh.
Con người thực sự đang bước vào một giai đoạn tiến hóa mới.
Hiểu biết đầu tiên của tôi về những đứa trẻ đặc biệt này bắt đầu từ khi tôi đọc cuốn sách của tác giả Alex Tanous có nhan đề “Có phải con của bạn sở hữu những năng lực siêu nhiên: Cẩm nang dành cho các bậc cha mẹ và giáo viên yêu thích sáng tạo” (bản dịch tiếng Nhật được Nhà xuất bản Tokuma Shoten xuất bản vào năm 1987). Sách mô tả khả năng thần giao cách cảm của
g g
trẻ, dẫn chứng những trường hợp có thực, và vạch ra chi tiết phương pháp phát triển những khả năng đó.
Mười năm sau, khi đã là Viện trưởng của Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản, tôi có cơ hội tận mắt thấy nhiều trẻ dễ dàng thể hiện năng lực đó mà không cần cố gắng gì nhiều, thậm chí những năng lực đó còn vượt trội hơn cả những thành tựu mà Tanous mô tả trong quyển sách “Có phải con của bạn sở hữu những năng lực siêu nhiên: Cẩm nang dành cho các ba mẹ và giáo viên yêu thích sáng tạo” – Tác giả Alex Tanous & Katherine Fair Donnelly, Nhà xuất bản Macmillan, 1979.
Là nhân chứng chứng kiến sự tiến hóa của nhân loại trong kỷ nguyên mới, tôi cho rằng mình nên ghi chép lại những điều đã nhìn thấy. Xác nhận này của tôi có ý nghĩa hơn nhiều so với một bản ghi chép thông thường bởi đó là căn cứ để góp phần định hướng cho giáo dục, khởi đầu cho những thay đổi mang tính cách mạng trong việc nuôi dạy trẻ ở thế kỷ này.
Để giúp các bậc cha mẹ dễ hình dung về những năng lực mà các bé ở Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản có thể thực hiện, tôi xin chia sẻ một trường hợp do giáo viên giảng dạy tại đây đã ghi nhận lại:
Ông nội của T mắc bệnh ung thư. Cậu bé nghe được điều này khi bác sĩ giải thích tình trạng bệnh của ông với mẹ. T có khả năng chữa lành cho người khác thông qua việc tưởng tượng mình biến thành một người tí hon đi vào trong cơ thể của họ để chữa lành những bộ phận bị đau.
Mỗi lần đến thăm ông trong bệnh viện, T đều tưởng tượng mình đang đi vào cơ thể ông và tiêu diệt hết vi khuẩn. Các tế bào ung thư nhỏ lại dần dần. Em T đã làm như vậy không chỉ cho ông nội mà còn cho các bệnh nhân khác trong cùng phòng, thậm chí cho cả một số bệnh nhân bị ốm nặng. Thật ngạc nhiên khi tất cả những người bệnh đó đã dần hồi phục và được ra viện.
Một trường hợp khác, hiệu trưởng một trường mẫu giáo thường xuyên bị đau thắt vùng bụng, các bác sĩ chẩn đoán thận của ông có sỏi và phải được phẫu thuật càng sớm càng tốt. Thế nhưng, ông đã quyết định nhờ các bé chữa bệnh bằng cách để các bé tưởng tượng biến thành người tí hon đi vào cơ thể của ông. Dù ông chưa kể cho các bé về kết quả chẩn đoán của bác sĩ, nhưng sau khi “đi vào”, các bé đã nói: “Thầy ơi, thầy có sỏi trong bụng. Tụi con nhìn thấy có hai viên thầy ạ”.
Thế rồi các bé tưởng tượng mình đang dùng búa để nghiền nát các viên sỏi, sau đó dùng nước để rửa sạch các mảnh vụn và các mảng vi khuẩn. Kỳ nghỉ hè năm đó, khi ông quay lại bệnh viện để kiểm tra thì không còn viên sỏi nào nữa. Nhìn vào bản chụp X quang, bác sĩ nói: “Chắc ông phải đau lắm mới có thể lấy hết được những viên sỏi lớn như thế này”, nhưng thực ra ông hiệu trưởng lại không hề thấy đau chút nào.
Bác sĩ cũng thông báo rằng cơ thể của ông có rất nhiều vi khuẩn có lợi, thật khó mà tin được thận của ông đã từng có sỏi. Thầy hiệu trưởng cảm thấy rất biết ơn những cô bé, cậu bé đã lấy hết sỏi ra và đưa vào cơ thể ông những vi khuẩn có lợi một cách diệu kỳ như vậy.
Việc sử dụng não phải (bán cầu não phải) thông qua năng lực tưởng tượng đã biến điều này thành hiện thực. Khả năng chữa lành không hạn chế ở một vài bé mà rất phổ biến ở các bé đang tham gia học tại Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản.
Hàng trăm hiện tượng như vậy đã được ghi nhận khắp nơi và cũng được chứng minh rõ ràng trong nội dung của cuốn sách này.
Tháng Bảy, năm 2003
Makoto Shichida
Chương 1
BÍ ẨN VỀ NĂNG LỰC TIỀM ẨN CỦA NÃO PHẢI
1. Câu chuyện về những người đã từng sử dụng khả năng của não phải trong quá khứ
C
ho đến gần đây, bán cầu não phải vẫn được xem như một vùng đất bí ẩn vì các nhà khoa học chưa thể khám phá hết những chức năng mà não phải làm được. Mọi người
thường nghĩ rằng chỉ có não trái mới tác động nhiều đến cuộc sống của con người. Họ tin rằng não trái đóng vai trò như một cơ quan độc lập và chỉ cần năng lực tư duy của não trái thôi đã là quá đủ. Họ không thừa nhận các chức năng của não phải vì chúng không thể hiện qua ngôn ngữ và khó diễn đạt bằng lời.
Những người đó không hề biết đến năng lực não phải tự nhiên của các bé đang học tại Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật bản. Tôi tin rằng, nếu những nhà khoa học đó có cơ hội gặp gỡ các em, họ sẽ bớt bám chặt vào những kinh nghiệm ít ỏi và kiến thức hạn hẹp của mình để đánh giá.
Não phải là phần não siêu nhiên có khả năng thu nhận thông tin dưới dạng những rung động từ vũ trụ, là bán cầu não hoạt động vượt ra khỏi những giới hạn về thời gian và không gian. Vì chúng ta không thể dùng mắt thường để thấy được khả năng của não phải nên những người tình cờ kích hoạt được năng lực này lại bị cho là có biểu hiện của bệnh thần kinh và bị xã hội ruồng bỏ.
Tôi muốn kể cho các bạn nghe ví dụ về một người phụ nữ ở Tokyo. Lúc còn nhỏ, cô có khả năng nhìn thấy những hình ảnh sống động(1) trong tâm trí. Và khi cô chia sẻ điều đó với người thân trong gia đình hoặc bạn bè ở trường, mọi người đều không tin và suýt nữa cô bị đưa vào bệnh viện để chữa bệnh.
(1) Hình ảnh sống động: Hình ảnh hiện lên trong đầu mô tả những sự kiện xảy ra trong đời sống và thường rất sống động như thể nó đang thực sự diễn ra.
Mặc dù nhìn thấy những hình ảnh sống động đó là một phần trong cuộc sống của mình nhưng cô đã phải che giấu khả năng đặc biệt này và không thể chia sẻ với bất kỳ ai. Từ kinh nghiệm bản thân, cô nhận ra rằng những điều cô “nhìn thấy” sống động trong tâm trí có thể sẽ trở thành hiện thực. Chẳng hạn như khi các bác sĩ chẩn đoán cô bị ung thư tử cung, cô đã tự chữa lành cho mình bằng cách nghĩ đến hình ảnh mình khỏi bệnh. Khi con cô sinh ra bị hở van tim, cô đã hình dung hình ảnh trái tim con mình liền lại nguyên vẹn và điều đó cũng trở thành sự thực. Ở trường học, đáp án các bài kiểm tra luôn xuất hiện trước mắt cô, bởi vậy lúc nào cô cũng đạt điểm cao nhất.
Người phụ nữ này không hề biết đây là những chức năng bình thường của não phải, nên lúc nào cô cũng lo sợ mỗi khi phải sử dụng chúng hay nói với người khác. Vì thế, cô phải cố gắng kìm nén chúng.
Những trải nghiệm của Kuniyoshi Ikeda(2), tác giả của cuốn sách nổi tiếng về nhà tiên tri Nostradamus cũng tương tự như vậy. Khi còn học phổ thông, ông cảm thấy những bức tường xung quanh giảng đường như không còn nữa, đến nỗi ông có thể nghe và tiếp thu bài giảng của ba lớp học xung quanh. Ông luôn đạt điểm tối đa vì có thể gợi nhớ lại bằng hình ảnh tất cả những điều ông được học.
(2) Kuniyoshi Ikeda: Phiên dịch người Nhật chuyên dịch những cuốn sách tiên tri của nhà tiên tri Nostradamus.
Tuy vậy, đến thời sinh viên, khi được chọn làm trợ giảng cho các giáo sư trong trường, ông không thể giúp các sinh viên chạm được đến những khả năng đó vì ông không biết đó là khả năng thuộc về bán cầu não phải và ai cũng có khả năng này. Thay vào đó, ông lại sử dụng kỹ thuật giảng dạy để phát triển não trái - giống như bao nhiêu người khác.
Cho đến mười năm trước, vẫn chưa có bất cứ phương pháp dạy và học nào nhằm phát triển hay sử dụng năng lực của não phải. Thậm chí không ai nghĩ rằng có những phương pháp giáo dục như vậy tồn tại. Vào năm 1980, Blakeslee viết trong “Về não phải” cũng thừa nhận cho đến nay, chưa có phương pháp giáo dục nào thực sự tập trung vào việc phát triển bán cầu não này.
2. Khám phá cấu trúc và chức năng của bộ não
Bộ não gồm ba tầng cấu trúc(3). Nhà thần kinh học người Mỹ, tiến sĩ Paul D. McClean đã trình bày khái niệm não bộ ba lớp vào năm 1970. Theo ông, quá trình giải phẫu não bộ theo chiều dọc cho thấy ba lớp của não: thân não (não bò sát) ở lớp dưới cùng, thùy viền (vỏ não cũ/não động vật có vú) ở giữa và vỏ não mới (não linh trưởng) ở ngoài cùng (xem hình 1). Mỗi lớp của hệ thống não có ba loại chức năng và ba mạch dẫn thông tin.
(3) Ba tầng của não bộ: Tham khảo thêm về chức năng của ba tầng não bộ ở cuốn sách - Bí quyết nuôi dạy con theo phương pháp Shichida “Yêu thương, Khen ngợi và Nhìn nhận”, trang 38.
Hình 1. CẤU TRÚC CỦA NÃO BỘ.
Não bò sát sở hữu kênh thần giao cách cảm và não động vật có vú chứa đựng kênh hình ảnh để truyền dẫn thông tin dưới dạng hình ảnh.
Lớp ngoài cùng của vỏ não được chia làm hai phần: não trái và não phải. Mạch kết nối não phải với các tầng não sâu hơn cho phép não phải chạm được vào chức năng thần giao cách cảm và chức năng hình ảnh trong khi não trái lại không có mạch kết nối này. Bán cầu não trái là phần não liên quan đến ngôn ngữ còn bán cầu não phải là phần não liên quan đến hình ảnh, vì vậy cách thức nhận thức và suy nghĩ ở hai bán cầu não hoàn toàn khác nhau. Não phải suy nghĩ và nhận biết bằng hình ảnh trong khi não trái nhận thức và suy nghĩ bằng ngôn ngữ.
Các chức năng ghi nhớ của hai bán cầu não cũng hoàn toàn khác biệt. Khả năng ghi nhớ của não trái dựa trên ngôn ngữ trong khi khả năng ghi nhớ của não phải dựa trên hình ảnh. Tương tự
như vậy, não trái được cho là kiểm soát các chức năng về tư duy logic và não phải đảm nhận việc kiểm soát cảm xúc. Thậm chí sự hoạt động của các giác quan cũng khác biệt giữa não trái và não phải.
Các giác quan của não trái là thực thể và phụ thuộc vào cơ quan cảm giác như mắt, mũi, miệng, tai và da, trong khi giác quan của não phải độc lập với năm cơ quan cảm giác và có khả năng thu nhận các rung động bên ngoài vốn không nhìn thấy được. Sau đó, não phải chuyển các thông tin đó thành hình ảnh, giúp cho việc nắm bắt thông tin diễn ra nhanh chóng.
Sự tồn tại độc lập của các khả năng trực giác với năm cơ quan cảm giác đã được thừa nhận rộng rãi. Trên thực tế, đây chính là năm giác quan của não phải.
3. Khả năng chữa lành kỳ diệu của não phải
Con người có hai loại ý thức: ý thức thuộc não trái và ý thức thuộc não phải. Phần lớn mọi người tin rằng não trái sẽ có khả năng ý thức trong khi não phải thì không, đây là một nhận thức sai lệch. Trước đây, các nhà khoa học cho rằng phần thùy trước của não phải là khu vực bí ẩn, các chức năng của phần não này chưa được lý giải, nhưng trên thực tế, đây chính là nơi ý thức của não phải hoạt động mạnh mẽ. Nếu chúng ta tập trung vào năng lực ý thức của não trái để chữa lành các bệnh đặc biệt như ung thư hoặc bệnh dị ứng thì kết quả mang lại rất khiêm tốn dù có bỏ ra bao nhiêu công sức đi nữa. Nhưng nếu chúng ta sử dụng phần ý thức của não phải để hình dung chữa lành bệnh thì lại có thể khiến chúng biến mất. Quả thực, năng lực tưởng tượng trực quan có tác động lớn lên cơ thể và được sử dụng từ thời cổ xưa như một công cụ chữa bệnh rất hữu hiệu.
Như ta đã biết, bán cầu não phải là vùng não thu nhận hình ảnh và não trái là khu vực của ngôn ngữ, tuy nhiên, cả ngôn ngữ và hình ảnh đều dùng cho mục đích truyền đạt thông tin. Hình
ảnh có thể truyền đạt thông tin đến các mô, các bộ phận trong cơ thể và thậm chí là các tế bào, để kích hoạt sự thay đổi. Hiệu quả của sự tưởng tượng trực quan ở người bệnh lên tình trạng bệnh tật của họ đã được công nhận rộng rãi.
Mạch thần kinh sử dụng để truyền dẫn hình ảnh hoàn toàn khác với mạch thần kinh được sử dụng để truyền dẫn ngôn ngữ. Năng lực tưởng tượng của não phải có sức mạnh tiềm tàng mạnh đến nỗi có thể biến những thứ đang được hình dung mạnh mẽ trong đầu trở thành hiện thực. Nếu ý thức ngôn ngữ của não trái tác động không đáng kể lên cơ thể người thì ý thức hình ảnh của não phải lại có khả năng kiểm soát hoàn toàn cơ thể. Việc tưởng tượng khả năng chữa lành căn bệnh ung thư có thể khiến các tế bào ung thư thực sự biến mất, kết quả là cơ thể được phục hồi như một ví dụ chứng minh dưới đây.
Max Fishman (hai tuổi hai tháng) có một khối u ở cổ và một bác sĩ – chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực này – đã chẩn đoán cậu cần phải mổ ngay. Gia đình cậu bé gần như đã thu xếp xong lịch hẹn mổ nhưng nhờ có quá trình luyện tập hoạt động tưởng tượng kiên trì của gia đình để chữa lành cho cậu bé, khối u đó đã hoàn toàn biến mất chỉ trong hai tuần, điều này khiến vị bác sĩ hoàn toàn sửng sốt.
4. Chữa lành bệnh nhờ năng lực tưởng tượng tác động lên DNA
Giáo sư Kazuo Murakami của Đại học Tsukuba, người nổi tiếng với những nghiên cứu về gen, đã công bố rằng có những gen có khả năng chữa bệnh. Tôi tin điều này sẽ xảy ra nếu con người biết cách sử dụng khả năng tưởng tượng của não phải để kích hoạt các gen đó. Rất nhiều trường hợp những người luyện tập khả năng của não phải có thể chữa lành bệnh một cách thần kỳ.
Thậm chí khoảng cách địa lý cũng không còn quan trọng vì phương pháp này hiệu quả ngay cả khi người bệnh ở cách xa
người chữa bệnh. Những đứa trẻ phát triển khả năng tưởng tượng của não phải mạnh mẽ đến mức có thể chữa lành các chứng bệnh nặng cho người khác bằng cách tưởng tượng biến thành người tí hon đi vào trong cơ thể của người bệnh dù họ đang ở rất xa. Câu chuyện dưới đây ghi chép về một cậu bé có khả năng chữa lành như vậy.
Chị gái của tôi sống ở quận Hyogo bị chấn thương do một vụ tai nạn xe hơi. Chị rất yêu con gái của tôi, bé K (hai tuổi, năm tháng) và K cũng rất yêu bác của mình. Tôi nói với K rằng bác đang bị đau và hỏi con: “Con có biết bác đau ở đâu không?”. Con bé trả lời bác đau ở vùng cổ. Tôi hỏi tiếp: “Con có thể chữa cho bác để bác hết đau được không?” và con bé đồng ý. Sau đó tôi gọi điện lại cho chị gái để hỏi chị cảm thấy thế nào, chị liền nói chứng đau ở cổ đã giảm đi rất nhiều sau bữa trưa. K chữa lành cho bác vào buổi sáng và có vẻ như nó đã hiệu quả.
Trong những ngày tiếp theo, K tiếp tục nhận diện những phần đau đớn trên cơ thể của bác và chữa lành nó.
