🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bí Ẩn Bộ Cờ Montglane - Katherine Neville & Nguyễn Lâm Xuân Các (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
Bí Ẩn Bộ Cờ Montglane
Katherine Neville & Nguyễn Lâm Xuân Các NXB Văn Hóa Thông Tin (2021)
Từ khóa: Best Seller, Trinh Thám, Tiểu Thuyết
THE INTERNATIONAL BESTSELLER KATHERINE NEVILLE
Bí ẩn bộ cờ Montglane
NGƯỜI DỊCH: NGUYỄN LÂM XUÂN CÁC Thực hiện ebook: page Duyên sách
NHÀ XUẤT BẢN THÔNG TIN
HÀ NỘI 2008
Table of Contents
PHÒNG VỆ
QUÂN TỐT TIẾN ĐẾN Ở BỐN CÁNH HẬU MỘT NƯỚC CỜ KÍN ĐÁO
FIANCHETTO
MỘT VÁN CỜ
CUỘC TRAO ĐỔI CỦA CÁC BÀ HOÀNG BÁNH XE CỦA HIỆP SĨ
CUỘC HÀNH TRÌNH CỦA KỴ SĨ
HY SINH
BẪY CỜ NĨA
QUÂN TỐT TIẾN LÊN
TRỌNG TÂM BÀN CỜ
TRẬN ĐẤU CHÍNH GIỮA
HÒN ĐẢO NHỎ
PHÂN TÍCH VỊ TRÍ
TIẾNG NÓI CỦA SA MẠC
NHỮNG NGỌN NÚI THẦN KỲ
LÂU ĐÀI
CÁI CHẾT CỦA NHỮNG VỊ VUA
NỮ HOÀNG ĐEN
LỤC ĐỊA THẤT LẠC
ZUGZWANG
BẠCH ĐỊA
Ô VUÔNG THỨ TÁM
SỰ TĨNH LẶNG TRƯỚC CƠN BÃO CƠN BÃO
BÍ MẬT
VÁN CỜ KẾT THÚC
CÂU CHUYỆN CỦA NỮ HOÀNG ĐEN
Cờ vua là cuộc đời BOBBY FISCHER
Đời là một loại cờ vua BENJAMIN FRANKLIN
PHÒNG VỆ
Các nhân vật thường có khuynh hướng hoặc tán đồng, hoặc chống lại cuộc tìm kiếm. Nếu ủng hộ, họ sẽ được lý tưởng hóa thành những con người lịch lãm và trong sáng tuyệt đối; nếu tìm cách ngăn cản, họ sẽ bị mô tả không khác gì những kẻ hoàn toàn đểu giả hay hèn nhát.
Vì lẽ đó bất cứ nhân vật điển hình nào ... cũng thường đương đầu với một nhân vật đối lập anh ta về mặt đạo đức, như những quân đen và trắng trong một ván cờ.
- Giải phẫu Phê bình - Northrop Frye
TU VIỆN MONTGLANE, PHÁP
Mùa xuân năm 1790
Một nhóm nữ tu băng qua đường, những chiếc khăn trùm đầu nhàu nát của họ nhẹ bay chấp chới như cánh hải âu. Khi các cô lướt qua những vòm cổng đá cao vòi vọi của thành phố, đàn gà con và mấy chú ngỗng te tái tránh lối, vỗ cánh loạn xạ, bì bõm lội qua vũng bùn. Các nữ tu bước trong làn sương mù u ám vẫn bao phủ thung lũng mỗi sớm tinh mơ và từng cặp sóng đôi lặng thinh đi về phía tiếng chuông trầm lắng, ngân lên từ những quả đồi trên kia.
Họ gọi mùa xuân này là le Printemps Sanglant, theo tiếng Pháp, có nghĩa Mùa Xuân Đẫm Máu. Năm đó anh đào đơm hoa sớm, còn lâu tuyết trên các đỉnh núi cao mới tan. Những cành cây mảnh khảnh oằn cong xuống đất bởi sức nặng của những đóa hoa đỏ tươi ướt đẫm. Có người nói anh đào nở rộ sớm vậy là điềm lành, biểu tượng của sự hồi sinh sau một mùa đông khắc nghiệt và dài đằng đẵng. Nhưng rồi những cơn mưa giá rét kéo đến và làm đông cứng các khóm hoa trên cành, khiến thung lũng bị vùi sâu trong sắc hoa đỏ nhuốm những vệt sương nâu. Như thể vết thương bết máu khô. Và người ta nói đây là một dấu hiệu khác thường.
Cao ngất ngưởng phía trên thung lũng, tu viện Montglane nhô lên sừng sững như mỏm đá khổng lồ trồi ra khỏi đỉnh núi. Công trình kiến trúc trông như pháo đài kia vẫn tách biệt với thế giới bên ngoài gần cả nghìn năm nay. Nó có sáu, bảy lớp tường dày chồng lên nhau vì khi những phiến đá ban đầu bị xói mòn qua nhiều thế kỷ, người ta đặt các lớp tường mới bên ngoài lớp cũ với những giàn chống đỡ. Kết quả tạo thành một hỗn hợp kết cấu ảm đạm và chính vẻ ngoài đó ấp ủ nhiều lời đồn đại về chốn này. Tu viện là kiến trúc nhà thờ cổ kính nhất còn nguyên vẹn ở Pháp, và nơi đây cất giữ một lời nguyền cổ xưa sắp được đánh thức lần nữa.
Khi cái họng chuông đen ngòm vang vọng khắp thung lũng, những nữ tu sĩ còn lại, từng người, từng người một, rời mắt khỏi công việc, để những
chiếc cào, chiếc cuốc sang một bên. Họ bước qua những rặng cây anh đào trải dài đối xứng hai bên lối đi để trèo lên con dốc ngược trở về tu viện.
Ở cuối đoàn người dài lê thê, hai nữ tu trẻ mới vào viện, Valentine và Mireille, khoác tay nhau lê bước rón rén trong những chiếc ủng lấm lem bùn. Họ đã tạo thành một phần lạc lõng bổ sung vào hàng ngũ trật tự của các nữ tu. Mireille cao lớn, tóc đỏ với đôi chân dài và bờ vai rộng, trông giống cô nông dân khoẻ mạnh hơn là tu sĩ. Cô đeo một cái tạp dề lớn bên ngoài chiếc áo và những lọn tóc quăn đỏ ló ra lơ thơ bên dưới khăn trùm. Bên cạnh Mireille, Valentine mặc dù cao gần bằng nhưng có vẻ mỏng manh ẻo lả. Làn da nhợt nhạt của Valentine nom cứ như trong suốt, nước da trắng được tôn thêm lên nhờ mái tóc vàng nhạt rũ xuống vai. Cô đã nhét chiếc khăn trùm đầu vào túi áo, và miễn cưỡng bước đi bên cạnh Mireille, vừa đi vừa đá ủng vào bùn.
Hai cô gái trẻ này, những tu sĩ nhỏ tuổi nhất ở tu viện, là chị em họ bên ngoại. Cả hai đêu mồ côi từ nhỏ sau trận đại dịch khủng khiếp đã tàn phá nước Pháp. Bá tước de Remy già nua, ông ngoại Valentine, đã phó thác hai cô cho nhà thờ trước lúc ông qua đời, để lại số di sản khá lớn bảo đảm cuộc sống cho hai cô cháu gái.
Hoàn cảnh giáo dưỡng hình thành nên một sự gắn bó khăng khít giữa hai cô gái. Cả hai đều ngập tràn vẻ hân hoan vô bờ của tuổi trẻ. Tu viện trưởng thường nghe thấy vài nữ tu lớn tuổi phàn nàn rằng lối sống này chẳng phù hợp chút nào với cuộc đời ẩn dật tại một nhà tu kín, nhưng bà cũng hiểu rằng kiềm chế sức sống của tuổi trẻ thì tốt hơn là tìm cách bóp nghẹt nó.
Và người viện trưởng cũng cảm thấy có đôi chút thiên vị dành cho hai chị em côi cút, một tình cảm khác thường so với cả tính cách lẫn địa vị của bà. Các nữ tu đứng tuổi hẳn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng bản thân viện trưởng thuở thiếu thời đã duy trì một tình bạn sâu sắc như thế với một cô gái. Hai người đã tách biệt nhau nhiều năm trời và xa cách hàng ngàn dặm.
Lúc này, trên dốc mòn, Mireille đang nhét những lọn tóc đỏ bướng bỉnh trở vào dưới tấm khăn trùm đầu và giật mạnh cánh tay cô em họ trong khi lên lớp về tội chậm trễ.
"Nếu em vẫn cứ lề mề nấn ná mãi, Mẹ Bề Trên sẽ lại quở phạt chúng ta", cô nói.
Valentine vùng khỏi tay chị và xoay một vòng. "Trái đất đang đắm chìm trong cảnh sắc mùa xuân", cô hò reo, đung đưa hai cánh tay và suýt nữa lộn nhào xuống vách đá dựng đứng. Mireille vội kéo cô lôi đi dọc theo bờ vực cheo leo. "Cớ sao chúng ta phải giam mình trong cái tu viện ngột ngạt buồn tẻ ấy khi mọi vật ngoài kia đang căng tràn nhựa sống ?"
"Vì chúng ta là những nữ tu", Mireille bĩu môi vặc lại, gấp gáp bước đi, bàn tay bấtu chặt cánh tay Valentine. "Và nghĩa vụ của chúng ta là nguyện cầu cho nhân loại". Nhưng làn sương mờ ấm áp dâng lên từ đáy thung lũng đã mang theo mùi thơm ngào ngạt đến nỗi mọi thứ xung quanh đều ngát hương hoa anh đào nở rộ. Mireille cố gắng không đế ý tới nỗi xốn xang mà cảnh vật nơi đây dấy lên trong cô.
"Ơn Chúa, chúng ta chưa phải là nữ tu", Valentine nói. "Chúng ta vẫn chỉ là những người mới tu chừng nào còn chưa tuyên thệ. Chẳng bao giờ quá muộn để được cứu rỗi. Em đã nghe thấy các nữ tu lớn tuổi thì thào với nhau rằng hiện các tên lính đang lúc nhúc khắp nơi trên đất Pháp, đánh cắp kho báu của các tu viện, vây bắt các nhà tu hành và tống họ về Paris. Có thể một vài tên lính cũng sẽ đến đây và bắt em về Paris. Rồi họ đưa em đi xem nhạc kịch mỗi đêm, và uống sâm banh từ chiếc giày của em !"
"Những người lính chẳng phải lúc nào cũng mê ly như em mơ mộng đâu", Mireille nhận xét. "Suy cho cùng, nghề của họ là giết chóc chứ đâu phải đưa người ta đi xem hát".
"Đó không phải tất cả những gì họ làm", Valentine nói, giọng cô trầm xuống thành một tiếng thì thào bí hiểm. Họ đã lên đến đỉnh đồi, nơi con đường trở nên bằng phẳng và thoáng đãng hơn nhiều. Ở đây lát đá phiến phẳng lỳ giống những con đường cao tốc thênh thang thường thấy ở các thành phố lớn. Phía bên kia đường, người ta trồng những cây bách lớn nổi lên trên nền một rừng cây anh đào, trông chúng có cái vẻ trang trọng nhưng gớm ghiếc, giống như chính cái tu viện này, hết sức lạc lõng.
"Em nghe nói", Valentine ghé sát vào tai cô chị họ thì thầm "rằng lính tráng thực hiện những hành động đồi bại đối với nữ tu sĩ ! Nếu một tên lính tình cờ bắt gặp một nữ tu, trong một cánh rừng chẳng hạn, hắn sẽ lập tức lôi một vật ra khỏi đũng quần, đặt vật ấy vào trong người nữ tu lắc qua lắc lại. Và thế là khi hắn xong việc, nữ tu sẽ có em bé !"
"Thật là báng bổ !" Mireille thét lên, giằng ra khỏi tay Valentine và cố nén một nụ cười thoáng trên môi. "Chị nghĩ em thô lổ đến thế là cùng, làm sao trở thành nữ tu được".
"Đó đúng là điều em đã nói suốt ngay từ đầu", Valentine thú nhận. "Em thích làm cô dâu của một người lính hơn làm cô dâu của Chúa".
Khi hai chị em tiến đến gần tu viện, họ có thể trông thấy bốn hàng cây bách sóng đôi ở mỗi lối ra vào và tạo thành hình một dấu thánh giá. Những thân cây bao bọc quanh hai cô gái khi họ gấp gáp chạy xuyên qua làn sương mù đang sẫm dần lại. Họ đi qua những cánh cổng tu viện và băng ngang khoảng sân rộng. Khi họ đến gần những cánh cửa gỗ cao nặng nề dẫn đến thánh đường chính, tiếng chuông tiếp tục rung lên, chẳng khác gì hồi chuông báo tử len lỏi qua lớp sương dày đặc.
Từng người dừng lại trước cửa để gạt bùn đất khỏi đế ủng, thoăn thoắt làm dấu thánh, và bước qua cánh cổng chính đồ sộ. Không ai trong hai cô liếc nhìn lên dòng mẫu tự tiếng Francs thô sơ khắc vào khung vòm đá gắn trên cửa, nhưng cô nào cũng biết nó viết gì, như thể những từ ngữ kia đã khắc sâu vào trái tim các cô:
Nguyền rủa kẻ nào mang những bờ tường này xuống cõi tục. Nhà vua chỉ bị ngăn cản bởi bàn tay của Chúa mà thôi.
Bên dưới lời đề từ, cái tên được khắc thành những chữ viết lớn rời nhau 'Carolus Magnus'. Ông chính là người tạo ra công trình này và cả lời nguyền ám lên những ai sẽ phá hủy nơi đây. Đó là nhà cai trị vĩ đại nhất của Đế chế Francs trong hơn một nghìn năm trước, người được cả nước Pháp biết đến với danh xưng hoàng đế Charlemagne.
(Charlemagne (Charles ler le Grand), vua của người Francs từ năm 768 đến 814 và là hoàng đế của đế chế Occident từ năm 800 đên 814, được coi là một trong những ông vua vĩ đại nhất nước Pháp nhờ công thống nhất và mở rộng lãnh thổ quốc gia.)
Những bức tường phía trong tu viện tối tăm, lạnh lẽo, và ẩm ướt rêu phong. Từ chính điện bên trong có thể nghe thấy những tiếng thì thầm cầu nguyện của các tu sĩ mới vào viện cùng tiếng lách cách khe khẽ khi họ lần tràng kinh Kính Mừng, kinh Sáng Danh, và kinh Lạy Cha. Valentine và Mireille vội vã đi qua nhà nguyện lúc người cuối cùng trong số những nữ tu mới vào viện đang quỳ gối khấn vái và hai cô dõi theo tiếng xì xào bàn tán đến bên một cánh cửa nhỏ phía sau bệ thờ, nơi phòng làm việc riêng của Mẹ Bề Trên. Một nữ tu lớn tuổi hơn đang hối thúc người tụt lại sau cùng nhanh nhanh đi vào. Valentine và Mireille đưa mắt nhìn nhau và bước vô.
Bị gọi đến phòng làm việc riêng của nữ tu viện trưởng kiểu này thật kỳ lạ. Rất ít nữ tu đặt chân đến đây, mà nếu có đến thường là để nhận kỷ luật. Valentine, người luôn bị trách phạt, rất hay đến đây. Thế nhưng tiếng chuông tu viện xưa nay vốn để triệu tập tất cả các nữ tu sĩ. Chắc hẳn tất cả mọi người sao có thể bị gọi đến phòng làm việc của Mẹ Bề Trên nhận hình phạt cùng một lúc được chứ ?
Khi họ bước vào căn phòng rộng có trần thấp, Valentine và Mireille thấy tất cả các nữ tu trong viện quả thật đã tề tựu ở đó, cả thảy hơn năm mươi người. Trên những dãy ghế dài bằng gỗ cứng đối diện bàn viết của nữ tu viện trưởng, họ ngồi thì thào với nhau. Rõ ràng ai cũng nghĩ đây là một sự việc khác thường, và những khuôn mặt ngước nhìn lên khi hai cô bước vào với vẻ mặt hãi hùng. Hai chị em ngồi vào chỗ của họ ở dãy ghế cuối cùng. Valentine siết chặt tay Mireille.
"Chuyện này là sao ?" Cô thì thào.
"Điềm dữ đây, chị nghĩ vậy", Mireille đáp, giọng cũng thì thầm. "Mẹ Bề Trên trông có vẻ nghiêm nghị và ở đây có hai phụ nữ chị chưa gặp bao giờ".
Ở
Ở cuối căn phòng dài, phía sau chiếc bàn đồ sộ bằng gỗ anh đào bóng loáng, nữ tu viện trưởng đứng đó. Bà nhăn nheo và khô cứng như một mảnh da khô, nhưng vẫn lộ ra uy quyền của chức vụ to lớn bà đang nắm giữ. Sắc thái muôn thuở trong điệu bộ của bà gợi lên ý nghĩ từ lâu bà đã hòa hợp thể xác vào chính tâm hồn mình, nhưng hôm nay trông bà viện trưởng nghiêm trang hơn bao giờ hết. Từ trước tới giờ, các nữ tu chưa từng thấy bà như thế lần nào.
Hai người lạ mặt, đều là những phụ nữ trẻ to xương với đôi bàn tay lớn, lù lù xuất hiện hai bên nữ tu viện trưởng như những thiên thần báo oán. Một người có làn da tái nhợt, tóc đen và đôi mắt sáng, trong khi người kia mang những đường nét khỏe mạnh giống Mireille, với nước da trắng mịn và mái tóc màu nâu hạt dẻ chỉ hơi sẫm hơn những lọn tóc nâu đỏ của Mireille một chút. Dù cả hai mang dáng dấp những nữ tu nhưng họ không khoác trên mình y phục tu hành mà mặc những bộ quần áo đi đường màu xám trơn rất bình thường.
Tu viện trưởng chờ cho tất cả các nữ tu sĩ yên vị và cánh cửa được khép lại. Khi căn phòng hoàn toàn yên ắng, bà mới bắt đầu nói với chất giọng bao giờ cũng khiến Valentine nghĩ đến âm thanh chiếc lá khô bị xéo nát.
"Các con của ta", nữ tu viện trưởng nói, chắp hai tay phía trước, "trong gần một nghìn năm nay, dòng tu Montglane đã trụ vững trên đỉnh núi này, thực hiện nghĩa vụ của chúng ta đối với nhân loại và phụng sự Chúa. Mặc dù cách ly khỏi thế gian nhưng chúng ta vẫn nghe thấy những bất bình âm ỉ trong tình trạng náo động ngoài kia. Tại nơi này, trong cái xó xỉnh nhỏ bé, chúng ta đã và đang tiếp nhận những tin dữ xảy ra gần đây, nó có thể làm thay đổi sự chở che an toàn mà chúng ta tận hưởng bấy lâu. Hai người phụ nữ đứng cạnh ta là những người đưa tin. Ta xin giới thiệu xơ Alexandrine de Forbin, bà ra dấu về phía người phụ nữ tóc đen, và Marie Charlotte de Corday, họ cùng nhau điều hành Tu viện các xơ tại tỉnh Caen ở địa phận miền Bắc. Họ đã đi suốt chiều dài nước Pháp dưới lớp áo cải trang, một hành trình gian khổ, để đem đến cho chúng ta lời cảnh báo. Vì vậy ta yêu cầu các con hãy lắng nghe những điều họ nói. Điều đó tối quan trọng đối với tất cả chúng ta.
Tu viện trưởng ngồi xuống, và người phụ nữ được giới thiệu là Alexandrine de Forbin hắng giọng, nói nhỏ nhẹ đến nỗi các nữ tu sĩ phải căng tai lắng nghe. Tuy vậy lời lẽ của cô ta rất rõ ràng.
"Các chị em đạo hữu của ta", cô bắt đầu, "câu chuyện mà chúng tôi phải kể không dành cho những người nhút nhát. Trong chúng ta có những người đến với Chúa với hy vọng cứu rỗi nhân loại. Có những người đến đây với hy vọng thoát ly trần thế. Và cũng có những người miễn cưỡng đến đây, không hề cảm thấy bất kỳ động lực nào hết". Nói đến đây, cô đưa cặp mắt đen láy, long lanh về phía Valentine khiến cô này thẹn đỏ cả mặt.
'Bất kể các chị nghĩ mục đích của mình là gì thì nó cũng đã thay đổi, kể từ hôm nay. Trong hành trình của Charlotte và tôi đã đi dọc suốt chiều dài nước Pháp, qua Paris và tất cả làng mạc. Chúng tôi đã chứng kiến không chỉ những người đói khát mà cả những người chết vì đói. Dân chúng đang nổi loạn trên đường phố để giành giật miếng ăn. Những cảnh tàn sát, đàn bà vác những chiếc đầu bị cắt lìa cắm trên đỉnh ngọn giáo diễu qua khắp các khu phố. Những cảnh hiếp dâm, và còn tệ hơn thế. Trẻ nhỏ bị giết, người lớn bị tra tấn ngay trên các quảng trường và bị phanh thây bởi những đám đông giận dữ ..." Các nữ tu không còn giữ yên được nữa. Giọng họ vang lên đầy hốt hoảng trong khi Alexandrine tiếp tục câu chuyện đẫm máu.
"Bây giờ là tháng tư. Tháng mười năm ngoái, nhà vua và hoàng hậu đã bị một đám đông phẫn nộ bắt cóc khỏi cung điện Versailles và bị đưa về giam giữ tại điện Tuilleries ở Paris. Chúng ép nhà vua ký vào một văn kiện, bản "Tuyên ngôn nhân quyền", tuyên bố quyền bình đẳng cho mọi người. Thực tế, Quốc hội hiện đang điều hành chính phủ; nhà vua không có quyền can thiệp. Đất nước chúng ta đã vượt xa tầm một cuộc cách mạng. Chúng ta đang trong tình trạng vô chính phủ. Tồi tệ hơn nữa, Quốc hội phát hiện trong ngân khố quốc gia không có vàng; nhà vua đã làm vương quốc khánh kiệt. Ở Paris, người ta tin rằng nhà vua sẽ không sống sót qua năm nay".
Cơn chấn động lướt qua những dãy ghế của các nữ tu, và tiếng xì xào sửng sốt râm ran khắp gian phòng. Mireille siết nhẹ bàn tay Valentine trong khi cả hai đều nhìn chằm chằm vào người nói. Những phụ nữ trong căn phòng
này chưa bao giờ nghe thấy những ý nghĩ kiểu đó được phát biểu lớn tiếng, và họ cũng không thể hình dung những điều như vậy là có thật. Tra tấn, vô chính phủ, giết vua. Sao có thể thế được ?
Viện trưởng đập tay xuống mặt bàn yêu cầu giữ trật tự, và các nữ tu sĩ im bặt. Bấy giờ Alexandrine ngồi vào chỗ, còn xơ Charlotte đứng một mình cạnh bàn. Giọng nói của xơ to và mạnh mẽ.
"Trong Quốc hội có một kẻ cực kỳ xấu xa. Mặc dù tự nhận mình là thành viên của giới tăng lữ nhưng hắn rất khao khát quyền lực. Y chính là giám mục địa phận Autun. Trong thâm tâm, những người thuộc Giáo hội La Mã tin rằng hắn là hiện thân của ma quỷ. Họ nói hắn sinh ra đã có móng chân chẻ đôi, biểu tượng của cái ác, rằng hắn uống máu con nít để giữ vẻ trẻ trung, rằng hắn cử hành lễ Đen cầu xin quỷ Satăng. Vào tháng mười, tên giám mục này đề xuất với Quốc hội cho Nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản của Nhà thờ. Ngày hai tháng mười một, dự luật Tịch Biên của hắn được Mirabeau, một chính khách cấp cao, ủng hộ trước quốc hội, và đã được thông qua. Ngày mười ba tháng hai, công cuộc tịch thu bắt đầu. Bất cứ tăng ni nào chống đối cũng đều bị bắt giam. Và ngày mười sáu tháng hai, tên giám mục của vùng Autun ấy được bầu làm chủ tịch Quốc hội. Giờ đây chẳng gì có thể ngăn hắn lại được".
