🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bên lề chính sử
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin ebook
Tên sách: Bên lề chính sử
Tác giả: Đinh Công Vĩ
Thể loại: History
Tạo và hiệu chỉnh ebook: Hoàng Nghĩa Hạnh Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
1. GIA PHẢ BỔ SUNG LÀM MINH XÁC CHÍNH SỬ
1. GIA PHẢ, TƯ CÁCH CỦA SỰ BỔ SUNG :
Phải thừa nhận rằng không ít những cuốn gia phả có nhược điểm chủ quan, phiến diện, sửa chữa, thêm vào những cái tốt của dòng họ, tổ tiên mình, giấu bớt những mặt xấu... Bên cạnh thuần phong mỹ tục, gia phả cũng có khi truyền bá những hủ tục, những tư tưởng địa phương cục bộ, bảo thủ, những thứ mà ở một nước Đông phương thời phong kiến như Việt Nam khó tránh khỏi. Song, nếu so với chính sử thì vẫn nổi bật tính ưu việt của gia phả. Chính sử số lượng ít hơn. Nếu chính sử là tiếng nói quan phương, có vẻ đơn nhất, cố định hơn thì gia phả số lượng nhiều hơn. Tiếng nói của gia phả là tiếng nói đa diện, sinh động hơn, đi đến công bằng hơn. Không phải ngẫu nhiên, nhiều cuốn phả họ Nguyễn như Nguyễn Phúc tộc phả ở Huế, hoặc cuốn phả dòng họ nhà thơ Ôn Như Hầu ở miền Bắc... xa nhau mà trùng hợp nhau, công nhận Nguyễn Kim là con Nguyễn Văn Lưu chứ không phải là con Nguyễn Hoằng Dụ như chính sử đã viết. Ý kiến số đông, tự nhiên trùng hợp ấy đem lại cho ta những thông tin hợp lý, đính chính sai sót của chính sử.
Gia phả là văn bản thể hiện sự tự do, tự nhiên hơn so với chính sử vì nó, không đến nỗi "gần lửa rát mặt", không phụ thuộc vào ý chí bọn quyền chức vương triều. Nó có thể viết những điều chính sử kiêng kị, không dám viết. Bởi vì, xưa kia "phép vua thua lệ làng", đ̐ộ phận gia phả nằm ở làng quê, động vào đấy triều đình trung ương sẽ phải đối phó với hàng loạt tục lệ phức tạp. Gia phả số đông nằm ở làng, nhưng làng Việt trong hoàn cảnh Đông phương lại là cái kho vĩ đại chứa tích và bảo lưu vững chắc nhất nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. Vậy gia phả thành tấm gương khá đầy đủ của nền. văn minh, văn hoá Việt cổ, với tất cả những lệ tục, những bí mật sau luỹ tre xanh có quan hệ thiết yếu đến cuộc sống hiện tại mà chúng ta đang rất cần khai thác. Chẳng hạn, nước ta có rất nhiều ngành nghề gắn với những bí truyền được lưu hành trên gia phả. Như ba phái võ Tây Sơn ở miền Trung của các họ Trần (Trần Quang Diệu), Bùi (Bùi Thị Xuân), Hồ (môn phái chính của ba anh em Nguyễn Huệ) từng bí truyền trên gia phả, trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam thời nay.
Còn có nhiều nghề khác gắn với gia phả dòng họ như nghề làm lược gắn với gia phả họ Nhữ, nghề làm giấy gắn với gia phả họ Nguyễn Cảnh, nghề làm thuốc gắn với gia phả họ Trịnh, họ Lê Hữu...
Nước ta từng có những nhà tiên tri kiệt xuất như mẹ con Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phùng Khắc Khoan... Năng lực dự báo tuyệt vời và những sấm truyền của các vị còn được thể hiện trên Nguyễn công Văn Đạt phổ ký và những cuốn gia phả khác. Song đến nay, việc xác định văn bản gốc ở đấy, thật giả thế nào, còn là vấn đề huyền bí. Gia phả còn là một kho tàng mênh mông, chứa đựng tiềm tàng những tri thức nhiều mặt về hôn nhân gia đình, phong thổ, về kinh tế, về thiên văn, địa lý, phương thuật, đạo đức học, thậm chí cả những vấn đề liên quan đến quốc phòng, đến tài nguyên đất nước...
Chẳng hạn như cuốn Dương tộc thế phả của họ Dương ở làng Lạt Sơn thuộc tổng Quyển Sơn, huyện Kim Bảng (tên cũ) thuộc tỉnh Hà Nam chỉ với 20 trang (từ trang 161 đến 181) đã chứa đựng bao nhiêu tri thức, phản ánh bao nhiêu vấn đề quan trọng về vị tại địa lý, về hình thể đất đai, diện tích, về nông sản hàng năm thu hoạch với những số liệu rất cụ thể, về tài nguyên, lâm, khoáng sản (như đá vôi, xi măng, mỏ vàng, mỏ than, các loại gạch), về ngư sản, về săn bắn, về chăn nuôi, về dân cư, về hội hè đình đám, về tôn giáo (như Phật, Thiên Chúa)... thật là bách khoa nhiều mặt mà chính sử không thể chứa đựng hết. Chứng tỏ gia phả xứng đáng bổ sung cho chính sử.
2. CÒN CHÍNH SỬ THẾ NÀO, CÓ CẦN BỔ SUNG KHÔNG?
Ở Việt Nam, chính sử (sử nhà nước) càng phải bổ sung cấp thiết. Bởi vì không gì mà không cần cẩn thận: Một bộ sử hiện còn, có nhiều mặt đạt đến mức tín sử của vương triều như Đại Việt sử kí toàn thư, từng qua tay các sử bút già dặn, trang nghiêm của nhiều đời như Ngô Sỹ Liên, Phạm Công Trứ, Lê Hy, Nguyễn Quý Đức... mà nay vấn đề lại những sai lầm cơ bản chưa được tiền nhân sửa chữa. Chẳng hạn như, lầm cho những thuyền lương của Trương Văn Hổ bị quân Trần Hưng Đạo đánh đắm ở sông Bạch Đằng "gác lên cọc nghiêng đắm gần hết" mà thật ra những thuyền ấy đã bị tướng Trần Khánh Dư tiêu diệt ở Vân Đồn - Cửa Lục... Bởi vì khác với Trung Quốc, ở Việt Nam thời phong kiến chưa có một khoa khảo chứng học xứng đáng để khảo chứng các tác phẩm sử học. Cũng bởi vì bốn nguyên nhân sau (xét về bản thân chính sử ):
1. Ở Việt Nam những nhà sử học có tư cách như Nam Sử Thị, như Đổng Hồ, dám hy sinh vì chân lý khó tìm. Các sử thần thủa ấy phụ thuộc vào kẻ cầm quyền, có nhiều khi vì sợ hay vì đời sống và những lý do tế nhị khác mà "ăn cây nào rào cây ấy", thêm người này, bớt người kia, nên đánh giá nhân vật lịch sử không phải lúc nào cũng công minh. Có những vua chúa phong kiến lại can thiệp quá sâu vào sử sách, bắt sử gia chép theo ý mình, làm sự thực bị méo mó: Như trường hợp Lê Thánh Tông bắt Lê Nghĩa phải dâng "Nhật Lịch". Chính sử nhà Lê bị khống chế không thể nào nêu rõ các vụ án công
thần khai quốc thời đầu Lê. Ngay Lê Thánh Tông có xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi cũng chưa triệt để đi đến tận cùng để phơi bầy ra những thủ phạm thật sự của thảm án Lệ Chi Viên gắn bó thiết thân với bọn tai to mặt lớn thời ấy. Chính sử nhà Nguyễn cũng bị khống chế, phải bóp méo về nhà Tây Sơn, không thực sự làm rõ các vụ án công thần Đỗ Thanh Nhân, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Đặng Trần Thường, Lê Chất... có quan hệ sâu sắc với những kẻ cầm quyền thời bấy giờ như Gia Long, Minh Mạng. Chính sử các triều đại nhìn chung không nói đủ, nói đúng về các cuộc vùng dậy của nhân dân chống cường quyền.
2. Ở Việt Nam sử sách bị tam sao thất bản, vì chiến tranh và khốc liệt, tai hại nhất là vì chính sách đồng hoá, thu thập, huỷ hoại sách vở của các vương triều phương Bắc (nhất là nhà Minh). Vì dâu bể thời gian, thiên nhiên nhiệt đới gió mùa khắc nghiệt - Chính sử vì thế phải chung số phận.
3. Về cách ghi chép: Chính sử phần lớn viết theo thể "biên niên" hoặc "cương mục", tức là biên chép theo niên đại đi vào đại cương nên các sự kiện lịch sử ghi chép sơ lược. Trong khi đó, thể "kỷ truyện" ghi chép có đầu có cuối đầy đủ hơn lại chỉ tập trung vào một số tác giả như Lê Trắc, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú... thôi.
4. Về nội dung: Chính sử chỉ thiên về ghi chép sự hưng vong tan hợp của các triều đại vua quan chính thống, đi vào những mặt chung nhiều hơn mặt riêng. Nhưng đời sống nhân dân và nhiều mặt quan trọng khác quan hệ đến quốc kế dân sinh, bí mật quốc gia bị bỏ trống...
Chính sử cần bổ sung còn vì quan hệ thể loại giữa chính sử với gia phả (xét mối tương tác nội bộ các ngành khoa học với nhau): ở Tây phương, trong cuốn Lịch sử là gì, N.A.E.Rêpheep cho rằng: "Gia hệ (cách gọi khác của gia phả) là một trong những bộ phận của chuyên ngành lịch sử. Ở Đông phương như ở Trung Hoa, trong các phần "Kinh tịch chí”, "Văn nghệ chí”, "Thư mục", ở các sách nổi tiếng thời xưa như Tuỳ thư, Đường thư, Tống sử, Minh sử.. đều thống nhất xếp gia phả (còn gọi là "Ngọc phả", “Phả hệ", "Phả điệp") vào bộ sử (thuộc một trong bốn bộ Kinh, Sử, Tử, Tập). Ở Việt Nam có các ngọc phả hoàng tộc (như Hoàng triều ngọc điệp đời Lý, Hoàng tông ngọc điệp đời Trần), Lê Quý Đôn đều xếp cả vào "Hiến chương loại", một trong những loại sách quan trọng của sử tịch Đông phương. Vậy quan hệ giữa gia phả với chính sử là quan hệ giữa những thể loại khác nhau thuộc bộ môn sử: Đó là quan hệ nội bộ, tất yếu phải bổ sung cho nhau.
3. KHI NÀO CÓ QUAN HỆ BỔ SUNG ẤY?
Hẳn là phải có mặt cả hai thể loại chính sử - gia phả tương ứng với nhau. Ở Trung Hoa, từ các đời Hạ, Thương, Chu đã có sử quan, tức là manh nha đã có chính sử. Gia phả của Trung Hoa bắt nguồn từ chế độ tông pháp của Chu Công Đán (em Võ Vương nhà Chu) với cuốn sách đầu tiên gọi là Thế bản. Cuốn Tả Thị Xuân Thu của Tả Khâu Minh ghi chép từng thế hệ dòng họ đế vương là sử, mà thực chất là gia phả hoàng tộc. Thời Tấn với việc thực hành chế độ "Cửu phẩm trung chính", với sự phát đạt của chế độ môn phiệt, bọn hào lý đều muốn phát huy huyết thống nên chú ý khuyến khích người viết về truyền thống các dòng họ. Đời Đường còn giữ Tuỳ chí ghi chép các thế hệ gia phả các thị tộc tất cả 40 loại 360 quyển, gộp cả những ấy giờ đã thất lạc là 1.280 quyển, phần lớn được soạn vào thời Nguỵ-Tấn Nam Bắc Triều. Nhưng phải mãi đến đời Tống, thuật ngữ "gia phả" mới thật xuất hiện lần đầu với cuốn Thần liêu ngọc phả của nhà sử học Tư Mã Quang, tương đương với thời đầu nhà Lý ở Việt Nam. Trước thời Lý khó tra khảo, nhưng rõ ràng thời Lý ở nước ta, sách vở đã nhắc tới Sử ký của Đỗ Thiện. Trong Đại Việt thông sử, phần đầu "Nghệ văn chí", Lê Quý Đôn đã cho biết: Đời Lý Thái Tổ năm thứ 17 (1026), ở nước ta đã xuất hiện cuốn gia phả hoàng tộc: Hoàng triều ngọc điệp. Cho nên, ở Việt Nam từ đời Lý trở đi, trong chiều hướng phát triển của sử học và gia phả học Đông phương (tiêu biểu là Trung Hoa), việc bổ sung cho chính sử của gia phả đã chính thức ra đời.
4. CÁC NHÀ KHOA HỌC NƯỚC TA ĐÃ LÀM ĐƯỢC NHỮNG Gì TRONG VIỆC BỔ SUNG ẤY?
Theo chúng tôi, trước khó tra cứu, tạm xem xét từ thời Lê Quý Đôn (thế kỷ 18) trở lại đây thì thấy các vị đã làm được một số việc như sau:
1. Bổ sung về kinh tế :
Thời xưa, Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, "Chế độ bổng lộc" đã căn cứ vào gia phả nhà Nguyễn Công Duẩn do người cắt xa đời ông nay cho xem mà biết để đưa ra một thông tin không có ở chính sử là : triều đình Lê sơ ngay cả khi cấp lộc điền cho công thần vẫn bảo vệ ruộng công, chỉ cấp ruộng tuyệt tự và ruộng hoang. Chế độ lộc điền đời Lê sơ do vậy chỉ có tên mà không có thực...
Thời nay, Nguyễn Hồng Mao trong bài viết "Bước đầu tìm hiểu thương nghiệp thế kỷ 10" đã căn cứ vào "Ngọc phả" đ̓ Đinh với truyền thuyết vùng Bảo Thái (nay thuộc xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) để bổ sung cho vấn đề tài chính tiền tệ triều Đinh mà chính sử không nhắc tới. Ngọc phả cho biết : Khi lên làm vua, Đinh Tiên Hoàng về thăm vùng này
truyền xây đền thờ, khi làm xong cho 6 hốt vàng để mua ruộng làm hương hoả phụng thờ... Thần phả vùng Bảo Thái kể Đinh Điền và Đinh Bang về thăm nhà được vua Đinh ban cho 50 lạng vàng. Nguyễn Hồng Mao từ đó cho thấy: vàng bạc thế kỷ 10 đã qui định thành những đơn vị như lạng, hốt, nên có giá trị như một loại tiền, góp phần lưu thông hàng hoá ...
2. Bổ sung về văn hoá gồm :
Về thi cử : trong Kiến văn tiểu lục, "Chế độ khoa cử", Lê Quý Đôn căn cứ vào gia phả nhà quan Tư không Nguyễn Danh Thế mà đưa ra được những nét không có trong chính sử : "Khoa Giáp Ngọ (1594) thi hương trường Sơn Nam, lấy đỗ 84 người và tên ông đứng thứ 19"... Về luật pháp: Trong tác phẩm: Nguyễn Huệ - Phú Xuân, Lê Văn Hảo căn cứ vào gia phả họ Lê mà biết được cuốn hình thư đời Tây Sơn do Thượng Thư bộ Hình Lê Công Miến soạn. Trong lúc chính sử phong kiến còn mờ mịt về luật Tây Sơn, thì đây là một thông tin quý. Về y học: Y học các triều đại, đặc biệt là triều Tây Sơn đến nay vẫn còn là một chấm hỏi mà chính sử chưa minh giải được rõ ràng. Lê Trần Đức đã căn cứ vào cuốn gia phả họ Nguyễn do cụ Nguyễn Minh Cau, cháu 8 đời của Nguyễn Hoành cất giữ mà cho người đọc sử thấy: Dưới thời Tây Sơn, người lãnh đạo Y tế là Nguyễn Hoành, người Thanh Hoá. Ông Hoành cùng hai con tham gia phong trào Tây Sơn được Quang Trung giao cho tổ chức cục Nam dược, tập hợp các nhà y học nghiên cứu thuốc Nam, biên soạn quyển Nam dược, trình bầy 500 vị thuốc. Ba cha con ông bị quân Nguyễn Ánh ở Thanh Hoá bắt giết...
3. Bổ sung về đời tư nhân vật lịch sử :
Chính sử, nhất là Cương mục, Biên niên khi ghi chép nhân vật thường chỉ đi vào những nét lớn, ở giai đoạn nhân vật còn có vai trò lịch sử với triều đại, nhưng đời tư nhân vật, cuộc sống bình dị lại không được rõ ràng chi tiết. Gia phả dòng họ đã có những bổ sung cần thiết. Như chính sử thường nói tới một nhân vật gọi là Dương Thái hậu, người dâng áo long cổn cho Lê Hoàn trong chiến tranh xâm lược Tống, còn đời tư, thậm chí đến cái tên thật của bà cũng chưa nêu rõ ràng. Đó là cái kẽ hở để cho thời hiện đại có những người cầm bút lợi dụng quyền hư cấu văn.học đề cao quá đáng về bà trên tiểu thuyết, sân khấu điện ảnh... Thêm cho bà, bớt của Đinh Điền; Nguyễn Bặc, thậm chí vu khống cho hai vị anh hùng có công lớn thống nhất đất nước này là gian thần, tư thông với ngoại bang. Qua tài liệu gia phả họ Ngô, cuốn Lịch sử họ Ngô Việt Nam của Ngô Đức Thắng, qua những cuốn gia phả khác như gia phả họ Đinh Danh ở Bình Lăng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, ta rõ hơn về đời tư của bà Dương Thái hậu (người sau này, theo văn nghệ hay gọi là
Dương Vân Nga) có thể là con gái Dương Tam Kha, lấy Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn (con trai thứ hai của của Ngô Quyền và bà Dương thị Như Ngọc), sinh ra Ngô Nhật Khánh, sứ quân Đường Lâm. Đinh Tiên Hoàng bức hàng Nhật Khánh, lấy Dương Thái hậu là mẹ Nhật Khánh? Sau khi Đinh Tiên Hoàng bị đầu độc, bà mẹ này lại lấy Lê Hoàn... Hoặc như với Nguyễn Trãi, chính sử cũng chỉ cho ta biết một vị khai quốc công thần, bình Ngô mở nước, người viết thiên cổ hùng văn "Bình Ngô Đại Cáo", người bị mối hàm oan tru di ba họ... nhưng còn đời tư của ông mịt mờ khó tỏ. Rất may, năm 1977, qua cuốn Ngô gia thế phả mới tìm thấy ở Thái Bình công bố trên "Nghiên cứu lịch sử", Nguyễn Tiến Đoàn, Thanh Vân cho ta thấy một số nét đời tư quan trọng của Nguyễn Trãi qua mối quan hệ của ông với Ngô Kính - Ngô Từ, hai nhân vật quan trọng của Lam Sơn khởi nghĩa. Căn cứ vào quyển Tích khánh đường phả ký của chi họ Nguyễn Nhữ Soạn ở Thanh Hoá (ông Soạn là em cùng bố khác mẹ với Nguyễn Trãi), Bùi Văn Nguyên trong tác phẩm "Nguyễn Trãi” cho ta biết thiên ái với Nguyễn Thị Lộ... Về mối liên quan với phương bắc, cùng lắm chính sử có nói vài nét sơ lược: "Nguyễn Trãi tiễn cha lên ải bắc", còn cụ thể thế nào thì khó biết. Tháng 8 năm 1963 trên Nghiên cứu lịch sử, giáo sư Văn Tân công bố bài "Nguyễn Trãi có đi sứ Trung Quốc không". Đây là vấn đề hấp dẫn gây nhiều chú ý, tranh luận. Tác phẩm Nguyễn Trãi của Bùi Văn Nguyên cũng hướng về chủ đề ấy. Căn cứ vào gia phả nhà Phạm Anh Võ, ông cho ta biết Nguyễn Trãi đã cùng cha là Nguyễn Phi Khanh và em là Nguyễn Phi Hùng bị giặc Minh giải đi Vạn Sơn Điếm (Hồ Bắc) ở Trung Quốc rồi được chúng thả về. Nguyễn Phi Khanh sống ở Côn Sơn đến chết, chứ không chết ở Trung Quốc... Vài tư liệu này có thể tham khảo rất tốt.
4. Bổ sung về các nhân vật phía nam Việt Nam :
Chính sử các vương triều nước ta nói chung chú ý cung cấp cho chúng ta lai lịch các nhân vật Bắc Hà rõ hơn các nhân vật Nam Hà. Đến triều Nguyễn có chú ý các nhân vật Nam Hà hơn nhưng chưa phải đã thoả đáng. Tác phẩm "Cuộc đời oanh liệt của Tả quân Lê Văn Duyệt" của Lê Đình Chân đã căn cứ vào gia phả dòng họ Lê Văn để không những cho ta biết lai lịch gốc tích dòng họ Lê Văn Duyệt từ Vĩnh Phúc (Bắc Hà) chuyển vào Quảng Ngãi rồi vào Nam Bộ thế nào, còn cho ta biết những bí ẩn trên con người ông, căn nguyên của căn bệnh "ẩn cung", phong cách, chí khí... của ông...
5. Bổ sung về quan hệ dòng họ, huyết tộc của nhân vật lịch sử :
Chính sử thường chỉ nhắc tới bản thân nhân vật lịch sử nhưng lại chưa thể làm rõ tại sao có nhân vật ấy, chất gien truyền nối, tinh hoa dân tộc. Thì đây
: bài viết của Nguyễn Lương Bích: "Giới thiệu mấy nét về dòng họ Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Văn Cừ” ở Nghiên cứu l sử số 2/1969... đã căn cứ vào cuốn gia phả dòng họ để góp phần bổ sung cho những thiếu sót ấy vốn có ở chính sử...
6. Bổ sung về các triều đại bị gọi là "ngụy”, là “nhuận triều” :
Để phục vụ cho chính thống, chính sử thường cố ý không làm rõ, thậm chí có khi xuyên tạc các triều đại đối lập, như các triều đại Hồ, Mạc, Tây Sơn. Ở thời hiện đại đã có những tác phẩm nghiên cứu , thậm chí chiêu tuyết cho các triều đại này dựa trên gia phả. Trong tác phẩm Nghiên cứu Lịch sử Hải Phòng số 4 (12) năm 1987, Chuyên đề vương triều Mạc hay các kỷ yếu về Vương triều, dòng họ Mạc sau đấy, kể cả tác phẩm Lịch sử vương triều Mạc viết khá công phu của Đinh Khắc Thuân thời gần đây đã thể hiện điều đó. Trước kia nghiên cứu về Tây Sơn nhiều, hiện nay nghiên cứu về nhà Mạc nhiều. Với nhà Hồ, đã có những cuốn gia phả như Hồ gia hợp tộc phả ký... đầy giá trị nói về dòng họ Hồ Quý Ly từ tổ tiên Hồ Hưng Dật trở xuống và nhiều cuốn phả khác xứng đáng bổ sung chính sử...
7. Bổ sung cho các nhân vật lịch sử ở giai đoạn vương triều mình bị đánh đổ phải lưu lạc, địa chỉ khó dò :
Khi một vương triều bị lật đổ, thì dòng dõi của vương triều đó phải tìm cách ẩn mình vì sợ tân triều trả thù. Thông tin của họ khó dò nên chính sử không ghi được hoặc ghi không đầy đủ, phải nhờ đến gia phả. Như gia phả họ Đinh
Danh ở Bình Lăng (Thái Bình) sau sự biến Lê Hoàn - Dương hậu đã cho biết dòng dõi còn lại của Đinh Liễn (con trưởng Đinh Tiên Hoàng) truyền tới Đinh Liệt triều Lê về sau. Hay sau vụ vua Lê Anh Tông Duy Bang bị Trịnh Tùng sai người ám hại, các con mỗi người một nẻo. Năm 1994, chúng tôi về xã Xuân Khánh huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá được xem ển gia phả nhà cụ Lê Đình Hoan mà biết được một hậu duệ của Thái tử Lê Duy Bách, con Lê Anh Tông chạy về đây sinh ra...
Vấn đề Ngọc Hân công chúa, Bắc cung Hoàng hậu của Nguyễn Huệ, sau khi Tây Sơn đổ từng gây ra suy nghĩ và bàn bạc của nhiều nhà khoa học mà chính sử nhà Nguyễn, một vương triều thù địch khó làm ta tin. Về điểm này thì cuốn gia phả họ Nguyễn Đình, chi ngoại của Ngọc Hân công chúa ở làng Phù Ninh (Nành, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm - Hà Nội) có những chi tiết bổ sung về Ngọc Hân công chúa, về cái chết của bà và hai con (Hoàng tử Văn Đức thọ 11 tuổi, công chúa Ngọc Bảo thọ 13 tuổi) mà Đại Nam thực lục chính biên của nhà Nguyễn cũng không ghi cụ thể bằng. Các nhà khoa học
như Giáo sư Trần Quốc Vượng, Phó Giáo sư Chu Quang Trứ đã căn cứ vào đấy đưa ra những ý kiến xác đáng...