Khi K mới hai tuổi một tháng, chồng của chị gái tôi bị bệnh gút. Con chỉ vào ngón chân của bác và nói “chân” rồi chữa lành cho bác. Lúc đó, chúng tôi chỉ nghĩ đó đơn giản là sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng sau tai nạn của chị tôi, rõ ràng là con bé có năng lực chữa lành, thậm chí có thể chữa lành xuyên qua một khoảng cách xa từ Chiba đến Hyogo (khoảng năm trăm ki-lô-met).
- T.K, Lớp học Funabashi
5. Năng lực tưởng tượng có thể giúp chữa lành mọi chứng bệnh
Năng lực tưởng tượng đã được sử dụng kể từ thời cổ xưa như một công cụ quyền năng để chữa lành bất kỳ loại bệnh nào. Đây là một công cụ lý tưởng có tiềm năng rất lớn, mang lại sự thay đổi mạnh mẽ cho nền y học hiện đại. Các trường hợp dưới đây sẽ chứng minh năng lực này có tác dụng mạnh mẽ đến thế nào.
g g ự y ụ g ạ
Trong lớp học Shichida của chúng tôi, trẻ được luyện tập để thao tác với hình ảnh, tưởng tượng mình bé lại thành người tí hon và đi vào trong bông hoa. Điều này giúp chúng hình dung dễ dàng hơn việc mình biến thành nhỏ xíu, đi vào cơ thể của người khác, tìm ra những bộ phận đang bị nhiễm trùng hoặc đang bị tổn thương và dùng các hình ảnh tích cực để chữa lành bệnh.
Y. H. sống ở Chiba. Mẹ bảo cô bé hãy tưởng tượng đi vào trong cơ thể của bà ngoại, tìm xem có vấn đề gì đang xảy ra với cơ thể của bà và chữa cho bà. Cuộc nói chuyện giữa mẹ và cô bé được tường thuật như sau:
Y. H. Con đã đi vào dạ dày của bà ngoại. Có rất nhiều mì đang tiêu hóa trong đó. Con đi vào trong ruột của bà, thành ruột có màu hồng đẹp lắm.
Mẹ: Tốt lắm. Con thử đi vào trong mạch máu của bà đi nào! Con đang ở đâu?
Y. H. Nhưng có nhiều đường lắm mẹ ạ, con nên đi vào đường nào bây giờ?
Mẹ: Cứ chọn một đường đi rồi xem nó dẫn con đến đâu. Con đang ở đâu rồi?
Y. H. Con đang ở lá gan rồi mẹ ạ.
Mẹ: Tốt lắm, thế con hãy lau sạch cho bà nhé!
Ngày hôm sau, bà của Y. H. gọi điện và nói: “Sáng nay mẹ đi ra rất nhiều nước tiểu màu đen. Các vết sưng và bầm tím đã biến mất như thể chúng chưa từng tồn tại”.
Hai tuần sau, khi làm xét nghiệm tiểu đường, bác sĩ vô cùng ngạc nhiên khi thấy huyết áp của bà cải thiện đáng kể và bà không còn các cảm giác khó chịu do gan gây ra nữa.
Câu chuyện chia sẻ khác đến từ lớp học Yamaguchi. Gia đình Itoh đã luyện tập phát triển khả năng não phải cho hai con được một thời gian. Hai anh em Naoki và Kazuki đều tham dự lớp học của Shichida. Khi kênh truyền dẫn trong não phải của Naoki mở ra, cậu bé có thể sử dụng ngay năng lực chữa lành của mình.
Ngày tiếp theo trong hội thảo, tôi đã nói chuyện với Giáo sư Shichida về căn bệnh đau lưng mãn tính của mình và ông gợi ý rằng tôi nên nhờ một trong những học sinh ở trường để giúp tôi chữa lành bệnh. Tôi quyết định thực hiện điều này ngay. Khi cậu bé đang vui vẻ, tôi đã nhờ mẹ cậu bé nói chuyện với cậu về vấn đề của mình. Một tuần sau đó, mẹ cậu gọi điện cho tôi nói rằng cậu đã tìm thấy và nghiền tan một khối tròn khá lạ sưng lên và nằm sâu phía sau rốn của tôi. Kể từ đó, bệnh đau lưng của tôi hoàn toàn biến mất và tôi biết đó là nhờ Naoki.
Naoki cũng đã chữa lành chứng đau họng của bố cậu và cả những chứng bệnh khác nữa.
Ube, Lớp học Yamaguchi
Mẹ bé Haruka Misumi mọc một cái nhọt trên mặt. Mẹ liền nhờ cô bé hãy trở thành một chú ong để tẩy đi chiếc nhọt đó. “Con đã lấy hết phần đất bên trong với cái xẻng nhỏ xíu và dùng nước rửa sạch nó giúp mẹ rồi đó”. Cô bé nói với mẹ. Ngày hôm sau, chỗ nhọt đã hoàn toàn được chữa lành.
Ube, Lớp học Yamaguchi
6. Chữa bệnh ung thư bằng năng lực tưởng tượng
Một trong những học liệu mà chúng tôi sử dụng để phát triển não phải là “Tưởng tượng hình ảnh”. Học liệu này đặc biệt hiệu quả để tăng cường khả năng tưởng tượng (bao gồm bộ CD luyện tập và sách hướng dẫn). Một số người theo sát chương trình này đã báo cáo họ có thể chữa được các khối u, bao gồm cả ông T. Y. được dẫn chứng dưới đây.
Sau khi tham dự buổi thuyết trình của Giáo sư Shichida vào ngày hai mươi lăm tháng Chín ở thành phố Matsuyama, tôi đã gặp ông và ông gợi ý tôi nên xem video có tên gọi là “Làm thế nào để khơi gợi năng lực tưởng tượng hình ảnh”. Tôi lập tức mua một bản copy cùng với video “Nuôi dưỡng trẻ trong kỷ nguyên khám phá não bộ” (một video ghi lại bài giảng ở Fukuoka vào tháng Năm, 1997) và bắt đầu nghiên cứu.
Được truyền cảm hứng từ video “Làm thế nào để khơi gợi năng lực tưởng tượng hình ảnh”, tôi bắt đầu quá trình luyện tập. Nhưng tôi chưa bao giờ tưởng tượng được một ngày nào đó tôi lại có thể tự chữa lành bệnh cho chính mình.
Tôi tiếp tục thực hành tưởng tượng đều đặn trước khi đi ngủ và trước khi ra khỏi giường vào buổi sáng. Tôi thường xuyên nhìn thấy những hình ảnh rất rõ ràng, sống động đầy màu sắc khi còn đang chìm trong sóng não alpha hoặc theta.
Khi thành lập công ty riêng và bắt đầu bận bịu với công việc, tôi đã xao nhãng hoạt động tưởng tượng một thời gian. Vì vốn tự tin vào
sức khỏe của mình, chỉ vào tháng trước, tôi mới đi kiểm tra sức khỏe toàn diện vì một người bạn giục tôi đi khám. Vài hôm sau, lúc nhận email thông báo kết quả tôi thực sự sửng sốt khi bác sĩ khuyên tôi cần phải đi khám lại vào ngày mười sáu tháng Mười. Thư đề cập đến bản chụp X quang phổi của tôi có dấu hiệu không bình thường và khuyến nghị tôi nên kiểm tra kỹ hệ hô hấp. Biểu đồ tình trạng sức khỏe cho thấy có một mảng khá sậm màu nằm ở phía trên lá phổi phía bên phải.
Ngày hai mươi ba tháng Mười, tôi hẹn gặp bác sĩ N tại bệnh viện Chữ thập đỏ Matsuyama để khám lần hai. Bác sĩ nói với tôi: “Có khả năng đây là một khối u và tôi sẽ chụp bản cắt lớp cho anh. Nếu đây là một khối u, nó vẫn còn ở giai đoạn đầu và anh không cần phải lo lắng gì cả”. Đó là một mảng tối màu có chiều rộng bốn milimet và chiều dài khoảng tám milimet ở trên, bên phải, đủ lớn để một người bình thường như tôi cũng có thể nhìn thấy.
Cho đến bây giờ tôi vẫn còn ngạc nhiên khi thấy bản thân đã bình tĩnh như thế nào khi đón nhận tin này. Tôi không cảm thấy quá lo lắng vì tôi tin rằng với sự hướng dẫn của Giáo sư Shichida, tôi có thể thực hiện hoạt động tưởng tượng để làm mảng tối màu đó biến mất.
Vợ tôi rất buồn. Cô hỏi thăm bạn bè và người thân để tìm cách giúp tôi. Thậm chí, cô còn lo đến mức phải tìm xem video của Giáo sư Shichida về “Việc nuôi dưỡng trẻ trong kỷ nguyên khám phá não bộ”. Đây là lần đầu tiên vợ tôi từng nghe về khái niệm năng lực của não phải. Cô ấy vô cùng ngạc nhiên và kể từ lúc đó, vợ tôi bắt đầu luyện tập hoạt động tưởng tượng vào mỗi buổi tối trước khi đi ngủ.
Đầu tiên cô ấy luyện tập trong khi xem video của Giáo sư Shichida, rồi dần dần vợ tôi có thể thực hành mà không cần phải xem video nữa. Cô ấy thường xuyên luyện tập hàng đêm trước khi đi ngủ vì tin rằng hình ảnh được tái hiện khi não đang duy trì ở mức sóng theta có thể trở thành hiện thực. Tôi cũng luyện tập như vậy nhưng tôi thấy hoạt động này đạt hiệu quả nhất với tôi trước khi thức dậy
vào buổi sáng. Tôi có thể nhìn rất rõ bằng con mắt thứ ba của mình và cảm thấy thực sự rất hứng thú.
Tôi tưởng tượng hình ảnh mình đang nâng cốc chúc mừng các nhân viên ở một cửa hàng ăn yêu thích vào ngày mùng năm tháng Năm năm tới, chúc mừng những thành công mà chúng tôi đã đạt được hoặc tận hưởng cảnh đẹp nhìn từ phòng họp tầng ba của công ty tôi mới xây ba năm sau.
Vợ tôi tưởng tượng rằng vào ngày hai mươi tám tháng Mười, ngày kiểm tra sức khỏe lần hai của tôi, mảng tối màu trên phổi tôi đã biến mất và cô ấy đang nấu cơm gạo lứt đỏ để chúc mừng tôi.
Tôi có cuộc hẹn kiểm tra sức khỏe lần hai và một tuần sau đó tôi nhận được kết quả từ bác sĩ N. Khi bước vào phòng, tôi rất ngạc nhiên khi những điều ông nói đều trùng khớp với những điều mình đã hình dung trong suốt quá trình luyện tập tưởng tượng, rằng: “Đây không phải là ung thư. Không có vấn đề gì bất thường cả”. Thực sự là mảng tối màu từng ở đó giờ đã biến mất.
Ông Y đã thực hiện hoạt động tưởng tượng mỗi khi thức giấc. Thực hiện luyện tập kiên trì vào mỗi buổi sáng ngay khi thức dậy như ông Y, hoặc trước khi đi ngủ sẽ rất hiệu quả với những người vẫn chưa nhìn thấy được hình ảnh.
Tôi cũng nhận được một báo cáo từ bà M. N., một phụ nữ đã tham gia hội thảo của tôi ở Nagoya. Bà kể rằng đã sử dụng kỹ thuật tưởng tượng được hướng dẫn trong hội thảo để chữa bệnh ung thư tử cung của mình và khối u đã biến mất trong vòng hai đến ba tuần sau đó.
7. Tưởng tượng biến thành người tí hon
Đây là một vài trường hợp các em bé dễ dàng chữa các loại bệnh nhờ việc tưởng tượng mình biến thành người tí hon. Đầu tiên là bức thư của mẹ bé K. I., một bé đang theo học tại Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản:
Thưa Giáo sư Shichida, cảm ơn ông vì tình yêu và niềm hy vọng mà ông đã luôn mang tới cho chúng tôi.
Con gái tôi năm nay bốn tuổi, rất khỏe mạnh và thích đi học mẫu giáo. Tôi rất biết ơn khi được tận hưởng cuộc sống yên bình như thế này.
Kể từ khi sinh ra, con gái tôi đã phải chịu rất nhiều khổ sở vì thường xuyên bị dị ứng. Đến khi hai tuổi, con bé hầu như dị ứng với tất cả mọi loại thức ăn. Chế độ ăn chỉ là hạt kê, lúa mạch, một vài loại rau và một số ít loại cá. Mỗi ngày đều là một cuộc chiến đấu để chống lại chứng viêm da của con. Việc điều trị rơi vào bế tắc và thậm chí có lúc tôi còn tuyệt vọng và ghét con vì sự ốm yếu của nó. Đúng lúc đó, tôi tham gia khóa học của ông và nghe ông kể về việc chữa lành bệnh bằng hình ảnh và làm thế nào để nuôi dưỡng tinh thần của bọn trẻ.
Đầu tiên, tôi cảm thấy rất lúng túng nhưng đến khi kết thúc buổi hội thảo, trong tôi ngập tràn niềm hy vọng và cảm giác ấm áp. Tôi trở về nhà và nói chuyện với con để mong con tha thứ cho mình. “Mẹ xin lỗi con. Con mới là người phải chịu nhiều đau đớn nhất, vậy mà mẹ lúc nào cũng cáu gắt với con”. Tôi đã lặp đi lặp lại lời xin lỗi đó rất nhiều lần.
Con gái tôi, lúc đó được hai tuổi tám tháng, bắt đầu nức nở: “Đây không phải lỗi của mẹ, con xin lỗi, con xin lỗi mẹ”.
Tôi đã tự hứa rằng mình sẽ chữa khỏi bệnh cho con. Điều này cũng có nghĩa là cả hai mẹ con đều phải bắt đầu một giai đoạn nỗ lực rất lớn. Phản ứng của việc chấm dứt điều trị bằng Steroid khiến con tôi bùng phát chứng phát ban đỏ và làm cho toàn thân con bé đau đớn. Tôi ôm con thật chặt và luyện tập hít thở với con trong khi hướng dẫn con tưởng tượng. “Con đang đẩy ra hết những con vi khuẩn xấu xí qua miệng. Con đang hít vào nguồn năng lượng của vũ trụ thông qua mũi của mình và cơ thể con sẽ khỏe lại rất nhanh”.
Một năm đã trôi qua. Con bé bắt đầu bình phục và phần da đầu, mặt, cổ, bụng, lưng, tay và chân đã có dấu hiệu lành lại từng chút một. Con tôi bắt đầu có thể ăn được bánh mì, các loại rau, hải sản và đậu nành. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt của con ngày đầu tiên con ăn cơm. Con hào hứng nói: “Mẹ ơi, cơm ngon quá mẹ nhỉ!”.
Tôi liên tục kinh ngạc trước sức mạnh mà năng lực tưởng tượng mang lại. Con bé đã học được cách đu xà thành thục từ thanh này sang thanh khác. Trước khi học bài, chúng tôi đã luyện tập hoạt động tưởng tượng cùng nhau. Tôi nói: “Tất cả những từ vựng tiếng Anh sẽ dễ dàng đi vào đầu con” và kết quả là thật sự con bé có thể nhớ được mọi từ mới dù chỉ mới nghe có ba lần.
Tôi nhớ có lần mình bị đau răng khủng khiếp và con bé đã sử dụng năng lực tưởng tượng để chữa lành cho tôi. Trong suốt thời gian chữa cho con bệnh dị ứng, sức khỏe của tôi cũng bị giảm sút phần nào. Tôi mắc chứng đau bụng, đau lưng, và có lúc chỉ cần đứng lên, tôi cũng cảm thấy đau đớn. Thế nhưng, thật ngạc nhiên vì kết quả kiểm tra sức khỏe của tôi lại không phát hiện được điều gì bất thường. Vì con đã rất nỗ lực để chữa lành cho chính mình, tôi cũng tự hứa sẽ quyết tâm tự chữa bệnh bằng cách nghe và luyện tập hoạt động tưởng tượng thông qua thôi miên hàng ngày theo bài giảng của Giáo sư Shichida.
Mỗi ngày, tôi nằm nghiêng, sử dụng kỹ thuật hít thở sâu để đặt mình trong trạng thái hoàn toàn thư giãn. Tôi có thể nghe thấy âm thanh của bài giảng từ một nơi rất xa. Đầu và vai của tôi được thư giãn hoàn toàn và đột nhiên tôi thấy hình ảnh tôi đang “đi vào” trong cơ thể của chính mình.
“Ồ, đây là thực quản của tôi”. Tiếp đó tôi nhìn thấy dạ dày, khi đi đến tử cung và buồng trứng, tôi phát hiện thứ gì đó giống như những mẩu giấy màu hồng làm tắc vòi trứng. “À, lớp lót ở bên trong tử cung bị bong ra gây tắc vòi trứng, đây là lý do vì sao mình cảm thấy đau đớn”. Tôi nhẹ nhàng gỡ bỏ chúng và nghĩ “mình nên dùng nước để rửa sạch”. Ngay lúc đó tôi thấy trong tay mình xuất hiện một bình nước. Tôi dội nước lên và chúng trôi tuột đi như những mẩu khăn giấy.
Tôi quan sát cả quá trình một cách cẩn thận, giống như đang xem một bộ phim. Sau khi mở mắt tôi phải đi toilet năm lần liên tiếp, có lẽ vì tôi dùng khá nhiều nước để làm sạch trong quá trình tưởng tượng.
Buổi sáng tiếp theo, cơn đau ở bụng và ở phần sau lưng vốn hành hạ tôi hơn nửa năm qua giờ hoàn toàn biến mất. Cảm ơn ông rất nhiều, Giáo sư Shichida.
