🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bệnh Thận Và Thực Đơn Phòng Chữa Trị
Ebooks
Nhóm Zalo
TH ực opu
'HÒNG CHVÃ TRI
TÚ sách
Y HỌC VÀ CHĂM SÓC
SỨC KHOẺ GIA ĐÌNH
NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
BỆNH THẬN
&
THựC ĐƠN
PHÒNG CHỮA TRI
NGUYỄN v ă n ba (biên soạn)
BỆNH THẬN
&
T H ự C ĐỚN
PHÒNG CH Ữ A T R I NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
PHÂN 1
MỌT SÔ LOẠI BỆNH THẬN THƯỪNG GẶP
BỆNH SỎI THẬN
Bệnh sỏi thận (sạn thận) biểu hiện bằng đi tiểu ra máu và khuynh hướng dễ bị nhiễm trùng đường tiểu cùng với đau phía sau lưng, ở một bên sườn trên đường di chuyên của hòn sỏi. Bệnh thận có thể bị tiểu ít (thiểu niệu) và suy thận cấp nếu như sỏi gây tắc cả hai bên.
Chẩn đoán
Bệnh thận có thể phát hiện nhờ chụp X-quang. Trong các loại sỏi thì sỏi canxi chiếm khoảng 80% thành phần gồm canxi oxalate và phosphate. Bệnh nhân thường bị chứng nước tiểu nhiều canxi có thể là tự phát (không chịu tác động một bệnh khác) cũng có thể là thứ phát do một bệnh nào đó. sỏi canxi cũng có thể do canxi lắng đọng xung quanh một nhân axit uric trên một bệnh nhân bị chứng tiểu nhiều axit uric mà không tiểu nhiều canxi. Các nguyên nhân tạo sỏi canxi khác nhau bao gồm: - Chứng tiểu nhiều oxalate (nhất là những người bị bệnh viêm đường ruột).
- Bệnh nhiễm toan tiểu quản thận đcfn ngoại vi.
- Bệnh thận xốp vùng tuỷ.
Chííng tiểu nhiều calcium: Nếu híợng calcium nhập vào cơ thê bình thường ở miíc 800-1000mg/ngcàv, mà tiêu ra quá 4mg/kg cân nặng ngcàv thì coi tiểu nhiều calcium. Nguyên nhân, có thê do rối loạn hấp thụ calcium ở dạ dày - ruột, suy giảm khả năng hâ"p thụ calcium ở tiểu quản thận, tiêu xvíơng quá mức trong chứng cường cận giáp tiên phát.
Điều trị bảo tồn bằng cách hạn chế nhập calcium \'ào cơ thể, sao cho ờ mức dưới 800mg ngày \'à hạn chế nhập protein dưới Ig/kg cân nặng/ngcày, thường xuyên uống nhiều nước. Hạn chế calcÌLim quá mức có thể gây phản tác dụng do tăng bài tiết oxalate qua nước tiểu và nguy cơ Icàm mất châd Kh
khoáng ở xương. Tránh dùng quá nhiều muối (trên ắ
lOg muối/ngày) và nên hạn chế dùng muối dưới 6g/ngày. Nếu việc điều tiết ăn uống như thế mà vẫn 5
không hiệu quả thì có thè dùng thêm thuốc lợi tiểu CDz'□Iíz
loại Thiazide (ví dụ uống Hydrochlorothiazide: 25-50mg/ngày) nhằm làm cho thận tăng hấp thụ calcium. Nếu dùng thuốc lợi tiểu thì bệnh nhân cần được theo dõi cẩn thcận để đảm bảo là lượng Q
calcium bài tiết qua nước tiểu giảm mà không gâv những biến loạn các chất trong máu.
Iỉ=
- Chứng cường tuyến cận giáp trạng điều trị bằng mô cắt tuyến cận giáp.
<>z<<•Ih
- Chứng tiểu nlìiều oxalate: Khi tiểu quá 0.7mg oxalate/kg cân nặng/ngày thì gọi là tiểu nhiều oxalate. Những bệnh nhân có rối loạn hấp thu d ruột non do bệnh lý nội tại của ruột non thì sẽ hâp thu quá
I
ĩ. <ÍD-
nhiều oxalate do sau mô cắt đoạn ruột, hoặc do mô nối thông hồi tràng - ruột non, thì sẽ hâ'p thu quá
nliiều oxalate gây nên chứng tiểu nhiều oxalate. Nên sử dụng chế độ ăn hạn chế oxalate và dùng thêm (uống) calcium và cholestyramine.
- Chứng tiểu ít citrate: citrate là chất ức chế của calcium oxalate. Chứng tiểu ít citrate thường thây ở bệnh nliân sỏi thận dạng sỏi calcium. Điều trị bằng cách uống Citrate Kali 20 mEq 3 lần/ngày.
Sỏi acid uric thường do cơ thê sả,n sinh quá nhiều acid uric (bình thường tiêu ra acid uric không quá llm g/kg cân nặng/ngàv) do tiểu ít và do toan hóa nước tiểu kéo dài. cần dùng thuốc đê cho pH của cơ thể khoảng 6.5-7 (ví dụ uống Shohl 20ml 2-3 lần ngày). Nếu vẫn không hiệu quả thì uống Allopurinol 300mg/ngàv. Tránh dùng Pribenecid và các thuốc acid uric kliác.
Sỏi cvstine do rối loạn di truyền trong cơ chế vận chuyên cystine và dibasic amino acid ở thận, sỏi này tlutờng có ở klioảng độ tuổi 20 hoặc 30. Klii sỏi hiển vi nước tiểu, các tmh thể cystine có lùnh lục lăng 6 cạnh. Giới hạn hòa tan của cystine là 250mgl, mục tiêu điều trị là giảm nồng độ đo cystine trong nước tiểu xuống dưới mức dó. Cần phải tiểu hơn 31 ngày, và dùng các thuốc giúp ôn dịnh pH của mfớc tiểu (thuốc Shohl uống 30ml/4 lần/ngày). Nếu vẫn không có hiệu quả thì cân nhắc dùng D-Penicillamine (uống Ị-2g/ngày) hocặc Tiopronin nhiủig nên nhớ rằng các thuốc này có tác dụng phụ (dộc thận, dị ứng, rối loạn máu).
Sỏi san hô (sỏi kiểu sừng hươu nai) xuất hiện khi độ pH trong nước tiểu tăng cao, phản ánh khả năng nhiễm trùng do các vi khuẩn có kliả năng phân tách Urê. Cần lấy bỏ viên sỏi đã nhiễm khuẩn và dùng kháng sinh.
az
>(U ĩ
Điểu trị sỏi thận bằng các bài thuốc y học cổ truyền Bài 1: Chuối hột
Có hai cách;
- Lá chuối hột đem sao vàng, hạ thổ, rồi sắc lên uống hàng ngày thay nước trà.
- Hạt quả chuối hột lOOg + hạt bo bo lOOg + yếm mùa lOOg, cả 3 thứ rang vàng, tán nhỏ thành bột, ngày 2 lần, mỗi lần uống 12 muỗng cà phê.
Bài 2: Trái dứa gai (thơm nước) hái ớt chm vàng, bỏ phần gai trên khoét bỏ ruột nhét đường phèn vào, đậy km. Nướng cả quả cho chm đều, rồi giã nhỏ, vắt lấy nước uống, uống 3 lần trong ngày sau bữa cơm.
ỊTh
Bài 3: Rau om 1 nắm + râu bắp 1 nắm, sắc với 2 bát nước, để lại 1 bát. Để nguội rồi uống ngày sắc 2
á
thang, uống liên tiếp trong 5 ngày. Có khi chỉ ăn 9- i
10 ngọn rau om với thức ăn trong bữa trưa, sau 5-7 0z-□IĩzDũ
ngày cũng có thể tiểu ra hòn sỏi nhỏ.
SẠN TRONG THẬN
f
Theo thống kê, trung bình có 10% nam giới và 3% nữ giới đều bị sạn thận ít nhất một lần trong đời.
Có bốn loại sạn thận tùy theo hóa châ't câu tạo Ih
sạn. Mặc dù triệu chứng các loại sạn giống lứiau nhiíng nguyên nhân cấu tạo cũng như sự điều trị
1
2
bản chất dinh dưỡng.
ỊL
Khi nồng độ các chất này trong nước tiểu lên cao
kU
thì chúng kết tmh thầnh sạn trong thận hoặc ở ống dẫn nước tiểu. Nguyên nhân của sự kết tinh cũng z
như làm sao ngăn ngừa sự kết tmh đều chưa được làm sáng tỏ mặc dù đã có nhiều nghiên cứu khoa học. Nhưng điều chắc chắn là sạn tái kết tinh nhiều lần trong cuộc đời người bệnh.
Một số yếu tố có thể đưa tới sạn thận như thực phẩm có ít calcium, nhiều phosphore; nhiều potassium; nhiều chất đạm động vật; thiếu smh tố A; nhiễm trùng hoặc trở ngại lưu thông đường tiểu tiện; không uống nước đầy đủ; nằm bất động quá lâu; cao calcium và di truyền.
Sạn âm thầm kết tinh. Sạn nhỏ có thể theo nước tiểu ra ngoài. Khi sạn di chuyển là lúc người bệnh thây đau gắt ở ngang thắt lưng, chạy xuống bẹn, đùi và đi tiểu ra máu. Sạn to được làm tan đi qua kỹ thuật lithotripsy hoặc bằng phẫu thuật. Dù thuộc loại nào hoặc lớn nhỏ bao nhiêu, bệnh nhân đều được khuyên cáo là nên tiêu thụ một lượng nước lớn mỗi ngày (1,5 tới 2 lít/ ngày) để có 2 lít nước tiểu, tránh hóa chât kết tiiứi đưa tới sạn.