Các nữ tu sĩ đang trong tâm trạng cực kỳ kích động, họ cất cao giọng kêu than kinh hãi và cực lực phản đối, nhưng giọng Charlotte vang vọng trên hết.
"Khá lâu trước khi đưa ra dự luật Tịch Biên, giám mục Autun đã mở những cuộc điều tra về nơi cất giữ tài sản của Giáo hội ở Pháp. Mặc dù bản dự luật ghi rõ các linh mục bị tước vị trước và các nữ tu sĩ được tha nhưng chúng tôi biết tên giám mục đó đã để mắt tới tu viện Montglane. Nhiều cuộc điều tra của y tập trung nhắm vào xung quanh Montglane này. Chúng tôi vội vã đến đây báo cho các chị biết chuyện này. Kho báu của Montglane không được để rơi vào tay hắn".
Nữ tu viện trưởng đứng đó, đặt tay lên bờ vai vững chãi của Charlotte Corday. Bà nhìn khắp lượt các hàng ghế nữ tu trong những bộ trang phục
đen, những chiếc nón hồ cứng của họ rập rờn dưới kia như mặt biển đầy hải âu hoang dã, và bà nở một nụ cười. Đây là các con chiên của bà, những người bà đã dẫn dắt từ rất lâu và có thể bà sẽ không được gặp lại họ trong đời một khi tiết lộ điều buộc phải nói ra.
"Giờ thì các con đã nắm được tình cảnh như ta", viện trưởng nói. "Mặc dù đã biết từ nhiều tháng nay về số kiếp của chúng ta nhưng ta vẫn không muốn nói làm các con lo sợ, đến khi nào ta chọn được một hướng đi. Trên hành trình đáp lại lời kêu gọi, các xơ ở Caen đã chứng thực nỗi hãi hùng tồi tệ nhất của ta". Các nữ tu lúc này đã rơi vào một sự im lặng chết người. Không thể nghe thấy một âm thanh nào ngoài giọng nói của nữ tu viện trưởng.
"Ta là một bà già có thể sẽ được gọi về với Chúa sớm hơn hình dung. Lời thề nguyện của ta khi bắt đầu cai quản tu viện này không chỉ là lời thề với Chúa. Gần bốn mươi năm trước, lúc trở thành nữ tu viện trưởng của Montglane, ta đã thề giữ kín một bí mật, nếu cần có thể hy sinh cả tính mạng để bảo toàn nó. Bây giờ đến lúc ta thực hiện lời thề này. Nhưng ta phải chia sẻ một vài điều của bí mật với từng người các con và đến lượt các con phải thề giữ kín. Câu chuyện của ta dài, và các con phải kiên nhẫn nếu ta có nói chậm rãi. Khi ta kể xong, các con sẽ biết tại sao từng người trong chúng ta buộc phải làm những điều tất yếu".
Nữ tu viện trưởng tạm ngừng để nhấp một ngụm nước trong chiếc cốc lễ bằng bạc đặt trên bàn trước mặt rồi nói tiếp.
Hôm nay là ngày bốn tháng tư năm 1790 sau Công nguyên. Câu chuyện của ta bắt đầu vào một ngày bốn tháng tư cách đây nhiều năm. Người tiên nhiệm đã kể ta nghe, như thông lệ bao đời nay từ khi tu viện ra đời, viện trưởng sẽ truyền lại câu chuyện cho người kế nghiệp trong buổi lễ thác vị. Và bây giờ ta kể các con nghe...
CÂU CHUYỆN CỦA NỮ VIỆN TRƯỞNG
Ngày bốn tháng tư năm 782, một lễ hội tưng bừng đã được tổ chức tại Đông cung ở Aachen kỷ niệm lần thứ bốn mươi ngày sinh của nhà vua Charlemagne vĩ đại. Ngài triệu tập toàn thể tầng lớp quý tộc đến chính điện, nơi có mái vòm chạm trổ và những bậc thang uốn quanh thành hàng, ngoài ban công xếp đầy những cây cọ nhập khẩu và được trang hoàng các vòng hoa lộng lẫy. Đàn hạc và đàn luýt réo rắt trong các đại sảnh giữa những chiếc đèn lồng bằng vàng và bạc. Các vị quần thần, xúng xính trong những bộ ngự bào màu tía, màu vàng và đỏ thẫm, đi đi lại lại giữa chốn thần tiên của các nghệ sĩ tung hứng, các anh hề, và những màn trình diễn múa rối). Gấu, sư tử, hươu cao cổ hoang dã và vài lồng bồ câu được đưa vào sân rồng. Cuộc vui tưng bừng nhộn nhịp kéo dài hàng tuần chờ đón sinh nhật nhà vua.
Đỉnh cao của lễ hội vào đúng ngày sinh nhật nhà vua. Sáng hôm ấy, Ngài ngự giá đến sân rồng chính điện với mười tám người con, hoàng hậu, và các cận thần được sủng ái ríu rít vây quanh. Charlemagne là một người cao lớn quá khổ với vẻ phong sương của một hiệp sĩ và một tay bơi lội. Làn da rám nắng, mái tóc và bộ râu hoe vàng dưới ánh mặt trời, trông Ngài hệt như chiến binh và là người cai trị vương quốc rộng lớn nhất thế giới. Khoác một tấm áo len dài giản dị có dây thắt ngang lưng cùng chiếc áo khoác bằng da lông chồn mactet vừa sát người và đeo thanh gươm muôn thuở, nhà vua băng qua sân rồng, hân hoan chào mừng thần dân và mời họ tự nhiên thưởng thức các món ăn thịnh soạn được dọn lên đầy ắp những chiếc bàn lớn quanh đại sảnh.
Nhà vua đã chuẩn bị một điều thú vị đặc biệt cho ngày trọng đại này. Là bậc thầy về chiến lược quân sự, ngài cực kỳ say mê một trò chơi. Trò chơi của chiến tranh, trò chơi của vua chúa, đó chính là môn cờ vua. Nhân dịp sinh nhật thứ bốn mươi của mình, Charlemagne đề nghị so tài với tay cờ xuất sắc nhất vương quốc, anh lính mang tên Garin Người Cương Trực.
Garin tiến vào sân rồng trong tiếng kèn trompet vang vang. Những nghệ sĩ nhào lộn nhảy nhót trước mặt anh còn các cô gái rải những lá cọ và cánh
hoa hồng trên lối đi. Garin là một thanh niên mảnh khảnh, nước da xanh tái với sắc thái nghiêm trang và đôi mắt xám, anh là binh lính trong quân đội miền Tây. Anh quỳ xuống khi nhà vua đứng dậy chào đón anh.
Bộ quân cờ được đưa vào đại sảnh trên vai tám tên đầy tớ da đen mặc những bộ chế phục kiểu Ma-rốc. Những người hầu này và cả bàn cờ vua họ đang khiêng trên đầu là món quà do Ibn-al-Arabi, thủ lĩnh Hồi giáo của Barcelona gửi tặng để tỏ lòng cảm ơn sự trợ giúp của nhà vua trong cuộc chiến chống lại người Basque (miền Tây Pyrenees, thuộc Đông Bắc Tây Ban Nha) ở vùng núi Pyrenees bốn năm về trước. Chính trong quá trình lui binh của trận đánh vang danh ấy, người lính Hruoland được nhà vua quý mến đã tử trận tại đèo Roncesvalles (thị trấn Tây Ban Nha) ở Navarre (vùng lịch sử của Tây ban Nha, nằm kẹp giữa những dãy núi của Pyrenees và các ngọn núi Iberiques) và hóa thân thành nhân vật chính trong tác phẩm "Bài ca Roland". Do liên tưởng đến sự việc đau lòng đó nên nhà vua đã không bao giờ chơi trên bộ bàn cờ ấy nữa, và cũng không bao giờ mang nó ra trước mặt thần dân của mình nữa.
Cả triều đình lấy làm kinh ngạc trước vẻ tráng lệ của bộ cờ khi nó được đặt lên một chiếc bàn trong sân rồng. Mặc dù được chế tác dưới tay những bậc thầy thợ thủ công Ả Rập nhưng các quân cờ vẫn mang dấu tích tổ tiên Ấn Độ và Ba Tư. Vài người tin rằng môn cờ vua đã có mặt tại Ấn Độ hơn bốn trăm năm trước khi Chúa giáng thế và du nhập vào Ả Rập thông qua nước Ba Tư trong cuộc chinh phạt vào năm 640 sau Công nguyên.
Chiếc bàn cờ khảm toàn bạc và vàng, mỗi cạnh đo đúng một thước. Các quân cờ nạm đá quý sặc sỡ, nào là hồng ngọc, ngọc bích, kim cương và ngọc lục bảo chưa cắt gọt thành hình nhưng đã được đánh bóng trơn nhẵn, một vài viên ngọc to bằng trứng chim cút. Rực rỡ và lấp lánh trong ánh đèn cung điện, bên trong vật ấy dường như ngời lên một thứ ánh sáng có sức thôi miên người ngắm.
Quân Shah, hoặc còn gọi là quân Vua, cao mười lăm phân, mô tả hình ảnh một người đàn ông đội mũ miện cưỡi trên lưng voi. Quân Hậu, còn gọi là Ferz, ngồi trong một chiếc ghế kiệu có mái che đính châu báu. Quân Tượng là những con voi mang bộ yên cương nạm ngọc còn quân Mã là
Ả Ả
những con ngựa chiến Ả Rập. Quân Xe, hay quân cờ thấp, trong tiếng Ả Rập gọi là Rukhkh, có nghĩa là chiến xa; đó là những con lạc đà to lớn mang trên lưng những chiếc ghế hình tháp. Những quân Tốt, tức người đưa tin, như ngày nay chúng ta thường gọi, là những bộ binh khiêm nhường cao bảy phân có cặp mắt đính đá quý và những viên ngọc điểm xuyết trên chuôi gươm.
Charlemagne và Garin tiến đến bàn cờ từ hai phía. Rồi nhà vua giơ cao tay, nói những lời làm kinh ngạc những ai trong triều đình hiểu rõ Ngài.
"Trẫm đề nghị một cuộc đánh cờ”, giọng Người nghe rất lạ. Charles không phải người thích cá cược. Các cận thần lo ngại đưa mắt nhìn nhau.
''Nếu lính Garin của trẫm thắng cuộc, trẫm sẽ ban cho anh ta phần vương quốc từ Aachen đến dãy núi Pyrenees vùng Basque và gả đứa con gái đầu lòng của trẫm cho. Nếu thua cuộc, anh ta sẽ bị chém đầu ngay trên sân rồng này lúc rạng đông".
Triều đình một phen nhốn nháo hẳn lên. Ai cũng biết nhà vua rất yêu quý những đứa con gái của mình, yêu đến nỗi Ngài đã van xin họ đừng xuất giá chừng nào ông còn sống.
Người bạn thân thiết nhất của nhà vua, công tước Burgundy, nắm lấy cánh tay và kéo nhà vua sang một bên. "Kiểu cá cược gì vậy ?" công tước thì thầm. "Ngài cá cược chẳng khác gì một gã mọi rợ ngớ ngẩn !"
Charles ngồi xuống cạnh bàn, trông nhà vua cứ như bị thôi miên. Công tước hoang mang, chính Gardin cũng bối rối. Anh ta nhìn vào mắt công tước, rồi chẳng một lời, ngồi vào chỗ của mình bên bàn cờ, chấp nhận lời cá cược. Các quân cờ được phân chia và như gặp vận may, Garin chọn quân trắng, và anh ta được ưu tiên đi trước. Ván cờ bắt đầu.
Có lẽ do tình hình căng thẳng, nhưng trong lúc ván đấu diễn tiến, sự quả quyết và độ chính xác mà hai đấu thủ dồn vào các nước cờ vượt hơn tầm một cuộc đua tài thông thường, cứ như một bàn tay khác, vô hình, đang lượn lờ trên bàn cờ. Thậm chí đôi lúc như thể chính những quân cờ thực
hiện nước đi. Bản thân các đấu thủ im lặng và mang sắc mặt tái nhợt, còn các vị cận thần lởn vởn quanh họ như những bóng ma.
Sau gần một giờ đồng hồ thi đấu, công tước Burgundy quan sát thấy cung cách của nhà vua khá kỳ lạ. Cặp lông mày nhíu lại, nhà vua có vẻ không tập trung tư tưởng và lơ đễnh. Cả Garin cũng bị ám ảnh bởi một tâm trạng bồn chồn đứng ngồi không yên, cử chỉ của anh ta nhanh và co giật, vầng trán lấm tấm mồ hôi. Cặp mắt hai người dán chặt vào bàn cờ như thể họ không thể rời mắt đi chỗ khác.
Bất thần Charles bật dậy, hét to, lật đổ bàn cờ và làm tất cả các quân cờ rơi vãi xuống sàn nhà. Vòng vây các vị cận thần lùi lại mở lối. Nhà vua nổi trận tam bành, một cơn thịnh nộ hãi hùng và kinh khiếp, Người vò đầu bứt tóc và đấm ngực thình thịch như một con thú hoang. Garin và công tước Burgundy lao đến bên cạnh nhà vua nhưng Ngài xua họ đi. Phải cần đến sáu cận thần mới kìm nổi nhà vua. Cuối cùng khi nhà vua đã dịu đi đôi chút, ông bối rối đưa mắt nhìn quanh như vừa bừng tỉnh sau giấc ngủ li bì.
"Bẩm bệ hạ", Garin nhỏ nhẹ nói và nhặt một trong số những quân cờ nằm dưới sàn nhà lên, trao cho nhà vua. "Có lẽ chúng ta nên hủy bỏ trận đấu này. Những quân cờ đã rối tung tất cả, và thần không thể nhớ nước đi nào cả. Thưa bệ hạ, thần ghê sợ bộ cờ cùa người Ma-rốc này. Thần tin nó đã bị ma quỷ ám, thế lực đen tối ấy đã buộc bệ hạ lấy sinh mệnh của thần ra cá cược".
Charlemagne ngả người ra sau ghế uể oải đặt một bàn tay lên trán nhưng không nói gì.
"Garin", Công tước Burgundy dè dặt nói, "ngươi biết nhà vua không mê tín kiểu ấy, và Người cho những điều dị đoan đó là dị giáo và mọi rợ. Người đã cấm thuật gọi hồn và tệ bói toán ở triều đình".
Charlemagne ngắt lời, nhưng giọng nói của nhà vua rất yếu như đã phải cố gắng đến kiệt sức. "Làm sao ta có thể đưa ánh sáng Thiên Chúa đến châu Âu khi binh lính trong chính quân đội của ta lại tin vào yêu thuật ?"
Ả
"Bùa phép này đã được sử dụng ở Ả Rập và khắp vùng phía Đông từ xa xưa", Garin đáp lại. "Thần không tin và cũng không hiểu nó, nhưng..." Garin cúi xuống sát nhà vua và nhìn vào đáy mắt ông "... người cũng cảm thấy nó mà”.
"Ta bị ngọn lửa cuồng nộ thiêu cháy", Charlemagne thú nhận. "Ta đã không thể tự kiềm chế bản thân. Trong người mang cảm giác như lúc mở màn trận đánh, ngay khi các binh sĩ xuất trận. Ta không thể giải thích được".
"Nhưng mọi vật trong khắp đất trời đều có nguyên do", một giọng nói cất lên sau lưng Garin. Anh quay lại, và đứng ở kia là người Ma-rốc da đen, một trong tám người đã khiêng bộ cờ vào triều. Nhà vua gật đầu ra hiệu cho người Ma-rốc nói tiếp.
“Từ nơi sinh ra, vùng Watar của chúng tôi, có một bộ tộc cổ mang tên Badawi, tức "cư dân của sa mạc". Theo truyền thống của những người này, những cuộc thách thức đẫm máu được xem là vinh dự nhất. Tục truyền rằng chỉ có sự cá cược đổ máu mới xua được Habb, giọt máu đen trong trái tim con người, giọt máu mà Tổng Thiên sứ Gabriel đã rút từ lồng ngực Muhammed. Ngài đã giao kèo một vụ đặt cược đổ máu trên chiếc bàn cờ này, đặt cược bằng sinh mệnh con người, dạng thức cao nhất của công lý. Muhammed nói, "Vương quốc chịu đựng được Kufr, sự bất trung với đạo Hồi, nhưng Vương quốc không thể chịu đựng được Zulm, sự bất công". '
"Một cuộc cá cược đẫm máu bao giờ cũng là một cuộc cá cược của cái ác", Charlemagne đáp lại. Garin và công tước Burgundy ngạc nhiên nhìn nhà vua, vì chẳng phải mói chỉ một giờ trước, chính nhà vua đã đề nghị một cuộc cá cược kiểu vậy đó sao ?
"Không !" người Ma-rốc ngang ngạnh nói. "Qua vụ đánh cá đẫm máu, người ta có thể đến được Ghutah, ốc đảo Thiên Đường trên trái đất. Nếu người ta đánh cá kiểu vậy trên bàn cờ của Shatranj, thì chính bản thân Shatranj sẽ đóng vai Sar !"
"Shatranj là tên mà người Ma-rốc đã đặt cho trò chơi cờ vua, thưa bệ hạ", Garin nói.
"Thế còn "Sar" là gì ?" Chalemagne hỏi và từ từ đứng dậy. Nhà vua rất cao lớn, cao hơn hẳn tất cả những người xung quanh ông.
"Đó là sự báo thù", người Ma-rốc trả lời tỉnh bơ. Anh ta cúi chào và lui đi.
"Chúng ta sẽ chơi lại", nhà vua tuyên bố. "Lần này sẽ không cá cược gì hết. Chúng ta chơi vì yêu thích trò chơi đơn giản. Những điều mê tín dị đoan ngớ ngẩn do bọn mọi rợ và con nít bịa ra kia thật chẳng có nghĩa lý gì". Các vị cận thần bắt đầu sắp lại bàn cờ. Những tiếng râm ran nhẹ nhõm lướt qua căn phòng. Charles quay về phía công tước Burgundy và nắm lấy cánh tay ông này.
"Có thật là Trẫm đã cá cược vậy sao ?" ông dịu dàng hỏi.
Công tước ngạc nhiên nhìn nhà vua. "Sao cơ, đúng vậy, bẩm bệ hạ", ông ta nói. "Bệ hạ không nhớ sao ?"
"Không", nhà vua buồn bã trả lời.
Charlemagne và Garin lại ngồi xuống chơi. Sau một ván đầu xuất sắc, Garin nổi lên chiến thắng. Nhà vua ban thưởng cho anh ta cơ ngơi Montglane ở Bas-Pyrenees và tước danh Garin de Montglane. Nhà vua mê tài chơi cờ bậc thầy của Garin đến mức ông ngỏ ý xây cho Garin một lâu đài để bảo vệ lãnh thổ mà anh ta đã giành được. Sau nhiều năm, nhà vua đã gửi cho Garin một món quà quý đặc biệt: bộ cờ kỳ diệu mà cả hai đã cùng chơi ván cờ trứ danh. Từ đó về sau, người ta gọi nó là "Bộ cờ Montglane".
* * *
"Đó là câu chuyện về tu viện Montglane", nữ tu viện trưởng kết thúc câu chuyện. Bà lướt mắt qua biển người im ắng ngồi dưới kia. "Sau nhiều năm, khi Garin de Montglane ngã bệnh hấp hối, anh ta hiến lâu đài của mình cho Nhà Thờ vùng lãnh thổ Montglane, về sau nó trở thành tu viện của chúng ta, và còn hiến cả bộ cờ vua nổi tiếng mang tên Bộ cờ Montglane".
Nữ tu viện trưởng ngừng giây lát, như thể không chắc có nên kể tiếp không. Cuối cùng bà nói tiếp.
"Nhưng Garin đã luôn tin rằng có một lời nguyền khủng khiếp liên quan đến Bộ cờ Montglane. Khá lâu trước khi sở hữu nó, anh ta đã nghe thấy nhiều lời đồn đại về những chuyện xấu xa có liên quan tới Bộ cờ Montglane. Người ta nói rằng, Charlot, cô cháu gái của chính hoàng đế Charlemagne, đã bị giết hại trong một trận đấu trên chính bàn cờ này. Đã có những câu chuyện lạ lùng về việc bộ cờ này góp phần gây ra những cuộc chém giết và bạo lực, thậm chí cả chiến tranh.
Tám người Ma-rốc da đen lúc trước chuyển bộ cờ từ Barcelona giao cho Charlemagne đã khẩn khoản xin được đến Montglane cùng bộ cờ. Và thế là nhà vua cho phép. Chẳng bao lâu sau, Garin cảm thấy chắc chắn nhóm người Ma-rốc có dính líu đến các nghi thức của những buổi dạ lễ bí hiểm đang được tổ chức trong lâu đài. Garin ngày càng sợ hãi phần thưởng mình có được, cứ như đó là công cụ của quỷ sứ. Anh ta cho chôn bộ cờ trong lâu đài và thỉnh cầu Charlemagne đặt một lời nguyền lên các bức tường để nó mãi mãi trụ vững. Nhà vua xem khẩn nài đó như một lời đùa giỡn và ông đáp ứng nguyện vọng của Garin theo cách riêng của mình. Thế nên ngày nay chúng ta mới thấy dòng chữ khắc trên cửa".
Nữ tu viện trưởng ngừng lại và trông có vẻ yếu ớt, xanh xao, bà đưa tay với lấy chiếc ghế sau lưng. Alexandrine đứng dậy và đỡ bà ngồi xuống.
"Còn bộ cờ vua ra sao, thưa Mẹ Bề Trên ?" một trong những nữ tu đứng tuổi ngồi ở hàng ghế đầu lên tiếng hỏi.
Nữ viện trưởng mỉm cười. "Ta đã nói với các con rằng cuộc sống của chúng ta sẽ lâm nguy nếu lưu lại tu viện này. Ta cũng đã nói với các con rằng binh lính của nước Pháp tìm cách tịch thu các kho báu của nhà thờ và quả thực bọn người đó hiện đang ở khắp nơi để thừa hành công vụ. Ta cũng đã nói thêm với các con rằng kho báu có giá trị cực kỳ to lớn và có thể chứa vô số điều xấu xa đã từng được chôn bên trong những bức tường của tu viện. Như vậy, các con sẽ chẳng lấy gì làm ngạc nhiên nếu ta tiết lộ điều bí mật mà ta đã thề giữ kín trong lòng khi mới đảm nhận chức vụ
chính là bí mật của Bộ cờ Montglane. Nó vẫn còn được chôn giấu bên trong những bức tường và dưới sàn căn phòng này, và chỉ mình ta mới biết vị trí chính xác của mỗi một quân cờ. Các con của ta, sứ mệnh của chúng ta là phải di dời công cụ của cái ác này đi, phân tán chúng càng xa càng tốt, sao cho bộ cờ sẽ chẳng bao giờ được tập hợp lại trong tay bất cứ kẻ khao khát quyền lực nào. Bởi lẽ nó chứa đựng quyền năng vượt trội hơn cả quy luật của tự nhiên và sự hiểu biết của con người".
"Nhưng ngay cả nếu có đủ thì giờ để phá hủy những quân cờ này hay làm biến dạng chúng đến mức không thể nhận ra nữa, ta cũng sẽ không chọn cách đó. Một vật mang sức mạnh lớn lao như vậy cũng có thể dùng làm công cụ cho cái thiện. Vì lẽ đó, ta thề chẳng những giấu kín Bộ cờ Montglane mà còn bảo vệ nó nữa. Có thể một ngày nào đó, khi lịch sử cho phép, chúng ta sẽ lắp ráp những quân cờ này lại và khám phá bí mật ẩn chứa của chúng".