Lần đầu tiên khi nghe bài phát biểu của ông, tôi đã nhớ lại hình ảnh ngây thơ của một đứa trẻ và trái tim tôi tràn đầy cảm xúc ấm áp. Tôi không biết gia đình tôi giờ sẽ ra sao nếu như không gặp được ông.
Tôi biết giáo sư rất bận rộn nhưng mong ông dành chút thời gian chăm sóc cho mình, bởi ông sẽ còn mang rất nhiều hy vọng và tình yêu thương đến cho mọi người trên thế giới này.
Lá thư chia sẻ từ mẹ S. H., học sinh của lớp Tokuyama, Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản:
Vào tháng Mười, năm 1997, tôi nhận được tin của bố mẹ thông báo rằng bà ngoại – bà đã chín mươi tuổi – phải nhập viện do căn bệnh ung thư bàng quang và bác sĩ chẩn đoán bà sẽ không sống được đến hết năm nay. Các chị gái và tôi thậm chí đã chuẩn bị sắp xếp mọi thứ để lo tang lễ cho bà. Tôi sửa soạn đồ đạc để có thể sẵn sàng về nhà bất cứ lúc nào nhận được tin dữ.
Bỗng nhiên, tôi nhớ đến Giáo sư Shichida mô tả một bé ba tuổi ở Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản đã sử dụng phương pháp tưởng tượng “đi vào” trong cơ thể của bác mình để chữa lành căn bệnh nghiêm trọng cho bác dù người bác của cậu đang sống ở một nơi khác. Tôi tự hỏi liệu con tôi có làm được giống vậy không? Vào mùng sáu tháng Một, tôi đã nhờ con tưởng tượng mình biến thành người tí hon đi vào trong cơ thể của bà. Khi tôi hỏi có vấn đề gì xảy ra với bà vậy, con liền nói bà không thể ăn được, bà cũng không thể đi lại vì chân bà rất đau, và lưng của bà cũng đau nữa. Sau đó tôi bảo con hãy chữa cho bà khi vẫn đang là người tí hon như vậy.
Con trai tôi chỉ vào phần bên dưới của dạ dày và nói: “Chỗ này có màu sẫm đen mẹ ạ!”. Sau đó con chỉ vào phía bên phải: “Có một vết sưng ở đây và một chất màu xanh đang chảy vào trong đó”. Tôi nghĩ đây có thể là thuốc hoặc chất dinh dưỡng đang được truyền vào người bà.
Con chỉ vào một phần dạ dày và nói: “Có một vết cắt ở đây”. Tôi hỏi: “Thế chúng ta có thể làm gì với những chỗ bị đau hả con?”. Con trả lời có thể dùng xà phòng để rửa sạch. Sau đó cậu bé đã tưởng tượng chữa lành các vết sưng đỏ cho bà và dùng băng keo dán các vết cắt lại.
Khi tôi gọi điện hỏi thăm, ông ngoại cho hay: “Bà đã đỡ hơn nhiều rồi, giờ bà đang tập đi lại”. Tôi không thể thốt lên lời nào vì quá xúc động. Điều kỳ diệu đã xảy ra. Tôi đã hoàn toàn bị thuyết phục rằng con trai tôi đã thực sự chữa lành bệnh cho bà ngoại.
Những đứa trẻ tham gia các lớp học tại Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản đều được dạy cách làm thế nào để tưởng tượng mình biến thành người tí hon, cách đi vào cơ thể của chính chúng hoặc của người khác để chữa lành các vết thương. Chúng sở hữu những khả năng này một cách dễ dàng. Tôi chỉ cần nói nhẹ nhàng: “Hãy nhắm mắt và thư giãn. Con sẽ thấy mình trở nên nhỏ tí xíu. Khi con mở mắt ra, con có thể chuyển động thoải mái bên trong cơ thể của con hoặc cơ thể của người khác, con nhìn thấy những chỗ bị đau và con sẽ tìm cách để chữa lành chúng. Hãy chữa lành các vết thương đó đi nhé!”. Tất cả trẻ em được học phương pháp này đều có thể dễ dàng tưởng tượng để chữa lành các chứng bệnh.
Dưới đây là những câu chuyện về các bé nhỏ có khả năng dùng hình ảnh nhìn thấy được trong tâm trí để chữa lành bệnh.
Tôi bị đau lưng rất nặng và dự liệu rằng sẽ phải nằm trên giường bệnh suốt ba ngày liền, nhưng điều kỳ diệu đã đến với tôi, cô con gái bé bỏng đã dùng năng lực tưởng tượng để chữa dứt cơn đau cho tôi.
Vào buổi tối, khi con đang dần đi vào giấc ngủ, tôi thì thầm: “Lisa, con có thể tưởng tượng mình biến thành một người nhỏ xíu, đi vào miệng của mẹ, và tìm chỗ đau trên lưng mẹ để chữa lành nó được không?”. “Được mẹ ạ, con sẽ thử mẹ nhé!”. “Con có thấy chỗ bị đau không?” Con trả lời: “Có mẹ ạ, con đã chữa lành cho mẹ rồi đó!”. “Tốt lắm con yêu, bây giờ con hãy đi ra ngoài nào, ngủ ngon nhé con yêu.” “Mẹ cũng ngủ ngon nhé!”. Sau đó cô bé chìm vào giấc ngủ sâu.
Thật ngạc nhiên, cơn đau lưng khủng khiếp của tôi biến mất như thể nó chưa từng tồn tại. Điều này càng khiến tôi tin tưởng vào sức mạnh kỳ diệu của hoạt động tưởng tượng.
R.T., lớp học Itabashi
Một ngày khác, khi tôi đang cố gắng bế con gái bốn tuổi của mình thì bỗng cảm nhận một cơn đau dữ dội ở lưng và không thể đứng thẳng lên được. Tối hôm đó, con gái tôi nói: “Để con chữa cho mẹ nhé!”. Con bé nhắm mắt và vỗ nhẹ vào sống lưng tôi ba lần. Khi con gái tôi làm như vậy, lưng tôi bớt đau hẳn đi và tôi có thể đứng thẳng lưng lên.
Sau đó, con vỗ nhẹ thêm vài lần nữa vào lưng tôi và cơn đau hoàn toàn biến mất như thể tôi vừa được gây tê và tôi cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Con bé cũng làm như vậy để chữa cho bố khi biết bố bị đau lưng.
Một lần khác, con gái tôi bị cảm lạnh và sốt 38,2 độ C. Con bé còn bị thêm chứng đau dạ dày hành hạ nhưng tôi không thể đưa con đi khám vì lúc này phòng khám đã đóng cửa. Mặc dù tôi không chắc liệu con bé có thể chữa được cảm lạnh thông qua hoạt động tưởng tượng hay không, tôi vẫn quyết định để con thử. Tôi thì thầm với con hãy tưởng tượng các vi khuẩn gây cảm sốt đang bị tống ra khỏi miệng con. Thật kỳ lạ, chỉ mười phút sau, nhiệt độ cơ thể của con bé đã hạ và trở về chỉ số bình thường 36,7 độ C. Điều này thực sự ngoài sức tưởng tượng của tôi vì nếu dùng thuốc hạ sốt thì cũng phải mất đến nửa ngày để thuốc phát huy tác dụng.
Một lần tôi bị ngã và thâm tím tay. Tôi nhờ các bé trong lớp học Shichida tưởng tượng trở thành người tí hon để “đi vào” cơ thể chữa lành vết thương cho tôi. Sáng hôm sau, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy vết bầm tím khá lớn trên tay hôm qua đã hoàn toàn biến mất.
Tôi đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trước khả năng tưởng tượng của các bé khi được chứng kiến chúng chữa bệnh cảm lạnh cho một người bạn, chữa bệnh cho mẹ chúng hoặc một người bác đang trong tình trạng nguy kịch. Khoảng cách địa lý không còn là vấn đề nữa vì chúng không tạo nên sự khác biệt về kết quả trị liệu bằng phương pháp này.
Chữa lành bằng khả năng tưởng tượng thành một người tí hon là một trong những phương pháp chữa bệnh hiệu quả nhất trên thế giới. Bất kỳ đứa trẻ nào được dạy theo phương pháp giáo dục não phải đều có thể thực hiện phương pháp này rất nhanh chóng.
K. K., Lớp học Minamimori-machi
8. Các chức năng đặc biệt của não phải
Ngoài khả năng chữa lành thông qua tưởng tượng hình ảnh trực quan, não phải còn có những khả năng đặc biệt dưới đây:
1. Khả năng cộng hưởng
2. Khả năng tưởng tượng
3. Ghi nhớ lượng lớn thông tin với tốc độ cao
4. Tự động xử lý thông tin với tốc độ cao
Khả năng cộng hưởng cho phép não phải tiếp nhận các thông tin bên ngoài dưới dạng sóng.
Theo lý thuyết lượng tử được phát triển vào những năm 1920, các hình thức vật chất đều có tính chất sóng. Lý thuyết phân tử cũng đưa đến kết luận rằng các hạt cơ bản - thành tố tạo nên mọi hình thức vật chất – cũng tạo nên sóng và sở hữu các tính chất của sóng.
Mọi giác quan của chúng ta đều được tạo thành từ các tế bào cấu tạo nên cơ thể. Mỗi tế bào đơn lẻ lại có khả năng nhận và tiếp thu các kích thích bên ngoài dưới dạng những chuyển động sóng.
Một khi khái niệm này được chấp nhận, điều hiển nhiên là những khả năng phi thường mà các bé thể hiện đều do sự vận hành của các tế bào trong cơ thể, nơi mà mọi chuyển động của
sóng từ vũ trụ được tiếp nhận. Thông qua khả năng cộng hưởng của não phải, trẻ có thể vượt lên những rào cản của năm loại giác quan não trái để thu nhận những thông tin vượt không gian và thời gian.
Não phải chuyển đổi các chuyển động sóng nhận được thông qua khả năng cộng hưởng thành những hình ảnh. Bằng sự kết hợp giữa khả năng cộng hưởng và năng lực tưởng tượng, thậm chí một người khiếm thị vẫn có thể nhận biết được màu sắc, cảnh vật hay đọc được chữ. Tương tự, những người khiếm thính có thể nghe, hiểu và cùng trò chuyện. Có một thẩm phán mù tên là Tony Cothren làm việc tại tòa án Jefferson tại Jefferson, bang Alabama, nước Mỹ. Khi người làm chứng quên không hạ tay xuống sau khi nói lời thề, ông đã nhắc họ: “Xin hãy hạ tay xuống!”.
Rất nhiều người ngạc nhiên vì điều này nhưng ông giải thích rằng: “Dù tôi không thể nhìn thấy bằng mắt của mình, tôi vẫn nhìn thấy bằng hình ảnh”. Não phải của ông nhận được thông tin dưới dạng chuyển động của sóng và chuyển chúng thành hình ảnh, do vậy ông hoàn toàn có thể “nhìn” rõ như một người có thị lực bình thường.
Bé K bốn tuổi hiện đang tham dự lớp học Tennoji ở Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản. Bé bị tổn thương khả năng nghe nghiêm trọng và thường không thể nghe rõ. Tuy vậy, việc học trong lớp đã kích thích và phát triển các giác quan não phải của cậu bé mạnh đến nỗi cậu có thể nhận được những thông tin ở dạng sóng và chuyển chúng dưới dạng hình ảnh của âm thanh. Nhờ vậy, cậu có khả năng nghe bình thường như khi nghe bằng não trái. Cậu bé hoàn toàn không để tâm đến kết quả của những lần kiểm tra tại bệnh viện đã chỉ ra rằng thính giác của cậu đã bị tổn thương và khó phục hồi và vẫn theo đuổi việc học tại Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản.
Thầy giáo của cậu tại lớp học Tennoji, Naomi Tsuchihira đã viết bản báo cáo dưới đây:
K mới tròn bốn tuổi và cậu bé rất năng động. Cậu thường chia sẻ với tôi những điều đã xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Sau khi buổi học kết thúc, cậu thường kể chuyện và mô tả rất tỉ mỉ những điều mà cậu bé đã trải qua: “Thầy Tsuchihira, hôm qua bố đã đưa con đi chơi công viên đấy!”. Không ai nghe chúng tôi nói chuyện mà lại có thể tin rằng K là người đã được bác sĩ khuyên nên nằm viện để điều trị thính lực. Cậu vẫn thường trả lời rất nhanh những câu hỏi của tôi trong lớp học.
Lần đầu tiên khi K tham gia lớp học là khoảng hai năm về trước, mẹ cậu bé đã nhờ tôi tư vấn: “Con tôi nghe rất khó khăn và bác sĩ khuyên chúng tôi nên cho cháu làm phẫu thuật. Theo thầy chúng tôi nên làm gì?”.
Tôi đã giải thích cho mẹ cậu bé về việc luyện tập não phải, phân tích cho mẹ cậu hiểu là phương pháp này sẽ khiến cho cậu bé có thể nghe được và bà nên bắt đầu áp dụng phương pháp này ngay lập tức. Từ tuổi lên ba, cậu đã được dạy cách hình dung mình có thể biến thành người tí hon để đi vào cơ thể của mẹ và chữa lành những vết thương cho mẹ. Cậu rất hứng thú được chơi đùa trong thế giới hình ảnh đến nỗi cậu đã làm hoạt động này hàng tối trước khi đi ngủ, hoàn toàn quên mất sự thật rằng cậu gần như không thể nghe thấy gì.
Một lần cậu bé tưởng tượng mình đi vào cơ thể của mẹ, cậu nói với mẹ: “Có một em bé ở trong đó”. Cậu cũng dùng phương pháp này chữa bệnh cho mọi người xung quanh. Khi tôi bị cảm lạnh và sốt 39 độ C, cậu bé giúp tôi hạ sốt nhanh chóng đến mức khó tin.
Ở trường dạy bơi của K có một cậu bé khác cũng gặp vấn đề về thính giác. Lần đầu tiên chúng gặp nhau, ba mẹ của cậu bé kia vô cùng ngạc nhiên khi thấy K đang trò chuyện vì con của họ gần như không thể nói được bất cứ tiếng nào.
Khả năng sáng tạo của K phát triển rất tốt. Những bài thơ, đặc biệt là thơ haiku(4) của cậu thường được bình chọn trong các cuộc thi thơ dành cho trẻ em. Cậu bé giúp tôi nhận ra việc giáo dục phát triển não phải thực sự mang đến những kết quả tuyệt vời như thế nào.
(4) Thể thơ Haiku: Thể loại thơ Nhật Bản gồm mười bảy âm tiết, được chia thành ba dòng, lần lượt mỗi dòng có năm từ, bảy từ và năm từ, thường có nội dung mô tả hình ảnh thiên nhiên.
9. Năng lực tưởng tượng của trẻ nhỏ
Như các trường hợp đã được trình bày phía trên, trẻ có khả năng sử dụng não phải để chữa các loại bệnh. Chúng cũng có thể sử dụng các chức năng của não phải với rất nhiều mục đích khác nhau.
Năng lực tưởng tượng có sức mạnh khiến cho những điều xảy ra trong hiện thực chính xác và trùng khớp với những gì được hình dung trong tâm trí. Trong quá trình luyện tập những khả năng não phải, bước đầu tiên và cũng là bước quan trọng nhất là cần phải đánh thức năng lực tưởng tượng ở trẻ nhỏ.
Não trái hay còn gọi là “phần não thiên về ngôn ngữ” hoạt động thông qua ngôn ngữ trong khi não phải hay “phần não thiên về hình ảnh” lại hoạt động thông qua hình ảnh. Mỗi bán cầu não sử dụng các phương thức suy nghĩ khác nhau và các mạch kết nối cũng khác nhau. Một đứa trẻ được phát triển khả năng tưởng tượng thiên bẩm có thể sử dụng năng lực này theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn như trong các báo cáo dưới đây của lớp học Sapporo tại Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản.
Năng lực kỳ diệu của não phải được thể hiện bởi các bé nhỏ luôn khiến cho mọi người ngạc nhiên. Hãy để tôi mô tả một vài trường hợp ở lớp học tiểu học. Tôi bắt đầu công việc giảng dạy khá muộn.
Từ tháng Tư năm 1997, tôi phụ trách lớp Một và lớp có năm học sinh. Tôi rất thích được gặp và dạy các em hàng tuần.
Bốn tháng đã trôi qua và lũ trẻ liên tục chứng minh cho tôi thấy khả năng của não phải và sức mạnh tinh thần của chúng. Tôi rất biết ơn cuộc đời đã cho tôi gặp những đứa bé này.
Mục tiêu tháng Tư của tôi là giúp từng bé khơi mở được khả năng nhìn thấy hình ảnh tưởng tượng bằng não phải. Khi trẻ học cách tưởng tượng mình biến thành một chiếc đũa, cơ thể chúng cứng đơ như một thanh sắt và không thể uốn cong nổi, kể cả khi tôi thử gập bụng chúng xuống trong khi chúng đang nằm, đầu và chân tựa trên hai chiếc ghế và người treo ở giữa. Các bậc phụ huynh cũng vô cùng sửng sốt khi quan sát lớp học.
Sau đó, tôi sử dụng những gợi ý để giúp các bé hình dung cơ thể trở nên nhẹ nhàng và mỏng manh như vải bông hoặc các em có thể nhìn thấy màu sắc hoặc cảnh vật nào đó. Lúc này những đứa trẻ được tự do tưởng tượng hình ảnh tùy thích.