Dinh dưỡng vổi bệnh sạn thận
1 - Sạn calcium oxalate
Trước đây người bệnh thường được khuyên bớt ăn thực phẩm chứa nhiều calcium để giảm nguy cơ
10
sạn thận. Nhưng thực ra, sự liên hệ không hoàn toàn như vậy. Cao calcium trong nước tiểu có thê do hoặc không do nhiều calcium trong máu.
Một vàỉ bệnh như chứng tăng chức năng tuyến cận giáp (Hyperparathyroidism), rối loạn dư thừa sinh tố D, u bướu xương, bệnh sarcoidosis đều làm tăng calcium trong máu \'à đều là nguyên nhân đưa tới sạn trong thận. Chữa những bệnh này sẽ làm giảm calcium trong máu và nước tiểu.
Nhiều khi calcium trong nước tiểu cao là do sự hấp thụ từ thực phẩm trong một vài bệnh của ruột (Crohn' disease, suy tụy tạng) hoặc khi dùng quá nhiều sinh tố c (sinh tố này được biến hóa ra ũ[h
oxalate) hoặc do thận rỉ calcium ra ngoài.
Nếu là do hâ'p thụ từ ruột thì sự hạn chế thực
á
phẩm có oxalate calcium giúp ích cho việc điều trị. ỉ
Thực phẩm có nhiều oxalate là rau spinach, quả dáu, □z'□Iíz
súc cù là, quả hạch (nuts), trà.
Nhiều chuyên gia khuyên cắt bớt sự tiêu thụ calckưn. Nhưng xin cẩn thận lấy ý kiến của bác sĩ trước, vì hạn chế quá, cơ thể sẽ rút calcium ở xương và làm xương ũ
suy yếu, dễ gẫy. Có ý kiến khác cho là sự giới hạn này có thể làm tăng nguy cơ bị sạn oxalate, vì Ií
calcium cao sẽ giúp gia tăng sự hấp thụ oxalate trong ruột và giảm sạn oxalate trong nước tiểu.
ỉ
2 - Sạn uric acid
.1íh
Uric acid là do sự chuyển hóa của châì purine trong chất đạm dộng vật và một số thực phẩm khác
I
ĩ. <íĩj m
mà ra. Uric acid trong nước tiêu cũng lên cao ở người bị bệnh thống phong (gout), khi uống nhiều thuốc
Aspiiin, Probenecid. Do đó, klìi hạn chế thực phẩm có nhiều purine sẽ làm giảm nguy cơ sạn này rất nhiều. Thực phẩm có nhiều purine là: gan, óc, tim, thận động vật; cá herring, sardine; bia, rưỢu vang; thịt, đậu, rau cauliflower, nấm, rau spinach, tôm cá. 3 - Sạn strnvite
Gồm các hóa chât ammonium, magnesium và phosphate. Và thường thây ở nữ giới. Bệnh thường do nhiễm \'i khuẩn đường tiểu tiện với các loại Proteus hoặc Klebsiella, khiến châ’t urea phân hóa thành các tinh thể ammonium. Tinh thể tụ lại với nhau và đưa tới sạn thận.
Bệnh sạn này thường được chữa bằng thuôc klìáng sinli để tiêu diệt nhiễm trùng hoặc bằng giải phẫu. Dinh dưỡng không có vai trò gì trong loại sạn này.
Trong tất cả các trường hỢp sạn thận, số lượng nước tiêu thụ hàng ngày có một vai trò rất quan trọng. Nước uống làm nước tiểu loãng và ngăn ngừa các tinh thể gây sạn kết tụ với nhau. Cho nên, mỗi ngày, người bị bệnh sạn thận cần uống ít nhâì tám ly nước hoặc nhiều hơn.
Xin lưu ý là một số thực phẩm làm thay đổi mức độ kiềm hoặc acid của nước tiểu (chỉ số pH) và có ảnh hưởng tới sự kết tinh các hóa chât trong sạn thận.
Rau, trái cây (ngoại trừ trái prune, plumbs, cranberries), sữa, làm nước tiểu có độ kiềm. Thực phẩm có nhiều châì đạm như thịt, cá, trứng, pho mát; trái plumb, prunes, cranberries, ngô bắp, đâu lentils làm nước tiểu có độ acid.
11
■<> zmU
z
14
ũ:háị
0z-□ĩízs ĩh
.1ĩ
I
t
thể, hay một bộ phận nào. Những triệu chứng này bao gồm mệt mỏi (có thể là luôn mệt hoặc chỉ mệt í
khi hoạt động thể chất), khó tập trung, giảm trí nhớ và mất ngủ. Phần lớn những triệu chứng này là do
Iz<ÌD m
thiếu máu, vì các chất độc tích tụ do chức năng thận suy giảm nên không loại bỏ được. Vì vậy, có thê
điều trị thiếu máu mà chưa cần phải lọc máu. Tất nhiên, những triệu chứng này cũng xuất hiện vì rất nhiều nguyên nhân khác không liên quan đến chức năng thận hay thiếu máu, vì vậy cần thăm khám cẩn thận và làm các xét nghiệm. Nếu thiếu máu đã được chữa trị mà các triệu chứng này vẫn còn, thì cần phải nghĩ đến phương pháp lọc máu.
Giữ nưổc
Triệu chứng thứ 3 là giữ nước trong cơ thể làm tăng huyết áp, phù và khó thở. Bệnh nhân bị thận, bệnh nhân mới chớm bị vẫn có khả năng tạo nước tiểu kể cả sau khi lọc máu. Chứứi vì họ thấy vẫn có lượng nước tiểu bình thường, nên rất ngạc nhiên khi thây bác sĩ nói, thận của họ không hoạt động tốt, do bệnh nhân thường nghĩ lượng nước tiểu bị suy giảm. Tuy nhiên, sự mất cân bằng giữa lượng muối và nước uống, có thể làm nước tích tụ. Vì vậy, ở giai đoạn đầu, bệnh nhân luôn được yêu cầu ăn nhạt và dùng thuốc lợi tiểu. Nhưng liệu pháp này có thể không kéo dài được lâu và bệnh nhân phải lọc máu. Vì vậy, bệnh nhân suy thận, khi thây những triệu chứng siing ở mô (phù), khó thở, hoặc khó kiểm soát huyết áp cần phải nói với bác sĩ để điều chủứi phác đồ điều trị cho phù hợp.
Có rất nhiều dấu hiệu và các triệu chứng xuất hiện ở bệnh nhân suy thận. Bao gồm, ngứa ngoài da, đó có thể là do mức phốtpho và canxi trong máu cao. Có thể giảm mức phốtpho trong máu bằng cách dùng thuốc phosphate binder và hạn chế dùng các thực phẩm có hàm lượng phốtpho cao.
BTVTĐPCT
17
a
z
z«
khác nhau, cũng như có kết quả xét nghiệm và lối sống khác, vậy quyết định phương pháp chữa trị .1ĩ
cuối cùng phải dựa vào tâ't cả các yếu tố liên quan thì mới đem lại hiệu quá cao nhất.
I
<**►
IL
kU
z
22
ỊTh
áỉ
CD
z-□Iíz□Q
Ih
<>z
Ih
Iz•S'□
liều thâp corticoid, chế độ ăn giảm đạm. Suy thận mạn giai đoạn cuối được lọc máu chu kỳ hoặc ghép thận. Bệnh LBĐHT tái phát trên thận ghép ít gặp.
Điều kiện kinh tế xã hội thấp kém, tăng huyết áp không được khống chế, chỉ số hoạt động và mạn tính cao ở thời điểm sinh thiết thận, không hoặc kém đáp ứng với điều trị ngay ở liệu pháp đầu tiên là các yếu tố cho biết tiên lượng kém.
Tóm lại: Tổn thương thận nổi bật của VCT lupus là một hội chứng cầu thận câp, HCTH và suy thận. Biểu hiện tiên lượng nặng về lâm sàng khi nhập viện có tmh kịch phát là suy thận nặng độ III, IV kèm theo tràn dịch màng ngoài tim, màng phổi và thiếu máu nặng, cần phát hiện tổn thương thận sớm ở bệnh nhân lupus bằng kiểm tra thường xuyên protein niệu.
Sinh thiết thận sớm ở những bệnh nhân có protein niệu đáng kể nhằm mục đích: Phân loại tổn thương cầu thận, đánh giá các chỉ số hoạt động và mạn tính, cho giá trị tiên lượng bệnh. VCT lupus được điều trị tấn công trong những đợt kịch phát, xen kẽ những đợt duy trì, điều trị những biểu hiện của tổn thương thận, đồng thời điều trị những biểu hiện ngoài thận. Các thuốc ức chế miễn dịch dùng đơn độc hoặc phối hỢp với các thuốc ức chế miễn dịch khác vẫn là sự lựa chọn hàng đầu trong điều trị các tổn thương thận do lupus. Lọc huyết tương phối hỢp với các thuốc ức chế miễn dịch được áp dụng để điều trị những đợt kịch phát nặng của VCT lupus. Tiên lượng của VCT lupus phụ thuộc vào hình thái tổn thương cầu thận và phương pháp điều trị được lựa chọn.
)
BÍ T iỂ a
Đường đi của nước tiểu được hình thành từ các cầu thận, chạy qua các tiểu quản để đổ vào đài thận rồi đến bồn thận. Từ bồn thận nước tiểu sẽ dẫn theo niệu quản và chảy vào bàng quang, để sau cùng là thoát ra ngoài qua niệu đạo. Với một đường đi dài và phức tạp như vậy thì cũng có lúc nước tiểu bị tắc nghẽn. Trong phần này chúng tôi muốn đề cập đến chứng tiểu khó do bất thường ở đường tiểu dưới (bàng quang và niệu đạo).
Vi sao có tình trạng bí tiểu?