8. Bổ sung về quân sự :
Vấn đề này được chính sử ghi chép khá công phu, phong phú hơn các vấn đề khác. Song vẫn chưa hẳn là thoả đáng. Chẳng hạn ở trận đánh sông Bạch Đằng đời Trần, một trong những trận nổi tiếng nhất trong lịch sử trung đại Việt Nam cho đến nay vấn đề sông nước, địa hình vẫn là một dấu hỏi mà chính sử chưa làm ta hết thắc mắc. Song, nếu tìm vào tộc phả các dòng họ ở đấy, ta sẽ thêm những thông tin đáng kể. Như qua tộc phả họ Vũ ở xứ Minh Tân, huyện Thuỷ Nguyên hay ở Hàng Kênh (khu phố Lê Chân) - Hải Phòng, ta được biết có những người như Vũ Chi Thắng đã theo Trần Quốc Tuấn nghiên cứu địa hình sông nước vùng sông Bạch Đằng và vẽ bản đồ. Sử liệu ấy được ghi ở tác phẩm “Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc" của NXB Quân đội nhân dân 1976.
Vấn đề quân sự học cũng như nhiều vấn đề khác trong sử học đều cần chính xác nên vấn đề định lượng học, số liệu học không thể thiđược. Gia phả đã góp phần đính chính những năm sai sót về vấn đề ấy cho chính sử. Chính sử triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại Nam chính biên liệt truyện (và cả một số tác phẩm đầu Nguyễn như Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức) đều chép số quân xâm lược Xiêm sang Việt Nam dùng trong trận Xoài Mút - Rạch Gầm là 2 vạn. Tác phẩm "Một số trận quyết chiến chiến lược... " trên đã căn cứ vào Mạc thị gia phả để đính chính sai sót ấy. Bởi theo Mạc thị gia phả của Vũ Thế Định thì tổng số quân xâm lược Xiêm lên tới 5 vạn người, vì ngoài đạo quân thuỷ do Chiêu Tăng, Chiêu Sương chỉ huy đã có 2 vạn người, còn có đạo quân bộ do Sa Uyển và Chiêu Thuỳ Biên chỉ huy từ Chân Lạp kéo xuống.
Với các cuộc nội chiến, chính sử càng giải quyết không thoả đáng. Chính sử chưa phân rõ chiến tranh Hùng - Thục với chiến tranh Thục - Triệu, không thấy cuộc đấu tranh Hùng - Thục là nội bộ, thể hiện sự vươn lên tất yếu trong quá trình trưởng thành của dân tộc. Trong Nghiên cứu Lịch sử tháng 3, 4 năm 1971 với bài "Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ Hùng Vương, Thục Vương", Nguyễn Lộc đã trích đoạn cuốn Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyền viết năm Hồng Đức thứ 1 (1470) để bổ sung vào những thiếu sót đó của chính sử khẳng định bước tiến từ Hùng Vương đến Thục Vương đánh dấu sự tập hợp ngày càng lớn những cộng đồng người nhỏ, để đáp ứng nhu cầu chống giặc ngoại xâm phát triển sản xuất, khác hẳn quan hệ với Triệu Đà là kẻ xâm lược từ bên ngoài.
Với các cuộc khởi nghĩa của nông dân nhằm lật đổ chính quyền, chính sử thường phủ nhận. Nguyễn Lệ Thi trong bài viết "Tìm hiểu dấu vết Nguyễn Hữu Cầu và cuộc khởi nghĩa của ông" ở Nghiên cứu lịch sử tháng 7 và 8 năm 1973 đã căn cứ vào cuốn gia phả họ Phạm mà cho ta biết nhiều về quê hương thời trẻ của Nguyễn Hữu ầu, về căn cứ Đồ Sơn của ông mà chính sử không ghi cụ thể.
Với những cuộc nổi dậy chống triều đình ở miền biên viễn thông tin càng khó khăn thì tư liệu càng hiếm, chính sử càng dễ biến báo làm lợi cho bọn cầm quyền. Như cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật, nhà nghiên cứu phải đi xa tìm tòi công phu tại những vùng đất gần nước Lào mới rõ, chứ không thể như một số sử thần cầm bút ngồi ở kinh đô. Trần Thanh Tâm trong Nghiên cứu lịch sử số 6 năm 1969 với bài "Một số tài liệu bằng chữ viết vừa mới tìm được về mấy cuộc khởi nghĩa miền núi Nghệ Tĩnh” cho thấy gia phả nhiều gia đình ở vùng Trấn Ninh, Trình Quang còn ghi rõ sự kiện: "Khi Hoàng Mật (tức hoàng tử Lê Duy Mật) vào thành này dân làng cũng đi theo, đến khi thành bị vây, dân đều cùng chịu chết với chúa chứ không chịu phục"... Sự kiện ấy cho ta rõ thêm uy tín lãnh tụ cần vương Lê Duy Mật và nhiều vấn đề khác mà chính sử, nhất là chính sử viết dưới quyền uy của các chúa Trịnh thuở ấy khó ghi chép công bằng.
9. Bổ sung về lịch sử dân tộc học :
Các sử gia trước ta viết chính sử phong kiến, với tư tưởng "Nội Hạ ngoại Di" chịu ảnh hưởng của Trung Hoa nên không chú ý ghi chép lịch sử các dân tộc ít người bằng dân tộc Kinh. Ở Nghiên cứu Lịch sử 8/ 1963, với bài "Tìm hiểu nguồn gốc lịch sử người Cao Lan", Lã Văn Lô cho biết ông đã về xã Tân Hương huyện Yên Bình, Yên Bái, căn cứ vào gia phả các dòng họ di cư vào Việt Nam để xác minh quê hương cũ của người Cao Lan là Quảng Đông, Quảng Tây, chủ yếu là vùng Thập Vạn đại sơn gần biên giới Việt Trung. Việc ông Đặng Nghiêm Vạn trong Nghiên cứu lịch sử 1- 2/1987 nghiên cứu các dòng họ người Thái trong tổ chức bản Mường cổ truyền cũng có ý nghĩa như việc làm của Lã Văn Lô.
10. Bổ sung vc minh những vấn đề địa lý học lịch sử :
Để tìm hiểu về "Quê hương và căn cứ ban đầu” của Đinh Bộ Lĩnh, nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Văn Trò đã tìm được quyển gia phả của chi họ Nguyễn Bặc ở thôn Vĩnh Ninh để xác định sau khi nhà Đinh thất thế, họ Nguyễn chuyển vào thôn Gia Miêu, huyện Tống Sơn (sau là huyện Hà Trung) tỉnh Thanh Hoá. Đến thế kỷ 17, con cháu mới lại chuyển ra làng Đại
Hữu để giữ mộ tổ Nguyễn Bặc. Nó ăn khớp với đôi câu đối ở từ đường họ Nguyễn Bặc:
Hoa Lư kết nghĩa anh hùng chúa
Đại Hữu ân khâm tướng quốc công
Vậy quê hương ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Thúc Dự, Nguyễn Bạc, Đinh Điền chính là Sách Bông thời Đinh và là làng Đại Hữu, xã Gia Phương, tỉnh Ninh Bình...
11. Bổ sung để làm minh xác niên đại :
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cuốn chính sử nòng cốt của nhà Hậu Lê thì 18 đời họ Hồng Bàng tính từ năm 2879 TCN đến năm 258 TCN gồm 2621 năm, nếu chia cho 18 đời vua thì mỗi ông vua sống được 145 năm, có thể tin được không? Theo Đại Việt sử lược thì 18 đời vua chỉ gồm 400 năm, nếu chia 400
năm cho 18 đời vua thì mỗi người chỉ sống 22 năm, hẳn cũng khó chấp nhận? Rất may, cuốn Ngọc phả dòng họ các vua Hùng ở đền Hùng (Vĩnh Phú) của Nguyễn Cố cho chúng ta biết một con số đáng tin cậy hơn : Dòng Hùng gồm 18 ngành 50 đời tồn tại 2500 năm nên trung bình mỗi vua sống được: 2500 : 50 = 50 năm dễ tin hơn. Cùng với việc xác định niên đại của thời đại ứng với dòng vua, còn có những xác định thời gian cụ thể khác trong sử sách. Chẳng hạn : xác định thời gian của các cuộc nội chiến hoặc các ộc chống ngoại xâm. Trong bài viết "Bước đầu hoạt động đấu tranh chống phong kiến của nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu” ở Nghiên
cứu Lịch sử số 160 tháng 1, 2 năm 1975, Trương Hữu Quỳnh, Nguyễn Cảnh Minh qua bộ gia phả họ Trần Cảnh, Tham tụng thời Trịnh Doanh và họ Đặng để chứng minh rằng Nguyễn Hữu Cầu từng hoạt động trước năm 1739. Qua gia phả họ Đặng (do Đặng Tiến Đông viết), các vị thấy nông dân Hải Dương nổi dậy đấu tranh từ rất sớm, ít nhất từ đầu đời Vĩnh Hựu, tức là từ năm 1735, chứ không phải bắt đầu đến thời gian Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ khởi nghĩa. Trong bài viết "Chung quanh cái chết của Phan Đình Phùng" ở Nghiên cứu Lịch sử số 85 tháng 4 năm 1966, Vũ Văn Tỉnh đã chú thích: Cụ Phan Đình Phùng mất ngày 28 tháng 12 năm 1895 (tức ngày 13 tháng 11 năm Ất Mùi) chứ không phải là ngày 21 tháng 11 năm 1896 như đã chép trong tác phẩm Phan Đình Phùng (NXB
Quân đội nhân dân năm 1960) và Lịch sử Việt Nam sơ giản của Văn Tân (NXB Sử học, 1963). Bài "Về giai đoạn chiến đấu cuối cùng của nghĩa quân
Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo" của Mai Hạnh cùng trong số 85 cho thấy theo Gia phả tập biên trong đó có Thế phả họ Phan ở Thư viện KHXH, bản chữ Hán chép tay A.3075, thì cụ Phan mất đúng vào ngày 13 tháng 11 năm Ất Mùi tức ngày 28 tháng 12 năm 1895 dương lịch.
12. Bổ sung về các vụ án lịch sử bí ẩn, phức tạp :
Ở đây chúng tôi chưa có điều kiện bàn về rất nhiều vụ án chưa được các nhà khoa học dùng gia phả tìm hiểu, dù đã từng chấn động một thời như các vụ án Dương Nhật Lễ, Lê Tư Tề, Lê Nghi Dân... Chính sử từng nói tới vụ Đỗ Thích giết Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn chỉ bằng chuyện hão huyền "đêm nằm trên cầu, thấy sao sa vào mồm, cho là điềm tốt mới manh tâm giế". Như vậy còn đơn giản quá, dễ làm ta nghi ngờ: Đỗ Thích thế lực mỏng manh giết vua chỉ đem lại cái chết, còn thì kẻ khác toạ hưởng. Dù là tri thức nông cạn hẳn Đỗ cũng có thể biết như thế. Vậy đằng sau Đỗ Thích là ai? Bản thân chính sử (như Đại Việt sử ký toàn thư) cho ta biết vào năm Thái Bình thứ 5 (974) có câu sấm văn: "Đỗ Thích thí Đinh Đinh, Lê gia xuất thánh minh". Như vậy, câu này ra đời trước cái năm có sự cố "Đỗ Thích giết vua" (năm 979). Tại sao sấm văn không ra đời sau năm 979 mà lại ra đời trước đó? Phải chăng phe cánh của cái vị gọi là "thánh" này đã chuẩn bị dư luận trước để dọn đường cho việc chiếm đoạt? Tại sao tên sát nhân giết Đinh Tiên Hoàng phải kèm theo giết Đinh Liễn? Ai cũng biết Đinh Liễn văn võ song toàn, từng giúp vua cha đánh đông dẹp bắc, thống nhất đất nước, Liễn lại là nhà ngoại giao tài ba, có uy tín ở nước ta lẫn Trung Hoa. Vậy có thể nếu ông không bị mưu sát thì khó có chuyện Trung Hoa động binh để cho Lê Hoàn... lập công, thêm quyền thêm chức, trăm họ phải chịu đau khổ vì chiến tranh. Dù Đinh Tiên Hoàng có mất nhưng có thể nếu Liễn còn thì với tài ba, uy tín như ông, (người được thử thách trên thực tế chiến trận, đối nội, đối ngoại đã tỏ rõ) hỏi kẻ nào dám biến ông thành kẻ bù nhìn như Đinh Toàn để dễ bề thoán đoạt? Với Lê Hoàn, một người từng làm thuộc hạ của ông, được ông lựa chọn nâng đỡ thì cái "dễ" đó hẳn không phải là "dễ" : Tống sử quyển 438 và Tục Tư trị thông giám quyển 10 và 11B cho biết : “Tống nghe tin Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn đã chết; Lê Hoàn nhiếp chính, dời Đinh Toàn ra nhà khác, cấm cố cả nhà họ Đinh lên thay thống lĩnh" thì mới kéo quân vào. Nếu là cao cả, nhận áo long cổn, thực lòng vì dân vì nước, làm sao lại có việc làm thiếu nhân tình, thiếu đàng hoàng như vậy? Theo dân gian, trước đây ở đền thờ vua Đinh có tượng Đỗ Thích chịu tội để cho người ra vào đánh. Nhưng sau đó người ta chôn đi. Hẳn dân ở đấy cũng thấy rằng kẻ đáng đánh phải là kẻ chủ mưu thâm độc. Còn Đỗ Thích là kẻ trực tiếp thực hiện, là a tòng hay là người oan, phải xem xét lại? Gia phả họ Đỗ ở Đạ huyện Vụ Bản và sự tích đền Thảo Mã (tức đền Gạo ở xã Thanh Bình, huyện Thanh
Liêm) có nói tới việc Đỗ Thích có công cõng Đinh Tiên Hoàng chạy trốn khi ông bị Nam Tấn Vương đuổi. Người cứu vua đó nay lại biến thành kẻ giết vua thì quả là khó hiểu, đáng ngờ? Lại có truyền thuyết dân gian vùng quê vua Đinh cho rằng: Đỗ Thích là cận vệ gần gũi vua, đến với vua thì thấy vua đã bị giết. Thích giật mình hoảng hốt, đang định kêu lên thì quân phục đổ ra bắt. Thích sợ quá trèo lên máng nước trong cung thì bị bắt giết. Phải chăng có kẻ lừa hoặc xúi dục người khác giết ông hay tham gia vào vụ giết đó dùng ông ta làm vật hy sinh để che giấu tội ác, hay để bịt đầu mối? (Về sự kiện này sẽ có dẫn chứng bằng thơ trình bày ở bài khác...). Với vụ án này vì lương tâm của người cầm bút, tôi nghĩ rằng các nhà nghiên cứu bằng mọi tư liệu và suy luận cần tiếp tục tìm ra kẻ thủ phạm dù nó là ai, giải được nỗi hàm oan, không kiêng kỵ để cho lịch sử được công bằng, minh xác. Nếu không giải oan là có tội với tiền nhân, với người có công thống nhất non sông.
Còn thời Lê sơ, nổi bật là ba vụ án Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Nguyễn Trãái. Trong đó, vụ Nguyễn Trãi được nhiều người bàn luận nhất, mang cái tên day dứt muôn đời: "Thảm án Lệ Chi Viên". Để minh oan cho Nguyễn Trãi, từ trước đến giờ, người ta đưa ra nhiều giả thuyết nhưng nổi bật hơn cả là lối suy luận tự biện như : Tưởng tượng ra truyền thuyết rắn báo oán hoặc biện luận đơn giản : Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, có cuộc đời cao cả trong sạch tất không có việc giết vua... Người ta đã nghĩ đến quan hệ giữa vua Lê Thái Tông hay Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ với đám vợ vua hay với bọn quan thị, nhất là với Thái hậu Nguyễn Thị Anh, đặt nhiều câu hỏi về bà nhưng xem ra không đủ sức thuyết phục, còn hạn chế. Gần đây, tôi được đọc cuốn gia phả họ Đinh ở Đông Cao, Nông Cống, Thanh Hoá do Đinh Công Đột biên soạn. Những dòng hồi ký trong đó của Thái sư Lân Quốc Công Đinh Liệt đã chỉ ra thủ phạm chính của vụ án với những căn cứ đáng kể. Đinh Liệt là người được trực tiếp xử Nguyễn Trãi thì hẳn rằng tư liệu mật ông đưa ra dễ thuyết phục hơn? Những tư liệu ấy, chúng tôi đã công bố trên tuần báo Đại đoàn kết số 10 tháng 5 năm 1994 cũng là một hướng góp một phần bổ sung cho chính sử .
13. Bổ sung về các huyền bí lăng mộ (Bửu Kế gọi là các vụ “Đào mả chính sử”) :
Với lăng mộ Hoàng đế Quang Trung, chính sử không ghi chi tiết cụ thể. Ai tự vãn của Ngọc Hân công chúa có vài nét nói tới mộ giả của ngài :
Cồn tiên khói toả đỉnh non
Xe rồng thăm thẳm bóng loan dầu dầu
Đại Nam liệt truyện chỉ cho vài nét: Vua Quang Trung mất ngày 29 tháng 9 năm Nhâm Tý (13 tháng 10 năm 1792), quàn 6 tháng, sau thì chôn tại phía Nam sông Hương. Sách ấy không xác định rõ vị trí cụ thể của lăng Quang Trung. Gia Long hèn hạ đã sai đào mả Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, giã nát hài cốt vứt đi, đem đầu lâu giam vào ngục tối, ấy thế, nhưng nó vẫn bí mật, gây nhiều suy nghĩ, gợi tò mò khác nào mộ Tào Tháo, mộ Khổng Minh ở Trung Hoa. Trong thời gian làm chủ bút tập san Đô thành hiếu cổ (Khoảng năm 1914 - 1944), nhà Việt Nam học người Pháp Cadière đã tìm hiểu lăng Ba Vành ở Huế, nghĩ rằng đây là lăng mộ Quang Trung. Nhưng gia phả họ Lê Xuân lại ghi đó là lăng của "Chánh dinh Hộ bộ kiêm Binh bộ tặng Tá lý công thần Đặc tiến Trụ quốc Kim tử Vinh lộc Đại phu chính trị Thượng khanh Ý Đức hầu Lê Quý Công". Với những vụ "đào mả" ấy, căn cứ chủ yếu trên gia phả, Bửu Kế đã đi đến kết luận: "Người táng ở ngôi mộ Ba Vành là Trụ quốc Kim tử Vinh lộc Đại phu đời thứ 3 trong gia phả họ Lê Xuân, chứ không phải vua Quang Trung như nhiều người lầm tưởng".
Chứng tỏ, gia phả xứng đáng là chìa khoá cẩn mật và tuyệt vời nhất, góp phần mở ra, xua tan đám sương mờ huyền ảo còn bao phủ quá khứ, lởn vởn rải rác trên mặt chính sử. Từ đấy, bao nhiêu nỗi hàm oan được sáng tỏ, bao nhiêu đời tư, thâm cung bí sử được rõ ràng, bao nhiêu mắc mớ khoa học từ đại thể đến chi tiết được giải quyết, làm minh xác... Song chưa phải đã hết. Hẳn vẫn còn những trang, những dòng... trong chính sử khác nào những tấm màn cần tiếp tục vén lên, những ẩn số cần giải mã, và gia phả trong tay con người vẫn là một trong những công cụ cần thiết để tiến hành việc đó, gia phả góp phần mở tuệ nhãn sử học...
2. CÁI CẦN BỔ SUNG LÀM SÁNG TỎ BAN ĐẦU : ĂN UỐNG VIỆT Ở NHỮNG THỜI LỊCH SỬ KHÓ XÁC ĐỊNH
I. THỜI HÙNG VƯƠNG - AN DƯƠNG VƯƠNG
Cuộc cách mạng đá mới cách đây khoảng vạn năm đã đặt những tiền đề quan trọng cho thời Hùng Vương. Thực chất đây là cuộc cách mạng kỹ thuật để chuyển từ kinh tế hái lượm, săn bắt sang kinh tế trồng trọt, chăn nuôi gắn liền với những kỹ thuật mới ở lĩnh vực chế tác công cụ (mài đá), chế tạo dụng cụ (nung gốm), đặt cơ sở cho chế tạo các đồ đồng, đồ sắt, làm gốm tốt hơn ở thời Hùng Vương (khoảng 2000 năm trước Công Nguyên). Thời Hùng Vương trải qua 4 giai đoạn:
1. Phùng Nguyên (lấy tên thôn Phùng Nguyên ở xã Kinh Kệ, Phong Châu, Phú Thọ) thuộc sơ kỳ đồng thau, cách chúng ta khoảng.000 năm.
2. Đồng Đậu (lấy tên một quả gò ở xã Minh Tân, huyện Vĩnh Lạc) cách chúng ta khoảng 3.000 năm.
3. Gò Mun (lấy tên một quả gò ở xã Tứ Xã, Phong Châu), cách chúng ta khoảng gần 3.000 năm.
4. Đông Sơn (vùng đất bên bờ sông Mã, Thanh Hoá) và Làng Cả (Việt Trì) và Gò Re, Gò Chiền (Phong Châu) thuộc Phú Thọ... cách chúng ta khoảng 2.000 năm, lúc đó đồ đồng phát triển rực rỡ, đồ sắt mới ra đời.
Cùng với sự vươn lên của nghệ thuật chế tác, của chất liệu kim khí, càng về giai đoạn sau, ăn uống cũng được cải tạo, tiến bộ hơn giai đoạn trước. Nó gồm:
1) Các nguyên liệu ban đầu về ăn uống:
Thức ăn thực vật :
Quan trọng nhất là lúa gạo. Trong tầng văn hoá Hoà Bình (cách đây hàng vạn năm) các nhà khảo cổ đã tìm thấy hạt thóc cháy. Ở các di chỉ Hoà Bình, Bắc Sơn... (trước thời Hùng Vương) đã thấy vô số chày đá và bàn nghiền hạt bằng đá để xay nghiền hạt lúa. Cuối thời đại đá mới (cách chúng ta khoảng 5, 6.000 ngàn năm) là thời quá độ từ cây lúa hoang sang cây lúa trồng. Trong
di chỉ Đồng Đậu ở lớp dưới còn tìm thấy hạt gạo cháy. Ở di chỉ Tràng Kênh (tương đương giai đoạn này) đã tìm thấy phấn hoa của loài lúa nước Oryza.
Trong lúa nước, thì lúa nếp chiếm tỷ lệ cao hơn lúa tẻ, được dùng nhiều hơn trong ăn uống của người thời ấy. Lĩnh Nam chích quái cho biết: "Đất sản xuất nhiều gạo nếp". Phân tích 4 mẫu thóc cháy và trầu lấy từ các di chỉ Đồng Đậu, Làng Cả... các nhà khảo cổ cho biết chúng đều thuộc dạng hạt trò dạng phổ biến của lúa nếp. Để được gạo ăn đó, dân bấy giờ có tục đốt cỏ trồng cây. Sách Giao Châu Ngoại vực ký dẫn sách Thuỷ binh chú cho biết thời này "có ruộng Lạc theo nước triều lên xuống, dân khẩn ruộng đó mà ăn".
Gắn với cơm gạo là các cây khác có chứa chất bột. Sách Lĩnh Nam chích quái cho biết: "Lúc quốc sơ (tức thời Hùng Vương mới dựng nước), đồ ăn của dân chưa đủ... phải lấy cây quang lang làm thức ăn". Sách Quảng Châu ký Trung Hoa giải thích rõ thêm: " Cây quang lang to 4 hay 3 người ôm, cao 5 hay 6 trượng... trong vỏ có bột như bột mỳ". Một số sách gọi quang lang là cây nhương, cây đỗ câu, cây báng (hay cây móc). Sách Di vật chí viết: cây này "trong ruột có bột trắng, đem giã nhỏ, nhào với nước thì như bột mỳ, có thể làm bánh". Các loại hạt dẻ, ý dĩ, củ bấn, củ mỡ, củ mài, khoai sọ (hay khoai môn) cũng có bột. Sách Di vật chí còn viết: "Cam chư tựa loài khoai sọ, củ to, bóc vỏ đi thấy ruột trắng như mỡ, người Nam chuyên lấy thức này ăn thay gạo". Kể cả cây mít (nay là cây ăn quả) nhưng thời Hùng Vương về trước lại là cây cung cấp chất bột (hạt mít). Ở các rừng mít hoang, quả mít chín không người hái, tự rụng xuống thối rữa, hạt mít trôi xuống suối, dân lấy đó đơm đem về giã bột, phơi khô ăn thay cơm khi thiếu đói hoặc cho súc vật ăn.
