🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bệnh Dạ Dày Phương Pháp Chẩn Đoán Và Chữa Trị Ebooks Nhóm Zalo HÀ LINH ( BIÊN SOẠN ) piB Phương pháp chận đoán “ CẺỮÃTra C ác bệnh dạ dày thường gặp, phương pháp chấn đoán. Chữa trị theo phương pháp Tây y Chữa trị theo phương pháp Đông y Phòng và trị bệnh theo chế độ ăn uống hàng ngày BỆNH HẠ DÀY PHươHB PHÁP ũẩH OOẮIÍI VÀ CHỮA ĨHỊ H À LIN H (Biên soạn) BỆNH DẠ DÀY PHIÍđlllS PHÁP CẩHI BOẲm ỰẲ CHĨA ĨBI NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay do sự phát triển của nền kinh tế, điểu kiện sinh hoạt đã có những bước phát triển rõ rệt. Nhưng nó cũng làm tăng một sô' bệnh do thói quen sinh hoạt ăn uống, vận động không hợp lý... Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của phòng bệnh và bảo vệ sức khỏe. Đặc biệt đối với những người cao tuổi do đặc điểm sinh lý mà các hiểu hiện như nhai, nuốt, tiêu hóa, hấp thu thức ăn à dạ dày và ruột đều giảm sút dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh vê tiêu hóa rất cao. Cuốn sách Bệnh dạ dày ở người già, phương pháp chẩn đoán và chữa trị đưa ra những phương pháp phòng và trị bệnh dạ dày ở người già một cách hiệu quả. Trong quá trình biên soạn, chúng tôi không tránh khỏi những sai sót, mong nhận dược sự đóng góp ý kiến của bạn đọc gần xa để cuốn sách ngày càng hoàn thiện trong những lẩn tái bản sau. NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI Chương một KHÁI QUÁT CHUNG I. KHÁI NIỆM VÀ CẤU TẠO CỦA DẠ DÀY 1. Khái niệm Dạ dày ở giữa thực quản và tá tràng, là bộ phận tiêu hóa lớn nhất. Nó có vai trò chứa và tiêu hóa thực phẩm. Hình dạng và vị trí của nó biến đổi theo sự biến đổi của thể vị và dung lượng thức ăn ít hay nhiều. Dạ dày còn chịu sự ảnh hưởng của tuổi tác, cá tính và thể chất của từng người. Quan sát dạ dày dưới tiêu ảnh X - quang, chúng la sẽ thấy rõ dạ dày của trẻ em, người già, người thấp mập, thường là hình sừng bò; người cao gầy thì dạ dày có hình móc câu; còn người có thể chất cường tráng thì dạ dày lại có hình chữ "J". Do sự phát triển của cơ thành dạ dày, sự biến hóa của dung tích dạ dày cũng rất lớn. Ngoài ra, dung tích của dạ dày cũng tăng trưởng theo số tuổi. Bề mặt của dạ dày đại bộ phận là rời rạc, vì thế mà quy mô hoạt động của nó cũng tương đối lớn. Qua đặc điểm này của dạ dày, chúng ta có thể nói dạ dày không có một hình dạng và vị trí nhất định, nhưng .\ét về hình dạng cơ bản mà nói, nó thường ở dạng cố định. HÀ LINH 2. Câu tạo chung của dạ dày Dạ dày là khí quản dạng túi, đoạn gần nghiêng nối liền với thực quản phồng lên. Nhưng đoạn nshiêng xa di chuyển tới tá tràng thì dần đần hẹp lại. Về mặt giải phẫu, dạ dày chia làm 3 phần; Vùng đáy, vùng thân và vùng hang. Chỗ nối giữa thực quản và dạ dày gọi là tâm vị, chỗ nối giữa dạ dày và tá tràng là môn vị. Niêm mạc dạ dày có rất nhiều tuyến. Các tuyến vùng tâm vị và môn vị bài tiết chất nhầy. Các tuyến vùng thân và đáy dạ dày gồm ba loại tế bào: tế bào chính bài tiết pepsinogen, tế bào viền bài tiết HCl và yếu tố nội, tế bào cổ tuyến bài tiết chất nhầy. Một số tuyến bài tiết vào một khoang chung, khoang này sẽ đổ vào bề mặt niêm mạc dạ dày. Những tế bào biểu mô biến đổi của niêm mạc vùng hang bài tiết gastrin. Dạ dày có một mạng lưới mạch máu và mạch bạch huyết phong phú. Dây thần kinh phó giao cảm của dạ dày là nhánh của dây X - Dây giao cảm đi từ dám rối cổ (Oliac - plexus). Khi thức ăn vào dinh dưỡng, nó được sắp xếp thành những vòng tròn đồng tâm trong thân và đấy dinh dưỡng: thức ăn mới đến nằm ở giữa, thức ãn đến trước nằm ở sát thành dạ dày. Khi thức ăn vào dinh dưỡng, phản xạ dây X làm giảm trương lực của thành dinh dưỡng vùng thân làm cho thân dinh dưỡng phình dần ra phía ngoài. Do đó, dạ dày chứa được nhiều thức ăn hơn. Khả năng chứa tối đa của dinh dưỡng có thể lên tới 1,51. Lúc này áp suất bên trong dinh dưỡng vẫn thấp BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... II. CÁC BỆNH DẠ DÀY THƯỜNG GẶP ở NGƯỜI GIÀ Vì sao người già thường mắc các bệnh về dạ dày như viêm dạ dày cấp tính, viêm dạ dày mạn tính, viêm loét đường tiêu hóa, đi ngoài mạn tính... Theo chuyên gia nghiên cứu về các bệnh dạ dày thường gặp ở người già thì họ cho rằng có một số nguyên nhân chủ yếu sau : - Tuổi tác cao, cơ thể càng suy yếu, cơ quan tiêu hóa kém. Thống kê có khoảng 30 - 35% người già ở độ tuổi 60 trở lên chức năng tiêu hóa không tốt. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến các bệnh về dạ dày đặc biệt là các bệnh về dạ dày mang tính chất mạn tính như : Đi ngoài mạn tính, táo bón mạn tính... Bên cạnh đó yếu tố dinh dưỡng và yếu tố tâm lý cũng là những nhân tố tác động rất mạnh tới cơ quan tiêu hóa đặc biệt là sự co bóp của thành dạ dày: Chế độ dinh dưỡng không hợp lý, ăn uống không điều độ lúc quá đói lúc lại quá no làm ảnh hưởng đến quá trình giãn nở, co bóp và điều hòa sự tống thức ăn khỏi dạ dày. - Tâm lý không ổn định ; Vui, buồn, tâm trạng cô đơn sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp tới sự điều hòa bài tiết dịch vị và sự hấp thu ở dạ dày. Trong trường hợp này dễ dẫn đến các bệnh về viêm loét dạ dày như: Viêm dạ dày cấp tính, viêm dạ dày mạn tính viêm loét đường tiêu hóa... Ngoài ra còn só một số các yếu tố khác như : Khí hậu ; môi trường sự vận động thường xuyên hoặc không thường xuyên của người già cũng ảnh hưởng tới dạ dày^ HÀ LINH 1. Viêm dạ dày câp tính l.L Đặc điểm của bệnh Viêm dạ dày cấp tính là triệu chứng viêm niêm mạc dạ dày cấp tính do nhiều nguyên nhân gây nên. Là loại bệnh thường gặp trong lâm sàng, thường thấv chủ yếu ở người già trẻ em và thanh niên cũng có thể mắc; nam giới mắc bệnh nhiều hơn nữ giới. Biểu hiện lâm sàng của nó không giống nhau bởi các nguyên nhân khác nhau. Bệnh viêm dạ dày cấp lính do uống quá nhiều rượu, ăn những thức ăn có tính kích thích hoặc do các dược liệu gây nên. Người bệnh thường có những triệu chứng về vị tràng và các triệu chứng của cơ thể như: Phần bụng trên khó chịu, đau nhức, buồn nôn, nôn oẹ, liêu hóa kém, nấc khi nóng, bụng trướng, đi ngoài thất thường, mệt mỏi, thậm chí còn nôn ra máu, đau đầu hoa mắt v.v... Bệnh viêm dạ dày cấp tính do ngộ độc thức ăn gây nên. Người bệnh có triệu chứng lâm sàng rất nặng, thậm chí còn có các triệu chứng ngộ độc như: Nóng, toát mồ hôi, ngộ độc acid, sốc v.v... Bệnh viêm dạ dày cấp tính căn cứ vào nguyên nhân phát bệnh và tình trạng diễn biến của niêm mạc dạ dày, có thể phân thành bốn loại như sau: Viêm dạ dày đơn thuần, viêm dạ dày có tính bào mòn, viêm dạ dày có tính lây nhiễm và viêm dạ dày có tính mưng mủ. Thông thường viêm dạ dày lây nhiễm cấp tính và viêm dạ dày mưng mủ cấp tính là triệu chứng phát bệnh kế tiếp ở các bệnh nhân giảm miễn dịch. Bệnh viêm dạ dày bào mòn cấp tính là một loại bệnh mà người bệnh bị trúng độc nặng 10 BỆNH DA DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP,.. do ăn hàm chứa nhiều các thức ăn có acid hoặc chất kiềm gây nên. Tỷ lệ phát bệnh của ba loại hình viêm dạ dày cấp tính ở trên tương đối thấp, nhưng viêm dạ dày đơn thuần cấp tính thì lại rất cao. Nguyên nhân phát bệnh của loại viêm dạ dày này có thể phân thành nguyên nhân bèn trong và nguyên nhân bên ngoài. Nguyên nhân bên trong là do vi khuẩn và virus với các triệu chứng nguy hiểm kèm theo như: Như triệu chứng thiếu urè trong máu, xơ cứng gan, bệnh phổi, ung thư giai đoạn cuối. Nguyên nhân phát bệnh của nó cũng thuộc nguyên nhân bên trong. Nguyên nhân bên ngoài bao gồm nhân tố hóa học như: Các thức ăn thô,ăn thức ăn quá nóng hoặc quá lạnh v.v... Các thức ăn khi ăn vào thì bị virus làm ô nhiễm. Uống quá nhiều rượu và ăn uống không điều độ, hoặc chịu ngoại tà là nguyên nhân thường gặp nhất để gây nên bệnh viêm dạ dày. Chẩn đoán lâm sàng của bệnh viêm dạ dày thực ra không khó, ngoài kết hợp các biểu hiện triệu chứng lâm sàng ra còn phải tra tìm bệnh sử để tìm ra nguyên nhân đấy là căn cứ đáng tin cậy cho việc điều trị lâm sàng. Viêm dạ dày cấp tính thuộc phạm vi các bệnh trạng trong Đông y như: "Đau vị quản", "nôn oẹ", "đau dạ dày cấp tính", bệnh tình nặng nhẹ không giống nhau. Nếu trước khi phát bệnh mà người bệnh có các biểu hiện như uống nhiều rượu, ăn uống nhanh, ăn những thức ăn không vệ sinh mà xuất hiện các triệu chứng như: Đau dạ dày, vị quản khó chịu, nôn oẹ v.v... thì phải kiểm tra chẩn đoán 11 HÀ LINH của bệnh. Điều trị lâm sàng phải phân biệt rõ ràng hàn nhiệt, hư thực. Trong khi loại trừ các nguyên nhân phát bệnh phải tiến hành chữa trị biện chứng thì bệnh trạng sẽ nhanh khỏi hơn. Quá trình phát bệnh viêm dạ dày cấp tính rất gấp, thời gian mắc bệnh ngắn, nguyên nhân phát bệnh rõ ràng, sau khi chữa trị nguyên nhân phát bệnh, sự hồi phục sức khoẻ của người bệnh rất nhanh chóng. Nếu như các nhân tố gây bệnh tồn tại lâu dài, thì có thể chuyển biến thành viêm dạ dày mạn tính. 1.2. Nguyên nhân gáy bệnh Tây y cho rằng, nguyên nhân phát bệnh là do vi khuẩn trong thức ăn không vệ sinh và các độc tố của nó gây nên. Ví dụ như ăn phải những thức ăn gia súc, gia cầm, sản phẩm sữa bò, cơm cháo và đồ hải sản như tôm, ốc, sứa và các thức ăn muối dầm có vi khuẩn hoặc bị ô nhiễm chất độc. Nếu uống quá nhiều rượu, trà đặc, cà phê hoặc ăn các loại thức ăn đậm mùi hương liệu; hoặc ăn quá nhanh, quá nóng, quá lạnh, quá xơ đều có thể kích thích niêm mạc dạ dày. Hoặc uống một số thuốc, do phản ứng quá mạnh hoặc dùng quá liều, cũng có thể kích thích hoặc gây tổn thương niêm mạc dạ dày dẫn đến triệu chứng viêm loét, chủ yếu là xung huyết bệnh phù chất nhờn nhiều, bề mặt có nhiều mụn màu vàng có khi còn có thể vỡ và chảy máu. Đông y cho rằng bệnh này chủ yếu phát sinh vào mùa thu, ảnh hưởng độc tà, uống lạnh, ăn uống không điều độ 12 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... chủ yếu có mấy loại như sau: + Ánh hưởng của thời tiết và khí hậu Mùa hè thu, đo khí hậu nắng nóng, ẩm ướt đan xen, nước bốc hơi nhiều mọi người vì thích hóng mát mà ngủ ngoài trời, sinh hoạt hàng ngày không thoải mái, tà thấp nhiệt xâm nhập hoặc tà hàn thấp chặt trung tiêu (đoạn giữa của dạ dày), tà thấp quấy nhiễu lá lách; lá lách vốn ưa khô, nóng, nay bị tà thấp quấy nhiễu, nên vận hóa thất thường, khí cơ rối loạn, lên xuống không điều độ, dẫn đến nôn oẹ và ỉa chảy. + Ăn uống không điểu độ Ăn uống nhanh, thích ăn đồ sống, lạnh, thích ăn mỡ và ngọt hoặc ăn những thức ăn không vệ sinh, ăn nhầm phải những thức ăn đã biến chất hoặc bị bào mòn, đều có thể làm tổn thương tì vị, rối loạn tiêu hóa, đục trong lẫn lên sẽ gây nên bệnh viêm loét dạ dày. Sự biến hóa bệnh lí của loại bệnh này chủ yếu là do những thức ăn ôi thiu làm ẩm ướt phần trung tiêu. Sự ẩm ướt và ứ lại sẽ làm tắc tì vị khiến vận hòa thất thường, lên xuống không điều độ, hỗn loạn. Không khí trong dạ dày không xuống được mà ngược lên trên sẽ làm người bệnh bị nôn; tì vị mất đi chức năng của mình, đục trong lẫn lộn, thức ăn rơi xuống đại tràng làm người bệnh bị đi ỉa chảy. Mặt khác, những thức ăn ấy sẽ làm chặn lại trung tiêu, tắc nghẽn khí cơ, khó chịu không thông được sẽ làm đau bụng. 13 HÀ LINH Nếu như nôn hoặc đi ỉa chảy quá nhiều sẽ làm mất nước, phát nhiệt, mồm khô, đi giải ít, mắt lõm sâu xuống, âm dịch bị tiêu hao, âm làm tổn thương dương, dương cũng thoát ra do âm bị cạn kiệt. 2. Viêm dạ dày mạn tính 2.1. Đặc điểm của hênh Viêm dạ dày mạn tính là sự thay đổi có tính viêm loét mạn tính và tính ăn mòn của niêm mạc dạ dày do nhiều nguyên nhân gây nên. Thông thường phân thành viêm dạ dày bề ngoài mạn tính và viêm dạ dày ăn mòn mạn tính. Trong đó viêm dạ dày ăn mòn lại phân thành loại A (sự biến đổi của dạ dày) và loại B (sự biến đổi của khoang dạ dày). Còn những loại viêm dạ dày có triệu chứng khối u và viêm dạ dày kiểu tàn phế thì cũng thuộc loại viêm dạ dày mạn tính. Triệu chứng lâm sàng của bệnh này không điển hình và chẳng có gì dặc biệt cả. Phần lớn người bệnh có biểu hiện của các triệu chứng tiêu hóa không tốt như: Sau khi ăn cảm thấy bụng trên trướng lên hoặc đau đớn, nhiều acid v.v... Đặc biệt là những người bệnh viêm dạ dày có tính ăn, biểu hiện dưới dạng các vết ăn mòn đơn độc hoặc kèm theo xuất huyết. Tỷ lệ phát bệnh của loại bệnh này rất cao, đứng đầu trong các loại bệnh về dạ dày. Không có cách thống kê rõ ràng nó chiếm trên 90% số bệnh nhân đã từng soi dạ dày, hơn nữa, tỷ lệ phát bệnh còn tăng trưởng theo tuổi tác và ngày càng có xu thế tăng lên. 14 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... Triệu chứng chủ yếu của bệnh là đau hoặc trướng phần bụng trên, thuộc phạm trù "khối u dạ dày", "đau dạ dày" trong Đòng y. 2.2. Nguyên nhàn gáy bệnh * Theo Tây y Tây y cho rằng, nguyên nhân gây bệnh viêm dạ dày mạn tính đến nay vẫn chưa hoàn toàn xác định rõ ràng. Những nhân tố tính vật lí, hóa học và