Đi tiểu là một động tác theo ý muốn do sự kết hợp hài hòa giữa sự co bóp mạnh của bàng quang và sự giãn nở thật rộng của cổ bàng quang, đó là cơ vòng trong và cơ vòng ngoài (cơ vòng niệu đạo). Cơ vòng trong còn có tên là cơ vòng nhẵn, chịu sự chi phối cúa hệ thần kinh thực vật, còn cơ vòng ngoài chịu sự chi phối của não. Như vậy, muốn đi tiểu được phải có đủ các điều kiện: Bàng quang co bóp đủ mạnh, các cơ vòng giãn nở đủ rộng, niệu đạo thông thương, không bị vướng mắc. Thiếu một trong các yếu tố trên sẽ dẫn đến bí tiểu.
Khi nào bàng quang không co bóp đủ mạnh? Bàng quang là một cơ rỗng, có 3 lớp, chịu ,sự chỉ huy của hệ thần kinh thực vật hay tự chủ, do vậy sự co bóp của bàng quang là hiện tượng phản xạ xảy
23
az
zhU z
24
ỊTh
á5 z-□ĩíz
0
Ih
Ih
I
%z-<•íỉ=
15% các trường hợp đái khó. Đây là nguyên nhân phổ biến nhât gây đái khó ở lứa tuổi vị thành niên. Viêm niệu đạo
Viêm niệu đạo có thể do Chlamydia, Neisseria Izz<<■ íh
IIz'<■ íí=
II<ÍD m
nhiễm khuẩn đường tiết niệu tái phát đã biết rõ, có triệu chứng xuất hiện 7 đến 10 ngày trước khi đi khám (cũng nghĩ tới chlamydia), có tiền sử viêm thận-bể thận câ"p trong vòng 1 năm, hoặc tiền sử nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới từ 3 lần trở lên trong một năm. Khám thực thể đối với viêm thận-bể thận hạ lâm sàng có thể không thấy gì đáng quan tâm. Không có cả nhạy cảm đau ờ góc sườn-cột sống và cũng không đau ở mạng sườn.
Bước 3. X ét tới viêm niệu đạo do chlamydỉa hoặc lậu cầu
Các yếu tố bệnh sử gây nghi ngờ nliiễm Chlamydia bao gồm: Có bạn tình mới, bạn tình bị viêm niệu đạo mới mắc, các triệu chứng khởi phát tăng dần. Đái khó mà cỗ dịch xuất tiết âm đạo trong (không đực) là dâu hiệu viêm cổ tử cung đi kèm. ở một phụ nữ bị đái khó mà xét nghiệm nước tiểu có mủ nhưng kliông có vi klnuẩn hoặc hồng cầu thì phải nghĩ nlũều tới nliiễm Chlamydia. Nếu bệnh nhân có tiền sử bị lậu hoặc có bạn tình đang có dịch xuất tiết thì phải dùng que bôi lây bệnli phẩm ở niệu đạo, cổ tử cung, và vùng quanh hậu môn mà cấy trong môi trường Thayer-martin để chẩn đoán nhiễm lậu. Bệnli phẩm lấy từ trong và ngoài ống thông có thể giúp phân biệt viêm niệu đạo với nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới, vì nước tiểu lấy từ bàng quang klìông chứa bạch cầu trong viêm niệu đạo.
Bước 4. X ét tới nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới Bệnh này thường được gọi là viêm bàng quang. Phần lớn phụ nữ klioẻ mạnh đang độ tuổi hoạt động tình dục mà bị đái khó cấp tửih là do mắc loại bệnh
này. Đái khó thường là "ở phía bên trong" và đái khó suốt trong thời gian đi tiểu. Các nét khác của bệnh sử viêm bàng quang là: đái rắt (có thể tiểu tiền 15 phút một lần với lượng nước tiểu ít), mót đái, són đái, đái máu và đái ban đêm. Bệnh nhân có thể khó ở, sốt nhẹ, có cảm giác giống như bị cúm. Có thể bị đau lưng và khó chịu vùng trên mu, nhưng nếu có sốt cao, đau mạng sườn và thể trạng nhiễm độc thì đó là do viêm thận-bể thận câp.
Khám thực thể bệnh nhân bị nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới sẽ thay bụng bình thường, không có nhạy cảm đau ở góc sườn-cột sống và thường chỉ có nhạy cảm đau nhẹ ở vùng trên mu. Nếu có triệu chứng viêm âm đạo thì hãy thăm khám âm đạo. Trong các trường hỢp nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới tái phát, thăm khám âm đạo có thể phát hiện sa bàng quang, sa niệu đạo, hoặc túi thừa niệu đạo.
Đánh giá xét nghiệm cận lâm sàng
Không phải bệnh nhân nào bị đái khó cũng cần phân tích và cấy nước tiểu. Dưới dây là hướng dẫn thực hiện các test. Nếu bệnh sử có nghi vân viêm âm đạo thì phải làm tiêu bản ướt.
Nếu bệnh sử làm nghĩ tới nhiễm khuẩn đường tiết niệu thì phải xét nghiệm nước tiểu. Tốt nhâT là lây mẫu nước tiểu sạch giữa bãi. cần đưa ra lứiững chỉ dẫn cẩn thận rõ ràng để bệnh nhân lây được nước tiểu sạch. Bệnh nhân phải banh rộng các môi âm hộ và rửa âm hộ bằng ba lần vải gạc nhúng nước xà phòng. Mỗi lần rửa chỉ đưa vải gạc một lần duy nhất từ phía trước ra phía sau. Miếng gạc thứ nhất lau một bên của lỗ đái, miếng thứ hai lau bên đối
31
az
>
T
««u>■ z
32
diện và miếng thứ ba lau chứih giữa lỗ đái. Sau đó dùng một miếng gạc khô lau một lần từ trước ra sau cho hết xà phòng và làm khô âm hộ. Trong khi banh rộng các môi, một ít nước tiểu được bài tiết ra chậu rửa. Sau đó lấy mẫu nước tiểu giữa bãi vào một bình đựng vô khuẩn.
Đầu tiên phải xét nghiệm mẫu nước tiểu dưới kmh hiển vi để tìm các tế bào biểu mô âm đạo. Nếu thây có tế bào thì tức là nước tiểu bị nhiễm bẩn từ âm đạo và như thế phải lấy một mẫu nước tiểu sạch khác hoặc thông bàng quang để lấy.
Dấu hiệu nhạy bén rứiất của nhiễm khuẩn là mủ niệu (trong nước tiểu có hơn 5 bạch huyết cầu trên một vi trường phóng đại lớn). Có thể phát hiện mủ ỊThá
niệu bằng soi hiển vi hoặc bằng que nhúng (thử men esterase bạch cầu). Nghiệm pháp men esterase bạch cầu có độ đặc hiệu đạt từ 94 đến 98% (dương tứửi
i
giả 2 đến 6%) và độ nhạy đạt từ 74 đến 96% (âm z'□Iíz
tmh giả 4 đến 26%). Quan sát hiển vi nhạy bén hơn que nhúng đối với đái máu và khuẩn niệu và là cách duy nhất để phát hiện trụ niệu. Tuy là một dâ"u hiệu
nhạy bén của nhiễm khuẩn, nhưng mủ niệu không ũ
cho biết vị trí nhiễm khuẩn và loại vi khuẩn gây nhiễm.
sIỉ=
Cấy nước tiểu mà vi khuẩn mọc nhiều hơn 105 khuẩn lạc/lm l thì không còn là tiêu chuẩn tốt để xác định nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới. Dẫn chứng mới đây cho biết là 50% số phụ nữ bị nhiễm khuẩn Ií=
đường tiết niệu dưới rõ ràng do vi khuẩn Coli, khi cấy nước tiểu vi khuẩn mọc từ 102 đến 104 khuẩn lạc/lml.
Iz<ÍD m
Để có kết quả tốt phải cấy nước tiểu sạch giữa bãi vào môi trường trong vòng 20 phút. Điều này tránh sự gia
tăng số lượng giả tạo các khuẩn lạc do vi khuẩn mọc quá mức gây ra. Nếu quá 20 phút mà chưa cấy được thì phải để bệnh phẩm vào trong tủ lạnh.
Các dẫn chứng hiện nay cho rằng không cần cấy nước tiểu trong phần lớn các trường hợp nhiễm khuẩn nhất thời đường tiết niệu dưới, ớ phụ nữ bị đái khó cấp túih thì tìm mủ niệu với chi phí ít cũng đủ để biết trước bệnh nhân nào dùng liệu pháp kháng sinh sẽ có lợi.
Cấy nước tiểu và kháng sinh đồ cần làm trong những trường hợp sau đây: Nhiễm khuẩn tái phát bởi cùng một loại vi khuẩn, có dấu hiệu nhiễm khuẩn đường tiết niệu trên, rửiiễm khuẩn đường tiết niệu trong thời kỳ đang nằm viên hoặc sau khi ra viện, nhiễm khuẩn do thông hoặc do đặt dụng cụ, có tiền sử sỏi niệu, có tiền sử tiểu đường hoặc biến chứng của bệnh khác và nhiễm khuẩn trong lúc có thai. Nếu nghi ngờ viêm niệu đạo hay viêm cổ tử cung là do lậu thì phải cấy dịch xuất tiết trong môi trường Thayer-martm. Nhuộm Gram tìm thấy song cầu khuẩn nội bào thì cũng không phải là dấu hiệu đáng tin cậy cho chẩn đoán nhiễm N. gonorrhoeae. Nếu hỏi bệnh làm nghĩ tới nhiễm Chlamydia và xét nghiệm nước tiểu chỉ thấy mủ niệu nhưng không có khuẩn niệu thì cứ điều trị chống Chlamydia. Có thể cấy nước tiểu để tìm Chlamydia nhưng rất đắt. Test tìm kháng thể kháng Chlamydia có thể làm được và rẻ hơn cấy.