Cùng với cây có bột, rau-hoa-quả là món ăn quan trọng thời Hùng Vương. Bằng phương pháp phân tích bào tử phấn hoa, các nhà khảo cổ và sinh vật học đã tìm thấy phấn hoa họ rau đậu trong một số hang thuộc văn hoá Hoà Bình, hoặc họ hoà thảo, họ bầu bí ở di chỉ Tràng Kênh... Các sách cổ cũng phản ánh về các loại rau quả thời này : mía (trong sách Tây kinh tạp chí), rau
muống, cà, hành, hẹ, riềng, khế (trong sách Nam phương thảo mộc trạng), nhãn vải (trong sách Tiền Hán thư), cau, lựu (trong sách Di vật chí), dừa (trong sách Quảng chí), sấu, thanh yên (trong sách Nam phương thảo mộc trạng)...
Những rau, hoa quả này hẳn có từ trước công nguyên (thời Hùng Vương) thì đến đầu công nguyên chúng mới được sách cổ chú ý ghi lại như thế. Truyện Mai An Tiêm nói về
trồng dưa hấu, truyện Tân Lang nói về trầu cau và phần lớn các dân tộc trong nước ta hay có truyền thuyết nói về loài người từ quả bầu chui ra... Chứng tỏ ở buổi đầu dựng nước Hùng Vương, nước ta đã: "Rau tươi hoa quả bốn mùa thắm xanh".
Về thức ăn động vật :
Có những động vật vào loại nhỏ như trai, hến, ốc, cóc, nhái... Nhiều di chỉ ở vùng núi Hoà Bình, Bắc Sơn... để lại những đống vỏ hến, vỏ ốc khổng lồ (thuộc nhuyễn thể). Có những di chỉ mang mô hình ếch, nhái, cóc nặn bằng đất. Trong các trống, thạp, bình bằng đồng cũng có hình các con vật này. Bác sĩ Rơnêburê trong công trình dày 600 trang đã hệt kê nước ta có 171 loại ếch, nhái, là một trong những vùng ếch nhái nhiều nhất thế giới... Ngoài ra rùa, ba ba, giải còn có nhiều hơn cả Ấn Độ, Mã Lai... phù hợp với khí hậu nhiệt đới, ẩm của Việt Nam. Vậy thì thời Hùng Vương thức ăn loại đó khó có thể ít.
Về các động vật lớn: Theo Tổng cục lâm nghiệp thời hiện đại nước ta có đến 300 loại thú, hơn 1 nghìn loại chim. Chắc chắn là thời xưa, số động vật còn nhiều hơn. Chó, lợn, trâu, bò, gà là các gia súc quen thuộc trước sau đã được thuần hoá, dùng vào ăn uống và nhiều công việc khác ở thời Hùng Vương. Trong di chỉ Xóm Rền (thuộc giai đoạn Phùng Nguyên) các nhà khảo cổ đã tìm thấy tượng gà bằng đất nung, đến di chỉ Đông Sơn thì tìm ra tượng gà bằng đồng thau ở Chiền Vậy, Vinh Quang. Lợn là gia súc được chăn nuôi sớm và nhiều nhất nước ta thời này, thịt lợn phổ biến nhất. Từ Gò Mun đến Đông Sơn, xương trâu bò nhà càng tăng lên (cụ thể là: ở Gò Mun xương trâu, bò nhà chiếm 37,8%, đền Đình Chàng thuộc giai đoạn Đông Sơn tăng lên tới 63,7%). Người ta còn tìm thấy tượng voi bằng đồng có bành ở làng Vạc. Thuở ấy có một số loài thú mà nay không còn hoặc còn rất ít như bò rừng, trâu rừng, sư tử, tê giác, voi, trăn. Ít ra trong giai đoạn Đông Sơn, người ta đã biết dùng chó săn thể hiện ở một số rìu đồng của giai đoạn này khắc cảnh săn hươu sinh động với sự tham gia của chó. Voi ở thời Hùng Vương là voi thường, không còn tìm thấy lại voi răng kiếm phổ biến ở các di tích Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn) hay núi Đọ (Thanh Hoá) trước thời Hùng Vương. Ngoài ra còn có cầy, cáo, chồn, hoẵng, chim, nhím, chuột, khỉ, vượn, gấu, hổ... là những thức ăn của thời Hùng Vương.
2) Việc chế biến thức ăn thực động vật:
Ở giai đoạn sớm của văn hoá Phùng Nguyên, đồ gốm phát triển, con người đã biết làm nồi (thường có miệng cao), có loại mâm bồng có chân đế nhỏ
thẳng và cao... để nấu hoặc đựng thức ăn. Nhưng để đạt đến trình độ như vậy, người thời nay đã phải trải qua hàng nghìn hoặc nhiều nghìn năm từ chỗ ăn sống đến phát hiện ra lửa. Trong hang động thuở ấy còn dấu vết những hòn đá bị cháy dở hoặc ám khói giữa đám than tro, chứng tỏ người bấy giờ đã biết nướng thịt trên lửa. Lửa và những đồ nấu, thức đựng góp phần vào chế biến, chuyển thức ăn từ thông tục thành mỹ vị. Có thể là lửa trong tự nhiên do các đám cháy rừng, có những con vật không chạy kịp bị thiêu trong lửa, con người tìm ra ăn thấy ngon hơn, lành hơn thịt sống. Cũng có thể là lửa do con người tạo ra: Làng Gia Dục (xã Vực Trường, Tam Thanh) trong việc cầu xuân ngày 12 tháng giêng có tục lấy hai thanh giang cọ vào nhau bên miếng bùi nhùi bắt lửa gọi là kéo lửa. Một trong những cách nhóm lửa thời Hùng Vương có lẽ cũng như thế. Có lửa rồi, con người có nhiều cách đun : Nếu không có nồi nấu có thể đổ nước vào lỗ đất hoặc hốc đá, sau đó nung những viên đá thực nóng bỏ vào. Cũng có thể đun bằng da thú : Xã Vực Trường, huyện Tam Thanh (trong vùng đất tổ) trong tiệc cầu xuân vào tháng giêng người ta mổ trâu, lột da làm nồi nấu thịt. Cũng ở vùng đất tổ, các làng ở huyện Thanh Hoà có tục nấu thịt lợn bằng nồi da lợn. Hoặc họ nấu thức ăn trong ống tre, ống bương hay vỏ quả bầu.
Việc nấu nướng, chế biến thức ăn thời Hùng Vương được thể hiện trong lễ vật, trong các loại cỗ cúng còn bảo lưu từ thuở đó tới nay trên vùng đất tổ ta có thể khảo cứu : Trong tiệc cầu xuân ở một số làng xã ở Phú Thọ như Vũ Quang (Phong Châu) ngày 6 tháng giêng, Lương Lỗ (Thanh Hoà) ngày 2, 3 tháng giêng.... có việc nhồi gạo nếp vào ống nứa, nướng qua lửa hay vùi vào thành cơm lam, dùng trong tiệc lễ. Ở các vùng người Mường cũng phổ biến món ăn này. Cũng trên cơ sở thóc gạo, người thời Hùng Vương chế biến ra nhiều món ăn nữa: Hạt thóc được đưa vào nồi chảo, nung trên lửa, biến thành bỏng ăn ngon. Bỏng ấy trộn với mật thành bánh bỏng (còn gọi là bánh quả na) và sau đó chế biến thêm một thứ bánh mới nổi tiếng gọi là chè lam. Xã Thanh Xá (Thanh Hoà) trong hội xuân mồng 4 tháng giêng cúng cả bánh bỏng lẫn chè lam. Người thời ấy còn biết đem lúa nếp non còn xanh hạt đồ lên rồi sàng sẩy, bỏ vỏ để tạo ra cốm ngọt, thơm. Người ta đun gạo trong nước để thành cơm xếp, cơm tẻ, xôi, rồi xôi đem đóng khuôn lại thành xôi nén (hoặc oản) dùng trong cúng bái, lễ hội. Cơm nếp, cơm tẻ ấy kết hợp với đường, mật thành chè nếp, chè gạo tẻ. Cũng từ hạt gạo ấy người ta chế thành các loại bánh: Bánh ót, bánh uôi, bánh uất, bánh tráng, bánh trôi nước, bánh chưng, bánh dầy bún. Truyền thuyết vùng đất tổ cho rằng: Bánh trôi là do Âu Cơ sau khi chia tay với chồng, ngược sông Hồng tới vùng Hiền Lương (Hạ Hoà cũ) thì nghỉ chân bầy cho dân giã gạo nếp thành bột nhào lẫn với nước mía, bỏ vào chõ, xôi lên thành bánh. Còn bánh ót? Nhân năm mới, các con vua Hùng tìm thứ quý dâng cha. Nàng Út được thần nhân mách bảo cho
cách lấy gạo nếp gói vào lá chít thành hình chóp rồi luộc lên. Bánh lấy tên nàng Út, đọc lệch thành ót.
Cùng với gạo là các cây có chất bột khác như củ mài: Ngày mồng 7 tháng giêng âm lịch, các xã Hương Nộn, Hương Nha, Phú Cường, Phụ Cường (huyện Tam Thanh, tỉnh Phú Thọ) có tiệc cầu xuân dùng củ mài và mật ong để cúng. Nay lệ ấy vẫn còn nhưng củ mài thay thế bằng khoai mài, củ cờ; mật ong thay bằng mật mía đều là những thứ phổ biến thời Hùng Vương. Xã Thanh Uyên (Tam Thanh) lại cúng mía Thanh và bánh ngõa, một thứ bánh làm bằng bột lá ngõa và bột củ cải.
Thời Hùng Vương đã phổ biến việc trồng rau, biến rau rừng thành rau nhà và biết chế biến: ngoài luộc, nấu canh, xào mỡ... người ta còn ăn sống hoặc muối thành dưa chua. Trên mâm cúng ở xã Tử Đà thuộc đất cổ Phong Châu, vào ngày 3 tháng giêng và 30 tháng 10 âm lịch bên cạnh cỗ oản mật sống bao giờ cũng có món dưa cải chua muối với củ cáy.
Gắn với rau là măng: măng tre, măng vầu là lễ vật trong tục hèm ở các làng Chu Hương (xã Âm Hạt, Thanh Hoà) vào ngày 8 tháng giêng, ở làng Đẫy (xã Tùng Khê, huyện Sông Thao) ngày 12 tháng 2 âm lịch. Tế thần, trên mâm cỗ cúng, ngoài măng vầu luộc ra còn phải có rau dền. Xã Xuân Sơn, Thanh Hoà trong tiệc cầu mồng 7 tháng giêng lễ vật phải có bắp chuối luộc với mật sống. Ở làng Mê (thị xã Phú Thọ) trong lễ cầu đêm mồng 4 tháng giêng ở miếu Hai Cô, người ta dâng quả cỏ rang để cúng. Đó là quả một số loại như cỏ bấc, cỏ dày. Người dùng một dụng cụ to hơn vỉ ruồi, đập vào ngọn cỏ, lấy thúng hứng cho hạt cỏ rơi vào, đem về phơi khô, giã lấy cám cho lợn, còn hạt đem nấu ăn thay cơm.
Một số làng ở Phú Thọ có tục hèm : Mổ lợn với quy cách phóng tiết (chọc tiết) xong thì thui rồi lột da nấu thịt, luộc thịt. Gà là một lễ vật phổ biến. Cũng như cơm tẻ cùng với trứng luộc, đĩa xôi gà phản ánh thời mở đầu của chăn nuôi gia cầm. Ở miếu Lạn, thôn Cảo, xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, trong lễ cúng ngày 12 tháng hai âm lịch, cỗ dâng là thân gà để sống và cỗ lòng thì luộc và cuốn theo củ kiệu luộc. Tục truyền, vua Hùng đi săn, dừng chân ở núi Lạn (phía nam núi Nghĩa Lĩnh) nướng thịt ăn. Các Mỵ Nương đi tìm rau. Một nàng kiếm được loại cỏ thơm, liền cho vào ống nứa với thịt chim nướng. Thức ăn thơm lừng. Tên nàng là Kiệu nên loại cỏ này gọi là củ kiệu.
Ở xã Kinh Kệ (Phong Châu) mỗi khi có hạn hán, làng giết chó để cầu mưa. Chó để nguyên con cúng, sau đó chế biến đủ món cho người dự. Cỗ thịt trâu
thường bầy trên lá ngõa thay đĩa, đặt trên mâm tre đan gọi là cỗ phố có 9 tầng, mỗi tầng đều bầy lá lót thịt. Tế xong, cả làng đều ăn ngay trên bãi cầu, nhiều người ăn bốc.
Phụ trợ cho những thức ăn trên, tuỳ theo từng điều kiện chất vị, cảm giác đến mức độ nào, người thời Hùng Vương có hương liệu và gia vị để gia cảm như muối, gừng, rượu, trầu cau, đất hun (lấy đất sét nặng mùi bùn cắt nhỏ, phơi khô rồi hun bằng khói của những cây cỏ có dầu thơm. Đất hun xong gọi là ngói. Ăn ngói là để thưởng thức mùi thơm vị hương liệu).
3) Các thức uống
Vùng đất tổ, nơi phát tích của các vua Hùng là Phú Thọ, một vùng đất: Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt.
Chè đất này nổi tiếng trên thị trường với những câu ca:
Bây giờ ta lại biết ta
Biết ta từ thuở tháng ba buôn chè. ..
Các huyện vùng đồi của Phú Thọ đều trồng chè, trong đó nổi tiếng nhất vẫn là các huyện Thanh Ba, Hạ.Hoà; có các xã từng nổi tiếng về chè như Thái Ninh, Đào Giã, Hương Xạ, Đông Linh, Đồng Xuân... Các uyện Đoan Hùng, Sông Thao và Thanh Sơn cũng sản xuất nhiều chè. Chè ở đấy đã có cơ sở từ thời các vua Hùng. Thời đó đã có chè tươi, chè trong sách Bản thảo viết : "Sản xuất ở Giao Chỉ, nay tục gọi là cây vối, người ta hái nụ và lá nó nấu nước uống". Sách Nghiên bắc tạp chí cho biết: "Chè ở Giao Chỉ (nước ta) như rêu xanh, vị cay nóng, tên là chè đắng", "Thổ dân hái lá chè, đem về giã nát ra, phơi trong râm, khi khô, đem nấu nước uống, tính hơi hàn, uống vào mát tim, phổi, giải khát, ngủ ngon. Hoa và nhị chè càng tốt, có hương thơm tự nhiên".
Còn có một loại nước nữa như Lê Quý Đôn viết: " Lá lốt thay trà làm nước uống".
Gắn với chè là rượu. Trong quá trình tiếp xúc với hạt gạo, đồ xôi, người thời Hùng Vương phát hiện được sự lên men của thực vật : gạo thành rượu mộng (rượu nếp cái không qua lửa); gạo thành rượu cất (thứ nước uống tinh khiết,
còn gọi là cao gạo, qua lửa nước bốc hơi) thành rượu thơm ngon thêm vào bữa cơm, mâm cỗ cúng.
Nước ngọt mía : Truyền thuyết dân gian xứ Đoài kể:
Vào thời Hùng Vương thứ 16, đức vua sinh được nàng công chúa tuyệt đẹp tên là Mỵ Ê. Nàng không chịu sống gò bó trong cung cấm, hàng ngày cùng một số cung nữ tới các vùng bãi ven sông Cái hoặc cùng mọi người vun trồng ngô, khoai, hoặc hái hoa bắt bướm. Vào một buổi chiều, trời hè nắng gắt, Mỵ Ê chợt bắt gặp một loại cây tựa như loài sậy, nàng bẻ ra thì thấy thân cây có nước, nếm thử thấy ngọt, thơm mát. Mỵ Ê khuyên mọi người trồng thử trên bãi sông. Chẳng bao lâu, loại cây này mọc thành từng bụi xanh tốt um tùm. Nhân dân chặt về ép lấy nước rồi nấu thành mật ăn. Ngày tết, nàng sai chặt những cây to ngọn, cùng một số nước mật đã cô đặc đem dâng vua cha. Vua Hùng nếm thấy thích thú, bèn lấy ngay tên nàng công chúa mà đặt tên cho giống cây quý này là Mỵ Ê. Từ đó, khắp cả vùng đất bãi ven sông Thao, đặc biệt từ Ba Gò, Đông Viên đến Phú Nhi, cây Mỵ Ê xanh tốt như rừngên cây Mỵ Ê lâu dần cũng bị mọi người đọc chệch đi thành ra cây Mi... Ê, rồi thành Mía. Rồi cả vùng rộng lớn có trồng mía, đó là tiền thân của cái tên nổi tiếng Đường Lâm (rừng nước ngọt)... Mía uống vào có nhiều tác dụng. Sách Quảng Đông tân ngữ cho biết: Người ta thường dùng mía trắng để chữa chứng cách nhiệt; mía tía, gọi là mía Côn Lôn, để tiếp xương bị gãy và mía khô thì gọi là Trúc già là một giống mía mọc như lau sậy, vỏ cứng, đốt ngắn, không ăn được chỉ để ép làm đường.
Nguồn nước tự nhiên: nước mưa, nước sông, suối, ao, hồ... đều phục vụ cho cái uống của người thời Hùng Vương. Dẫu thời này có tục cầu nước, còn bảo lưu tới ngày nay. Như ở xã Thạch Trục, Yên Thạch (Huyện Lập Thạch) khi bị đại hạn, có tục cướp bưởi cầu mưa, ngày mùng 8 tết làng Mai Đình, xã Thạch Đình có tục rước ông giải, cầu cho mưa thuận gió hoà...
4) Những món ăn đặc biệt:
Bánh dầy, bánh chưng: Hai loại bánh này là tổng hợp cao nhất về quan niệm âm dương vũ trụ và khoa học ẩm thực thời Hùng Vương, một trong những tinh hoa của nền văn minh sông Hồng: Bánh dầy tượng trưng cho trời tròn ở trên là cha, bánh chưng cho nền đất vuông ở dưới là mẹ, biểu hiện cho sự dầy dặn, tròn trặn của cuộc đời, một trong những ước mơ của con người. Màu trắng, mịn đẹp của bánh tượng trưng cho sự tinh khiết, kết tinh cho cái thơm ngon, cái đẹp giản dị, nhất là sự bền vững của phẩm vật. Người ta có thể giữ bánh dầy một vài tháng không hỏng nên bánh dầy ngày trước từng được làm lương khô cho quân đội. Song loại bánh có ý nghĩa cao nhất về kỹ thuật chế biến và cấu tạo thành phần (như một sản phẩm sáng tạo hoàn chỉnh của cư dân trồng lúa nước) đầy chất bản địa phải kể tới bánh chưng. >
Trong trí nhớ của người Việt Nam, không mấy ai không in sâu lời thần nhân thác mộng cho Lang Liêu, con trai thứ 18 của vua Hùng về trời tròn đất vuông qua hình bánh "ở giữa kèm thức ăn ngon, bắt chước cảnh tượng trời đất chứa đựng muôn vật, ngụ ý công lao nuôi nấng to lớn của bố mẹ". Không phải ngẫu nhiên mà Lang Liêu đã chiến thắng trong cuộc thi mà tất cả các "sơn hào hải vị đều không bằng", để nối ngôi vua. Lê Hữu Trác danh y thế kỷ XVIII (trong Nữ công thắng lãm) đã nêu rõ thành phần chiếc bánh chưng thời Hùng Vương đó góp phần lý giải căn nguyên thắng lợi ấy: "Rửa lá riềng, đâm nhỏ, vò vào nước lã cho đặc, lọc cái đi. Gạo nếp cái vo sạch, để ráo, liền tưới nước riềng ấy hai ba lần cho xanh, rồi tưới nước tro. Như 5 bát gạo quan đồng thì tưới cho hết một bát hoa thẫm nước tro, rồi trộn muối. Nhân thì hai bát đậu xay ra đồ cho chín, trộn muối cho vừa. Hành thái ngang, mỡ 2 tiền (lát miếng). Lá thì rửa qua nước lã, rồi gói mà nấu cho nhừ”. Như vậy nếu phân tích cho thành tố ban đầu, ta sẽ thấy :
1) Gạo nếp: ăn lành thơm, mát, bổ tỳ, phế thận, chữa đi tiểu đục. 2) Đậu xanh: Giải độc, thanh nhiệt, bổ nguyên khí, điều hoà ngũ tạng, tiêu sưng, chữa đái tháo. 3) Hành: Làm tiêu hoá dễ, bài tiết, chữa đau bụng, ngoại cảm, chữa đau đầu ngạt mũi. 4) Thịt mỡ: Ngọt, béo, mát, nhuận phổi, giải độc, khu phong, hoạt huyết. 5) Riềng: Ấm, cay, nóng, trị lạnh dạ, phòng đau bụng, đi ngoài, trị thổ tả, trị uất tích phong tê, chống sốt rét, ngã nước. 6) Tro: Sát trùng, tẩy trắng. 7) Muối: Tăng độ mặn, sát trùng... Còn phải kể tới lá dong, lạt tre nữa. Có câu ca dao rất phổ biến: "Lạt này gói bánh chưng xanh, cho loan nhớ phượng, cho anh nhớ nàng". Thể hiện tình cảm bền chặt, tươi thắm của con người, biểu trưng cho niềm hy vọng: màu xanh của bánh là mầu xanh của cây cỏ nước non, của đất mẹ. Nó hợp với chất liệu của lá mà Lê Quý Đôn ca ngợi trong sách Vân đài loại ngữ chương "phẩm vật" khi dẫn sách Quảng Đông tân ngữ: "Đông dlá dong) giống như lá chuối, lúc nó tươi thì dùng để gói bánh, khi khô dùng gói đồ vật, bịt vò lọ, để lâu được, chôn xuống đất nghìn năm không hư nát"...
Trầu cau: Lĩnh nam trích quái (Truyện họ Hồng Bàng) cho rằng: “Con trai, con gái khi hôn thú, trước hết lấy gói muối làm lễ hỏi, rồi sau đó mới giết dê, giết trâu để thành vợ thành chồng. Đem cơm nếp vào buồng cùng ăn xong, vợ chồng mới thành thân. Vì hồi bấy giờ trầu cau chưa có". Chứng tỏ hồi Hùng Vương mới dựng nước, chưa
phát hiện ra trầu cau ngay. Nhưng sau đó, cũng ở Lĩnh nam trích quái lại chép truyện Tân Lang: Tân lấy vợ. Tình vợ chồng ngày càng khăng khít, tình anh với em có nhạt hơn xưa. Lang người em tủi hổ bỏ đi, thác hoá thành phiến đá, anh đi tìm em cũng mất hoá cây cau đứng cạnh phiến đá. Vợ tìm
chồng, hoá thành cây trầu không dây leo cuốn quanh cây cau. Dân cảm động lập đền thờ. Vua Hùng đi tuần thú, dừng chân tránh nắng ở đó, được dân cho biết sự tình; lấy trầu cau ăn, nhổ lên hòn đá thấy rực lên màu đỏ tươi lại thấy mùi vị thơm ngon, môi mình thêm thắm, má mình thêm hồng. Nhà vua cảm
động, ca ngợi tình anh em hoà thuận, vợ chồng tiết nghĩa của họ. Vua ban lệnh cho cả nước trồng trầu, trồng cau. Phàm việc dựng vợ gả chồng, cùng nhau hội họp, lễ, tết lớn nhỏ đều lấy những thứ đó làm đầu. Từ hình tượng
trầu cau, có tên người phù hợp, dân gian đã tưởng tượng nên câu chuyện tình nên thơ, đầy chất lãng mạn ấy. Xét về ngôn ngữ học thì: người vợ của Tân họ Lưu (con gái của đạo sĩ Lưu Huyền) hoá thành cây trầu, sự kiện ấy lại gắn với tình hình: hai tiếng "Phù lưu” vốn là tiếng Hán của Trung Quốc, giải ra tiếng Việt là cây trầu. Đến nay ở một số làng quê Việt vẫn mang ý nghĩa đó. Như làng Phù Lưu Tế ở huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây. Gọi là Phù Lưu Tế vì Phù Lưu là trầu, dùng trầu để tế lễ. Tiếng trầu chẳng qua là tiếng cổ Phù, Blầu, Tlưu - lưu, họ của người con gái tiết liệt ấy. Còn hai anh em Tân Lang có nghĩa là cau non, tiếng “lang” phát âm gần với "nang". Trong nông thôn ước ta đến nay còn giữ được các tiếng như cau nang, mo nang... Nó tương ứng với tiếng Malaixia ngày nay : “Pin nang” là cây cau, không xa nghĩa với "Pe nang" thành phố thứ 2 của nước này, sau thủ đô "Cua La Lăm Pua”, thành phố của một nước “dừa cau soi bóng sông dài biển xanh”. Theo tự vị Trung Hoa, Pe nang chuyển thành "Tân Lang”. Vậy trong thời Hùng Vương từ chỗ chưa biết đến chỗ thành lệ tục, tục ăn trầu của nước ta đã phổ biến nhiều nơi ở Đông Nam Á. Sách Thảo mộc trang của Kê Hàm viết: "Người Giao (Giao Châu, Giao Chỉ tức Việt Nam) người Quảng (Quảng Châu, Trung Quốc) đều cho trầu cau là quý, khi cưới xin, đãi khách, thường phải dùng nó. Khi gặp nhau không có miếng trầu thì người ta lấy làm ân hận”. Sách Quế hải Ngu hành chí nói: “Người Nam thích ăn trầu, dùng bạc và thiếc làm cái hộp nhỏ : “Một cái đựng vôi, cái đựng dây hay lá trầu và một cái đựng cau”. Người Thái ở nước ta có các bài ca : “Mời người thương xơi trầu”, "Cám ơn người đẹp đưa trầu”. Người Kinh có các câu :
Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu...