Mặc dù nữ tu viện trưởng biết vị trí chính xác của từng quân cờ nhưng tất cả các nữ tu trong tu viện đã phải nỗ lực gần hai tuần lễ mới hoàn thành việc khai quật Bộ cờ Montglane lên và lau sạch, đánh bóng hết các quân cờ. Cần đến bốn nữ tu mới nhấc nổi bàn cờ lên khỏi sàn nhà. Khi nó đã được lau chùi, người ta thấy những biểu tượng kỳ lạ được cắt hoặc khắc nổi trên từng ô vuông. Những biểu tượng tương tự cũng được chạm trổ sau lưng mỗi quân cờ. Và còn một tấm khăn được cất trong chiếc hộp kim loại lớn, bốn góc hộp được hàn bằng sáp cứng, rõ ràng để chống mốc. Tấm khăn bằng vải nhung xanh đậm, chằng chịt những đường chỉ vàng thêu tay và đính đầy châu báu giống biểu tượng cung hoàng đạo. Ngay giữa tấm khăn có hai hình xoắn vào nhau như hai con rắn, ghép đôi tạo thành số tám. Nữ viện trưởng tin rằng tấm khăn này đã được dùng bao phủ Bộ cờ Montglane để tránh cho nó khỏi bị hư hại khi vận chuyển.
Gần cuối tuần thứ hai, nữ tu viện trưởng bảo các xơ chuẩn bị sẵn sàng để lên đường. Bà sẽ hướng dẫn riêng cho từng người về địa điểm họ được phải đến để không xơ nào biết được vị trí của những người khác. Như vậy có thể giảm bớt rủi ro cho từng người. Vì Bộ cờ Montglane có ít quân hơn số lượng các xơ trong tu viện nên không người nào, trừ nữ tu viện trưởng, biết ai có giữ một phần bộ cờ còn ai thì không.
Khi Valentine và Mireille được gọi vào văn phòng của nữ tu viện trưởng thì bà đang ngồi sau chiếc bàn giấy đồ sộ. Bà bảo họ ngồi vào chỗ đối diện bà. Trên bàn đặt Bộ cờ Montglane bóng loáng, một phần được phủ tấm khăn thêu xanh đậm.
Nữ tu viện trưởng đặt cây bút sang một bên rồi ngước mắt nhìn lên. Mireille và Valentine ngồi, tay trong tay, khắc khoải chờ đợi.
"Kính thưa Mẹ Bề Trên", Valentine buột miệng, "giờ đây con muốn Mẹ biết rằng con sẽ nhớ Mẹ rất nhiều khi phải ra đi, và con nhận ra rằng con đã là một gánh nặng to lớn đối với Mẹ. Con ước chi lúc trước mình đã ngoan hơn và gây cho mẹ ít phiền muộn hơn..
"Valentine", nữ tu viện trưởng mỉm cười và nói trong khi Mireille cấu vào sườn Valentine để cô này ngồi im. "Con muốn nói gì ? Con sợ con sẽ bị tách khỏi chị Mireille của con đúng không ? Phải chăng đó là nguyên nhân của những lời xin lỗi muộn màng kia ?" Valentine kinh ngạc trố mắt nhìn, tự hỏi làm thế nào nữ tu viện trưởng đọc được ý nghĩ của cô.
"Lẽ ra ta không nên hỏi", nữ tu viện trưởng nói tiếp. Bà đưa một tờ giấy qua bên kia chiếc bàn gỗ anh đào cho Mireille. "Đây là tên và địa chỉ của người giám hộ sẽ chịu trách nhiệm chăm sóc các con, và bên dưới ta có ghi rõ những lời chỉ dẫn đã dàn xếp cho cả hai con".
"Cả hai", Valentine reo lên, khó có thể ngồi yên tại chỗ. "Ôi, Mẹ Bề Trên kính mến, Mẹ đã thỏa mãn điều mong ước thiết tha nhất của con !"
Nữ viện trưởng bật cười. "Nếu ta không gửi các con đi cùng nhau, Valentine à, ta cảm thấy chắc chắn rằng một tay con sẽ tìm cách phá hủy mọi kế hoạch mà ta đã dày công thu xếp, chỉ để vẫn được ở bên cạnh chị con. Ngoài ra, ta có lý do chính đáng để gửi các con đi cùng nhau. Chú ý lắng nghe đây. Mỗi một nữ tu ở tu viện này đều được lo liệu. Những ai có gia đình nhận trở lại sẽ được đưa về nhà. Trong một vài trường hợp, ta tìm bạn bè hoặc bà con xa cho các con nương tựa. Nếu lúc trước các con đến đây có đem theo của hồi môn, ta sẽ hoàn trả lại để lấy cái sinh sống và tự vệ. Nếu không có vốn liếng gì, ta sẽ gửi sang một tu viện đáng tin cậy ở nước khác. Trong mọi trường hợp, chi phí sinh hoạt và đi lại sẽ được chu
cấp đầy đủ để bảo đảm cuộc sống cho các con của ta". Nữ tu trưởng chắp tay lại và tiếp tục. "Nhưng con quả là may mắn về nhiều phương diện, Valentine à", bà nói, "Ông ngoại con đã để lại một khoản tiền thừa kế rất lớn. Ta đã dành riêng cho cả hai, con và chị họ Mireille của con. Ngoài ra, dù không có gia đình nhưng các con có một người cha đỡ đầu nhận gánh vác trách nhiệm lo lắng cho hai con. Ta đã nhận được giấy cam kết rằng ông ta sẵn lòng thay mặt các con làm mọi chuyện. Điều đó đưa đến vấn đề thứ hai, một vấn đề cực kỳ quan trọng".
Mireille đưa mắt nhìn Valentine khi nữ tu viện trưởng nói về một người cha đỡ đầu, và lúc này cô nhìn xuống tờ giấy cầm trong tay nữ tu viện trưởng viết hoa dòng chữ, "M. Jacques-Louis David họa sĩ", và ghi địa chỉ tại Paris bên dưới. Trước giờ cô không biết Valentine có một người cha đỡ đầu.
"Ta nhận ra", nữ tu viện trưởng tiếp lời, "khi biết ta đã đóng cửa tu viện, những kẻ ở Pháp sẽ rất phật lòng. Nhiều người trong chúng ta sẽ gặp nguy hiểm, nhất là mối đe dọa từ những người như Giám mục xứ Autun, kẻ mong muốn được biết chúng ta đã đào và lấy mang đi vật gì khỏi những bức tường thành. Các con thấy đó, dấu vết hành động của chúng ta không thể xóa bỏ hoàn toàn được. Có thể có người bị săn lùng và bắt được. Có thể họ cần phải lẩn trốn. Vì chuyện này, ta đã lựa chọn tám người trong chúng ta, mỗi người trong số đó sẽ giữ một quân của bộ cờ này, đồng thời đóng vai trò điểm tập hợp, là nơi những người khác có thể để lại quân cờ nếu họ phải lẩn trốn. Hoặc để hướng dẫn chỉ cách tìm ra quân cờ ấy. Valentine, con là một trong số tám người đó".
"Con !" Valentine thốt lên. Cô khó nhọc nuốt nước miếng vì cổ họng bỗng trở nên khô rát. "Nhung thưa Mẹ Bề Trên tôn kính, con không là... Con không..."
"Con định nói con không thể là một người trụ cột chịu trách nhiệm chính", nữ tu viện trưởng nói và bất giác nở nụ cười. "Ta biết điều đó, và ta trông cậy người chị họ chắc chắn của con sẽ giúp ta giải quyết vấn đề này". Bà đưa mắt nhìn Mireille, và cô này gật đầu đồng ý.
"Ta lựa chọn tám người, không chỉ căn cứ vào khả năng", nữ tu viện trưởng nói tiếp, "mà còn dựa vào vị trí chiến lược của họ. Cha đỡ đầu của các con, ông David, sống ở Paris, trung tâm của bàn cờ là nước Pháp. Với tư cách một danh họa nổi tiếng, ông ta có được sự tôn kính và thân thiện của tầng lớp quý tộc, nhưng ông cũng là thành viên Quốc hội và được một số người xem như phần tử cách mạng nhiệt thành. Ta tin ông ấy ở vào vị thế có thể bảo vệ hai con trong mọi trường hợp cần thiết. Và ta đã góp cho ông ấy một khoản dư dả chăm sóc các con để tạo động lực cho ông ta làm việc này",
Nữ tu trưởng nheo mắt nhìn kỹ hai nữ tu trẻ tuổi đối diện, "Đây không phải một lời thỉnh cầu, Valentine", bà nói một cách dứt khoát. "Các chị em đạo hữu của con có thể gặp rắc rối, và con ở vị trí có thể giúp đỡ họ. Ta đã ghi tên và địa chỉ của con cho một số người đã lên đường về quê quán của họ. Các con sẽ đi Paris và làm như ta nói. Các con có mười lăm năm, đủ thời gian để biết trên đời còn những thứ quan trọng hơn cả sự thỏa mãn những ước vọng tức thời của con người", Nữ tu viện trưởng nói giọng nghiêm nghị nhưng nét mặt của bà nhìn Valentine vẫn dịu dàng như mọi khi. "Vả lại, Paris không phải là một địa điểm tồi", bà nói thêm.
Valentine mỉm cười lại với nữ tu viện trưởng. "Đúng vậy, thưa Mẹ Bề Trên tôn kính", cô đồng ý. "Một điều chắc rằng nơi đó có trình diễn nhạc kịch, và có lẽ sẽ có những bữa tiệc, các quý bà mặc y phục đẹp đẽ như người ta đồn", Miereille lại cấu sườn Valentine. "Ý con là, con xin cảm ơn Mẹ tôn kính đã đặt lòng tin quý báu vào đứa con trung thành của mẹ". Nghe vậy, nữ tu viện trưởng bật ra một tràng cười vui vẻ, khác với tính bà trước giờ.
"Tốt lắm, Valentine. Cả hai con có thể đi thu xếp đồ đạc. Các con sẽ lên đường rạng sáng mai, đừng chậm trễ". Nữ tu trưởng dứng dậy, nhấc hai quân cờ nặng trịch từ chiếc bàn cờ và đưa cho hai nữ tu tập sự.
Valentine và Mireille lần lượt hôn chiếc nhẫn của nữ tu viện trưởng và hết sức thận trọng mang vật báu ra cửa phòng làm việc. Khi họ sắp đi, Mireille, im lặng từ khi bước vào phòng đến giờ, mới quay lại nói.
"Con xin được phép hỏi, thưa Mẹ Bề Trên tôn kính", cô nói, "Mẹ sẽ đi đâu ? Chúng con muốn được nghĩ về Mẹ và gửi đến Mẹ những lời chúc tốt đẹp bất kể Mẹ ở đâu",
"Ta sẽ lên đường làm một cuộc hành trình mà ta đã mong ngóng từ hơn bốn mươi năm nay", nữ tu viện trưởng đáp. "Ta có một người bạn chưa gặp lại từ thuở thiếu thời. Trong nhiều năm tháng, các con biết đấy, đôi khi Valentine gợi ta nhớ rất nhiều về cô bạn niên thiếu ấy. Ta nhớ cô ấy là người rất sôi nổi, đầy sức sống...". Nữ tu viện trưởng tạm ngừng và Mireille nghĩ nếu một người trang nghiêm như Mẹ có thể nói những lời đó, hẳn bà tiếc nuối buồn bã lắm.
"Bạn của Mẹ sống ở Pháp sao, thưa Mẹ Bề Trên tôn kính ?" cô hỏi. "Không", nữ tu viện trưởng đáp. "Bà ấy hiện sống ở Nga". * * *
Sáng sớm hôm sau, trong ánh sáng lờ mờ u ám, hai người phụ nữ khoác trang phục đi đường rời khỏi Tu viện Montglane và trèo lên chiếc xe ngựa chất đầy cỏ khô. Chiếc xe đi qua cánh cổng cao vòi vọi và bắt đầu băng qua những hẻm núi. Một làn hơi sương mờ dâng lên, che khuất tầm nhìn khi họ đi xuống thung lũng xa dưới kia.
Họ hoảng sợ và kéo áo choàng quanh người, cảm thấy thật biết ơn vì đang được thừa hành một sứ mệnh của Chúa khi trở về cõi trần tục xa cách từ lâu.
Nhưng chẳng phải Đức Chúa đang lặng lẽ quan sát họ từ ngọn núi khi chiếc xe ngựa từ từ lăn bánh đi xuống lòng thung lũng tối tăm dưới kia sao ? Ở đỉnh núi tuyết nằm tít phía trên tu viện có một kỵ sĩ cưỡi trên lưng con ngựa gầy còm. Người kỵ sĩ dõi theo đến khi cỗ xe biến mất trong đám sương mù dày đặc. Rồi anh ta lặng thinh quay ngựa bỏ đi.
QUÂN TỐT TIẾN ĐẾN Ở BỐN CÁNH HẬU
Khai cuộc Tốt cánh Hậu (khu vực giới hạn từ cột a đến cột d) - khởi đầu bằng P- Q4 - là kiểu khai cuộc "kín". Điều này có nghĩa chiến thuật di chuyển giữa hai phe tiến triển rất chậm rãi. Cần có sự suy tính chuẩn bị kỹ lưỡng và thời gian để siết chặt vòng vây trong cuộc chiến giáp lá cà ác liệt với kẻ thù... Ở đây nghệ thuật bày binh bố trận là điều cốt lõi.
- Cuốn sách hoàn chỉnh về những nước đi khai cuộc trong môn cờ vua - Fred Reinfeld
Tại khu chợ, một người đầy tớ tình cờ nghe người ta nói Thần Chết đang tìm hắn. Hắn chạy thục mạng về nhà và thưa với chủ rằng hắn phải chạy trốn sang thị trấn Samarrah bên cạnh để Thần Chết không tìm được hắn.
Sau bữa ăn tối hôm ấy có tiếng gõ cửa. Người chủ ra mở và thấy Thần Chết đang đứng đó, khoác trên mình chiếc áo choàng dài và mũ trùm đầu màu đen. Thần Chết hỏi thăm về người đầy tớ.
"Hắn ốm nằm trong giường", người chủ vội vàng nói dối. "Hắn bệnh nặng lắm, không dậy nổi".
"Thế thì lạ thật", Thần Chết nói. "Vậy thì chắn chắn hắn ở sai chỗ rồi. Vì ta đã hẹn gặp hắn tối nay lúc nửa đêm. Ở Samarrah !
- Huyền thoại về cuộc hẹn ở Samarrah -
Thành phố New York
Tháng mười hai 1972
Tôi đang gặp rắc rối, rắc rối to.
Chuyện bắt đầu từ đêm giao thừa, ngày cuối cùng của năm 1972. Tôi có cuộc hẹn với bà thầy bói. Nhưng giống cái gã có hẹn ở Samarrah kia, tôi cũng tìm cách lẩn trốn chính số phận của mình bằng cách né tránh cuộc gặp mặt. Tôi không muốn nghe một người đọc chỉ tay nói về tương lai. Tại đây, ngay lúc này, tôi đã có quá đủ rắc rối rồi. Vào đêm giao thừa năm 1972, tôi đã làm rối tung cuộc sống của mình lên. Và tôi mới chỉ hai mươi ba tuổi.
Thay vì chạy trốn sang Samarrah, tôi đã chạy đến trung tâm dữ liệu tít trên tầng cao nhất của cao ốc Pan Am giữa Manhattan. Chỗ nay gần hơn Samarrah nhiều và, vào lúc mười giờ tối đêm giao thừa, nó biệt lập và vắng lặng chẳng khác gì một đỉnh núi.
Tôi có cảm giác cứ như đang ở trên một đỉnh núi vậy. Tuyết cuốn bay theo cơn gió lốc bên ngoài những khung cửa sổ nhìn xuống Đại lộ Công viên. Những bông tuyết lớn xinh xắn lơ lửng như được treo dính vào không trung. Cảnh vật y như bên trong vật chặn giấy có một đóa hồng tuyệt đẹp hoặc mô hình bé tí của ngôi làng ở Thụy Sỹ. Nhưng phía trong những bức tường kính của trung tâm dữ liệu Pan Am này la liệt những chiếc máy tối tân đang phát ra tiếng kêu nho nhỏ khi làm công việc kiểm soát lộ trình và phát vé máy bay đi khắp thế giới. Đây là một nơi yên tĩnh để trốn tránh và suy tư.
Tôi có nhiều thứ phải nghĩ ngợi. Ba năm trước, tôi đến New York làm việc cho Triple-M, một trong những nhà sản xuất máy tính lớn nhất thế giới. Lúc đó Pan Am là khách hàng của tôi. Đến giờ họ vẫn cho tôi sử dụng trung tâm dữ liệu này.
Nhưng hiện tôi đã chuyển công tác và đó có lẽ là sai lầm lớn nhất tôi đã từng phạm phải. Tôi đã có vinh dự trở thành người phụ nữ đầu tiên được tuyển vào hàng ngũ chuyên gia của công ty CPA Fulbright, Cone, Kane & Upham đáng kính ấy. Và họ không ưa phong cách làm việc của tôi.
"CPA", cho những ai chưa biết, là những chữ viết tắt của cụm từ "Chuyên viên kiểm toán". Fulbright, Cone, Kane & Upham là một trong tám hãng CPA lớn nhất thế giới, một nghiệp đoàn được đặt cho cái tên rất thích hợp, "Bộ Tám khổng lồ".
"Chuyên viên kiểm toán" là một cái tên tao nhã dành cho "Người kiểm tra sổ sách". Bộ Tám khổng lồ cung cấp dịch vụ sống còn ấy cho hầu hết các tập đoàn lớn. Họ rất được mọi người kính nể, hay nói trắng ra họ có thể khiến khách hàng rối tung rối mù lên.
Nếu Bộ Tám khổng lồ gợi ý khách hàng chi nửa triệu đô la cải thiện các hệ thống tài chính trong quá trình kiểm toán thì người ấy hẳn là ngớ ngẩn mới phớt lờ đề nghị đó. (Hoặc phớt lờ sự thật rằng hãng kiểm toán Bộ Tám khổng lồ có thể cung cấp dịch vụ cho anh ta, với một mức phí). Những chuyện này được ngầm hiểu trong giới tài chính cao cấp. Công tác kiểm toán thu về rất nhiều tiền. Thậm chí một cộng sự cấp dưới cũng có được khoản thu nhập lên đến con số hàng triệu.
Một vài người có thể không nhận thức được rằng lĩnh vực kiểm toán chỉ dành cho nam giới, nhưng Fulbright, Cone, Kane & Upham chắc chắn biết điều đó, và tôi lâm vào tình thế bế tắc. Vì tôi là người phụ nữ đầu tiên trước giờ không giữ chức thư ký nên họ đối xử với tôi cứ như với động vật quý hiếm, một thứ ẩn chứa nguy hiểm cần phải theo dõi hết sức cẩn trọng.
Là người phụ nữ đầu tiên trong lĩnh vực gì cũng gặp phiền nhiễu cả. Dù cho bạn là nhà du hành vũ trụ nữ đầu tiên hay người phụ nữ đầu tiên được nhận vào hiệu giặt là Trung Quốc, bạn cũng buộc phải thường xuyên chấp nhận tiếng chế giễu, cái cười khẩy, và ánh nhìn trêu chọc. Bạn còn phải cam chịu làm việc vất vả hơn nhưng lại nhận thù lao ít hơn những người khác.
Tôi đã học được cách cư xử vui vẻ khi ngươi ta giới thiệu tôi là "Cô Velis, nữ chuyên gia của chúng tôi trong lĩnh vực này". Với kiểu nhấn mạnh như vậy, mọi người có thể nghĩ tôi là một chuyên gia phụ khoa.
Thật ra, tôi là một chuyên gia vi tính, người thông thạo ngành công nghiệp vận tải số một New York. Đó là lý do họ tuyển dụng tôi. Khi công ty Fulbright Cone quan sát tôi, hình ảnh những đồng đô la nhảy múa trong ánh mắt đỏ ngầu của họ; họ không trông thấy một phụ nữ mà nhìn thấy một danh mục vốn đầu tư biết đi đảm bảo sẽ sinh lợi. Đủ trẻ để dễ tác động, đủ ngờ nghệch để cả tin, đủ ngây thơ để đưa khách hàng rơi vào bẫy
của đội ngũ nhân viên kiểm toán công ty - tôi có tất cả những gì họ đang tìm kiếm ở một người phụ nữ. Nhưng thời gian vui vẻ quả là ngắn ngủi.
Vài ngày trước Giáng sinh, khi tôi đang hoàn thành bản đánh giá các thiết bị để một khách hàng lớn có thể mua phần cứng máy tính trước cuối năm thì cấp trên Jock Upham ghé qua văn phòng tôi.
Jock đã ngoài sáu mươi, cao, gầy và thích biến mình thành trẻ trung. Ông ta thường xuyên chơi quần vợt, bảnh bao trong trang phục của hãng Brooks Brothers và nhuộm tóc. Ông ta thường nhún nhảy khi bước đi cứ như sắp đánh bóng.
Ông nhảy bổ vào văn phòng của tôi.
"Velis", ông ta nói với giọng nhiệt tình sốt sắng "tôi nghĩ mãi về công việc cô đang tiến hành. Tôi đã tự đưa ra nhiều lý lẽ về vụ ấy, và cuối cùng tôi đã tìm được điều đang khiến mình lo lắng". Đó là cách nói của Jock để cho biết rằng bất đồng ý kiến với ông ta quả thật chẳng ích gì. Ông ta tán thành cả hai phía, nhưng vì điều gì chăng nữa thì bên ông ấy cũng đã thắng.
'Tôi làm gần xong rồi, thưa ngài. Ngày mai sẽ giao cho khách hàng nên tôi hy vọng ngài không thay đổi thêm điều gì đáng kể".
"Chẳng có gì nghiêm trọng cả", ông ta nói với tôi như kiểu nhẹ nhàng đặt một quả bom xuống. "Tôi đã quyết định rằng máy in sẽ cần thiết cho khách hàng của chúng ta hơn ổ đĩa, và tôi muốn cô thay đổi các tiêu chí lựa chọn cho phù hợp".
Trong ngành kinh doanh máy tính, trường hợp này được gọi là "sửa chữa số liệu". Và điều đó bất hợp pháp. Một tháng trước, sáu đơn vị bán phần cứng đã gửi bảng giá chính thức cho khách hàng của chúng tôi. Giá cả dựa trên các tiêu chí lựa chọn mà những người kiểm toán công bằng như chúng tôi đã chuẩn bị. Chúng tôi cho biết khách hàng cần những ổ đĩa chất lượng, và một đơn vị đã có sản phẩm đáp ứng yêu cầu. Nếu bây giờ, sau khi việc đấu thầu đã xong, chúng tôi quyết định lại rằng máy in quan trọng hơn ổ đĩa thì hợp đồng sẽ có lợi cho một đơn vị khác, và tôi có thể đoán chính xác phía ấy là ai. Chính là đơn vị của người đã mời Jock đi ăn lúc trưa.
Rõ ràng hai bên đã thỏa thuận ngầm khoản lợi lộc gì đó. Có thể Jock thu được lời hứa hẹn cho công việc kinh doanh trong tương lai của hãng, hay ông ta sẽ có được một chiếc du thuyền hoặc xe thể thao. Nhưng vụ làm ăn này có được lợi gì đi chăng nữa thì tôi cũng không muốn có phần trong đó.
"Tôi rất tiếc, thưa ngài", tôi nói với ông ta, "nhưng đã quá muộn, giờ chúng ta không thể thay đổi tiêu chuẩn mà không thông qua khách hàng. Chúng ta có thể gọi điện và bảo rằng công ty muốn yêu cầu các đơn vị bổ sung vào bản thầu gốc, nhưng tất nhiên, điều đó có nghĩa họ sẽ không đặt mua thiết bị đến tận sang năm".
"Điều ấy không cần thiết, Velis", Jock nói. "Tôi đã không trở thành nhân viên cấp cao của hãng này nếu bất tài vô dụng. Đã nhiều lần tôi đại diện khách hàng và cứu vãn cho họ hàng triệu đô la chỉ trong nháy mắt mà không phải lúc nào họ cũng biết được điều đó. Chính cái bản năng sống còn kiên cường ấy đã giúp công ty chúng ta đứng ở vị trí hàng đầu trong Bộ Tám khổng lồ, hết năm này sang năm khác". Nụ cười có lúm đồng tiền vụt lóe trên khuôn mặt ông ta.
Chuyện Jock Upham làm gì đó cho khách hàng mà không cần đền đáp quả khó tin, chẳng khác gì chuyện con lạc đà ép mình chui qua lỗ kim. Nhưng tôi bỏ qua điều đó.