Biện pháp chăm sóc
Nhiều điểm quan trọng cần phải nhấn mạnh. Hãy đảm bảo là hỏi bệnh nhân về cả các triệu chứng âm đạo cũng như triệu chứng tiết niệu, vì một số bệnh
BTVTĐPCT
33
a
T
zmU z
34
nhân bị nhiễm khuẩn cả hai cơ quan. Nếu nghi ngờ nhiễm khuẩn niệu và đã loại trừ được viêm thận-bê thận cấp túửi thì hãy khẳng đữửì liệu bệnh nhân có nguy cơ viêm thận-bể thận hạ lâm sàng không (xem các tiêu chuẩn trình bày trong phần bệnh căn ở trên). Nếu bệnh nhân có nguy cơ viêm thận-bể thận hạ lâm sàng thì cần xét nghiệm và cấy nước tiểu. Nếu tìm thây mủ niệu và trụ niệu, hoặc cấy nước tiểu mà mọc nhiều hơn 105 khuẩn lạc/lm l thì phải điều trị bệnh nhân theo phác đồ chung trong 10 đến 14 ngày (phác đồ dùng trimethoprim-sulfamethoxazole: TMP-SMZ, uống viên phối hỢp kép này hai lần mỗi ngày hoặc amoxicillin 500mg ba lần một ngày). Tiếp ĨL’ h
tục cấy nước tiểu 2 đến 4 ngày sau khi kết thúc điều trị nếu còn nghi ngờ viêm thận-bể thận hạ lâm sàng. ắ
Nếu lần cấy thứ hai này mà dương tứứì thì làm i
kháng sinh đồ và điều trị bằng kháng sinh thích hỢp z'□ĩíz
trong 4 đến 6 tuần. Nếu bệnh nhân không có nguy cơ viêm thận-bể thận hạ lâm sàng thì chỉ cần xét nghiệm nước tiểu. Nếu có mủ niệu mà không thây khuẩn niệu thì điều trị chống nhiễm Chlamydia (tức §
là doxycycline lOOmg hai lần một ngày hoặc tetracyclme 500mg bốn lần một ngày trong 14 ngày). Nghi ngờ ịI1=
nhiễm lậu thì phải điều trị thích hỢp và dựa vào kết quả cấy vi khuẩn.
'<>z<<•
ở bệnh nhân có nguy cơ thấp thì mủ niệu và khuẩn niệu thường do viêm bàng quang (nhiễm íí=
khuẩn đường tiết niệu dưới). Chỉ cần cấy nước tiểu nếu bệnh nhân đã bị viêm bàng quang ba lần hoặc
I
hơn trong một năm. Điều trị theo phác đồ chung
<íũ
dùng các kháng sinh thích hợp (như amoxicillin
500mg ba lần một ngày hoặc trimethoprim-sul famethoxazole hai lần một ngày) trong 14 ngày. Có nhiều thông tin về cách thay thế cho chế độ điều trị truyền thống 10 đến 14 ngày để chữa viêm bàng quang không biến chứng. Một số nhà lâm sàng vẫn cổ vũ cho trị liệu dơn liều. Lợi ích của biện pháp này so với chế độ điều trị truyền thống 10-14 ngày là ở chỗ làm bệnh nhân tuân thủ hơn, giảm phí tổn, và có ít tác dụng phụ (bao gồm giảm đáng kể bệnh nâ"m âm đạo do điều trị sinh ra). Chế độ điều trị đơn liều hay được sử dụng ĩứiất để điều trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới không biến chứng là ba viên phối hỢp kép 160mg/800mg. Tỷ lệ khỏi đối với chế độ điều trị này đã được ghi nhận là 65%. Các thuốc khác như amoxicillin (3mg) hoặc sulfisoxazole (2mg) cũng đã được dùng đơn liều, nhưng nói chung là có vẻ kém hiệu quả hơn. Nhóm kháng sinh quinolon có thể đạt tỷ lệ khỏi 80% khi dùng trị liệu đơn liều (4). Tuy nhiên, nhìn chung niềm lạc quan sớm về cách điều trị đơn liều đã bị thay thế bởi chứng cứ cho rằng chế độ điều trị 3 ngày có thể là cách lựa chọn tốt nhâT cho phác đồ điều trị chung. Điểm các dữ liệu được công bố thì thấy rằng chế độ điều trị 3 ngày có hiệu quả hơn chế độ đơn liều đối với mọi thuốc kháng khuẩn đem thử nghiệm. Chế độ 3 ngày chữa khỏi hầu lứiư tất cả những trường hợp lứiiễm khuẩn đường tiết niệu dưới đơn thuần. Với chế độ điều trị này thì các bệnh nhân không khỏi thường là bị rứiiễm khuẩn đường tiết niệu trên tiềm ẩn và do đó cần điều trị lâu hơn.
Nhóm kháng sinh quinolon mới có hiệu quả cao chống lại hầu hết các vi khuẩn gây viêm đường tiế<-
35
az
z
MiU §z
36
niệu. Sau một liều uống nồng độ các thuốc này tập trung trong nước tiểu cao, nhờ thế mà điều trị ngắn hạn (nghĩa là 3 ngày) nhiễm khuẩn đường tiết niệu rất có hiệu quả (4,5).
Tất cả bệnh nhân đều cần theo dõi cẩn thận. Nếu có triệu chứng tái phát hay không khỏi sau bâT cứ chế độ điều trị nói trên nào thì đều phải cấy nước tiểu, và phải điều trị bệnh nhân trong 4 đến 6 tuần, vì có thể có nhiễm khuẩn đường tiết niệu trên.
Hãy nhớ rằng viêm âm đạo do nâ"m Candida monilia là biến chứng hay gặp khi điều trị kháng sinh. Do đó các bệnh nhân có tiền sử nhiễm nâ"m khi dùng kháng sinh đều phải cho miconazole (Monistat) hoặc clolrimazole (Gme-lotrimin) đồng
crh
thời với kháng sinh hoặc cho khi thây khởi phát ắ
ngứa âm đạo.
ĩ
Các trường hợp đặc biệt
z
Có một số trường hỢp đặc biệt cần bàn luận ngắn 'QỊíz
gọn:
Đái khó tái phát
Đa số trường hỢp là tái nhiễm một vi khuẩn mới. QặIh
Nếu tái phát bởi cùng một loại vi khuẩn trong vòng 14 ngày sau khi điều trị thì có nghĩa là nhiễm khuẩn đường tiết niệu trên chưa được giải quyết. Sau khi giao hỢp, nồng độ vi khuẩn trong bàng quang tăng
<>z,<•
lên tạm thời gấp 10 lần. Có người gợi ý là đi tiểu
sớm sau khi giao hỢp có thể làm giảm nồng độ vi Ih
khuẩn trong bàng quang xuống nhanh và do đó làm giảm khả năng nhiễm khuẩn. Một lời khuyên khác
I
Iz<<•íh
giới nhiều, nên một số tác giả cho rằng nam giới bị nhiễm khuẩn đường tiết niệu (trên và dưới) rõ rệt thì phải đánh giá như là biến chứng nội khoa (ví dụ của tiểu đường) hay là một bất thường về giải phẫu
I
ĩ. z<<■íh
II‘S ’m
Ngược lại, một số bệnh lý ở nhu mô thận, cầu thận, ống thận, kẽ thận, mạch máu thận do mắc phải hoặc di truyền có thể là nguồn gốc gây tăng huyết áp. Trong những trường hợp này gọi là tăng huyết áp triệu chứng.
Mối tưcỉng quan thuận - nghịch xâ"u này cần được nhận biết để xử lý, điều chỉnh nhằm bình thường hóa huyết áp. Ngày nay, y học đã biết rõ hcfn cơ chế bệrửì sinh thuận nghịch này và đã có các thuốc có nhiều hiệu quả trong chống tăng huyết áp, bảo vệ tim, bảo vệ thận với mục đích ít hoặc chậm dẫn đến suy thận giai đoạn cuối.
Theo ước từứi, 3% dân số Mỹ có bệnh về thận bị creatinine huyết tăng thì trong đó 70% có tăng huyết áp nhimg chỉ 59% số này được điều trị và chỉ 34% đạt được huyết áp mục tiêu. 2 - 5% tổng số bệnh nhân tăng huyết áp do các bệnh thận mạn tmh.
ở Việt Nam, theo Khoa thận tiết niệu - Bệnh viện Bạch Mai (năm 2000); 72,9% bệụh nhân điều trị nội trú tại khoa bị suy tĩnh mạch, 86,7% bệnh nhân lọc máu chu kỳ có tăng huyết áp. Hiện nay tại Bệnh viện Bạch Mai đang quá tải bệnh nhân bị suy thận mạn có tăng huyết áp và suy tim cần điều trị thay thế.
Tại sao các bệnh thận và suy thận có tăng huyết áp? Để giải thích, y học nêu vai trò quan trọng của hệ thống rennin-angiotensin-aldosteron (RAAs). Rennin là một enzym đ ư ợ c sản xuất ở tổ chức cầu thận có tác dụng kích hoạt angiotesinogen thành angiotensin I. ớ đây nhờ enzym chuyển đổi có tác dụng chuyển angiotensin I thành angiotensin II, một chất gây co mạch râT mạnh làm tăng huyết áp.
Những bệnh thận nào có thể gây tăng huyết áp? Khi có một người bị tăng huyết áp, thầy thuốc sẽ tìm các bệnh thận sau đây:
- Viêm cầu thận cấp với các triệu chứng phù, đái máu, protein niệu tăng trên lg/1, tăng huyết áp. - Viêm cầu thận mạn với các triệu chứng phù, da nhợt, protein niệu tăng trên lg/1, hang cầu niệu nhiều, ure huyết và creatinữì huyết tăng, tăng huyết áp, siêu âm thấy thận nhỏ.
- Viêm cầu thận đái tháo đường với các triệu chứng glucose huyết lúc đói tăng trên 7,lmmol/l, nước tiểu có microalbumin, protein. Có thể kèm theo rối loạn mỡ máu.
- Viêm cầu thận lupus. Đây là một bệnh tự miễn, tiến triển từng đợt với sốt, đau khớp, ban đỏ má, tăng huyết áp.
- Sỏi đường tiết niệu: sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang với các triệu chứng như cơn đau quặn thận, đái máu, được phát hiện qua siêu âm, chụp X quang.