Sau mỗi buổi luyện tập, các bé đều nói chuyện rất hứng khởi và mô tả những gì chúng nhìn thấy. Vì tôi không thể nhớ hết tất cả nên tôi đã ghi chép lại câu chuyện của các bé bằng hình ảnh hoặc viết những câu chuyện đó ra.
Khi các bé bắt đầu học được cách chạm vào phần ý thức của não phải thông qua thiền tập và hít thở sâu, tôi dạy chúng cách sử dụng hình ảnh trong cuộc sống hàng ngày. Tôi làm những thẻ tranh có tên gọi là “Tiềm thức của siêu nhân” dựa trên cuốn sách “Cuộc nói chuyện của não phải” để minh họa cho các hình ảnh được sử dụng như thế nào.
Sau đó tôi để lũ trẻ tưởng tượng chúng trở thành những siêu nhân. Khi tôi hỏi chúng sẽ làm gì khi trở thành siêu nhân, câu trả lời của bọn trẻ rất phong phú: “Con sẽ bơi được năm mươi mét trong bể”, “Con sẽ đạt điểm cao trong bài kiểm tra ngoại ngữ”, hay “Con sẽ chữa khỏi các vết xây xước cho bạn con bằng sức mạnh siêu nhân của mình vì bạn con vừa bị ngã xe đạp”. Tôi kết thúc bài học với thông điệp rằng bất cứ điều gì mà các con tưởng tượng sẽ biến thành sự thật và trước khi bắt đầu thực hiện điều gì đó, con hãy luôn tưởng tượng rằng mình đã hoàn thành nó thật tốt đẹp.
Vài ngày sau đó, tôi nghe được một tin tuyệt vời rằng bé A, vốn nhảy dây rất kém, giờ đã có thể nhảy được rất tốt. Ở trường tiểu học của cậu, mọi học sinh đều luyện tập nhảy để chuẩn bị cho một kỳ thi đặc biệt. Trong cuộc thi này, tất cả những thí sinh bắt đầu nhảy dây cùng một lúc và ai mắc lỗi trước sẽ lần lượt bị loại. A chỉ nhảy qua dây được mười lần trước khi mắc chân và cậu luôn là người xếp thứ hai từ dưới lên. Khi cậu bé học về cách sử dụng hình ảnh ở lớp học Shichida, cậu bé đã tưởng tượng hình ảnh mình thành công trước khi bắt đầu nhảy và kết quả thật bất ngờ: cậu đã về đích thứ hai. Dù có kết quả không tốt trong lần thi đầu, nhưng lần này cậu đã có một sự tiến bộ vượt bậc khi nhảy thành công đến cả trăm lần mà không bị vướng chân. Tôi đã nhìn thấy nụ cười rạng rỡ và gương mặt tràn ngập hạnh phúc của A và mẹ cậu bé khi họ kể với tôi.
Nhờ có hoạt động tưởng tượng, trẻ cũng phát triển được những năng lực ghi nhớ tuyệt vời. Hãy để tôi giới thiệu một chương trong bài học “Vẽ tranh” có sử dụng các thẻ luyện tập hoạt động tưởng tượng.
Một cậu bé nhìn chăm chú vào bức tranh trong lớp học trong một phút và sau đó vẽ lại bức tranh đó trên một tờ giấy trắng. Một ngày nọ, B chỉ nhìn tranh trong vòng mười đến mười lăm giây và nói rằng cậu bé đã nhớ được bức tranh đó. Bức tranh vẽ một chú chó đang quay về bên trái. Tôi tự nói với mình: “Chắc là cậu bé chỉ đùa thôi, có lẽ cậu không thích hoạt động này”. Tôi kiểm tra với bé vài lần: “Thật chứ, con đã nhớ được rồi à? Con có vẽ lại nó được không?”. Cuối cùng, tôi đưa cho cậu bé một tờ giấy trắng. B nhìn chăm chú vào tờ giấy trắng và bắt đầu vẽ các chấm từ phía bên phải. Trong khi tôi ngắm nhìn, các chấm dần biến thành bốn chân của con chó, sau đó đến đầu của chú chó, và đến lưng giống như cậu bé đang vẽ một bức tranh con chó ngược theo chiều kim đồng hồ. Cậu vẽ như thể cậu nhìn thấy bức tranh trên một tờ giấy trắng và chỉ đơn giản là vẽ theo nó. Tôi cảm thấy hối hận vì đã nghi ngờ khả năng của cậu bé và tự nhủ rằng sẽ không bao giờ làm như vậy nữa.
Tôi cũng bắt đầu luyện tập theo chương trình “Khơi gợi năng lực tưởng tượng hình ảnh”, các bài tập “Ghi nhớ một nghìn bức tranh”. Khi chúng tôi bắt đầu chương trình, các bé chỉ có thể nhớ khoảng ba mươi tranh một lần. Thời gian trôi qua, lũ trẻ không ngừng tiến bộ và giờ đây chúng có thể ghi nhớ lên đến năm mươi bức tranh mỗi lần.
Một điều kỳ diệu nữa về khả năng của trẻ là chúng có thể nhớ được hoàn hảo thứ tự các bức tranh trong bảng chỉ bằng cách nhìn một lần khi nghe một câu chuyện kết nối các bức tranh. Khi tái hiện trí nhớ để sắp xếp lại bảng tranh đó, trẻ dễ dàng chọn và đặt thẻ mà không nhất thiết lần lượt theo thứ tự câu chuyện vì chúng có thể nhớ chính xác bức tranh nào ở đâu. Với trí nhớ tệ của mình, tôi chỉ có thể nhớ được vài tranh theo thứ tự bắt đầu từ đỉnh góc trên bên trái của bảng tranh.
Hãy để tôi kể về T, một cậu học sinh lớp Một. T có khả năng tưởng tượng mình trở thành người tí hon đi vào bên trong cơ thể người khác và chữa lành những phần bị thương tổn. Khi bố của T nhập viện, dù đã dùng thuốc giảm đau nhưng ông không thể ngủ được vì
cơn đau khủng khiếp luôn khiến ông khó chịu. T quyết định truyền cho ông năng lượng dù cậu đang ở nhà. Cậu bé tưởng tượng mình biến thành một người tí hon và đi vào cơ thể của bố. Cậu nhìn thấy những vùng khỏe mạnh có màu xanh và những vùng bị đau trong cơ thể có màu da cam. Buổi sáng hôm sau, khi hai mẹ con nói chuyện với bố cậu qua điện thoại, ông nói đã có thể ngủ ngon vì cơn đau tối qua hoàn toàn biến mất.
Báo cáo trên đây được gửi từ một giáo viên phụ trách lớp học Sapporo thuộc Viện Giáo dục Trẻ em Shichida Nhật Bản.
Như đã trình bày ở trên, thông qua luyện tập hoạt động tưởng tượng hình ảnh, trẻ có thể khơi gợi được năng lực tưởng tượng của mình và sử dụng chúng một cách tự do.
Chương 2
PHÁT HUY NĂNG LỰC TƯỞNG TƯỢNG
1. Khả năng trực giác bắt nguồn từ hình ảnh
B
ây giờ chắc các bạn cũng đã quen với sự thật là “bán cầu não trái là não của ngôn ngữ và bán cầu não phải là não của hình ảnh”. Chúng ta đều biết rằng bán cầu não phải
vận hành được nhờ các hình ảnh. Nhưng những hình ảnh đó hoạt động như thế nào? Sự thật là chính các hình ảnh này tạo ra cảm giác cho con người. Người ta cũng có thể nói rằng những hình ảnh đó là tiến trình tư duy thông qua các giác quan. Hình ảnh là cây cầu trung gian kết nối nhận thức, cảm xúc với cơ thể con người. Sự tưởng tượng (tức là khả năng tạo ra hình ảnh) có ảnh hưởng lớn tới cơ thể chúng ta theo nhiều cấp độ khác nhau. Trong thể thao, người ta thấy rằng sự dẻo dai trong cơ bắp, huyết áp và sóng não của các vận động viên chuyên nghiệp có sự thay đổi tích cực rõ rệt khi họ được thực hành thêm các bài tập về tưởng tượng và các bài tập rèn luyện tinh thần.
Ngôn ngữ vốn thuộc về não trái chỉ có ảnh hưởng nhỏ tới cơ thể. Trong khi đó, hình ảnh lại có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các tế bào, các mô, các cơ quan trong cơ thể và kích thích sự thay đổi của toàn bộ cơ thể. Lý do là vì hình ảnh đã sử dụng một mạch thần kinh riêng biệt, khác với mạch thần kinh liên quan tới ngôn ngữ.
Trong khi mạch thần kinh truyền tải ngôn ngữ chỉ có thể tác động lên tầng ý thức bề nổi thì kênh thông tin hình ảnh lại tác động mạnh mẽ đến những tầng sâu bên dưới tầng ý thức hay còn gọi là tiềm thức của con người. Nếu như phần ý thức chỉ gây
ảnh hưởng không đáng kể lên cơ thể con người thì phần tiềm thức lại có khả năng làm chuyển hóa toàn bộ cơ thể nhờ hiện thực hóa ý nghĩ của con người. Hoạt động tưởng tượng của não phải giúp phát huy được sức mạnh của tiềm thức bên trong con người một cách hiệu quả.
2. Hình ảnh hoạt động như thế nào?
Cũng như ngôn ngữ, hình ảnh là phương tiện để truyền tải thông tin.
Ngôn ngữ đóng vai trò là kênh giao tiếp của não trái trong khi hình ảnh là kênh thông tin của não phải.
Ở đây, chúng ta cần phải hiểu được sự vận hành của các hình ảnh trong não phải. Nếu như não trái sản sinh ra ngôn ngữ thì não phải lại có khả năng tạo ra hình ảnh. Các hình ảnh này đều sinh động và sắc nét, tuy nhiên, khi ở trạng thái ý thức thông thường, não trái luôn chiếm ưu thế hoạt động nên những hình ảnh đó khó có thể nhìn thấy được.
Con người có hai dạng ý thức: ý thức bị chi phối bởi não trái và ý thức bị chi phối bởi não phải. Khi con người ở trong trạng thái ý thức thông thường, não trái luôn chiếm ưu thế kiểm soát. Tuy nhiên, thông qua những hoạt động như thiền tập, hít thở sâu, chúng ta có thể thâm nhập vào vùng ý thức của não phải, và khi đó, các hình ảnh sẽ hiện ra rõ nét.
Trong bán cầu não phải luôn có những hình ảnh chuyển động không ngừng. Những người thường xuyên sử dụng phần ý thức của não phải có thể nhìn thấy những hình ảnh này rất rõ ràng bất cứ khi nào họ muốn và biến chúng thành hiện thực. Chính vì vậy, khi não phải được kích hoạt sau một quá trình rèn luyện, họ có thể đạt tới những khả năng đáng kinh ngạc.
Những năng lực này xuất phát từ vùng câm (thùy trán) của não phải và có thể được kích hoạt bằng cách luyện tập. Theo khoa
học giải phẫu thần kinh, vùng dưới đồi não, hay còn gọi là trung tâm của hệ thần kinh thực vật, được kết nối với thùy trán thông qua nhân lưng bên đồi thị. Thùy trán tác động đến hệ viền và vùng dưới đồi não (vốn đóng vai trò cốt yếu trong hoạt động cảm xúc) thông qua nội tiết tố. Và nội tiết tố lại được kích hoạt nhờ sóng não. Khi tần số sóng não ở mức dưới 10 Hz, các nội tiết tố (kích thích phần ý thức của não phải) tiết ra, cho phép chúng ta nhìn thấy các hình ảnh. Bởi vậy, ý thức của não phải điều khiển thông tin dạng hình ảnh không nhờ xung điện mà bằng nội tiết tố. Lúc này, tất cả những suy nghĩ, tinh thần, cảm xúc và trạng thái sinh lý học của con người đều được chuyển thành hình ảnh. Chúng nằm dưới sự điều khiển của phần ý thức não phải.
Quá trình rèn luyện não phải bắt đầu từ các bài tập thiền. Thiền tập giúp con người vượt qua vùng ý thức thông thường để tiếp cận vùng ý thức đặc biệt hơn – vùng ý thức của não phải.
Dưới đây là các bước để rèn luyện năng lực tưởng tượng của não phải:
1. Thiền (nhắm mắt, thả lỏng cơ thể trong thời gian một phút) 2. Hít thở sâu (hít thở chậm rãi bằng bụng ba lần) 3. Gợi ý tích cực (dùng ngôn từ tích cực để dẫn dắt người tập)
4. Tưởng tượng (hình dung sống động về điều sẽ xảy ra trong tương lai)
Bằng các bước trên, chúng ta có thể hiện thực hóa những hình ảnh tưởng tượng được như hình dung bệnh tật được chữa lành và cơ thể đang dần hồi phục. Năng lực tưởng tượng của não phải không bị giới hạn và nhờ có năng lực này, con người có thể chạm đến nguồn năng lượng trong vũ trụ. Bởi vậy, tầm ảnh hưởng của năng lực tưởng tượng không chỉ đối với người trực tiếp thực hiện hoạt động tưởng tượng, mà còn có khả năng tác
động đến những người xung quanh. Năng lực này không những được dùng để chữa bệnh mà còn có thể giúp người tập đạt được thành tích cao trong các hoạt động thể thao và nghệ thuật. Một đứa trẻ thường xuyên về cuối cùng trong các cuộc thi điền kinh có thể bất ngờ vươn lên vị trí dẫn đầu chỉ bằng việc tưởng tượng hình ảnh sống động của bản thân đang chạy về nhất.
Khả năng này được kích hoạt thông qua việc kích thích “vùng câm” của não phải, một vùng não với nhiều chức năng bí ẩn chưa từng được biết đến trước đây. Nếu như với người lớn, hoạt động tưởng tượng rất khó thực hiện thì với trẻ em, việc này lại rất dễ dàng. Các em học được cách sử dụng và thao tác hình ảnh khá đơn giản vì ở lứa tuổi càng nhỏ, não phải càng chiếm ưu thế. Phát hiện này đã làm thay đổi hoàn toàn nhận thức về khả năng tiềm ẩn của con người và qua đó thay đổi quan niệm của chúng ta về giáo dục.
Trước tiên, chúng ta hãy xem việc đánh thức khả năng tưởng tượng của não phải có thể thay đổi khả năng học hỏi của trẻ như thế nào. Dưới đây là báo cáo của Kana Ohira, một giáo viên phụ trách lớp học Kasuga của Viện Giáo dục Trẻ em Shichida ở Kyushu. Báo cáo này trình bày những thay đổi đáng kinh ngạc của các học sinh nhờ hoạt động tưởng tượng.
3. Những đứa trẻ hiếu động đã cải thiện được khả năng tập trung
Tôi đã áp dụng cho học sinh trong lớp phương pháp tưởng tượng tôi được học trong khóa đào tạo dành cho giáo viên. A học cùng lớp với các bé trong độ tuổi từ năm đến sáu tuổi. Cậu bé không có khả năng tập trung, thường ra khỏi chỗ vào giữa giờ học để đi vệ sinh hoặc ra khỏi lớp vì lý do khát nước. Không chỉ riêng cậu bé mà các bé khác trong lớp cũng rất hiếu động. Tuy nhiên, A có tiềm năng rất lớn và thể hiện khả năng ghi nhớ tốt. Cậu bé có thể nhớ được các bài thơ hoặc những thứ mà cậu thích ngay lập tức. Thế nhưng tâm trạng của cậu lại rất thất thường
và tôi đã thử khá nhiều cách để giúp cậu thư giãn và hào hứng với bài học.
Trước khi hoạt động tưởng tượng được thực hiện thành công, tôi đã từng băn khoăn tự hỏi liệu có cách nào để trong một giờ học năm mươi lăm phút, tôi có thể giúp cả lớp tập trung vào bài học dù chỉ là trong vài phút không. Và rồi tôi quyết định sẽ thử bài tập tưởng tượng “Cây gậy” mà tôi đã được học.
Tôi gõ nhẹ vào từng học sinh và nói: “Con là một cây gậy”, khuyến khích các bé căng cứng người lên giống như một cây gậy thật. Sau đó tôi bảo rằng mẹ chúng sẽ nhặt những cây gậy đó lên và mang đi. Những đứa trẻ căng cứng cơ thể lên và khi đó, rất dễ dàng nhấc chúng lên như nhấc một mảnh gỗ thật.
Từ hôm đó trở đi, mỗi khi tôi bước vào lớp, A đều chạy theo và nói: “Hôm nay con muốn tưởng tượng làm cây gậy nữa”. Bây giờ A đã học được cách thư giãn và điềm tĩnh hơn, cậu bé cứ như biến thành một con người khác vậy. Cậu tham gia các hoạt động rất hào hứng, không hề tỏ ra chán nản hay hiếu động quá mức. Trước đây A thường hay bồn chồn và ngọ nguậy mỗi khi đến hoạt động tráo thẻ, nhưng bây giờ cậu bé rất chăm chú xem thẻ với ý thức hoàn toàn khác. Cậu thường hào hứng rủ mẹ làm các phép tính cộng. Toán học đã trở thành một trong những môn học cậu thích nhất.
Tất nhiên, trước đây A vốn đã có những khả năng này nhưng chúng chưa có cơ hội được bộc lộ. Giờ đây cậu đang thể hiện những tiến bộ vượt bậc và đặc biệt trong hoạt động kể chuyện, cậu luôn là người đứng đầu lớp.
Thế nhưng, người thay đổi nhiều nhất lại là mẹ của cậu bé. Có lẽ vì bà đã có những trải nghiệm thực sự về hiệu quả mà phương pháp Shichida mang lại nên bà rất tin tưởng các giáo viên. Nhờ đó, chúng tôi đã biến giờ học trở thành mối liên kết tương tác ba bên rất tốt đẹp.