"Tuy nhiên, thưa ngài, đạo đức nghề nghiệp buộc chúng ta có trách nhiệm đưa ra cho khách hàng những đánh giá chính xác về các giá thầu chính thức. Suy cho cùng chúng ta là một công ty kiểm toán".
Lúm đồng tiền trên má Jock biến mất cứ như ông ta đã nuốt chửng nó. "Chắc cô không có ý nói cô đang từ chối gợi ý của tôi đây chứ ?"
"Nếu đó chỉ là một gợi ý chứ không phải một mệnh lệnh thì tôi muốn từ chối hơn là chấp nhận".
"Còn nếu tôi nói đó là mệnh lệnh thì sao ?" Jock ranh mãnh nói. "Với tư cách nhân viên cấp cao của công ty, tôi..."
"Vậy thì, thưa ngài, tôi e rằng tôi phải rút khỏi dự án này và bàn giao công việc cho người khác. Tất nhiên, tôi sẽ giữ lại các bản sao giấy tờ làm việc của mình để phòng trường hợp sau này có chất vấn gì". Jock hiểu điều đó nghĩa là gì. Các công ty kiểm toán không bao giờ tự kiểm tra sổ sách. Những người duy nhất có quyền đặt câu hỏi thẩm tra là các vị chức sắc trong chính phủ Hoa Kỳ. Những câu hỏi của họ có liên quan đến các hành vi bất hợp pháp và gian lận.
"Tôi hiểu", Jock nói. "Được rồi, thế thì tôi sẽ để cô làm việc của mình, Velis. Rõ ràng tôi phải tự mình quyết định". Nói rồi, ông ta đột ngột quay gót rời căn phòng.
Người quản lý đã đến gặp tôi ngay sáng hôm sau. Đó là một anh chàng lực lưỡng, tóc vàng, trạc ba mươi tuổi tên Lisle Holmgren. Lisle có vẻ bồn chồn lo lắng, mái tóc thưa của anh ta rối bù còn cà vạt thì xộc xệch.
"Catherine, cô làm cái quái gì với Jock Upham vậy ?", đó là những lời đầu tiên anh ta thốt ra. "Ông ta nổi điên như gà mắc nước, sáng nay mới bảnh mắt ra đã gọi tôi. Tôi còn chưa kịp cạo râu. Ông ta nói muốn cô làm ăn đàng hoàng, rằng cô đến là dở hơi. Ông ấy không muốn sắp tới cô trực tiếp gặp gỡ khách hàng nữa, rằng cô không biết bàn chuyện với các đối tác lớn".
Cuộc đời của Lisle xoay quanh cái hãng này. Anh ta có một cô vợ rất đòi hỏi, thích tung tiền vào các câu lạc bộ trong thành phố để thể hiện sự thành đạt. Mặc dù có thể anh ta không tán thành đường lối công ty nhưng anh ta vẫn tuân thủ, vẫn làm theo đường lối ấy.
"Tôi đoán đêm qua mình đã quẫn trí", tôi nói mỉa mai. "Tôi đã không chịu bỏ thầu. Tôi bảo ông ta có thể giao công việc đó cho người khác nếu muốn".
Lisle ngồi thụp xuống cái ghế cạnh tôi. Anh ta im lặng giây lát. "Catherine này, có nhiều thứ trong thế giới kinh doanh dường như trái với luân thường đạo lý trong mắt một người ở tuổi cô. Nhưng xét về bản chất, chúng không giống như vẻ ngoài".
"Cái này thì đúng".
"Tôi cam đoan với cô rằng nếu Jock Upham yêu cầu cô làm gì thì ông ta ắt hẳn có lý do".
"Tôi cược đấy. Tôi đoán ông ta có những lý do chính đáng đáng giá ba mươi hoặc bốn mươi nghìn đô la đấy", tôi nói với anh ta, và trở lại với công việc.
"Cô đang tự giết mình đấy, cô có thấy không ?" anh ta hỏi tôi. "Cô đừng có mà gây sức ép với một tay như Jock Upham. Lão ta sẽ không lặng lẽ ngoan ngoãn quay trở về cái xó xỉnh của mình đâu. Lão cũng sẽ chẳng thu mình để yên đâu. Nếu cô cần lời khuyên, tôi nghĩ cô nên đến ngay văn phòng của ông ta và xin lỗi. Hãy nói với ông ta cô sẽ làm bất cứ điều gì ông ta yêu cầu, hãy dỗ dành lòng tự ái của ông ấy. Bằng không, tôi có thể nói ngay với cô bây giờ rằng sự nghiệp của cô thế là kết thúc".
"Ông ta sẽ không đuổi việc tôi vì đã khước từ một việc làm phi pháp", tôi nói.
"Ông ta không cần sa thải cô. Ông ta hoàn toàn có thể làm cho cô khốn khổ khốn nạn đến mức cô ước gì mình đã không đặt chân đến chốn này. Cô là một cô gái tốt, Catherine, và tôi quý cô. Cô đã nghe ý kiến của tôi rồi đấy. Thôi, giờ tôi để cô tự định đoạt số phận của cô".
Chuyện ấy xảy ra cách đây đúng một tuần lễ, tôi đã không xin lỗi Jock. Tôi cũng không đề cập đến cuộc đối thoại của chúng tôi với bất cứ ai. Và tôi đã tiến cử nhà thầu cho khách hàng vào ngày hôm trước lễ Giáng sinh, theo đúng lịch trình, ứng viên của Jock đã không trúng thầu. Từ đó trở đi, mọi thứ cực kỳ bình lặng quanh cái hãng Fulbright, Cone, Kane & Upham đáng kính ấy. Cứ như thế, cho đến sáng hôm nay.
Vị cấp trên mất đúng bảy ngày để tìm ra cách tra tấn tôi. Sáng nay, Lisle đã đến văn phòng của tôi mang theo tin tốt lành.
"Thế là", anh ta nói, "cô đừng nói tôi không báo trước nhé. Phụ nữ rắc rối thế đấy, chẳng bao giờ chịu nghe lẽ phải cả". Ai đó giật nước trong nhà vệ
sinh ở "văn phòng" ngay cạnh phòng tôi làm việc, và tôi chờ cho cái âm thanh kia lắng hẳn đi. Một linh cảm cho tương lai.
"Anh có biết lập luận về một sự kiện được gọi là gì không ?" tôi nói. "Nó gọi là lý sự".
"Ở chỗ sắp đến, cô sẽ có khối thời gian để mà lý sự", anh ta nói. "Cấp trên sáng nay họp từ rất sớm, sau khi uống cà phê và ăn bánh mứt, họ quyết định số phận của cô. Biểu quyết ngang bằng giữa Calcutta và Algiers, nhưng cô sẽ rất vui khi biết rằng phe Algiers đã thắng. Phiếu bầu của tôi mang tính quyết định. Tôi hy vọng cô sẽ đánh giá cao điều đó".
"Anh đang lảm nhảm gì vậy ?" tôi nói, một cảm giác ớn lạnh khó chịu cồn cào trong dạ dày. "Algiers là nơi quái quỷ nào ? Liên quan gì đến tôi chứ ?"
"Algiers là thủ đô Algeria, một đất nước xã hội chủ nghĩa bên kia bờ biển Bắc Phi, một thành viên chính thức của Thế giới thứ ba. Tôi nghĩ tốt hơn cô nên cầm quyển sách này và đọc hết để hiểu rõ về nó". Anh ta quẳng một cuốn sách dày cộp lên bàn tôi và nói tiếp. "Ngay khi cô có hộ chiếu, có thể phải chờ khoảng ba tháng nữa, cô sẽ đến đó ở trong một thời gian khá dài. Đó là nơi làm việc mới của cô"
"Tôi được bổ nhiệm đến đó làm gì ?" tôi hỏi. "Hay đây đơn thuần là một cuộc đày ải trường kỳ ?"
"Không, thực ra chúng ta có một dự án sẽ bắt đầu ở đó. Chúng ta có nhiều việc để làm ở đất nước xa xôi ấy. Đó là hợp đồng một năm dành cho câu lạc bộ nhỏ của Thế giới thứ ba, nơi thỉnh thoảng người ta gặp gỡ để tán dóc với nhau về giá dầu. Nó có tên là OTRAM hay gì đó. Chờ một lát, để tôi tra cứu". Anh ta rút xấp giấy ra khỏi túi áo vét và lật giở từng trang. "Đây rồi, nó gọi là OPEC".
"Chưa từng nghe cái tên ấy", tôi nói. Tháng mười hai năm 1972, chẳng mấy người trên thế giới nghe nói về OPEC. Mặc dù chẳng bao lâu sau, tai của dân chúng lại được nhét đầy cái tên đó.
"Tôi cũng vậy", Lisle thú nhận. "Chính vì vậy cấp trên nghĩ đó là một nơi bổ nhiệm tuyệt vời dành cho cô. Họ muốn chôn vùi cô, Velis à, đúng như tôi đã nói". Ai đó lại xả nước nhà vệ sinh, và tất cả những chuyện này khiến mọi hy vọng của tôi tan thành mây khói.
"Chúng tôi nhận được điện tín từ văn phòng ở Paris vài tuần trước hỏi xem có chuyên gia máy tính nào trong lĩnh vực dầu khí, nhà máy điện không. Họ chấp nhận bất cứ người nào chúng tôi có, và chúng tôi có thể nhận được một khoản hoa hồng sộp. Không ai trong đội ngũ tư vấn cấp cao sẵn lòng ra đi. Năng lượng đơn giản không phải là một ngành công nghiệp phát triển mạnh. Việc đó được xem như một nhiệm vụ bế tắc. Chúng tôi sắp sửa đánh điện trả lời rằng không có người thì tên cô lóe lên".
Họ không thể ép tôi nhận nhiệm vụ này; chế độ nô lệ đã kết thúc cùng với cuộc nội chiến. Họ muốn buộc tôi thôi việc ở công ty, nhưng tôi thề không để họ yên dễ như vậy.
"Tôi sẽ làm gì cho những vị lớn tuổi tốt bụng của Thế giới thứ ba ?" tôi ngọt ngào nói, "Tôi không biết tí gì về dầu lửa. Còn về khí tự nhiên, tôi chỉ biết cái tôi nghe được từ văn phòng bên cạnh". Tôi ra hiệu về phía nhà vệ sinh.
"Mừng là cô đã hỏi", Lisle nói khi bước về phía cửa. "Cô sẽ được phân công về làm ở Con Edison cho đến khi rời khỏi đất nước. Họ đốt tất cả những gì trôi xuống sông Đông trong cái nhà máy điện của họ. Vài tháng nữa cô sẽ là chuyên gia về chuyển đổi năng lượng".
Lisle bật cười và vẫy tay ra sau lúc đi ra. "Vui lên nào, Velis. Cũng may là không phải Calcutta".
* * *
Thế là tôi có mặt ở đây, ngồi trong trung tâm dữ liệu Pan Am lúc nửa đêm, gặm nhấm thông tin về một đất nước mình chưa bao giờ nghe nói đến, về một châu lục mình chẳng biết gì, để trở thành chuyên gia trong cái lĩnh vực mình chẳng hề yêu thích và sống giữa những con người không cùng ngôn ngữ và có thể mang suy nghĩ phụ nữ chỉ thuộc về chốn hậu cung. À, tôi
nghĩ, cũng có nhiều điểm tương đồng với các Cấp lãnh đạo trong Fulbright Cone, trong cả hai phương diện.
Tôi vẫn ngoan cường. Chỉ mất ba năm tôi đã học được mọi thứ cần biết trong lĩnh vực vận tải. Nghiên cứu về năng lượng để biết mọi thứ có vẻ đơn giản hơn. Bạn đào một cái hố trong lòng đất và thế là dầu lửa vọt ra, chuyện này gay go đến đâu ? Nhưng tôi sẽ có vốn kinh nghiệm quý báu nếu tất cả sách vở đều bổ ích như cuốn sách trước mặt:
Năm 1950, dầu thô nhẹ của Ả Rập bán giá hai đô la một thùng. Đến năm 1972 giá bán vẫn là 2 đô la một thùng. Hiện tượng này đã khiến dầu thô nhẹ của Ả Rập trở thành một trong số ít những loại nguyên liệu quan trọng không bị tác động bởi nạn lạm phát gia tăng trong cùng thời điểm. Lời giải thích cho hiện tượng này là các chính phủ trên thế giới đã đặt quyền kiểm soát khắt khe lên sản phẩm thô cơ bản này.
Thật hấp dẫn. Nhưng điều tôi thấy hay thật sự lại không được giải thích trong sách. Một điều gì đó, thực vậy, đã không được giải thích trong bất cứ quyển sách nào tôi đã đọc đêm hôm ấy.
Dầu thô nhẹ của Ả Rập cũng là một loại dầu. Thực ra đó là loại dầu có giá đắt nhất và được săn lùng nhiều nhất trên thế giới. Lý do giá dầu vẫn giữ nguyên trong hơn hai mươi năm qua là vì giá cả không phải được kiểm soát bởi người mua hay người sở hữu mảnh đất có dầu bên dưới mà nó được kiểm soát bởi người phân phối, những tay trung gian khét tiếng. Và bao giờ cũng là thế.
Trên thế giới có tám công ty dầu lửa lớn. Năm trong số đó của Mỹ; ba công ty còn lại của Anh, Đức và Pháp. Cách đây năm mươi năm, trong một cuộc đi săn gà gô ở Scotland, vài người trong số những công ty dầu lửa này đã quyết định phân chia khu vực phân phối dầu trên thế giới và không cạnh tranh nhau nữa. Vài tháng sau họ nhóm họp tại Ostend với một người tên Calouste Gulbenkian, anh chàng này đến đem theo một cây bút chì đỏ trong túi áo. Anh ta lấy bút ra vẽ cái mà sau này được gọi là "Lằn Ranh Đỏ" xung quanh một vùng rộng lớn của thế giới gồm có Đế chế Ottoman cổ, giờ là Iraq và Thổ Nhĩ Kỳ, và một khu vực lớn thuộc vịnh Ba Tư. Quý
ông này phân chia nó ra và khoan một hố lớn. Dầu lửa phun ra ở Bahrain, và cuộc đua vẫn tiếp diễn.
Luật cung cầu là một vấn đề đáng tranh luận nếu bạn là nhà tiêu thụ lớn nhất trên thế giới, đồng thời là người kiểm soát việc cung cấp một sản phẩm. Theo những đồ thị tôi đã đọc, Mỹ từ lâu đã là nơi tiêu thụ dầu lửa đáng chú ý nhất. Và các công ty dầu lửa này, phần lớn là của Mỹ, đã kiểm soát việc cung cấp. Cách họ làm rất đơn giản. Họ hợp đồng để phát triển (hay tìm kiếm) dầu lửa với mức phân chia có lợi cho bản thân, rồi vận chuyển, phân phối dầu và thu thêm một khoản lời nữa.
Tôi ngồi đó một mình với chồng sách cao ngất đã thu thập từ thư viện kỹ thuật và kinh doanh của Pan Am, thư viện duy nhất ở New York mở cửa suốt đêm giao thừa. Tôi nhìn tuyết lất phất rơi xuyên qua ánh đèn đường vàng vọt chạy dọc suốt chiều dài Đại lộ Công viên, và tôi suy nghĩ.
Ý nghĩ lướt qua tâm tưởng tôi hết lần này đến lần khác cũng là ý nghĩ sẽ khiến những bộ óc mẫn tiệp hơn tôi phải suy tư trong nhiều tháng tới. Đó là ý nghĩ sẽ giúp những nhà lãnh đạo quốc gia trở nên sáng suốt và khiến các vị lãnh đạo công ty dầu lửa trở nên giàu có. Đó là ý nghĩ sẽ dồn ép mọi chuyện rơi vào chiến tranh và đổ máu cùng những khủng hoảng kinh tế, đưa đẩy các cường quốc lớn đến bên bờ vực cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Nhưng khi ấy, ý nghĩ đó trong tôi không mang khái niệm một cuộc cách mạng.
Ý nghĩ trên đơn giản thế này: Nếu chúng ta không kiểm soát được việc phân phối dầu lửa trên thế giới thì chuyện gì sẽ xảy ra ? Câu trả lời đơn giản nhưng hùng hồn cho vấn đề đó sẽ xuất hiện trước mắt mọi người trong vòng mười hai tháng tới, dưới dạng Chữ Viết Tay Trên Bờ Tường.
Đó là cuộc hẹn của chúng tôi ở Samarrah.
MỘT NƯỚC CỜ KÍN ĐÁO
Vị trí: Trong một nước cờ, việc bày binh bố trận hay lối chơi được chi phối bởi yếu tố chiến lược hơn chiến thuật. Như vậy, một nước cờ di chuyển vị trí cũng có thể trở thành một nước cờ kín đáo.
Nước cờ kín đáo: Một nước đi không chiếu cũng không ăn quân và nó không chứa đựng bất cứ mối đe dọa trực tiếp nào... Nhìn bề ngoài, điều này sẽ cho quân Đen khả năng tự do tung hoành to lớn.
- Từ điển cờ vua có minh họa – Edward R.Brace
Chuông điện thoại đang reo đâu đó. Tôi ngẩng đầu lên khỏi mặt bàn và nhìn quanh. Phải mất một giây sau tôi mới nhận ra mình vẫn còn đang ở trung tâm dữ liệu Pan Am. Lúc ấy vẫn đang là đêm giao thừa, chiếc đồng hồ treo tường góc phòng đằng kia chỉ mười một giờ mười lăm. Tuyết vẫn đang rơi. Tôi đã ngủ thiếp đi hơn một tiếng đồng hồ. Tôi tự hỏi sao chẳng ai nhấc máy.
Tôi đưa mắt nhìn quanh trung tâm dữ liệu, lướt qua nền nhà lát gạch giả màu trắng. Sàn phủ đầy dây cáp đồng trục, chồng chất vào giữa tòa nhà trông giống con giun đất. Khắp nơi không thấy ai; chỗ này chẳng khác gì một nhà xác.
Rồi tôi nhớ lại mình đã bảo những người phụ trách tổng đài có thể giải lao vài phút để tôi theo dõi tình hình giúp họ. Nhưng đã mấy tiếng đồng hồ trôi qua. Giờ đây, trong lúc bất đắc dĩ phải dậy và đi đến điện thoại, tôi mới thấy lời thỉnh cầu có vẻ lạ lùng của họ. Họ đã ghi "Chắc cô không phiền nếu chúng tôi xuống hầm đan hít một chút ?". "Đan hít là gì ?" .
Tôi đi đến bàn điều khiển vận hành tổng đài điện thoại và những chiếc máy đặt trên tầng này, thiết bị đó kết nối với các cổng an ninh và thiết bị chống
trộm trong khắp ngôi nhà. Tôi bấm nút đường dây điện thoại đang nhấp nháy và thấy ổ đĩa sáu mươi ba cũng sáng đèn đỏ báo hiệu cần lắp băng ghi âm vào. Tôi bấm nút băng ghi âm để gọi người điều khiển máy lên rồi nhấc điện thoại, dụi dụi cặp mắt còn ngái ngủ.
"Ca đêm Pan Am", tôi nói.
"Thấy chưa ?" một giọng nói ngọt như mía lùi với âm sắc không thể nhầm lẫn của tầng lớp thượng lưu Anh quốc, "Em đã bảo là con bé ấy đang làm việc mà ! Nó bao giờ mà chẳng làm việc". Ông ta đang nói với ai đó ở đầu dây bên kia. Rồi ông ấy nói tôi, "Cat yêu quý, con đến muộn đấy ! Tất cả chúng tôi đang đợi con. Đã hơn mười một giờ rồi. Con không biết đêm nay là đêm gì sao ?"
"Cậu Lewellyn", tôi nói, uể oải vươn vai và duỗi chân cho khỏi tê. "Con không đến được, thật mà, con có việc phải làm. Con biết là đã hứa, nhưng...".
"Không nhưng gì hết, cưng à. Đêm giao thừa chúng ta phải tìm hiểu số phận sắp tới của mình ra sao. Mọi người ở đây đã nghe thấy bói phán cả rồi và rất, rất thú vị. Giờ đến lượt con đấy. Harry đang hối cậu, ông ấy muốn nói chuyện với con".
Tôi rên rỉ và bấm nút gọi tổng đài lần nữa. Mấy tay trực tổng đài chết tiệt kia đâu cả rồi nhỉ ? Và vì cái quái gì mà ba gã đó lại muốn đón giao thừa trong cái hầm băng ghi âm lạnh lẽo, tối tăm kia, ngồi đan ủng ư ?
"Con yêu", Harry nói oang oang với chất giọng nam trầm luôn khiến tôi phải kéo ống nghe ra xa lỗ tai. Harry từng là khách hàng của tôi khi tôi còn làm cho Triple-M, và đến giờ chúng tôi vẫn thân thiết với nhau. Ông ấy xem tôi như một thành viên của gia đình và hễ có dịp là mời tôi đến dự các buổi kết thân tôi với cô Blanche, vợ ông ấy, và Llewellyn, ông em vợ. Nhưng mong muốn thực sự của Harry là tôi sẽ làm bạn với cô con gái Lily đáng ghét của ông ấy. Cô ấy cũng trạc tuổi tôi nhưng tính nết lại khác xa.
"Cưng này", Harry nói "chú hy vọng con sẽ bỏ qua, nhưng chú vừa cho Saul đem xe đến đón con".
"Lẽ ra chú không nên đưa xe đến, chú Harry à", tôi nói "Tại sao chú không hỏi ý con trước khi sai Saul đi trong đêm mưa tuyết thế này ?"
"Vì chú biết trước con sẽ không chịu", Harry nói thẳng thừng. Và quả thật là vậy. "Vả lại, Saul cũng thích lái xe đi loanh quanh. Đó là công việc của cậu ấy, cậu ấy là tài xế mà. Với mức lương chú trả, cậu ta không thể kêu ca, phàn nàn gì được. Dầu sao con cũng đã hàm ơn chú".
"Con chẳng nợ chú gì cả, chú Harry", tôi nói. "Chúng ta đừng quên ai đã làm gì cho ai".
Hai năm trước, tôi đã lắp đặt một hệ thống vận tải cho công ty của Harry khiến ông ta trở thành nhà buôn sỉ về mặt hàng quần áo lông thú hàng đầu không chỉ ở New York và còn ở Bắc bán cầu. Nhãn hiệu "Trang phục lông thú chất lượng của Harry" giờ đây có thể giao hàng cho khách đặt theo yêu cầu đến bất cứ nơi nào trong vòng hai mươi bốn giờ. Tôi cáu kỉnh bấm nút gọi tổng đài khi đèn đỏ của ổ băng cứ lóe lên trước mặt. Những người phụ trách đâu cả rồi ?
"Chú Harry, nghe này", tôi nói, vẻ sốt ruột. "Con không biết làm sao chú tìm được con nhưng con đến đây để được yên thân. Lúc này con không nói được nhưng con đang gặp vấn đề lớn..". "Vấn đề của con là lúc nào cũng làm việc và luôn ở một mình". "Vấn đề là cái công ty của con", tôi gắt gỏng. "Người ta đang tìm cách gạt con vào một công việc mới mà con chẳng biết tí gì về nó. Họ lên kế hoạch tống con ra nước ngoài. Con cần thời gian để suy nghĩ, thời gian để hình dung mình đang làm gì".
"Chú đã nói con rồi", Harry rống vào điện thoại "Lẽ ra con đừng bao giờ tin những kẻ ngoại đạo đó. Có ai nhận kế toán viên theo đạo Cơ đốc bao giờ ? Chú có thể lấy một người như vậy nhưng không để họ làm sổ sách của mình, con hiểu ý chú nói gì không ? Vậy nên con ngoan ngoãn lấy áo khoác rồi xuống cầu thang di. Con sẽ đến uống chút gì và kể cho chú nghe chuyện ấy. Vả lại bà thầy bói này lạ thường lắm ! Bà ta đã ở đây nhiều năm nhưng trước nay chú chưa nghe nói về bà ấy bao giờ. Nếu biết bà ấy sớm, chú đã sa thải nhân viên môi giới trong công ty và để bà ấy thế chỗ".