sinh vật có tác dụng trực tiếp với cơ thể lập tức sẽ gây nên chứng viêm loét mạn tính. Dưới đây là một số nguyên nhân gây nên bệnh dã được xác định rõ ràng. + Tliừc ::ô'lâiit tổn thương niêm mạc dạ dày Uống thuốc chống viêm loét trong thời gian dài (như muối acid salixilic); hoặc ăn thức ăn quá nóng, quá lạnh, quá chua, quá cay, quá mặn hoặc thường xuyên ăn uống nhanh, uống nhiều chè đặc, rượu, hút thuốc v.v... đều gây nên bệnh viêm dạ dày mạn tính. Acid có trong các loại thuốc là có thể ảnh hưởng trực tiếp đến dạ dày hoặc thông qua dịch mật mà tác dụng ngược trở lại dạ dày để gây bệnh. Uống cồn có thể làm niêm mạc dạ dày xuất hiện nhiều nốt đỏ và mụn loét. Cồn không chỉ làm tăng chống lại sự tỏa khắp, phá hoại các tổ chức chính trong và dưới niêm mạc. Nó cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa năng lượng, từ đó mà phá hoại chức năng của tế bào. Ngoài ra, cồn có kích thích vị toan tiết ra và thúc 15 HÀ LINH đẩy nhanh hơn sự tổn thương của niêm mạc dạ dày. Nhưng cũng có học giả cho rằng, ớt cay kích thích niêm mạc dạ dày hợp thành và giải phóng hormon tuyến tiền liệt, và có chức năng bảo vệ tế bào. + Heỉicobacter pyloin, HP HP bị nhiễm trùng là một nguyên nhân phát bệnh quan trọng của viêm dạ dày mạn tính. Sự thay đổi của tổ chức học bệnh lí viêm dạ dày có liên quan đến mức độ nặng nhẹ của sự nhiễm trùng HP. Đặc biệt, đối với viêm dạ dày hoạt động tính viêm loét niêm mạc càng nặng thì số lượng HPcàng nhiều. HP là vi khuẩn chính của bệnh, nhân tố gây bệnh có thể bao gồm: Dung môi u rê, dung môi pepcin, độc tố tế bào v.v... do HP sản sinh ra. Sau khi HP bị nhiễm trùng, nó sẽ thông qua các nhân tố gây bệnh ở trên làm tổn thương thành che dịch nhờn, tế bào niêm mạc biến tính và bị hỏng, một lượng lớn tế bào hạt trung tính và có nhân tố gây bệnh viêm loét dần dần thấm vào và có thể sẽ hình thành nên khối u có tích mủ ở các tuyến ảnh hưởng to lớn đến quá trình tái sinh của tuyến thể. + Nhân tố miễn dịch Nhân tố miễn dịch có quan hệ mật thiết đến bệnh viêm dạ dày ăn mòn mạn tính. Sự ăn mòn của niêm mạc dạ dày là kháng thể tế bào thành (PCA) và kháng thể thừa số trong (IFA) thường được kiểm tra và phát hiện trong cơ thể những người mắc bệnh loại A. Cả hai nhân tố này là kháng 16 BỆNH DẠ DÀY ỏ NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... thể tự thàn. Những người có niêm mạc dạ dày bị ãn mòn mà có triệu chứng máu xấu ác tính kèm theo là rất nhiều. Máu xấu ác tính thuộc loại bệnh miễn dịch tự thân. Niêm mạc dạ dày ãn mòn, mỏng đi, số lượng tế bào hình thành sẽ giảm đi hoặc biến mất, niêm mạc vốn phân tầng nhưng có thể nhìn thấy các tế bào lympho thấm dần vào nhưng sự thay đổi của niêm mạc khoang dạ dày rất nhẹ hoặc không có gì đáng kể cả. + Sự tác động ngược trà lại của dịch tá tràng Chức năng của cơ vòng môn vị bị mất đi sẽ làm cho dịch tá tràng tác động ngược trở lại, nhưng trong dịch tá tràng có mật, dịch tràng và dịch tuy. Muối mật có thể sẽ làm giảm chức năng thẩm thấu của bức thành che niêm mạc đối với li tỉr kháng Ho. Muối mật sẽ kích thích tế bào G giải phóng vị tiết tố ở khoang dạ dày. thông qua niêm mạc bị hỏng chông lại sự tỏa khắp xâm nhập vào niêm mạch dạ dày, gây nên các vết loét... cũng có thể kích thích tế bào to, béo tiết..., làm cho huyết quản thành dạ dày trương to lên và ứ máu. Vết loét càng thấm ra nhiều hơn, vết loét mạn tính tồn tại càng lâu và hình thành tuần hoàn ác tính. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho bệnh viêm dạ dày mạn lính khó chữa trị. Trước mắt, nhận thấy chức nãng thông thường của cơ vòng môn vị có quan hệ mật thiết đến sự cân bằng giữa hormon tụy, hormon thu lại túi mật và vị tiết tố. Nếu vị tiết tố tiết ra ngày càng tăng, nhưng hormon tuyến tụy hoặc hormon thu lại túi mật 17 HÀ LINH giảm xuống đáng kể thì sẽ làm mất đi sự cân bằng, chức năng của cơ vòng môn vị giảm sút, làm cho dịch tá tràng tác động ngược trở lại dạ dày. + ứ đọng thức ăn trong khoang dọ dày Nếu thức ăn không thể kịp thời bài tiết ra ngoài hoặc ứ đọng lâu trong dạ dày do bất kì nguyên nhân nào gây nên sẽ hình thành bệnh viêm dạ dày bề ngoài của khoang dạ dày thông qua quá trình tiết quá nhiều vị tiết tố. + Vi khuẩn, viriis và độc tố của nó Sau khi viêm dạ dày cấp tính, niêm mạc dạ dày bị tổn thương nhưng rất lâu mà không lành khí, ví dụ như nhiều lần đau trở lại sẽ kéo theo bệnh viêm dạ dày bề ngoài mạn tính. Những vi khuẩn và độc tố của răng, lợi, amiđan, lỗ mũi v.v. bị nhiễm trùng mạn tính sẽ xâm nhập vào trong dạ dày, tác động lâu dài đến niêm mạc dạ dày, dẫn đến viêm loét dạ dày mạn tính. Những người mắc bệnh gan mạn tính cũng thường có biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm dạ dày mạn tính. Có học giả chứng minh rằng, những người bị bệnh viêm gan B, trong niêm mạc dạ dày tổn tại một số hợp chất kháng nguyên kháng thể của virus viêm gan B. + Nhân tố tuổi tác Viêm dạ dày mạn tính có liên quan mật thiết đến tuổi tác. Cùng với sự tăng trưởng của tuổi tác, tỷ lệ phát sinh của viêm dạ dày tính ăn mòn và sự sinh hóa của tuyến ruột cũng dần tăng lên, mức độ thay đổi cũng không ngừng gia tăng. 18 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... phạm vi cũng rộng hơn. Nhưng khả năng thám dần vào tế bào viêm loét dường như không hề liên quan đến tuổi tác. + Hiện tương (li truyền Tính nguy hiểm do vết loét trong thành dạ dày làm ăn mòn dần dạ dày rất nghiêm trọng, nó có ảnh hưởng đến nhân tố di truyền. Có học giả cho rằng, nhân tô đóng vai trò quan trọng đó là gen di truyền nhiễm sắc thể. Khoang dạ dày là điểm chính của viêm loét dạ dày tính ăn mòn, nó cũng có hiện tượng tụ tập thành tập đoàn. Nhưng liệu có liên quan đến nhân tố di truyền hay không thì vẫn phải nghiên cứu tiếp. * Theo Đông y Đông y cho rằng, bệnh này chủ yếu liên quan đến các yếu tố như thức ăn, trạng thái lâm lí, ảnh hưởng của tà khí, tì vị hư nhược... + N/iân tố ẩm thực Ăn uống không điểu độ, những thực phẩm có chứa rượu, cồn, ăn thức ăn quá cay, nóng sẽ làm tổn hại tì vị mất đi chức năng vận hóa, cản trở khí cơ, hoặc khí nóng tích tụ lâu ngày mà hóa nhiệt, nhiệt thương vị hàng và giảm chức năng mà dãn đến chứa đầy khối u. + Nhân tỏ' tâm lý Tức giận dẫn đến gan bị tổn thương, vị khí bị quấy nhiễu, hoặc buồn phiền mà làm tổn thương tì, dạ dày bị mất hoặc giảm chức năng vận hóa, dẫn đến u cứng đầy dạ dày. 19 HÀ LINH + Anh hưởng íà khí Án uống không điều độ, tà từ miệng mà vào (chủ yếu là thấp tà, nhiệt tà), xâm nhập vào tì vị, làm cho mất đi chức năng vận hóa, dẫn đến u cứng đầy dạ dày. + Tì vị hư nhược Ti vị không đủ do bẩm sinh, hoặc do ăn uống không điều độ trong thời gian dài, hoặc do tuổi cao sức yếu, tì vị hư nhược, vận hóa mất đi sự chỉ huy, không thể vận chuyển khí cơ, thuỷ thấp, dẫn đến khí bị tích tụ, máu bị tích lại, dạ dày mất hoặc giảm chức năng, dẫn đến chứng u cứng đầy dạ dày. Vị trí bệnh của bệnh này có quan hệ mật thiết với dạ dày, gan, tì và hai bên tạng. Bệnh biến khởi điểm biểu hiện là thấp nhiệt cản trở, khí không thông suốt, để lâu thì tì vị khí âm bị tổn thương, hoặc tì khí hư nhược hoặc vị âm bị tổn thương. Nếu bệnh bị nặng thêm thì khí bất hành huyết, hoặc âm bất vinh lạc dẫn đến máu tích tụ. 3. Bệnh đau dạ dày tổng hợp 3.1. Đặc điểm của bệnh Đau dạ dày chứng tổng hợp. (Irritable Bowel syndsome, IBS) là một loại biểu hiện rối loạn chức năng vị tràng đạo. Là chứng bệnh mang tính chức năng điển hình nhất và thường gặp nhất của vị tràng đạo (đường ruột dạ dày). Biểu hiện lâm sàng là đau bụng, trướng bụng, đi đại tiện theo thói quen và duy trì tồn tại sự khác thường dạng tính đại tiện, hoặc một số triệu chứng phát tác đứt quãng. Trước đây, 20 BỆNH DẠ DÀY ỏ NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... người ta gọi bệnh này là viêm kết tràng mang tính quá mẫn cám. viêm kết tràng mang lính co giật, viêm kết tràng mang tính dịch dính, kết tràng dị kích tống hợp chứng... Người bệnh viêm kết tràng thường bị rối loạn chức năng đường ruột dạ dày. ở bệnh lý, phương diện phẫu thuật học chưa phát hiện bệnh lý biến đổi mang tính khí chất. Đặc trưng cửa bệnh này là tính dẻ kích động của ruột, sự xuất hiện hoặc tính trầm trọng của bệnh có liên quan lới nguyên nhân tinh thần hoặc trạng thái kích ứng. Người Dệnh thường biểu hiện mệt mỏi, đau dầu, sợ hãi, đi dái nhiều lần, hô hấp khó kỉiăp.... ớ các nước phương Tây, số rigười bị mắc chứng viêm dạ dày tính tổng hợp chiếm 50% trong các loại bệnh về dạ dày. Những người tuổi từ 20 - 50 mắc bệnh này nhiều, rất lì những người già mới mắc bệnh này lần dầu. Nữ giới mắc nhiều hơn nam giới, tỷ lệ là 2 - 5: 1. Người la thường cho rằng, tỷ lệ phát bệnh không liên quan đến yếu tô' di truyền, nhưng có điều tra cho biết, tỷ lệ phát bệnh của người da trắng gấp 5,ba lần so với người da đen. Tv lệ phát bệnh ở Truns Quốc tương đương với các nước khác ở phương Tây, nhưng hiện nay vẫn chưa có thống kê chính xác. Bệnh đau dạ dày chứng tổng hợp thuộc về phạm trù Đông y học như: bụng đau, bí tiện, tiêu chảy... 3.2. Nguyên nhân gáy bệnh * Theo Tây y Tây y học cho rằng, nguyên nhân bệnh này thường không 21 HÀ LINH rõ, nhân tố tinh thần và nhân tố ẩm thực có thê’ là hai nhân tô lớn nhất gây nên bệnh. + Nììân tố rinh thần: Là một trong những nguvên nhân e]uan trọng nhất gây nên bệnh đau dạ dày chứng tống hợp. Sự vận động của vị tràng chịu sự ảnh hưởng của vếu tố tám lý. linh thần. Tâm lý kích động có thể dẫn đến rối loạn diéu tiết thần kinh của trực tràng và não, gây cản trở chức năng đường ruột, dạ dày, mà bệnh ticing có thể chữa trị dần dần thông qua lâm lý, hành vi. Trên lâm sàng, ít người bệnh đau dạ dày chứng tổng hợp có trở ngại về lâm lý hoặc bệnh trạng vể tinh thần. Điều tra cho thấy ; Có đến 54% những người mắc bệnh này từng bị bệnh thần kinh. Người mắc bệnh này trong thời gian ngắn, rất ít người có chứng bệnh tâm thần, dự đoán bệnh tình tốt; còn những người mắc bệnh về thần kinh, thì chứng bệnh này sẽ kéo dài. + Nguyên nhân về dinh dưỡìiíỊ: Đây không phải là nguyên nhân chính gâv bệnh dau dạ dày chứng tổng hợp. Nhưng sau khi nsười bệnh ăn thức ăn vào thì lại gây ra bệnh hoặc làm cho bệnh càng nặng thêm. Có thể người bệnh không chịu được những loại thức ăn này hoặc dị ứng vói nó. Biểu hiện là bụng đau, đi tủ; nếu hạn chế ăn những thức ãn nàv thì bệnh sẽ đ5 ở một mức độ nhất định. Ngoài ra, bệnh dau dạ dày chứng tổng hợp còn có khuynh hướng ảnh hưởng do di truyền. Nhưng hiện nay di truyền học vẫn chưa có chứng cứ rõ ràng đế chứng minh 22 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... rằng, nhân tố di truyền có liên quan đến bệnh này. Một số loại thuốc như thuốc tả, acid nitric, dầu cam, chất kháng sinh... có thể sẽ xúc tiến bệnh viêm dạ dày chứng tổng hợp chứng phát sinh và phát triển. Một số ít người bệnh dạ dày mang tính khí chất thường. Sau khi khỏi sẽ để lại di chứng rối loạn chức năng dạ dày, có thể do những bệnh này làm thay đổi tính phản ứng của ruột, nó gây ra hoặc làm cho bệnh càng nặng thêm. Theo nghiên cứu mới nhất gần đây cho rằng, bệnh này có khả năng liên quan đến việc chi phối thần kinh mang tính nguyên biến của vận động trực tràng. Bệnh lý cơ bản của bệnh này là các nguyên nhàn từ phản ứng cao của kích thích mang tính bệnh lý hoặc nhiều loại tính sinh lý, bao gồm sự thay đổi của vị tràng động lực học, nội tạng cảm thấy khác thường và kết tràng bài tiết dịch dính tăng... * Theo Đông y Đông y cho rằng, nguyên nhân của bệnh này nhân tố tinh thần mất cân bằng, tâm tư mệt mỏi, buồn đau giận hờn quá độ, dẫn đến rối loạn gan, khí không thông, thậm chí khí tụ, máu đọng, mạch lạc không thông mà đau bụng. Gan khí ức kết, chặn tì phạm vi, tì vị vận hóa bất thường, có thể thấy đi tả. Thấp tà uẩn kết tràng đạo, thường thấy có biểu hiện là đi đại tiện dạng dịch dính. Khí bị ứ đọng, không lưu thông, đường ruột thông tắc thất thường, mất đi chức năng vốn có, thường thấy có biểu hiện là bị táo bón, bí đại tiện. Tỳ chủ vận hóa, tâm tư mệt mỏi rất ảnh hưởng tới tì. 23 HÀ LINH Ti vị bị tổn thương, vận hóa rất yếu, thuỷ cốc biến thành "thấp" "trệ", thế là hỗn tạp, dẫn đến đi lả; hoặc tì hư huyết thiếu, không thể làm trơn đại tràng, dẫn đến bí đại tiện. Nếu ăn những đồ mỡ và cay, vị tràng tích nhiệt, thương tàn hóa táo, ruột mất đi độ thấm trơn, phú hành bất thông thì dễ mắc phải bí đái tiện. Gan tì không điều hòa, lên xuống thất thường, đại tràng mất đi chỉ đạo, do đó mà bị cả tiêu chảy lẫn bí đại tiện. Bệnh này, đầu tiên là bị bệnh về tì, can trong thời gian dài, sau đó thì tì hư cập thận; tì thận dương hư, tạng phủ mất đi ẩm dưỡng, dẫn đến bệnh tình kéo dài và khó khỏi. iNói tóm lại, bệnh này có liên quan đến ba tạng là: can, tì, thận và nguyên nhân bệnh chủ yếu là can khí ức kết. 