- ứ nước thận với triệu chứng đái máu, hai thận to, được chẩn đoán nhờ siêu âm, X-quang. - Đa nang thận với các triệu chứng đái máu, hai thận to, được chẩn đoán nhờ siêu âm.
- Suy thận giai đoạn cuối đ ư ợ c điều trị thay thế bằng các biện pháp lọc máu chu kỳ hoặc lọc màng bụng ngoại trú liên tục hoặc ghép thận.
Điều trị tăng huyết áp trong bệnh thận và suy thận như thế nào?
Ngoài chế độ ăn uống giảm natri, hoạt động thể lực thích hỢp thì việc chọn thuốc đơn trị liệu hoặc
41
az
zkU z
42
p[h
á5 pz-□Iũ!z
Q
BIh
'<>
Ẵĩ
I
Iz<<■íh
Phần lớn các trường hợp sỏi thận hình thành do lượng nước quá ít (từ việc mất nước do uống ít nước hoặc tập thể thao quá sức), sự thừa khoáng tirửi thể trong nước tiểu, hoặc mức khoáng chất phân nhỏ
I
hơn mức bình thường trong nước tiểu. Các khoáng ềm
châ^t như canxi, oxalate, uric axit, natri, cystine hay
phốtpho kết thành một khối rắn và đó chứih là sỏi thận. Sỏi thận cũng có thể ra ngoài qua đường tiểu, nhưng cũng có thể ở trong thận, bàng quang hay niệu đạo.
Nói chung sỏi nhỏ có thể tự ra ngoài mà không ảnh hưởng gì, nhưng nếu sỏi lớn, có thể bị mắc lại trên đường ra và sẽ cần phải có sự trỢ giúp của bác sĩ chuyên khoa để lấy sỏi ra ngoài.
Điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân gậy sỏi thận và loại sỏi thận, từ đó mới tìm được cách chữa trị tốt nhất và cách phòng tránh. Nếu một người đã từng bị sỏi thận, rất có khả năng sẽ bị hình thành sỏi tiếp, sỏi tiết niệu có thể gây cản trở cho thận trong việc loại bỏ các châ"t độc hại. Một viên sỏi trong thận cũng có thể xù xì, lởm chởm hoặc có các cạnh sắc rứiọn và có thể làm tổn thưcỉng tạo nên những vết sẹo trong thận, dẫn đến thận bị hỏng và đôi khi gây nên suy thận.
Những triệu chứng của sỏi thận
Bạn có thể không biết rằng mình bị sỏi thận cho đến khi nó gây đau đớn, là sỏi lớn và chặn đường tiểu hoặc đôi khi đi tiểu ra sỏi mới biết. Triệu chứng thông thường là ccfn đau dữ dội, không đều bắt đầu từ vùng của thận, là sau lưng ở phía dưới hoặc phía dưới xương sườn. Cơn đau có khuynh hướng di chuyển cùng với sỏi. Nếu sỏi dừng không di chuyển thì cơn đau cũng hết. Ngoài ra còn có các triệu chứng sau:
- Nước, tiểu có máu hoặc màu đục, có mùi - Choáng váng hoặc nôn
- Sốt hoặc ớn lanh
45
a
z
kU z
46
- Cảm giác bỏng rát, đau khi tiểu.
Nếu bạn có bất kể một triệu chứng nào kể trên, hãy đến gặp bác sĩ ngay. Chữa trị sỏi thận sớm có thể ngăn chặn được các biến chứng nguy hiểm như bệnh về thận, đặc biệt nghiêm trọng là có thể gây suy thận.
Các loại sỏi thận và cách hình thành sỏi
Có bốn loại sỏi thận chứứi: sỏi canxi, sỏi struvite, sỏi cystine và uric acid.
Sỏi canxi là loại sỏi phổ biến rứiất. Khoảng 80- 90% sỏi thận là canxi với một vài khoáng chất khác (thường là oxalate và phosphate). Lượng canxi dư thừa trong cơ thể không sử dụng hết được loại bỏ ỊIh
qua thận-, lượng dư thừa này thường chảy vào nước á
tiểu. Nếu canxi không được đưa ra ngoài, hoặc đơn giản là quá nhiều để có thể hoà tan trong nước tiểu, 5ũz
nó sẽ rắn lại và kết hỢp với các khoáng chất khác tạo thành sỏi. sỏi canxi thường xuất hiện ở những người có lượng Vitamin D cao hoặc bị cường tuyến
Id:z
giáp (hạch tuyến giáp quá nhạy cảm). Những người bị suy thận thường có khả năng bị sỏi canxi. ữ
Sỏi khuẩn là loại sỏi thường được hình thành sau khi bị viêm đường tiết niệu. Loại này khá phổ biến
ịIh
ở phụ nữ, do phụ nữ cũng dễ bị viêin đường tiết niệu hơn nam giới. Viêm đường tiết niệu mạn tứih
-<>z<<■Ih
tạo ra enzyme làm tăng lượng amoniac trong nước tiểu. Lượng amoniac dư thừa này làm vi khuẩn có thể phát sinh nhanh hơn tạo điều kiên cho sỏi khuẩn hình thành, sỏi khuẩn thường có nhiều cạnh nhọn, Izz<<•íi=
IIz<<•Ih
u ban đầu và lan (di căn) tới các bộ phận khác của cơ thể. Khi ung thư thận lan, tế bào ung thư có thể xuất hiện trong các hạch bạch huyết. Vì vậy, các hạch ở gần thận có thể được nạo vét trong khi phẫu
Ị
I
nguyên phát) ở thận.
Triệu chứng
ở giai đoạn sớm, ung thư thận thường không gây Õ7
ra dấu hiệu gì rõ ràng hoặc các triệu chứng khó chịu. Tuy nhiên, khi u thận phát triển thì triệu chứng có thể xuất hiện. Những triệu chứng này bao gồm:
Đái máu. Máu có thể xuất hiện trong nước tiểu hôm nay nhưng hôm sau lại không xuâT hiện. Trong một số trường hỢp, người bệnh có thể nhìn thây máu, hoặc có thể phát hiện thây đái máu qua xét nghiệm nước tiểu, một xét nghiệm cận lâm sàng được tiến hành trong thăm khám sức khoẻ định kỳ.
Khối u ở vùng thận
Các triệu chứng ít gặp hơn có thể bao gồm: - Mệt mỏi
- Chán ăn,
- Giảm cân
- Sốt tái đi tái lại
- Đau ở cạnh lưng không khỏi
- Cảm thấy mỏi mệt toàn thân.
- Huyết áp cao hoặc thiếu máu cũng có thể là dấu hiệu của ung thư thận; tuy nhiên, những triệu chứng này ít gặp hơn.
Những triệu chứng này có thể do ung thư hoặc các tình trạng bệnh lý khác ít nghiêm trọng hơn gây ra như nhiễm khuẩn hoặc nang. Chỉ có bác sĩ mới có thể
52
p[h
ắ
5
0z
'Qỉíz□Q
□3-íh
•?
íỉ=
1
2 <íũ m
đưa ra chẩn đoán. Những người có các triệu chứng này có thể đến gặp bác sĩ gia đìrửi hoặc bác sĩ chuyên khoa tiết niệu. Thông thường, ung thư giai đoạn sớm không gây đau; điều quan trọng là không nên chờ cho đến khi thấy đau mới đến khám bác sĩ.
Trong hầu hết các trường hỢp, ung thư càng được phát hiện và điều trị sớm thì khả năng hồi phục hoàn toàn của bệnh nhân càng lớn.
Chẩn đoán
Để tìm nguyên nhân gây triệu chứng, bác sĩ cần khai thác tiền sử bệnh sử của bệnh nhân và tiến hành khám lâm sàng. Bên cạnh việc kiểm tra các dấu hiệu về sức khoẻ chung, bác sĩ có thể cho xét nghiệm máu và nước tiểu. Bác sĩ có thể khám kỹ vùng bụng để tìm u cục hoặc các khối bất thường.
Bác sĩ thường chỉ định các thăm dò hình ảnh của thận và các cơ quan lân cận. Những bức tranh này thường có thể cho biết các thay đổi ở thận và mô xung quanh. Ví dụ, chụp hệ tiết niệu có tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch (IVP) là phim chụp X-quang thận, niệu quản và bàng quang sau khi tiêm thuốc cản quang vào tĩnh mạch. Các hình ảnh chụp được có thể cho thấy những biến đổi về hình dạng của các cơ quan này và các hạch lân cận
Chụp động mạch là một loạt phim X-quang chụp mạch máu. Thuốc cản quang được tiêm vào mạch máu lớn qua một catheter. Phim chụp cho thấy mạng lưới mạch máu nhỏ hơn ở bên trong và xung quanh thận.
Một số thăm dò hình ảnh khác bao gồm chụp cắt lớp vi tứih, chụp cộng hưởng từ và siêu âm có thể cho thấy sự khác biệt giữa các mô bệnh lý và các mô lành.
Nếu kết quả xét nghiệm nghi ngờ ung thư thận thì có thể tiến hành sinh thiết. Sinh thiết là cách duy nhất chắc chắn để chẩn đoán ung thư. Trong khi tiến hành sinh thiết để tìm ung thư thận, bác sĩ chọc một kim nhỏ vào trong khối u và hút ra một mẫu mô. Sau đó, bác sĩ giải phẫu bệnh quan sát mô dưới kứih hiển vi để tìm tế bào ung thư.
Khi ung thư thận đã được chẩn đoán, bác sĩ cần biết giai đoạn, hoặc phạm vi của bệnh. Phân giai đoạn là một quá trình thăm dò chi tiết để phát hiện ung thư đã lan chưa, và nếu lan thì lan tới phần nào của cơ thể. Bác sĩ cần phải có thông tm này để lập kế hoạch điều trị cho bệnh nhân.