"Chú đùa chắc", tôi bực bội bảo ông.
"Đã bao giờ chú nói chơi với con chưa ? Nghe đây, bà ấy biết con sẽ có mặt ở đây tối nay. Điều đầu tiên thốt ra từ miệng bà ta khi đến bàn của chúng ta là, "Người bạn với những chiếc máy tính của ông đâu rồi ?" Con tin nổi không ?"
"Không, con e rằng con không thể đến", tôi nói với ông. "Nhưng dù sao thì chú đang ở đâu mới được chứ ?"
"Chú đang nói với con, cưng à. Cái bà ấy cứ nằng nặc đòi con đến. Thậm chí bà ta còn nói chú số phận con và chú gắn kết với nhau vì một lý do gì đấy. Chưa hết đâu, bà ta còn biết Lily lẽ ra đã có mặt ở đây".
"Lily chưa đến sao ?" tôi nói. Tôi nhẹ nhõm hơn khi nghe nói vậy nhưng tôi tự hỏi tại sao đứa con gái rượu duy nhất của ông lại có thể bỏ mặc cha mình vào đêm giao thừa như thế. Đáng lẽ cô ấy phải biết ông sẽ buồn biết bao.
"Ối, các cô con gái, có thể làm gì chúng chứ ? Chú cần nguồn an ủi tinh thần ở đây. Lúc nào tiệc tùng cũng chỉ chú với ông em vợ".
"Được rồi, con sẽ đến", tôi bảo với ông ta.
"Tuyệt. Chú biết con sẽ làm vậy mà. Vậy con xuống chỗ Saul ở trước cửa đi, rồi con sẽ được đón tiếp nồng nhiệt khi đến đây".
Tôi gác máy, cảm thấy chán nản hơn cả khi nãy. Lại một buổi tối ngồi nghe những chuyện tầm phào của những người cực kỳ tẻ nhạt trong gia đình Harry. Thế nhưng bao giờ Harry cũng khiến tôi bật cười, có thể điều này sẽ khiến đầu óc tôi thoát khỏi những vấn đề của bản thân.
Tôi rảo bước đi qua trung tâm dữ liệu đến hầm băng ghi âm và đẩy cửa bật mở. Những người phụ trách tổng đài đang ở đó, chuyền tay nhau một ống thuỷ tinh nhỏ chứa đầy bột trắng. Khi tôi bước vào, họ ngước nhìn lên với vẻ tội lỗi và chìa chiếc ống cho tôi. Rõ ràng ý họ muốn nói là "hút hít một chút" chứ không phải "đan hít". (cocaine và crocheting)
"Tôi về đây", tôi bảo họ. "Các anh hít đủ để lên lắp băng ghi âm vào ổ đĩa sáu mươi ba chưa, hay đêm nay chúng ta dẹp quách công việc đi ? "
Họ hối hả tranh nhau đi thực hiện yêu cầu của tôi. Tôi vớ lấy áo khoác và túi xách rồi đi ra thang máy.
Chiếc xe Limousine lớn màu đen đã đỗ sẵn trước cửa khi tôi xuống đến chân cầu thang. Tôi có thể trông thấy Saul qua khung cửa sổ lúc băng ngang hành lang. Ông ta nhảy ra khỏi xe và chạy đến mở những cánh cửa kính nặng nề.
Với khuôn mặt lưỡi cày hằn sâu những nếp nhăn từ gò má xuống đến quai hàm, Saul khó bị nhầm lẫn giữa đám đông. Ông ta cao lênh khênh tới hơn sáu foot, đứng gần bằng chú Harry nhưng chú Harry béo bao nhiêu thì Saul gầy bấy nhiêu. Họ đứng cạnh nhau trông chẳng khác gì những hình phản chiếu lồi lõm trong các tấm gương của nhà cười. Đồng phục của Saul lốm đốm bụi tuyết và ông ta nắm lấy tay tôi để tôi không bị trượt chân trên băng. Ông cười toe toét khi đưa tôi ngồi vào băng sau.
"Không từ chối Harry được phải không ?" ông nói. "Khó lòng từ chối được ông ấy".
"Chú ấy quá đáng thật", tôi đồng ý. "Tôi không biết chú ấy có hiểu từ "không" là gì không. Chính xác thì cuộc họp mặt phù thủy bí hiểm kia diễn ra ở đâu ?"
"Khách sạn Đại lộ số Năm", Saul trả lời, đóng cửa xe lại và đi vòng qua ghế tài xế. Ông ta nổ máy, và xe lăn bánh băng qua thảm tuyết dày.
Vào đêm giao thừa, những con đường cao tốc chính của New York đông đúc như giữa thanh thiên bạch nhật. Taxi và xe Limousine đi lại như mắc cửi trên các đại lộ còn những người thích chè chén lang thang trên vỉa hè tìm một quán nhậu khác. Phố xá la liệt biểu ngữ và hoa giấy, bầu không khí tràn ngập niềm vui.
Đêm nay cũng không ngoại lệ. Suýt nữa chúng tôi tông phải mấy tay say khướt từ quán rượu loạng choạng xông ra ngã bổ vào thanh chắn phía
trước xe của Saul, và một chai sâm banh văng lên đập vào mui xe Limousine.
"Đây sẽ là một chuyến đi vất vả", tôi nói với ông Saul.
"Tôi quen rồi", ông ta đáp. "Giao thừa năm nào tôi cũng đưa ông Rad và gia đình đi dạo, và đường phố luôn đông vậy. Lẽ ra tôi nên đòi tăng lương".
"Ông làm cho chú Harry lâu chưa ?" tôi hỏi khi xe rẽ xuống Đại lộ số Năm, vượt qua những tòa nhà đèn đuốc sáng trưng và những mặt tiền cửa hàng tối lờ mờ.
"Hai mươi lăm năm rồi", ông ta nói, "Tôi bắt đầu làm cho ông Rad khi ông ta còn chưa có Lily. Thật vậy, thậm chí trước khi ông ấy lập gia đình" .
"Hẳn ông thích làm cho chú ấy", tôi nói.
"Đó là công việc", Saul đáp. Rồi mất một giây sau, ông ta nói thêm, "Tôi quý trọng ông Rad. Tôi đã từng cùng ông ấy trải qua những giai đoạn khó nhọc. Tôi vẫn nhớ nhiều lúc ông ấy không thể xoay sở được tiền nhưng vẫn tìm đủ mọi cách trả công cho tôi, thậm chí nếu có phải nhịn đói nhịn khát. Ông ấy muốn có một chiếc Limousine và tài xế để nâng tầm địa vị cho ông ta". Saul dừng đèn đỏ, xoay người lại nói với tôi. "Cô biết đấy, hồi trước chúng tôi vốn thường giao hàng bằng xe Limo. Chúng tôi là những người buôn bán quần áo lông thú đầu tiên ở New York làm vậy", Trong giọng nói của ông ta thoáng chút tự hào. Bây giờ chủ yếu tôi chở bà Rad và em trai bà ấy đi mua sắm khi ông Rad không cần xe, hoặc tôi đưa Lily đi xem các trận đấu".
Chúng tôi lái đi trong im lặng cho đến hết Đại lộ số Năm. 'Tôi biết tối nay Lily không đến", tôi nói.
"Ừ", Saul đồng ý.
"Vì vậy nên tôi mới đến. Chuyện gì có thể quan trọng đến nỗi cô ấy không dành được vài tiếng đồng hồ ở cùng cha trong dịp giao thừa cơ chứ ?"
"Cô cũng biết cô ấy đang làm gì mà", Saul nói khi chiếc xe đến trước khách sạn Đại lộ số Năm. Có thể do tôi tưởng tượng nhưng giọng nói ông ấy nghe có vẻ hơi cay đắng. "Cô ấy vẫn đang làm cái điều muôn thuở, chơi cờ vua".
Khách sạn Đại lộ số Năm nằm ở phía Tây khu số Năm, cách Công viên quảng trường Washington vài khu nhà. Tôi có thể trông thấy những thân cây phủ tuyết dày như kem đánh, tạo thành những đỉnh nhỏ hệt chiếc mũ của vị thần giữ của. Chúng bao quanh cổng vòm khổng lồ ra vào làng Greenwich.
Năm 1972, quầy rượu của khách sạn vẫn chưa được đổi mới. Giống nhiều quán rượu khác ở New York, nơi đây giống bản sao của quán trọ ở nông thôn Tudor đến mức bạn cảm thấy lẽ ra phải đến đây trên lưng một con ngựa thay vì trong một chiếc Limousine. Những khung cửa sổ lớn nhìn ra đường phố được trang hoàng lộng lẫy bằng các tấm kính mờ đặt nghiêng. Ngọn lửa réo rắt trong chiếc lò sưởi lớn bằng đá soi tỏ những khuôn mặt hân hoan và tỏa luồng sáng đỏ xuyên qua những mảnh kính màu, phản chiếu lên đường phố tuyết phủ bên ngoài.
Harry đã kiếm được một chiếc bàn tròn bằng gỗ sồi gần cửa sổ. Khi xe dừng lại trước cửa, tôi đã có thể trông thấy ông ta giơ tay vẫy, người đổ về phía trước khiến hơi thở làm mờ cả lớp kính.
Llewellyn và Blanche ngồi bên góc bàn phía trong, cả hai đang thì thầm với nhau như một cặp thiên thần Botticelli tóc vàng.
Khung cảnh giống một tấm bưu thiếp, tôi nghĩ thầm trong lúc Saul đỡ tôi ra khỏi xe. Lửa tí tách reo, quán rượu đầy ắp những con người ăn mặc đẹp đẽ đi đi lại lại trong ánh sáng bập bùng. Cảnh tượng mờ mờ ảo ảo. Tôi đứng trên vỉa hè ngập tuyết và ngắm nhìn tuyết rơi lấp lánh trong ánh đèn đường khi Saul đã lái xe đi. Mới chớp mắt, Harry đã ùa ra đường đón tôi như thể sợ tôi sẽ tan biến như một bông tuyết.
"Con cưng !" chú ấy reo lên và ôm chầm lấy tôi, ghì chặt cứng thiếu điều tôi sắp vỡ ra từng mảnh vụn. Harry đúng là một người khổng lồ. Chú ấy cao hơn mét tám, và nếu nói ông ấy chỉ hơi dư cân thôi thì quả là khiêm
tốn. Harry là một quả núi bằng xương bằng thịt, cao ngất ngưởng với cặp mắt sâu hoắm và xương cằm bạnh ra trông như một vị thánh Bernard. Chiếc áo vét lòe loẹt ô vuông xanh, đỏ, đen khoác trên người khiến ông trông càng thêm đồ sộ.
"Chú rất mừng khi con có mặt ở đây", ông vừa nói vừa nắm tay tôi kéo vào hành lang, đi qua hai cánh cửa nặng nề để vào trong quầy rượu, nơi Llewellyn và Blanche đang ngồi đợi.
"Ôi, Cat yêu quí", Llewellyn reo lên, nhổm dậy hôn phớt vào má tôi. "Blanche và cậu đang phân vân không biết con có đói không, đúng vậy không, chị thân yêu ?" Llewellyn bao giờ cũng gọi Blanche là "thân yêu", cái tên Little Lord Fauntieroy đã từng gọi mẹ ông ấy.
"Thật lòng, cưng à", ông ta tiếp tục "lôi được con ra khỏi cái máy vi tính thật chẳng khác gì giằng Heathcliff khỏi giường bệnh của nàng Catherine. Cậu thề là mình thường băn khoăn không hiểu con và Harry sẽ làm gì nếu hàng ngày không có công lên việc xuống ?"
“Xin chào con”, Blanche nói và đưa tay ra hiệu cho tôi cúi xuống nhận nụ hôn hờ hững của bà ấy. "Trông con vẫn đẹp như mọi khi. Ngồi xuống nào. Harry sẽ kiếm gì cho con uống nhỉ ?"
"Anh sẽ kiếm cho con bé cốc rượu nóng đánh trứng". Harry nói, mặt mày rạng rỡ nhìn như cây thông Giáng sinh kẻ sọc ca rô tươi rói. "Món rượu nóng đánh trứng ở đây ngon tuyệt. Con nếm thử đi rồi sau đó muốn chọn gì khác tùy thích". Nói rồi ông len lỏi vào đám đông để đến quầy rượu, mái đầu cao trội hơn hẳn mọi người.
"Nghe Harry nói con sắp đi châu Âu, đúng vậy không ?" Llewellyn nói rồi ngồi xuống cạnh tôi và với tay về phía Blanche để lấy thức uống. Họ khoác trên người những bộ cánh sang trọng hợp nhau. Blanche mặc một chiếc áo choàng buổi tối màu xanh thẫm làm nổi bật nước da trắng mịn còn Llewellyn mặc áo vét nhung xanh thẫm thắt cà vạt đen. Mặc dù cả hai đang ở độ tuổi bốn mươi nhưng trông họ còn rất trẻ. Tuy vậy bên dưới cái vẻ ngoài vàng son hào nhoáng, trông họ chẳng khác gì những con vật trình diễn, ngớ ngẩn, hoang sơ dù đã được chải chuốt.
"Không phải châu Âu" tôi đáp. "Con đến Algiers. Đây là một kiểu trừng phạt. Algiers là thành phố ở Algeria.”
"Cậu biết nơi đó", Llewellyn nói. Ông và Blanche đưa mắt nhìn nhau. "Nhưng quả là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, chị nghĩ sao, bà chị thân yêu ?"
"Nếu tôi là chú, tôi sẽ không cho Harry biết chuyện ấy", Blanche nói, tay mân mê hai chuỗi hạt trai tuyệt đẹp. "Ông ấy quả là một kình địch đối với người Ả Rập. Lẽ ra nên nghe ông kể".
"Con sẽ không thích chỗ đó đâu", Llewellyn đế vào. "Một nơi dễ sợ. Nghèo nàn, bẩn thỉu, lúc nhúc đầy gián. Còn món couscous nữa chứ, một món hổ lốn chế biến từ bột nhão hun khói trộn với thịt cừu toàn mỡ là mỡ".
"Cậu đến đó rồi à ?" tôi hỏi, khoái chí với những nhận xét vui nhộn của Llewellyn về nơi đày ải sắp tới của mình.
"Không phải cậu", ông ta nói. "Nhưng cậu đang kiếm ai đó đi thay. Đừng hé môi lời nào, nhưng cưng à, cậu tin cuối cùng mình đã tìm được một ông chủ. Con có thể thấy đôi khi cậu phải nhờ cậy Harry về mặt tài chính.".
Chẳng ai biết rõ hơn tôi về việc Llewellyn mang nợ Harry đến mức nào. Thậm chí nếu Harry không luôn miệng nhắc tới chuyện này thì tình cảnh cái cửa hàng đồ cổ của Llewellyn ở Đại lộ Madison cũng đã nói lên điều đó. Người bán hàng nơi ấy vồn vã chào đón khi khách vừa vào cửa như thể đó là bãi bán xe cũ. Đa phần các cửa hàng buôn đồ cổ phát đạt ở New York chỉ giao dịch với khách có hẹn trước chứ không trông ngóng mong đợi khách như vậy.
"Nhưng bây giờ", Llewellyn nói, "cậu đã tìm ra một khách quen thích sưu tập đồ vật cực kỳ quí hiếm. Nếu cậu có thể định vị và kiếm được thứ ông ta đang truy tìm thì đó chính là chiếc vé để cậu được tự do".
"Ý cậu là thứ ông ta cần nằm ở Algeria à ?" tôi nói và đưa mắt về phía Blanche. Cô ấy đang nhấm nháp sâm banh và có vẻ không lắng nghe cuộc
trò chuyện. "Nếu mọi việc ổn cả, không đầy ba tháng nữa con sẽ có visa. Mà Llewellyn này, tại sao cậu không tự đi nhỉ ?"
"Chuyện chẳng đơn giản", Llewellyn nói. "Đối tác của cậu ở đó là một nhà buôn đồ cổ. Ông ta biết vật đó ở đâu nhưng không sở hữu nó. Chủ nhân món đồ là một người ở ẩn. Chuyện này có thể đòi hỏi đôi chút nỗ lực và một ít thời gian. Sẽ đơn giản hơn đối với người đã cư trú ở đó..".
"Sao cậu không cho con bé xem tấm ảnh", Blanche nói, giọng bình thản. Llewellyn nhìn chị, gật đầu và rút từ trong túi áo ngực ra một tấm ảnh màu gấp lại, trông nó giống được xé từ sách ra. Ông ấy vuốt thẳng tấm hình trên mặt bàn trước mặt tôi.
Trong ảnh là một tác phẩm chạm trổ, hình như làm bằng ngà voi hay gỗ nhạt màu, khắc họa hình ảnh một người đàn ông ngồi trên chiếc ghế kiểu ngai vàng, cưỡi trên lưng voi. Đứng trên lưng voi đỡ lấy chiếc ghế là vài tên lính hầu nhỏ bé, còn xung quanh chân con vật là những tráng sĩ to lớn hơn cưỡi ngựa và mang vũ khí thời trung cổ. Một tác phẩm điêu khắc lộng lẫy, có thể thấy nó rõ ràng là cổ vật. Tôi không biết chắc ý nghĩa tác phẩm nhằm mô tả điều gì nhưng khi nhìn vào tôi bỗng nhiên cảm thấy rợn người. Tôi liếc nhìn những khung cửa sổ gần bàn.
"Con nghĩ gì về nó ?" Llewellyn hỏi. "Quá tuyệt, phải không nào ?"
"Cậu có thấy nó là một bản phác thảo không ?" tôi hỏi. Nhưng Llewellyn lắc đầu. Blanche đang quan sát xem tôi nghĩ gì.
Llewellyn nói tiếp, "Đây là bản sao của người Ả Rập mô phỏng tượng khắc bằng ngà voi của Ấn Độ. Nó được trưng bày tại thư viện Quốc gia ở Paris. Con có thể đến xem nếu dừng chân ghé châu Âu. Nhưng cậu nghĩ bản gốc mà người Ấn mô phỏng theo thực ra lại là bản sao của một món đồ cổ xưa hơn nhiều nhưng chưa được tìm thấy. Nó mang tên "Hoàng đế Charlemagne".
"Charlemagne cưỡi voi ư ? Con nghĩ đó là Hannibal đấy chứ".
"Đây không phải tác phẩm khắc họa Charlemagne. Nó là quân Vua trong bộ cờ mà người ta cho là của Charlemagne. Đây là bản sao của một bản sao. Bản gốc như một huyền thoại. Không ai trong số những người cậu quen biết đã từng trông thấy nó".
"Vậy sao cậu biết nó có tồn tại ?" tôi háo hức.
"Nó có tồn tại", Llewellyn nói. "Toàn bộ bộ cờ được miêu tả trong cuốn Huyền thoại về Charlemagne. Khách quen của cậu đã kiếm được một vài quân cờ và muốn có trọn bộ. Ông ấy sẵn sàng chi một khoản tiền thật lớn để có những quân cờ khác. Thế nhưng ông ta muốn giấu tên. Toàn bộ chuyện này phải được giữ kín tuyệt đối, cưng à. Cậu tin bản gốc của vật ấy được làm toàn bằng vàng hai mươi bốn karat và khảm đầy đá quý".
Tôi trố mắt nhìn Llewellyn, phân vân không biết có nghe nhầm không. Rồi tôi hiểu ra chú ấy muốn tôi làm gì.
"Cậu Llewellyn, luật pháp có quy định về việc đưa vàng bạc đá quý ra nước ngoài, đó là chưa nói đến các báu vật quý hiếm có giá trị lịch sử. Cậu phát điên hay muốn con bị tổng cổ vô một nhà lao Ả Rập nào đó ?"
"Kìa, Harry đang trở lại", Blanche bình thản nói, đứng phắt dậy như để duỗi thẳng chân cẳng. Llewellyn vội vã gấp tấm hình lại và nhét vào túi áo.
"Đừng nói gì về chuyện này cho anh rể cậu", ông ta thì thầm. "Chúng ta sẽ thảo luận lại vấn đề này trước khi con lên đường. Nếu con quan tâm, việc này có thể đem lại cho cả hai ta bộn tiền". Tôi lắc đầu và đứng lên khi Harry bưng ra một khay đựng những chiếc cốc.
"Sao cơ, nhìn kìa", Llewellyn nói to, "Harry cùng món rượu trứng, anh ấy đem cho chúng ta mỗi người một cốc ! Anh ấy mới tuyệt làm sao". Llewellyn nghiêng người về phía tôi thì thầm, "Cậu cực ghét món rượu trứng. Rau cho lợn ăn, món đó là thế đấy". Nhưng cậu ấy vẫn đỡ lấy chiếc khay từ tay Harry và chia cho tất cả, mỗi người một cốc.
"Cưng này", Blanche nói, mắt nhìn chiếc đồng hồ gắn đá quý đeo ở cổ tay, "giờ Harry đã trở lại và tất cả chúng ta có mặt ở đây, sao cậu không chạy đi
tìm thầy bói. Bây giờ là mười hai giờ kém mười lăm và Cat nên nghe vận mệnh của con bé trước khi sang năm mới". Llewellyn gật đầu và bỏ đi, nhẹ nhõm vì cuối cùng cũng thoát được món rượu trứng.
Harry ngờ vực nhìn theo ông ta. "Em thấy đấy", chú ấy nói với cô Blanche, "chúng mình đã kết hôn hai mươi lăm năm, và năm nào anh cũng tự hỏi ai đổ rượu trứng vào những gốc cây tại tiệc Giáng sinh".
"Món rượu trứng rất ngon", tôi nói. Thức uống béo ngậy, đậm đà mùi kem quyện với vị rượu thơm nồng.
"Chính là cái cậu em trai của em..". Harry nói. "Trong suốt những năm qua, anh không ngừng hỗ trợ chú ấy còn chú ấy không ngừng đổ rượu trứng của anh vào những gốc cây. Hóa ra bà thầy bói này lại là ý tưởng đầu tiên thực sự hay ho mà chú ấy có được".
"Thật ra", Blanche nói, "chính Lily là người giới thiệu bà ấy, mặc dù chỉ có trời mới biết bằng cách nào con nó phát hiện ra tại khách sạn Đại lộ số Năm có một người xem chỉ tay đoán số mệnh ! Có thể con nó đã thi đấu cờ vua ở đây", cô Blanche cộc lốc nói thêm. "Thời buổi này hình như cờ vua có mặt khắp nơi".
Trong khi chú Harry ngán ngẩm nói về chuyện lôi Lily ra khỏi các ván cờ thì cô Blanche chỉ biết đưa ra những nhận xét chê bai. Người này trách cứ người kia đã sản sinh ra đứa con độc nhất quá lạ thường.
Lily chỉ chơi cờ vua và chẳng nghĩ đến chuyện gì khác. Cô ấy không quan tâm đến công việc kinh doanh hay hôn nhân - hai vấn đề gai góc của Harry. Blanche và Llewellyn ghét cay ghét đắng những nơi chốn và những kẻ "vô văn hóa" mà cô con gái thường lai vãng. Thẳng thắn nhìn nhận, tính kiêu căng ngạo mạn đeo bám dai dẳng nơi con người cô do môn chơi này gây ra quả là hơi khó chấp nhận. Tài nghệ điêu luyện Lily có được trong cuộc sống chỉ là di chuyển một mớ quân cờ bằng gỗ vòng quanh bàn cờ. Tôi nhận thấy thái độ những người trong gia đình dành cho cô ấy cũng phần nào công bằng.
"Để chú kể con nghe thầy bói đã nói gì với chú về Lily nhé”, Harry nói, phớt lờ Blanche. "Bà ấy nói một người phụ nữ trẻ bên ngoài gia đình sẽ đóng vai trò quan trọng trong đời chú”.
"Harry thích điều đó, như con có thể hình dung được", Blanche nói và mỉm cười.
"Bà ta nói trong ván cờ của cuộc đời, những quân tốt có vị trí cực kỳ quan trọng và nó có thể biến đổi đường đi nước bước nếu được một phụ nữ khác trợ giúp. Chú nghĩ bà ta đang nói về con".
"Bà ấy nói 'Những quân tốt là linh hồn của môn cờ vua”, Blanche ngắt lời ông ta, "Đó là một lời trích dẫn, em nghĩ..”