4. Bệnh viêm loét đường tiêu hóa 4.1. Đặc điểm của bệnh Bệnh viêm loét đường tiêu hóa là một loại bệnh dạ dày mạn tính thường gặp, viết tắt là bệnh viêm loét. Bệnh thông thường chỉ xảy ra ở dạ dày và phần cầu của tá tràng, phân biệt như sau; Viêm loét dạ dày (Gastric ulcer - GU) và viêm loét tá tràng (Daodenal ulcer - DU). Vì viêm loét xảy ra tại dạ dày nơi mà tiếp xúc với dịch chua của dạ dày, có quan hệ mật thiết với vị tam toan và dung môi pepcine cho nên gọi là viêm loét dường tiêu hóa. Đặc điểm lâm sàng của bệnh là đau bụng trên mạn tính theo chu kì và có tính quy luật, có liên quan đến thức ăn, 24 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... thuốc bào chế acid có thê làm giảm triệu chứng bệnh. Bệnh viêm loét có quan hệ nhất định với thời tiết. Thời kì giao thời giữa mùa thu và mùa đông bệnh phát nhiều nhất. Tỷ lệ phát bệnh và tỷ lệ tử vong của bệnh này tại Trung Quốc vẫn chưa có con số thống kê rõ ràng. Có người thống kê cứ một nhóm người thì có khoảng 10% người mắc bệnh. Theo việc kiểm tra bằng cách soi dạ dày thì có khoảng 16,5% - 28,9% người mắc bệnh. Trong đó viêm loét tá tràng nhiều hơn viêm loét dạ dày, tỷ lệ giữa 2 loại bệnh là 2: 1 - 4:1, nam giới mắc nhiều hơn. về phương diện tuổi tác, thanh thiếu niên hay mắc bệnh viêm loét tá tràng còn viêm loét dạ dày thì hay gặp ở người trung niên và người già. Đau bụng trên là triệu chứng rõ nhất của viêm loét, thuộc phạm trù "đau dạ dày" trong Đông y. 4.2. Nguyên nhân gảy bệnh Tây. y học cho rằng, nguyên nhân gây bệnh của viêm loét đường tiêu hóa cho đến nay vẫn chưa rõ ràng. Nhưng lý do phổ biến nhất là do ước số công kích gây nên. Bệnh viêm loét và ước sô' bảo vệ niêm mạc dạ dày mất đi sự thăng bằng ước số công kích quá cao hoặc ước số bảo vệ giảm mà gây nên bệnh. Cơ chế phát bệnh viêm loét dạ dày và viêm loét tá tràng rõ ràng không giống nhau. Nguyên nhân chủ yếu của bệnh viêm loét dạ dày là do sự yếu ớt của ước số bảo vệ, còn nguyên nhân chủ yếu của bệnh viêm loét tá tràng là sự tăng lên của ước số bảo vệ, đặc biệt là sự bài tiết của acid dạ dày. 25 HÀ LINH * ước số công kích + Vị toan vá dung môi pepcin Viêm loét là do vị toan và dung môi pepin tiêu hóa tiết ra càng nhiều thì sự tiêu hóa của dịch vị càng nhanh, từ đó gây nên viêm loét. Vì thế mà có nhà nghiên cứu đưa một luận điểm: Nếu không có tính chua thì sẽ không có viêm loét. Vật kích thích sự tiết ra của vị toan có ba loại như sau: - Clorua: Sự kích thích của thức ăn làm hưng phấn dày thần kinh phế vị và dây thần kinh côlin trong thành dạ dày, giải phóng clorua, kích thích nguyên lố M, trong màng tế bào thành, tế bào thành giải phóng acid dạ dày. - Vị tiết tố: Vị tiết tố có tác dụng thúc đẩy sự tiết ra của acid dạ dày, do tế bào trong khoang dạ dày và niêm mạc tá tràng tiết ra. Tế bào này phân bố chủ yếu ở khoang dạ dày, kết quả phân giải albumin trong thức ăn, sự kích thích dây thần kinh phế vị và dùng máy làm căng phồng xoang bụng lên đều có thể giải phóng vị tiết tố. Vị tiết tố thông qua tuần hoàn máu rồi chuyền đến nơi chứa vị tiết tố tiết ra vị toan. - Hixtamin: Những tế bào khoẻ mạnh, to lớn sẽ sản sinh hixtamin. Trên màng tế bào thành có thể nhận hixtamin, Hixtamin có thể thông qua dịch ngoài tế bào và thể nhận hixtamin H2 để phát huy tác dụng, từ đó tế bào thành sẽ tiết ra rất nhiều acid dạ dày. Ngoài ra, những tế bào khác trong dạ dày cũng chứa hixtamin. Nó ở ngay cạnh tế bào thành và 26 BỆNl 1 DA DÀY ở NGUỜl GIÀ, PHUƠNG PHÁP... chịu sự chi phối của dây thần kinh colin, thông qua sự phân tiết ra bcn cạnh để kích thích tế bào thành tiết vị toan. Những nám gần đây, y học đã phát hiện được, đoạn đỉnh đầu tế bào thành có các nguyên lử - dùng proton. là cửa để vị toan tiết vào khoang dạ dày từ tế bào thành. Sự vận chuyển của đòng proton này dựa vào sự trao đổi ATP để cung cấp năng lượng dưa ra ngoài tế bào, đưa vào trong tế bào. Sự trao đổi ATP cần dung môi ATP khởi dộng, hạn chế lác dụng của dung môi ATP có thể ngăn chặn khâu cuối cùng của quá trình giải phóng vị toan từ tê bào thành vào trong khoang dạ dày. Vì thế nó có tác dụng hạn chế sự tiết ra của acid dạ dày rất mạnh. Dung mỏi pepcin là dung môi hòa tan prôtêin, hoạt tính mạnh nhất ở vào khoảng pH từ 2 - 3.3, nó sẽ mất đi hoạt tính nếu pH > 5. Những người bị viêm loét tá tràng thì độ pH của phần cầu thường từ thấp đến cao để duy trì hoạt tính tiêu hóa của nó. Dung môi pepcin có tác dụng quấy nhiễu bức thành acid cacbon hvdroxit và chất dính, bảo vệ bề mặt biểu mô tránh được sự xâm hại của acid trong khoang dạ dày. + UeHcohacter pyloiì HP kí sinh ở biểu mô niêm mạc dạ dày là nguyên nhân chính gây nên bệnh viêm dạ dày mạn tính, mà bệnh viêm dạ dày mạn lính có quan hệ mật thiết đến bệnh viêm loét đường tiêu hóa HP có thể sản dinh dung môi, urê, dung môi. hyđroperôxit, dung mòi thuỷ phân prôtit, dung môi 27 HÀ UNH béo phốt phát A và c... có hại đối với màng tế bào biểu mỏ và chất nhờn. Ngoài ra, các loại dung mòi này còn có thế gây tổn thương cho niêm mạc dạ dày thông qua độc tố tế bào mà nó sản sinh ra hoặc thông qua cơ chế miễn dịch HP có thè lạo nên triệu chứng máu ở vị tiết tố cao sau bữa ăn. Nó còn kích thích dung môi pepcin ở luyến dạ dày li thế tiết ra. VI thể mới có cách nói: "không chua không viêm loét" cho dù quan diểm này vẫn còn có những ý kiến khác nhau. Bởi vì những người có độ pH không tốt thì chỉ rất ít người trong sô' họ mắc bệnh viêm loét. Hơn nữa, sự tồn lại của pH không có liên qưan rõ ràng đến sự lành lặn của chỗ loét, nhưng sự ảnh hưởng của pH đến việc phát bệnh và bệnh tình của bệnh viêm loét lại không được coi nhẹ. Trước mắt, giới y học đều cho rằng pH là một trong những nguyên nhàn gây nên bệnh viêm loét đường tiêu hóa. Mặc dù nó không phải là nhân tố duy nhất nhưng nó có liên qưan mật thiết đến sự phát lác bệnh viêm loét. + Động lực học của dạ dàv khúc ỉhường Sự bài tiết của dạ dày bị hoãn lại hoặc ứ đọng. Vị toan tồn tại trong dạ dày lâu sẽ làm tổn thương niêm mạc dạ dàv. thúc dẩy sự hình thành chỗ loét. Tỷ lộ vận chuyển thức ăn trong dạ dày sau bữa ăn hoặc ở trạng thái đói bụng có tác dụng quan trọng đối với độ chua của tá tràng. Non - Steroidal anli - inAammatory drugrs - NSAID NSAID gây tổn thương niêm mạc dạ dày, có ảnh hưởng nghiêm irọna đến sự phát sinh, sự lành lặn cúa chỗ loét, tỷ 28 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯCTNG PHÁP... lệ chảy máu thủng dạ dày và tá tràng tăng; nguy cơ tử vong là rất cao. Cơ chế để NSAID gây nên viêm loét dạ dày và tá tràng có mấy hình thức sau: - Tổn thương có tính hạn chế của niêm mạc. - Kích thích sự tiết ra quá độ của vị toan. - Hạn chế sự tiết ra của chất dính và muối hydrôcacbonxit. - Hạn chế dung môi.... - Hạn chế có tính lựa chọn sự hợp thành của PGEi. - Giảm bớt sự chảy máu niêm mạc dạ dày, từ đó mà làm phá hoại hệ thống bảo vệ niêm mạc dạ dày, thúc đẩy sự phát sinh chỗ loét. + Hút thuốc Cơ chế hút thuốc có liên quan đến bệnh viêm loét như thế nào đến nay vẫn chưa rõ, nhưng dự đoán là có thể có liên quan đến việc làm yếu cơ quan bảo vệ niêm mạc dạ dày. Việc hút thuốc có thể hạn chế muối hydro cacbon ôxit trong tuyến tuy tiết ra, tăng sự bài tiết dạ dày, làm độ chua trong phần cầu tá tràng tăng lên. + Chịu sự kích thích Trong trạng thái chịu sự kích thích, vị toan tiết ra nhiều, niêm mạc thiếu máu, thần kinh trong tuần hoàn chuyển chất và độc tô tế bào giải phóng (bao gồm chất làm nghẽn mạch máu và chất trung gian tế bào trắng) v.v. đều 29 HÀ LINH CÓ thể làm tổn thương hệ thống bảo vệ niêm mạc dạ dày. + Nhữìĩg yến tô' khác Kích thích cơ giới (như những vật khác lạ trong dạ dày và vị thạch miên có thể trực tiếp tổn thương niêm mạc dạ dày các nhân tố về dinh dưỡng như uống quá nhiều rượu trắng, cà phê, hàm lượng đường, chất xơ và cay trong thức ăn v.v. cũng có quan hệ nhất định đến bệnh viêm loét. * ước số bảo vệ + Chất nhờn tế bào hiểu mô niêm mạc dạ dày tiết ra chất dính - Thành phần chủ yếu của chất nhờn có albumin nhờn. Nó có tính co giãn nhất định, tính chất dính, tính ứ đọng -và tính ngưng tụ, có thể dính chặt lên trên mặt màng dính, kích thích có tính hoãn xung cơ giới. Chất nhờn chứa nhiều HCO3 8 - 18mmol/L, có tác dụng trung hòa acid dạ dày và hút bám dung môi dạ dày. Chất nhờn chứa nhiều acid nước bọt và acid sunphuahydrôcid, làm cho bản thân chất nhờn ìió tính điện âm từ đó có thể cản trở di chuyển vào tế bào biểu mô. Một tác dụng khác của tầng chất nhờn là cùng với tế bào biểu mô của màng chất nhờn đã chết và rụng xuống rồi để hình thành nên một lớp màng bảo vệ, làm cho dung môi pepcin không dễ dàng làm tổn thương màng cơ bản của tế bào biểu mô, hình thành một môi trường cận trung tính, có lợi cho quá trình di chuyển, lành lại của tế bào biểu mô trong lỗ lõm xuống của dạ dày. 30 BỆNH DẠ DÀY ỏ NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... + Bức thành che niêm mục Bức thành che niêm mạc là chí đặc tính của niêm mạc dạ dày ở phần thấm nước của dịch vị chua. Nó có thể phòng ngừa thấm sâu vào trong niêm mạc dạ dày, đồng thời... không thể tỏa khắp khoang dạ dày tìr niêm mạc. Vì thế, trong khoang bụng có thể duy trì một độ chua cao độ mà niêm mạc không bị acid dạ dày xâm phạm. Cấu tạo của nó cho đến nay vẫn chưa rõ ràng. Có lẽ giữa các tế bào của bề mặt niêm mạc nối liền nhau liên tiếp, biểu mô tầng niêm mạc có màng prôtêin, không cho những chất không béo hoặc không dễ hòa tan thông qua. ớ điều kiện bình thường, chỉ có một hàm lượng không đáng kể xuyên qua những lỗ nhỏ của tế bào để đi vào trong niêm mạc dạ dày, nhưng lập tức bị HCO' trung hòa. Nếu như bức thành che niêm mạc bị hỏng, có thể sẽ kích thích tế bào to béo tiết ra hixtamin. Tiếp tục kích thích tế bào thành tiết acid muối, làm huyết quản căng phồng lên và mỏng đi, phát sinh các chứng bệnh, như xung huyết, bệnh phù, máu thấm ra ngoài, chảy máu, thậm chí viêm loét. Thành che niêm mạc bị hỏng sẽ kích thích dây thần kinh thế vị tiết M,, làm cho vị toan và dung môi pepcin tiết ra và tăng lên, vận động mạnh, nhanh hơn, những nhân tố này đều làm phá hoại tế bào biểu mô. + GMBF (Huyết lưu niêm mạc) GMBF được cung ứng bình thường sẽ bảo đảm đầy đủ lượng ôxy và sự cung cấp năng lượng, duy trì chức năng 31 HÀ LINH của niêm mạc, và có thể loại bỏ những iôn lan tỏa khắp niêm mạc và các độc tô khác. Máu cung cấp thiếu sẽ làm độ pH trong dạ dày giảm xuống, sự trao đổi chất giữa các tế bào diễn ra chậm chạp, thiếu chất dinh dưỡng, ATP giảm, thời gian lành của vết loét kéo dài. Nếu như GMBF không tăng lên thì vết loét sẽ lành lại rất lâu. Huyết quản niêm mạc bị phá hoại thì vết loét sẽ khôi phục lại rất khó khăn. Sau khi phục hồi lại thì sẽ dễ dàng tái phát. GMBF còn ảnh hưởng đến chất lượng của sự lành lại vết loét. + Thay đổi tê'bào Tế bào niêm mạc cứ 70 - 90 liếng thì thay đổi một lần, trạng thái niêm mạc có liên quan mật thiết đến tỷ lệ thay đổi tế bào. Tỷ lệ thay đổi tế bào trong quá trình lành lại vết thương gia tăng. Nghiên cứu những năm gần đây cho thấy, tốc độ thay đổi tế bào có liên quan đến phân tử sinh trưởng biểu bì (EGF). + Tiên liệt tố(PG) trong niêm mạc dạ dày Tế bào biểu mô niêm mạc dạ dày không ngừng hợp thành và giải phóng tuyến tiền liệt nội nguyên tính (PGS), PG có tác dụng bảo vệ niêm mạc. Cơ chế tác dụng có thể là : - Thúc đẩy albumin chất nhờn tiết ra. - Tăng độ dày cho tầng chất nhờn. - Thúc đẩy HCO3 tiết ra. - Hạn chế vị toan tiết ra. - Tăng huyết lưu niêm mạc (GMBF). 32 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... - Kích thích sự sản sinh của mỡ photpho hoạt tính bề mặt. - Tăng acid sunphuahiđrôxit niêm mạc. - Kích thích sự sản sinh của CAMP. - Ôn định màng dung môi. - Ảnh hưởng đến quá trình vận chuyển tế bào, tăng khả năng tái sinh của niêm mạc. + Nhàn tử sinh trưởng biểu bì (EGF) BGF là peptit hoạt tính sinh vật có nhiệm vụ quan trọng, do 53 acid amino hợp thành, phân bổ chủ yếu ở các bộ phận như: tuyến nước bọt, tuyến cầu tá tràng, tuyến tuy, dạ dày và ruột rỗng v.v. Niêm mạc đường tiêu hóa có chứa thể đựng EGF, tác dụng sinh vật học quan trọng nhất của nó là thúc đẩy quá trình hợp thành DNA và quá trình phục hồi những tổ chức bị tổn thương. Cơ chế tác dụng của EGF bao gồm các hình thức dưới đây: - Kích thích sự sinh trưởng và phân hóa của tế bào. - Hạn chế vị toan tiết ra. - Bảo vệ niêm mạc dạ dày, giảm sự kích thích của các nhân tố gây tổn thương. - Tăng quá trình phục hồi vết thương niêm mạc và sự lành lại của vết loét. - Nghiên cứu gần đây cho rằng, EGF có thể thúc đẩy quá trình tái hình thành biểu mô vết sẹo chỗ viêm loét và 33 HÀ LINH sự phân hóa của cơ cấu tuyến thể. Nó có tác dụng quan trọng đến việc xây dựng lại huyết quản niêm mạc, có quan hệ mật thiết đến chất lượng của sự lành lại vết thương. + Peptit não tràng và hợp chất loại R.NH2. VỊ tiết tố, não có thể thúc đẩy acid dạ dày tiết ra, thúc dẩy phát sinh mụn nước tính tiêu hóa, mà chất làm co túi mật, thúc đẩy dịch tụy. Peptit ruột có hoạt tính huyết quản chất làm cản trở sự sinh trưởng và chất làm ức chế thần kinh... hạn chế acid dạ dày tiết ra đều có tác dụng bảo vệ viêm loét. Trong lâm sàng, sử dụng peptit não chàng để chữa trị bệnh viêm loét có lác dụng phòng ngừa sự hình thành vết loét đã thu được kết quả khả quan; còn có thể làm giảm tỷ lệ tái phát bệnh, các cơ chế tác dụng của nó đều có liên quan đến sự tiết ra của dạ dày, vận động của dạ dày và huyết quản niêm mạc dạ dày. + Bộ phận lõm lại của tú tràng Quá trình bài tiết của dạ dày và chức năng vận động của nó chịu sự điều tiết của dịch thể thần kinh. Tá tràng là bộ phận chủ yếu của chức năng điều tiết, gọi là bộ phận hãm lại tá tràng. Một ngày nào đó, bộ phận này mất đi sự linh hoạt. Chức năng của dạ dày mất đi khả năng khống chế, dịch tiết ra quá nhiều, nhu động quá mạnh thì dễ dàng bị tổn thương, cơ chế hãm lại liên quan đến tác dụng của những hormon do tá tràng tiết dịch, dịch thể tính kiềm và hormon loại peptit não tràng. 