Ở vùng đất tổ, nơi phát tích của các vua Hùng, tục đó càng phổ biến, đã ăn sâu vào đời sống, thành nếp sống của mọi gia đình. Như cúng Thần Nông ở xã Thuỵ Vân (Việt Trì) trong lễ hạ điền phải có 100 miếng trầu, cau. Trong
sinh đẻ, khi đầy cữ (trai sinh ra đã 7 ngày, gái đã 9 ngày) khi cúng 12 bà mụ, nhiều khi phải cúng 12 miếng trầu. Trong cưới xin, ở lễ dạm phải có cành cau đáp ngõ. Từ lễ ăn hỏi cho đến cưới đều phải có trầu cau. Về mặt ăn uống
Và y học, có nhiều tài liệu đã khẳng định: Sách Thảo mộc trang viết: "Cau tươi ăn quả nó, vừa đắng, vừa chát, nhưng róc vỏ, đem nấu chín, rắn như táo khô; ăn với dây trầu không và vôi thấy thơm ngon; hạ khí, tiêu cơn". Sách Quảng Đông tân ngữ ghi lại câu ca: "Tân lang bạch sinh bạch hoa. Thực hoa đế, đương thanh trà" (Buồng cau trăng trắng, cái cẳng cành hoa, cũng trăng trắng; ta ăn cẳng hoa, như uống nước trà). Đó là một trong những lý do, góp phần giải thích vì sao thời Hùng Vương phổ biến việc ăn trầu cau?
5) Cá và cách chế biến cá
Đặc điểm độc đáo của địa lý nước ta là hầu như những chỗ nào có nước đều có cá (trong khi ở châu Âu, Bắc Á và châu Mỹ cá thường chỉ có nhiều ở biển, ở các sông và hồ lớn). Ở nước ta, trong một số di chỉ thuộc văn hoá Hoà Bình đã thấy có xương cá, ở Trung kỳ đồ đá mới đã có chì lưới và nhiều xương cá, thậm chí có cả xương cá biển. Sang Hậu kỳ đồ đá mới và thời đồ đồng, dấu vết ngành đánh cá nước ta càng phong phú, thể hiện rõ rệt nhất là ở các di chỉ ven biển và đồng bằng. Lúc này, cùng với chì lưới bằng đất nung, nước ta đã có nhiều lưỡi câu đủ các cỡ. Ở di chỉ Đồng Đậu, số xương cá nhặt được tới hàng chục cân. Về tài liệu thư tịch, Lĩnh nam chích quái chép rằng: "Hồi quốc sơ (thời Hùng Vương mới dựng nước) dân sống ở chân núi thấy chỗ nước cạn có nhiều tôm, cá bèn bắt ăn". Sử Ký (của Tư Mã Thiên, phần Hoá thực liệt truyện) chép là : "Miền Sở Việt đất rộng người thưa, trồng lúa và đánh cá mà ăn". Về lệ tục: Tục đánh cá được duy trì từ thời Hùng Vương tới nay, ở vùng đất tổ. Mô tả lại tục đó ta có thể hiểu thêm vài nét về không khí đánh và ăn cá thời đó như: Đánh cá thờ thì ở Kẻ Giáp xã Tứ Xã, Phong Châu vào tối 11 tháng chạp ta, mặc thời tiết ấm hay rét, dân làng vẫn kéo nhau ra gò Đồng Đậu mang theo đủ nơm, đập, hoặc thuyền lưới, chờ tới lúc chuông chùa Tổng đổ xong 3 hồi báo hiệu, ông chủ tế mới hô lớn: "Dân làng ta xuống đánh cá thôi". Mọi người ùa xuống nước đánh cá. Ai cũng cố sức làm sao đánh được con cá thật to để trình thánh, tạo nên không khí trên bộ dưới nước huyên náo vui vẻ. Khoảng 2 canh (tức 4 tiếng đồng hồ) sau, chuông chùa Tổng lại dóng lên thu quân. Mọi người hối hả kéo nhau trở lại gò Đồng Đậu, bày những con cá bắt được cho làng chọn lấy 2 con cá chép to nhất, béo nhất. Một con được mổ ngay, nướng chín để sáng hôm sau (12 tháng chạp) tế thần, còn một con lấy bẹ chuối ép lại, ngoài đắp đất, vùi trấu cho chín nục dùng cho tiệc cầu xuân ngày 10 tháng giêng. Làng Đào Xá (Tam Thanh) mở hội đánh cá thờ vào ngày 28 tháng giêng. Lệ bắt buộc là sau khi bắt đủ 28 con cá chép to xấp xỉ nhau thì đem lên đền để nguyên cả con mà kho. Cá chín, bày lên bàn thờ cúng khấn, sau đó, hạ cỗ lấy chia phần cho mọi người ăn ở sân đền lấy may. Nhưng vui nhất, đầy chất cổ sơ là Hội kéo bạ bắt cá của đồng bào Mường xóm Lá, xã Thạch Kiệt (Thanh
Sơn) cũng trong vùng đất tổ Hùng Vương : Vào mùng 3 tết Nguyên Đán, buổi sáng, dân gọi nhau ra vực Sặc gần làng. Ở đây, họ chia nhau, người lội nước, người lên mảng, dùng tay, dùng gậy đập té nước vang động một góc trời, cốt làm cá hoảng hết chui vào bạ. Còn người trên bờ phân công nhau chặt cây, bẻ lá, chẻ lạt, bắc sàn sạp ngay trên bãi cỏ bìa rừng, sửa soạn nơi cầu tế mừng xuân vào ngày hôm sau (mùng 4 tết). Một hồi chiêng vang lên, đánh cá xong, dân kéo bạ lên bãi, cá trong bạ tuôn ra. Ai cũng vui cho là năm nay mình gặp nhiều may mắn. Các già làng được mời ra chọn cá. Những con cá to nhất, tươi nhất được giữ lại, thả vào giỏ thưa nuôi đến hôm sau mới dùng vào hội. Còn lại chia đều cho mọi gia đình mang về làm cỗ cúng gia tiên, lấy may.
Lệ tục trên cho thấy : Trong chế biến thức ăn cá hẳn từ thời Hùng Vương tổ tiên ta đã phổ biến cách nướng cá: "Lấy bẹ chuối ép lại, ngoài đắp đất vùi trấu cho chín nục". Cách này vẫn phổ biến ở vài vùng nông thôn nước ta: “Để nguyên cả con cá, không đánh vẩy, phết một lớp bùn ướt ở ngoài rồi vùi trong trấu đốt lửa, khi chín, bóc vỏ bùn đi, để ăn phần còn lại. Lớp vỏ bùn giữ cho cá khỏi cháy, hút hết tanh hôi, khi bong ra bóc theo cả vẩy cá. Cùng với cách nướng bọc đất, còn có cách nướng gói lá nữa. Thời Hùng Vương rừng cây bạt ngàn, dùng lá gói rất tiện. Nướng cá gói bằng lá tươi phổ biến ở vùng người Kinh, cùng phổ biến nhiều hơn ở vùng người Thái, người Xá (mà người Thái gọi là Pho). Lệ cũng nói tới cá kho để nguyên cả con. Đặc biệt món gỏi cá là món ăn phổ biến nhất thời Hùng Vương, thể hiện rõ rệt nhất trong lễ hội vùng sông nước cả người Kinh lẫn người Mường. Ở người Kinh như ở xã Phượng Lâu (Việt Trì) tháng 3 và tháng 8 có tiệc gỏi cá : Mỗi giáp đưa tới đình một con cá chép to nhất để dâng thánh. Cá mổ xong, dùng giấy bản và lá ngải lau sạch. Gỏi cá được ăn với rau nhội, rau võng cách, rau húng. Các bậc cao tuổi ở đây kể rằng: Thời Hùng Vương thứ 18, khi đánh đại quân Thuỷ Tinh, quân tướng Sơn Tinh đã bắt quân địch là các loài cá để ăn sống cho hả giận. Vì thế, khi tế các vua Hùng, khấn Sơn Tinh, có lệ cúng cá gỏi. Ở người Mường, sáng mùng 4 tết dân cả bản đều đem theo bánh chay, cơm lam, rượu hoãng, rau ráng, tương muối... ra bãi dự lễ; dùng các thứ đó ăn với gỏi cá. Họ phân công nhau làm gỏi: người băm xương nấu chải - loại nước chấm dùng riêng cho gỏi cá; người lóc cá, người kiếm lá đơn, lá cách... làm rau. Cá gỏi làm xong đặt lên sàn nứa để thầy mo cúng rồi mọi người dự cỗ... Nhìn chung, trừ món nấu chải ra, gỏi cá nước ta về cơ bản là : cá sống ăn với rau, gia vị không cần lửa.
Gỏi cá nước ta là một đặc sản có từ thời Hung Vương. Nhưng canh cá nước ra thời này cũng rất nổi tiếng. Các tác giả Trung Quốc thời cổ (như Tư Mã Thiên) thường chú ý tới món canh cá nước ta. Món mắm cá cũng đáng chú ý.
Sách Lĩnh nam chích quái cho biết : “Tổ tiên ta xưa lấy chim muông, tôm cá, làm mắm để ăn”. Có lẽ khi ướp cá để dự trữ, thực tế đó đã gợi ý để người thời Hùng Vương tìm ra kỹ thuật làm mắm. Thời này, trong điều kiện thiếu những phương tiện tốt để chế biến, bảo quản, dự trữ thức ăn cho những lúc thiếu thốn thì việc tìm ra kỹ thuật ấy có ý nghĩa rất quan trọng. Hầu hết các tộc người thời ấy đã biết làm các loại mắm bằng các thuỷ sản khác nhau. Người Kinh hay làm mắm tôm, mắm tép, người Mường thích làm mắm nhái, người Thái thường làm mắm cá (giống món Pho đec người Lào, món Brahôc của người Khơ Me). Ở vùng biển và đồng bằng nước ta lúc đó còn có cá mắm: người ta á bằng muối, phơi khô. Còn ở vùng núi cũng ướp cá bằng muối nhưng sấy trên lửa.
6. Những lệ tục tín ngưỡng về ăn uống :
Cỗ cúng: Cuộc sống thời Hùng Vương ngày càng hoàn thiện thì cỗ cúng cũng được nâng cao hơn về hình thức, về chất lượng, dần dần hình thành lệ tục, gắn với tín ngưỡng. Có hai loại cỗ cúng : cỗ mặn và cỗ chay.
Nếu so với cỗ chay thì cỗ mặn thời này phong phú hơn cả về cách nấu, tên gọi lẫn số lượng phẩm vật.
Về cách xử lý nguyên liệu thực phẩm: Tuỳ theo yêu cầu của đối tượng hoặc dựa theo truyền thuyết thời Hùng Vương mà biết: Thịt để sống hay thịt chín, hay nửa chín nửa sống hay lòng chín, thịt sống... Chỉ cần qua cách nấu, cách
bầy cỗ, cách ăn được lưu lại thành tục còn tới nay ở vùng đất tổ nơi có gắn bó nhiều với thời Hùng Vương, ta cũng có thể hiểu (dù là chưa đầy đủ) về cái thuở khó quên ấy.
Về tên gọi: Có thể gọi theo đơn vị cộng đồng: cỗ làng, cỗ hàng giáp tuỳ theo tính chất hiếu hay hỷ: cỗ cưới hay đám ma; theo hình thức trình bầy: cỗ phố, cỗ chảng: theo lễ vật cơ bản chính yếu hay theo cấu tạo: cỗ trâu, lợn hay cá gỏi, cỗ ván xôi gà hay cỗ tam sinh: để cúng theo mục đích định trước: cỗ kết chạ, cỗ cầu thần, cỗ cầu mưa...
Mâm tre, lá ngõa, đĩa bày
Thịt trâu dân cúng để đầy cả mâm
Đó là thứ cỗ ở vùng đất tổ nhiều người biết gọi là cỗ phố. Nổi tiếng nhất là cỗ phố xã Phù Ninh (Phong Châu) có "Cửu trùng thất diệp":
Cỗ bầy chất ngất chín tầng
Mỗi tầng bày lá cúng dâng lên người ...
Cúng tế xong, cả làng cùng ăn ngay trên bãi cầu. Ăn cỗ thịt trâu bằng bát đũa, cành tre, lá, có nơi còn ăn bốc. Sống lại buổi chất phác ấy còn phải kể tới cỗ cúng cầu xuân của làng Lương Lỗ ngày mồng 3 tháng giêng gồm: cỗ cơm lam thịt lợn (gồm cơm lam nấu bằng ống nứa, thịt luộc bằng nồi da lợn); đũa vót bằng nứa tươi, bát là đoạn nứa có mắt, đĩa dùng nan nứa đan, mâm bằng phên đan.
Tế tại đình ăn chung tại đình
Nứa tre bát đĩa ta mình say sưa .
Cỗ phố phải chăng là hèm tục ăn của cư dân săn bắt? Đồ đựng thức ăn, nồi nấu đều lấy ngay từ thiên nhiên. Người đến dự ăn cũng theo tinh thần cộng đồng xã hội nguyên thuỷ: Mọi người ăn như nhau và cùng ăn một lúc. Song, để khẳng định tính hiện thực của hèm tục, người ta vẫn viện dẫn rằng đó là chuyện có từ thời vua Hùng: Tướng lĩnh Hùng Vương trên đường hành quân săn được con mồi, đi qua đây dừng chân lại nấu nướng ăn uống với nhau. Ăn con mồi chưa đủ thì dân biếu thêm. Để kỷ niệm, những đồ dâng biếu đó sau thành thức làm cỗ cúng kết hợp với việc biểu diễn, việc chế biến thức ăn. Như truyền thuyết vua Hùng và quân tướng đi săn qua xóm núi Thậm Thình, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi diễn tả :
Dân dâng một quả xôi đầy
Bánh trưng mấy cặp, bánh dầy mấy đôi.
Đẹp lòng vua phán bầy tôi
Tìm đất kén thợ, chọn nơi xây nhà.
Trăm cô gái tựa tiên sa
Múa chầy đôi với chầy ba rập rình...
Có một loại mâm cúng đơn giản, ngon và đủ, đó là hình tượng thu nhỏ, tiêu biểu về sản phẩm chăn nuôi và trồng trọt, từng phổ biến ở mọi làng và trong cả mọi nhà là cỗ hàn âm, tức là cỗ mâm xôi với gà luộc để cả con ở trên hay là ván xôi gà như tục vẫn gọi cùng bầy với nậm rượu và đĩa trầu cau.
Các bậc cao tuổi ở vùng đất Tổ thường cho là: bánh chưng, bánh dầy, rượu
mộng là những đồ ăn uống quý từ thời Hùng Vương đã có, ngày tết thường phải có bánh chưng: tiệc bánh dầy thường bầy 4 cái, 1 ván xôi gà và 1 bình rượu mộng.
Về cỗ chay: Người thời Hùng vương chế biến bột ngày càng thuần thục hơn, dần dần đã biết trộn bột với chất ngọt của mía, của mật ong mà chế ra hàng loạt bánh. Ở giai đoạn cuối thời Hùng Vương, An Dương.Vương về sau cho đến đầu công nguyên có thể Phật giáo đã manh nha truyền vào nước ta thì tư tưởng không hoặc hạn chế sát sinh có khả năng đã có nên việc cúng cỗ chay đã hình thành: Từ Sơn Tây đến Phú Thọ... nơi gắn nhiều với thời Hùng Vương hẳn đã có nhiều loại cỗ chay song cũng nằm trong mô hình chung nhất là: Hương hoa, bánh, trái hoặc hương hoa, oản quả, gồm: hương, hoa, trầu, cau, rượu, bánh ngọt, trái cây thể hiện ở nhiều địa phương "mỗi nơi một vẻ" như: Tiệc bánh dầy làng Nha Môn (xã Tiên Du - Phong Châu) gồm 4 bánh dầy, 4 bát chè kho, 1 bát xôi, 1 bát mít, 1 bát dứa, 1 nải chuối, 1 be rượu.
Tiệc cầu chay xã Thanh Xá (Thanh Hoà) mở vào giờ Dần (khoảng từ 4 giờ đến 6 giờ sáng tháng 11 âm lịch gồm: bỏng (12 nắm), chè lam, chè kho, bánh uất, cam (12 quả), rượu mộng (1 hũ), xôi gà (1 ván), hương hoa, trầu cau.
Hoặc "cỏ lương khô" của hội Phết Hiền Quan (Tam Thanh) ngày 13 tháng giêng, thành phần gồm: hương hoa, trầu cau, ba cây bánh chay xếp tròn như cột đình với các thứ bánh như bánh uất, bánh mật, bánh gai, bánh nẳng, bánh chưng, bỏng rang, chè lam, bánh bỏng và chuối, bưởi, cam, quýt. Tên gọi cỗ này làm ta dễ liên tưởng đến các phẩm vật dùng làm lương khô cho quân lính ta thời xưa:
Cỏ lương khô hội Hiền Quan
Cầm lòng quân Lạc băng ngàn xông pha.
Song, cổ hơn có lẽ là tiệc cầu chay của xã Lương Lỗ (Thanh Hoà) ngày mồng 7 tháng giêng, cỗ gồm có chuối xanh luộc, rau cần luộc, chè lam, trầu cau 100 miếng. Hay như ở xã Đại An (Thanh Hoà) tiệc mở ngày 10 tháng 8 gồm các lễ vật cũng là chay gồm: 100 cái bánh gùn, oản quả, xôi chè. Có câu :
Xôi chè oản quả dâng lên
Khiết tinh như chiếc bánh gùn Đại An
Thuở Hùng chất vị chứa chan.
Lệ tục thi tài làm thức ăn
Thời Hùng Vương đã có những lệ tục thi tài làm thức ăn. Những lệ tục đó nhiều hay ít còn lưu lại tới nay, thể hiện trong sinh hoạt của nhiều địa phương, nhất là ở vùng đất Tổ. Nghiên cứu những sinh hoạt đó ở thời nay có thể suy ra thời các vua Hùng. Đấy là các sinh hoạt văn hoá dân gian phản ánh hình thái xã hội nông nghiệp trồng lúa nước, lúc các làng chạ đã có thể định hình, khi hạt lúa đã được chế biến ngày càng tinh xảo và chăn nuôi đã phát triển đến một trình độ nhất định, làm cơ sở cho các hội hè đình đám của công xã với các hình thức so tài cao thấp, để biểu dương, cổ vũ đời sống nông nghiệp nơi đồng quê, trao đổi kinh nghiệm làm ăn, tiến tới tổng kết để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống và phát triển văn hoá hơn nữa.
a - Thi tài nấu cơm :.
Ở vùng đất Tổ đa số các lệ tục này đều có quan hệ sâu sắc với huyền thoại Hùng Vương và Tản Viên: "Vua Hùng vương, Thánh Tản Viên - Nấu cơm dân mãi không quên ơn người". Ở làng Hữu Bổ (Phong Châu) dân cho nấu cơm thi để kỷ niệm vua Hùng dậy các công chúa nấu cơm và dạy xong bắt thi để kiểm tra kết quả. Thành viên dự thi phải có tinh thần đồng đội, có kỹ thuật thể hiện trí thông minh. Người thi có nơi phải vừa xay giã, vừa thổi
cơm và người thi ở nơi nào cũng phải tự mình tạo lấy lửa theo đúng hình thức cổ truyền (chứ không phải là châm lửa theo kiểu hiện đại ngày nay). Thi nấu cơm không bao giờ đơn lẻ, ít nhất là 2 người trực tiếp vào thi nấu cộng với công sức của gia đình và hàng giáp nơi "hậu trường". Bởi nấu thi phải có tập luyện, nấu thử từ gia đình tới giáp trước khi ra đấu tài, đua khéo với xã. Nấu cơm thì phải được học kỹ, được truyền thụ kinh nghiệm từ trước. Nam nữ đều được dự thi, cùng nhau công sức tỏ rõ sự bình đẳng, dù có đôi chỗ chỉ có nam thi thì cũng thể hiện việc bếp nước, không chỉ bất công đổ dồn hết lên người phụ nữ. Dù gặp đủ mọi khó khăn: vừa đi vừa nấu, gánh nồi mà nấu, ăn mía lấy bã làm củi, cọ sát các thanh giang vào nhau mà lấy lửa... người tham dự vẫn phải nấu được cơm đạt tới mức cơm dẻo vừa chín tới, không nhão. Cùng với tiêu chuẩn đó nhưng mỗi nơi một vẻ, không đơn điệu: Xã Sơn Đông (Lập Thạch quê hương nổi tiếng của anh hùng Trần Nguyên Hãn) nấu cơm thi vào ngày 8 tháng giêng âm lịch. Xã này có 4 giáp, mỗi giáp mang theo 4 cân thóc, 1 chiếc nồi, 1 khúc gỗ xoan, 1 ít phoi bào khô, vài chiếc lạt ng, 1 cối giã, 3 chiếc cọc tre làm chân kiềng và nong nia, dần sàng. Mỗi giáp cử 8 người dự thi với sự phân công rõ ràng: 2 người giã gạo, 2 người sàng sẩy và chọn gạo nấu, 2 người kéo lửa và bắc bếp nhóm lửa, 2
người ra sông lấy nước. Trên đường lấy nước họ đều bị người chạy theo mang trống chiêng khua vang, cố ý làm cho mất bình tĩnh, làm đánh đổ nước hay vỡ nồi. Giáp nào vỡ nồi, nấu cơm vụng phải nộp 1 chai rượu, 1 đĩa trầu cau theo lệ.
Làng Đoan Hạ, bên sông Đà (là một thôn của xã Đồng Luận - Tam Thanh) thường nấu cơm thi vào ngày tiệc tế thánh Tản Viên mồng 4 tháng giêng. Người cao tuổi nơi này cho biết: Ngày đó Tản Viên đi lễ tết bố vợ về đã dừng chân ở Đoan Hạ. Dân địa phương nấu cơm thi, mổ lợn mời ngài. Có tục lệ: 2 người thi nấu cơm là "ông Chánh" và "ông Phó" đều phải thắt cân đai. “Ông Chánh" mặc áo thâm, "ông Phó" mặc áo trắng, mỗi người cầm một quyển sách đi quanh đình để kiểm soát nơi đóng quân. Đấy là nghi thức của trò diễn, tượng trưng cho việc Tản Viên đóng quân nghỉ ngơi. Hai vai Chánh - Phó đó là người của 4 giáp thuộc Đồng Luận lần lượt cử nhau. Sau trò diễn nghi thức trên mới tới trò kéo lửa nấu cơm thi.
Còn có nhiều địa phương có tục nấu cơm thi như: Làng Tích Sơn (thuộc thị xã Vĩnh Yên), xã Yên Thư (Vĩnh Lạc), xã Thượng Trưng (Vĩnh Lạc), xã Từ Trưng (Vĩnh Lạc), thôn Gia Dụ, xã Vực Trường (Tam Thanh), xã Kinh Kệ (Phong Châu)...
b - Thi làm các loại bánh:
Loại thi này đòi hỏi nghệ thuật cao về xay giã, chế biến lương thực, nấu nướng. Nếu thi nấu cơm là thi ở đình còn thi làm bánh thì bánh làm ở giáp, ở nhà đăng cai rồi đem ra đình thi. Thi làm bánh được thể hiện trong những điều kiện thông thường, không có những qui định khó khăn như buộc niêu cơm vào cần tre, vừa đi vừa nấu hay đánh giang lấy lửa. Nhiều địa phương Nam có tục lệ thi bánh nhưng đa số là thi bánh dầy, một số nơi ít hơn thi bánh nắng và bánh ót. Trong sinh hoạt nhân dân có biết bao loại bánh thơm ngon nhưng bánh dầy, bánh chưng vẫn là hai thứ bánh "tiên chỉ", xếp đầu bảng trong làng bánh Việt Nam cả về chất lượng, nhất là về ý nghĩa lịch sử. Song bánh chưng chỉ làm lễ vật tế thần linh mà không thi. Còn bánh dầy vừa được coi là bánh đầu vị trong tế thần linh do tính chất tinh khiết của nó, vừa được đem ra thi tài chế biến nấu bánh. Bánh dầy bầy vào cỗ chay, cỗ mặn đều được. Có thơ dân gian ở đây:
Biết bao hội đám việc làng
Bánh dầy tinh khiết hàng hàng xếp lên.