"Sao em nhớ được chuyện ấy nhỉ ?' Harry hỏi.
"Vì Llew đã viết tất cả vào mảnh khăn ăn”, Blanche đáp. "Trong ván cờ của cuộc đời, những quân tốt là linh hồn của bàn cờ. Và thậm chí một con tốt tầm thường cũng có thể thay đổi thế cờ. Một người bạn yêu quí sẽ làm đảo ngược tình hình. Người phụ nữ đưa cô ta vào cùng phe sẽ hóa giải những vấn đề vướng mắc và đem lại kết cục đã được báo trước". Blanche đặt chiếc khăn ăn xuống và nhấp một ngụm sâm banh mà không nhìn chúng tôi.
"Con thấy không ?" Harry sung sướng nói, "Chú hiểu cái này có nghĩa là bằng cách nào đó con sẽ làm nên điều kỳ diệu, kéo Lily ra khỏi bàn cờ trong khoảnh khắc để sống một cuộc đời bình thường".
"Nếu anh là em, anh sẽ không mừng đến nín thở đâu", Blanche nói có vẻ lạnh lùng.
Đúng lúc ấy Llewellyn đến, dẫn theo bà thấy bói. Harry đứng dậy và bước sang một bên nhường chỗ cho bà ta ngồi cạnh tôi. Ấn tượng đầu tiên của tôi là người ta đang giễu cợt mình. Bà ta đích thực rất quái dị; một kẻ lỗi thời thực thụ. Toàn thân co rúm, với một cái búi tó nom như một mớ tóc giả, bà ta nhìn tôi soi mói qua cặp kính hình cánh dơi đính đầy những viên kim cương giả. Những dải cao su sặc sỡ thắt lại như kiểu trẻ con làm tạo
thành sợi dây dài để đeo kính quanh cổ. Bà mặc chiếc áo len màu hồng thêu hạt cườm thành hình hoa cúc, cái quần màu xanh lá cây lụng thụng, và đi một đôi giày chơi bóng gỗ màu hồng tươi, trên mũi giày có đính cái tên "Mimsy". Bà mang theo chiếc bìa kẹp hồ sơ Masonite, chốc chốc lại liếc nhìn vào cứ như theo dõi sản xuất và dự phòng. Miệng bỏm bẻm nhai kẹo cao su Juicy Fruit, mỗi khi bà ta mở miệng nói tôi lại thoảng thấy mùi kẹo.
"Bạn ông đấy à ?" bà hỏi giọng the thé. Harry gật đầu và đưa bà ta một ít tiền. Nhét tiền vào kẹp hồ sơ và ghi chú ngắn gọn xong, bà ngồi xuống cạnh tôi, còn Harry ngồi bên kia bà. Bà ta đưa mắt nhìn tôi.
"Nào, cưng", Harry nói, "con chỉ cần gật đầu nếu bà ấy nói đúng. Để bà ta có thể nói..."
"Ai đang coi bói mới được chứ ?" bà già vặc lại, mắt vẫn chằm chằm nhìn tôi qua cặp kính tinh anh. Bà ta ngồi đó đã một lúc lâu, chẳng vội nói vận mệnh gì cả. Sau một hồi, mọi người bắt đầu bồn chồn.
"Bà không nghĩ sẽ nhìn lòng bàn tay tôi à ?" tôi hỏi.
"Con không được nói !" Harry và Llewellyn đồng thanh cất giọng.
"Im lặng !" bà thầy bói nói, vẻ khó chịu. "Đây là một đối tượng khó khăn. Tôi đang cố gắng tập trung tư tưởng".
Quả thật bà ấy đang tập trung tư tưởng, tôi nghĩ. Bà không rời mắt khỏi tôi từ khi ngồi xuống. Tôi liếc nhìn đồng hồ của Harry. Mười hai giờ kém bảy phút. Bà thầy bói ngồi bất động, trông cứ như hóa đá.
Khắp phòng, mọi người trở nên nôn nao khi kim đồng hồ nhích dần đến nửa đêm. Giọng nói của họ khàn khàn, và họ đang xoay những chai sâm banh trong mấy xô đá, đằng hắng và lôi ra những chiếc mũ ngộ nghĩnh cùng những hộp biểu ngữ và bông giấy. Bầu không khí căng thẳng của năm cũ sắp nổ tung như chiếc hộp chứa mấy con rắn gắn lò xo. Tôi bỗng nhớ lại lý do tại sao tôi luôn tránh ra ngoài vào đêm giao thừa. Bà thầy bói dường như quên hết mọi thứ xung quanh. Bà chỉ ngồi đó, nhìn tôi chằm chằm.
Tôi đưa mắt đi tránh cái nhìn của bà. Harry và Llewellyn hồi hộp nín thở chồm ra phía trước. Blanche đã ngồi lại vào ghế, bình thản quan sát khuôn mặt nhìn nghiêng của bà thầy bói. Khi tôi quay lại nhìn, bà ấy vẫn không hề nhúc nhích, cứ như bị thôi miên và đang nhìn thẳng vào mặt tôi. Rồi từ từ mắt bà nhìn xoáy vào mắt tôi. Khi đó, tôi cảm thấy cơn ớn lạnh hệt như đã từng bị trước đây, chỉ có điều lần này nó nảy sinh từ bên trong.
"Đừng nói", bất thần, bà thầy bói thì thầm với tôi. Phải một giây sau tôi mới nhận ra rằng môi bà đang mấp máy, rằng bà chính là người đã nói. Harry đổ hẳn người về phía trước để có thể nghe rõ những điều bà nói, và Llewellyn cũng chồm tới.
"Cô gặp nguy to", bà ta nói. "Ta cảm thấy nguy hiểm rình rập khắp nơi. Ngay lúc này",
"Nguy hiểm ư ?" Harry hỏi, giọng lạnh lùng. Đúng lúc ấy một cô hầu bàn bước đến cầm một chai sâm banh ngâm trong thùng đá, Harry tỏ vẻ khó chịu, vẫy tay bảo cô ấy để đó và đi đi. "Bà đang nói gì vậy ? Giỡn chơi sao ?"
Lúc này, bà thầy bói đang nhìn xuống bìa hồ sơ, tay gõ gõ chiếc bút chì vào khung kim loại như thể không chắc có nên nói tiếp không. Tôi trở nên khó chịu, tại sao bà thầy bói dạo trong quán rượu này đang tìm cách dọa dẫm tôi ? Bất thần bà ngước nhìn lên. Hẳn bà đã trông thấy vẻ phẫn nộ trên nét mặt tôi vì bà trở nên rất thông thạo.
"Cô thuận tay phải", bà ta phán. "Vì vậy, chính bàn tay trái sẽ miêu tả số mệnh gắn với cô từ khi chào đời. Bàn tay phải chỉ hướng cô đi. Nào, trước hết đưa tay trái đây".
Tôi phải thừa nhận chuyện này có vẻ kỳ cục, nhưng trong khi bà ấy lặng thinh nhìn chằm chằm vào tay trái của tôi thì tôi bắt đầu có cái cảm giác sợ sệt rằng quả thật bà ấy có thể trông thấy gì đó trong tay tôi. Những ngón tay gầy guộc xương xẩu của bà đang giữ chặt tay tôi lạnh buốt như băng.
"Ôi cô bé", bà nói, giọng nghe rất kỳ lạ. "Tay cô nói lên vài điều đấy, cô gái trẻ ạ".
Bà ngồi nín thinh nhìn lòng bàn tay tôi, mắt trợn lên sau cặp kính nhựa. Bìa hồ sơ trượt khỏi vạt áo rơi xuống sàn nhà nhưng chẳng ai cúi xuống nhặt nó lên. Sự căng thẳng bị dồn nén mỗi lúc một lớn quanh cái bàn của chúng tôi nhưng hình như chẳng ai muốn lên tiếng. Tất cả chằm chằm nhìn tôi trong khi tiếng ồn cuồn cuộn khắp căn phòng.
Khi hai tay bà thầy bói ghì lấy tay tôi thì cánh tay tôi bắt đầu nhức nhối. Tôi cố sức rút nhưng bà giữ chặt như một gọng kìm cứng ngắc. Vì một lẽ nào đó mà chuyện này khiến tôi tự dưng phát cáu. Tôi cũng cảm thấy hơi chóng mặt vì rượu trứng và cái mùi kẹo cao su Juicy Fruit nồng nặc. Tôi lấy tay kia ra sức cạy những ngón tay xương xẩu dài ngoằng của bà ra và định nói.
"Nghe này", bà dịu dàng ngắt lời tôi, hoàn toàn không giống cái giọng the thé chói tai lúc nãy. Tôi nhận ra chất giọng bà không phải người Mỹ, mặc dù tôi không thể xác định được là của vùng nào. Dù vẫn với mái tóc xám xịt cùng hình dáng co rúm khiến tôi cho rằng bà là một mụ già cổ lỗ sĩ, nhưng giờ đây tôi nhận ra bà cao lớn hơn khi mới xuất hiện, còn làn da thì mịn màng và hầu như không một vết nhăn. Tôi lại định mở miệng thì Harry đã nhấc bổng cái thân hình đồ sộ của mình ra khỏi ghế và đứng lên cúi nhìn chúng tôi.
"Với tôi, chuyện này quá cường điệu", ông ta nói, đặt bàn tay lên vai bà thầy bói. Ông thọc tay kia vào túi quần rồi quăng cho bà ấy vài xu. "Coi như ghé thăm một đêm, được chứ ?" Bà thầy bói phớt lờ Harry và nghiêng người về phía tôi.
"Ta đến để cảnh báo cô", bà thì thầm. "Đi đâu thì đi cũng phải đề phòng sau lưng. Đừng tin ai cả. Hãy ngờ vực bất cứ ai. Vì những chỉ tay trong lòng bàn tay cô cho thấy... đây là bàn tay đã được sắp đặt số phận trước".
"Ai sắp đặt ?" Tôi hỏi.
Bà ta lại nhấc tay tôi lên và lấy những ngón tay nhẹ nhàng lần theo đường chỉ tay tôi, cặp mắt nhắm lại như đang đọc bảng chữ nổi dành cho người mù. Giọng nói vẫn thì thầm, bà nói như hồi tưởng điều gì đó, như đọc một bài thơ đã thuộc làu.
"Chính khi những dòng này hợp lại ra chìa khóa. Hình ô cờ, khi ngày và tháng đều là bốn. Ích gì khi liều lĩnh chiếu bí lần nữa. Này là một trò chơi thực và kia là một trò chơi ảo. Hiểu thấu ra khi quá muộn vào thời điểm không báo trước. Quân trắng chiến đấu ác liệt không hồi kết. Ùn ùn khắp nơi quân đen sẽ cố định đoạt số mệnh của mình. Ắt phải tiếp tục tìm kiếm ba mươi ba và ba. Nơi cánh cửa bí mật mãi mãi bị khuất chìm".
Bà nói xong, tôi ngồi im còn Harry vẫn đứng đó, hai tay trong túi quần. Tôi chẳng hiểu ý bà ta muốn nói gì, nhưng thật kỳ cục. Hình như trước đây tôi đã có mặt ở đây, trong quán rượu này, ngồi nghe những lời lẽ ấy. Tôi nhún vai, vẻ bất cần, xem như một chuyện "biết rồi, khổ lắm, nói mãi".
"Tôi chẳng hiểu bà đang nói gì", tôi cất giọng nói to.
"Cô không hiểu sao ?" bà ta hỏi. Và thật kỳ cục, bà mỉm cười với tôi, một nụ cười khác thường, gần như bí ẩn. "Rồi cô sẽ hiểu", bà quả quyết. "Ngày thứ tư của tháng thứ tư ? Với cô, điều này có nghĩa gì không ?"
“Có, nhưng..."
Bà đặt ngón tay lên môi và lắc đầu. "Cô không được nói với bất cứ ai điều này có nghĩa gì. Rồi cô sẽ sớm hiểu ra phần còn lại. Vì đây là bàn tay đã được đoán trước, bàn tay của Số phận. Nó đã được định đoạt - "Vào ngày thứ tư của tháng thứ tư, rồi Bộ Tám sẽ đến".
"Ý bà là sao ? Llewellyn hoảng hốt kêu lên. Ông ấy với tay qua bên này bàn và tóm lấy cánh tay bà, nhưng bà giật tay ra.
Đúng lúc ấy căn phòng hoàn toàn chìm vào bóng tối. Những tiếng hò reo vỡ tung khắp căn phòng. Tôi có thể nghe thấy tiếng nút chai sâm banh nổ bôm bốp, và mọi người thét lên "Chúc mừng năm mới !" cứ như với hơi thở cuối cùng. Pháo nổ vang lừng đường phố. Trên nền đám than hồng nhạt sắp tàn của lò sưởi, bóng dáng méo mó của những người dự tiệc ôm lấy nhau như những hồn ma đen đúa của Dante. Tiếng la hét của họ vang vọng trong bóng đêm.
Khi ánh sáng đèn tràn ngập lại căn phòng thì bà thầy bói đã biến mất. Harry đang đứng cạnh chiếc ghế của mình. Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, chiếc ghế bà thầy bói ngồi khi nãy chớp mắt dã trống rỗng. Harry phá lên cười, rồi cúi xuống và hôn lên má tôi.
"Chúc mừng năm mới, con yêu" ông ta nói, và nồng nhiệt ghì chặt tôi vào lòng. "Số phận con quả là đáng kinh ngạc ! Chú đoán ý tưởng của mình đã hỏng bét. Tha lỗi cho chú nhé".
Blanche và Llewellyn tụm vào nhau thì thầm ở phía bên kia bàn.
"Nào, hai người", Harry nói. "Uống cạn chai sâm banh tôi vừa đem bán mình để mua nhé ? Cat à, cả con cũng cần nhấm nháp một chút". Llewellyn đứng dậy và đến hôn vội lên má tôi.
“Cat yêu quý, cậu hoàn toàn đồng ý với Harry. Trông con cứ như vừa gặp ma vậy". Quả là tôi cảm thấy hơi kiệt sức. Tôi nghĩ do vài tuần qua mình đã làm việc quá sức và giờ đã rất khuya.
"Một mụ già khủng khiếp làm sao", Llewellyn nói tiếp. "Tất cả lời nói vô nghĩa về một mối nguy. Ấy thế mà, dường như con hiểu những gì bà ta nói. Hay đó chỉ là cậu tưởng tượng ?"
"Con không hiểu", tôi nói với ông. "Những bàn cờ và những con số và ... Bộ Tám là gì ? Bộ Tám cái gì ? Con không nhớ đầu đuôi gì hết". Harry đưa cho tôi một ly sâm banh.
"Ôi, không sao", Blanche nói và đưa qua bên này bàn cho tôi một mảnh khăn giấy lót ly. Trên đó có vài chữ nguệch ngoạc, "Llew đã viết tất cả vô đó, nên giờ cô đưa cho con. Có thể sau nay nó sẽ làm con nhớ lại. Nhưng chúng ta hãy hy vọng là không ! Tất cả những điều này nghe khá chán nản".
"Ồ thôi nào, tất cả trò này vui đấy chứ", Llewellyn nói. Cậu rất tiếc là chuyện này lại hóa ra kỳ cục, nhưng đúng là bà ấy đã nói đến cờ vua, đúng không ? Trò chơi về "chiếu bí" và mọi thứ khác. Có vẻ là điềm gở. Con biết không, từ "chiếu bí" lấy từ chữ Shah-mat trong tiếng Ba Tư. Nó có
nghĩa là "cái chết dành cho Vua". Kết hợp với việc bà ta nói con đang lâm nguy, con có chắc chắn rằng mọi thứ đều vô nghĩa đối với con không ?" Llewellyn gằn giọng.
"Thôi dẹp quách nó đi", Harry nói. "Chú đã nhầm khi nảy ra ý nghĩ vận mệnh của chú có liên quan đến Lily. Rõ ràng toàn bộ chuyện này quá nhảm nhí. Quên đi kẻo con sẽ gặp ác mộng đấy".
"Liiy không phải người duy nhất con quen biết chơi cờ", tôi nói với ông. "Thực ra, con có một người bạn vốn là tay cờ cừ khôi..." "Thật hả ?" Llewllyn hỏi hơi vội vã. "Cậu có quen không ?"
Tôi lắc đầu. Blanche định nói thì Harry đưa cho bà ta một ly rượu sủi bọt. Bà mỉm cười và bắt đầu nhấm nháp.
"Đủ rồi", Harry nói. "Chúng ta hãy nâng cốc chúc mừng năm mới, bất kể sắp tới xảy ra chuyện gì".
Chúng tôi nốc cạn chai sâm banh trong khoảng nửa giờ. Cuối cùng chúng tôi lấy áo khoác, đi ra ngoài và lần lượt chui vào chiếc Limousine đậu sẵn trước cửa một cách thần kỳ. Harry dặn Saul cho tôi xuống trước, ở khu nhà gần sông Đông. Khi đến trước căn hộ của tôi, Harry chui ra khỏi xe và ôm chặt tôi trong vòng tay to lớn của ông ta.
"Chú hy vọng năm mới sẽ là một năm tuyệt vời của con", ông ta nói. "Có thể con sẽ làm được điều gì đó với đứa con gái bướng bỉnh của chú. Thật vậy, chú tin là thế. Chú thấy nó trong từ ví của mình".
"Nếu chưa ngủ thì con sẽ xem tử vi của mình", tôi nói, cố nén một cái ngáp dài. "Cảm ơn chú vì món rượu trứng và sâm banh".
Tôi siết chặt bàn tay Harry và ông ta nhìn theo khi tôi đi vào dãy hành lang tối mờ. Người gác cửa đang gà gật, ngồi thẳng mình trên một cái ghế ngay bên trong cánh cửa. Ông ta không hề nhúc nhích khi tôi đi qua căn phòng rộng lớn sáng lờ mờ và bước vào thang máy. Tòa nhà im ắng như một nấm mồ.
Tôi bấm nút, và những cánh cửa ầm ầm khép lại. Trong khi thang máy đi lên, tôi lôi mảnh khăn giấy đã nhét vào túi áo khoác ra đọc lại lần nữa. Nó vẫn chẳng có nghĩa gì, vậy nên tôi cho qua. Không tưởng tượng thêm nữa thì tôi cũng đã có quá đủ vấn đề để lo lắng rồi. Nhưng khi cửa thang máy mở ra và trong lúc bước vào dãy hành lang lờ mờ dẫn tới căn hộ thì tôi bỗng thoáng tự hỏi sao bà thầy bói kia biết được ngày bốn tháng tư là sinh nhật tôi.
FIANCHETTO
(Sự phát triển của quân Tượng ở cánh, trong nước đi khai cuộc của cờ vua)
Những Aufin (quân Tượng) là những giám mục cấp cao đội sừng... Chúng di chuyển và ăn quân theo đường chéo vì gần như mọi quân Tượng đều lạm dụng quyền hành bởi tâm địa tham lam.
- Quaendam Moralitas de Scaccario Giáo hoàng Innocent Đệ Tam (khoảng 1198-1216) -
Paris Hè 1791
"Ồ, hỏng rồi, hỏng bét !" Jacques-Louis David kêu lên. Ông ta quẳng chiếc bút vẽ lông chồn có dây đeo tay lên sàn nhà trong nỗi thất vọng tột cùng và đứng bật dậy. "Bác đã bảo các con không được nhúc nhích. Không nhúc nhích ! Giờ các nếp gấp bung cả ra rồi. Mọi thứ thế là toi hết !"
Ông ta liếc nhìn Valentine và Mireille ngồi làm mẫu trên một chiếc giá cao phía bên kia xưởng vẽ. Hai cô gái gần như khỏa thân, trên người chỉ khoác độc một mảnh vải trong suốt, được chỉnh sửa kỹ lưỡng và thắt lại bên dưới ngực, giống kiểu thời trang Hy Lạp cổ đại hiện rất thịnh hành ở Paris.
David cắn khóe ngón tay cái, mái tóc đen rối bời tua tủa tứ phía, còn cặp mắt đen thì lóe lên điên tiết. Bụi chì than vương đầy chiếc khăn lụa sọc xanh vàng, quấn hai vòng quanh cổ và được thắt lại kiểu cọ. Những ve áo rộng bản thêu thùa diêm dúa trên chiếc áo vét nhung xanh dương của ông thì xộc xệch.
"Giờ bác lại phải bài trí mọi thứ một lần nữa", ông ta phàn nàn. Valentine và Mireille ngồi im thin thít. Các cô đỏ bừng mặt vì bối rối, trố mắt nhìn
chằm chằm khung cửa mở phía sau nhà họa sĩ.
Jacques-Louis nóng ruột ngoái cổ lại nhìn. Một anh chàng trẻ tuổi đứng đó, cao lớn, thân hình cân đối, cực kỳ điển trai đến mức có thể trở thành thiên thần giáng thế. Mái tóc vàng dày xõa thành từng lọn được buộc lại sau lưng bằng một dải lụa trơn. Chiếc áo thầy tu dài bằng lụa màu đỏ tía rủ xuống như làn nước chảy xuống dáng hình tao nhã của anh ta.
Cặp mắt xanh thăm thẳm đến nao lòng của anh ta bình thản nhìn người họa sĩ. Anh ta giật mình mỉm cười với Jacques-Louis. "Tôi hy vọng không làm phiền anh", anh ta lên tiếng, liếc mắt nhìn cái giá nơi hai người phụ nữ trẻ đang đứng, lơ lửng như chú nai sắp cất cánh. Giọng nói anh ta mang đậm chất nhẹ nhàng và tự tin của tầng lớp thượng lưu, những kẻ cho rằng người ta sẽ nhiệt tình chào đón họ hơn là hăng say làm bất cứ thứ gì đang dở dang.
"Ồ, Maurice, lại là cậu", Jacques-Louis nói, vẻ khó chịu. "Ai để cậu vào vậy ? Họ cũng biết tôi không thích bị quấy rầy khi đang làm việc mà".
"Tôi hy vọng anh không chào đón tất cả các vị khách đến vào bữa trưa với thái độ này", người thanh niên đáp, vẫn mỉm cười. "Hơn nữa, với tôi chuyện này không giống làm việc cho lắm. Hay tôi có thể nói dường như đây là kiểu công việc tôi rất vui lòng được giúp một tay".
Anh ta lại đưa mắt nhìn Valentine và Mireille, hai cô đang đắm mình trong làn ánh sáng vàng rực từ những khung cửa sổ phía bắc tràn vào, có thể thấy rõ đường nét của những thân hình run rẩy qua lớp vải trong suốt.
"Tôi thấy hình như cậu đã giúp đủ rồi đấy", David nói và lấy một cây bút vẽ khác từ lọ thiếc trên khung vẽ. "Nhưng nếu tốt bụng thì hãy đến cái giá và bài trí lại những chiếc thảm kia hộ tôi, được chứ ? Tôi sẽ đứng từ đây hướng dẫn cậu. Dẫu sao, ánh sáng ban mai cũng sắp hết rồi. Thêm hai mươi phút nữa rồi chúng ta sẽ nghỉ ăn trưa".
"Anh đang phác họa gì vậy ?" người thanh niên hỏi. Trong khi khoan thai bước đến giá vẽ, dường như anh ta bước đi hơi khập khiễng và đau đớn.
"Đó là bức vẽ bằng chì than và màu nước", David đáp lại. "Một ý tưởng tôi đã có một thời gian, dựa trên một chủ đề của Poussin: Cưỡng Đoạt Những Người Phụ Nữ Sabine". (Poussin: 1594-1655, họa sĩ người Pháp, tác giả bức tranh Đứa con của Bachus nổi tiếng được trưng bày tại bảo tàng Hội Họa Louve Paris)
"Một ý tưởng mới thú vị làm sao", Maurice nói khi anh ta đến sát cái giá. "Anh muốn tôi bài trí lại cái gì ? Tôi thấy đẹp quá rồi còn gì nữa".
Valentine đứng ở cái giá phía trên Maurice, một đầu gối đưa ra phía trước còn hai cánh tay thì dang ra bằng vai. Mireille quỳ bên cạnh Valentine, đưa tay ra phía trước với một cử chỉ van nài khẩn thiết. Mái tóc đỏ thắm của cô xõa một bên vai, khó mà giấu nổi bộ ngực trần.