Lũ trẻ rất thích được làm bài tập tưởng tượng tái hiện những trải nghiệm về khoảng thời gian khi còn nằm trong bụng mẹ. Các bé liên tục muốn tôi cho chơi lại hoạt động này. Ngay cả những bé trai hiếu
động nhất cũng trông giống hệt một thai nhi chưa chào đời khi các bé nằm cuộn tròn lại trong tư thế của một bào thai. Điều đó khiến tôi phải tự hỏi không biết lũ trẻ đã nhìn thấy hình ảnh đó ở đâu. Tiếp đến các bà mẹ nói chuyện với chúng nhẹ nhàng và khích lệ rằng con sẽ chào đời thật khỏe mạnh, thế rồi những đứa trẻ cựa mình, mở to đôi mắt sáng lấp lánh cứ như thể chúng thực sự vừa mới chào đời.
Sau đó, tôi nói với bọn trẻ: “Cô sẽ đếm đến năm và các con sẽ đều lại là các bé nhỏ năm tuổi nhé”, tất cả đều ngoan ngoãn quay trở lại bàn học với một vẻ mặt hết sức dễ thương. Khi những đứa trẻ được trở lại trong bụng mẹ thông qua bài tập tưởng tượng, chúng sẽ hồi tưởng lại thời khắc chào đời đáng nhớ đó và tôi tin rằng tình mẫu tử thiêng liêng giữa mẹ và con sẽ ngày càng bền chặt.
Các kết quả đánh giá năng lực trí tuệ sau đó đã cho thấy tất cả các em học sinh này đều nằm trong số bảy phần trăm học sinh thuộc tốp đầu, điều đó một lần nữa cho thấy hoạt động tưởng tượng mang lại hiệu quả tốt đẹp như thế nào.
4. Hoạt động tưởng tượng giúp nâng cao khả năng văn học và nghệ thuật
Những đứa trẻ được hướng dẫn khai mở khả năng của não phải thông qua hoạt động tưởng tượng đều sáng tác nên các tác phẩm nghệ thuật rất tinh tế khi chúng vẽ hoặc viết lại những điều đã nhìn thấy.
Tiến sĩ Vladimir Raikov thuộc Trung tâm Nghiên cứu Y tế dự phòng Quốc gia tại Moscow đã tiến hành nghiên cứu về tác động của việc kích thích vùng não chưa phát triển bằng thuật thôi miên. Ông thử nghiệm bằng cách nói với người tham gia rằng họ là Van Gogh và có khả năng sáng tác những bức họa tuyệt đẹp. Sau đó, ông yêu cầu họ hãy vẽ một bức tranh. Ban đầu, những tác phẩm của họ còn khá sơ sài nhưng đến buổi thứ
mười, trình độ vẽ tranh của họ đã tương đương với các họa sĩ chuyên nghiệp.
Đó cũng là cách mà Katia Gortbeeva, một nhân viên kỹ thuật phim ảnh hai mươi bảy tuổi ở Liên Xô (cũ) đã áp dụng để trở thành một họa sĩ hàng đầu. Tiến sĩ Raikov nói với cô “Bạn chính là Rembrandt”, và yêu cầu cô vẽ lại bức tranh “Người gác đêm”. Ở lần thử thứ mười, cô đã vẽ được một bản sao hoàn hảo. Tiến sĩ Raikov được biết đến là người đã đào tạo thành công khoảng bốn trăm họa sĩ, nhà vô địch thể thao, nhà sáng chế và nhà thiết kế theo cách thức này.
Dưới đây là bản báo cáo từ một giáo viên tiểu học kể về những câu chuyện mà các học sinh của cô đã sáng tạo ra thông qua hoạt động tưởng tượng.
5. Sáng tạo những câu chuyện giàu hình ảnh
Tôi bắt đầu dạy lớp Hai vào tháng Tư và bây giờ tôi đang bắt đầu thực hiện luyện tập hoạt động tưởng tượng cho lũ trẻ. Tôi dành năm đến mười phút mỗi sáng để dẫn dắt các em bước vào bài tập thiền và yêu cầu các em kể lại cho tôi nghe những gì đã nhìn thấy hoặc cảm thấy. Khoảng hai tuần sau, đã có ba mươi sáu trong tổng số ba mươi tám em bắt đầu nhìn thấy những hình ảnh rõ nét chuyển động. Sau đó, hai em còn lại thỉnh thoảng cũng nhìn thấy được những hình ảnh như vậy. Khi đã đạt được những kết quả rõ rệt, tôi lập tức để chúng sử dụng những hình ảnh đó trong giờ học ngôn ngữ, thông qua hoạt động kể chuyện.
Tôi đã sử dụng các học liệu dạy ngôn ngữ cho lớp Hai có tên là “Tôi kể chuyện” (Hikarimura). Tôi giúp các em thỏa sức sáng tạo những câu chuyện của riêng chúng. Mặc dù những bức tranh trong sách giáo khoa là cơ sở cho chúng tưởng tượng nên những hình ảnh và nội dung câu chuyện, nhưng trong đầu chúng còn hiện ra các hình ảnh chuyển động và cả những thay đổi của cảnh vật xung quanh mà sách không hề mô tả. Từ các hình ảnh có được, các em bắt đầu
viết thành những câu chuyện. Câu chuyện các em viết rất tươi sáng, đầy hy vọng, thể hiện tình cảm yêu thương của các em dành cho thiên nhiên và con người. Các em thường miêu tả cảnh biển cả, núi non, sông ngòi, những cánh đồng, khu rừng, hoặc cảnh đi tìm kho báu và chia sẻ kho báu đó với mọi người.
Một giáo viên đến dự giờ lớp học của tôi nhận xét: “Đã đến lúc chúng ta cần đưa hoạt động tưởng tượng vào các giờ học khác trong trường. Điều này sẽ giúp chấm dứt việc lớp học bị phân tán thành các nhóm riêng rẽ vì các em luôn biết thấu hiểu người khác bằng cả trái tim”.
Tôi xin chia sẻ thêm về một trải nghiệm nữa của mình. Tôi dạy một em học sinh bị hội chứng sợ nước. Cậu bé đó rất sợ bể bơi và tôi đã hướng dẫn cậu thường xuyên hình dung trong đầu hình ảnh cậu đi đến bể bơi và bơi rất hào hứng. Từ đó trở đi, cậu bé không những dám bước xuống bể bơi mà còn bắt đầu học bơi trước sự kinh ngạc và vui mừng của bố mẹ cậu.
Tôi cũng giúp một số học sinh có văn phong nghèo nàn cải thiện khả năng diễn đạt của mình bằng cách dẫn dắt các em tưởng tượng hình ảnh mình đang viết văn rất trôi chảy, súc tích trước khi đặt bút viết thực sự. Kết quả là kỹ năng viết văn đã được cải thiện rõ rệt cứ như thể các em đã biến thành những đứa trẻ hoàn toàn khác.
Tôi mong rằng tất cả các giáo viên tiểu học đều có thể áp dụng được hoạt động tưởng tượng này trong lớp học. Nó vun đắp và làm phong phú thêm tâm hồn của trẻ, biến lớp học thành một môi trường tích cực nuôi dưỡng tài năng của các em.
6. Não trái kìm hãm chức năng của não phải
Sự vận hành của não trái chính là yếu tố cản trở những năng lực tiềm tàng của não phải.
Những kích thích từ môi trường bên ngoài thường được tiếp nhận bằng năm cơ quan cảm giác: mắt, tai, mũi, miệng và da, và
thông tin từ các giác quan này sẽ được dẫn truyền đến não trái. Tuy nhiên, nếu chỉ tiếp nhận các kích thích đầu vào bằng não trái thì chỉ có não trái mới được kích hoạt để xử lý thông tin và đưa ra kết quả. Để kích hoạt được não phải, cần phải tạm gác lại các hoạt động thiên về não trái để xây dựng một kênh dẫn truyền khác đến não phải.
Việc tiếp thu các tác nhân kích thích đến não phải đòi hỏi quá trình tác động vào thùy trán, hay còn gọi là “vùng câm” - phần não vốn chưa được các nhà khoa học tìm hiểu đầy đủ và chính xác về chúng. Hình thái thông tin mà não phải tiếp nhận khác với hình thái thông tin tiếp nhận thông qua não trái. Não phải nhận thông tin dưới dạng chuyển động sóng thông qua các tế bào và hoạt động độc lập với năm cơ quan cảm giác của não trái. Chuyển động sóng là chìa khóa để phát huy những khả năng tiềm ẩn bên trong của não phải.
Não trái hoạt động dựa trên các nguyên tắc vật lý cổ điển trong khi não phải hoạt động dựa trên các nguyên lý về vật lý lượng tử. Cần nắm rõ điểm mấu chốt này để tránh gây ra những tranh cãi vô ích và chỉ càng làm cản trở quá trình phát triển những khả năng của não phải. Khi đã hiểu được điều này, tất cả những gì bạn cần làm đơn giản là khai mở các giác quan của não phải.
7. Nâng cao khả năng nhận biết chuyển động sóng
Muốn khai mở các giác quan não phải đòi hỏi quá trình rèn luyện cảm giác và nắm bắt được các chuyển động sóng. Chuyển động sóng là một loại ánh sáng, mà con người cần có quá trình rèn luyện để nhìn thấy loại ánh sáng đó. Con người là một thực thể có ý thức và bản chất của con người là ánh sáng. Bản chất của vũ trụ cũng là ánh sáng, do vậy, bản chất của con người, vốn tồn tại hợp nhất với vũ trụ, cũng là ánh sáng.
Năng lượng của sự sống chính là yếu tố thúc đẩy con người, do đó, năng lượng sống cũng chính là ánh sáng. Bằng việc tiếp
nhận với ánh sáng, chúng ta có thể đánh thức vùng não phải chưa được biết tới. Nói cách khác, nếu con người nhìn nhận cơ thể mình là một nguồn ánh sáng và tập trung rèn luyện để nhìn thấy ánh sáng đó, con người có thể kích hoạt những tiềm năng ẩn chứa bên trong não phải.
Một phương pháp thường được sử dụng để kích hoạt khả năng này là “Soft Focusing” (Chọn tiêu điểm linh hoạt). Phương pháp này không đòi hỏi người nhìn tập trung vào vật mà mình muốn thấy mà là tập trung vào một điểm ở gần ngay phía trước hoặc phía sau vật. Chẳng hạn, hãy giơ một ngón tay cái lên trước mặt và nhìn tập trung vào một điểm ở ngay phía trước hoặc ngay phía sau ngón cái, tiếp tục nhìn chăm chú vào ngón tay cái cho đến khi ý thức trở nên trống rỗng và mắt chỉ nên hé mở một nửa.
Khi làm như vậy, người thực hiện sẽ nhìn thấy một vầng hào quang ánh sáng xung quanh đầu ngón cái. Bình thường thì ánh sáng này không thể nhìn thấy được. Khi vầng hào quang này xuất hiện có nghĩa là các giác quan của não phải đã được kích hoạt nhằm giúp con người nhận biết được những thứ vô hình với mắt thường, và khơi dậy khả năng cảm nhận bằng giác quan thứ sáu hay còn gọi là khả năng trực giác – một khả năng tự nhiên của não phải.
Sau khi dự thính bài giảng của tôi, cô S đến từ Chiba đã bắt đầu luyện tập bài tập “Chọn tiêu điểm linh hoạt” với mọi người trong gia đình. Tất cả mọi người trong gia đình cô đều bắt đầu nhìn thấy ánh hào quang và dần dần có thể thoải mái sử dụng những khả năng tiềm ẩn của não phải. Một số vị thầy tâm linh còn cho rằng đây là cách duy nhất để giác ngộ. Bạn có muốn thử không?
8. Bài tập tưởng tượng ánh sáng
Trước tiên, hãy đưa trẻ vào bài tập thiền và hít thở sâu. Sau đó yêu cầu chúng nhìn vào vầng hào quang của một bông hoa trước mặt. Tất cả những đứa trẻ sẽ nói rằng chúng nhìn thấy vầng hào quang này. Thỉnh thoảng bạn hãy thử yêu cầu chúng nhìn vào vầng hào quang ở bàn tay mình và chúng sẽ nhìn thấy được. Khả năng nhìn thấy vầng hào quang (vốn không thể quan sát được bằng mắt thường) cho thấy trẻ đã kích hoạt được những giác quan tiềm ẩn của não phải.
Các giác quan của não phải còn được coi là giác quan thứ sáu và khả năng nhìn thấy những thứ vô hình như trên đã cho thấy rằng chức năng này của não phải thực sự tồn tại.
Khi các em đạt đến giai đoạn này, hãy bắt đầu hướng dẫn các em luyện tập thực hành bài tập hình dung ánh sáng như dưới đây.
Bằng cách thực hành bài tập chọn tiêu điểm linh hoạt (không tập trung trực tiếp vào vật mà vào một điểm ở trước hoặc sau vật), bạn có thể tự luyện tập cho bản thân mình nhìn thấy hào quang của bàn tay hoặc của một bông hoa.
Trước tiên, dẫn dắt các em vào bài tập thiền và hít thở sâu. Sau đó, yêu cầu trẻ nhìn chăm chú vào ánh sáng của một ngôi sao và nói với chúng rằng ánh sáng này sẽ đi vào cơ thể qua con mắt thứ ba, qua đó đánh thức tuyến tùng. Khi được đánh thức, tuyến tùng sẽ tỏa ra một tia sáng rực rỡ sau mí mắt của chúng. Hãy giải thích với trẻ rằng chúng sẽ nhìn thấy nối tiếp sau tia sáng rực rỡ đó là những tia sáng với nhiều màu sắc khác nhau như đỏ, vàng, xanh dương. Đừng quên nhắn nhủ với các bé: “Từ giờ trở đi, các con sẽ dễ dàng nhìn thấy các hình ảnh với những ánh sáng rực rỡ nhiều màu sắc”.
Chương 3
KHẢ NĂNG TRỰC GIÁC, NĂNG LỰC CƠ BẢN CỦA NÃO PHẢI
1. Hoạt động của não phải vẫn còn là điều bí ẩn K
hoa học nghiên cứu về não phải vẫn còn ở thời kỳ sơ khai. Đến tận năm 1981, lần đầu tiên khái niệm não phải mới thu hút được sự chú ý của dư luận khi tiến sĩ Roger
Sperry, một nhà thần kinh học ở Viện công nghệ California được trao giải thưởng Nobel cho công trình nghiên cứu về não phải.
Cho đến trước thời điểm đó, con người vẫn nghĩ rằng giữa não trái và não phải không có nhiều sự khác biệt. Ngày nay, hiểu biết của chúng ta về cách vận hành của não phải vẫn còn hạn chế và ngay cả các chuyên gia trong ngành cũng chưa thực sự hiểu rõ những chức năng mà não phải làm được.
Có thể điều này mãi mãi sẽ là một ẩn số. Một số người tin rằng khám phá những bí ẩn của bộ não con người còn quan trọng hơn là tìm hiểu những lĩnh vực xa vời như thiên văn. Não phải ẩn chứa những năng lực kỳ diệu và chắc chắn sẽ còn rất lâu nữa con người mới có thể khám phá và lý giải hết được.
Những điều được trình bày trong chương này là quan điểm cá nhân của tôi về chức năng của não phải, những chức năng vốn chưa được nhiều người biết đến.
Khoa học nói chung và vật lý học nói riêng thường chú trọng nghiên cứu về năm cơ quan cảm giác. Những kiến thức vượt ra ngoài phạm vi cảm nhận của năm giác quan thường bị coi là
không phù hợp và bị bỏ qua trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, các chức năng của não phải không sử dụng các cơ quan cảm giác của não trái, vì giác quan của não phải thuộc về “giác quan thứ sáu”, bao gồm trực cảm và linh cảm, vốn được coi là những hiện tượng thần bí vượt ra ngoài hiểu biết thông thường. Cho nên có thể nói phần bí ẩn nhất của não bộ nằm ở bán cầu não phải.
2. Năm giác quan của não phải
Bán cầu não trái là phần não của ý thức và chỉ nhận biết được những tín hiệu rời rạc, trong khi bán cầu não phải là phần não của vô thức và nhận biết được tín hiệu liên tục dạng sóng. Cũng như não trái có năm giác quan ý thức, não phải cũng có năm giác quan tiềm thức. Tuy nhiên, khái niệm này còn rất mới mẻ và chưa được hiểu đúng nên những giác quan của não phải vẫn bị xếp vào lĩnh vực ngoại cảm và siêu năng lực mà không hề có một lý giải khoa học đầy đủ nào.
Năm giác quan của não trái bao gồm nhìn (thị giác), nghe (thính giác), chạm (xúc giác), nếm (vị giác) và ngửi (khứu giác). Não phải cũng có những giác quan ở chiều thứ tư tương ứng với năm giác quan của não trái. Tuy nhiên đây không phải là siêu năng lực mà là những khả năng rất tự nhiên và bình thường. (Xem hình 2).
Mọi người đều quen thuộc với khái niệm thần giao cách cảm, đó là khả năng giao tiếp mà không cần đến ngôn ngữ. Dạng giao tiếp không lời này chính là giác quan ở chiều thứ tư, có nghĩa là nó thuộc về một chiều không gian vô hình mà mắt thường không thấy được. Điều này hơi khác một chút so với định nghĩa của toán học về chiều không gian thứ tư(1). Thế giới không gian ba chiều thường khiến người ta nghĩ đến thế giới vật lý có ba chiều không gian là chiều cao, chiều rộng và chiều sâu. Thế giới mà ngày nay chúng ta đang sống là thế giới hữu hình dựa trên ba chiều không gian đó. Đó là thế giới mà quy luật nhân – quả tồn tại. Tuy nhiên khi não phải được kích hoạt, thông tin từ thế giới vô hình được tiếp nhận thông qua sự vận hành của trực giác, của giao cảm, của khả năng nhìn xuyên thấu và của cả khả năng tiên đoán các sự kiện trong tương lai.