34 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... Trong y học cho rằng, nguyên nhân gây nên bệnh viêm loét có rất nhiểu, chủ yếu bao gồm: Ti vị yếu, ăn uống không điều độ, trạng thái tâm lí không ổn định, ảnh hưởng tà khí và kích thích dược liệu. - Khẩu vị yếu: Thức ăn khỏng đù hoặc quá mệt, bệnh lâu ngày không khỏi v.v... đều làm lổn thương tì vị, tì vị yếu, khí hư không vận hóa hoặc dương suy dẫn dến đau vị quan. - Ản uống không điều dộ: Lúc ăn lúc không, no đói thất thường thương tổn thương tỳ vị làm cho lì vị không còn chức năng vận hóa. Thức ãn ứ đọng lại không tiéu hóa được, vị quản đình trệ, khí cơ không thông, không co bóp được, sẽ gây nên đau khoang dạ dày. - Trạng thái tâm lí không ổn định: Suy nghĩ lo âu, làm cho gan không tiết được chất xơ, chắn ngang dạ dày, dạ dày không xuống được. Nếu gan nóng sẽ làm tổn thương dạ dày, xơ dạ dày, không ướt sẽ đau nóng ngấm ngẩm ở vị quản. Nếu như khí ứ lâu ngày, máu không thông, mạch máu ngưng lại, máu ứ lại chặn dạ dày, làm đau vị quản. - Kích thích dược liệu; Nếu uống thuốc sulfamite trong một thời gian dài như; Thuốc chống viêm và hormon vỏ thượng thận, có thể làm tổn thương niêm mạc dạ dày, ảnh hưởng đến quá trình thống xuống của vị khí và quá trình lưu thông xơ mạch, gây nên bệnh viêm loét. Vị trí phát bệnh của bệnh này tại dạ dày nhưng có quan hệ mật thiết đến gan, lá lách. Nguy cơ phát bệnh 35 HÀ LINH chính là khi cơ dạ dày bị chặn lại hoặc mất đi nguồn dinh dưỡng, làm cho dạ dày không co bóp được, không thông thì sẽ đau. 5. Bệnh đi ngoài mạn tính 5.1. Đặc điểm của bệnh Đi ngoài là một chứng bệnh lâm sàng do nhiều nguyên nhân gây ra, biểu hiện chủ yếu là đi ngoài nhiều lần, phân không thành hình, nát, lỏng, hoặc chứa nhiều chất chưa tiêu hóa, dịch dính, có máu hay nhiều mỡ. Nếu đi ngoài kéo dài trong vòng 2 tháng hoặc thời gian từ 2 - 4 tuần thì có thể gọi là đi ngoài mạn tính. Căn cứ vào đặc điểm biểu hiện lâm sàng của chứng bệnh này thì tất cả các chứng đi ngoài mạn tính do các bệnh về chức năng hay khí chất tạo thành qua đường tiêu hóa trong Tây y đều quy về loại bệnh này như: Viêm ruột mạn tính, chứng ruột dễ bị kích thích tổng hợp, u đường tiêu hóa, đi ngoài do tiểu đường, dính ruột... Loại bệnh này có thể phát sinh ở bất kỳ độ tuổi, giới tính, khu vực, dân tộc nào và không có sự khác biệt rõ rệt. Chứng bệnh này trong tác phẩm "Hoàng đ ế nội kinh" gọi Jà "tiết", trong các sách thuốc đời Hán Đường gọi là "Bất lợi", sau này các sách dược đời Đường Tống gọi chung là "tiết tả" (đi ngoài). Trong đó, "tiết" và "tả" có hàm ý khác nhau, "tiết" có hàm ý như chảy ra, người bị bệnh này đi ngoài ít, lúc có lúc không, bệnh tiến triển 36 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... chậm; "tả" có hàm ý như trút ra, đi ngoài nhiều, đi như nước, bệnh tiến triển nhanh. Tuy hai loại có sự khác biệt về nhanh chậm, nhưng những biểu hiện lâm sàng trông thấy thì khó mà phân biệt rõ ràng được cho nên gọi chung là "tiết tả" (đi ngoài). Đông y căn cứ vào các thời kỳ khác nhau mà phân ra các phạm trù như tiết tả, đại tiện phân lỏng, ruột chứa đầy khí. 5.2. Nguyên nhân gây bệnh Nguyên nhân của bệnh này phức tạp. Có thể do bệnh về đường tiêu hóa gây nên, cũng có thể do ảnh hưởng của các biến chứng bệnh ngoài đường tiêu hóa, chung quy lại có mấy loại sau: - Tăng sự bài tiết. - Áp lực thẩm thấu đường tiêu hóa tăng. - Những chướng ngại trong quá trình hấp thụ và tiêu hóa thức ăn. - Diện tích hấp thụ của ruột thu nhỏ. - Nhu động của ruột tăng. + Đi ngoài có tính thẩm thấu Chiếm vị trí quan trọng trong quá trình phát sinh bệnh, bệnh lý của nó là trong ruột có các chất thẩm thấu mang tính bệnh lý dẫn đến đi ngoài. Chủ yếu thường gặp là các bệnh viêm nhiễm, có thể phân thành 2 loại là lan truyền và không lan truyền. 37 HÀ LINH + Viêm ruột có tính lây truyền Là nguyên nhân thường thấy của các bệnh viêm đường ruột, nguyên nhân của bệnh là: Do lan truyền cục bộ: - Vi khuẩn; Nấm, dịch tả, kết hạch ruột, vi khuẩn hình cầu. - Vi trùng: viêm ruột A-míp, bệnh trùng roi ruột, viêm ruột do vi trùng hút máu, trùng roi hình quả lê, trùng roi truyền nhiễm. - Viêm ruột do virus; Như các tế bào đường ruột của con người đến các viru.s gây bệnh, virus gây viêm xương trước bại liệt. - Viêm ruột thật sự do vi trùng thường do vi khuẩn tinh cầu màu trắng gây nên. Do lan truyền trên cơ thể: Đi ngoài do lan truyền trên cơ thể hay đường ruột gây nên, chủ yếu có các bệnh phát nhiệt như thương hàn, phụ thương hàn, sốt phát ban, sởi, bệnh dạng trùng, các bệnh nhiệt như: nhiễm trùng máu, sốt rét. + Viêm ruột không do lây truyền hoặc không rõ nguyên nhàn - Viêm loét ruột mạn tính không có tính khác biệt thì đến nay vẫn chưa tìm ra nguyên nhân, có thể thuộc một loại bệnh miễn dịch của cơ thể. - Bệnh viêm kểt tràng ruột do sưng u: Là một loại viêm 38 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... kếl tràng có tính tổ chức của kết hột là một loại bệnh mạn tính ở thanh niên. - Viêm ruột non hoại tử cấp tính: Nguyên nhân không rõ ràng, có thể có liên quan đến vi khuẩn lây nhiễm, là một loại bệnh có đặc điểm từ bệnh ruột non hoại tử Gấp tính. Bệnh này thường xảy ra ở trẻ em mẫu giáo, lứa tuổi nhi đồng. Có liên quan đến việc ăn uống không vệ sinh hoặc không điều độ. + Viêm ruột do niêm mạc quá sức chịu dựng: Đặc biệt là khi bắt đầu có triệu chứng viêm, có thể dẫn đến bệnh đi nưoài có tính thẩm thấu. + Các hiện tượng khác - Bệnh khệ thất kết tràng: Thường có vào trạng thái kết tràng ruột giai đoạn hai, một nửa số người mắc bệnh thường xuyên hoặc thỉnh thoảng bị đi ngoài, đặc biệt hay có hiện tửợng viêm nhiễm. - ‘Thiếu chất dinh dưỡng: Thiếu acid nicôtinic tức là thônư qua sự biến đổi bệnh chung quanh hệ thần kinh khiến chức năng hoạt dộng của ruột bị rối loạn và dạ dày, ruột cú các Iriệu chứng viêm nhiễm. Đồng thời do viêm dây thần kinh và viêm hệ rộng từ khoang miệng dến kết tràng ruột mà dẫn đến việc bị đi ngoài. - Đi ngoài có tính phản ứng thay đổi: Do ăn phải các chất lạ hoặc do sự biến đổi chất vốn có trong cơ thể người bệnh tạo thành, ước đoán có liên hệ với bệnh trạng nước ở 39 HÀ LINH thành ruột. Đi ngoài mạn tính thuộc phạm trù của phản ứng thay đổi, đau bụng và đi ngoài ra máu là biểu hiện chủ yếu của hệ thống ruột khi mắc bệnh này. Nhưng đi ngoài lại trở thành triệu chứng khác biệt của bệnh. Viêm ruột có tính tế bào hạt là một loại bệnh về ruột có tính phản ứng thay đổi đặc thù. Sau khi ăn những thức ăn có tính khác biệt dẫn đến ruột bị nổi hạch, kết hạch ruột có tính tế bào hạt ở dạ dày hay vách ruột non, khi tích luỹ vào tầng niêm mạc dẫn đến đi ngoài. Đi ngoài có tính bài tiết Đi ngoài có tính bài tiết là do sự tăng cường bài tiết nước và chất điện giải của dạ dày do lượng chất điện giải trong ruột tăng dẫn đến hiện tượng đi ngoài. Ngoài việc viêm loét tuyến tuy do lăng sự bài tiết dạ dày ra, còn lại đều do sự bài tiết đường ruột đặc biệt là ruột non tăng lên gây ra. Nguyên lý của nó có các loại sau: - Do áp lực ruột và áp lực tổ chức tăng. - Sự gia tăng của các loại nhân tố kích thích tính chủ động bài tiết của các chất điện giải trong tế bào niêm mạc. Hiện tượng gia tăng bài tiết khác biệt này trước mắt vẫn chưa phát hiện được cơ chế thay đổi có tổ chức của nó, nhưng có thể coi là sự rối loạn bài tiết đơn thuần. - Đi ngoài có tính bài tiết thường xảy ra ở những bệnh lây truyền bằng đường ruột và bệnh không lây truyền như bài tiết bên trong và bài tiết thể dịch. 40 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... + Bệnh có tính lây truyền - Dịch tả: Do độc tố bên ngoài bài tiết của vi khuẩn dịch tả tác dụng vào viêm mạc ruột, khiến âm li chủ động bài tiết, nước cũng từ đó bị thải ra ngoài tạo thành bệnh. - Đi ngoài có tính độc tố của vi khuẩn ruột già: Khi loại vi khuẩn này chỉ sinh sản trong kết tràng ruột thì thường không dẫn đến bệnh. Nhưng nếu lây đến ruột non thì sẽ giống như vi khuẩn gây dịch tả, độc tố ruột của nó sẽ dẫn đến đi ngoài có tính bài tiết. - Đi ngoài do trúng độc khi ăn: Thường là dạng đi ngoài bài tiết. Nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn hình quả nho màu vàng, vi khuẩn bệnh lị đều có thể do độc tố bên ngoài của nó dẫn đến hiện tượng đi ngoài có tính bài tiết. - Các hiện tượng khác: Một vài thực vật hoặc thuốc dẫn đến ngộ độc hóa học đều có thể gây nên bệnh đi ngoài, có thể có liên quan đến việc tãng bài tiết ĩừ ruột hoặc kích thích nhu động ruột. Có người bị đi ngoài do trúng độc dứa, hột cà, khoai tây mọc mầm, nấm độc, clcindela chiaesis các loại thực vật thường ngày như hoa quả, nếu ăn với số lượng lớn quả chưa chín cũng có thể dẫn đến đi ngoài. + Không cố tính láy truyền - Loét tuyến tuy: (hội chứng suy giảm miễn dịch, cũng gọi là u tuyến bài tiết dạ dày) là một loại u tuyến do tuyến tuy tiết ra tế bào p, tế bào u tiết ra một số lượng lớn các chất bài tiết dạ dày, khiến cho lượng acid dạ dày tăng, hầu 41 HÀ LINH hết lượng acid dạ dày (vị toan) chưa được hấp thụ hết đi vào đường ruột, kích thích nhu động ruột. Do lượng acid cao nên khống chế men tiêu hóa khiến một vài người bệnh có thể có hiện tượng đi ngoài ra mỡ. - Dịch tả tuyến tuy: Là một loại in.sulin tiết ra tế bào |3, nó không gây ra việc tăng lượng acid dạ dày được bài tiết, nhưng lại bài tiết ra một loại dịch đi ngoài có tính bài tiết. Nguyên nhân có thể là do mạch máu giãn nở, các nhân tố tuyến tiền liệt, các nhân tố bài tiết... gây ra việc hao hụt với số lượng lớn các chất điện giải dưới dạng đi ngoài ra nước. * Ung thư tuỷ tuyến giáp trạng: Loại ung thư này tiết ra một nhân tố luyến tiền liệt kích thích sự bài tiết của ruột. - Các loại ung thư khác; Loại bệnh này là loại u ruột non đặc thù có tổ chức, do sự gia tăng khác thường của tế bào trên niêm mạc ruột tạo thành, nơi phát sinh dễ nhất thường là ruột thừa, u tiết ra các chất có dạng dịch. Khi hưng phấn, dịch này có thể đi vào hệ thần kinh, dẫn đến đường ruột co thắt mạnh và chức năng vận chuyển các chất trong ruột bị rối loạn, từ đó gây nên việc đau bụng hay đi ngoài, luôn phát bệnh và kéo dài. + Đi ngoài có tính thẩm thâu áp lực Loại bệnh này là do trong khoang ruột có chứa các chất không thể hấp thụ được (trừ các chất điện giải), khiến hiệu quả áp lực thẩm thấu trong khoang ruột tăng, từ đó giảm lượng hấp thụ nước, các chất điện giải và tạo thành bệnh. 42 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... Nguyên nhân có thể do; - Do hấp thụ vào các chất dinh dưỡng và thuốc thấy khó khăn. - Do sự tiêu hóa phân giải thức ăn không hoàn toàn. - Do không thể vận chuyển các chất hấp thụ mà thường ngày có thể khống chế (như đường nho). Chứng bệnh tổng hợp không hấp thụ được các chất mỡ có thể phân thành hai loại là phát sinh ban đầu và phát sinh trong quá trình. ■ + Chứng bệnh tổng hợp không hấp tiai được do phát sinh ban đẩu Đi ngoài dịch dưỡng ở người lớn: Bệnh này được cho là một loại bệnh di truyền. Trong số những chất này, có nhiều prôtêin, như lúa mạch, lúa mì, lúa mạch đen đều có chứa các thành phần prôtêin có tác dụng tạo thành bệnh trong niêm mạc dạ dày. Nguyên lý gây bệnh như sau: - Phản ứng có tính miễn dịch đối với lượng prôtêin lớn. - Thay thế những chỗ thiếu hụt, thể hữu cơ thiếu một loại men có thể khống chê lượng chất hữu cơ trong prôtêin, khiến cho nhu động ruột không thể hoàn toàn hạ thấp lượng phân giải. Nhưng chất thay thế trong đó có thể gây tổn hại đối với niêm mạc ruột. Loại đi ngoài này vẫn chưa phát bệnh ở trẻ em. - Đi ngoài có lính nhiệt đới: Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa rõ ràng, nhưng có thể có liên quan đến việc thiếu 43 HÀ LINH vitamin B|| và B|2- + Chứng bệnh tổng hợp hấp thụ không tốt phát sinh sau khi phẫu thuật ruột - dạ dày Đi ngoài ra mỡ: + Do chức năng bài tiết bên ngoài tuyến tuỵ giảm, mỡ vẫn chưa được hoàn toàn phân giải. Một loại bệnh đi ngoài ra mỡ khác ít thấy là chứng whipple, chủ yếu là do ống tuyến dịch lympho ở ruột non bị tắc, tuyến hạch trên niêm mạc ruột bị đính kết vào nhau. + Đi ngoài tính thẩm thấu áp lực do lượng đường tăng Do các hợp chất đường trong khoang ruột thừa được hấp thụ dẫn đến việc tăng áp lực thẩm thấu trong khoang ruột, thường được phân thành hai loại sau: - Một loại thường thấy là do trong ruột có nhiều chất men đường, cho nên còn gọi là bệnh thiếu men đường. Người bị bệnh sau khi uống sữa bò thì bị đi ngoài, trẻ em có thể bị sau khi bú sữa mẹ. - Một loại ít thấy không phải là do thiếu chất men đường mà là do một chỗ trống trong ruột khiến chất đường sữa tự hấp thụ một cách khác thường vào hệ tuần hoàn máu gây nên nguy hiểm cho tính mạng. + Đi ngoài do sự mất cân bằng vi khuẩn đường ruột Bệnh này giống như chứng bệnh dinh dưỡng ở trẻ em, hầu hết các phẫu thuật sau khi cắt bỏ ruột non, một vài loại viêm ruột, dạ dày, viêm ruột có tính hạn chế ở trẻ em. 44 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP,.. Một nguyên nhân thường thấy trong bệnh đi ngoài do tiêu hóa không tốt là sự mất cân bằng trong quần thể nấm ở đường ruột, tức là lượng mẫu nấm trong phân vượt quá 70%, gây nên sự mất cân bằng trong quần thể nấm ở đường ruột. Nguyên nhân thường là do mắc chứng bệnh thiếu vitamin và các nguyên tố chống quang phổ dài kì. + Đi ngoài do rối loạn quá trình hấp thụ Đi ngoài do rối loạn trình hấp thụ tức là đi ngoài do sự rối loạn hấp thụ nước, các chất điện giải hay rối loạn ngay trong quá trình hấp thụ chất dinh dưỡng gây ra. + Sự thay đổi tính thấm qua của niêm mạc Cơ thể do sự thay đổi trong giải phẫu bệnh lý của tế bào niêm mạc, như sự biến hình hoặc giảm số lượng lông mao hoặc lông tơ, thu nhỏ diện tích hấp thụ dẫn đến hạ thấp khả năng thẩm thấu của niêm mạc, như bệnh dịch dưỡng ở trẻ em và bệnh hấp thụ không tốt của ruột non do nhiệt đới và không nhiệt đới cũng có những thay đổi như thế. + Đi ngoài có tính ức chế Là do sự ức chế hoặc thiếu hụt khả năng chủ động hấp thụ bình thường của một vài chất điện giải, như do sự tổn tại của trở ngại của đoạn ruột cong hấp thụ vi lượng clo (âm tính) nên đó có quá nhiều nước bị đọng lại trong ruột dẫn đến đi ngoài. + Đi ngoài do rối loạn chức năng vận hành của ruột Sự rối loạn trong chức năng vận hành của ruột, hoạt 45 HÀ LINH động của nhu động ruột tăng nhanh dẫn đến dịch trong khoang ruột không kịp hấp thụ gây nên di ngoài. Ngược lại, hoạt động của nhu động ruột chậm lại, dịch ít đọng trong ruột hay sự sinh sản quá độ của tế bào nấm trong ruột cũng có thể gây nên bệnh đi ngoài. 5.3. Các nguyên nhân theo Đông y Chúng ta đều biết rằng nguyên nhân của chứng bệnh này là do chức năng hoạt động của hộ thần kinh thực vật bị mất cân bằng dẫn đến kết tràng co giật, và nhu động từ đó gây nên đi ngoài. Đông y cho rằng, nguyên nhân gâv bệnh có thể là do chịu sự tác động các nhân tố bên ngoài, bị bệnh trong quá trình ăn uống, những biểu hiện phiền muộn về tinh thần, tỳ vị yếu, tỳ thận dương suy khiến khí âm trong cơ thể tăng cao dẫn đến hiện tượng đi ngoài, hoặc do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau khiến chức năng của tỳ vị gặp trở ngại là chủ yếu. + Chịu tác dộng của nhàn tô bên ngoài Những người bị thương dẫn dến tỳ vị mất cân bằng cũng có thể gây ra hiện tượng đi ngoài. Nhưng lại lấy yếu tố ngoại cảnh gây “ướt” là điểu quan trọng nhất, "ướt thường thành ngũ tiết", chỉ việc thấm ưóít vào tỳ, tỳ mất khả năng vận chuyển, không thể thấm hút và phân rõ các loại nước, ngũ cốc đồng thời đưa chúng vào ruột già dẫn đến hiện tượng đi ngoài. Nếu cơ thể bị ngấm ướt do các nhân tố bên ngoài như ngấm quá nhiều nước, ngồi, ngủ ở chỗ ẩm ướt, hoặc tắm khi đang nhiều mồ hôi... khiến khí 46 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... lạnh, khí ấm thấm ngay vào bên trong hỗn loạn bất phân dẫn đến đi ngoài. Gió, lạnh, khỏ, nóng đều có thể dẫn đến đi ngoài, nhưng vẫn có liên quan nhiều với các nhân tố bên ngoài gây ẩm ướt. + BỊ bệnh do ăn uống Ăn quá nhiều thức ăn không tiêu, thức ăn không sạch sẽ gây tổn thương đến tỳ vị. Các chất dinh dưỡng và nước không phân hóa nhỏ được, biến ngược lại thành đờm bẩn, tất cả những điều đó đều khiến tỳ vỊ hoạt động yếu, chức năng lên xuống bị mất cân bằng khiến các chức năng khác bị ảnh hưởng đều có thể dẫn đến đi ngoài, cho ta thấy rõ ràng chế độ ăn uống là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến đi ngoài. + Mất thăng hằng về tinh thần Nếu tinh thần luôn lo lắng, nóng giận, ý muốn không đạt gây ra ức chế gan khí, cản trở tỳ, tỳ vị bị ức chế, quá trình vận chuyển mất khả năng bình thường và tạo thành đi ngoài; hoặc cũng có thể do ưu tư khiến tỳ bị tổn thương cũng có thể dẫn đến di ngoài, hoặc có các nhân tố làm hư thận, hoặc khi tức giận ăn uống không điều độ uống càng dễ dẫn đến đi ngoài. Điều đó cho thấy sự mất thăng bằng về tâm lý trong quá trình phát bệnh đi ngoài cũng vô cùng quan trọng. + Tỳ vị yếu Dạ dày (vị) chủ yếu là để thu nhận, tỳ (lá lách) chủ yếu 47 HÀ LINH để vận chuyển. Hai bộ phận này chủ yếu có nhiệm vụ hấp thụ các chất tiêu hóa, nếu ngay từ nhỏ mà chức năng tỳ vị đã không đầy đủ hoặc bị mất cân bằng do ăn uống sau này, mệt mỏi dẫn đến nội thương, bệnh tật lâu ngày không khỏi cũng có thể dẫn đến tỳ vị hư yếu... làm cho khả năng vận chuyển và tiêu hóa thức ăn của tỳ vị bị rối loạn, dần dần tạo thành đi ngoài. + Thận dương khí yểu Bệnh lâu ngày do thận, hoặc tuổi cao sức yếu, dương khí của thận không đủ, khiến thận dương khí yếu, nhiệt trong người không đủ nên không thể trợ giúp dạ dày co bóp và nghiền nát thức ăn. Thức ăn lâu ngày không bị phân hủy sẽ dẫn đến đi ngoài. Nhưng lại khó đi đại tiện do chức năng của thận bị tổn thương gây nên. Tóm lại nguyên nhân gây bệnh của bệnh này có quan hệ với các nhân tố như phong hàn, thấp, nhiệt, thử, sự mất thăng bằng tâm lý, ăn uống mất vệ sinh, sự thay đổi bên trong của ngũ tạng, sự tác động của những nhân tố tác động bên ngoài (đặc biệt là các nhân tố), ăn uống không đúng mức gây tổn thương tỳ vị, hoặc nóng gan, thận không tốt khiến chức năng của tỳ vị suy giảm, rối loạn bên trong lâu ngày sẽ tạo thành bệnh. Thời kỳ đầu của bệnh lấy những biểu hiện thực là chủ yếu, thường thể hiện ở sự xáo trộn bên trong cơ thể. Bệnh lâu ngày có thể biến thực thành hư, hoặc hư tỳ, hoặc hư thận cũng có thể là hư thực lẫn lộn. Bệnh này có quan hệ với tỳ, vị, ruột, gan và thận, nguyên 48 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... nhân căn bản là xáo trộn bên trong, chức nâng vận chuyển của tỳ, vị, ruột không bình thường. 6. Bệnh táo bón mạn tính 6.1. Đặc điểm của bệnh Táo bón mạn tính là chỉ một sự thay đổi trạng thái thói quen đại tiện và số lần đi khác nhau. Tức là có lần đại tiện ít dần hoặc đi đại tiện khó khăn, phân khô, cứng hoặc dính chặt vào nhau. Triệu chứng ít nhất là kéo dài 3 tháng trở lên. Biểu hiện cụ thể của chứng bệnh này là: Số lần đại tiện dưới ba lần/1 tuần, trên 25% thời gian đại tiện khó, trên 25% số lượt phân đi cứng trên 25% thời gian đại tiện không hết. Nếu kiểm tra sức khỏe và nội soi ruột thì không thấy sự thay đổi nào về khí chất. Căn cứ theo biểu hiện lâm sàng cũng gọi là táo bón theo thói quen hoặc táo bón đặc biệt, táo bón đơn thuần. Biểu hiện lâm sàng đặc biệt là đại tiện khó khăn hoặc thời gian cách giữa 2 lần đi đại tiện dài, phân khô, cứng, rất ít khi bị đau bụng. Bệnh này có thể xảy ra ở tất cả các lứa tuổi, tần số xuất hiện ở tuổi thanh niên và trung niên là 5 - 10%, người già đạt từ 13 - 30%, vừa có thể xuất hiện trong lúc có các bệnh khác lại có thể độc lập xuất hiện, cũng là căn bệnh thường thấy của những người ít vận động hay người bệnh phải nằm lâu ngày. Táo bón có rất nhiều cách gọi trong Đông y, có thể gọi là "đại tiện khó", "hậu bất lợi", "tỳ ước", "dương kết", "âm 49 HÀ LINH kết", "tràng kết", "phong bế", "nhiệt bế", "phong táo", "nhiệt táo", "hư bế",... bây giờ gọi chung là táo bón. 6.2. Nguyên nhân gáy bệnh * Theo Tây y Tây y cho rằng, táo bón mạn tính là do: - Động cơ bài tiết thiếu: Người già cơ thể yếu, béo hoặc gầy rõ rệt, nhiều lần có thai và .sinh đẻ dẫn đến co bụng, cơ ruột, chức năng của hậu môn đều giảm. - Kết tràng ruột co giật: Dây thần kinh của hệ thần kinh quá căng thẳng, mệt mỏi, chức năng kết tràng rối loạn, có thể dẫn đến táo bón hoặc đi ngoài, như kết tràng rất dễ dẫn đến các chứng bệnh tổng hợp. - Thói quen của cuộc sống: Thường do thói quen ăn uống mất vệ sinh gây nên, cặn bã thức ăn hơi ít, chất dịch hấp thụ không đủ, ruột không nhận đủ kích thích. Phản xạ bài tiết phân của trực tràng chậm hoặc bị mất đi như lơ là ý nghĩ muốn đại tiện, ức chế đại tiện, đại tiện không theo giờ nhất định. - Phản xạ đại tiện chủ yếu: Lạm dụng thuốc đi ngoài hoặc thuốc nhuận tràng tạo thành sự dựa dẫm khi đại tiện. - Sự thay đổi về thần kinh: Do thần kinh ruột có sự thay đổi khác thường tặo nên, như dây thần kinh đường ruột, chức năng hoạt động kém. - Kết cấu giải phẫu về chức năng của trực tràng và hậu 50 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... môn khác thường như trực tràng lên trước quá cao, bên trong trực tràng rủ xuống, có trực tràng của xương chậu co giật, phình to dẫn đến đường ra bị tắc nghẽn. * Theo Đông y Đông y cho rằng táo bón là loại bệnh do chức năng của ruột già khác thường tạo nên. Nguyên nhân của nó là: - Ruột nóng ăn quá nhiều đồ cay thích uống rượu, quên uống thuốc, khiến ruột già bị tích nhiệt, tổn hao tân dịch, đường ruột bị khô, tắc tạo thành táo bón. - Khí cơ uất trệ, lo lắng buồn phiền quá độ, nằm dưỡng bệnh lâu ngày, hoạt động quá ít thiếu gan, tỳ tích khí, khí không thông suốt tạo thành táo bón. - Khí huyết, tân dịch yếu: Tinh khí yếu hoặc bị bệnh lâu ngày, sau khi sinh tổn hao khí huyết, đường ruột quá ướt, khí hư dẫn đến lực yếu tạo thành táo bón. - Tuổi già sức yếu, dương hư âm thịnh, âm hàn tích tụ, dương khí không thông tạo thành táo bón. Bệnh này phát sinh tại ruột già, có quan hệ với phổi, gan, lá lách, thận. 51 Chương hai CHẨN ĐOÁN MỘT số BỆNH DẠ DÀY THƯỜNG GẶP I. TRIỆU CHÍỮMG 1. Triệu chứng của bệnh viêm dạ dày câ'p tính Triệu chứng lâm sàng nặng nhẹ không giống nhau, thông thường thì bệnh phát rất nhanh, lúc bắt đầu thì có cảm giác đau bụng trên, tiếp theo là buồn nôn, nôn oẹ, nôn ra chủ yếu là những thức ăn chưa tiêu hóa, hoặc có mùi do acid bào mòn, nếu uống thuốc hoặc nước sẽ nôn ra ngay. Phần lớn người bệnh thấy đau bụng trên có tính gián đoạn kèm theo, đôi khi còn đi ngoài ra phân và nước vàng, nôn oẹ và đi ỉa từ ít đến vài lần, nhiều là trên 10 lần thậm chí mấy chục lần,-thường kèm theo các triệu chứng như cảm giác nóng lạnh, chán ăn, đau đầu và mệt mỏi... Những người bị nặng nếu nôn và đi ỉa chảy quá nhiều sẽ xuất hiện chứng mất nước, ngộ độc acid như cảm thấy nóng, khó chịu, mồm khô, đái dầm, khoang mắt lõm sâu, 52 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP. . da nhăn nheo, lưỡi đỏ, khô và gầy. Nếu nặng hơn cũng có thể xuất hiện một số triệu chứng hư thoát, hạ đường huyết như: mặt mày tái nhợt, mồ hôi tràn trề, tứ chi lạnh toát, mạch nhỏ và dần mất đi, huyết áp gảm, thần kinh mơ hồ, không tỉnh táo v.v... 2. Triệu chứng của bệnh viêm dạ dày mạn tính Viêm dạ dày mạn tính không mang tính điển hình và tình trạng bệnh lâm sàng mang tính đặc thù. Mức độ bệnh biến và tình trạng bệnh lâm sàng cũng không như nhau. Biểu hiện là ngược lại hoặc duy trì trạng thái đau, trướng bụng, bụng trên khó chịu, không mang tính quy luật. Bệnh trạng tiêu hóa không tốt thường là sau khi ăn cảm thấy nặng bụng, không muốn ăn tiếp, ợ, buồn nôn... Những loại bệnh trạng này dùng thuốc chống acid và thuốc chống co giật, không thể chữa trị triệt để được. Có một bộ phận người bệnh không có triệu chứng lâm sàng. Người niêm mạc dạ dày bị nát có thể sẽ bị ra ít máu và đi đại tiện phân đen. Những người để bệnh kéo dài trong một thời gian, đặc biệt là bệnh viêm dạ dày, thì sẽ có tình trạng thiếu máu. Ngoài ra, các bệnh trạng viêm dạ dày mạn tính không giống nhau thì biểu hiện lâm sàng của mỗi loại cũng khác nhau. + Viêm dạ dày mang tính mạn tính Viêm dạ dày mang tính mạn tính, đặc biệt viêm bộ phận khoang bụng là chủ yếu, thường biểu hiện như: Phần bụng 53 HÀ LINH trên trướng đau, đau âm ỉ, đau quần quại hoặc đau như lửa đốt. Các chứng đau này đại đa số là xuất hiện sau bữa ăn. Các nguyên nhân càng làm bệnh thêm nặng như: Tinh thần không ổn