Để phân giai đoạn ung thư thận, bác sĩ có thể cho chụp bổ sung cộng hưởng từ và chụp X-quang các mô và mạch máu ở bên trong và xung quanh thận. Bác sĩ có thể tìm các hạch bị sưng to lên ở trong lồng ngực và ổ bụng qua chụp cắt lớp vi tứứi. Chụp X-quang lồng ngực thường có thể cho biết ung thư đã di căn vào phổi chưa. Xạ hình xương có thể phát hiện ra các dâu hiệu di căn của ung thư vào xương.
Những người có chỉ định sinh thiết có thể muốn hỏi các bác sĩ một số câu hỏi như:
- Thủ thuật kéo dài bao lâu? Tôi có bị gây mê không? Có đau không?
- Bao giờ tôi có thể biết kết quả?
- Nếu tôi bị ung thư thì ai sẽ nói cho tôi biết về việc điều trị? Khi nào?
Điểu trị
Điều trị ung thư thận phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, tình trạng sức khoẻ chung và độ tuổi của bệnh
53
az
ỊỊL
hU z
54
nhân. Bác sĩ sẽ lập kế hoạch điều trị phù hợp với từng bệnh nhân.
Bệnh nhân ung thư thận thường được điều trị bởi một đội ngũ các chuyên gia, trong đó có bác sĩ chuyên khoa tiết niệu, bác sĩ ung thư, bác sĩ tia xạ ung thư. Ung thư thận thường được diều trị bằng phẫu thuật, liệu pháp tia xạ, liệu pháp sinh học, hoá trị liệu, hay liệu pháp hormon. Đôi khi, người ta có thể sử dụng một phương pháp điều trị đặc biệt gọi là làm thuyên tắc động mạch. Bác sĩ có thể quyết đữửi lựa chọn sử dụng một phương pháp điều trị hoặc phối hợp nhiều phương pháp,
Một số bệnh nhân tham gia vào thử nghiệm lâm Ihặ
sàng sử dụng các phương pháp điều trị mới. Các thử nghiêm này giúp cải thiện chất lượng và hiệu quả điều ữị ung thư.
5
Lấy ý kiến thứ hai
z
Trước khi bắt đầu điềjji trị, bệnh nhân có thể muốn có ý kiến tham khảo của một bác sĩ giải phẫu
Itz
bệnh hoặc một bác sĩ chuyên khoa thứ hai để xem
lại kết quả chẩn đoán và phác đồ điều trị. Điều này ũ
không làm ảnh hưởng đến khả năng thành công của ỉ
điều trị.
Chuẩn bị cho điểu trị
'<>
Dưới đây là một số câu hỏi mà bệnh nhân có thể muốn hỏi bác sĩ trước, khi, bắt đầu điều trị;
ịỉ
- Tôi bị mắc loại ung thư gì?
- Bệnh của tôi đang ở giai đoạn nào?
I
- Tôi có các lựa chọn điều trị nào? Bác sĩ giới ềm
thiệu cho tôi phương pháp nào? Tại sao?
- Nguy cơ và tác dụng phụ của từng phương pháp điều trị là gì?
- Khả năng thành công của phương pháp điều trị này ra sao?
- Các phương pháp điều trị mới nào đang được nghiên cứu trong thử nghiệm lâm sàng? Liệu thử nghiệm lâm sàng có phù hợp với tôi không? - Điều trị sẽ kéo dài bao lâu?
- Tôi có phải nằm viện không?
- Liệu điều trị có ảnh hưởng tới hoạt động thường ngày của tôi không? Nếu ảnh hưởng thì trong bao lâu?
- Chi phí cho điều trị là khoảng bao nhiêu? Các phương pháp điều trị
Phẫu thuật là phương pháp điều trị ung thư thận phổ biến nhất. Phẫu thuật được thực hiện là cắt bỏ thận. Bác sĩ phẫu thuật thường cắt bỏ toàn bộ quả thận cùng với tuyến thượng thận và các mô quanh thận. Một số hạch bạch huyết trong vùng có thể được nạo vét. Đây là thủ thuật cắt thận triệt để. Trong một số trường hỢp, bác sĩ phẫu thuật chỉ cắt bỏ thận (thủ thuật cắt thận đơn giản). Quả thận còn lại nói chung có thể đảm đương được công việc của cả hai thận. Một số trường hỢp khác, bác sĩ phẫu thuật chỉ cắt bỏ một phần quả thận nơi có khối u, gọi là thủ thuật cắt thận bán phần.
Thuyên tắc động mạch đôi khi được thực hiện trước phẫu thuật để có thể tiến hàiửi phẫu thuật dễ dàng hơn. Nó cũng thường được sử dụng để giảm đau hoặc chống chảy máu khi không thể cắt bỏ được khối u. Các miếng xốp nhỏ bằng gelatin đặc biệt
55
az
zkU z
56
hoặc bằng châ"t liệu khác được tiêm vào cơ thể qua một ống thông để làm tắc các mạch máu chứih ở thận. Thủ thuật này làm nhỏ khối u nhờ việc giảm tưới dòng máu mang oxy và các châT khác cần cho khối u phát triển.
Dưới đây là một số câu hỏi mà bệnh nhân có thể muốn hỏi trước khi phẫu thuật:
- Loại phẫu thuật nào sẽ được thực hiện?
- Có cần phải tiếp tục điều trị sau khi phẫu thuật không? Cách điều trị như thế nào?
- Tôi sẽ cảm thấy thế nào sau khi phẫu thuật? - Nếu tôi bị đau, bác sĩ có thể giúp tôi như thế
nào?
ÍTháỉ
- Khi nào tôi có thể bắt đầu lại hoạt động thường ngày của tôi?
Liệu pháp tia xạ sử dụng các tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Đôi khi, bác sĩ sử 0z'□Iíz
dụng liệu pháp này để giảm đau (điều trị triệu chứng) khi ung thư thận đã di căn vào xương. Người ta điều trị ung thư thận bằng phương pháp chiếu xạ ngoài, với một vật liệu phóng xạ bên ngoài ữ
cơ thể và một máy chiếu xạ hướng các tia vào một ỉIh
vùng cụ thể. Bệnh nhân thường được điều trị ngoại trú ở bệnh viện hoặc phòng khám 5 ngày mỗi tuần trong vài tuần. Phác đồ điều trị này giúp bảo vệ các -<>z<<•Ih
mô lành nhờ sự toả tổng liều phóng xạ ra ngoài. Bệnh nhân không cần nằm viện trong khi tiến hành xạ trị, và bệnh nhân không mang nguồn xạ trong và sau khi điều trị.
II.'S'm
Dưới đây là một số câu hỏi mà bệnh nhân có thê muốn hỏi bác sĩ trước khi tiến hành xạ trị:
- Mục đích của phương pháp điều trị này là gì? - Khi nào thì việc điều trị bắt đầu? Khi nào thì kết thúc?
- Tôi sẽ cảm thấy như thế nào trong thời gian điều trị? Có thể có những tác dụng phụ nào? - Tôi có thể làm gì để chăm sóc bản thân trong khi điều trị bằng tia phóng xạ?
- Làm cách nào tôi biết được điều trị có hiệu quả hay không?
- Lĩệu tôi có thể tiếp tục hoạt động như bình thường trong thời gian điều trị tia phóng xạ hay không? Phẫu thuật và thuyên tắc động mạch là các phưcmg pháp điều trị tạri chỗ. Chúng chỉ ảnh hưởng tới tế bào ung thư trong vùng điều trị. Liệu pháp sinh học, hoá -trị liệu, và liệu pháp hormon, được giải thích sau đây, là các phương pháp điều trị toàn thân bởi vì chúng đi vào hệ thống mạch máu và tới các tế bào trong toàn bộ cơ thể.
Liệu pháp sinh học là một dạng điều trị sử dụng khả năng kháng ung thư tự nhiên của cơ thể (hệ thống miễn dịch). Interleukin-2 và interíeron là hai loại thuốc sử dụng trong liệu pháp sinh học để điều trị ung thư thận giai đoạn muộn. Các thử nghiệm lâm sàng tiếp tục nghiên cứu các phương pháp tốt hơn để tiến hành liệu pháp sinh học đồng thời có thể giảm được tác dụng phụ. Nhiều bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp sinh học cần nằm viện trong thời gian điều trị để có thể theo dõi được các tác dụng phụ này.
57
az
zmU z
58
ỊTh
ắi
z-□Iíz ũ
8Ih
-<>z'<■Ih
ỊIz,<■
íỉ=
I
<ÍD m
Da ở vùng được chiếu xạ thường bị đỏ, khô, nhạy cảm đau và ngứa hoặc có thể bị đen hoặc như bị cháy nắng vĩnh viễn. Xạ trị thận và các cơ quan lân cận có thể gây buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy và tiểu buốt. Nó còn có thể gây giảm bạch cầu là loại tế bào giúp cơ thể chống lại nhiễm khuẩn.
Liệu pháp sinh học
Tác dụng phụ do liệu pháp sinh học gây ra thay đổi tuỳ theo từng týp điều trị. Những phương pháp điều trị này có thể gây các triệu chứng giống cảm cúm như rét run, sốt, đau cơ, mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, nôn mửa, và ỉa lỏng. Bệnh nhân thường cảm thấy rất mệt mỏi sau khi điều trị, và họ có thể dễ bị chảy máu và bầm tứn. Một số bệnh nhân còn có thể phát ban ngoài da. Bên cạnh đó, phương pháp điều trị này có thể gây phù và làm ảnh hưởng tới chức năng bình thường của thận và gan. Những vấn đề này có thể trầm trọng, nhưng chúng sẽ mất đi khi ngừng điều trị.
Hoá trị liệu
Tác dụng phụ của hoá trị liệu phụ thuộc vào loại thuốc điều trị. Nói chung, thuốc chống ung thư tác động tới các tế bào phân chia nhanh, như tế bào máu, tế bào lót niêm mạc ống tiêu hoá, và tế bào ở nang tóc. Kết quả là, bệnh nhân có thể có các tác dụng phụ như giảm khả năng chống nhiễm khuẩn, chán ăn, buồn nôn, nôn mửa, hoặc đau miệng. Họ có thể có ít năng lượng hơn và bị rụng tóc.