"Hất mái tóc đỏ ra", David gọi to từ phía bên kia xưởng vẽ, hai mắt nheo lại nhìn giá vẽ và vung bút trong không trung chỉ hướng. "Không, đừng xa như vậy. Chỉ vừa đủ để che phần ngực bên trái thôi. Chúng ta phải trông thấy ngực bên phải hoàn toàn phô trần ra. Hoàn toàn để trần. Kéo áo xuống thấp hơn nữa. Suy cho cùng, chúng đang cố gắng quyến rũ lính tráng trong trận chiến chứ không phải để khai trương một tu viện".
Maurice làm theo lời chỉ dẫn nhưng bàn tay anh run lẩy bẩy trong khi kéo lớp vải sa xuống.
"Tránh ra. Tránh ra nào, vì Chúa, để tôi còn trông thấy chứ. Ở đây ai là họa sĩ nào ?" David gào lên.
Maurice tránh sang một bên và gượng cười. Cả đời anh chưa bao giờ được trông thấy những phụ nữ nào đáng yêu hơn vậy, và anh tự hỏi chẳng hay David đã tìm được họ từ chốn nào. Ai cũng biết rằng nhiều quý bà quý cô thuộc tầng lớp thượng lưu đã từng xếp hàng nối đuôi ngay bên ngoài xưởng vẽ của ông ta với hy vọng sẽ được phác họa như những phụ nữ Hy Lạp cực kỳ xinh đẹp trên một trong những bức sơn dầu nổi tiếng của ông. Thế nhưng những cô gái này quá tươi tắn và ngây thơ đến nỗi không thể nằm trong giới quý tộc Paris đáng chán kia.
Maurice tất nhiên là biết vô số lá ngọc cành vàng. Anh ta đã từng mơn trớn vuốt ve bộ ngực và cặp đùi của các phụ nữ tầng lớp thượng lưu nhiều hơn bất cứ người đàn ông nào ở Paris, và trong số các nhân tình của anh ta có Nữ Công Tước de Luynes, Nữ Công Tước de Fitz-James, Nữ Tử Tước de Laval và Công Nương de Vandemont. Chuyện này giống một câu lạc bộ mà cánh cửa tư cách thành viên luôn rộng mở. Người ta đã từng trích dẫn lời lẽ của Maurice, "Paris là nơi có một phụ nữ còn dễ hơn sở hữu một tu viện".
Tuy đã ba mươi bảy tuổi nhưng Maurice trông trẻ hơn đến mười tuổi và anh ta lợi dụng vẻ trẻ trung dễ nhìn của mình suốt hơn hai mươi năm. Trong thời gian ấy, biết bao nhiêu phụ nữ đã qua tay anh, tất cả đều thú vị và có lợi về mặt chính trị. Những tình nhân giúp ích cho anh trong phòng khách cũng nhiều như trong phòng ngủ, và mặc dù anh ta phải tự mình cố gắng để có được một tu viện nhưng họ đã mở rộng cánh cửa đến cái địa vị chính khách ngồi mát ăn bát vàng mà anh ta rất khát khao và chẳng bao lâu nữa sẽ có được.
Như Maurice biết rõ hơn bất cứ ai khác, phụ nữ kiểm soát nước Pháp. Và mặc dù luật pháp của nước Pháp không cho phép một người đàn bà thừa hưởng ngai vàng nhưng họ vẫn kiếm tìm quyền lực thông qua các phương tiện khác và lựa chọn các ứng viên tương ứng.
"Giờ hãy chỉnh đốn lại xiêm y cho Valentine", David kêu lên, vẻ thiếu kiên nhẫn. "Cậu phải trèo lên giá, những bậc thang ở đằng sau kìa"»
Maurice khập khiễng bước lên các bậc thang của cái giá khổng lồ, cao hơn nền nhà nhiều mét. Anh ta đứng sau Valentine.
"Vậy ra cô được đặt tên là Valentine ?" Anh ta thì thầm vào tai cô gái. "Cô em thân mến ơi, cô hết sức đáng yêu so với một người mang cái tên con trai".
"Còn ông thì hết sức dâm đãng", Valentine vặc lại, vẻ xấc xược, "so với một người khoác áo cà sa màu đỏ tía của giám mục !"
"Không thì thầm nữa", David thét lên. "Hãy sửa sang áo quần ! Ánh sáng sắp tắt rồi". Trong khi Maurice tiến đến chỉnh sửa quần áo, David nói
thêm, "A, Maurice, tôi chưa giới thiệu với cậu. Đây là Valentine, cháu gái tôi, và Mireille, chị họ con bé".
"Cháu gái anh ư !" Maurice nói và buông rơi nếp vải khỏi mấy ngón tay cứ như nó làm anh ta bị bỏng.
"Một cô cháu "khả ái", ông ta nói thêm. "Tôi là người bảo trợ con bé. Ông nó là một trong những người bạn thân thiết nhất của tôi, nhưng ông ấy đã qua đời cách đây vài năm. Bá tước de Remy. Gia đình cậu biết ông ta, tôi nghĩ vậy ?"
Maurice sửng sốt đưa mắt nhìn David.
"Valentine", David nói, "quí ông đang sửa sang áo quần cho con đây là một nhân vật rất nổi tiếng của nước Pháp. Nguyên chủ tịch Quốc hội. Cho phép bác giới thiệu ngài Charles Maurice de Talleyrand-Périgord. Giám mục xứ Autun..".
Mireille đứng phắt dậy, miệng há hốc, vội vã kéo nếp vải che bộ ngực trần. Cùng lúc ấy, Valentine buột ra một tiếng kêu thất thanh thiếu điều xé toạc màng nhĩ Maurice.
"Giám mục xứ Autun !" Valentine kêu lên, và giật lùi khỏi anh ta. "Đây là con quỷ có móng chân chẻ đôi !"
Hai cô gái nhảy khỏi cái giá và để chân trần chạy ra khỏi căn phòng.
Maurice đưa mắt nhìn David ở phía bên kia xưởng vẽ, miệng cười nhăn nhở. "'Thường thì tôi không có được phản ứng như vậy đối với phái đẹp", anh ta bình luận.
"Hình như tiếng tăm của cậu đi trước một bước" David đáp trả. ***
Ngồi trong phòng ăn nhỏ cạnh xưởng vẽ, David nhìn chằm chằm xuống đường phố Rue de Bac. Maurice xoay lưng về phía cửa sổ, ngồi ngây ra
trên một trong những chiếc ghế xa-tanh sọc trắng đỏ đặt quanh chiếc bàn gỗ gụ. Vài tô trái cây và mấy chân nến bằng đồng thau rải rác trên mặt bàn, và một bộ đồ ăn cho bốn người đã được dọn ra với những chiếc đĩa đẹp có in hình cánh chim và bông hoa.
"Ai ngờ lại có phản ứng như vậy !" David nói, lột vỏ một quả cam. "Tôi xin lỗi vì sự lộn xộn. Tôi lên gác và chúng nhất trí thay đổi và dù sao đi nữa cũng xuống dùng bữa trưa".
"Làm sao anh lại trở thành người giám hộ cho những cô nàng xinh đẹp đến vậy ?" Maurice hỏi, hai tay xoay xoay ly rượu và nhấp một ngụm nữa. "Chuyện này có vẻ quá sức để một người đàn ông phải gánh vác một mình. Và một người như anh gần như không thích hợp".
David liếc nhanh anh ta và đáp lại: "Tôi hoàn toàn đồng ý. Tôi không biết sẽ xoay sở ra sao. Tôi đã lùng sục khắp cả Paris để kiếm một gia sư phù hợp dạy chúng học tiếp. Tôi thật vô phương kế từ khi vợ tôi bỏ đi Brussels cách đây vài tháng".
"Bà ấy ra đi có liên quan gì đến việc mấy cô "cháu gái" đáng yêu của anh dọn đến đây không ?" Talleyrand nói, mỉm cười thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của David, hai tay vẫn xoay xoay đế ly rượu.
"Hoàn toàn không", David nói, trông rất sầu não. "Vợ tôi và gia đình bà ấy là những phần tử Bảo Hoàng rất trung thành. Họ không tán thành sự dính líu của tôi trong Quốc hội. Họ không nghĩ một họa sĩ tư sản như tôi, người đã từng được chế độ quân chủ hỗ trợ lại có thể công khai ủng hộ cách mạng. Cuộc hôn nhân của tôi gặp bế tắc từ sau cuộc tấn công nhà ngục Bastille (cuộc đánh chiếm nhà ngục Bastille ở Paris, ngày 1/7/1789, đánh dấu bước chuyển từ CM nghị viện sang CM nhân dân, ngày 1/7 trở thành ngày Quốc khánh Pháp). Vợ tôi yêu cầu tôi phải từ chức trong Quốc hội và gián đoạn sự nghiệp hội họa chính trị của tôi; đó là những điều kiện cô ấy đặt ra nếu muốn cô ấy trở về".
"Nhưng khi anh cởi bỏ tấm màn che bức họa Lời thề của Horatii (Horatino Cocles – anh hùng huyền thoại ở La Mã thế kỉ 6 trước công nguyên, người một mình bảo vệ cầu Sublicius), đám đông đã kéo đến xưởng vẽ của anh ở
Piazza del Popolo để rắc hoa trước bức họa. Đó là kiệt tác đầu tiên của nền tân cộng hòa, và anh đã trở thành họa sĩ được nền cộng hòa tuyển chọn".
"Tôi biết chuyện này, nhưng vợ tôi thì không". David thở dài "Bà ấy đem bọn nhóc đi cùng đến Brussels, và cũng muốn đem theo cả những đứa trẻ tôi bảo trợ nữa. Nhưng điều kiện thỏa thuận giữa tôi với nữ tu viện trưởng của chúng là giữ chúng lại Paris, và như vậy tôi sẽ được trả một khoản hậu hĩ. Vả lại, tôi thuộc về nơi này".
"Nữ tu viện trưởng của họ là sao ? Những cô gái anh bảo trợ là nữ tu ư ?" Maurice gần như phá ra cười. "Một hành động điên rồ mới ngon lành làm sao ! Giao phó hai cô gái trẻ, cô dâu của Chúa, cho một người đàn ông bốn mươi ba tuổi không ruột rà máu mủ trông nom. Bà nữ tu viện trưởng này đang nghĩ gì vậy ?"
"Chúng không phải nữ tu, chúng chưa tuyên thệ. Không như cậu !" David mỉa mai. "Hình như người nữ tu viện trưởng già nua khắc khổ này là người đã cảnh báo họ rằng cậu là hiện thân của quỷ dữ".
"Cứ cho cuộc đời của tôi đã không phải là tất cả những gì đáng ra nó phải vậy", Maurice thú nhận. "Tuy nhiên, tôi ngạc nhiên khi nghe thấy những nữ tu ở các tỉnh thành nói về điều đó. Tôi đã cố gắng tỏ ra kín đáo".
“Nếu cái việc cậu vứt bừa bãi mấy thằng vô học trên khắp nước Pháp trong khi xức dầu thánh và tự cho mình là một tu sĩ như vậy mà gọi là kín đáo thì tôi thật sự không thể nói cái gì có thể được gọi là thẳng thừng".
"Tôi chưa bao giờ yêu cầu được làm một nhà tu hành", Maurice nói có vẻ chua chát. "Người ta phải xử lý quyền thừa kế của họ. Ngày tôi trút bỏ chiếc áo cà sa này mãi mãi là lần đầu tiên tôi thực sự cảm thấy trong sạch".
Đúng lúc ấy, Valentine và Mireille bước vào phòng ăn nhỏ. Hai cô gái ăn mặc hệt nhau, những bộ áo quần đi đường màu xám bằng vải trơn mà nữ tu viện trưởng đã cấp cho. Chỉ có những bím tóc rực rỡ của họ là thêm thắt đôi chút màu sắc. Cả hai người đàn ông đứng dậy để chào đón họ, và David kéo ra hai chiếc ghế.
"Bác đã chờ gần mười lăm phút", ông ta quở trách họ. "Bác hy vọng giờ đây chúng ta đã sẵn sàng có thái độ nghiêm túc. Và hãy cố gắng lịch sự với quý ngài đây. Bất cứ các con đã nghe nói gì về ông ấy thì bác tin chắc rằng nó sẽ mờ nhạt so với sự thật. Tuy nhiên dầu sao ông ấy cũng là khách của chúng ta".
"Họ có nói với các cô tôi là một con ma cà rồng không ?", Talleyrand ôn tồn hỏi. "Và rằng tôi hút máu trẻ nhỏ ?"
"Ồ, có, bẩm Đức ngài", Valentine đáp. "Và rằng ông có một móng chân chẻ đôi. Ông đi tập tễnh, vậy điều đó hẳn là sự thật !"
"Valentine này", Mireille nói, "thế là thô lỗ quá đấy !"
David đưa tay ôm đầu và chẳng nói gì.
"Hoàn toàn đúng", Talleyrand nói, "Tôi sẽ giải thích".
Anh ta với tay qua bên kia bàn và rót ít rượu vào mấy cái ly trước mặt Valentine và Mireille, rồi nói tiếp. "Khi tôi còn là một nhóc con, tôi bị gia đình để lại với một nhũ mẫu, một người đàn bà nhà quê dốt nát. Một hôm bà ta đặt tôi trên mặt bàn trang điểm, và tôi bị ngã gãy chân. Người nhũ mẫu sợ quá không dám cho cha mẹ tôi biết về sự cố ấy, nên bàn chân chẳng bao giờ được nắn lại khớp. Vì mẹ tôi không mấy quan tâm đến tôi nên bàn chân mỗi lúc một trẹo thêm, cho đến khi quá muộn không thể chữa trị được nữa. Tất cả câu chuyện là như vậy. Chẳng có gì bí hiểm cả, đúng không ?"
"Chuyện này khiến ông đau đớn lắm không ?" Mireille hỏi.
"Cái bàn chân hả ? Không". Talleyrand mỉm cười cay đắng. "Chỉ có kết quả của cái bàn chân mới làm tôi đau. Tôi đã mất quyền thừa kế con trưởng vì chuyện này. Mẹ tôi sinh thêm hai đứa con trai, cách nhau không xa, chuyển quyền của tôi cho các em tôi, Archimbaud, và sau nó là Bosom. Bà không thể để danh hiệu lâu đời của dòng họ Talleyrand-Périgord rơi vào tay một kẻ thừa kế què quặt, đúng không ? Lần cuối cùng tôi trông thấy mẹ là khi bà đến Autun phản đối việc tôi trở thành giám mục. Mặc dù đã ép tôi bước
vào con đường tu hành nhưng bà hy vọng tôi sẽ bị chôn vùi trong cảnh tối tăm, không người biết đến. Bà quả quyết rằng tôi không đủ ngoan đạo để nhận chức vụ giám mục. Tất nhiên bà đã rất có lý".
"Dễ sợ thật !" Valentine kêu lên giọng giận dữ. "Vì lẽ đó, đáng lẽ con đã phải gọi bà ấy là một mụ phù thuỷ già !"
David ngẩng đầu khỏi bàn tay, ngước mắt nhìn trần nhà, và rung chuông bảo dọn bữa trưa.
"Đó có phải điều cô sẽ làm không ?" Maurice dịu dàng hỏi. "Trong trường hợp ấy, tôi ước gì cô đã có mặt ở đó. Tôi phải thú nhận rằng đó là điều tôi khá mong mỏi được tự mình làm".
Khi thức ăn dọn xong và người hầu đi khỏi, Valentine nói, "Bẩm Đức ngài, sau khi đã nghe câu chuyện này con thấy ông không có vẻ xấu xa nham hiểm như chúng con đã nghe nói. Con phải thú nhận là con thấy ông rất đẹp".
Mireille điên tiết đưa mắt nhìn Valentine, còn David thì toét miệng ra cười,
"Bẩm Đức ngài, có lẽ Mireille và con nên cảm ơn ông, nếu như quả thật ông chịu trách nhiệm về việc đóng cửa các tu viện", Valentine nói tiếp. "Nếu không có chuyện này, chúng con sẽ vẫn còn ở Montglane, chết dần chết mòn trong ao ước được sống ở Paris như chúng con hằng mơ..."
Maurice đặt dao nĩa xuống và đưa mắt nhìn họ.
"Tu viện Montglane ? Ở vùng Bas-Pyrenees ? Có phải các cô là người của tu viện ấy không ? Nhưng tại sao các cô không ở đó nữa ? Tại sao lại bỏ đi ?"
Vẻ mặt và những câu hỏi dồn dập của anh ta khiến Valentine nhận ra cô đã phạm phải sai lầm tai hại. Talleyrand, mặc dù phong thái rất ung dung, tao nhã và cử chỉ rất duyên dáng, nhưng vẫn là giám mục của Autun, chính là người mà nữ tu viện trưởng đã cảnh báo họ phải dè chừng. Nếu anh ta tìm hiểu ra hai chị em họ chẳng những biết về Bộ cờ Montglane, mà còn giúp
ẳ
đem những quân cờ khỏi tu viện thì ông ta sẽ chẳng bao giờ để yên, đến khi nào phát hiện được nhiều hơn nữa.
Quả thật, họ đang khốn đốn chỉ vì việc anh ta biết họ đến từ Montglane. Mặc dù những quân cờ họ mang theo đã được chôn giấu cẩn thận dưới mấy gốc cây trong vườn nhà David, phía sau xưởng vẽ, vào chính cái đêm họ đến Paris nhưng vẫn còn vấn đề xa hơn nữa. Valentine không quên mình được nữ tu viện trưởng giao phó vai trò làm nơi tập hợp cho các nữ tu khác, những người có thể phải bỏ trốn và để những quân cờ lại. Đến giờ chuyện này vẫn chưa xảy ra, nhưng trong tình hình bất ổn ở Pháp thì điều đó có thể ập đến bất cứ lúc nào. Valentine và Mireille không thể để Charles Maurice Talleyrand theo dõi”
"Tôi nhắc lại", Talleyrand gằn giọng khi hai cô gái ngồi im bối rối, "tại sao các cô rời bỏ Montglance ?"
"Vì", Mireille miễn cưỡng đáp lời, "bẩm Đức ngài, tu viện đã bị đóng cửa". "Đóng cửa ư ? Tại sao bị đóng cửa ?"
"Bẩm Đức ngài, lệnh Tịch Biên. Nữ tu viện trưởng lo lắng cho sự an toàn của chúng con..."
"Trong những lá thư gửi cho tôi", David ngắt lời, "nữ tu viện trưởng giải thích bà nhận được lệnh của văn phòng Giáo hoàng chỉ thị tu viện phải đóng cửa".
"Và anh đã chấp nhận mệnh lệnh ấy ?" Talleyrand hỏi. "Anh có phải phần tử cộng hòa không vậy ? Anh cũng biết Giáo hoàng Pius đã tố cáo cuộc cách mạng. Khi chúng tôi thông qua lệnh Tịch Biên, ông ta đã dọa rút phép thông công mọi tín đồ Công giáo trong Quốc hội ! Người nữ tu viện trưởng này đã phản bội nước Pháp khi nhận những mệnh lệnh như vậy của ông Giáo hoàng Ý đó, mà như anh biết ông ta đã bị lật nhào cùng với Hapsburgs và dòng họ Bourbons Tây Ban Nha".
"Tôi muốn nói tôi cũng chính là phần tử cộng hòa chân chính như cậu", David kịch liệt nói. "Gia đình tôi không thuộc tầng lớp quý tộc, tôi là người
của nhân dân. Tôi đứng vững hoặc sụp đổ cùng với chính phủ mới. Nhưng việc đóng cửa tu viện Montglane chẳng liên quan gì đến các hoạt động chính trị cả".
"David ơi, mọi thứ trên đời này đều có liên quan đến các hoạt động chính trị. Anh biết cái gì được chôn cất ở tu viện Montglane, đúng không ?" Valentine và Mireille tái người đi, nhưng David đưa mắt nhìn Talleyrand, vẻ khác thường và nâng ly rượu lên.
"Hừm, đó là một câu chuyện của mấy mụ già", ông ta nói với một tiếng cười tỏ vẻ khinh miệt.
"Vậy sao ?" người kia nói. Anh ta nhìn hai cô gái với cặp mắt xanh dương rực sáng. Rồi anh ta cũng nâng ly lên và nhấp một ngụm, dường như đang chìm đắm trong suy tư. Cuối cùng anh ta cầm nĩa lên và ăn tiếp. Valentine và Mireille cứng đơ tại chỗ, không hề chạm đến thức ăn.
"Mấy cô cháu gái của anh hình như không ngon miệng", Talleyrand bình luận.
David đưa mắt nhìn họ. "Sao, gì vậy ?" ông ta hỏi. "Đừng bảo bác là các con cũng tin câu chuyện ngớ ngẩn ấy chứ ?"
"Thưa bác, không", Mireille bình thản nói. "Chúng con biết đó chỉ là mê tín dị đoan".
"Tất nhiên, đó chỉ là một truyền thuyết cũ rích, đúng không ?" Talleyrand nói, lấy lại được phần nào sức hút ban nãy. "Nhưng hình như các cô đã biết chuyện này. Nào, nói tôi nghe xem bà viện trưởng của các cô đã chạy đi đâu, khi giờ đây bà ta âm mưu với Giáo hoàng chống lại chính phủ của nước Pháp ?"
"Maurice, vì Chúa", David cáu kỉnh nói. "Người ta có thể nghĩ cậu đã nghiên cứu toà án dị giáo. Tôi sẽ cho cậu hay bà ấy đi đâu, và chúng ta hãy chấm dứt chuyện này. Bà ta đã qua Nga".
Talleyrand ngồi im giây lát. Rồi anh ta từ từ mỉm cười như thể vừa thoáng nghĩ ra điều gì đó riêng tư thú vị. "Tôi cho rằng anh có lý", anh ta nói David. "Này ông bạn, mấy cô cháu gái duyên dáng của anh đã có dịp ghé thăm nhà hát nhạc kịch Paris chưa ?"
"Chưa, thưa Đức ngài", Valentine vội vã đáp. "Nhưng đó chính là niềm khao khát cháy bỏng nhất của chúng con, từ khi còn tấm bé".
"Lâu thế kia ư ?" Talleyrand phá lên cười. "À, chắc có thể làm được gì đó về chuyện này. Sau bữa trưa, chúng ta hãy xem qua những tủ quần áo của các cô. Tôi ngẫu nhiên lại là một chuyên gia về trang phục đấy.. ."
"Quý ông đây đã từng dành lời khuyên về thời trang cho hơn nửa phụ nữ Paris", David nói thêm vẻ châm biếm. "Đó là một trong những hành động nhân ái Thiên Chúa của ông ấy".
"Tôi phải kể các cô nghe rằng tôi đã sửa soạn kiểu tóc cho hoàng hậu Marie-Antoinette dự vũ hội hoá trang. Tôi cũng thiết kế luôn y phục cho bà ấy. Ngay cả những tình nhân của người còn không nhận ra, huống hồ gì đến đức vua ! "
"Ồ, thưa bác, chúng con có thể nhờ ngài giám mục đây làm như vậy cho chúng con không ?" Valentine khẩn khoản van nài. Cô cảm thấy hoàn toàn nhẹ nhõm khi nhận ra câu chuyện đã chuyển sang một chủ đề dễ chịu hơn, và cũng là một chủ đề ít nguy hiểm hơn.
"Cả hai cô trông đã xinh đẹp lắm rồi". Talleyrand mỉm cười. "Nhưng chúng ta sẽ làm một chút để tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên này. Thật may tôi quen biết một người bạn có tùy tùng là thợ may giỏi nhất ở Paris, có lẽ các cô đã nghe nói đến phu nhân de Stael ?"