(1) Chiều không gian thứ tư: Thế giới vô hình với mắt thường vì thế giới này được tạo nên từ chuyển động sóng.
Người ta tin rằng những hiện tượng này vượt ra khỏi phạm vi của thế giới ba chiều, do đó chúng được coi là thuộc về chiều không gian thứ tư. Trong cuốn sách này, thuật ngữ “chiều thứ tư” được dùng để chỉ thế giới vô hình mà mắt thường không thấy được.
Ngay cả một thai nhi ba hoặc bốn tháng tuổi cũng có khả năng “đọc” được suy nghĩ và cảm xúc của bố mẹ.
Hiện nay, bác sĩ thường dùng phương pháp siêu âm để chẩn đoán thai nhi, nghĩa là sử dụng các sóng âm dội lại để tạo ra hình ảnh phôi thai trong bụng mẹ. Thông thường, các bà mẹ vô cùng hạnh phúc khi biết tin mình có thai, tuy nhiên có một số người lại không hề muốn điều này xảy ra và họ chỉ muốn phá bỏ bào thai trong bụng mình. Khi người mẹ nói ra những suy nghĩ đó, người ta nhìn trên màn hình siêu âm và nhận thấy bào thai ba tháng tuổi bắt đầu co giật mạnh, đó là cách thai nhi phản ứng với mối đe dọa đến sự sống của nó. Liệu một bào thai ba tháng tuổi có thể hiểu được những lời mẹ nói không? Câu trả lời là có, nhờ sự hoạt động của năm giác quan não phải.
3. Tế bào của con người là trạm thu nhận thông tin trực giác
Tế bào của cơ thể người đóng vai trò là bộ phận tự nhiên tiếp nhận những kích thích trực giác. Mặc dù các hiện tượng trực giác không được ghi nhận bằng ý thức, chúng vẫn được liên tục ghi nhận tự động thông qua các tế bào. Trong thập niên 1950, tiến sĩ vật lý học thần kinh Steven Figar đã có một phát hiện thú vị khi làm thí nghiệm về lưu thông máu. Một thiết bị đo thể tích được gắn vào ngón tay của những đối tượng tham gia thí nghiệm trong quá trình họ đang giải một bài toán để đo lường mức độ co rút của các mạch máu. Tuy nhiên, trong cuộc thí nghiệm, máy đo đã ghi nhận những lần co rút của các mạch máu ở người tham gia ngay từ khi Figar mới chỉ nghĩ đến đề toán mà chưa đọc nó ra. Hiện tượng này sau đó được gọi là hiệu ứng Figar. Thí nghiệm này đã khơi nguồn cho một loạt thí
nghiệm khác, qua đó người ta khám phá ra rằng các tế bào trong cơ thể có khả năng tiếp nhận thông tin trực giác mà năm giác quan thông thường không nhận biết được.
Tiến sĩ Douglas Dean của trường Đại học Kỹ thuật Newark sau đó đã chỉ ra trong thí nghiệm của mình rằng các tế bào cơ thể người chính là các giác quan của não phải. Dean đã yêu cầu những người tham gia thí nghiệm viết tên của mười người mà họ biết rõ nhất trên những tấm thẻ.
Sau đó, ông chọn trong danh bạ điện thoại mười cái tên của mười người bất kỳ không quen biết nhau, viết chúng vào mười tấm thẻ và xáo trộn chúng lên. Cùng với mười tấm thẻ từ những người tham gia thí nghiệm, ông có tổng cộng hai mươi tấm thẻ. Tất cả những tấm thẻ này được tráo kỹ và những người tham gia thí nghiệm được bịt mắt và tai khiến họ không thể nghe hay nhìn thấy gì. Sau đó những cái tên lần lượt được đọc lên. Một máy đo lưu biến được gắn với ngón tay của những người tham gia thí nghiệm để kiểm tra những thay đổi trong lưu thông máu được thể hiện trên một biểu đồ.
Qua thí nghiệm này, người ta phát hiện ra rằng ngay cả khi các giác quan bị cản trở thì những người tham gia thí nghiệm vẫn có những phản ứng vật lý với tên của những người mà họ quen biết. Tuy nhiên điều này không xảy ra với tên của những người lạ. Ngạc nhiên hơn là những người tham gia có phản ứng với những cái tên viết trên các tấm thẻ trước khi chúng được đọc ra. Đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy các tế bào của cơ thể chính là cơ quan tiếp nhận những thông tin trực giác tự nhiên (Nguồn: D. Scott Rogo, Our Psychic Potentials, Nhà xuất bản Simon & Schuster, 1984).
Năm 1896, một người Nga tên là George Vchovski(2) đã khẳng định rằng các tế bào – thành tố cơ bản của tất cả các cơ thể sống – đều là các thiết bị bức xạ điện từ có khả năng truyền dẫn và tiếp nhận rung động sóng như các thiết bị không dây. Ông đã
phát triển một loại máy dao động đa sóng giúp chữa khỏi nhiều loại bệnh.
(2) George Vchovski: Nhà khoa học người Nga. Ông đã phát minh ra máy tạo dao động đa sóng, một loại máy phát được sóng điện từ để chữa bệnh. Các báo cáo đã ghi chép lại rằng chiếc máy này có tác dụng khá hiệu quả với các chứng bệnh như ung thư tế bào đáy, viêm tai giữa, tuyến tiền liệt phì đại, hen suyễn, chứng mất ngủ và chứng đau dây thần kinh.
Tương tự, George De La Warr cùng với vợ mình đã sáng chế ra máy ảnh De La Warr(3) dựa trên lý thuyết cho rằng các tế bào phát ra sóng và tần số sóng của thực vật và con người có thể cộng hưởng được. Chiếc máy ảnh này có thể tạo ra một hình ảnh tương tự như phim chụp X quang của cơ thể chỉ từ một mẫu máu. Một giọt máu từ một người mẹ đang mang thai khi được chụp bằng chiếc máy ảnh này sẽ cho ra hình ảnh của cả bào thai. Hơn thế nữa, chiếc máy ảnh này còn vượt ra khỏi giới hạn của thời gian và không gian. Chẳng hạn, khi chụp một hạt giống hoa ly, chiếc máy ảnh sẽ cho ra hình ảnh của tương lai khi bông hoa nở hoàn toàn (Nguồn: Fujishima Keisho, Kiseki no Chokankaku,“Phép màu của trực giác”, Nhà xuất bản Fukushodo, 1993).
(3) Máy ảnh sử dụng tần số sóng được sáng chế dựa trên nguyên tắc mọi sự vật đều chứa đựng những thông tin từ quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trong cuốn “Lời cảnh báo của Vương quốc Thực vật” (Nhà xuất bản Tama), tác giả Akira Mikami(4) đã viết: thực vật có khả năng thực hiện được các phép tính phức tạp và có thể biến đổi màu sắc hoặc biến thể thành các loài cây cùng họ dù chúng mọc ở cách xa nhau.
(4) Akira Mikami: Nhà sáng chế ra máy cảm biến sinh học của lá. Ông nói rằng ông có thể đọc được suy nghĩ của cây thông qua tín
hiệu đèn nháy khi cây đưa ra câu trả lời Có hay Không. Khi sử dụng chiếc máy này, ông nhận thấy cây có thể nhận ra phép tính có kết quả đúng hay sai.
Làm sao các loài thực vật không có mắt, không có tai và não lại có thể làm được như vậy? Một khi chúng ta hiểu được rằng tất cả tế bào đều hoạt động như những thiết bị thu phát sóng thì điều này sẽ không còn lạ lẫm nữa. Mọi thông tin đều được truyền phát bằng chuyển động sóng.
4. Tìm hiểu sâu hơn về chuyển động sóng
Các nhà cơ học lượng tử khẳng định: Để hiểu rõ về các hiện tượng trong vũ trụ, chúng ta phải nghiên cứu đơn vị nhỏ nhất cấu thành nên vật chất, thậm chí những đơn vị đó còn nhỏ hơn hạt nguyên tử. Đó chính là các hạt vi mô. Nhờ sử dụng dụng cụ quang học chính xác, các nhà cơ học lượng tử đã thành công trong việc chứng minh rằng các hạt vi mô có những tần số rung khác nhau. Cuối cùng, việc nghiên cứu thế giới vi mô đã đưa đến sự khám phá về chuyển động sóng của các hạt cơ bản. Người ta đã phát hiện ra rằng sự tồn tại của các sinh vật trên trái đất phụ thuộc vào năng lượng, một dạng tổng hợp của các chuyển động sóng.
Học thuyết này được sử dụng trong ngành y hiện đại để chẩn đoán và điều trị bệnh. Chúng ta đã rất quen thuộc với phương pháp chụp cắt lớp, một hệ thống ứng dụng chuyển động sóng dưới dạng sóng xâm nhập điện từ (tia X). Bên cạnh đó còn có phương pháp chụp cắt lớp vi tính, cũng sử dụng chuyển động sóng và xử lý dữ liệu trên máy tính để tái hiện hình ảnh các bộ phận của cơ thể.
Phương pháp cộng hưởng từ hạt nhân giúp tái hiện hình ảnh cơ thể người mà không cần sử dụng tia X. Thay vào đó, phương pháp này nhận diện tần số sóng phát ra từ các hạt electron quay xung quanh hạt nhân nguyên tử, sau đó xử lý dữ liệu trên máy
vi tính để tạo ra hình ảnh. Các thành tựu y học tiến bộ nhất hiện nay đều dựa trên các thiết bị tân tiến nhằm nắm bắt chuyển động sóng của hạt nhân nguyên tử trong cơ thể và chuyển hóa chúng thành dạng hình ảnh.
Máy vi tính, một trong những phát minh vĩ đại nhất, cũng có chức năng chuyển hóa các chuyển động sóng thành hình ảnh cụ thể.
Những nguyên lý về điều khiển máy tính cũng hoàn toàn tương tự với nguyên tắc về chuyển động sóng.
Hiểu được cơ chế của máy tính là hiểu được khoa học về chuyển động sóng. Ronald J. Weinstock, nhà phát minh ra thiết bị đo đạc chuyển động của sóng đã giải thích tế bào có thể tích lũy dữ liệu như một ổ cứng trên máy tính. Hệ thống thần kinh hoạt động như những mạch điện tử truyền dẫn dữ liệu từ não bộ đến tế bào và các mạch máu. Các sóng phát ra từ cơ thể giống như ngôn ngữ của máy tính, ví dụ như 1110010011001. Giống như ngôn ngữ máy tính được truyền dẫn thông qua mạch bằng xung điện một chiều, thông tin được truyền dẫn qua hệ thống thần kinh bằng các sóng điện từ. Protein và khí oxy hoạt động trong cơ thể tương tự những chất bán dẫn trong máy tính.
Cơ thể con người vận hành giống những chiếc máy tính được nạp nhiên liệu bằng điện năng. Người ta thường cho rằng các tế bào não bộ là nơi sản sinh ra sóng não và điều này càng khẳng định sóng não cũng chính là một loại chuyển động sóng. Trên thực tế, não bộ còn hoạt động chính xác hơn bất kỳ loại máy móc nào.
Máy tính ban đầu được phát triển để hỗ trợ các chức năng của não bộ con người. Vì vậy điều hiển nhiên là chức năng xử lý tự động tốc độ cao của não bộ còn chính xác hơn nhiều so với một chiếc máy tính.
Giáo sư Yoshiaki Omura đã phát triển phương pháp chẩn đoán có tên gọi Bi-digital O-ring (chẩn đoán bệnh bằng vòng O) trong suốt những năm 1970 - thời điểm ông nghiên cứu về sự tuần hoàn não tại khoa Y của trường Manhattan ở Chicago và ở các trường đại học khác. Vào tháng Ba, năm 1987, ấn phẩm Kotilaakari, một tạp chí chuyên ngành y của Phần Lan đã hết lời khen ngợi phương pháp này và cho rằng: “Sự khám phá ra phương pháp kiểm tra vòng O đã thỏa mãn được những yêu cầu cần thiết của ngành y trong thế kỷ hai mươi mốt, một công trình rất xứng đáng để nhận giải Nobel”.
Tiến sĩ Saul Heller, chủ tịch hội đồng y khoa của bang New York bị mắc chứng đau lưng. Nhưng dù đã được kiểm tra tổng quát ở bệnh viện Memorial, người ta không thể phát hiện được điều gì bất thường trong cơ thể ông. Tiến sĩ Omura đã thực hiện phương pháp vòng O và phát hiện ra ông đang mắc căn bệnh ung thư tuyến tụy, chứng tỏ phương pháp chẩn đoán vòng O chính xác hơn rất nhiều so với các máy móc hiện đại tối tân nhất. Phương pháp sử dụng chức năng cộng hưởng của não phải để hồi đáp lại những sóng được tạo ra từ gốc bệnh, giúp chỉ ra vị trí bệnh trong cơ thể. Điều này chứng minh rằng não bộ của con người có thể đo đạc chính xác hơn rất nhiều so với máy móc.
Kiểm tra bằng phương pháp vòng O
Y tá đặt một chiếc que lên từng vùng cơ thể của bệnh nhân bằng một tay và tay kia, cô tạo thành hình chữ O bằng ngón cái và ngón trỏ. Nếu vòng chữ O bị tách ra khi bác sĩ tác động một lực lên nó, điều này chứng tỏ khả năng phần cơ thể đó của bệnh nhân đang có vấn đề.
Nếu các ngón tay không mở ra, bộ phận đó đang khỏe mạnh. Nếu các ngón tay mở ra, có khả năng đây là phần cơ thể đang bị bệnh.
5. Bào thai có khả năng tưởng tượng
Trong những trang trước, tôi đã giải thích rằng não phải sở hữu năm giác quan khác biệt hoàn toàn với năm giác quan của não
trái, đó là những khả năng trực giác tự nhiên. Các tế bào hoạt động như những trạm thu nhận ngoại cảm, tiếp nhận và truyền đi những thông tin bên ngoài cơ thể. Hãy để tôi mô tả chi tiết hơn năm khả năng này của não phải.
Nếu chúng ta công nhận rằng tế bào thực vật có thể nhận biết được màu sắc, hình dạng và có khả năng thực hiện các phép tính phức tạp, thì chúng ta cũng sẽ đồng ý rằng một bào thai dù chưa được sinh ra cũng có thể hiểu được cảm xúc và ngôn ngữ từ cha mẹ và thậm chí có thể tiếp nhận được hình ảnh xung quanh. Các bé dù hai, ba tuổi vẫn sẽ nhớ lại được những gì đã nhìn thấy khi còn nằm trong bào thai.
Dưới đây là bản ghi chép của mẹ bé Reika Sugiura, ba tuổi, về trí nhớ của cô bé khi còn ở trong bụng mẹ.
Khi tôi mang bầu, bác sĩ nói tôi có nguy cơ bị sảy thai rất cao và khuyên chúng tôi nên bỏ đứa bé. Tuy nhiên, chồng tôi đã phản đối. Anh thường vỗ nhẹ lên bụng tôi mỗi ngày và nói với con rằng: “Con sẽ sinh ra rất khỏe mạnh”. May mắn thay, con bé đã ra đời với tình trạng sức khỏe tốt. Thi thoảng có những lần tôi đứng ở bếp, con đến chỗ tôi, vòng tay ôm bụng tôi và nói: “Khi con ở trong bụng mẹ, con thường nói chuyện với bố”. Tôi không chú ý nhiều đến điều đó, nhưng giờ tôi đã nhận ra con bé có khả năng nhớ lại ký ức của mình khi còn trong bào thai. Giáo sư Shichida đã gợi ý với tôi rằng tôi nên hỏi con kỹ hơn về những ký ức đó. Khi trở về nhà, tôi làm như vậy và con đã kể cho tôi nghe một lượng thông tin đáng kinh ngạc mà con ghi nhớ được.
Đầu tiên con nói: “Trong đó khá chật chội và tay chân con như bị bó lại”. Ngạc nhiên hơn, con còn kể lại cho tôi những khung cảnh bên ngoài bào thai. Con nhìn thấy ô tô, các căn hộ, tòa nhà, nhà máy và cả ống khói. Những gì con kể khiến tôi gợi nhớ đến khung cảnh xung quanh nơi hai vợ chồng đã ở khi tôi còn đang mang thai. Sau đó, tôi ngạc nhiên vô cùng vì nhận ra mô tả của con giống hệt như nơi mà chúng tôi đã từng sống trước đó.
Đây không phải là trường hợp duy nhất. Não phải của bào thai hoạt động rất mạnh. Nó có thể nhận được những thông tin bên ngoài thông qua năm giác quan. Vợ của tôi là một giáo viên ở trường điều dưỡng và tôi đã nhờ cô ấy thu thập thông tin đề cập đến những trải nghiệm về ký ức trong bào thai. Một vài phụ huynh phản hồi lại rằng con họ mô tả những hình ảnh mà bé đã từng nhìn thấy khi còn ở trong bào thai.
Khi bé Y - con tôi, ba tuổi - còn đang ở trong bụng mẹ, anh trai của bé lớn hơn bé ba tuổi thường đến để nói chuyện với em. Bé Y đã kể với mẹ: “Con thường nói chuyện với anh và luôn nhìn thấy gương mặt của anh nữa”.