Muốn cho bánh dẻo bánh mềm
Việc kén chọn gạo đặt lên hàng đầu.
Người ta truyền tụng mấy câu như thế, ứng với việc gạo phải được tãi ra mâm thau rồi chọn từng hạt, khi bắt bánh thì bắt bằng rượu và lòng đỏ trứng gà. Đúng ngày mồng 3 tháng giêng thôn Cà Dốc xã An Đạo (Phong Châu) thi cỗ bánh dầy: Mỗi giáp làm một cỗ, mỗi chiếc bánh xếp vào một đĩa lớn, lòng đĩa lót giấy bản. Xếp bánh xong, người ta buộc túm lại, xoắn vào một tờ giấy làm dây buộc. Tất cả đều xếp vào mâm có trang trí hoa giấy. Người ta xếp ngay ngắn các mâm bánh thành hàng ở một thửa ruộng cao ráo, hai bên ruộng cắm cờ đuôi nheo. Dân làng tế thần ngay ở đấy. Tiệc bánh dầy ở Yên Thư (Vĩnh Lạc) tổ chức vào dịp hội làng khoảng từ mồng 3 tới mồng 7 tháng giêng âm lịch. Cả 3 giáp đều náo nức tham gia thi. Các chủ ruộng cấy lúa nếp chú ý chọn ra loại nếp tốt nhất để mồng 3 giã gạo cho thật trắng kịp trưa mồng 4 đem góp cho giáp, cứ nhà có bao nhiêu con trai thì góp bấy nhiêu đấu gạo. Nhà không có con trai thì cũng góp 1 xuất. Sáng ngày mồng 5 gạo được trộn đều để giao cho người đăng cai. Người đăng cai phải thật sự chay tị, mỗi ngày phải tắm 2 lần bằng nước gừng. Nước làm bánh phải xin ở làng Đình Xá (làng ở bên cạnh kết nghĩa với làng Yên Thư). Theo lệ cổ truyền, từ chiều ngày mồng 4, làng Đình Xã đã giữ nước giếng cho trong sạch, không để ai đến gánh. Giếng được che bằng chiếc lọng to. Sáng mồng 5, đoàn đại biểu Yên Thư gồm mỗi giáp chọn ra 8 đôi chĩnh lên đường sang Đình Xá lấy nước. Ngay khi gà gáy buổi sớm, dân làng đã thắp hương làm lễ đưa đoàn người khiêng chĩnh tiến sang Đình Xá. Sang tới xã bạn, người Yên Thư thả mấy quan tiền xuống giếng theo lệ rồi mới múc nước. Tất cả mọi động tác từ múc nước đến quảy nước về làng đều phải thật khéo, thật nhanh. Đoàn người lấy nước về được bà con 3 giáp ra đón tại đầu làng với chiêng trống vang lừng, cờ xí rực rỡ. Bước vào làm bánh, quang cảnh nơi tập trung giã gạo thật là tưng bưng. Trên một sân rộng có bắc rạp làm với bàn thờ trang hoàng lộng lẫy, bầy la liệt.bàn ghế cho các giáp tổ chức ăn uống đông vui để giã bánh. Giã gạo từ chiều mồng 5 đến chiều mồng 6, đêm mồng 6 rạng ngày mồng 7 thì xôi gạo nhuyễn. Sáng mồng 7 cả giáp giã bánh trong chiêng trống khua lên náo nhiệt. Trước khi giã dân làng chôn cột đá sâu xuống để cối khỏi xê dịch. Chày làm bằng tre non cạo hết tinh, dùng nước xoa trứng. Người bắt bánh phải xoa lòng đỏ trứng vào tay cho đều. Mỗi chiếc bánh nặn nhỏ bằng phẩm oản được đặt lên một lá mít cắt tròn, khoảng ba hay bốn trăm chiếc bánh được đặt lên giường thờ trông rất tề chỉnh. Bánh đạt tiêu chuẩn, ít nhất cũng phải là bánh tròn, không nhăn gợn, bóng và thật ngon. Mỗi giáp chấm lấy một quả nhất (dân làng nói “quả bánh chỉ một chiếc bánh"). Bốn người chấm thi trong đó có 1 chủ tế được cử ra. Quả bánh nhất được đặt vào một
chiếc đĩa úp bắt lên trên rồi được đặt vào chính giữa mâm bánh. Dân làng tấp nập đưa kiệu khiêng mâm bánh ra đình. Các kiệu đó lúc rước thì các chân kiệu phải đi nhích từng bước trong khung cảnh cờ dong trống mở. Ba giáp đi thành 3 đám rước tới một địa điểm gọi là "Bạch mã" thì cả 3 giáp đó dóng hàng ngang cùng đi. Lúc Lý trưởng nổi trống ra lệnh Tây xướng-Đông xướng thì cả 3 kiệu phải chen nhau chạy vào đình, bỏ lại phía sau mọi cờ quạt, nhang đèn. Vậy các giáp phải cử người khoẻ, nhanh nhẹn để giữ cho kiệu khỏi đổ. Sau khi đưa bánh vào "trình ngài" ở hậu cung, người ta mới bình tuyển để chấm lấy mâm bánh đạt giải nhất.
Tiệc bánh dầy ở xã Phù Ninh (Phong Châu) lại có lệ chỉ có ông trùm và hai chức sắc được dân làng cử mới được bắt bánh. Tiệc bánh nơi đây được tổ chức vào mồng 2 tết, gọi nôm na là "tiệc làm mo". Theo lệ làng, gia đình nào có 4 con trai thì phải sửa cho mỗi người một cỗ bánh dầy gồm 12 chiếc, mỗi chiếc nửa cân gạo. Còn ở xã Đại An (Thanh Hoà) lại thi bánh dầy theo hộ: Mỗi gia đình sửa một chiếc bánh một cân gạo. Ban tổ chức cắt đôi chiếc bánh ra để kiểm tra kỹ rồi mới chấm giải. Đặc biệt, tiệc bánh dầy ở xã Nha Môn, nay thuộc xã Tiên Du (Phong Châu) vào ngày 6 tháng giêng âm lịch thì chỉ có hương lý mới được giã bánh, bắt bánh. Mỗi hương lý được sửa 4 chiếc, mỗi chiếc đường kính 30 phân mét. Tế xong, bánh được đem về xóm, chia cho hết thảy dân làng, thể hiện tinh thần dân chủ cộng đồng từ thời Hùng Vương dựng nước còn dai dẳng tồn tại mãi tới nay.
Cùng với tiệc thi bánh dầy, các dịp hội làng ở nhiều nơi còn làm nhiều thứ bánh khác để thi hay chỉ để "trình Thánh". Người ta mong muốn mọi việc đó đều tốt để cho làng, cho giáp gặp nhiều may mắn.
Xã Hiền Quan (Tam Thanh) có hình. thức khá độc đáo: Vào ngày tiệc lệ 13 tháng giêng, mỗi giáp làm một cây bánh gồm các thứ bánh chưng, bánh dầy, bánh bỏng, bánh gai, chè lam, bánh uất, bánh nắng, bánh rán và hoa quả xếp
chồng lên nhau có khi cao tới một mét. Dân làng gọi đó là "cây lương" của bà Thiều Hoa. Cây lương đó sẽ được trao về cho các giáp gọi là lễ "phân lương”, một nghi thức tưởng niệm quân bà Thiều Hoa nhận lương để ra trận đánh giặc Hán.
Ở xã Thuỵ Vân (Phong Châu) vào ngày tiệc mồng 9 và ngày 10 tháng giêng có bánh mật được suy tôn là"khổng lồ", loại bánh đàn anh trong làng bánh về kích thước: Đường kính bánh 30 phân mét và rất cao. Dân làng đặt bánh vào nồi 40, buộc dây chão giữ cho bánh đứng tới khi bánh chín.
c - Thi làm cỗ:
Ở huyện Phong Châu (Phú Thọ) xưa có một số địa phương tổ chức, thi cỗ : Thôn Do Nghĩa, xã Sơn Vi, thôn Đông Thái - xã Cao Mai, xã Thạch Sơn... đều thi. Ở đấy mỗi một mâm cỗ bầy 8 tầng bát đĩa, phải 4 người mới khiêng nổi ra đình. Từng món ăn phải đạt tới trình độ cao và làm rất cầu kỳ. Như món cá hấp là cá gáy tươi làm sạch, cho vào nồi đổ trấu xung quanh mà hấp. Hấp xong, cá phải nắn tròn trên đĩa trông như con cá sống đang bơi, mang cá xoè ra, mỗi vẩy đều điểm một hột gạo nếp. Còn có cỗ bày gà giả phượng, có cỗ bày chim ngói xếp hình Lã Vọng câu cá. Có cỗ hoa quả với phật thủ, bưởi, cam, quít, chuối, hoa cúc, hoa hồng...hầu hết chế biến khéo bằng bột nếp. Nhưng gắn với hoa quả phải kể tới cỗ ở xã Thượng Trưng (Vĩnh Lạc): Vào tháng giêng, lấy quả đu đủ nhuộm vàng, nhuộm đỏ làm hoa và lấy trứng luộc bóc vỏ rồi nhuộm màu, điểm thêm tai hồng hoặc quýt bằng giấy cắt. Con trai, con gái từ 1 3 tuổi trở lên chưa vợ, chưa chồng đều được dự thi. Lặp lại nhiều đời thi như thế nên trai gái Thượng Trưng đều tinh nghề cỗ bàn, nhất là cỗ bàn bàng hoa quả từ nhỏ tuổi.
d - Trổ tài đập trâu chém lợn và các nghi thức gắn với ăn thịt trâu, ăn thịt lợn:
Trong hội lễ, sát sinh gắn với một ý nghĩa thiêng liêng nên nhiều nơi sát sinh được tổ chức thành một nghi lễ có tính biểu diễn, tính nghệ thuật để cầu chúc thần linh hoặc tưởng niệm công lao, thành tích của thận làng, tỏ rõ tài năng của con người. "Con trâu là đầu cơ nghiệp", đám làng có mổ trâu mới là đám lớn. Còn con lợn là đầu vị của hầu hết mọi cỗ bàn tiệc lễ ở nông thôn. Vậy tiệc sát sinh trước hết thể hiện ở hai con vật này, tỏ rõ là mộ thức, có nội dung tín ngưỡng.
Xã Chi Tiên (Thanh Hoà) thờ 3 vị tướng của Thánh Tản Viên có công đánh Thục, có tục lệ "cướp búa đánh đầu trâu”. Xã Lương Lỗ (Thanh Hoà) cũng có hội lễ "cướp rìu mổ trâu”. Thôn Hữu Bổ, xã Kinh Kệ (Phong Châu), thôn Vị Thanh, xã Quất Lưu (Tam Đảo), xã Yên Bình (Vĩnh Lạc)... đều trổ tài giết trâu có những độc đáo riêng. Đặc biệt là xã Xuân Quang (Tam Thanh) nhân mở tiệc, dân làng mang cờ quạt, nổi chiêng trống vang lừng, rước "trâu thờ" ra đình. Con trâu được trang trí những giải lụa xanh đỏ được che lọng, buộc ở sân đình. Tới nửa đêm, người ta dắt trâu ra rừng. Hàng chục ngọn đuốc đốt lên sáng bừng cả một vùng. Con trâu được buộc vào một cội cây. Theo tục hèm, dây buộc đó phải là dây thiếu lấy ở rừng Mủi xã Thanh Uyên cùng huyện, cách rừng đâm trâu này khoảng 15 km. Chủ tế khấn rồi ra lệnh giết trâu. Tiếng hò reo vang dậy trong tiếng dồn dập như trống trận. Hàng chục trai tráng tay cầm gậy tre xô đẩy nhau để đánh trâu tạo nên cảnh tượng hùng tráng, náo nhiệt trong rừng đêm.
Còn về trổ tài chém lợn: ở xã Khai Quang (Vĩnh Yên) có hội tế trận vào khoảng ngày 12 tháng chạp âm lịch. Các giáp thôn Mậu Lãm cử 6 trai đinh khoẻ mạnh, cởi trần, đóng khố đứng trước thượng cung từ chập tối cho tới gà gáy sáng. Khoảng này, người ta rước 2 con lợn thờ tới đình và đặt ở sân, bên mỗi con lợn lại có cái chõng bầy sẵn dao bầu, dao phay. Trai đinh trân trọng làm lễ rồi sân đình đứng thành hai hàng bên hai con lợn. Dứt 3 hồi trống, chủ tế cầm roi tre còn nguyên lá ở ngọn phất vào đầu con lợn. Hai trai đinh đứng đầu hàng thật nhanh phải lia dao đứt ngay hai thủ lợn rồi cầm thủ lợn vừa đi vừa múa dâng lên bàn thờ. Tiếp theo, hai người khác cắt lấy khoang cổ (tràng hoa) cũng múa để dâng lên bàn thờ. Tiếp nữa là động tác thứ ba: mỗi một con lợn được cắt lấy 8 miếng vuông ở hai bên sườn, mỗi miếng bằng bàn tay cạo sạch lông, xiên nướng để múa dâng lên bàn thờ rồi bắt đầu cuộc lễ chính thức. Tế xong, mọi người đem lợn về giáp làm thịt chia nhau ăn uống. Vì giết lợn tế đó là hình thức tế trận nên người giết lợn phải khỏe, nhanh, đã được tập dượt từ trước, dao dùng phải tốt, được mài thật sắc như các vũ khí chiến đấu.
Nếu xã Khai Quang giết lợn tế trận thì thôn Bảo Vệ xã Hương Nộn (Tam Thanh) lại có lễ "cầu trận" vào dịp tế Thánh Tản Viên và Thuỷ Thần. Theo các cụ kể: "Thánh Tản", "Thuỷ Thần" có lúc đánh giặc bị thua chạy qua đây, được dân tiếp đón. Từ đây có lễ "cầu trận" để mong các vị ra quân thắng lợi. Tiệc lễ này được xúc tiến vào đêm mồng 2 tết. Từ trước đó, hai giáp đã nuôi hai con lợn đen tuyền. vào ngày đầu tiệc, dân làng chọn 4 trai đinh khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, cởi trần, quàng mảnh vải đỏ quanh quần đùi hay khố để chuẩn bị chém giết lợn. Lợn đen được rước ra đình trong đêm, giữa cảnh đuốc hồng tàn quạt rực rỡ sáng chói, trống đồn dập vang lên. Các chàng trai được chọn mổ lợn vào làm lễ rồi tiến ra sân đình, múa dao chém đúng vào cổ lợn cho chảy tiết, xẻo ngay miếng mầm (thịt bụng) của hai con lợn lấy dao cạo sạch lông rồi múa dâng lên bàn thờ. Giáp nào nhanh hơn dâng lễ vật xong trước thì được giải.
Các xã Hà Thạch (Phong Châu), Thượng Trưng (Vĩnh Lạc), Đồng Lương (Sông Thao), Tích Sơn (Vĩnh Yên), Dịch Đồng, Lạc Ý (Vĩnh Lạc)... trong vùng đất tổ Hùng Vương đều có nhũng việc trổ tài giết lợn tế thần tương tự như thế. Điểm nổi bật ở nghi thức giết lợn tế thần ở các xã trên là không chọc tiết, làm lông hiến tế mà trước tiên thủ lợn bị chém lìa khỏi cổ, cứ để nguyên cả da, lông đang đẫm máu nóng hổi mà dâng ngay lên thần linh. Sau đó mới xẻo từng miếng thịt sống ra dâng tiếp. Tất cả thể hiện tính thượng võ của cư dân nông nghiệp đang trên đà phát triển, có yêu cầu nâng cao trình độ sản xuất, trình độ ăn uống. Song, trong tục rước lợn thờ, chém giết lợn ở xã Gia Thanh (Phong Châu) vào ngày 8 tháng giêng ở khâu cuối làm cỗ sau khi
giết lại có độc đáo riêng: Lợn mổ xong, thủ và lòng gan luộc bày cỗ, gọi là cỗ thủ. Dân làng bóc màng mỡ chài bao ngoài dạ dầy đem phặt thủ lợn để tế. Cổ lệ còn có 3 xiên chả nướng dựng chạm đầu vào nhau, chân choãi ra như bộ khung gầu sòng, đặt phía sau thủ lợn. Cỗ này dân làng quen gọi là "cỗ chằng" (dân địa phương hay gọi khung gầu sòng là chằng tát nước). Tất cả đống thịt lợn sống còn lại đem pha thành nhiều miếng nhỏ chia đều cho con trai trong làng. Bày xong cỗ thủ và cỗ chằng ,chủ tế làm lễ cáo thần linh, xong hạ cỗ, mọi người ngồi ăn ngay tại chỗ: thủ lợn, lòng gan; 3 xiên chả nướng đó với bánh chưng thêm vào. Lệ ấy là dựa theo truyền thuyết: Vào một lần, tướng lĩnh vua Hùng đi săn qua vùng này được thú rừng, dừng lại ăn. Song đường đi còn dài, họ chỉ kịp ăn thủ và lòng, còn thịt phải để dành, chia đều cho quân lính mang theo. Vậy nên phần thân lợn phải để sống. Cuộc đi săn của họ chủ yếu là săn bằng lưới. Để thể hiện việc ấy nên chả xiên ở một đầu, còn đầu kia cuộn dán lại cho xiên miếng thịt thêm chắc. Đây là tượng trưng cho chiếc lưới được cuốn vào cọc lưới. Còn 3 xiên chả là hình ảnh 3 chiếc cọc lưới phơi sau cuộc săn. Màng mỡ chài phủ lên đầu lợn là tượng trưng sự hoạt động trồng trọt và chăn nuôi: Bộ khung gầu sòng nước - vào ruộng để cầy cấy, lợn béo là thể hiện gia súc mỡ màng, mùa màng bội thu. Ở khâu cuối làm cỗ, ở hai làng thuộc huyện Thanh Hoà đất Tổ lại có tục nấu thịt lợn bằng nồi da lợn: Làng Mạo Phổ (xã Lương Lỗ) vào các ngày 2, 3 tháng giêng; làng Hạ Mạo (xã Thanh Minh) vào các ngày 4, 5 tháng giêng; các làng này có hèm tục: Cần 4 con lợn, 4 chân trắng, đầu có khoáy đốm trắng. Làng cử 20 trai chưa vợ, chia làm 4 tốp thi nhau mổ lợn với qui cách phóng tiết (chọc tiết) lợn xong thì thui rồi lột da làm nồi nấu thịt. Trong lúc ấy, dân làng tìm ống nứa nhồi gạo, nướng cơm lam, dùng đũa nứa, bát nứa, phên nứa bầy thịt lên, cúng khấn xong mọi người cùng ăn ngay tại đình. Lúc làm thịt lợn nếu tốp nào mổ lợn luộc thịt chín trước thì được bầy lên thượng bán, làng thưởng một nhạo (cổ lợn) mà thêm thức ăn.
e - Các nghi thức gắn với việc thịt gà, thịt chó:
Trong di chỉ Xóm Rền (thuộc giai đoạn Phùng Nguyên) Đồng Đậu đã tìm thấy tượng gà bằng đất nung. Thuộc giai đoạn Đông Sơn còn tìm thấy tượng gà bằng đồng thau ở Chiền Vậy... Cùng với những truyền thuyết về thần gà từ thời Hùng Vương gắn với thời An Dương Vương. Chứng tỏ gà có vai trò quan trọng trong các lệ tục tín ngưỡng thời này.
Ở xã Phù Lộc (Phong Châu) có múa sẵn, các cụ xưa gọi là múa gà phủ, tổ chức vào ngày 7 tháng giêng âm lịch trong lễ mở cửa rừng.
Phù Lộc có một gò rừng tên là rừng Cấm hay rừng Trám, một ngôi đền nhỏ
gọi là đền Thượng thờ Đức Thánh Tản Viên và các bộ hạ của ngài là Thần Hổ (Hổ lang sơn quân) và thần sở tại. Vào tối mồng 7, ông chủ tế và ông Từ mang một đôi gà, một trống một mái cùng một số trai gái trong làng kéo đến đền Thượng rừng Cấm. Con trai mỗi người mang 3 mũi tên, đóng khố, cởi trần. Con gái mang váy và yếm, không mặc áo. Sau khi làm lễ ở hậu cung, ông Từ và ông chủ tế vứt đôi gà đã cắt tiết ra trước đền, đổ bát tiết gà mái xuống đất. Sau đó cuộc múa bắt đầu. Trong cuộc múa, không có hát mà chỉ có hú những tiếng khẽ và ngắn, nam hú trước, nữ hú theo. Thoạt tiên múa chung cả nam nữ rồi sau chia thành từng cặp nam nữ múa riêng, cuối cùng mỗi cặp tự do tìm một chỗ vắng để múa những động tác như đôi gà trống mái vờn nhau theo yêu cầu của tín ngưỡng phồn thực. Đây là một lễ tiết của toàn bộ cuộc lễ thần Tản Viên và bộ hạ của ngài, cầu cho săn bắt thắng lợi trong năm mới, nhất là săn được nhiều gà, chọn được nhiều giống gà thịt ngon hơn. Làm được thế là có sự chuẩn bị trước từ hôm mùng 6. Trai gái Phú Lộc (Phong Châu) mang cung nỏ tên tre cùng ông Từ và chủ tế đến miếu thờ ở rừng Trám làm lễ cúng cung tên và lễ mở cửa rừng. Cung tên đặt trên bàn thờ. Sau tuần hương và cúng cầu
của chủ tế, con trai được nhận cung tên, vái lạy thần linh rồi lại ra, dùng ngay cung tên đó bắn ngay vào cặp gà trống mái trói sẵn ở cạnh miếu. Máu của đôi gà hoà vào nhau thành lễ vật dâng lên thần linh. Tiếp theo, người ta mổ đôi gà làm vật tế, rồi tất cả ăn uống, trò chuyện, nhẩy múa bên đống lửa cho đến sáng, tin là mình sẽ săn được nhiều gà rừng và nuôi được nhiều gà nhà thơm, ngon, mắn đẻ do sự phù hộ của thần. Ở thời Hùng Vương, gà rừng có thể là một trong những con vật đầu tiên ở với người thành gà nhà. Nó có tài gọi sáng. Người xưa quan niệm sáng ra ma thiêng quỉ dữ đại biểu cho điều ác mới tan biến nên coi gà là biểu tượng của sức mạnh trừ yêu quái. Vậy nên, ván xôi gà trở thành lễ vật phổ biến nhiều nơi: Vừa gọn đủ, vừa thơm ngon, dễ kiếm. Có tục: Con gà lễ vật phải mổ ngay tại nơi thờ. Như ở miếu Lạn thôn Cảo xã Phù Ninh (huyện Phù Ninh) trong lễ cúng ngày 12 tháng 2 âm lịch thì cỗ dâng cúng là thân gà để sống và cỗ lòng luộc chín bọc củ kiệu luộc (như phần trước đã bàn).
Về thịt chó: Trên một chiếc rìu đồng tìm thấy ở Việt Trì có hình con chó đang săn đuổi 2 con hươu. Trong di chỉ Đồng Đậu có 4 tầng, không kể tầng sâu nhất là tầng 4, ở các tầng trên (tầng 3, 2, 1) thuộc sơ kỳ đồ đồng cách đây khoảng trên dưới 3 ngàn năm bắt đầu có nhiều dấu vết xác thực của sự thuần dưỡng và chăn nuôi: trước hết là xương chó, gà và lợn, sau mới đến xương trâu, bò. Chứng tỏ trong đời sống thời Hùng Vương, con chó có một vai trò rất quan trọng trong săn bắt cũng như trong việc cung cấp thức ăn. Ở một thời như thế, nó không thể không gắn với những lệ tục, nghi thức tôn giáo.