định, làm việc quá sức, khí hậu thay đổi và đồ ăn không đảm bảo vệ sinh... Khi bộ phận bụng trên đau dữ dội sẽ dẫn đến các hiện tượng không bình thường như; Buồn nôn mửa, nôn, đi đại tiện, bệnh đường vị tràng... Biểu hiện như dạng bệnh lở loét, dạng bệnh ung thư dạ dày, dạng bệnh tắc nghẽn môn vị, cũng có thể kéo theo xuất huyết mà dẫn tới một loạt bệnh trạng. + Viêm dạ dày mang tính khô héo Viêm dạ dày mang tính khô héo mạn tính chủ yếu biểu hiện là cảm thấy phần trên bụng trướng to, suốt ngày cảm thấy bụng trướng to mà không liên quan gì đến việc ăn uống. Cảm thấy không muốn ăn, ăn ít, đối với lòng trắng trứng, thức ăn có nhiều mỡ thì khó tiêu, dễ dẫn đến tiêu chảy, trong phân có những hạt mỡ chưa tiêu hóa, sợi cơ và bã rau.... Những người bệnh thường có biểu hiện: sắc mặt trắng bệch, thân thể gầy yếu, mệt mỏi, chóng mặt, mất ngủ... + Viêm dợ dày dạng u Viêm dạ dày dạng u còn được gọi là viêm dạ dày mang tính mạn tính, viêm dạ dày dạng bệnh đậu mùa, viêm dạ dày dạng u thịt.... Đa số người bệnh cảm thấy đau ở bộ phận bụng trên. Tính chất cũng giống như bệnh loét, còn có một số người biểu hiện như: Không có hứng thú trong 54 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... việc ăn uống, buồn nôn, nôn, giảm cân, toàn thân mệt mỏi... cũng có thể kéo theo xuất huyết. + Viêm chỗ nối khớp, viêm tăn vị Là bệnh biến thường thấy sau khi phẫu thuật, có thể phát sinh trong thời gian gần và xa sau khi phẫu thuật dạ dày. Chủ yếu biểu hiện là phần bụng trên trương to, đau, đặc biệt là sau khi ăn cơm, thậm chí còn xuất hiện buồn nôn, nôn ra dịch mật, có người bệnh còn không thiết ăn uống, giảm cân, toàn thân mệt mỏi..., thậm chí có người bệnh còn đi ra phân đen. + Thể trứn^ Người bệnh viêm dạ dày mạn tính thirờng không biểu hiện rõ thể trứng. Chỉ trong thời kỳ phát tác bộ phận bụng trên mới có biểu hiện đau mang tính phủ kín, nặng nhẹ không giống nhau. Người viêm dạ dày mạn tính thường kèm theo thiếu máu, có thể thấy mặt, môi, răng lợi, cầu kết mạc và móng tay, móng chân có màu trắng bạch. Viêm dạ dày vị thể (viêm dạ dày mang tính khô héo loại hình A) có thể thấy viêm lưỡi cấp tính, tức lưỡi có màu đỏ, thâm hoặc lưỡi cõ nhiều rêu. Bệnh thường thấy và phát bệnh Bệnh viêm dạ dày mạn tính nhẹ, ngoài những người bệnh có thời gian mắc bệnh dài ra, rất ít thấy hiện tượng phát bệnh. Người mắc bệnh viêm dạ dày mạn tính có kèm theo hóa sinh tuyến tràng độ nặng hoặc nhẹ và tăng sinh 55 HÀ LINH không điển hình có khả năng ung thư hóa. Tỷ lệ ung thư hóa của viêm dạ dày mạn tính là 2,55% - 7,46%. Cho nên, đối với người bệnh viêm dạ dày mạn tính có bệnh trạng kéo dài trong thời gian dài hoặc người bệnh viêm dạ dày mạn tính bệnh nặng vốn có tính ổn định, nhưng đột nhiên xuất hiện, hiện tượng bệnh tình thay đổi rõ rệt, thì phải tiến hành kiểm tra vị kính và chẩn đoán xác thực bằng hoạt kiểm. 3. Triệu chứng của bệnh đau dạ dày tổng hợp 3.1. Bệnh trạng - Bụng đau là chủ yếu: Thường thấy là đau bụng giữa và dưới; đi kèm cùng với triệu chứng này là đi đại tiện thất thường, bụng trướng. Đau bụng thưòng xuất hiện sau bữa ăn, thường xảy ra sau khi rửa ruột hoặc bị nhiệt, thải phân, thải khí, thường ít xảy ra trong lúc đang ngủ. Đặc điểm đau ở mỗi người bệnh cụ thể là cố định, không biến đổi, không thể nặng thêm mang tính tiến hành. - Đi tả: Lượng phân ít, có dạng hồ, phứa ít nhiều dịch dính, đi tả thường xảy ra hoặc mang tính đứt quãng. Nguyên nhân là do ăn uống không hợp lý gây nên, có cả hiện tượng cùng bị đi tả và bí tiện. - Bí tiện: Phân cứng, có thể có ít nhiều dịch dính. Đi đại tiện phải dùng nhiều sức, đi xong mà vẫn cảm thấy chưa hết, bí tiện mang tính ngắt quãng và tính liên tục, hoặc có lúc lại bị đi tả. Ngoài những bệnh kể trên ra, còn có các chứng bệnh 56 BỆNH DẠ DÀY ỏ NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... tiêu hóa không tốt như: Phần trên của bụng luôn cảm thấy khó chịu, ợ khí. buồn nôn... Không ít người bệnh bị đau dạ dày còn có tâm trạng lo sợ, tức ngực, ra nhiều mổ hôi, mặt đỏ, đi tiểu tiện nhiều lần, đi tiểu gấp, tính chức năng bị trở ngại, lo âu, mất ngủ, da mẩn lên biểu hiện như ngứa, viêm da mang tính thần kinh. 3.2. Thê chứng Khi sờ vào kết tràng có dạng chữ ất (z) và ấn đau; hoặc kết tràng ấn đau trong vùng rộng; hoặc sức mở ra của cơ vòng hậu môn cao thì cảm thấy đau. Một số người bệnh lại có hiện tượng nhịp tim đập nhanh, huyết áp cao, ra nhiều mồ hôi. 3.3. Những chứng bệnh thường gặp Viêm dạ dày chứng tổng hợp tức là chức năng của vị tràng mang tính tổng hợp. Nó thường ít xuất hiện và phát bệnh, nhưng đối với người tiêu chảy lại mang tính nghiêm trọng, vì nó có thể sẽ gây ra thuỷ điện giải chất làm mất đi sự điều tiết càn bằng của acid kiềm. 4. Triệu chứng của bệnh viêm loét đường tiêu hóa + Biểu hiện đau đớn Đau phần bụng trên là triệu chứng chính của bệnh viêm loét. Nhưng có khoảng 10% số người mắc bệnh lại không đau bụng. Đau bụng viêm loét điển hình theo tính nhịp điệu và tính chu kì. - Chỗ đau và tính chất của nó thường ở giữa, lệch trái 57 HÀ LINH hoặc lệch phải bụng trên song nếu đau do viêm loét tá tràng thường ở bụng trên bên phải hoặc bên phải rốn. Nếu viêm loét dạ dày ở dưới vị thể và thượng vị thì đau chủ yếu ở phần dưới não trước trái hoặc phần bụng trên bên trái. Nếu viêm loét thành sau của phần cầu dạ dày và tá tràng có thể đau chủ yếu ở sau lưng. VỊ trí đau nhức về cơ bản phản ảnh vị trí mà căn bệnh viêm loét tồn tại, nhưng cũng không hoàn toàn trùng khớp. - Đau do viêm loét có thể chia thành đau âm ỉ, đau nhói, đau nóng, trướng bụng lên mà đau, thông thường không phóng xạ, phạm vi rất hạn chế, đau không dữ dội, có thể chịu đựng được, thỉnh thoảng cũng có người đau dữ dội. - Nhịp độ của đau đớn; Đau theo nhịp độ là triệu chứng đặc trưng của bệnh viêm loét, nó liên quan nhất định đến quá trình ăn uống. Đau do vết loét tá tràng xuất hiện lúc đói hoặc giữa đêm, ăn uống vào có thể giám được cơn đau. Đau do vêì loét dạ dày thường xuất hiện trước sau bữa ăn một giờ, nhịp độ của nó không rõ ràng như đau tá tràng, triệu chứng đau vào giữa đêm cũng ít gặp và nhẹ hơn đau ở tá tràng. Sở dĩ đau viêm loét có tính nhịp độ có liên quan đến sự tiết ra của vị toan. Sau khi ăn uống khoảng một giờ, vị toan bắt đầu tiết ra nhiều hơn, vị toan kích thích bề mặt vết loét gây nên cảm giác đau đớn. Thức ăn có tác dụng giảm lượng acid, làm tăng độ pH của dịch vị, cho nên khi ăn hoặc uống dược liệu có tính kiềm, tạm thời sẽ làm giảm 58 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP,,. đau. Vào nửa đêm, lượng acid dạ dày tiết ra là đỉnh điểm trong chu kì tiết ra acid dạ dày trong một ngày. Vì thế, những người mắc bệnh thường bị cơn đau làm tỉnh lại vào nửa đêm. Ngoài ra, nguyên nhân gây bệnh viêm loét còn có thể liên quan đến các nhân tố ngoài acid dạ dày, như: Dung môi pepcin, nước mật, sự tăng lên của lực co cơ tá tràng và sự co giật của nó. - Tính chu kì của sự đau đớn: Một đặc điểm khác của đau do viêm loét là đau theo chu kì, viêm loét tá tràng càng rõ hơn. Cái gọi là tính chu kì của bệnh tức là sự kéo dài của vết đau, sau đó vào những ngày này năm sau, tháng sau, bệnh lại tái phát. Bốn mùa trong năm đều có thể phát bệnh, nhưng cuối mùa thu và đầu mùa xuân, thời tiết trở nên lạnh hơn thì bệnh biểu hiện càng rõ. Rất nhiều người mắc bệnh đã nhiều lần đau đớn và lâm vào tình trạng đau viêm loét mạn tính và sau đó sẽ mất đi tính nhịp điệu và tính chu kì của bệnh như đã nói ở trên. Do bệnh viêm loét này rất dễ phát lại bệnh, cho nên quá trình chữa trị bệnh rất lâu. Không ít người bệnh có lịch sử bệnh vài năm, thậm chí hàng chục năm. + Cháy máu Là biến chứng thường gặp nhất, chiếm 15% - 30% bệnh viêm loét, chiếm khoảng trên 1/2 bệnh chảy máu đường tiêu hóa, chủ yếu chảy máu ở thành sau cầu và thành sau tá tràng. Dự đoán bệnh tình quyết định bởi lượng máu chảy, tốc độ chảy máu, khả năng tiếp tục chảy máu 59 HÀ LINH hay không và tình hình sức khoẻ. Mà lượng máu chảy và tốc độ chảy máu lại được quyết định bởi loại huyết quản bị tổn thương đường trong huyết quản đó, trạng thái thu nhỏ của huyết quản và ức chế tụ máu v.v... Huyết quản mao mạch mỗi ngày rò ra ngoài 50 - lOOml sẽ tạo nên hiện tượng máu chảy lẫn phân và nước tiểu. Máu sẽ không tự đông lại nếu máu chảy ra từ động mạch hoặc tĩnh mạch lớn. Nếu chảy máu nhiều sẽ bị sốc, với dung lượng máu thấp, huyết sắc tố nhỏ hơn 8g, hồng tề bào ít hơn 3.000.000. Lượng tế bào chảy ra không quá 500ml, nhưng không có bất kì bệnh trạng nào; nếu lượng máu ấy vượt quá lOOml, thì tim đập nhanh, đau đầu, hoa mắt, mệt mỏi lượng máu lớn hơn 150ml, bệnh nhân sẽ bị sốc thậm chí tử vong. Huyết áp do nhịp đập mạnh có tác dụng quan trọng trong quá trình xác định lượng máu chảy ra. Có khoảng 25% người bệnh bị chảy máu trước kia không có bệnh trạng. Người già thường phát lạnh từ lúc bắt đầu chảy máu, sau lần đầu chảy máu sẽ có nguy cơ bị chảy máu lại. Sau khi chảy máu thì không đau bụng nữa. Xác định vị trí chảy máu chủ yếu dựa vào dụng cụ X - quang và nội soi dạ dày. X - quang chỉ tiến hành sử dụng sau 48 giờ khi bệnh tình đã ổn định. Nội soi dạ dày tiến hành trong vòng 24 - 48 giờ, nếu không thì có thể làm tổn thương niêm mạc, nứt niêm mạc, loét nhẹ, rạn nứt niêm mạc v.v... Nếu tiến hành nội soi dạ dày có thể cho thấy những vấn đề trong giai đoạn gần chảy máu. 60 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... + Vết loét xuyên thủng Vết loét xuyên thủng thành dạ dày và tá tràng, làm cho thức ăn ở trong dạ dày hoặc tá tràng vào trong khoang bụng gọi là vết loét xuyên thủng, đó là biến chứng rõ nhất của bệnh viêm loét đường tiêu hóa. Người bệnh sẽ bị chết do viêm màng ruột và nhiễm trùng máu. Đường xuyờn thủng có thể dài từ 3 - 6 mm, nhỏ nhất bằng mũi kim. Bệnh này phát nhiều vào mùa đông. Phân thành các loại cấp tính, á cấp tính mạn tính; từng loại chủ yếu quyết định bởi vị trí xuyên thủng xuyên thủng cấp tính phát sinh chủ yếu ở mặt rời thành trước, phía trên, phía dưới của dạ dày và tá tràng. Thức ăn trong dạ dày đi vào trong khoang bụng rời, có thể dẫn đến bệnh viêm màng ruột cấp tính, bệnh này gặp nhiều trong lâm sàng. Lỗ thông nhỏ hoặc nhanh chóng lành lại, đặc biệt xảy ra khi ruột rỗng, khoang bụng chỗ ô nhiễm ở phần bụng trên gọi là lỗ thủng á cấp tính, chỉ đứng sau lỗ thủng cấp tính. Vị trí vết loét ở thành sau dạ dày và tá tràng, các cơ quan lân cận, dễ chi phối bởi cơ chế kết dính. Lỗ thủng bị bọc lại trong màng võng nhỏ gọi là lỗ thủng gói, thuộc lỗ thủng mạn tính, rất ít gặp. Muốn chẩn đoán phải dùng X - quang, có thể nhìn thấy khí thể tự do dưới màng, khi cần thiết có thể soi ruột để xét nghiệm mẫu hỗ trợ cho việc kiểm tra sơ đồ cấu tạo của máu (huyết cầu đồ). + Môn vị bị tắc nghẽn Vết loét ở môn vị hoặc gần môn vị, nhưng do những sợi dưới niêm mạc, hoặc do các mụn nước trong niêm mạc gây 61 HÀ LINH nên hoặc do bị viêm loét, hoặc cơ hoành môn vị co giật thu nhỏ lại, vết loét mạn tính gây nên, hình thành nhiều vết sẹo nhỏ, hẹp làm tắc nghẽn môn vị. Sau đó cố định lại, phải làm phẫu thuật thông môn vị. Bệnh trạng là sự thay đổi về đặc điểm đau bụng, bụng trên trướng căng, nôn mửa thức ăn trong dạ dày hoặc có triệu chứng mất nước. Dấu hiệu đặc trưng của dạ dày chủ yếu là pha nhu động, sự nhu động của dạ dày nghe như tiếng nước chảy, tiếng lọc nước. Chẩn đoán bệnh phần lớn dựa vào viêm loét, bệnh trạng điển hình và dấu hiệu đặc trưng của cơ thể, kiểm tra bằng X - quang và nội soi dạ dày, ngoài ra còn một số dụng cụ kiểm tra bổ trợ khác. Cần phải xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh và mức độ nghiêm trọng của bệnh tình để chữa trị bệnh cho tốt. Thông thường tiến hành điều trị nội khoa trước. Nếu không có hiệu quả thì phải xem xét lại, cần thiết thì tiến hành phẫu thuật. + Biến chứng ung thư do vết loét Viêm loét tá tràng rất ít biến chứng thành ung thư, tỷ lệ biến chứng ung thư do viêm loét dạ dày chiếm khoảng 1 %, chủ yếu xảy ra vùng bên cạnh vết loét. Ung thư dạ dày phát sinh ngoài vùng viêm loét phải xem là bệnh đồng phát, không phải biến chứng ung thư của bệnh viêm loét. Biến chứng ung thư do nguyên nhân chủ yếu là sự hạn chế của phương pháp chẩn đoán xưa kia, coi một số bệnh ung thư dạ dày dạng viêm loét là viêm loét lành tính và có liên quan đến tiến triển của việc điều trị nội khoa bệnh viêm 62 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... loét. Một ngày nào đó, biến chứng thành bệnh ung thư, sẽ làm thay đổi nhịp độ của sự đau đớn, và có biểu hiện lâm sàng của bệnh ung thư dạ dày thông thường. Nếu tiến hành nội soi dạ dày có thể trực tiếp phân biệt tính chất của vết loét, tỷ lệ chẩn đoán đạt trên 90%. Tất cả những đối tượng khả nghi đều nên làm kiểm tra nội soi dạ dày, những vết loét dạ dày phải kiểm tra thường xuyên. 