Dưới đây là bức thư từ A. S. ở thành phố Hino sau khi tham dự bài giảng của tôi. Cô kể về những ký ức bào thai của A. S. khi bé còn trong bụng mẹ.
Nói đến khả năng trực giác, tôi muốn kể lại những ký ức trong bào thai của con gái tôi. Khi tôi trở về nhà từ buổi nghe giảng, suy nghĩ của tôi về khả năng trực giác hoàn toàn thay đổi. Tôi nói với chồng: “Thậm chí khi con còn ở trong bụng, con có thể nhìn thấy mặt ba mẹ và nhận ra giọng nói của ba mẹ” .Chồng tôi tự hỏi có phải em bé nhìn được thông qua mắt của mẹ không nhưng tôi giải thích: “Không, không phải như vậy đâu. Anh biết họ thường nói về khả năng trực giác trên Tivi rồi đấy, anh có thể nhìn và biết điều gì đang xảy ra ở một nơi khác hoặc ở một căn phòng khác. Khả năng này chứng tỏ não phải đang hoạt động, vì thế thành của bào thai không phải là vật cản nữa”.
Chồng tôi quay sang con gái chúng tôi và hỏi: “Con có nghe thấy ba nói: ‘Con ơi, ba đây này’ không?”. Con bé gật đầu và nói: “Có ạ!”, sau đó con dang tay trước mặt y như cách mà chồng tôi thường làm khi tôi còn mang bầu và nói: “Papa” rồi gật đầu. Vợ chồng tôi sửng sốt nhìn nhau.
A. S., Tokyo (một tuổi tám tháng)
Trong chương trình truyền hình phổ biến có tên Wonder Zone, được phát sóng vào ngày hai mươi bảy, tháng Bảy, năm 1992, tôi muốn kể đến trường hợp của cô bé có thể nhớ được khung cảnh ban đêm ở Shinjuku mặc dù khi đó cô bé còn ở trong bụng mẹ. Người dẫn chương trình ngạc nhiên vô cùng nhưng với những ai đã hiểu được năng lực tưởng tượng của não phải thì sẽ không cảm thấy ngạc nhiên chút nào.
Trong một chương trình truyền hình phổ biến khác có tên: “Chuyện lạ có thật: Mọi đứa trẻ đều có khả năng siêu nhiên, phần II”, một thực nghiệm đã được tiến hành ở trẻ. Chúng được yêu cầu đoán chữ cái hoặc ký tự viết trong một tờ giấy bị gập lại. Khi những đứa trẻ giữ tờ giấy trong tay và trầm tĩnh lại, một tia sáng xuất hiện trước mặt chúng và chúng nhìn thấy hình ảnh của chữ cái hoặc ký tự đó. Sau đó chúng viết chữ cái hoặc ký tự mà chúng nhìn được lên trên một mảnh giấy khác. Những hình ảnh xuất hiện trước mắt chúng là nhờ hoạt động từ các giác quan của não phải.
Những khả năng như vậy không đột nhiên xuất hiện khi trẻ ở độ tuổi đến trường mà chúng đã tồn tại từ khi trẻ còn ở trong bào thai và đó chính là khả năng vốn có của não phải.
Trong chương trình truyền hình đó, cả hai đứa trẻ đều trải qua thực nghiệm với khả năng trực giác. Một trong hai bé có thể nhìn thấy hình ảnh của con gấu trong khi bé còn lại nhìn thấy từ “gấu”. Ví dụ này đã cho thấy hoạt động của giác quan não phải dùng để nghe và nhìn. Trường hợp dưới đây được mô tả trong mục “Chọn mùi hương và mùi vị” trong nghiên cứu Bijinesu ni Ikasu Chonoryoku no Kenkyu (sử dụng kết quả của nghiên cứu trực giác trong kinh doanh) bởi Kazumasa Shiga (Business, Co.,).
Y là một đứa trẻ có khả năng nhìn xuyên thấu đã trả lời rằng từ bị che khuất là “Mùa hè” bởi cậu cảm thấy phản ứng của cơ thể nóng đến nỗi cậu đổ mồ hôi ở trán và cổ, cậu thốt lên rằng: “Nó nóng
quá, rất là nóng”. Tương tự, khi cảm nhận bức tranh có hình ảnh que kem, cậu bé nói: “Miệng con lạnh quá, nó có vị ngọt” ngay cả khi cậu chưa nhìn thấy hình ảnh que kem. Khi được đưa cho từ “Thuốc lá”, cậu nói: “Con ngửi thấy mùi thuốc lá” và cũng nhìn thấy hình ảnh của từ đó.
Tôi đã quan sát những phản hồi tương tự ở các bé khác trong lớp mẫu giáo của tôi. Từ những ví dụ này, chúng ta biết chắc chắn rằng trẻ đã tận dụng tối đa khả năng trực giác của mình bằng cách sử dụng năm giác quan của não phải: “nhìn, nghe, sờ, nếm và ngửi”.
Các giác quan não phải được biết đến với khả năng hoạt động như các “giác quan thứ phát” - một thuật ngữ mô tả hiện tượng nhận biết màu sắc và hình dạng thông qua âm thanh, mùi hoặc vị thay vì những thông tin thị giác. Vì những chuyển động sóng từ sự vật có thể được chuyển thành âm thanh, hình ảnh, mùi, vị, nên các giác quan thứ phát của não phải vẫn hoàn toàn có thể tiếp nhận được thông tin. Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra các bào thai cũng có khả năng sử dụng giác quan thứ phát này. (Akachan ni wa sekai ga do mieruka [Những em bé nhìn thế giới như thế nào], Soshisha).
6. Khả năng trực giác là giác quan tự nhiên của não phải Khả năng trực giác bao gồm:
1. Thần giao cách cảm
2. Nhìn xuyên thấu
3. Chạm cảm nhận
4. Linh cảm
5. Di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ
Phần dưới đây được đề cập đến là Psychokinesis (khả năng di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ) và được tách biệt khỏi các khả năng trực giác khác. Tất cả các khả năng này có một điểm chung là đều liên kết chặt chẽ với năng lực tưởng tượng của não phải. Hãy để tôi giới thiệu một vài trường hợp cụ thể cho từng khả năng như những bằng chứng về sự tồn tại của chúng.
1. Thần giao cách cảm
Khi trẻ chơi các trò chơi thần giao cách cảm, chúng sẽ bắt đầu nhìn thấy hình ảnh. Lá thư dưới đây từ K. T. (Tokyo), một em bé sáu tuổi có khả năng thần giao cách cảm.
Tôi đang chơi với con gái của mình, tưởng tượng các màu sắc và hình dạng trong đầu và truyền những hình ảnh đó cho con. Tôi cố gắng gửi cho con hình ảnh màu xanh nhưng lại thấy rất khó khăn để hình dung ra màu sắc. Bởi vậy, tôi đã gửi cho con bé hình ảnh một thẻ hình vuông có màu xanh.
Con tôi nói: “Màu xanh, nhưng nó là một hình vuông màu xanh”. Lần khác, tôi thử gửi một hình ngôi sao nhưng lại thấy rất khó để hình dung ra một ngôi sao năm cánh. Thay vào đó, tôi gửi cho con một hình ảnh gần giống ngôi sao của David: gồm hai hình tam giác kết hợp lại. Con gái tôi nói: “Ngôi sao” và tôi nói đúng rồi, cô bé lại nói thêm: “Nhưng đây không phải ngôi sao bình thường, hình như nó được làm từ hai hình tam giác”.
Điều này thuyết phục tôi một cách chắc chắn rằng con bé đã nhìn thấy đúng những hình ảnh mà tôi gửi. Khi mà tôi không thể hình dung được một hình ảnh rõ ràng, con gái tôi đã cười và nói rằng: “Nó lộn xộn quá mẹ ạ”.
K. T., Tokyo (con sáu tuổi)
Con gái tôi trả lời được rất nhiều câu hỏi trong trò chơi đoán màu sắc vào bài học cuối tuần trước. “Làm thế nào mà con biết được đó là màu gì?”. Tôi hỏi. “Con nhìn thấy một hình chữ nhật có màu nằm ngay trước mắt con.” Đáng ngạc nhiên là, con còn có thể nhìn thấy nó khi con mở mắt.
Con bé còn nói một câu nhận xét thú vị khi chúng tôi đang chơi trò đoán màu ở nhà: “Con có một quyển vở trong đầu và khi con lật giở từng trang, con có thể thấy những màu sắc. Mắt của con có thể lật giở từng trang vở”.
Mặc dù tôi còn cảm thấy có chút hoài nghi, nhưng tôi nghĩ mình vẫn nên gửi những ghi chép này cho ông.
H. H., Osaka (con bốn tuổi)
2. Nhìn xuyên thấu
Các bé chơi các trò chơi liên quan đến khả năng nhìn xuyên thấu có thể nhìn thấy các hình ảnh hoặc biểu tượng trên thẻ dù thẻ không được mở ra.
Hàng ngày các bé ở trường mẫu giáo thường hay thực hành các trò chơi để phát triển khả năng nhìn xuyên thấu. Thi thoảng con trai tôi và tôi thường chơi trò chơi tìm cặp đôi. Bé rất tự hào rằng con có thể ghép đôi các cặp thẻ thậm chí khi chúng được úp xuống và con thường dự đoán chính xác một trăm phần trăm.
M. M., Tokyo (con năm tuổi)
Vào tháng trước, con trai và con gái của tôi có khả năng nhận diện hai mươi lăm trên tổng số hai mươi lăm thẻ. Con gái năm tuổi của tôi đặc biệt có thể nhận diện những thẻ nào thì cần sử dụng các khả năng nhìn xuyên thấu, thần giao cách cảm hay chạm cảm nhận. Con luôn nói con có thể nhìn rõ các biểu tượng của thẻ thông qua khả năng nhìn xuyên thấu.
Chúng tôi cũng luôn tập luyện khả năng đọc nhanh mỗi ngày và tốc độ đọc của con được tăng nhanh đến mức mà cả hai đứa đều có thể đọc được một cuốn sách chỉ trong khoảng hai phút.
K. S., Chiba (con bảy tuổi và năm tuổi)
3. Chạm cảm nhận
Đây là khả năng cảm nhận từ hoặc biểu tượng trên thẻ bằng cách chạm vào chúng. A. H. ở quận Nagano đã gửi cho tôi bức thư kể về con gái N của cô.
Khả năng chạm cảm nhận của N đã đạt tới mức một trăm phần trăm. Tôi xếp ra năm tấm thẻ úp mặt xuống theo thứ tự ngẫu nhiên trên một hàng. Con chạm từng tấm một để cảm nhận biểu tượng nằm trên tấm thẻ đã úp và sau đó đặt theo hàng các thẻ có biểu tượng giống với thẻ úp xuống. Khi chúng tôi lật các thẻ lên, tôi vô cùng ngạc nhiên khi các cặp thẻ hoàn toàn đúng vị trí.
Vào buổi tối khi chúng tôi thực hành hoạt động tưởng tượng, con kể cho tôi nghe những câu chuyện thú vị, bắt đầu những câu như: “Có một hạt giống trong quả bóng bay”. Chồng tôi là giáo sư dạy đại học, nhận xét một cách hoài nghi rằng: “Anh cũng không thể biết điều này có thực hay không. Con bé hào hứng kể lại ngay câu chuyện khi vừa mở mắt. Có thể đơn giản đây chỉ là trí tưởng tượng của con hoặc có thể con đã nhìn thấy những hình ảnh thật và kể lại câu chuyện này, nhưng dù là trường hợp nào đi chăng nữa, khả năng của con đã thực sự làm anh sửng sốt”. Chúng tôi đều cảm thấy bất ngờ trước những khả năng não phải của con.
4. Linh cảm
Trẻ có khả năng nhìn thấy một cách rõ ràng và sống động như thật những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai.
Sau khi lắng nghe bài nói chuyện của ông về khả năng trực giác, tôi đã thử thực hành dần dần những gợi ý của ông ở nhà và gần đây Y bắt đầu có khả năng nhìn thấy những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai. Đầu tiên, con dự đoán được thời tiết nhưng tôi nghĩ đó chỉ là sự tình cờ. Một ngày khác, chúng tôi cùng nhau xem một cuộc đua ngựa trên TV, tôi hỏi con: “Theo con, con ngựa nào chạy nhanh nhất?”. Con trả lời một cách tự tin: “Con ngựa màu xanh là nhanh
nhất. Con ngựa màu vàng cũng chạy nhanh không kém mẹ ạ”. Và kết quả là con ngựa màu xanh về nhất và con màu vàng đã về đích thứ hai.
Y. K., Shiga (con hai tuổi bốn tháng)
Một ngày khác tôi đang chuẩn bị bữa tối và cùng con đợi ba về. Lúc đó đã hơn bảy giờ. “Ba về muộn rồi, mẹ không biết mấy giờ ba về nữa.” Con trai tôi liền nói: “ba mươi chín, ba mươi chín”. Mặc dù con biết tuổi của ba là ba mươi tư, con chỉ có thể đếm được đến ba mươi. Bởi vậy, tôi thấy rất kỳ lạ rằng con có thể lặp lại con số ba mươi chín đến hai lần, tôi liền hỏi con: “Có phải ý con là ba sẽ về nhà lúc bảy giờ ba mươi chín phút không?”. Con trả lời: “Ba đang về nhà, lúc ba mươi chín”. Tôi không để ý nữa nhưng vẫn còn ngạc nhiên vì con lại nói con số ba mươi chín rõ ràng như vậy.
Một lát sau, chúng tôi nghe thấy tiếng khóa mở lách cách và con trai tôi chạy ra cửa: “Ba về rồi!”. Tôi chợt liếc nhìn chiếc đồng hồ đang chỉ đúng bảy giờ ba mươi chín phút. Việc này đã xảy ra đến hai lần. Thực lòng mà nói, tôi rất ngỡ ngàng trước điều đó.
Được tận mắt chứng kiến khả năng của con, tôi giờ đã hiểu những gì ông viết trong quyển sách không chỉ dưới dạng lý thuyết và tôi
cảm thấy rất hài lòng.
M. O., Nara (con hai tuổi năm tháng)
5. Di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ
Tôi đã nhận được báo cáo dưới đây từ A. S. ở Sapporo liên quan đến khả năng di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ.
Tôi muốn kể với ông về khả năng trực giác của con gái lớn nhà tôi. Khi tôi chơi với các thẻ biểu tượng như thẻ hình và gửi hình ảnh cho con, con lúc nào cũng có khả năng nhận diện chúng rất rõ ràng. Tôi còn thực sự ngạc nhiên khi nhận ra con có thể biết điều gì đang được thảo luận ở một phòng khác dù con không ở đó và cũng không thể nghe thấy gì.
Khi con thứ hai của tôi mới sinh (bây giờ bé được bốn tháng), tôi đã tắt chiếc chuông đồng hồ quả lắc để đồng hồ vẫn chỉ giờ nhưng không gây tiếng ồn nữa. Con gái lớn của tôi thức giấc vào buổi sáng và nói: “Mẹ ơi, con muốn nghe tiếng chuông đồng hồ”. Vì em bé nhỏ vẫn còn ngủ và tôi không muốn làm con thức giấc, tôi liền lờ đi yêu cầu của con gái và tiếp tục làm việc nhà. Đột nhiên tôi nghe thấy tiếng chuông đồng hồ “Cuckoo, Cuckoo”. Chiếc đồng hồ reo vang.
Tôi nhìn vào nút bấm và ngạc nhiên khi nhận ra nó vẫn đang ở chế độ tắt. Con gái tôi đang đứng nhìn chăm chú vào chiếc đồng hồ quả lắc.
Đây là một ví dụ về khả năng di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ khi một bé nhỏ có thể bật được chuông đồng hồ. Trong trường hợp này, cô bé đã tập trung hết sức để hình dung về hình ảnh chiếc đồng hồ đang reo lên trong tâm trí của mình. Sự hiện thực hóa của hình ảnh chính là một hiện tượng chỉ có ở não phải.
Như vậy, tất cả những giác quan của não phải như thần giao cách cảm, nhìn xuyên thấu, chạm cảm nhận, linh cảm và di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ đều có liên quan đến hình ảnh, tất cả đều bắt nguồn từ năng lực tưởng tượng của não phải.
Tất cả những khả năng này, thoạt nhìn giống như những năng lực siêu nhiên, nhưng thực chất lại là kết quả tự nhiên của cấu trúc và chức năng của não bộ con người. Chúng đều là những hiện tượng khoa học thông thường. Chúng có vẻ lạ kỳ vì khoa học chưa phát triển tiến bộ đến mức có thể hoàn toàn giải thích những hiện tượng này.
Trong cuốn sách của tác giả Yatri người Anh có tên gọi “Loài người chưa được biết đến, sự ra đời bí ẩn của loài mới” (The Unknown Man, The mysterious birth of a new species), ông cho rằng chức năng tiến hóa của con người đang còn ngủ yên bên trong não bộ. Sự tiến hóa của tâm thức sẽ dẫn đến sự ra đời của loài người mới với trình độ tâm thức khác biệt. Não trái của loài người hiện nay đã phát triển khá cao, nhưng so với thế hệ loài người chưa được biết đến này, sự phát triển não phải của họ sẽ đạt tới mức cả hai bán cầu não đều phát triển cân bằng. Ngày nay, sự tiến hóa về tâm thức được xem là vấn đề bí ẩn ít người quan tâm, khả năng thần giao cách cảm và di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ cũng được cho là những hiện tượng siêu nhiên. Một vùng rộng lớn của vỏ não vẫn còn chưa được khoa học chạm đến. Loài người với năng lực tiến hóa mới có thể tận dụng vùng não chưa từng được sử dụng này để học hỏi, nhận thức, suy nghĩ và tư duy. Một khi đã sở hữu trình độ tâm thức khác, quá trình phát triển và trưởng thành của thế hệ loài người mới sẽ hoàn toàn khác so với con người chúng ta hiện nay.