Chẳng bao lâu sau Valentine và Mireille biết được rằng ở Paris, mọi người ai cũng biết Germaine de Stael. Khi hai người nối đuôi nhau tiến vào khoang ghế sơn xanh thiếp vàng của cô ấy ở nhà hát nhạc - hài kịch, họ trông thấy cả dãy đầu quay lại nhận ra cô. Giới thượng lưu quyền quí của xã hội Paris đã ngồi kín mọi khoang ghế dâng cao đến tận mái trần của nhà hát nhạc kịch ngột ngạt này. Ngắm nhìn mớ bòng bong những dãy trang sức ẳ
đá quý, ngọc trai và đăng-ten ở đây, có lẽ người ta sẽ chẳng bao giờ ngờ rằng trên các đường phố ngoài kia, một cuộc cách mạng vẫn đang sôi sục, rằng gia đình hoàng tộc đang bị giam cầm héo hon trong chính cái lâu đài nguy nga của họ, rằng mỗi sáng những đoàn xe chở đầy người thuộc tầng lớp quý tộc và tăng lữ ầm ầm lăn bánh trên những con đường đá cuội tiến về quảng trường Cách mạng. Trong dãy ghế hình móng ngựa của nhà hát nhạc - hài kịch, mọi thứ đều tráng lệ và tươi vui. Và lộng lẫy hơn cả, đang tiến vào khoang ghế ngồi của mình chẳng khác gì một con tàu lớn trên sông Sene, là vị phu nhân trẻ trung của Paris, Germaine de Staël.
Valentine biết mọi chuyện về cô ta nhờ hỏi han những người hầu của bác Jacques-Louis. Họ kể cô nghe phu nhân de Staël là con gái của viên bộ trưởng tài chính lừng danh Thụy Sĩ Jacques Necker. Ông này đã từng hai lần bị vua Louis XVI bắt đi lưu đày và cũng hai lần được triệu về phục hồi cương vị theo yêu cầu đông đảo của nhân dân Pháp. Mẹ phu nhân, bà Suzanne Necker, duy trì cuộc triển lãm tranh lớn nhất Paris trong hai mươi năm, nơi đó Germaine từng là một nhân vật nổi tiếng.
Bản thân là một nữ triệu phú, Germaine mua được một tấm chồng lúc mới hai mươi tuổi: Nam tước Eric Staël von Holstein, viên đại sứ Thụy Sĩ được đưa sang Pháp. Theo gương mẹ, cô mở một cuộc triển lãm tại đại sứ quán Thụy Sĩ và lao vào hoạt động chính trị. Triển lãm của cô tràn ngập những danh nhân của giới chính trị và văn hoá Pháp: Lafayette, Condorcet, Narbone, Talleyrand. Germaine trở thành một nhà cách mạng triết gia. Tất cả những quyết định chính trị quan trọng thời ấy đều được thông qua trong bốn bức tường bọc lụa tại phòng triễn lãm của cô ta, thông qua những người mà chỉ cô ta mới có thể kéo lại gần nhau. Giờ đây, vào độ tuổi hai mươi lăm, có lẽ cô ấy là người phụ nữ quyền uy nhất nước Pháp.
Trong lúc Talleyrand khập khiễng khó nhọc tiến đến chỗ ba người phụ nữ, Valentine và Mireille quan sát phu nhân de Stael. Trong chiếc áo choàng dài viền đăng-ten đen vàng làm nổi bật cánh tay to lớn, bờ vai vạm vỡ và vòng bụng mập mạp, cô ta quả là một dáng người đường bệ. Cô đeo chuỗi hạt đá chạm nặng nề lấp lánh những viên hồng ngọc bao quanh, và đội chiếc mũ không vành màu vàng vốn là đặc điểm riêng của cô. Cô ngả người về phía
Valentine và thì thầm bằng cái giọng trầm run rẩy mà ai cũng có thể nghe thấy.
"Cưng à, khoảng sáng mai, tất cả mọi người ở Paris sẽ đến chỗ tôi tự hỏi hai cô là ai. Đó sẽ là một vụ xôn xao thú vị nhất, vì tôi chắc rằng người hộ tống các cô cũng hiểu, nếu không anh ta sẽ để các cô ăn mặc phải lối hơn".
"Thưa phu nhân, cô không thích y phục của chúng tôi sao ?" Valentine lo lắng hỏi.
"Cưng à, cả hai cô đều rất dễ mến", Germaine quả quyết có vẻ chế giễu. "Nhưng trinh nữ mặc màu trắng chứ không phải màu hồng rực rỡ. Và mặc dù những bộ ngực trẻ trung luôn là mốt ở Paris nhưng người ta thường trùm một chiếc khăn lên che phủ da thịt của những cô gái dưới hai mươi. Ông Talleyrand biết điều đó quá rõ".
Valentine và Mireille ngượng chín người, nhưng Talleyrand xen vào, "Tôi đang giải phóng nước Pháp theo cách riêng của tôi". Anh ta và Germaine đưa mắt nhìn nhau mỉm cười, và cô ta nhún vai.
"Tôi hy vọng cô sẽ thích vở nhạc kịch", Germaine xoay người lại nói với Mireille. "Đây là một trong những vở yêu thích của tôi từ bé nhưng tôi chưa được xem. Soạn giả André Philidor là tay cờ sành sỏi nhất châu Âu. Ông ta đã đánh cờ và chơi nhạc trước mặt các nhà triết học và nhà vua. Có thể cô thấy thứ âm nhạc ấy là lỗi thời, từ khi Gluck cách mạng hóa nhạc kịch. Quả là khó mà nghe lại được nhiều đoạn..."
"Thưa cô, trước đây chúng tôi chưa bao giờ được xem nhạc kịch", Valentine hùa vào.
"Chưa bao giờ được xem nhạc kịch !" Germaine cất cao giọng. "Không thể nào ! Gia đình đã nhốt cô ở đâu ?"
"Trong một tu viện, thưa cô", Mireille lễ độ đáp.
Germaine trố mắt nhìn cô gái một hồi, như thể cô ta chưa bao giờ nghe nói tới một tu viện. Rồi cô quay lại nhìn Talleyrand.
"Tôi thấy có đôi điều anh đã không giải thích cho tôi, anh bạn ạ. Giá như tôi biết rằng các cô gái David đỡ đầu đã được nuôi dạy trong một tu viện, tôi đã có thể thận trọng lựa chọn một vở như Tom Jones. Cô ta xoay người lại với Mireille và nói thêm, "Tôi hy vọng cô sẽ không bị choáng. Đó là một câu chuyện của người Anh kể về một đứa con ngoài giá thú”.
"Tốt hơn là nên cho họ học đạo đức khi còn trẻ", Talleyrand cười lớn.
"Quả thật là vậy", Germaine nói lí nhí. "Nếu họ giữ giám mục của Autun làm quân sư thì thông tin này tỏ ra thật có ích".
Cô ta quay lại phía sân khấu khi màn được kéo lên.
* * *
"Đó là trải nghiệm tuyệt vời nhất trong đời", Valentine nói về vở nhạc kịch khi ngồi trên tấm thảm Aubusson dày cộm trong phòng làm việc tại gia của Talleyrand, cặp mắt đăm chiêu nhìn những ngọn lửa liếm hai cánh cửa thủy tinh của lò sưởi.
Talleyrand ngả lưng tựa vào một chiếc ghế lớn bọc lụa màu xanh, hai bàn chân gác lên chiếc ghế dài có đệm. Mireille đứng cách đó vài bước chân, mắt nhìn xuống ngọn lửa.
"Và đây cũng là lần đầu tiên chúng ta uống cô-nhắc", Valentine nói thêm.
"À, cô mới chỉ mười sáu tuổi", Talleyrand nói, tay nâng chiếc cốc lên ngửi mùi thơm của rượu và nhấp một ngụm nhỏ. "Còn khối thời gian cho rất nhiều kinh nghiệm".
"Thưa ông Talleyrand, ông bao nhiêu tuổi ?" Valentine hỏi.
"Đó không phải là một câu hỏi lịch sự", từ phía lò sưởi, Mireille lên tiếng. "Em không bao giờ được hỏi tuổi tác của người ta".
"Và xin vui lòng", Talleyrand nói, "hãy gọi tôi là Maurice. Tôi ba mươi bảy tuổi, nhưng tôi cảm thấy cứ như tôi đã chín mươi khi các cô gọi tôi là
"ông". Bây giờ hãy cho tôi hay các cô thấy Germaine thế nào ?"
"Cô Stael rất có duyên", Mireille nói, mái tóc đỏ của cô sáng rực lên trong ánh lửa, màu sắc của những ngọn đuốc.
"Có phải cô ấy là người yêu của ông không ?" Valentine hỏi. "Valentine !" Mirreille kêu lên. Nhưng Talleyrand đã phá lên cười.
"Cô thật khác lạ", anh ta nói, và đưa mấy ngón tay làm rối mái tóc của Valentine trong khi cô gái tựa vào đầu gối ông ta dưới ánh sáng bập bùng của ngọn lửa. Anh ta nói thêm với Mireille, "Thưa cô, người em họ của cô không có thái độ tự phụ mà người ta có thể thấy đầy trong xã hội Paris. Tôi thấy những câu hỏi của cô ấy rất hồn nhiên, và tôi không bao giờ phật ý vì những câu hỏi ấy. Trong mấy tuần qua lo trang phục cho hai cô và đưa các cô đi dạo quanh Paris, tôi thấy điều này là một chất kích thích giúp giảm nhiều tính cáu gắt trong bản tính ưa chỉ trích của tôi. Nhưng, Valentine à, ai bảo cô rằng phu nhân Stael là người tình của tôi ?"
"Con nghe từ những người hầu, thưa ông, ý con là; bác Maurice. Đúng vậy không ?"
"Cô bạn yêu quí ơi, không phải. Không còn vậy nữa. Chúng tôi đã từng yêu nhau, nhưng những chuyện ngồi lê đôi mách bao giờ cũng tụt hậu. Cô ấy và tôi giờ là những người bạn tốt của nhau".
"Có thể cô ấy bỏ bác vì cái bàn chân khập khiễng của bác chăng ?" Valentine gợi ý.
"Quỷ thần ơi !" Mireille kêu lên, không quên nguyền rủa. "Em phải tạ lỗi với Đức ngài. Bẩm Đức ngài, hãy thứ lỗi cho cô em con. Nó không định xúc phạm".
Talleyrand đang ngồi lặng thinh trong trạng thái gần như bị choáng. Mặc dù anh ta đã nói chẳng bao giờ Valentine có thể làm anh phật ý nhưng ở Pháp không ai từng công khai đả động đến tình trạng tàn tật của anh. Run lên vì cơn xúc động không nói rõ được, anh ta vươn người nắm lấy đôi bàn
tay của Valentine và kéo cô gái lại ngồi bên cạnh anh trên chiếc ghế đệm. Dịu dàng, anh đưa hai cánh tay vòng quanh người và ôm chặt cô gái vào lòng.
"Con xin lỗi, thưa bác Maurice", Valentine nói. Cô dịu dàng đặt bàn tay lên má ông ta và mỉm cười. "Trước đây chưa bao giờ con trông thấy một cơ thể dị tật. Có thể con sẽ biết rõ nhất nếu bác để con xem".
Mireille lầm bầm. Lúc này Talleyrand đang trố mắt nhìn Valentine cứ như anh không thể tin vào tai mình nữa. Cô gái bóp chặt hai cánh tay để cổ vũ anh. Một lát sau anh nói, giọng nghiêm nghị, "Được lắm chứ, nếu cô thích". Đau đớn, anh cố nhấc bàn chân khỏi chiếc ghế đệm, cúi người xuống, và tháo chiếc ủng thép cố định bàn chân để có thể bước đi.
Trong ánh sáng lờ mờ của bếp lửa, Valentine chăm chú nhìn bàn chân. Nó bị vặn vẹo quá mức đến nỗi mắt cá lõm xuống, còn những ngón chân thì dường như nhô từ dưới lên. Đầu ngón chân trông hệt như một chiếc dùi cui. Valentine nhấc cái bàn chân lên, cúi xuống và dịu dàng đặt một nụ hôn lên lòng bàn chân. Talleyrand ngồi đó, ngây người, trong chiếc ghế của anh ta.
"Tội nghiệp bàn chân", cô gái nói. "Cưng đau đớn đến vậy, đáng ra cưng không phải khổ sở như thế".
Talleyrand nghiêng người về phía Valentine. Nâng khuôn mặt cô gái lên gần mặt mình, anh ta dịu dàng hôn lên môi cô. Trong khoảnh khắc, mái tóc vàng rực của anh ta và những lọn tóc vàng nhạt hơn của cô gái quấn quít vào nhau trong ánh lửa của bếp lò.
"Cô là người duy nhất đã từng gọi bàn chân của tôi là "cưng", anh ta mỉm cười nói với cô gái. "Và cô đã làm bàn chân tôi rất hạnh phúc".
Trong khi anh ta đưa cặp mắt trên khuôn mặt đẹp thánh thiện của mình nhìn Valentine, những lọn tóc vàng của anh rực lên trong ánh lửa của bếp lò, Mireille thấy khó mà nhớ ra rằng một tay kẻ này đã tàn nhẫn tìm cách hủy hoại nhà thờ công giáo ở nước Pháp. Người đàn ông đã tìm cách chiếm đoạt Bộ cờ Montglane.
Trong phòng làm việc của Talleyrand, những ngọn nến đã cháy gần hết. Trong làn ánh sáng đang lịm dần, những góc phòng dài đang bị bóng tối lờ mờ nuốt chửng dần. Đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ mạ vàng đặt trên mặt lò sưởi, Talleyrand thấy lúc đó đã hơn hai giờ sáng. Ông ta rướn người lên khỏi chiếc ghế, chỗ Valentine và Mireille tựa vào, mái tóc của hai cô phủ lên đầu gối của ông ta.
"Tôi đã hứa với bác các cô là ta sẽ đưa các cô về nhà vào một thời điểm thích hợp. Hãy xem giờ".
"Ô, bác Maurice", Valentine khẩn khoản, "làm ơn đừng bắt chúng con đi ngay lúc này. Đây là lần đầu chúng con có cơ hội được đi giao du. Từ khi đến Paris, chúng con đã sống cứ như chẳng hề rời khỏi tu viện".
"Chỉ một chuyện nữa thôi", Mireille đồng ý. "Bác chúng con sẽ chẳng ngại gì".
"Ông ấy sẽ phát khùng". Talleyrand cười lớn. "Nhưng quá muộn rồi, tôi không thể đưa các cô về được. Vào giờ này ban đêm có hàng bầy những kẻ nát rượu trên đường phố, ngay cả ở những khu sang trọng. Tôi nghĩ có lẽ sẽ cho người đem vài chữ đến nhà bác các cô. Tôi sẽ sai đầy tớ Courtiade dọn cho các cô một phòng nghỉ. Ta nghĩ các cô thích ngủ cùng một phòng, đúng không ?"
Thật ra không hẳn là quá nguy hiểm khi gửi các cô gái về nhà vào giờ này. Talleyrand có cả một toán đầy tớ, mà chỗ ở của David thì không xa. Nhưng bỗng nhiên anh ta nhận ra mình không muốn để các cô gái về nhà. Anh ta đã cố ý kéo dài câu chuyện, để trì hoãn điều bất khả kháng. Hai cô gái trẻ này với sự ngây thơ tươi mát của họ đã làm dấy lên những tình cảm mơ hồ trong anh. Anh ta chưa hề có một gia đình thực sự và sự ấm áp mà anh cảm thấy khi có mặt các cô là một cảm giác hoàn toàn mới lạ.
"Ồ, chúng con có thể ở lại qua đêm thật chứ ?" Valentine hỏi, ngồi bật dậy và bóp chặt hai cánh tay Mireille. Mireille nom có vẻ không tin, nhưng cả cô nữa, cô cũng rất muốn lưu lại.
"Tất nhiên", Talleyrand nói và nhấc mình khỏi ghế ngồi để kéo dây chuông. "Chúng ta hãy hy vọng khoảng sáng mai chuyện này sẽ không trở thành một vụ bê bối ở Paris mà Germaine đã tiên đoán".
Courtiade vẫn còn mặc bộ đồng phục hồ cứng, đưa mắt lúc thì nhìn hai cô gái áo quần xộc xệch, lúc thì nhìn bàn chân không giày của ông chủ, rồi lẳng lặng đưa họ lên cầu thang để dẫn đến căn phòng ngủ rộng rãi dành cho khách.
"Anh có thể kiếm cho chúng tôi quần áo ngủ không ?" Mireille hỏi. "Có thể một trong những người hầu gái..".
"Chẳng có vấn đề gì", Courtiade lễ phép trả lời, và anh ta lập tức trải ra hai chiếc áo choàng lụa thêu thùa diêm dúa, chắc chắn không phải là của bất cứ tên đầy tớ nào. Anh ta kín đáo rời khỏi những căn phòng.
Khi Valentine và Mireille đã mặc quần áo ngủ, chải tóc, và trườn vào chiếc giường lớn mềm mại có mái cao đẹp, Talleyrand gõ nhẹ cánh cửa.
"Mọi người thật thoải mái chưa ?" anh ta hỏi, đầu ghé vào khung cửa.
"Đây là cái giường kỳ diệu nhất mà chúng con đã từng thấy", Mireille đáp từ trong cái đống vải vóc dầy và ấm cúng. "Ở tu viện chúng con đã ngủ trên những tấm ván gỗ để cải thiện dáng điệu".
"Ta có thể nói, điều này đã có một tác động tuyệt vời", Talleyrand nói, và mỉm cười. Anh ta đi đến ngồi trên chiếc trường kỷ nhỏ bên cạnh giường các cô gái.
"Bây giờ bác phải kể cho chúng con nghe một chuyện nữa", Valentine nói. "Muộn lắm rồi..". Talleyrand lắc đầu.
"Một chuyện ma !" Valentine nói. "Có lẽ nữ tu viện trưởng sẽ không bao giờ cho phép chúng con nghe chuyện ma, nhưng chúng con vẫn thường kể chuyện ma. Bác có biết chuyện ma nào không ?"
"Rất tiếc là không", Talleyrand nói với vẻ nuối tiếc. "Nếu các con đã biết, bác đã không có được một thời niên thiếu bình thường. Bác chẳng bao giờ được nghe những câu chuyện loại này". Anh ta trầm tư một lát. "Nhưng quả vậy, trong đời bác đã có một lần gặp ma".
"Vậy sao ?" Valentine hỏi. Dưới mớ chăn nệm, cô bóp mạnh bàn tay Mireille. Hai cô gái nom có vẻ rất phấn khích. "Một con ma thật chứ ?"
"Bây giờ khi bác kể lại, câu chuyện nghe có vẻ phi lý", anh ta cười lớn. "Các con phải hứa là sẽ không nói với bác Jacques-Louis của các con chuyện này, nếu không bác sẽ trở thành một trò đùa của Quốc hội".
Hai cô gái khúc khích cười dưới đống chăn nệm và thề sẽ không bao giờ. Talleyrand ngồi trên trường kỷ trong ánh sáng lờ mờ của cây nến và bắt đầu câu chuyện...
CÂU CHUYỆN CỦA GIÁM MỤC TALLEYRAND
Khi còn rất trẻ, trước khi tuyên thệ trở thành nhà tu hành, ta đã rời toà giám mục ở St. Rémy, nơi chôn cất nhà vua Clovis nổi tiếng, và đến học tại Đại học Sorbonne. Sau hai năm học tập tại trường Đại học Tổng hợp danh tiếng này, đã đến lúc ta phải lên tiếng công bố nghề nghiệp, bổn phận của mình.
Ta hiểu rằng đây sẽ là một vụ bê bối kinh khủng đối với gia đình mình nếu từ chối cái nghề mà họ áp đặt cho ta; tuy nhiên ta tự cảm thấy mình chẳng thích hợp chút nào để trở thành một nhà tu hành. Trong thâm tâm, bao giờ ta cũng cảm thấy thân phận của mình sẽ phải là một chính khách.
Dưới lòng đất của nhà nguyện tại Đại học Sorbone, người ta đã chôn cất hài cốt của chính khách vĩ đại nhất mà nước Pháp từng biết, một con người ta luôn thần tượng. Các cô sẽ biết tên tuổi của ông ta: Armand Jean du Plessis công tước Richelieu, người là sự kết hợp hiếm hoi giữa tôn giáo và chính trị, biết cai trị đất nước với một bàn tay sắt trong gần hai mươi năm cho đến khi qua đời vào năm 1642.
Một hôm, khoảng gần nửa đêm, ta rời khỏi hơi ấm của giường ngủ, choàng một chiếc áo khoác nặng nề lên chiếc áo ngủ, rồi trèo xuống mấy bờ tường sương phủ của khu sinh viên và tiến thẳng về phía nhà nguyện Sorbone.
Gió thổi những chiếc lá ướt lạnh bay qua thảm cỏ, đâu đấy có tiếng kêu kỳ lạ của những con cú và những sinh linh ăn đêm. Mặc dù ta cho mình là cứng cỏi, nhưng phải thú nhận là ta đã sợ. Bên trong nhà nguyện, phần mộ thì tối tăm và lạnh lẽo. Vào giờ này, không có người cầu nguyện và bên trong hầm mộ chỉ leo lét vài ba ngọn nến. Ta châm thêm một cây bạch lạp và quỳ xuống cầu xin nhà tu hành quá cố của nước Pháp chỉ đường cho ta. Dưới mái vòm kia, ta đã có thể nghe thấy tiếng đập của chính trái tim mình trong khi ta giải bày số kiếp của bản thân.
Lời cầu nguyện của ta vừa mới cất lên, thì thật kinh hoàng, một luồng gió lạnh buốt thổi qua mái vòm, tất cả các ngọn nến đều tắt ngấm. Ta hoảng hồn ! Trong bóng đêm đày đặc, ta sờ soạng tìm một cây nến khác. Nhưng đúng lúc đó ta nghe thấy một tiếng rên và một bóng ma tái nhợt trồi lên từ phần mộ của Hồng y Giáo chủ Richelieu ! Mái tóc, làn da, và thậm chí cả bộ áo lễ của ông ta cũng trắng như tuyết, ông ta lượn lờ trên đầu ta, lấp lánh và hoàn toàn trong suốt.
Nếu như không phải đang quỳ, chắc chắn ta đã ngã lăn ra sàn nhà. Giọng nói của ta nghẹn trong cổ họng, không thể nói được nữa. Nhưng rồi ta lại nghe thấy những tiếng rên yếu ớt. Bóng ma của đức Hồng y đang nói với ta ! Ta cảm thấy sống lưng nổi da gà khi ông ta cất lên những ngôn từ mang tính định mệnh với cái giọng giống như tiếng chuông âm vang, sâu lắng.
"Cớ sao nhà ngươi làm ta tỉnh giấc ?" Giọng nói kia vang lên. Những làn gió hoang vu quét quanh người ta, và ta vẫn còn trong bóng tối mịt mùng, nhưng đôi chân quá yếu không cho phép ta đứng dậy ù té chạy. Ta nuốt nước miếng ừng ực và cố gắng thốt ra giọng nói run rẩy.
"Hồng y Giáo chủ Rachelieu", ta ấp úng, "Tôi đang tìm kiếm lời khuyên trong đời, Ngài là chính khách vĩ đại nhất của nước Pháp, mặc dù thiên hướng của Ngài là tu hành. Bằng cách nào Ngài đã đạt được một quyền lực như vậy ? Xin hãy chia sẻ bí mật của Ngài, vì tôi muốn noi gương Ngài".
"Ngươi à ?" cột khói cao vợi bốc lên vòm trần cứ như bị phật ý. Nó trôi đi trôi lại dọc những bức tường giống như một người đàn ông đang thả bước trên sàn nhà. Cứ mỗi vòng, kích cỡ cột khói ấy lại nở thêm ra cuồn cuộn như một cơn bão sắp nổ ra, cho đến khi dáng hình trong suốt tràn đầy căn phòng. Ta co rúm người lại. Cuối cùng bóng ma lên tiếng.
"Điều bí mật mà ta tìm kiếm sẽ vẫn mãi là một bí ẩn". Bóng ma vẫn đang lởn vởn qua lại không gian của mái vòm, bóng hình loãng dần và trở nên mỏng manh hơn. "Uy quyền của nó bị chôn vùi cùng với Charlemagne. Ta chỉ tìm thấy chiếc chìa khoá thứ nhất. Ta đã thận trọng cất giữ nó..".