5. Triệu chứng của bệnh đi ngoài mạn tính Đi ngoài mạn tính là loại bệnh có số lần đi ngoài nhiều, trong phân có chứa một số lượng lớn các chất đã bị biến đổi hoặc một vài chất có khả năng gây bệnh. Theo như trên đã nói, những nguyên nhân gây bệnh khác nhau sẽ có những biểu hiện lâm sàng khác nhau. + Đi ngoài thẩm thấu Trong phân luôn có những chất thẩm thấu, hơn nữa có người sẽ bị đau bụng kết tràng ruột (đặc biệt là kết tràng bên trái) dẫn đến đi ngoài có mủ hoặc mỡ mà mắt thường có thể nhìn thấy, những người bị viêm kết có thể bị đi ngoài ra máu rất rõ. Bệnh thường phát sinh ở ruột non, chất thẩm thấu và máu đều nằm xáo trộn trong phân, thường là các loại mủ và máu khó nhìn thấy bằng mắt thường. + Bệnh viêm nhiễm lây truyền cục bộ Đi ngoài có đặc điểm chứa mủ và máu trong phân; - Vi khuẩn: Đi đại tiện ngày từ 10 lần trở lên, lượng 63 HÀ LINH phân ít, máu và mủ thành cục, không giống phân bình thường, tình trạng ngày càng nặng, nhiều lần phát cấp tính thì hầu hết sẽ chuyển thành mạn tính. - Trùng Amíp: Đại tiện hcfn 10 lần một ngày. Trong phân có lẫn máu nhạt và một ít mủ, triệu chứng toàn thân ít và nhẹ thường là mạn tính, một vài trường hợp phát tác cấp tính. - Viêm kết tràng có tính lở loét không khác biệt; Đại tiện ngày trên 10 lần, trong phân có mủ, máu và chất phân, triệu chứng toàn thân không thống nhất. Cũng có thể là khá nặng, bệnh sẽ phát tác nhiều lần dưới dạng mạn tính. Mấy loại biến đổi nửa đi ngoài của ruột - Lần một: Thường thấy ở người già và thanh niên, ngoài các nguyên nhân chính gây bệnh và triệu chứng kết hạch toàn thân, thường có hiện tượng đi ngoài mạn tính, hay .xuất hiện sau khi ăn, có lúc còn có thê thay bằng việc đi ngoài nhiều lần. Viêm kết ruột nổi u: Có thể có triệu chứng giống như viêm ruột thừa cấp tính, thường có biểu hiện nhỏ bắt đần bị trĩ hoặc tắc ruột, bệnh mạn tính, có thể là chậm hoặc tương đối chậm. Khi đi ngoài thường đau xung quanh rốn hoặc bên phải ở bụng dưới, thưòng mỗi ngày đi ngoài từ 3 - 6 lần, phân mềm, hoặc gần giống chất lỏng, rất ít khi có lẫn máu và mủ, ít khi thấy từ cấp tính chuyển sang nặng. - Viêm ruột non hoại tử cấp tính: Bệnh này thuộc về đi ngoài cấp tính nên không phải giới thiệu thêm. 64 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... + Bệnh di ngoài do viêm một Thường thấy ở bệnh ung thư kết tràng ruột, triệu chứng thường thấy là sự thay đổi về thói quen đi ngoài do ung thư kết tràng ruột bên phải, hơn nữa cũng có thể là biểu hiện lâm sàng xuất hiện lần đầu. Trong phân không thấy rõ máu hay mủ, nhưng triệu chứng rõ nhất là ra máu mạn tính hoặc thiếu máu. Ung thư ruột thừa thường dẫn đến việc sưng to. ưng thư kết tràng ruột thường có biểu hiện là tắc ruột hoặc đi ngoài nhiều lần. Ung thư trực tràng có biểu hiện chính là đi ngoài, thường thấy là đi ngoài ra máu và từ cấp tính dẫn đến bệnh nặng. + Đi ngoài có tính bùi tiết - Thải ra nhiều phân có dạng như nước, mỗi ngày số lần lại tăng lên. ' Áp lực thẩm thấu của phân hầu như đều do chất điện giải hình thành. - Thường không có dịch mủ - ít khi đau bụng - Sau khi ngừng ăn uống (kiêng ăn uống) vẫn bị đi ngoài. + Có tính truyền nhiễm Bao gồm dịch tả, đi ngoài do vi khuẩn ở ruột già, đi ngoài do ăn uống trúng độc cho nên bị phát bệnh cấp tính, một số sẽ có tính hạn chế, thông qua điều trị có thể khỏi hẳn, không thuộc phạm vi của bệnh đi ngoài mạn tính. 65 HÀ LINH + Không có tính láy lan: Có tính bài tiết hay thể dịch. - Loét tuyến tuy: Đặc điểm của bệnh là đi ngoài nghiêm trọng hoặc đi ngoài ra mỡ, là loại viêm loét không điển hình về vị trí. Hơn nữa sau khi làm phẫu thuật viêm loét sẽ xuất hiện triệu chứng tái phát rất nhanh, lượng acid trong dạ dày bài tiết ra rất cao. - Dịch tả tuyến tuy: Do đi ngoài với lượng nước lớn và sự mất đi của các chất điện giải, thường bị trúng độc do lượng kali quá thấp và sự trao đổi acid. - Các loại ung thư: Trong quá trình đau bụng, đi ngoài thể hiện ở cấp độ mạn tính. Khi ung thư di căn vào các cơ quan nội tạng như gan có thể xuất hiện những triệu chứng ung thư sau; Khi phát bệnh, có các biểu hiện như đỏ lên do có quá nhiều máu, có thể còn có màu tím cam. + Đi ngoài có tính thẩm thấu - Áp lực thẩm thấu của các chất trong khoang bụng tăng lên. - Trong phân có thể chứa các chất chưa được tiêu hóa hoặc chưa được phân giải hay một số chất lên men hoặc thối rữa trong ruột. - Sau khi ngừng ăn có thể khiến bệnh đi ngoài được thuyên giảm và có thể chữa khỏi. + Đi ngoài do rối loạn hấp thụ Đi ngoài này chỉ có việc tìm ra các chất có liên quan đến nguyên nhân gây bệnh thì lập tức có thể ngăn chặn đi ngoài L66 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... bằng cách không ăn loại ihức ăn ấy nữa, do đó biểu hiện lâm sàng không khó phân biệt lắm và cũng không cần đề cập nữa. + Đi ngoài do rối loạn chức năn^ vận chuyển ruột Triệu chứng do kết tràng ruột tạo ra: Mỗi ngày đi ngoài nhiều lần thường là sau khi ăn (đặc biệt là sau khi ăn sáng). Trong phân có thể có các chất dính kết, nhưng không có mủ, máu, có lúc đau bụng, phát tác nhiều lần, thường liên quan đến hoàn cảnh sống hoặc tinh thần, triệu chứng này thường xuất hiện ở các nữ thanh niên. + Triệu chứng cơ thể - Trướng bụng: Khí trong đường ruột tăng, một số đoạn bị tắc, các phần tử va đập vào nhau tạo thành âm thanh hỗn độn. Ngoài nước ở trong bụng ra, còn có đi ngoài dịch dưỡng ở người lớn. - Khối u: Đây là triệu chứng của chứng bệnh viêm nhiễm hay khối u, có thể di chuyển được là khối u ở ruột non của người. Những khối u do viêm nhiễm có chất dính nên khó di chuyển. - Kiểm tra hậu môn: Có thể kiểm tra bằng cách ấn xuống thấy đau và tiết ra các chất dịch kết dính hay máu lẫn mủ. Đây là sự biến đổi của viêm trực tràng hay viêm loét tràng ruột. Khi phát hiện khối u cứng mà có máu thì có thể là ung thư trực tràng. - Những biểu hiện: Những phát hiện do kiểm tra da, khớp, gan‘có thề trợ giúp cho việc chuẩn đoán bệnh. 67 HẢ LINH 6. Triệu chứng của bệnh táo bón mạn tính Từ 2 - 3 ngày hoặc 1 tuần mà không đi ngoài được; hoặc bụng đau, nhưng lại khó đi đại tiện, phải đi trong thời gian dài, hoặc không đi ra phân được. Nếu đi ra phân thì phân khô. Cũng có trường hợp do hậu môn bị rách mà phân có kèm theo máu, có trường hợp là dịch dính hỗn tạp, phân không cứng mà dính, không thoải mái. + Thế chứng Sờ tay lên bụng dưới thấy những khối cứng, những khối cứng này chính là phân và nước tiểu. + Chứng bệnh thường gặp - Bệnh quanh hậu môn: Những người bí tiện trong thời gian dài sẽ dẫn đến hậu môn bị rách, trĩ, làm cho hậu môn bị đau, đại tiện ra máu. - Viêm kết tràng có u thịt - Kết tràng khê thất. - Bệnh biến kết tràng sắc đen. Do trong thời gian dài uống thuốc chống tiêu chảy. II. CH ẨN Đ O Á N BỆNH 1. Chẩn đoán bệnh theo phương pháp Tây y 1.1. Cách chẩn đoán bệnh Thứ nhất là dựa vào chẩn đoán ban đầu của bác sĩ mà 68 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... đưa ra các cách kiểm tra để chứng thực bệnh. Chẩn đoán ban đầu của bác sĩ thường thông qua những gì thu được ở ba loại kiểm tra thông dụng nhất là xét nghiệm máu, phân, nước tiểu. Ngoài ra còn có thể hỏi qua về tình trạng bệnh. Thực ra, chẩn đoán của bác sĩ rất quan trọng, mức độ chất lượng chẩn đoán thường phản ánh trình độ y thuật của một bác sĩ, đồng thời người bệnh đưa ra chính xác được biểu hiện của bệnh lý, cũng có liên quan trực tiếp đến tính chính xác về chẩn đoán ban đầu, từ đó bác sĩ có thể đưa ra phương hướng kiểm tra chính xác. Vì vậy, khi khám bệnh cần cung cấp cho bác sĩ những tài liệu về bệnh lý một cách tường tận và chính xác. Nếu những triệu chứng đó có liên quan đến những chỗ kín thì cũng không nên ngại bác sĩ mà không nói ra. Căn cứ vào kết quả chẩn đoán, bác sĩ sẽ tiếp tục đưa ra những phương pháp kiểm tra đặc biệt. Thường là dễ trước khó sau, ban đầu là những phương pháp không gây đau đớn (như siêu âm, chụp X - quang đường tiêu hóa), sau đó mới tiến hành các phương pháp kiểm tra gây ra cảm giác đau đớn (nội soi, tạo ảnh động mạch). Thứ hai là một vài chẩn đoán giám định phân biệt các triệu chứng tiêu hóa như bệnh đường ruột, tuyến tụy, đại tràng... gây ra các triệu chứng tiêu hóa kém. Nếu không tính đến toàn bộ các nguyên nhân có khả năng gây bệnh, thì không thể chẩn đoán được chính xác nguyên nhân gây bệnh, vì thế việc chữa trị sẽ không được như ý. 69 HÀ LINH 1.2. Các phương pháp chẩn đoán + Soi dạ dày Phương pháp kiểm tra tốt nhất đối với bệnh loét cơ quan tiêu hóa và viêm dạ dày mạn tính là soi dạ dày cùng với kiểm tra bệnh lý các cơ quan ở dưới, nếu như không có nguyên nhân nào đặc biệt thì nên chọn cách soi dạ dày, cũng có thể áp đụng phương pháp kiểm tra đường tiêu hóa, tính chính xác của nó không bằng phương pháp soi dạ dày, và thời gian tiến hành kiểm tra so với nội soi dạ dày là lâu hơn. Ngoài ra, còn có một số ít bệnh viện dùng phương pháp siêu âm hoặc kiểm tra CT nhưng lại khá đắt, hơn nữa mức độ rõ ràng lại không bằng nội soi dạ dày. + Kiểm tra tổ chức bệnh lý Kiểm tra tổ chức bệnh lý trong chẩn đoán bệnh loét và viêm dạ dày mạn tính có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, loét tá tràng thường không có tai biến. Vì vậy bác sĩ nội soi dạ dày sau khi phát hiện thấy loét tá tràng, thì thường không làm kiểm tra tổ chức bệnh lý. Nhưng viêm dạ dày lại có khả năng chuyển thành ác tính. Mặc dù bác sĩ nội soi dạ dày có kinh nghiệm, căn cứ vào độ to nhỏ của chỗ loét dạ dày, hình dạng chỗ loét... để giám định phân biệt viêm dạ dày lành tính, ác tính. Đây vẫn là một vấn đề mà các bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa trên toàn thế giới đang nghiên cứu thảo luận. Kiểm tra sản phẩm tổ chức bệnh lý là một trong những phương pháp khám bệnh phân biệt quan trọng. 70 L BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... Bằng việc kiểm tra có thể biết có bị khô niêm mạc dạ dày hay không và mức độ ra sao... Kiểm tra sản phẩm tổ chức là thông qua việc tiến hành nội soi dạ dày. Căn cứ vào những phán đoán mức độ bệnh, lấy 2 - 6 tổ chức bệnh lý làm vật xét nghiệm. Bình thường, những người làm kiểm tra nội soi dạ dày cho rằng cơ bản là lành tính, nếu nghi ngờ có khả năng bệnh chuyển thành ác tính, thì phải cần lấy 4 - 6 tổ chức bệnh lý để kiểm tra số lần kiểm tra' nhiều thì khả năng sai sót trong chẩn đoán sẽ ít, sau đó xác định tính chất vật xét nghiệm qua kính hiển vi. + Kiểm tra HP môn vị Kiểm tra nhiễm HP, cách xét nghiệm nhanh nước tiểu, phương pháp nhuộm màu, phương pháp phản ứng chất xúc tác hỗn hợp (PCR) phương pháp nuôi cấy vi khuẩn, phương pháp kiểm tra kháng thể huyết thanh, phương pháp phóng xạ '"'c hoặc ‘^C... Phương pháp xét nghiệm nhanh nước tiểu, phương pháp đo lường, xác định miễn dịch hấp thụ gần chất xúc tác có liên quan, nuôi cấy vi khuẩn nhất thiết phải thông qua việc kiểm tra.nội soi dạ dày để lấy ra tiêu bản niêm mạc dạ dày mới có thể tiến hành thử nghiệm như trên, phương pháp này mang tính gây tổn thương. Phương pháp xét nghiệm nhanh nước tiểu: Cách này là cách đơn giản nhất, nó lợi dụng trong khuẩn thể HP có chứa khá nhiều loại dịch này có thể chuyển hóa urê trong 71 HÀ LINH dạ dày thành amoniac và CO2 Amoniac là dạng vật chất có tính kiềm, có thể khiến phenol phthalein chuyển sang màu hồng, khi thao lác chỉ cần lấy 1 - 2 tổ chức niêm mạc dạ dày cho vào hộp thí nghiệm chứa urê và phenol phthalein, 5-10 phút sau căn cứ vào màu sắc có biến đổi hay không để đưa ra được kết quả phán đoán. Do thao tác đơn giản, kết quả trực quan nên phương pháp này được sử dụng rộng rãi. Nhưng hạn chế của phương pháp này là trong niêm mạc dạ dày còn có chứa vi khuẩn của dịch urê, vì vậy bản thí nghiệm có thể là dương tính giả. + Kiểm tra phần mô và nuôi cấy vi khuẩn Nuôi cấy vi khuẩn là sử dụng tổ chức sản phẩm kiểm tra tiến hành nuôi dưỡng HP. Hai phương pháp này tuy có giá trị chẩn đoán đáng tin cậy, nhưng phương pháp kiểm tra khá phức tạp, đặc biệt là việc nuôi cấy vi khuẩn lại càng khó như khuẩn hình que có trong niêm mạc dạ dày không chỉ có một loại HP. Vì vậy, hai phương pháp này có một số cho kết quả dương tính giả. + Phương pháp tổ hợp phản ứng chất xúc tác mạnh (PCR) Các phương pháp kiểm tra mới đang được phát triển trong vòng 10 - 20 nãm trở lại đây. Tỷ lệ hiệu quả kiểm tra đối với HP rất cao, nội dung phương pháp PCR có thể tăng số lượng kiểm tra lên gấp triệu lần. Vì vậy, trên Iv thuyết, chỉ cần một DNA của vi khuẩn tổn tại có thể dùng phương pháp PCR để kiểm tra. Đồng thời áp dụng phương pháp PCR 72 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... còn có thể ít nhiều đưa ra được phán đoán đối với HP độc tính. Nhưng do phương pháp PCR quá mẫn cảm, vì vậy tỷ lệ dương tính giả cũng tăng