Những lệ tục, nghi thức ấy vẫn tồn tại đến ngày nay ngay trên vùng đất tổ: Ngày 15 tháng giêng, làng Thản (xã Trẫm Thảm, Phong Châu) có lệ mở cửa rừng, cầu cho một năm săn bắt thắng lợi. Lễ vật buộc phải có chó vàng. Còn ở xã Kinh Kệ (Phong Châu) hoặc xã Dị Nậu (Tam Thanh) mỗi khi hạn hán, làng lại phải giết chó làm thịt đem cúng thần hổ hoặc thuỷ thần để cầu mưa. Thần hổ còn gọi là Sơn quân tức thần núi vì hổ là chúa sơn lâm, Thuỷ thần thể hiện con thuồng luồng hay cá sấu. Hẳn dân ta xưa kia đã có một trong những quan niệm đơn giản: Nước từ núi ra nên cầu nước là cầu từ núi và nước từ sông ngòi ra nên cầu nước là cầu các vật ở nước. Vậy cần dâng một con vật vào loại ngon làm khoái miệng Sơn thần, Thuỷ thần. Thơ dân gian ở đây có câu:
Tráng dương bổ thận khoẻ lưng
Thời Hùng thịt chó động lòng sơn lâm.
Tháng giêng nhớ mãi ngày rằm
Nhờ món thịt chó ầm ầm đổ mưa.
Thần hổ đâu có làm ngơ
Cá sấu đâu có hững hờ với ăn.
Nghĩa Lĩnh mờ mịt khôn ngăn...
II. THỜI BẮC THUỘC VÀ CHỐNG BẮC THUỘC (TRƯỚC THỜI VIỆT NAM TỰ CHỦ VỚI CÁC VƯƠNG TRIỀU ĐINH, TIỀN LÊ, LÝ, TRẦN, HẬU LÊ, TÂY SƠN, NGUYỄN)
Gồm 5 phần sau:
1) Thời nội thuộc nhà Triệu:
Nước Âu Lạc của chúng ta bị Triệu Đà nuốt để thành một bộ phận trong nước Nam Việt của hắn và hậu duệ 97 năm (208 - 111 TCN). Có sự kiện đáng nhớ: Sứ bộ của Đường Mông nhà Tây Hán sang sứ nước Nam Việt khoảng năm 135 TCN được vua Nam Việt thiết đãi món "củ tương" là một
thứ nước xốt làm bằng loại quả du nhập từ Thục. Đường Mông hỏi và được biết món ăn này đc người Dạ Lang chở thuyền xuôi Tây Giang xuống kinh đô Phiên Ngung bán cho Nam Việt. Trở về kinh đô Trường An, Đường Mông bèn triệu tập bọn thương nhân Dạ Lang (Quý Châu) đã tới Phiên
Ngung (Quảng Châu) về Trường An để dò hỏi thông thổ, mua chuộc thành gián điệp, làm cơ sở cho Hoàng đế Hán Vũ đế sẽ phát quân chinh phục Dạ Lang và dùng con đường thương mại đó chuẩn bị hành quân chinh phục Nam Việt với mọi thủ đoạn thâm độc. Vậy trong những nguyên nhân Hán xâm lược Nam Việt, hẳn có cả nguyên nhân về món ăn, mà nước ta đã nội thuộc Nam Việt cũng chịu chung số phận.
Ngay trong thời bị Triệu Đà và những hậu duệ thống trị, nước ta đã nổi tiếng là nơi có nhiều vải ngon. Vải nước ta đã là một trong những sản phẩm để họ Triệu tiến cống. bọn cầm quyền phương Bắc. Sách Bắc hộ lục dẫn sách Nam Việt chí có nói tới một trong những cây ăn quả nổi tiếng của nước ta vào lúc này: "Cây có cội, người Nam có Vả (viết á phiên = V(iết)á = Vả) quả mọc ở vỏ ra, như chuỗi hạt châu, quả to bặng quả đào. Khi quả vàng thì vả ăn được, nếu để chín quá thì trong quả hoá kiến cánh bay đi". Hẳn vả chín quá thì quả ngọt, loài kiến đánh hơi biết được nên bay hay bò tới, làm sao có chuyện hoá kiến được ?
Trước thời nội thuộc này, người Việt đã trồng mía (một loại cây gốc miền hải đảo phương Nam Thái Bình Dương gắn với nước ta với những truyền thuyết lý thú từ thời Hùng Vương). Nhưng chỉ đến lúc này mới phổ biến việc làm mật từ mía. Có năm vua Nam Việt đã nộp cống cho Hoàng đế nhà Tây Hán đủ 5 hộc thạch mật (đường phèn). Từ thời Thục An Dương Vương tới thời nội thuộc nhà Triệu... ở nước ta đã có những truyền thuyết huyền diệu về Bạch kê (tinh gà trắng), về thần Kim Quy (rùa vàng) gắn với những địa danh xóm gà, xóm rùa... Truyền thuyết "Vuốt rùa chàng đổi móng - Lông ngỗng thiếp đưa đường” và:Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu
đã thành bài học đời đời, khởi nguyên từ thời ấy, để cho thời hiện đại các nhà thơ Tản Đà, Tố Hữu diễn thành thơ. Ở Yên Phụ và các vùng gần Loa Thành nay còn thờ thần gà trắng... Tất cả , phản ánh: Ở thời ấy con gà, con ngỗng, con rùa đã thành, đã có một vị trí đáng kể trong đời sống và tâm linh Việt. Bác sỹ R. Burê tính rằng ở Đông Dương (chủ yếu là nước ta), có đến 54 loại rùa, ba ba, giải... Nếu so với các vùng nổi tiếng về sản vật này như Mã Lai, Ấn Độ thì Đông Dương còn phong phú hơn. Ở nước ta, các loại rùa, ba ba không chỉ nhiều ở dưới nước mà còn nhiều ở trên cạn (ở rừng, ở núi, đặc biệt là rừng nguyên thuỷ Cúc Phương)... Ở thời nay, do bị khai thác quá nhiều qua bao đời còn thế huống hồ ở cái thời nổi tiếng của truyền thuyết rùa vàng. Rõ ràng, thức ăn lấy chất liệu từ rùa và các họ hàng nhà rùa, từ gà, từ ngỗng ở thời ấy không thể không kể tới.
Thức ăn ở nước của thời nước ta nội thuộc Nam Việt, thư tịch còn nhắc tới con sứa nữa. Sách Nam Việt chí đã viết: "ở biển có giống thuỷ mẫu, người vùng Đông Hải gọi là sá (sứa) sắc trắng bạch lụng nhụng như bọt. Giống ấy
có tri giác nhưng không tai, không mắt nên không biết tránh người. Thường có con tôm đi theo nó. Con tôm thấy người thì sợ, lặn, con sứa cũng theo mà lặn xuống”. Sách Lĩnh Nam lục dị nói: Tính con sứa ôn nên chữa được lãnh nhiệt (nóng rét). Đó cũng là một hải vi ngon, quý.
Đặc sản ăn uống nổi tiếng của nước ta thời ấy còn phải nhắc tới con cà cuống. Sách Tuyền Nam tạp chí cho biết: Con long sắt như con bọ trên phân trâu (bọ hung), sắc đen nhặt mà mỏng, bỏ vỏ cứng đi làm mà ăn cũng có phong vị. Con ấy tục gọi là cà cuống (chuyển âm gọi sai của hai chữ "đà cuống" (nghĩa là nói dối). Theo truyện Triệu Đà trong Hán Thư: Triệu Uý Đà ở Nam Việt đem cống vua Hán một thứ sâu ăn ngon, thơm và nói là quế đố (sâu cây quế). Sau có người biết là không đúng thực, bảo là không phải sâu cây quế, đó là Triệu Đà nói dối (đà cuống). Sau đó nói tới món thức ăn ấy người ta đọc sai “đà" là "cà" tức "cà cuống". Món ấy pha chế vào nước chấm cực ngon.
Cũng ở thời họ Triệu thống trị vào giai đoạn cuối, ta được biết qua sự phản ánh của sách Thuỷ kinh chú. Sách này cho biết vào năm 111 TCN, sau khi Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức thừa lệnh vua Hán chiếm Nam Việt thì hai quận Giao Châu và Cửu Chân của nước ta nộp cho tướng sỹ nhà Hán 100 con bò và 1.000 hũ rượu. Chứng tỏ, thời nước ta bị Nam Việt thống trị, việc chăn nuôi, dùng bò trong ăn uống và việc chế biến rượu uống của nước ta đã tiến tới một trình độ nhất định. Nam Việt cũng đã mua ngựa của Trung Quốc để chăn nuôi, có thể dùng trong vận tải, cũng có thể dùng trong ăn uống.
2) Thời nội thuộc Tây Hán: Tính từ sau năm 111 TCN trở đi.
Từ đây trở đi Hán ở lẫn lộn với Việt, có sự dung hoà, chuyển hoá lẫn nhau: Mộ Hán có một ít trống đồng và đồ dùng Đông Sơn, kể cả đồ ăn thức đựng. Trong mộ Việt (mộ quan tài thuyền ở Xuân La, Châu Can - Hà Tây; mộ đất ở Đông Sơn, Thiệu Dương... có một số hiện vật Hán: Bình 3 chân, bình con tiện, chén 2 tai, ấm, vò. Vậy đồ đựng thức ăn uống, kể cả ăn uống giữa hai
nước Trung Việt đã có sự trao đổi.
Để sản xuất lương thực, lúc này vẫn còn tàn dư phương thức "Hoả canh" (đốt nương rẫy ở miền núi Giao Chỉ, đốt cỏ trồng trọt ở đNnương Cửu Chân), có quan hệ mật thiết với hoạt động săn bắn và tàn dư của phương thức "Thủy nậu” (đưa nước vào ruộng ngâm cho chết cỏ dại, dùng trâu bò và
người dẫm vào gốc rạ, cỏ rác xuống bùn...) vẫn chưa hết. Song, đến đây đã tồn tại lâu dài phương thức cầy cuốc. Tất cả phục vụ cho việc lấy cây lúa nước là nguồn sống chủ đạo. Lúc này Giao Chỉ thuộc đồng bằng Bắc Bộ - nhiều lúa hơn cả nên thường phải cấp thóc gạo cho Hợp Phố, nhất là cho dân chuyên làm nghề mò ngọc trai ở đấy - và cho đất Cửu Chân, nơi thường thiếu thức ăn. Vì chưa củng cố được bộ máy thống trị và bóc lột, sức chống đối của dân bản địa còn mạnh nên những nơi như Giao Chỉ thóc lúa nhiều mà nhà Hán vẫn chưa tận dụng được, ban đầu họ còn phải chở lúa ở các quận miền Bắc xuống nuôi quan lại, sỹ tốt đóng ở các quận mới chinh phục.
Song, đáng kể là những cây ăn quả. Sách Hán thư viết: Giao chỉ ở gần bể có nhiều hoa quả. Người Trung Hoa lúc này đặc biết chú ý đến long nhãn và vải quả của người Việt. Ngoài ra, các loại chuối, quít, mơ... đều biến thành cống
phẩm cho nhà Tây Hán. Năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 TCN) sau khi phá được Nam Việt, Hán Vũ đế sai xây Phù Lệ cung (cung quả vải) ở kinh đô Trường An (Thiểm Tây) để trồng các cây cỏ kỳ lạ mới lấy được ở nước Việt. Vũ đế sai đem 100 cây vải, 2 cây chuối tiêu... trồng ở Phù Lệ cung nhưng không cây nào sống nổi, rồi luôn năm dân Việt phải chuyển cây ăn quả về trồng mà vẫn nối nhau chết. Đặc biệt, quả vải thành đồ tuế cống quan trong nhất, việc chuyên chở, phục dịch vải thành tai hoạ lớn của dân ta. Nhà Tây Hán đặt chức Phố Tu quan ở Nam Hải và chức Tu quan ở huyện Liên Lâu quận Giao Chỉ (Thuận Thành, Bắc Ninh) để coi việc dâng tiến hoa quả, thức ăn (theo Tiền Hán thư). Cũng như đời Hán Vũ đế ở Giao Chỉ đặt chức Quất quan (quan coi quít) ăn lương 200 thạch lúa mỗi năm chuyên phụ trách việc cống nạp quít ngự. (Theo Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm).
Tiền Hán thư cho rằng: Lúc này người Lạc Việt có năm giống gia súc là trâu, lợn, gà, dê, chó. Nghề chăn nuôi chế biến thức ăn ở vùng ven biển đã phát triển từ thời Văn Lang, Âu Lạc, nay vẫn có vai trò trong kinh tế quốc dân. Thời này, các quận Giao Châu đã có nghề làm muối, dùng muối trong thức ăn rất phổ biến nên bọn thống trị đặt chức Diêm quan. Rượu ở nước ta cũng có tiếng. Bởi rượu nhà Hán có những mặt ưu việt. Như trong Toàn Hán văn quyển 10 có bài phú về rượu của Châu Dương đời Hán có đoạn như: "Rượu trong là tửu, rượu đục là lễ, lấy lúa mạch (gạo lúa miến) ở ấp Khâu là men, lấy gạo ở Dã Điền đem ủ cất thành rượu trong sạch ngọt thơm. Rượu đã cất xong: Bình xanh đã mở lại gạn lại lọc, cất vào bình đựng đạy lại hẳn hoi. Dân thường dùng uống cho vui. Quân tử dùng để làm lễ". Cho nên, cùng với kỹ thuật gây men cổ truyền (kiểu rượu cần, rượu nếp...) dần dần dấn ta cùng khéo tiếp thu kỹ thuật chưng cất của người Hán để nấu rượu và nấu vượt lên đến mức: Rượu gạo nước ta từng là hàng tiến cống của vua quan Tây Hán. Tiền Hán thư chép: "(Bấy giờ) trong thiên hạ xét ngục tụng đến hàng vạn
việc, thu thuế phú đến hàng trăm phần, đặt ra món lợi chuyên bán muối, rượu... để giúp vào việc chi dùng ăn uống, thế mà còn không đủ được".
Từ Cao hậu (Lã hậu) đến Vũ đế, sau mấy chục năm dương sức, nhà Tây Hán đã tích luỹ được nhiều của cải, chuẩn bị vật chất cho việc xâm lược và thống trị các nước xung quanh. Cùng với các luồng thương mại phát triển về nhiều hướng... việc xâm lược thống trị đó làm cho của ngon vật lạ ùn ùn dồn về
kinh đô nhà Hán. Theo Sử ký của Tư
Mã Thiên: "Thóc ở kho lớn lớp lớp chồng lên nhau đầy dẫy, tràn ứa ra ngoài đến nỗi mục nát, ăn không được". Sự giàu có cùng với sự chia rẽ trong nội bộ Việt tộc, nói như Sử ký>
là: Âu Lạc tương công, Nam Việt động giao (Âu Lạc đánh lẫn nhau, Nam Việt rung động) càng kích thích sự xâm lược, đồng hoá của phương Bắc làm cho dân cả một vùng rộng lớn từ Trường Giang tới Tây Giang tập nhiễm nhiều văn hoá Hoa Hạ. Cư dân bản địa gốc Việt hợp với di dân Hoa Hạ để trở thành Hán nhân, Đường nhân..., chấm dứt thời Sơn hà bách Việt cực kỳ rộng lớn để chỉ còn một mảnh đất nhỏ giữ đường lối sống riêng, trong đó có cách ăn uống riêng kiểu Việt là ăn uống của nước ta. Đây là mảnh đất cuối cùng tỏ rõ sức sống mãnh liệt làm nhân chứng sinh động cho một phức thể Việt từng xây dựng một hệ thống văn hoá nông nghiệp lúa nước mạnh nhất thời cổ đại còn vang dội tới nay, để dấu ấn trong không ít đồ ăn thức đựng.
3) Thời nội thuộc Đông Hán:
Nhà Tây Hán sụp đổ. Hán Quang Vũ (Lưu Tú) lập ra nhà Đông Hán trên biển máu của nông dân khởi nghĩa, sau khi tiêu diệt các thế lực cát cứ của Ngỗi Hươu ở Lũng Hữu (phía đông Cam Túc) và Công Tôn Thuật ở Ba Thục (Tứ Xuyên). Một tướng tài của Ngỗi Hươu là Mã Viện (14 - 49 TCN) đem gia thuộc về Lạc Dương đầu hàng Hán Quang Vũ. Trong khoảng những năm 25 đến 88 là thời kỳ bên trong Trung Quốc ổn định cần bành trướng ra ngoài. Ban Siêu lao vào cuộc viễn chinh Trung Á đến bạc đầu mới về khiến hơn 50 nước Trung Á nộp cống cho Lạc Dương. Chỉ còn có một ngọn lửa bùng lên mạnh mẽ ở phương Nam chống Hán: Ngọn lửa của Hai Bà Trưng.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra vào mùa xuân tháng 2, niên hiệu Kiến Vũ thứ 16 (khoảng tháng 3 năm 40 trước CN), đúng như tục ngữ dân gian: Gái tháng 2 trai tháng 8. Đó là mùa sinh hoạt cộng đồng của các làng chạ cổ xưa trong đó có việc hội hè đình đám, trai gái giao duyên không thể không gắn với ăn uống, cỗ bàn, gắn với lệ tục như nấu cơm thi, đập trâu giết lợn, xôi gà
được nối tiếp từ thời Hùng Vương. Nhân ngày đó, Hai Bà Trưng có thể tập hợp lực lượng, tuyển binh gây yếu tố bất ngờ với kẻ địch.
Theo thần tích đền Hát Môn - nơi thờ chính của Hai Bà Trưng - và truyền thuyết dân gian, tại đây đã dựng một đàn thề trước khi nổi dậy, và Bà Trưng Trắc đã long trọng đọc 4 lời thề mà Thiên nam ngữ lục (thế kỷ 17) đã tả:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này.
Sau đó, Hai Bà Trưng giết trâu, mổ lợn, đồ xôi khao quân. Hưởng ứng Hai Bà có rất nhiều nữ tướng với những tên mà sử sách ghi bằng mỹ từ.. ả Di, ả Tắc, ông Đống... gắn với tên các giống lúa, các hình ảnh nông nghiệp (nữ thần đất, mẹ thần cây cối mùa màng) theo những quy ước của tín ngưỡng thành hoàng được lịch sử hóa theo quy luật sáng tác dân gian. Có "miếu bà Trắc" ở phía nam hồ Động Đình (Hồ Nam - Trung Quốc). Dân Tày Nùng ở Việt Bắc, dân Choang ở Quảng Tây (Trung Quốc) còn giữ nhiều truyền thuyết và kỷ niệm về Hai Bà như truyện bà Trưng Trắc từng qua đấy ăn uống, hội hè cùng dân... Trưng Vương xuất quân từ Mê Linh, kéo quân xuống Long Biên dẹp Tô Định đã từng dừng quân ở Cổ Loa, đóng tại am Bà Chúa mơ thấy Mị Châu, sáng bèn giết trâu ngựa làm lễ tế trước cửa đền Thượng (nơi thờ An Dương Vương) rồi cùng quân tướng và dân trong vùng ăn uống trước khi hành quân đi đánh giặc.
Vùng đất Hiệp (nay thuộc xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây, xưa thuộc tỉnh Sơn Tây) là nơi xuất phát của vợ chồng Đỗ Năng Tế - Tạ Thị Cẩn, những yếu nhân của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Đặc biệt Đỗ Năng Tế là mưu sĩ số một và là thầy dậy của Hai Bà Trưng. Xưa ở Khánh Hợp, trong đó có một khu đất gọi là Quán Dậm rộng đến 3 mẫu, cây cối um tùm, có phần mộ Đỗ Năng Tế và 2 con gái, có một giống cua cạn ở hốc sâu trong lòng đất, chỉ bò ra khỏi hốc vào lúc trời còn chạng vạng hay trong những trận mưa to. Giống cua này chân cao, hai càng trắng như ngà, mắt đen, xung quanh có viền vàng, mai như đồng hun, ở chính giữa mai nổi lên chữ vương. Tương truyền quân lính của Đỗ Năng Tế sau khi hy sinh ở Quán Dậm đã hoá thành giống cua này để đời đời được hầu hạ chủ tướng. Từ rất lâu, giống cua này đã được liệt vào một trong bốn đặc sản của xứ Đoài gọi tên là "cua Khánh
Hợp" (Khánh Hợp chi kỳ bành) thường dùng để tiến cống vua. Dân gian nơi này đã truyền nhau những câu:
Ngon sao Khánh Hợp vị cua
Vang danh đặc sản dâng vua bao đời.
Vị thơm không thể quên người
Chất ngon nhớ mãi cuộc đời Đỗ Năng.
Em về em có nhớ chăng
Bát canh cua thuở Bà Trưng vẫy vùng.
Đất xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên sau đổi thành huyện Tam Đảo (Vĩnh Phú) có miếu thờ ba chị em bà Trương, tướng của Hai Bà Trưng. Hàng năm cứ đến mùng 3 tháng giêng âm lịch, ngoài lễ dâng hương ba vị, dân làng tổ chức lễ hội chỉ có xôi nếp vắt thành bánh dầy, sau đó tráng đinh chia làm hại phe xông vào tranh cướp lấy phần bánh. Đó là để kỷ niệm thuở chống Hán, ba chị em đã cơm đùm cơm gói tìm về với Bà Trưng, dùng cơm nếp nắm thành bánh ăn cùng quân lính.>
Nàng Sa, tướng của Hai Bà Trưng được thờ ở xã Liên Hà (huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây) với lễ nghi: Hàng năm cứ đến mồng 8 tháng 3 âm lịch là dân mở hội cúng tế nàng Sa với lễ cúng chỉ có xôi trắng với thịt lợn chín. Riêng thịt lợn cúng phải là lợn được chọn, nuôi cẩn thận từ trước. Con lợn phải huyền sắc, chăn nuôi sạch sẽ. Khi cúng tế thịt phải luộc chín, thái thành miếng nhỏ, xâu thành chuỗi, cứ một chuỗi là 10 miếng... Cúng xong chia đều cho dân làng. Cuộc ăn uống đó gắn liền với cuộc thi trống và hội đua thuyền giữa các thôn trong xã mà giải thưởng là khăn nhiễu hồng, trầu cau và nước.
Từ khởi nghĩa Hai Bà Trưng, khoảng đầu công nguyên về sau, xã hội nước ta bước vào thời đại đồ sắt phát triển, dù công nghệ đúc đồng vẫn giữ địa vị quan trọng nhất định trong chế tạo đồ dùng hàng ngày (kể cả đồ ăn thức đựng). Vậy nên, có thêm nhiều công cụ sắc bén để cầy bừa bằng trâu bò, loại trừ dần phương pháp hoả canh. Lúc này nước ta lại học được phương pháp dùng, bón phân Bắc vào ruộng của người Trung Hoa. Hậu Hán thư chép: "Mã Viện sửa sang kênh ngòi. Tất cả làm cho nông nghiệp phát triển rõ rệt”. Đầu thời Hán, nhà Tây Hán còn phải chở gạo xuống nuôi quan lại và sỹ tốt đóng ở Giao Chỉ, sang thời Đông Hán tới đầu Công nguyên, số thóc gạo của bọn xâm lược vơ vét được ở đây đã lên tới 13.600.000 hộc (tương đương
khoảng 272.000 nghìn tấn thóc) mà tất cả phú thuế các châu Mân, Quảng, Điền, Kiềm (Phúc Kiến, Lưỡng Quảng, Vân Nam, Quý Châu) cộng lại cũng không bằng. Di vật chí của Dương Phù thời này cho biết: "(Ở Giao Chỉ) lúa mỗi năm trồng 2 lần về mùa hè và mùa đông... lúa Giao Chỉ chín hai mùa"... "Người Giao Chỉ mỗi năm trồng hai vụ lúa đạo (lốc và nếp)". Sách Cổ kim chú nói: “Năm Diên Quang thứ 2, đời vua An đế (123) nhà Hán quận Cửu Chân lúa tốt quá: 150 gốc lúa được những 768 bông".