Yatri cũng cho rằng rất nhiều trẻ nhỏ ở thế kỷ hai mươi mốt này có khả năng phát triển não phải một cách vượt trội. Cá nhân tôi cũng đã biết đến rất nhiều trẻ nhỏ thể hiện được khả năng trực giác của não phải. (Xem hình 3).
Vào thời cổ đại, não phải của con người rất phát triển và não trái ngôn ngữ lại hiếm khi được sử dụng. Homo Habitus, giống người sinh sống ở châu Phi một triệu năm trăm năm trước đây, không hề sử dụng ngôn ngữ. Chỉ hơn một triệu năm sau đó, loài người mới phát triển được khả năng ngôn ngữ.
Khi con người bắt đầu học cách sử dụng ngôn ngữ, não trái phát triển rất nhanh và não phải sẽ dần dần hoạt động ít đi, đồng nghĩa với việc các chức năng của não phải sẽ yếu dần. Chúng ta đã tiến hóa từ những người rất hay sử dụng não phải thành những người thường xuyên chỉ sử dụng não trái. Con người hiện tại là những người có não trái phát triển rất mạnh nhưng
cái giá của sự tiến hóa là mất đi những năng lực phát triển ban đầu của não phải.
Trẻ em ngày nay dường như có thể khôi phục lại khả năng của não phải đã từng được sở hữu bởi những người cổ xưa. Tôi tin rằng chức năng tiến hóa này đang được kích hoạt lại và sẽ cho phép con người phát triển cân bằng giữa hai bán cầu não trái và não phải. Khi đó, chúng ta sẽ không còn phải đánh đổi sự phát triển của não trái để sử dụng được những khả năng của não phải.
Hình 3. SỰ TIẾN HÓA CỦA CON NGƯỜI
Dưới đây là báo cáo của M. K., giáo viên trường mầm non B tại Osaka, người đã tiến hành các thí nghiệm trực giác tại trường mầm non theo yêu cầu của tôi. Thí nghiệm này chứng minh khả năng trực giác tự nhiên của trẻ nhỏ.
Tôi muốn thông báo với ông về kết quả thí nghiệm khả năng trực giác ở trẻ mẫu giáo dựa trên chương trình phát triển khả năng trực giác của một trường tiểu học Trung Quốc đã từng được chiếu trên Tivi năm ngoái.
Thí nghiệm đầu tiên là nhận diện hình dạng (chữ cái) thông qua chạm cảm nhận. Tôi viết những chữ Hán giản thể, các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Anh, chữ Hiragana (bảng chữ cái tiếng Nhật), và các hình dạng (tròn, sao,...) lên các mảnh giấy và gấp chúng lại. Tôi đặt một tờ giấy lên tay trái của mỗi bé. Tôi nói với chúng: “Có một hình vẽ trên giấy, nếu con nghĩ con có thể, con sẽ nhìn thấy chúng. Khi con nhìn thấy, hãy vẽ nó ra nhé!”.
Tỉ lệ thành công rất cao lên đến 43,6% (17/39 bé) và 76,9% các bé có khả năng nhìn thấy một phần của hình vẽ.
Lần thứ hai tôi cũng lặp lại việc nhận diện hình vẽ và chữ cái thông qua chạm cảm nhận. Một lần nữa, tỉ lệ thành công cũng rất cao ở mức 47,2% (17/36 bé) và 69,4% (25/36 bé) có khả năng vẽ lại một phần của hình vẽ.
Lần thứ ba tôi để lũ trẻ nhận diện ba loại hình dạng (tròn, tam giác và dấu cộng) và hai màu (đỏ và vàng). Kể từ lần này trở đi, trước khi thí nghiệm, tôi đã hướng dẫn các bé thiền tập thông qua tưởng tượng hình ảnh và sử dụng nhạc sóng alpha với những gợi ý tích cực, nói rằng chúng có một con mắt thứ ba ở giữa trán và khi chúng nhắm mắt lại, con mắt thứ ba này sẽ mở ra và chúng có thể nhìn thấy được hình ảnh rất rõ nét.
Theo lý thuyết về tỉ lệ xác suất thành công, một nửa lớp sẽ có khả năng nhận diện đúng màu sắc, một phần ba lớp có thể nhận diện được hình dạng và một phần sáu số học sinh có thể nhận diện được cả hình dạng lẫn màu sắc. Kết quả thực tế từ việc nhận diện qua chạm cảm nhận là gần một nửa số trẻ (15/33 học sinh) có thể cảm nhận được màu sắc, một tỉ lệ rất cao.
Lần thứ tư tôi đã chuẩn bị những mảnh giấy giống như hai lần đầu tiên nhưng để các bé sử dụng khả năng nhìn xuyên thấu mà không cần chạm vào tờ giấy nhằm nhận diện nội dung bên trong. Tôi gắn những mẩu giấy gập vào bàn bằng băng dính trong. Dù vậy, tỉ lệ thành công vẫn cao: 17,9% (5/22 bé). Cuối cùng, ở lần thứ năm,
tôi để các bé sử dụng khả năng nhìn xuyên thấu để nhận diện hình O và + . Tôi giơ hai tấm thẻ lên với mặt màu trắng hướng về phía các bé và hỏi chúng có hình vẽ gì ở trên thẻ. Tôi lặp lại mười lần và một nửa số học sinh có thể nhận diện hình đúng sáu trên mười lần (13/26 bé). Tôi tin rằng tỉ lệ thành công cao trong các bài kiểm tra về chạm cảm nhận và nhìn xuyên thấu kể cả khi các hình không chỉ gồm +, O, ∆ (ở lần thứ nhất, thứ hai và thứ tư) điều này cho thấy trẻ đã thể hiện được năng lực trực giác của mình. Bảng tóm tắt kết quả được trình bày ở hình 4.
Hình 4. KẾT QUẢ CỦA THÍ NGHIỆM KHẢ NĂNG TRỰC GIÁC (CÁC BÉ MẪU GIÁO NĂM - SÁU TUỔI)
Các kết quả giảm nhẹ khi lựa chọn có độ phức tạp cao hơn. Tuy vậy, nếu các hình chỉ hạn chế ở hình O và +, một nửa các bé đã nhận diện chính xác hình dạng 6/10 lần thông qua nhìn xuyên thấu. Nhận diện chữ cái hoặc ký tự thông qua chạm cảm nhận có kết quả thành công cao nhất dù ban đầu tôi cho rằng bài tập này sẽ khó với các bé, nhưng tỉ lệ thành công thậm chí còn cao hơn khi tính cả các bé có thể vẽ lại một phần của biểu tượng.
7. Thai giáo giúp nâng cao khả năng trực giác
Nếu được tập luyện ngay từ khi còn trong bụng mẹ, các bé sẽ phát triển não phải rất tốt. Những bé còn trong bụng mẹ có khả năng hiểu được cảm giác hoặc ngôn ngữ người mẹ nói. Những khả năng này bắt nguồn từ các giác quan của não phải, hay chính là khả năng trực giác.
Khi hình ảnh được truyền đến bào thai, năng lực tưởng tượng của bé cũng tiếp tục được phát triển cùng theo sự phát triển của bào thai. Mặc dù người mẹ cũng có thể truyền cho con những hình ảnh của chữ cái hoặc chữ số, thế nhưng mẹ cũng không nên cố gắng nhồi nhét những kiến thức bên ngoài vào tâm trí của trẻ. Chữ cái và con số chỉ đơn giản là những công cụ để truyền tải hình ảnh.
Ngôn ngữ là một phần trọng tâm trong việc nuôi dạy con trẻ nhưng tôi hy vọng rằng các bậc cha mẹ sẽ chú tâm đến cả việc hướng dẫn cho con tăng cường các hoạt động liên quan đến não phải bằng cách sử dụng hình ảnh. Khi người mẹ hình dung hình ảnh của con số hoặc chữ cái trước trán và gửi hình ảnh đó đến bào thai với niềm tin vững chắc rằng con sẽ nhận được nhờ một chiếc máy thu nhận trên trán, người mẹ đã kích hoạt khả năng trực giác cần thiết ở não phải của con để nhận được thông điệp truyền từ mẹ.
Nếu người mẹ luyện tập hoạt động tưởng tượng để nâng cao khả năng của não phải, người mẹ có thể nhìn thấy hình ảnh của con trong bụng và nói chuyện với con thông qua thần giao cách cảm. Đây là ví dụ thực tế từ lá thư một bà mẹ đã thực hành thai giáo.
Vào ngày mười lăm tháng Tám năm 1992, con trai của tôi là Yukio ra đời. Tôi đã thực hành thai giáo trong khi con còn nằm trong bụng. Đầu tiên, tôi tự học về hoạt động tưởng tượng và sau đó bắt đầu tập luyện để có thể tưởng tượng hình ảnh. Ban đầu, việc này không hề dễ dàng, nhưng tôi đã luyện tập hàng ngày những gì đã
được học trên lớp cho đến khi tôi có khả năng đi vào thế giới tưởng tượng một cách dễ dàng.
Khi tôi hít thở sâu, làm dịu lắng tâm hồn và nhắm mắt lại, hình ảnh đứa con hiện lên trước trán tôi. Con nhỏ xíu và bụ bẫm, chỉ có mặt của con là hướng về phía tôi. Con lúc nào cũng mỉm cười. Tôi hạnh phúc khi được nhìn thấy con trong bụng đến nỗi tôi không bao giờ quên thực hiện hoạt động tưởng tượng mỗi tối trước khi đi ngủ, đó là thời điểm tôi thư giãn nhất để có thể nói chuyện thoải mái với con.
Đầu tiên, đó chỉ là cuộc nói chuyện giao tiếp một chiều. Tôi kể cho con nghe những gì đã xảy ra trong ngày hôm đó, về người thân trong gia đình, về những thứ xung quanh ngôi nhà của chúng tôi, về cảm xúc hồi hộp đầy hứng khởi của mọi người khi chào đón sự ra đời của con. Chỉ khoảng một tháng sau, tôi bắt đầu hiểu được những thông điệp từ con. Con thường gửi cho tôi những thông điệp như: “Con muốn mẹ gọi con bằng tên, mẹ đặt tên cho con đi nhé!” hay “Con muốn ăn dâu. Mẹ ơi, ngày nào mẹ cũng ăn dâu tây nhé!”.
Sau khi được sinh ra, Yukio thực sự rất thích dâu tây và khi tôi cho con ăn dặm, con luôn ăn tất cả dâu tây và không hề hứng thú với táo và cam.
Tôi thì thầm với con: “Khi ra đời, con sẽ ra khỏi bụng mẹ nhẹ nhàng thôi nhé!”. Con trả lời và trấn an tôi: “Mẹ đừng lo, con tự xoay xở được mẹ nhé! Mọi chuyện rồi sẽ ổn mẹ ạ”. Tôi sinh con rất dễ, bác sĩ bảo tôi: “Cô sinh con rất nhẹ nhàng. Tôi nghĩ là cô còn sinh thêm được mười bé nữa đấy”.
Yukio giống hệt với hình ảnh mà tôi tưởng tượng, một cậu bé dịu dàng, điềm tĩnh. Tiếp tục duy trì hoạt động tưởng tượng, tôi thường biết chính xác thứ con muốn và thay tã cho con đúng lúc hoặc cho con ăn những món hợp khẩu vị, vì vậy con không khóc vô cớ bao giờ. Tôi cũng nhắc chồng tôi nói chuyện với con thật nhiều khi con còn ở trong bụng, vì vậy con cũng rất gắn bó với ba.
Chúng tôi thường rất ngạc nhiên vì dường như con cũng hiểu suy nghĩ của ba mẹ. Khi tôi nghĩ tôi cần gọi cho bà ngoại, con liền chỉ ra chỗ chiếc điện thoại. Một ngày khác tôi đặt con vào xe đẩy để đưa con đi dạo. Đột nhiên con nói: “Mẹ ơi!”. Tôi hỏi con: “Gì thế con?” và con chỉ vào cửa hàng bán đồ điện. Mới chỉ sáng nay tôi nghĩ đến việc cần phải mua một chiếc bóng điện mới để thay ở hiên nhà nhưng đã hoàn toàn quên việc đó.
“Cảm ơn con. Con nhớ giỏi quá”. Tôi nói, trong lòng ngạc nhiên vô cùng. Trải nghiệm này giúp tôi càng tin tưởng mạnh mẽ rằng ba mẹ nên giữ cho tư tưởng của mình thật trong sáng vì trẻ hoàn toàn có thể đọc được nó. Và tôi nghĩ mình cần phải nỗ lực hơn nữa để tạo nên một môi trường mà ở đó con có thể phát triển tốt nhất những khả năng tiềm ẩn vốn có của mình.
Chương 4
GHI NHỚ BẰNG NÃO PHẢI
1. Não trái và não phải có cơ chế ghi nhớ khác nhau T
rí nhớ được phân ra làm hai loại: trí nhớ não phải và trí nhớ não trái. Thông thường người ta chỉ quan tâm đến loại thứ hai và biết rất ít về loại thứ nhất. Vậy thì trí nhớ não phải có những đặc điểm gì?
Chuyện kể rằng: khác với những phóng viên khác, nhà báo người Nga S. V. Sherashevski không bao giờ ghi chép trong những cuộc họp báo. Khi trưởng phòng biên tập thắc mắc về vấn đề này, ông giải thích rằng mình không cần phải ghi chép vì bản thân có thể nhớ tất cả mọi thứ. Khi được yêu cầu nhắc lại những gì người biên tập nói trong cuộc họp hôm đó, ông đã nhắc lại đúng từng chữ một, thậm chí còn diễn tả lại từng cử chỉ.
Nhà sinh vật kiêm nhà dân tộc học Kumagusu Minakata đến từ Wakayama, Nhật Bản, người được xem là một trong những thần đồng vĩ đại của Nhật Bản cũng có khả năng ghi nhớ tuyệt vời. Trong suốt quá trình đi học, ông chỉ cần đọc lướt những cuốn sách nghiên cứu mượn từ cha của bạn mình và khi trở về nhà, ông có thể kể lại chi tiết nội dung cuốn sách vô cùng chính xác, thậm chí mô tả cả hình minh họa trong sách. Người ta nói rằng ông đã ghi nhớ được từ bốn đến năm trăm bộ sách theo cách này, bao gồm cả các cuốn sách minh họa về thực vật học và những cuốn bách khoa toàn thư.
Loại năng lực ghi nhớ này nằm ở bán cầu não phải chứ không thuộc về bán cầu não trái. Ở những người bị tổn thương não bộ,
khả năng ghi nhớ đặc biệt này thường xuất hiện do sự tổn thương bán cầu não trái đã vô tình khiến cho khả năng thiên tài của não phải được bộc lộ. Nhà tâm thần học người Mỹ Darold A. Treffert giới thiệu rất nhiều trường hợp như vậy trong cuốn sách của ông: “Những con người phi thường: Hiểu biết về hội chứng bác học”. Tuy nhiên, ông không thể giải thích vì sao những người bị tổn thương não bộ lại có được những khả năng vượt trội như vậy mà chỉ đơn thuần kết luận rằng đây là một thách thức đối với khoa học. Thật ra, nguyên nhân rất đơn giản: việc tổn thương não trái đã tạo điều kiện cho các khả năng của não phải dễ dàng được bộc lộ, do chức năng của não phải không còn bị kìm nén như trước đây.
Não phải chiếm ưu thế và hoạt động mạnh khi trẻ em đang ở thời kỳ phôi thai và trong suốt ba năm đầu đời. Thời kỳ từ ba đến sáu tuổi là cột mốc đánh dấu sự dịch chuyển hoạt động từ não phải sang não trái. Và sau sáu tuổi, não trái hoàn toàn chiếm ưu thế. Do đó, việc rèn luyện trí nhớ não phải là vô cùng quan trọng trong sáu năm đầu đời – khoảng thời gian khi bán cầu não phải của trẻ được kích hoạt một cách tự nhiên. Nếu khả năng ghi nhớ não phải được rèn luyện trong suốt thời gian này, kênh truyền dẫn thông tin bằng hình ảnh sẽ mở ra và con người có thể tiếp cận những khả năng to lớn của não phải trong suốt cuộc đời. Đoạn trích từ lá thư của một phụ huynh dưới đây sẽ chứng minh sự hiệu quả của việc luyện tập các hoạt động não phải trong độ tuổi này.
Đã một năm con gái tôi theo học kể từ khi Trường Mẫu giáo Heiwa trở thành Trường Mẫu giáo Shichida, và tôi liên tục bị bất ngờ trước khả năng tập trung của con. Mới hôm nọ cô giáo trên lớp giao cho con bài tập đọc và bài tập học thuộc lòng cho kỳ nghỉ đông. Cuốn sách cô chọn là “Oku no Hosomichi” (tuyển tập các bài thơ của Basho) và “Xứ tuyết” (một cuốn tiểu thuyết của Kawabata). Đầu tiên tôi đọc to từng đoạn cho con nghe và yêu cầu con đọc theo tôi đoạn đó hai lần. Sau đó, mặc dù tôi không chắc rằng con có thể làm được, tôi vẫn yêu cầu con kể lại và bé đã khiến tôi sửng sốt khi