Liệu pháp hormon
Tác dụng phụ của liệu pháp hormon thường nhẹ. Progesterone là loại hormon thường được sử dụng
nhất để điều trị ung thư thận. Các thuốc chứa prog esterone có thể gây ra những thay đổi về cảm giác ngon miệng và trọng lượng. Chúng còn có thể gây phù hoặc giữ nước. Các tác dụng phụ này thường mất đi khi điều trị kết thúc.
Theo dõi
Việc theo dõi định kỳ của bác sĩ sau khi điều trị ung thư thận là rất quan trọng. Bác sĩ sẽ đề xuâ"t một chương trình khám theo dõi phù hợp bao gồm khám lâm sàng, chụp X-quang lồng ngực, và các xét nghiệm cận lâm sàng. Đôi khi bác sĩ chỉ định làm xạ hình và các xét nghiệm khác. Bệnh nhân cần phải tiếp tục khám theo dõi và thông báo sớm tất cả các vấn đề bất thường ngay khi chúng xuất hiện.
Triển vọng trong tương lai
Triển vọng của bệnh nhân ung thư thận giai đoạn sớm là rất tốt. Ung thư thận thường được chữa khỏi nếu nó được phát hiện và chữa trị trước khi có di căn. Nhiều nhà nghiên cứu đang tìm các biện pháp tốt hơn để phát hiện ung thư thận giai đoạn sớm. Họ cũng đang tìm kiếm các biện pháp hiệu quả hơn để điều trị ung thư thận giai đoạn muộn.
Các nguyên nhân có thể gây bệnh và cách phòng chống
Hiện nay, các nhà khoa học chưa xác định được nguyên nhân chứủi xác gây ung thư thận. Các nhà nghiên cứu tìm hiểu các dạng ung thư trong cộng đồng để tìm những yếu tố thường gặp ở những người bị img thư thận nhiều hơn so với những người không bị bệnh để qua đó tìm ra các yếu tố nguy cơ
61
az
íHÌU ỉ
62
gây bệnh. Điều quan trọng cần biết là hầu hết những người có các yếu tố nguy cơ này lại không bị ung thư, và những người bị ung thư có thể không có một yếu tố nào trong số các yếu tố này.
Giống như hầu hết các loại ung thư khác, các nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư thận tăng lên theo độ tuổi. Bệnh thường xuất hiện nhất là trong độ tuổi 50-70. Nó xảy ra ở nam giới nhiều gâp đôi nữ giới. Các yếu tố nguy cơ khác của ung thư thận là:
- Sử dụng thuốc lá: Theo kết quả nghiên cứu, những người hút thuốc có nguy cơ phát triển ung thư thận cao gấp đôi những người không hút thuốc. Bên cạnh đó, thời gian sử dụng thuốc càng dài thì nguy cơ càng cao. Tuy nhiên, nguy cơ mắc ung thư
ỊTh
thận giảm xuống khi bỏ hút thuốc.
ắ
- Béo phì: Béo phì có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư thận. Trong một số nghiên cứu, béo
i
phì đi kèm tăng nguy cơ ung thư ở phụ nữ. Một z
nghiên củu khác đề xuâT thừa cân cũng là một yếu 'Q1ĩz
tố nguy cơ cả ở nam giới. Nguyên nhân của mối liên quan này còn chưa được xác định rõ.
- Sự phơi nhiễm trong nghề nghiệp: Một số ũ
nghiên cứu đã kiểm tra các phơi nhiễm trong nghề ỉIh
nghiệp để xem chúng có làm tăng nguy cơ phát triển ung thư thận ở công nhân hay không. Ví dụ, các nghiên cứu chỉ ra công nhân lò than cốc trong nhà
-<>
máy thép có tỉ lệ mắc ung thư thận cao hơn bình thường. Bên cạnh đó, có một số bằng chứng cho
.1
thây amian ở nơi làm việc, một chất có liên quan tới
ỉ
ung thư phổi và ung thư trung mô (là lớp màng bao II<ÍD
phủ các tạng bên trong của cơ thể), cũng làm tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư thận.
63
- Tia xạ: Những phụ nữ đã được chiếu xạ để điều trị các rối loạn ở tử cung có thể có nguy cơ phát a
triển ung thư thận tăng nhẹ. Hơn nữa, những người z
đã phơi nhiễm với thorotrast (thorium dioxide), một chất phóng xạ được sử dụng vào những năm 20 r
cùng với việc chụp X-quang để chẩn đoán, có tỉ lệ mắc ung thư thận tăng lên. Tuy nhiên, chất này hiện không còn được sử dụng, và các nhà khoa học cho rằng chiếu xạ chỉ gây ra một phần trăm rất nhỏ trong tổng số các trường hỢp ung thư thận.
- Phenacetin: Một số người đã bị ung thư thận sau một thời gian dài sủ: dụng loại thuốc này với liều cao.
- Lọc máu: Những bệnh nhân được lọc máu để điều trị suy thận mạn tứứi trong nhiều năm có nguy cơ phát triển nang thận và ung thư thận tăng, cần tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu thêm về tác dụng lâu dài của việc lọc máu đối với các bệnh nhân bị suy thận.
- Bệnh Von Hippel-Lindau (VHL): Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra những người có căn bệnh di truyền này có nguy cơ phát triển ung thư biểu mô tế bào thận cũng như khối u ở các bộ phận khác cao hơn. Các nhà nghiên cứu đã phát tìm ra một loại gen gây bệnh VHL, và họ tin rằng việc phân lập được gen này có thể giúp cải thiện các phương pháp chẩn đoán, điều trị và thậm chí phòng ngừa một số loại ung thư thận.
Những người cho rằng họ có nguy cơ phát triển ung thư thận nên thảo luận với bác sĩ của họ. Bác sĩ có thể gỢi ý các cách để làm giảm nguy cơ và giúp lập kế hoạch khám theo dõi phù hỢp.
64
NHIỄM KHUẨN TIẾT NIỆU TR Ẻ EM -
NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH KHẮC p h ụ c
Nhiễm khuẩn tiết niệu là một bệnh hay gặp ở trẻ em, nhất là trẻ gái nhưng lại hay bị bỏ sót vì các triệu chứng thường mơ hồ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng gây sốt kéo dài. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh sẽ gây những biến chứng nguy hiểm irhư nhiễm khuẩn
huyết, suy thận, tăng huyết áp.
ỊTh
Nguyên nhân
ắ
Bệnh nhiễm khuẩn tiết niệu hay gặp ở trẻ gái hơn i
trẻ trai vì đường tiểu ở trẻ gái ngắn, vi khuẩn từ □z'□Iiz□
ngoài dễ dàng xâm nhập đi ngược dòng theo niệu đạo lên bàng quang gây viêm bàng quang, rồi từ bàng quang theo niệu quản lên thận gây viêm đài bể thận.
ũ
Một nguyên nhân nữa khiến tỷ lệ trẻ gái bị nhiễm □3-íỉ=
khuẩn tiết niệu nhiều hơn trẻ trai là do các bà mẹ làm vệ sinh cho con thường hay có thói quen lau chùi ngược từ hậu môn đi qua lỗ tiểu và lỗ âm h ộ -<>z'<•í1=
lên trên, tức là từ sau ra trước, chứrh động tác này đã vô tình đem vi khuẩn từ hậu môn đến lỗ tiểu, lỗ âm hộ gây viêm đường tiết niệu và viêm nhiễm vùng âm hộ. Do đó, đa số các trường h Ợ p nhiễm
Ị
khuẩn tiết niệu đều do các vi khuẩn có nhiều trong z<<■íh
khoa sẽ xác định được trường hợp nào cần phẫu thuật và trường hỢp nào chỉ cần theo dõi.
I
tz<<■íh
hoặc tắt nghẽn dòng máu chảy qua thận, sỏi thận gây ra các cơn đau quặn bụng, sỏi có thể tự được thải ra ngoài hoặc cần phải được điều trị lấy sỏi ra. Viêm thận: Là một tình trạng thận bị viêm nhiễm.
Ị
Nguyên rửiân có thể do nhiễm khuẩn hoặc tình
<íũ
trạng hệ miễn dịch của cơ thể tự tấn công thận, hoặc
tình trạng viêm thận tự phát (không rỗ nguyên nhân). Viêm thận thường được phát hiện bởi tình trạng tiểu ra đạm.
Nhiễm trùng đường tiểu: Là một tình trạng viêm nhiễm xảy ra ở bất kỳ vị trí nào trên hệ niệu. Nguyên nhân thường do vi khuẩn, thường thấy nhất là tình trạng vi khuẩn từ hậu môn (như E. Coli, tìm thấy trong phân) đi ngược qua và xâm nhập vào niệu đạo gây ra nhiễm trùng. Nhiễm trùng tiểu, nếu không được điều trị có thể gây ra nhiễm trùng thận (gọi là nhiễm trùng tiểu cao). Hầu hết các nhiễm trùng tiểu thường thấy là nhiễm trùng tiểu thâp (như viêm bàng quang, viêm niệu đạo). Nhiễm trùng tiểu thường thấy ở trẻ gái hơn trẻ trai, lý do là câ'u tạo hệ niệu của nữ có niệu đạo ngắn hơn và dễ nhiễm trùng hơn.
Tình trạng co thắt đường tiểu: Đây là tình trạng thường gây ra dội ngược nước tiểu từ bàng quang trở ngược lên niệu quản, hoặc thậm chí dội ngược lên đến thận. Tình trạng này xuâT hiện khoảng 1% ở các trẻ và có dâu hiệu di truyền. Bệnh lý gây ra nhiều phiền toái cho hoạt động thường nhật của trẻ và là một trong những nguyên nhân chứih gây ra nhiễm trùng tiểu.
71
z<<•Iỉ= Iz.