cao. Ngoài ra. Phương pháp PCR cần có máy móc cùng với thao tác kỹ thuật và điều kiện thao tác, nên phạm vi ứng dụng của nó cũng bị hạn chế. + Kiểm tra huyết thanh Cũng là một phương pháp kiểm tra khá hiệu quả, chỉ cần kiểm định xem trong máu người bệnh có tồn tại kháng thể kháng lại HP không, nếu kháng thể là dương tính, mà không trải qua điều trị kháng HP thì nên nhận định rằng bệnh nhân đã nhiễm HP. Vì không qua điều trị, HP trong dạ dày thông thường không thể tự biến mất, nhưng do sau khi vi khuẩn mất đi, kháng thể huyết thanh còn có thể tồn tại trong một khoảng thời gian dài. Vì vậy kiểm tra huyết thanh cơ bản không thể dùng vào việc phúc tra lại hiệu quả sau khi chữa trị. + Thử nghiệm các hạt khí có tính phóng xạ Cũng là áp dụng đặc tính HP có thể phân giải urè để thí nghiệm đối với người bệnh. Phương pháp này không gây đau đớn mà lại đơn giản, nên dễ được tiếp nhận. Phương pháp có thể dùng vào việc chẩn đoán nhiễm HP, lại có thể dùng để phán đoán kết quả chữa trị HP. Hơn nữa mức độ tin tưởng vào kết quả kiểm tra cũng rất cao. Nhưng đối với những người trực tiếp làm kiểm tra có hai hạn chế: Thứ nhất phải có máy móc, thứ hai là các hạt phóng xạ bị ô 73 HÀ LINH nhiễm, trong đó ‘’c tuy không có hạt phóng xạ nào ô nhiễm, nhưng kiểm tra bằng máy móc khá tốn kém mà trình độ phổ cập tương đối thấp. + Xét nghiệm phân và nước tiểu HP sống ký sinh trên niêm mạc dạ dày, do sự thay đổi liên tục của các tế bào trong niêm mạc dạ dày, HP cũng theo những tế bào chết đó đi xuống ruột. Vì thế phương pháp xét nghiệm HP trong phân và nước tiểu đã được đưa ra, phương pháp này có ưu điểm dễ dàng thu được mẫu, tốc độ nhanh, có triển vọng ứng dụng. + Kiểm tra đặc biệt Sự hóa sinh ruột có liên quan đến sự phát sinh ung thư dạ dằy. Sự hóa sinh ruột có những loại hình không giống nhau, có một số loại hình có quan hệ tương đối mật thiết với ung thư dạ dày? Vì thế, khi kiểm tra dạ dày, nếu sản phẩm kiểm tra bệnh lý cho thấy có sự hóa sinh ruột, tốt nhất nên tiến hành phân loại, ở một số bệnh viện đã tiến hành phân chia loại hình hóa sinh ruột. Trong các báo cáo về bệnh lý mà họ viết có một số miêu tả tương đối đặc biệt, căn cứ theo sự hóa sinh ruột, phân ra thành các tính năng hoàn toàn và không hoàn toàn. Căn cứ theo đặc điểm của sự hóa sinh ruột, phân ra thành loại hình ruột già và loại hình ruột non. Hai bộ phận này sau khi tổ hợp lại, hợp thành loại hình ruột non không hoàn toàn, loại hình ruột già không hoàn toàn. Đối với bệnh lý sau khi tổ chức 74 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP.,. nhuộm màu. Kết quả nhuộm màu không giống nhau biểu thị hàm ý không giống nhau, như AB (+) biểu thị có hóa sinh ruột, (-) là không có hóa sinh, PAS (+) biểu thị tính không hoàn toàn, (-) biểu thị tính hoàn toàn, HID (+) biểu thị loại hình ruột già, (-) là loại hình ruột non. Bốn loại hình kể trên do một vài dấu hiệu tổ chức sau biểu thị: Loại hình ruột non không hoàn toàn: AB (+), PAS (+), AB (+), HID (-). Loại hình ruột già không hoàn toàn: AB (+), PAS (+), AB (+), HID (+). Loại hình ruột non hoàn toàn: AB (+), PAS (-), AB (+), HID (-). Loại hình ruột già hoàn toàn: AB (+), PAS (-), AB (+), HID (+). Ngoài ra, còn cần làm kiểm tra các tổ chức miễn dịch hóa học đối với các loại hình hóa sinh ruột có quan hệ tương đối mật thiết với ung thư dạ dày. Từ đó quan sát khuynh hướng phát triển u củá hóa sinh ruột. Những kiểm tra này không phải bệnh viện nào cũng có, trước khi kiểm tra người bệnh nên tìm hiểu kỹ. Hiện nay có người thấy dương tính (+) thì sợ, dường như bác sĩ vừa nói dương tính, thì chính là đại danh từ của ung thư. Kỳ thực thì không phải như vậy, ví dụ như trong báo cáo về dạ dày có HP (+), điều này chỉ cho thấy rằng người bệnh nhiễm khuẩn hình que ở môn vị, một chuỗi các dấu hiệu (+) ở trên, cũng chỉ 75 HÀ LINH là dùng để phân loại kết quả nhiễm sắc nào đấy của hóa sinh ruột mà thôi, vì thế không cần phải quá lo lắng. 1.3. Phán đoán kết quả kiểm tra + Kiểm tra dạ dày Kiểm tra dạ dày là thao tác của người trực tiếp dùng mắt thường tiến hành quan sát đối với người nhiễm bệnh. VI thế kết quả kiểm tra khá chính xác. Phương pháp kiểm tra này được ứng dụng rộng rãi. Ngày nay sự kiểm tra dạ dày phần lớn đưa vào máy vi tính, nên ảnh của máy vi tính về dạ dày có thể điều chỉnh to nhỏ, hơn nữa máy vi tính hiển thị hình ảnh dáy dạ dày trên màn hình nên nhiều người có thể cùng quan sát, giảm đi thao tác đem lại những phán đoán chủ quan. Sự kiểm tra dạ dày cũng có tính hạn chế nhất định, tuy sự thông thạo kỹ thuật của người thao tác và khả năng phán đoán qua ảnh của người quan sát, sự xác nhận đối với các hình ảnh điển hình thì không có vấn đề gì. Nhưng đối với một số bệnh ít gặp hoặc các ổ bệnh quá nhỏ thì sự trắc nghiệm ban đầu dễ dàng nhầm lẫn, những người đi sau có thể dễ dàng quên sót. Ngoài ra kiểm tra dạ dày chỉ có thể nhìn thấy sự thay đổi bệnh ở niêm mạc dạ dày, nhưng đối với sự biến đổi bệnh dưới niêm mạc thì không thể phán đoán, khi đó phải siêu âm dạ dày, chụp X-quang (đường tiêu hóa trên) đối với sự biến đổi bệnh lý của niêm mạc dạ dày. 76 L BỆNH DA DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... + Kiểm tru sún phẩm tổ chức hệiìlì lý Cho dù chúng ta có lấy kết quả kiểm tra bệnh lý làm “tiêu chuẩn vàng” đi chăng nữa. Nhưng đối với việc kiểm tra bệnh lý phán đoán chính xác của hình ảnh trông thấy cũng là một điểm khó. Giống với kiểm tra dạ dày, hình ảnh thay đổi bệnh lý điển hình cũng không khó phán đoán. Nhưng đối với những hình ảnh có sự nghi ngờ về phán đoán thì lại là một đề tài khó. + Sự kiểm định HP Một bác sĩ khi làm kiểm tra HP, thường thường đồng thời sử dụng cả hai phương pháp trên đc tiến hành kiểm định HP, nếu cả hai phương pháp đều cho kết quả dương tính, thì nhiễm HP có khả năng là chẩn đoán đúng. Nếu trong hai phương pháp chỉ cho một kết quả dương tính, phải dùng phương pháp khác để kiểm tra phụ lại, để có thể khẳng định hoặc phủ định. Cũng có thể căn cứ theo bệnh tật của bệnh nhân để tổng hợp suy xét, nếu người bệnh bị viêm dạ dày mạn tính, chỉ có một phương pháp cho kết quả dương tính HP. Cũng có thể làm người bệnh HP dương tính tiến hành điều trị để chữa trị tận gốc HP. + Kiểm tra miễn dịch hoặc kiểm tra chất xúc tác nhuộm sắc Kết quả của loại kiểm tra này chỉ đưa ra một loại hình khả năng có tính khuynh hướng. Cho dù loại u nào đó cho dấu hiệu dương tính, cũng không nói rõ là u bướu. Tiến hành loại kiểm tra này ngoài một nghiên cứu thảo luận 77 HÀ LINH khuynh hướng phát triển của bệnh có thể tạo ra một căn cứ phán đoán đầy đủ và hiệu quả của việc chữa trị sau này. 2. Chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác ơ trên đã nói qua, triệu chứng và bệnh có thế không đi liền với nhau. Vì thế cho dù đã phát hiện ra viêm dạ dày mạn tính hoặc loét dạ dày, cũng không nên nghĩ rằng chẩn đoán như vậy là đã đúng. Nếu điều kiện cho phép, nên tiến hành kiểm tra chức năng gan, đối với hệ thống gan, đường mật, tuyến tụy... cũng nên sử dụng siêu âm kiểm tra. Chúng tôi đã từng gặp một bệnh nhân, anh ta đại tiện ra phân đen 2 - 3 ngày, sau khi kiểm tra dạ dày phát hiện tá tràng có một chỗ loét lớn nhưng biểu hiện trên chỗ loét lại không có máu tươi và vảy máu. Nên nguyên nhân gây ra phân đen không phải do tá tràng bị loét. Ngoài chỗ .loát, người ta còn phát hiện trên niêm mạc dạ dày có một điểm xuất huyết rõ rệt. Vì thế nguyên nhân gây bệnh thực sự có thể là sự biến đổi bệnh niêm mạc dạ dày cấp tính. 2.1. Bệnh tiểu đường Không ít bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường có cảm giác chướng bụng. Số bệnh nhàn này được phát hiện là mắc bệnh tiểu đường, không phải là đo uống nhiều, ăn nhiều, đi tiểu nhiều, thể trọng giảm sút, mà có cảm giác bụng trướng. Khi kiểm tra lượng đường trong máu mới biết nguyên nhân gây trướng bụng là do bệnh biến đưòng vì thế làm trắc nghiệm đường trong máu và lượng đường trong nước tiểu là rất cần thiết. 78 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... 2.2. Viêm tuyến tụy mạn tính Viêm tuyến tụy fnạn tính không phải hoàn toàn là sự biến đổi trực tiếp từ viêm tuyến tụy cấp tính sang. Nó có quan hệ tới các loại nhân tố của cơ thể con người như sự miễn dịch bất thường... Thời kỳ đầu của viêm tuyến tụy mạn tính. Cho dù là đã có sự phá hoại tế bào tuyến tụy, nhưng tuyến tụy tồn tại một cơ chế thay thế chức năng, đối với sự tổn hại tuyến tụy trong một phạm vi nhất định. Nó có thể thay thế chức năng của cơ chế bổ khuyết. Vì thế nó không tạo thành sự tiêu hóa không tốt và bệnh tiểu đường ở người bệnh nhưng đến thời kỳ giữa hay cuối tế bào tuyến tụy bị phá hoại quá nhiều, vượt qua cả thời gian phạm vi thay thế của nó. Tuyến tụy mất đi chức nãng làm thay đổi các men tiêu hóa và insulin... mà tuyến tụy tiết ra không đủ duy trì chức năng bình thường của cơ thể, có thể do tiêu hóa kém..., xuất hiện sự trướng bụng, tiêu chảy, thậm chí còn có triệu chứng đau bụng. Lúc đó, ngoài việc chức năng bài tiết của tuyến tụy bị hạ thấp ra. Ngoại hình của tuyến tụy và hình dạng của ống tụy... cũng có sự thay đổi. Căn cứ theo những sự thay đổi nói trên, trên lâm sàng có thể áp dụng các phương pháp như siêu âm, CT, tạo ảnh đi ngược chiều ống mật tụy (ERCP) hoặc tạo ảnh ống tụy mật cộng hưởng từ (MRCP)... để chẩn đoán chính xác. 2.3. Viêm gan mạn tính Viêm gan mạn tính thường thường có các triệu chứng mệt mỏi, hết sức lực, vàng mắt, sốt, nôn mửa... rất dễ phát 79 HÀ LINH hiện. Nhưng có một số loại hình viêm gan, như viêm gan B, biểu hiện lâm sàng của nó lại không kịch liệt mạnh mẽ, không bị vàng mắt, sốt, sự mệt mỏi mất sức cũng không biểu hiện rõ ràng, có thể chỉ có biểu hiện là trướng bụng mà thôi. Những triệu chứng nhỏ bé này có lúc sẽ bị bỏ qua, nhưng khi lao động mệt sẽ lại xuất hiện nhiều lần. Vì thế trướng bụng nhiều lần không khỏi, có thể đi kiểm tra chức năng gan. 3. Chẩn đoán bệnh theo phưong pháp Đông y - phương pháp kiểm tra vọng thiệt 3.1. Thế nào là vọng thiệt chẩn bệnh ? Vọng thiệt chính là xem lưỡi, quan sát lưỡi. Vọng thiệt chẩn bệnh đã có hơn mấy ngàn năm lịch sử. Thực tiễn chứng minh nó là một phương pháp tương đối tốt trong Đông y. Đối với Tây y, phương pháp này cũng có giá trị nhất định. Lưỡi là khí quan của hệ thống tiêu hóa cho nên bệnh về đường tiêu hóa thường phản ánh ở lưỡi. Khi khám lưỡi phải tiến hành một cách tự nhiên. Bệnh nhân phối hợp tự nhiên, đưa đầu lưỡi ra trước sau đó xem các biểu hiện của lưỡi. Lưỡi bình thường có màu hồng, ướt, hoạt động tự nhiên khi bị bệnh lưỡi sẽ biến sắc. Lưỡi màu trắng nhạt: Phần lớn là huyết hư hoặc khí huyết lưỡi hư hoặc âm hư lưỡi có màu đỏ phần nhiều là nóng. Màu đỏ tía: Đậm hơn màu đỏ, thường thấy với người bệnh khi nhiệt cao. Hình thái của 80 BỆNH DẠ DÀY ở NGƯỜI GIÀ, PHƯƠNG PHÁP... lưỡi: Thân lưỡi lo, bên lưỡi có vết răng phần lớn là bổ tỳ thận dương dư, biếu hiện tiêu hóa không tốt. Thân lưỡi nhỏ nhưng rộng, lưỡi màu trắng nhạt là do khí huyết không đủ, nếu lưỡi phổng có màu đỏ tía, là do dương hư hảo vương, lưỡi khô có vệt vằn là do nhiệt phát. 3.2. Phổi hợp kiểm tra hộ phận bụng Bác sĩ đối với kiểm tra bộ phận bụng là kiểm tra toàn bộ các bộ phận quan trọng toàn thân. Đối với các bệnh về tiêu hóa, đặc biệt là dạ dày mà nói nó là một phương diện trọng yếu - phương pháp chẩn đoán thực nghiệm không thể thiếu của bác sĩ làm chẩn đoán. Đối với kiểm tra bộ phận này gồm có. Nhìn để chẩn đoán, sờ để chẩn đoán, nghe để chẩn đoán và gõ để chẩn đoán. Đối với nhìn, phải quan sát hình dạng bên ngoài của bộ phận bụng. Đối với sờ để chẩn đoán dùng tay sờ lên vị trí bên ngoài của bụng. Đối với gõ để chẩn đoán là dùng tay gõ lên phần bụng để nghe tiếp. Đối với nghe bệnh cũng thông qua nghe âm của các cơ quan để chẩn đoán. Bác sĩ có kinh nghiệm lâu năm qua các khâu kiểm tra có thể đưa ra chẩn đoán sơ bô. 81 Cìuứyng ha PHÒNG VÀ TRỊ CÁC BỆNH DẠ DÀY THƯỜNG g Ặp I. CHỮA TRỊ THEO PHƯƠNG PHÁP TÂY Y Niêm mạc dạ dày của con người có tốc độ đổi mới rất nhanh. Các tư liệu nghiên cứu cho thấy, trong khoảng thời gian hai ngày, niêm mạc dạ dày có thể đổi mới một lần. Đó là vì niêm mạc dạ dày phải tiếp xúc với lượng lớn thức ãn và nước uống có chất độc hại, mất vệ sinh. Cùng với việc nghiền nát thức ăn, niêm mạc dạ dày bị tổn thương rất lớn, chỉ có thông qua quá trình đổi mới tốc độ nhanh thì mới duy trì được sự hoàn chỉnh của niêm mạc dạ dày. Như đã nói ở phần trên dạ dày của một người bất kỳ dù ít dù nhiều đều bị viêm. Đối với bệnh viêm này, cách nhìn của giới học thuật phương Đông là giống nhau. Khi học giả phương Đông tiến hành kiểm tra dạ dày với những người có triệu chứng, nếu phát hiện thấy có bị loét đường tiêu hóa thì kết luận là bị viêm dạ dày. Nếu không bị loét hay hầu như không có 82