Nước ta lúc này còn trồng khoai đậu và nhiều loại cây có củ khác (như củ cải, củ từ). Người ta ăn khoai luộc đem đồ lên rồi thái và phơi khô, để dành làm lương dự trữ. Ngoài khoai lang còn có khoai sọ, củ mài, cây bột đao, búng báng khai thác được nhiều ở rừng núi. Về nghề làm vườn: Trồng rau, dưa, các loại cây ăn quả nhà nào cũng có đủ, mùa nào thức ấy. Rau có nhiều loại như cà, hành, gừng, hẹ vừa là rau để ăn phụ với cơm, vừa tăng chất gia vị. Đặc biệt nổi tiếng ở Giao Chỉ lúc này là món ăn rau muống (úng thái) được trồng thả bè trên ao, hồ. Trên ao, hồ còn thả sen, súng góp vào việc ăn uống hàng ngày. Dưa chuột, bí bầu, dưa hấu để lại những chất vị khó quên. Khắp vườn quê Châu Giao còn có đủ các loại chuối, nhãn, vải, cam, quít, dừa, khế, sấu; mơ, vải, lựu, trám, thanh yên... trong đó, có những loài bị sung làm đồ tuế cống cho triều đình Trung Hoa do các chức Phố Tu quan, Quất quan của bọn Đô hộ phụ trách. Lúc này món quít Giao Chỉ rất nổi tiếng. Người Trung Hoa đã chép Quất trục (cây quít, cây bưởi) trong Thiên Vũ cống và sách Chu thư, coi đó là sản vật quý của Nam phương đem sang Trung Quốc trước tiên. Đời Hán, ở Giao Chỉ người ta cử một chức quan coi quít để hàng năm đem cống. Hán thư chép: "Người nào ở Giang Lăng mà được nghìn cây quít là phong lưu ngang với tước Thiên Hộ hầu”. Lý Hành để cho con một nghìn cây quít gọi là Mộc nô và cam... Để tăng cường thêm những cây ăn quả ngon, chất lượng cao, lâu bền, người Giao Chỉ lúc này đã phát hiện ra kỹ thuật chiết cành (mà thuần thục nhất là chiết cành cam). Để chống sâu bọ hay châm, đục thân và quả cam, "người Giao Chỉ lấy chiếu bó tổ kiến, đem bán ở chợ. Tổ kiến như bôn mỏng liền với cành cây cam, người ta cứ để kiến trong tổ như thế mà đem bán. Kiến màu đỏ, to hơn kiến thường... chống sâu ong..."
Cùng với cây ăn quả, từ Giao Chỉ đến Nhật Nam, vùng nào cũng tiếp tục thời Hùng Vương trồng cau và trầu không xen với các cây làm thuốc tăng cường chất liệu cho ăn uống như đậu khấu, quế, gừng gió, ý dĩ... ảnh hưởng sâu sắc đến Trung Quốc. Phục Ba tướng quân Mã Viện, người đàn khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cắm cột đồng trụ ở nước ta ghi lời thề: Đồng trụ chiết Giao chỉ diệt (cột đồng gẫy thì Giao Chỉ bị diệt). Mã Viện bị đau lưng thường ăn hạt ý dĩ của nước ta để trị bệnh. Khi về nước hắn đem theo mấy
xe ý dĩ để về chữa bệnh. Có tin đồn ở Trung Quốc đó là mấy xe ngọc do Mã Viện tham ô. Về sau Thi hào Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc có bài thơ Miếu thờ Mã Phục Ba ở Giáp Thành, trong đó có 2 câu thơ nổi tiếng:
Đồng trụ cân nặng khí Việt nữ
Châu xa tất cánh lụy gia nhị.
(Những tưởng cột đồng loè gái Việt
Hay đâu xe ngọc luỵ đàn con).
Như thế, dẫu sao ý dĩ cũng là một dược liệu góp vào ăn uống, có vai trò quan trọng ở nước ta, góp vào màn kịch phe phái đấu đá, một trong những truyền thống của đất nước phương Bắc.
Các loại cây khác như hoa nhài (mạt li), mít... có gốc gác từ các nước gắn với miền biển phương Nam như Ấn Độ, Ba Tư... lúc này cũng du nhập vào nước ta, tăng cường thêm chất vị ăn, uống.
Theo Di vật chí: "Người Giao Chỉ (tiếp tục phát triển thời trước) ép mía lấy nước, làm kẹo mạch nha, gọi là đường, là thứ rất quý. Người ta lại đem đun và phơi, để ngưng lại như băng, khi ăn bỏ vào miệng thì tan ra, người ta gọi là thạch mật. Bấy giờ Trung Quốc chưa biết làm đường bằng mía, thạch mật
của Châu Giao (tiếp tục thời Nam Việt) thành một cống phẩm quí cho triều đình Trung Quốc từ Hán về sau”.
Về các thức ăn động vật: Sách Thuỷ kinh chú chép rằng vào năm 43 khi Mã Viện vào đất Cửu Chân có lúc ông thấy dê bò đông tới vài nghìn con... Ở huyện Đô Bàng (Cửu Chân) có nhiều voi sống trong núi. Rừng núi Giao Châu (Bắc Bộ) có nhiều trăn, người ta thường rình khi nó ngủ lấy xiên lớn bằng tre xiên chết rồi ăn. Sách Dị lâm và Trinh chàng tiểu phẩm còn chép rằng: ở nước ta thời đó, mỗi chiếc trống đồng có thể đổi được hàng ngàn trâu bò, kém cũng được bẩy tám trăm con. Rõ ràng, trong chăn nuôi, suy ra cả trong ăn uống, dê, bò, voi, nhất là trâu bò có một vi trí đáng kể, món ăn thịt trăn cũng phổ biến. Tiếp thời trước, các món ăn thịt gà, thịt lợn, thịt chó vẫn duy trì. Các món ăn sơn hào, hải vị trên rừng, dưới biển, dưới sông do săn bắt vẫn được nối tiếp.
4) Nội thuộc Trung Quốc ở đời Tam Quốc và đời Tấn:
Cho đến 1- 2 thế kỷ sau Công nguyên, văn hoá Đông Sơn và nghệ thuật
Đông Sơn vẫn tiếp tục tồn tại tuy đang trên đường suy thoái mạnh. Văn hoá Việt cổ (trong đó có Đông Sơn) tôn trọng phụ nữ, trong khi lễ giáo Trung Quốc khinh miệt, thắt chặt họ vào cỗ xe tam giáo. Điều này thể hiện ngay cả trong ăn uống lúc này ở nước ta. Sách Nam phương thảo mộc trạng chép rằng: Người nước Nam có con gái lớn vài tuổi đã bắt đầu nấu lọc rượu, đựng trong bình hũ kín, đem chôn ở bờ ao. Khi con gái sắp lấy chồng, người ta mới đào bờ ao lấy rượu lên đãi khách, gọi là rượu con gái (nữ tửu), vị rất đằm và ngon. Có thơ dân gian:
Lớn lên em mấy tuổi đầu
Một bình rượu kín chôn sâu bờ đầm
Đào lên, chén ngọc ướt đằm
Vị rượu con gái nồng khó quên
Em là chất vị tự nhiên
Non tơ mát dịu nên duyên thuở nào.
Người ta nói tới cây lúa non tơ đang thì phát triển, nhìn ngon mắt, là nói tới lúa con gái như nhà thơ Hàn Mạc Tử ở cùng thế kỷ hiện đại với chúng ta đã viết:
Lúa thì con gái mượt như nhung.
Có thể thuật ngữ "Lúa con gái" đã có từ thủa ấy. Ở các nước phương Nam như nước ta phổ biến dừa và các cây họ dừa mà phương Bắc khó kiếm hơn. Cho tới lúc này vẫn phổ biến việc chế rượu dừa: Theo sách Nam phương thảo mộc trạng: Người ta dùng nước dừa làm rượu như người nông dân Khơ me hiện nay dùng nước thốt nốt (một loại cây họ dừa) làm rượu.
Ăn uống cũng như tập tục chế biến đồ ăn thức đựng của nước ta trước sức xâm nhập của văn hoá phương Bắc có nhiều mặt giữ nguyên, nhưng cũng có mặt đang biến đổi: Từ tập quán giã gạo bằng chầy tay (hình ảnh khắc trên trống đồng) trước kia, sang đầu công nguyên về sau, người nước ta chuyển sang lối giã gạo bằng cối đạp chân theo hệ thống đòn bẩy (như loại cối giã gạo hiện nay ở nông thôn miền Bắc). Mô hình cối giã gạo mới này đã tìm thấy trong mộ gạch cổ ở thời đầu công nguyên.
Đồ gốm đựng thức ăn, thức uống lúc này vẫn tiếp tục phát triển, trong đó có
phần tiếp thu của Trung Quốc. Trong các mộ cổ thời này, người ta thấy chôn theo nhiều đồ đựng bằng gốm (vò, bình, bát đĩa, chén, mâm khay, nồi, xanh, chõ...). Giao Chỉ đã biết lấy xà cừ của các loại trai, sò để khảm các loại mâm,
khay, chén... đến mức Trung Quốc phải khen là báu vật. Trong khi chịu ảnh hưởng của kỹ thuật gốm sứ Trung Quốc, Giao Chỉ vẫn sản xuất ra xanh nấu thức ăn hai quai mà ở Trung Quốc lại chỉ có chảo không có xanh này. Không chỉ tiếp thu tinh hoa ở Trung Quốc, nước ta còn mở rộng ra tiếp thu các nước khác nữa: Trong quá trình giao lưu văn hoá với Ấn Độ và các nước phương Nam, dân ta lúc này đã học được kỹ thuật chế tạo thuỷ tinh, từ thế kỷ III đã thổi được nhiều bình, bát đựng đồ uống, thức ăn bằng thuỷ tinh màu tía, màu xanh rất đẹp.
Chứng tỏ văn hoá ẩm thực Việt còn rất khác với Hán dù có những biến đổi.
Đời Tấn, sách Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm cho biết về các món ăn thực vật: Quả cau vẫn tiếp tục dùng, nhưng về chế biến có những đặc sắc đáng lưu ý hơn. Sách này ghi: "Tân lang (cau tươi) ăn quả nó vừa đắng, vừa chát, nhưng róc vỏ đi, đem nấu chín, rắn như táo khô, ăn với trầu không và vôi, thấy thơm ngon, hạ khí, tiêu cơm. Người Giao Châu cho là quí, khi cưới xin, đãi khách thường phải dùng nó. Khi gặp gỡ nhau mà không có miếng thì người ta lấy làm ân hận".
Sách trên còn cho biết thêm một loại thức ăn: "Cẩu tương, tức tất bát". Loại này sinh ra ở nước Phiên thì to mà tía gọi là tất bát, còn sinh ở Phiên Dương thì nhỏ mà xanh cũng gọi là cẩu tương, đều ăn được cho nên người ta gọi là tương. Người Cửu Chân, Giao Chỉ hay trồng, nó mọc leo ra nhiều lắm. Nay xét loại lá ấy, người ta gọi là lá lèt (lâu diệp) cũng có thể nấu ăn nhưng
không muối dưa được.
Món rau muống vẫn tiếp tục được dùng, phổ biến hơn. Sách của Kê Hàm trên nêu rõ: "Úng thái (rau muống) tính lạnh, vị ngọt. Người Nam lấy cỏ lau ken làm bè thưa, để hở lỗ nhỏ, thả trên mặt nước, rồi trồng úng thái lên trên bè ấy, bè nổi lênh đênh như bèo. Khi cây rau đã lớn ngọn và lá từ chỗ bè mọc lên, theo nước lên xuống. Ấy là một thứ rau lạ ở phương Nam. Sách của Kê Hàm còn cho biết: "Câu duyên tử hình như quả dưa, vỏ như vỏ chanh mà sắc vàng, rất thơm, múi dầy,ắng như củ cải. Người khéo tay, họ chạm trổ vào vỏ quả câu duyên ấy những cành hoa, con chim rồi lấy mật ong chấm vào chỗ chạm trổ ấy trông rất đẹp. Quả ấy tức là Hương viên tả, tục gọi là thanh yên tả. Ăn thanh yên khỏi váng đầu chóng mặt". Việt Nam có câu ca dao:
Đầu năm ăn quả thanh yên
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng.
Vì cam cho quít đèo bòng,
Vì em tươi thắm cho lòng nhớ thương.
Sách của Kê Hàm nói về "Ngũ liễn tả" (tức quả khế) có 5 cạnh, mỗi cạnh hình như sống gươm. Người ta còn gọi nó là dương đào. Người Nam gọi cạnh là liễm nên đặt tên như thế. Sách Lĩnh nam tạp kỷ nói "Khế giải được độc ăn thịt và trùng độc, lam chướng. Người ta tẩm khế với đường, hay đem ướp muối thì đem đi xa được".
Kê Hàm cho biết về "quả sấu đem tẩm mật ăn được". Tạp kỷ nói thêm: "Làm cỗ, người ta nấu sấu với thịt gà, thịt vịt. Sấu đem ướp muối gọi là tương sấu”...
Về thức ăn động vật: Trước đời Tấn, vào thời Tam quốc, nước ta thuộc Ngô. Bọn thống trị Trung Quốc bắt dân nước ta hàng năm phải cống nạp 3.000 chim công và nhiều lợn lớn, áp tải sang kinh đô Kiến Nghiệp. Những thức ăn thịt lợn, thịt chim đó từ thời Tấn trở đi vẫn duy trì.
Nước ta ở thời này vẫn có nhiều tê ngưu, voi. Sách Sơn hải kinh nói: "Con tê giống con trâu, đầu nó giống đầu lợn mà chân nó giống chân voi, có 3 móng, bụng to đầu đen, có 3 cái sừng, 1 cái ở trán, 1 cái ở mũi, 1 cái ở đỉnh đầu. Cái sừng ở trên mũi thì nhỏ mà không rungọi là thực giác (sừng ăn)..."
Sách Giao Châu ký chép: "Ở huyện Cửu Đức có giống tê lông như lông lợn rừng, chân có 3 móng, đầu như đầu ngựa, có 2 sừng, cái ở đỉnh đầu thì dài, cái ở trên trán thì ngắn". Sách Ngô lục chép: "Ở huyện Đô Bàng, thuộc Cửu Chân có nhiều voi. Giống voi sinh ở trong miền núi, còn ở trong quận và ở
Nhật Nam thì không có". "Thịt voi to thớ, để liền với da nó mà nấu thì chóng chín, mầm ngà non và thịt bàn chân nó ăn cũng ngon" (Theo Lê Quý Đôn).
Ở nước ta thời này còn có rất nhiều trâu, dê. Sách Man khê tùng tiếu nói: "Ở Ngũ Khê có thứ canh bất nại. Người ta lấy ruột tạng trâu dê rửa sơ qua, nấu canh thết khách, ngửi thì khó ngửi, ăn xong thì thấy ngon lắm". Lê Quý Đôn (trong sách Vân đài loại ngữ, mục Phẩm vật) nói: "Hoặc nhục là canh thịt". Vương Dật nói: "có rau gọi là canh, không rau gọi là hoắc". Giao Châu ký ghi: "Đào Hoàng làm quan Thái thú quận Cửu Chân, khi đắp thành quận, bắt được trong hang đất một vật sắc trắng, hình như con nhộng, không có đầu, dài mười mấy thước, to hơn 10 ôm, nó động đậy nhung nhúc, không biết tên là gì, mổ bụng nó ra, trong có thịt như mỡ lợn, đem nấu canh rất thơm. Đào
Hoàng ăn một chén, còn bao nhiêu các quân lính ăn hết. Đó là món canh mà nước Bạch Trạch gọi là Phong thực đa lực (ăn nhiều khoẻ sức).
5) Thời nội thuộc Tuỳ Đường:
Càng về cuối Tuỳ, nước ta càng cách biệt với phương Bắc. Tuỳ Dượng đế chết mà Thái thú Giao Chỉ Khâu Hoà không biết. Khâu Hoà ăn ngon mặc đẹp, tiền vàng như nước, giầu ngang vương giả, do đầu hàng nhà Đường,
được phong Đại tổng quản Giao Châu. Nhà Đường bãi bỏ các quận do nhà Tuỳ lập, khôi phục hệ thống các châu nhỏ thời Nam Bắc triều. Trùm lên các châu thuộc nước ta, năm 622 nhà Đường lập "Giao Châu Đô hộ phủ”, tới năm 679 đổiAn Nam Đô hộ phủ”. Chế độ cống nạp vẫn là thủ đoạn bóc lột truyền thống của bọn thống trị phương Bắc. Hàng năm, các châu, huyện thuộc An Nam phải nộp cống cho Trường An nhiều lâm thổ sản quý như ngà voi, đồi mồi, lống trả, mật trăn, da cá, trầm hương... Riêng thuế muối hàng năm ở Lĩnh Nam lên tới 40 vạn quan tiền. Theo Thái Bình hoàn vũ ký, cư dân châu lục (miền ven biển vịnh Hạ Long) sống bằng nghề nấu muối và mò ngọc trai, hàng năm mỗi hộ phải nộp thuế 100 hộc gạo... Mặc dù bị phá hoại và kìm hãm, nền kinh tế dân tộc trong đó có kinh tế phục vụ ăn uống vẫn tự mở lấy đường đi: Các nghề trồng lúa, trồng mầu, trồng cây ăn quả, cây làm đường, nghề chăn nuôi gia súc... vẫn phát triển làm cho ăn uống của nước ta càng phong phú, chất lượng càng nâng cao.
Sách Sơ học ký khi nói chuyện nấu cơm, cháo đời Đường, có dẫn lời Chu Thư để so sánh: "vua Hoàng đế chưng (nấu hay đồ cách thuỷ) gạo làm cơm, nấu gạo làm cháo". Phó Huyền khen cơm ngon, nói rằng: "Gạo cánh (gạo tẻ thơm) tháng 10 (đầu mùa đông) gạo lương tháng 9 (Thượng thu) Trường Yên, Thành Đô có ruộng nhiều màu, lúa đạo thơm tho, cơm như mỡ đông".
Thời Đường, cùng với gạo và các thức ăn động, thực vật ở trên cạn được duy trì, ở nước ta các thức ăn ở sông, ở biển càng được chú ý. Sách Lĩnh biểu lục dị của người thời
nay viết: "Giống cua đỏ trong mai nó có gạch, vàng đỏ như lòng đỏ trứng gà, trứng vịt. Thịt cua trắng, trộn với gạch cua, để vào đầy mai nó, gia thêm ngũ vị, phủ miến lên trên, làm món cua hấp, ăn rất ngon". Lĩnh biểu lục dị viết thêm: "Ngõa ốc tử là loài bạng cáp (trai hến). Ở Nam Trung ngày xưa gọi là Hàm Tử. Nhân quan Thượng thư Lư Quán khi làm trấn thủ ở đấy thấy vỏ nó có cạnh khía như ống hòn ngói mới đổi tên gọi nó là ngõa ốc tử (mái nhà ngói). Trong nó có vỏ sắc tía đầy bụng, người đời Đường (sang nước ta) thích ăn nó lắm, đem nướng lên, uống rượu, gọi là thiên luyến chú (chả thịt
trời) nhưng ăn nhiều quá thì khí trệ, lưng và bắp thịt bị buồn nhức".
Để tăng cường thêm chất ngọt cho thức ăn, người nước ta phát huy việc trồng mía, làm thạch mật và mật, học thêm cách chế đường của Trung Quốc. Nó phù hợp với các sự kiện lịch sử bấy giờ: Vua Đường Thái tông Trung Quốc sai sứ sang nước Ma Yết Đà (Bchar - một nước nhỏ của Ấn Độ ở phía Nam sông Hằng) khảo cứu phép chế ra đường, rồi hạ chiếu cho các nhà trồng mía ở Dương Châu, theo đúng phép ấy mà ép mía lấy nước nấu đường, sắc và hương hơn đường ở Tây Vực. Đường cát ở Trung Quốc có từ đấy. Năm Đại Lịch đời vua Đường Đại tông (766 - 780) có một hoà thượng họ Trần đến đất Toại Ninh, lên ở Tiểu Khê núi Tản Sơn, dậy một người dân họ Hoàng phép chế đường phèn gọi là Sương đường hay Băng đường. Phép chế đường phèn Trung Quốc có từ đấy mà ta học thêm.
Có đường, có gạo, có các chất liệu khác như vừng... người ta tạo ra những loại bánh. mới. Trong sách Vân đài loại ngữ, mục Phẩm vật, Lê Quý Đôn cho biết một loại bánh thời Đường, có thể đã truyền sang nước ta: "Gói xong đem nấu gọi là bánh, phết hồ ma (vừng) vào gọi là hồ bính, ngào lẫn gạo với bột mà nấu gọi là cao, nặn bột có góc đem luộc chín gọi là tông, hay giác thử". Chư Lục nói : “Bánh giác thử có từ năm Thiên Bảo (742 - 756) đời Đường, các cung nữ chơi, đua nhau lấy cái cung nhỏ (giác cung) bắn vào bánh, bắn trúng thì được ăn, cho nên gọi là giác thử". Đường Thi có câu : "Bính du tiễn xuất nộn hoàng thâm" (Bánh vàng sẫm, dẻo, rán bằng dầu) tức là bánh rán, bánh ngào. Người ta làm bánh ăn vì thương Giới Tử Thôi bị chết cháy. Dân ở Tính Phần làm sẵn bánh ấy cứ ngày 3 tháng 3, cả nhà ăn bánh, suốt ngày không nhóm lửa nên gọi là bánh "Hàn thực" (ăn đồ nguội). Truyện Kiều ở nước ta có câu: "Đêm đêm hàn thực, ngày ngày nguyên tiêu”.Đồ phả tự ký. Cổ nhân khen vải trong đó có khen vải nước ta: "Mã ngoài như lụa hồng tơ tía; thịt như thuỷ tinh, như giáng tuyết" vừa ngọt, vừa thơm. Nối tiếp các triều đại Trung Quốc từ Hán, từ Nguỵ trở đi, ở thời Đường, nước ta liên tục phải cống vải cho bọn thống trị phương Bắc. Dương Quý Phi một trong "tứ đại mỹ nhân" đẹp nhất của Trung Quốc thời xưa được Hoàng đế nhà Đường là Đường Minh Hoàng say đắm nhất. Nàng rất thích ăn vải. Sở thích của nàng đã góp phần gây tai vạ cho nước ta. Nhà thơ đời Đường Đỗ Mục đã viết:
Nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu,
Vô nhân tri thi lệ chi lai
(Bụi hồng ngựa ruổi phi cười nụ.
Vải tiến dâng về ai biết đâu).
Để thoả mãn, có một nụ cười của người đẹp, Đường Minh Hoàng và bọn tay chân bắt dân ta phải khổ nhọc cống vải. Huyện Nam Đàn còn truyền lại một bài hát chầu văn:
Nhớ khi phụ thuộc Đường triều
Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai.
Sâu quả vải vì ai vạch lá
Ngựa hồng trần kể đã héo hon.
Vì thế, nên Mai Thúc Loan quê ở Mai Phụ (gò họ Mai) miền chuyên làm muối ven biển Thạch Hà - Hà Tĩnh đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy, chấm dứt sự bóc lột của phương Bắc một thgian như câu thơ:
Đường đi cống vải từ đây dứt
Dân nước đời đời hưởng phúc chung.
Để giải khát, nước ta thời này có những loại chè và cách pha chè đặc biệt. Sách Trà kinh của Lục Vũ đời Đường ghi rõ: "Qua lô ở phương Nam cũng tựa như dinh (chè) mà nhị đắng. Người ta lấy pha nước uống thì suốt đêm
không ngủ được. Giao Châu và Quảng Châu rất quý chè ấy, mỗi khi có khách đến chơi thì pha mời. Đào Hoàng Cảnh nói Thiều Khê xử sỹ cũng.khen chè!ấy là ngon". Trà Kinh còn viết: "Chè là một loại cây quí ở phương Nam, cây như cây qua lô, lá như lá chi tử (dành dành) hoa như hoa tường vi trắng, quả như quả tinh biền lư, nhị như nhị đinh hương, vị rất hàn".
3. PHẢI LÀM SÁNG TỎ HÌNH ẢNH ĐINH ĐIỀN, NGUYỄN BẶC, LÊ HOÀN. AI NGAY? AI GIAN?
“Luật thứ nhất của Sử họà không dám nói láo.
Luật thứ hai là không sợ nói hết sự thật”
Léon XIII
Quan hệ giữa Đinh Tiên Hoàng với “tứ trụ triều Đinh” gồm “Điền - Bặc – Cơ – Tú” (Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú) là sự gắn bó đẹp đẽ, bền chặt như kim cương, không gì phá vỡ nổi, song sử sách nói tới Đinh Điền, Nguyễn Bặc nhiều hơn Lưu Cơ, Trịnh Tú. Sử sách và dư luận dân gian nói nhiều hơn tới một bộ ba “Đinh Tiên Hoàng, Đinh Điền, Nguyễn Bặc”
Ân tình sâu nặng của ba người có gốc rễ bền chặt từ cái tuổi thơ tóc còn xanh mướt dưới bóng cờ lau tập trận, chứ không phải đợi khi quốc gia hữu sự; cần dẹp giặc khăn vàng mới “đào viên kết nghĩa” như Lưu Bị, Quan Vân Trường, Trương Phi.