JL
mU z
74
erythropoietin, hóc-môn này làm cho tuỷ sản sinh ra hồng cầu. Nhưng khi thận bị phá huỷ, mức erythro poietin cũng bị giảm và cơ thể không có đủ hồng cầu. Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, thiếu máu có liên quan đến các bệnh về tim mạch. Hồng cầu gồm một protein gọi là huyết cầu tố, giúp vận chuyển oxy đi khắp cơ thể. ít hồng cầu sẽ làm giảm lượng oxy cung cấp đến các cơ quan nội tạng và các mô. Nếu cơ thể không có đủ oxy, tim cũng không đủ oxy, khi không đủ oxy cho các cơ tim hoạt động, rất dễ bị lên cơn đau tim. Thiếu máu cũng làm tim phải bơm nhiều hơn để có thể đủ lượng oxy cung cấp cho cơ thể, vì tim phải làm việc nặng hơn, các cơ tim crhá
cũng bị ảnh hưởng. Điều này có thể dẫn đến bệnh phì đại tâm thất trái hoặc suy tim thất trái.
Cao huyết áp: Thận tạo ra Renin, là một enzyme giúp kiểm soát huyết áp. Khi huyết áp thấp, thận
i
khoẻ mạnh sẽ giải phóng Renin để kích thích những z'□Iíz
hóc-môn khác và làm tăng huyết áp lên. Khi thận bị suy yếu, sẽ giải phóng quá nhiều Renin, và làm huyết áp tăng cao. Huyết áp cao sẽ tăng nguy cơ bị bệnh
tim, lên cơn đau tim và dần dần có thể làm suy tim. ữ
Mức homocysteine quá cao: Homocysteine là một Amino Acid thường thây trong máu. Thận khoẻ Ih
mạnh điều hoà lượng Homocysteine và loại bỏ những chất thừa. Nhưng khi bị suy thận, thận không
'<>z'<■1 ỉ=
còn khả năng loại bỏ homocysteine dư thừa. Mức Homocysteine quá cao thường liên quan đến việc tạo thành những mảng bám ở thành mạch, dẫn đến những bệnh về tim mạch như xơ vữa động mạch.
Ị
2 <ÍD m
Ngoài ra, nó cũng làm tăng nguy cơ bị nghẽn mạch máu dẫn đến đột quỵ.
víỉít canxi và phốtpho: Nhiều nghiên cứu khác nhau đã chỉ ra rằng mức canxi và phốtpho ở bệnh nhân suy thận, đặc biệt ở bệnh nhân phải lọc máu có liên quan đến bệnh tim mạch. Thận khoẻ mạnh giữ cho mức canxi và phốtpho cân bằng nhưng khi thận suy thì không còn khả năng làm việc đó nữa. Khi có quá nhiều phô'tpho và canxi trong máu, nguy cơ bệnh tim mạch cũng tăng cao.
Tiểu đường và huyết áp cao là hai nguyên nhân đầu tiên dẫn đến suy thận, và chúng cũng là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến bệnh tim mạch cao nhất.
VIÊM BÀNG QOANG K Ẽ
Viêm bàng quang kẽ là một bệnh ở bàng quang (bàng quang là nơi dự trữ nước tiểu trước khi chúng được đưa ra ngoài cơ thể), nguyên nhân chưa biết chứih xác, thường bệnh là do viêm nhiễm.
Triệu chứng chủ yếu là; Đau ở vùng chậu hông, đi tiểu nhiều (có khi lên đến 60 lần/ngày), và khi muốn đi tiểu cần phải đi ngay lập tức.
Có thể cảm thây đau ở vùng bụng dưới, niệu đạo (ống dẫn nước tiểu từ bàng quang ra ngoài) hoặc đau ở âm hộ (đối với nữ). Phụ nữ bị viêm bàng quang có thể thấy rất đau đớn khi giao hợp. Triệu chứng có thể khác biệt đối với từng người, có thể chỉ thấy cần đi tiểu ngay lập tức, nhưng cũng có khi thây đau đớn và tiểu buốt. Thậm chí làm cho bệnh nhân không thể làm việc, giao hợp hay những hoạt
75
a
>
< « u
z
76
Ũ[h
ắ
i
□z-□Ịíz
ũ
If= '<>z<<•íh I
Iz<<•Ih
áp cao cho con mình.
Bệnh thận mạn là gì?
Bệnh thận mạn là khi thận bị tổn thương bởi các bệnh lý, vì vậy chức năng thận giảm đi và khả năng
I
thực hiện các chức năng kể dưới đây cũng kém đi: <[D m
- Loai bỏ chất độc hai và nước dư thừa khỏi cơ thể
- Tạo ra các hóc-môn để:
+ Kiểm soát huyết áp
+ Ngăn ngừa thiếu máu (thiếu lượng hồng cầu) + Giúp xưoíng chắc khoẻ
- Tạo hóc-môn giúp trẻ tăng trưởng vồ phát triển bình thường
- Giữ mức cân bằng các chất hoá học quan trọng trong máu như natri, kalh phốtpho và canxi. Khi thận không làm việc tốt, các chất thải sẽ tăng cao trong máu, gây nên các triệu chứng giữ nước (phù) ờ chân, tay, chóng mặt hoa mắt, nôn, mệt mỏi và mất cảm giác ngon miệng. Biến chứng có thể làm huyết áp tăng cao, thiếu máu, xương yếu đi, suy dinh dưỡng, thần kinh bị phá huỷ. Bệnh thận cũng làm tăng nguy cơ bị các bệnh về tim mạch. Đôi khi, các triệu chứng này phát triển râT âm thầm và gây suy thận, vì vậy phát hiện bệnh sớm và chữa trị kịp thời có thể tránh các biến chứng nguy hiểm và giữ chức năng thận được tốt hơn.
Những nguyên nhân gây bệnh thận ở trẻ? Những nguyên nhân chmh gây bệnh thận ở trẻ thường là:
- Bất thường ở đường niệu, làm nghẽn dòng chảy nước tiểu.
- Các bệnh di truyền như thận đa u nang, như là những túi nước hìrửì thành trong thận.
- Những bệnh phá huỷ các bộ lọc của thận (tiểu cầu), ở các khúc nối, bệnh xơ cứng tiểu cầu thận. - Hội chứng tan huyết urê huyết, là bệnh ảnh hưởng cả máu và các mạch máu. Bệnh thận xuất hiện do các mạch máu trong thận bị phá huỷ; bệnh
79
a
z
zmU z
80
này cũng có thể làm ảnh hưởng đến các bộ phận khác như tim và não.
Những nguyên nhân làm huyết áp tăng cao ở trẻ - Béo phì
- Gia đình có tiền sử bị huyết áp cao
- Bị bệnh thận
- Nếu huyết áp của trẻ tăng cao cần kiểm tra, xét nghiệm chức năng thận, vì thường nó là nguyên nhân gây huyết áp cao ở trẻ.
Vì sao huyết áp cao và bệnh thận lại liên quan đến nhau?
Huyết áp cao là nguyên nhân đầu tiên gây suy thận, tuy nhiên, huyết áp cao cũng là biến chứng do pch
bệnh thận. Do thận của bé bị tổn thương, nên không á
còn hoạt động hiệu quả để điều hoà huyết áp ở mức b'mh thường, vì vậy huyết áp của trẻ sẽ tăng cao và i
làm bệnh thận càng tệ hơn. Vì vậy, cần kiểm tra □z-□1tz
huyết áp của trẻ một cách thường xuyên.
Thế nào là huyết áp cao ở trẻ?
Bình thường huyết áp của trẻ sẽ thấp hơn ở người lớn. Huyết áp sẽ tăng cùng với tuổi tác và kích cỡ cơ
Q
thể. Huyết áp của con bạn sẽ phụ thuộc vào tuổi của ỹ íí=
cháu, giới tứửi và cân nặng. Bác sĩ sẽ so sánh huyết áp của bé với bảng huyết áp chuẩn ở trẻ để đánh giá. <>z'<■íh
Chẩn đoán huyết áp cao cần dựa vào ít rứiất 2 lần đo huyết áp khác nhau, bạn cần hỏi bác sĩ để biết chúah xác với độ tuổi, giới tính, cân nặng của con như vậy
thì huyết áp bao nhiêu là bình thường.
I
Mục tiêu chữa trị huyết áp cao ở trẻ
s<ÍD m
- Hạ mức huyết áp
- Ngăn chặn bệnh thận xâ"u đi
- Phòng ngừa các bệnh về tim mạch
- Huyết áp của trẻ cần phải đạt mức bình thường dành cho trẻ ở lứa tuô’i, cân nặng như vậy, hoặc thấp hơn 130/80.
Cách chữa trị huyết áp cao nào dành cho trẻ? Con bạn có thể phải thay đổi cách sống, kết hợp dùng thuốc, bác sĩ chuyên khoa thận cũng cần hỢp tác trong việc đưa ra phác đồ điều trị huyết áp cao.
Thay đổi lối sống ỏ trẻ bao gổm những gì? Nếu bé quá nặng cân, béo phì thì cần giảm cân. Béo phì làm trẻ có nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch, và làm huyết áp càng tăng cao hơn.
Ăn nhạt, không dùng các loại Snack (bim bim) mặn. (Tuy nhiên, cũng cần kiểm tra lại với bác sĩ để chắc chắn con bạn không bị loại bệnh thận liên quan đến việc làm cơ thể bị mất muối).
Tránh các yếu tố làm tăng huyết áp như khói thuốc, cà-phê, các loại thuôc khác có tác dụng phụ làm tăng huyết áp.
Tập thể dục thường xuyên, hỏi bác sĩ để biết bài tập nào phù hỢp với con bạn.
Các loại thuốc dùng
Để quyết định cho trẻ dùng thuốc hạ huyết áp loại nào, bác sĩ thường cân nhắc dựa vào các yếu tố sau:
- Trẻ bị bệrửi thận loại nào
- Tuổi của ữẻ và cân nặng
- Trẻ đã biết uống thuốc viên hay chưa. BmoPCT
81
az
zmU z