Cùng là khai quốc, dựng vương triều nhưng mối tình của Đinh Tiên Hoàng với Đinh Điền, Nguyễn Bặc khác hẳn mối tình nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa thời Bắc Tống (Một triều đại mà niên đại không xa gì với triều Đinh): Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn với Cao Hoài Đức, Trịnh Ân gắn bó với nhau để góp phần mở ra một vương triều đầy văn vật đời Tống, nhưng có thủy mà không có chung. Còn Đinh Tiên Hoàng, Đinh Điền, Nguyễn Bặc sẵn sàng xả thân vì nhau, phú quý chung hưởng, hoạn nạn cùng chia, thủy chung sau trước, rực rỡ như “ngọc đương lang trọn vẹn (nói như Lễ bộ Thượng thư Sử quán Đô tổng tài Đặng Minh Khiêm) đã làm xúc động lòng người đương thời và muôn thuở. Với Đinh Tiên Hoàng vị hoàng đế dựng nền thống nhất, sáng chế triều nghi, đưa nước ta lần đầu tiên “đứng riêng ra là một nước” (Nói như Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí) sẽ có những công trình nghiên cứu xứng đáng hơn. Ở đây, trong mối quan hệ máu thịt không thể tách của ba người, chúng tôi đi sâu hơn vào bản thân Đinh Điền, Nguyễn Bặc, dựa vào tài liệu Hán Nôm và dân gian thu được nhằm sáng tỏ ba mặt sau:
1. Hình ảnh Đinh Điền, Nguyễn Bặc từ cội nguồn tới trước khi nhà Đinh bị cướp ngôi.
Trường ca chữ Nôm Thiên nam ngữ lục cho rằng:
Bốn người có nghĩa đồng niên
Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ.
Tức là Nguyễn Bặc sinh cùng năm với Đinh Điền. Theo Gia phả họ Nguyễn quyển Thượng của Ban liên lạc họ Nguyễn tại Hà Nội: Nguyễn Bặc sinh cùng một năm với vua Đinh, khớp với quốc sử là năm 924. Vậy Đinh Điền cũng sinh năm 924.
Về quê hương, cha mẹ: Có truyền thuyết ở Ninh Bình cho rằng Đinh Điền do ông Đinh Công Trứ (cha Đinh Tiên Hoàng) nhặt được ở bờ ruộng lúc còn đỏ hỏn nên đặt tên là Điền, nhận làm con nuôi, tức là cùng quê với Đinh Tiên Hoàng. Song theo truyền thuyết ở chùa Thiên Hữu (Vạc) huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, và theo thần phả vị thành hoàng xã Đông Xá (nay là xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) thì bố Đinh Điền là Đinh Thân, người thôn Bái Đoài (Tứ) xã Động Xá, huyện Thanh Liêm, Phủ Lý Nhân, xứ Sơn Nam Thượng, nay là huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, mẹ là Dương Thị Liễu quê ở xã An Bạc huyện An Ninh phủ Trường Yên.
Với Nguyễn Bặc: chỉ có quyển phả của Quỳnh Sơn hầu Nguyễn Lữ ghi quê ông ở thôn Ông Hòa, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Song nhiều cuốn phả khác ghi quê ông ở làng Đại Hữu, xã Đại Hoàng, huyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh Bình, như cuốn Nguyễn Đình Bặc (Nguyễn Tộc thứ chi gia phả) của Nguyễn Văn Luận cho Nguyễn Bặc là người làng Đại Hoàng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, nơi phát tích của dòng họ Nguyễn Đại tông, gắn bó với Đinh Tiên Hoàng như:
Hoa Lư kết nghĩa anh hùng chúa
Đại Hữu ân khâm tướng quốc công
(với chúa anh hùng động Hoa Lư kết nghĩa - Đây bậc tướng quốc làng Đại Hữu ơn sâu) Hay:
Cồ Việt thiên thai, chủ hữu anh hùng thần tráng liệt
Đại Hoàng địa tú, gia vi khởi tổ quốc nguyên huân.
(Cồ Việt trời mở ra: vua anh hùng, tôi tráng liệt - Đại Hoàng đất tốt: nhà là khởi tổ, nước là nguyên huân).
Có thuyết nói sau khi Nguyễn Bặc bị hại, bà vợ và hai con là Nguyễn Đê,
Nguyễn Đạt lánh nạn ở Gia Miêu Ngoại trang (huyện Tống Sơn, Thanh Hóa). Cũng có thể khi Nguyễn Bặc rời Hoa Lư vào Thanh Hóa chuẩn bị lực lượng chống Lê Hoàn, ông đã đưa vợ và hai con vào Gia Miêu để phòng sự bất trắc. Vậy Gia Miêu thành nơi bảo tồn dòng họ, là quê hương thứ hai sau Đại Hữu nên từ đường Nguyễn Đại tông ở Đại Hữu có những câu đối ăn khớp:
Duệ xuất Gia Miêu vương tích hiển
Khánh lưu Đại Hữu tướng môn quang.
(Cửa tướng phúc dầy thôn Đại Hữu - Dòng vương nối ở đất Gia Miêu).
Vương triều Nguyễn xuất phát từ quê Gia Miêu là dòng Nguyễn Bặc. Về cha mẹ Nguyễn Bặc: các tài liệu không thống nhất. Theo Ngọc phả thôn Phú Cốc, xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định thì Nguyễn Bặc là Nguyễn Huy, mẹ là Lê Thị Lược, cao tuổi mới sinh con. Song theo Sự tích Định quốc công Nguyễn Bặc của các giáo sư Nguyễn Đình Điền và Nguyễn Đình Chi thì Nguyễn Bặc là con cụ Nguyễn Thước, một Nha tướng của Dương Đình Nghệ.
Về công thống nhất giang sơn, xây dựng đất nước. Ngay từ thuở còn trứng nước, khi Lê Hoàn còn lang thang kiếm sống thì Đinh Điền, Nguyễn Bặc và các vị trong “tứ trụ” đã có mặt ngay từ buổi tụ nghĩa hưng binh ban đầu, đồng cam cộng khổ, quên mình, sát cánh cùng Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn. Sự tích Đinh Điền làng Động Xá ca ngợi quan hệ của ông với vua lúc này:
Quân thần hội ngộ lương duyên
Tâm tâm giao khế vững bền tất giao.
Nguyễn Phúc tộc thế phả kể chuyện ai dâng thức ăn gì, Nguyễn Bặc đều nếm trước để tránh cho Đinh Bộ Lĩnh khỏi bị đầu độc. Có lần Đinh Bộ Lĩnh bị sa vào hiểm địa, bị trúng tên ngã ngựa, Nguyễn Bặc một mình một gươm cõng vua leo lên núi dựng đứng để thoát vây. Để dẹp yên các sứ quân cát cứ khác,
Đinh Điền, Nguyễn Bặc đã tham gia những trận đánh quyết liệt nhất, thay mặt vua đi mộ binh, liên hệ với nhiều địa phương. Thần tích, thần phả ở đình Động Phí, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây cho biết Đinh Điền, Nguyễn Bặc có về đây thu nạp lực lượng của một vị gọi là Bạch Tượng đại vương gồm 500 quân… Công mở nước, thống nhất giang sơn, xây nền chính thống của Đinh Điền, Nguyễn Bặc đã được nhắc tới trong nhiều tài liệu Hán Nôm. Sự tích Đinh Điền làng Động Xá… có câu ca ngợi ông:
Dẹp yên tám cõi bốn phương
Thiên Nam chính thống minh lương hợp hòa.>
Câu đối ở đình Ba Dân, huyện Thanh Trì viết về Nguyễn Bặc: Chính thống phù Đinh khai đế Việt,
Uy danh bình sứ lẫm Nam thiên.
(Chính thống phù nhà Đinh mở ra Hoàng Đế Việt;
Tiếng vang dẹp sứ quân còn lẫm liệt trời Nam).
Dẹp xong sứ quân, bước vào thời kiến thiết hòa bình, Đinh Điền, Nguyễn Bặc đã có những cống hiến. Bản Thần phả thờ Ngoại giáp Đinh Điền có bổ sung vài nét: “Sau khi lên ngôi, Tiên Hoàng chia Nội giáp trong kinh thành giao cho Định Quốc Công Nguyễn Bặc phụ trách dưới quyền chỉ huy trực tiếp của vua gọi là Nội thống vạn cơ (bên trong thống giữ muôn việc cơ mật) cùng với việc phong Đinh Điền là Ngoại giáp, cai quản mọi việc bên ngoài. Công việc đó còn phát huy tốt đẹp nếu nhà Đinh tồn tại.
2. Nhà Đinh bị cướp ngôi: Hình ảnh hy sinh oanh liệt của Đinh Điền - Nguyễn Bặc trong cuộc dấy nghĩa.
Lý do nào dẫn đến hành động quyết liệt để hy sinh của hai ông?
Mọi việc kiến thiết hòa bình đang tiến hành tốt đẹp thì đến rằm tháng 8 năm Kỷ Mão (979), sau một bữa tiệc lòng lợn, cha con Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn bị đầu độc và bị giết chết ở cung đình. Sự kiện bi thảm oan khốc này kéo dài ngàn năm lịch sử mà đến nay vẫn chưa được phán xét công bằng. Chính sử từng nói tới việc Đỗ Thích giết Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn chỉ bằng chuyện hão huyền “Đêm nằm trên cầu, thấy sao sa vào mồm là điềm tốt mới manh tâm giết vua”. Như vậy còn quá đơn giản. Đỗ Thích làm chức nhỏ, thế lực mỏng manh, nếu giết vua chỉ đem lại cái chết, còn kẻ khác tọa hưởng. “Tứ trụ triều đình” đầy tài ba, đầy sự trung thành còn ngồi đấy làm sao một kẻ tầm thường như Đỗ Thích có thể giết được vua nếu không có một lược lượng mạnh hơn “tứ trụ” rất nhiều? Gia phả họ Đỗ ở Đại Đê, huyện Vụ Bản và sự tích đền Thảo Mã (tức đền Gạo ở xã Thanh Bình, huyện Thanh Liêm) có nói tới việc Đỗ Thích có công cõng Đinh Tiên Hoàng chạy trốn khi ông bị Nam Tấn Vương đuổi. Người cứu vua, lại thành kẻ giết vua thì quả là khó hiểu? Về sự cố Đỗ Thích, các ý kiến này của chúng tôi có gặp ý kiến của
ông Mai Khắc Ứng trong tác phẩm Chính sách khuyến nông dưới thời Minh Mạng (NXB Văn hóa Thông Tin, Hà Nội 1996, tr.33, 34 là: “Những người viết sử xưa đơn giản hóa sự cố này: chỉ bởi một giấc mơ hão huyền mà Đỗ Thích trở thành tên sát nhân. Đằng sau Đỗ Thích còn ai không? Tại sao khi Lê Hoàn thế chân thì quân Tống lại can thiệp. Ở tr.57, 58 sách trên, ông Ứng còn nói: “Lê Hoàn giành được thế nhiếp chính đã cùng thuộc hạ mưu sự chiếm ngôi. Nếu không có công chống Tống vào năm Tân Tỵ (981) thì Lê Hoàn đã phạm tội bất trung và lịch sử vẫn giữ nguyên nghi án, đằng sau Đỗ Thích là ai?”. Gần đây chúng tôi đã được đọc văn bản Nôm Hoa Lư tự sự (Vân Sàng truyện) do Lê Văn Đoan sao bản mà theo cụ Nguyễn Văn Đào và một số cụ già ở Ninh Bình cho biết đã phổ biến từ lâu ở Ninh Bình, văn bản này giáo sư Chương Thâu đọc trong hội nghị Khoa học về Định quốc công Nguyễn Bặc ở Ninh Bình, tôi xin nêu lại, chưa kết luận vội để bạn đọc tham khảo suy xét:
Dương Thị Vân phản bội chồng
Từ lâu vốn đã tư thông Lê Hoàn
Đặt mưu hiểm lập chước gian
Đầu độc giết chết Tiên Hoàng cha con
Đỗ Thích tri nội hậu quan
Đi tuần về thấy tâm can hãi hùng
Nhẩy ngay lên mái điện rồng
Bụng đói miệng khát long đong ba ngày
Trời mưa hứng nước dơ tay
Triều đình hô hoán lôi ngay xuống đình
Đổ cho tội thí Đinh Đinh
Để Lê gia xuất thánh minh trị vì.
Vụ thảm sát này phải chăng là nhằm trả thù cho vương triều của chồng cũ mà Tiên Hoàng đã lật đổ, buộc Dương Thị phải lấy mình gắn với bàn tay lợi dụng độc hiểm của Lê Hoàn mà đích cuối cùng là cái ngai vàng giành cho
ông ta
Sau khi những nhân vật kiệt xuất nhất của nhà Đinh như Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn bị hại thì thực quyền nhà Đinh có còn gì nữa đâu, ngoài việc một chiếc áo danh nghĩa. Mọi thứ đã được xếp đặt từ trước. Trước thế lực nắm quân quyền mạnh mẽ của quan Thập đạo, hỏi không trao áo có được không? Về khách quan là vậy, còn về chủ quan thì việc Dương Thị trao áo cho một người đã tư thông từ trước, trao áo, hy sinh chồng con để bản thân được tình mà vẫn giữ được cảnh sống phú quý kiêu sa :
Nguy nga gói bạc cột đồng
Cung đài trang sức buông lòng sa hoang.
Như Đại Nam quốc sử diễn đã tả thì cái tự nguyện của bà ta không lạ. Tác phẩm Nôm Đại Nam quốc sử diễn ca còn có đoạn:
Nối sau Thiếu Đế thơ ngây
Lê Hoàn nhiếp chính từ rày dọc ngang
Tiếm xưng là Phó quốc vương
Ra vào cùng ả họ Dương chung tình
Bặc, Điền vì nước liều mình
Trách sao Cự Lạng tán thành mưu gian.
Việc làm đó của Dương Thị đã vấp phải sự phản ứng của nhiều người bấy giờ ngay đến dòng họ bà ta. Theo tác phẩm Truyền thuyết Hoa Lư của Sở Văn hóa Thông tin Ninh Bình 1997, tr.102 có cho biết: “Hầu hết nội tộc họ Dương rời kinh đô Hoa Lư về Vân Lung và quyết định đổi họ Dương thành họ Giang để không công nhận Dương Vân Nga còn thuộc họ tộc nữa”. Trước tình cảnh ấy hỏi rằng những bậc quang minh chính đại, đầy lòng trung thành với dân với nước, có ân sâu nghĩa nặng với cha con vua Đinh từ trước như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp làm sao không chống lại Lê Hoàn. Việc đánh Lê Hoàn của các ông là việc dấy nghĩa cần thiết.
Đôi câu đối ở đền thờ Ngoại giáp Đinh Điền, bên tháp mộ Đinh Tư đồ thôn Yên Liêu Hạ, xã Khánh Thịnh, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đã thể hiện điều đó, tỏ rõ việc làm chính đáng của ông ở hoàn cảnh ấy:
Đầu khởi tự đam thiền, nộ mục Lê đình trung quán nhật.
Chinh Hoàn phi vị kỷ, thống tai Đinh xã tiết lăng sương.
(Cắt tóc há mê thiền, mắt giận Lê gia nhòa ánh nhật.
Đánh Hoàn không phải vị kỷ, lòng đau Đinh nghiệp ngút trời sương).
Theo ông Đinh Ngọc Lục, người am hiểu Hán tự ở khu vực chùa Thiên Hựu (Vạc), huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình thì sau khi vua Đinh chết, Đinh Điền về đây ẩn dật, tu hành, chuẩn bị lực lượng chống Lê Hoàn. Song lại có bản Thần phả cho rằng Đinh Điền cùng vợ bỏ triều đình ra ở chùa Trúc Lâm, Hải Dương xin quy y thụ giới. Khi nghe tin Hoàn xưng Phó Vương, ông nổi giận dặn dò vợ ở lại chùa còn mình vào Ái Châu cùng Nguyễn Bặc dấy quân.
Về Nguyễn Bặc, năm 1973, Tùng Phong tiên sinh dùng đôi câu đối trên, thay năm chữ vế đầu “Đầu tự khởi đam thiền” (Cắt tóc há mê thiền) ra “Quải thụ khởi vô tình” (treo ấn há vô tình) để khắc lên thờ ở đền Định quốc công nghĩa là “Treo ấn há vô tình, mắt giận Lê gia nhòa ánh nhật - Đánh Hoàn không phải vị kỷ, lòng đau Đinh nghiệp ngút trời sương”. Câu đối khớp với bản Phụng sao về thủy tổ họ Đinh, các tư liệu gia phả họ Đinh và “thần phả ký” ở Hàm Giang (gần thị xã Hải Dương) cho ta rõ: Thấy khó đối đầu với Lê Hoàn ở Hoa Lư, Nguyễn Bặc và chiến hữu từ bỏ quan chức, rời kinh đô rút về Ái Châu (Thanh Hóa). Cuộc giao tranh khốc liệt với Lê Hoàn xảy ra ở Thanh Hóa. Nguyễn Bặc và Phạm Hạp bị bắt mang về kinh đô xử tử. Đinh Điền trọng thương phải tung tin là tử trận mới thoát về căn cứ Đằng Man (thuộc huyện Kim Động, Hưng Yên ngày nay). Sau đó Đinh Điền cùng vợ là Phan Thị Môi Nương tự tử ngày 17 tháng 11. Các tài liệu này có chỗ không đồng nhất với chính sử: Theo Đại Việt sử ký toàn thư (tập 1, NXB KHXH Hà Nội, 1972. Cao Huy Giu dịch, tr.159): “Hoàn mới chỉnh đốn binh sĩ, đánh nhau với Điền - Bặc ở Tây Đô (Thanh Hóa). Điền, Bặc thua chạy, lại đem thủy quân ra đánh. Hoàn nhân gió, phóng lửa đốt chiến thuyền, chém Điền tại trận, bắt được Bặc, đóng cũi đưa về kinh sư hội… và chém đầu để rao. Điền, Bặc đã chết, khí quân của Phạm Hạp nhụt đi, tan vỡ chạy về hướng Cát Lợi - Bắc Giang. Hoàn đem quân đuổi đánh bắt sống được Phạm Hạp đem về kinh sư”…
Đánh giá về các sự biến thê thảm ấy, sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: “Việc khởi binh ấy không phải là làm loạn mà là một lòng phò tá họ Đinh, đánh Hoàn không được mà chết đấy là đúng chỗ”… Đó là “Bề tôi trung nghĩa, làm
không xong việc mà chết ấy là bề tôi tử tiết” (ĐVSKTT, Sđd). Thống nhât với chính sử, giới Nho sĩ và nhân dân cũng nhiệt liệt ca ngợi. Nhiều đền đài miếu mạo ở Ninh Bình coi Đinh Điền, Nguyễn Bặc như một tấm gương trung liệt treo cao: “Trung quán nhật nguyệt” (Lòng trung xuyên suốt mặt trăng mặt trời). Như đôi câu đối ở thôn Khê Đầu Thượng, xã Ninh Xuân, huyện Hoa Lư:
Nhất phiến trung can huyền nhật nguyệt,
Thiên thu chính khí tác sơn hà.
(Một tấm gan trung xuyên suốt vừng nhật nguyệt;
Nghìn thu chính khí rung động non sông)
Chứng tỏ, từ quốc sử quán của một vương triều hiển hách Hậu Lê tới giới Nho sĩ và nhân dân đều khẳng định việc chống kẻ cường thần, hy sinh của Đinh Điền, Nguyễn Bặc là trung nghĩa, tiết liệt chính đáng. Nổi bật nhất trong trung nghĩa của hai ông là “trung quân”.
Câu đối ở đình Ba Dân có ca ngợi Nguyễn Bặc là “ái quốc trung quân”. Hẳn Đinh Điền, người không thể tách khỏi Nguyễn Bặc cũng vậy. Tác giả đặt chữ “ái quốc” lên trên chữ “trung quân”:
Duy nhất tâm ái quốc trung quân, chính thống phù Đinh khai Đế Việt. (Duy một lòng yêu nước trung vua, chính thống phù nhà Đinh mở ra ngôi Hoàng Đế cho nước Việt).
Ở thời Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Nho học chưa truyền sâu vào Việt Nam như sau này nên khó mà có thuật ngữ “Ái quốc trung quân” kiểu như thời sau. Song ta hiểu hành động của hai ông thực chất là “ái quốc trung quân”, dù hai ông không nhắc lời “trung quân”, không viết câu “ái quốc” như hậu thế. Mông muội hơn, ở trước thời Lê Hoàn, Dương Thái hậu rất nhiều, chúng ta đã tìm thấy những tấm dương rực rỡ như Bà Trưng, Bà Triệu, Trương Hống, Trương Hát và nhiều người khác…, đó chẳng phải là những con người nhân nghĩa, tiết liệt trung quân ái quốc hay sao? Gần thời với Lê Hoàn, Dương Thái hậu có bà Dương Thị Như Ngọc (vợ Ngô Vương Quyền), đó không phải là gương sáng về nhân nghĩa, thủy chung, tiết liệt hay sao, dù bà Như Ngọc chưa chắc đã có ý thức dùng các thuật ngữ đó. Vậy nhân nghĩa, thủy chung, danh tiết, ái quốc, trung quân, đó không phải là cái độc đáo của riêng nền văn minh Hoa Hạ, không phải đợi những thứ đó cùng với Nho học truyền sâu vào Việt Nam chúng ta mới có. Không thể lấy chuyện Nho học
vào sớm hay muộn để biện hộ cho những hành động phản chúa lộn chồng, bất nghĩa, thất tiết của một hai nhân vật thời Đinh - Tiền Lê hòng đổi trắng thay đen biến tội thành công và chụp tội lên đầu người khác. Vậy nên, đặt
vào bối cảnh thời đại, chúng ta càng thấy nổi lên gương sáng của Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp và các anh hùng dấy nghĩa, chúng ta càng thấy hành động của các ông phù hợp với truyền thống nhân nghĩa, trung quân ái quốc khí tiết cao cả Việt Nam đang ngày càng vươn lên hoàn thiện.
Về phẩm chất đạo đức thì vậy, còn về đối ngoại. Sau khi đất nước thu gom 12 xứ về một mối, mọi quan hệ giữa nước ta với các nước xung quanh và với Trung Hoa đều tốt đẹp. Nam Việt Vương Đinh Liễn cực kỳ có uy tín với nhà Tống, đã giành nhiều thắng lợi trong ngoại giao. Nếu không có âm mưu gián tiếp hoặc trực tiếp ám hại cha con ông để thoán đoạt ngôi báu, thì chắc chắn không có chuyện Trung Hoa động binh. Còn các quan hệ đối ngoại khác: Một thời gian khá dài trên sâu khấu, điện ảnh có những dàn dựng hấu vu khống cho Đinh Điền, Nguyễn Bặc là tiếp tay hay tư thông với ngoại bang.
Vậy Đinh Điền, Nguyễn Bặc có thật làm những chuyện đó hay không? Sự thật từ lúc cha con Đinh Tiên Hoàng bị giết (từ rằm tháng 8 năm Kỷ Mão 979) và Nguyễn Bặc bị Lê Hoàn hành hình vào ngày 15 tháng 10 cũng năm ấy (theo gia phả dòng họ Nguyễn Bặc vào ngày giỗ Nguyễn Bặc ở vùng Hoa Lư). Đinh Điền có thể bị giết trong tháng 10 cùng Nguyễn Bặc hoặc nếu muộn hơn là sau 1 tháng vào ngày 17 tháng 11 ông cùng vợ tự tử (theo các tài liệu thần phả, gia phả… ở Hàm Giang) thì mãi cho đến tháng 6 năm Canh Thìn (980) sau đó, Tri Ung Châu là Thái thường bác sĩ Hầu Nhân Bảo mới biết mà báo về, tới tận tháng 3 năm Tân Tỵ (1/981) bọn Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng mới kéo binh vào nước ta. Vậy không có chuyện Đinh Điền, Nguyễn Bặc khởi binh chống Lê Hoàn trong lúc quân Tống vào.
Nguyên nhân động binh của nhà Tống có thể lần theo Tống sử: Năm Canh Thìn (980) sứ Tống là Lư Tập sang sứ nước ta thì được biết hai cha con vua Đinh đã chết do bị đầu độc. Các công thần danh tướng Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp đã bị Lê Hoàn sát hại… Lê Hoàn nhiếp chính và bức Đinh Toàn ra nhà khác, cấm cố cả nhà họ Đinh để lên làm thống lĩnh. Ý kiến của Hầu Nhân Bảo cũng là dựa vào Lư Tập, khi Lư Tập vội viết tấu biểu về kinh: “Nước đã gần mất, có thể nhân lúc này đem quân địa phương đánh lấy được. Nếu bỏ lúc này sẽ mất cơ hội”.
Rõ ràng, nguyên nhân giặc Tống xâm lược là do chúng nắm được thời cơ Lê Hoàn rắp tâm cướp ngôi nhà Đinh và sát hại các đại thần nhà Đinh, nước ta có loạn từ 8, 9 tháng trước đó.
Do vậy, Đinh Điền, Nguyễn Bặc không hề có tội gì gọi là “tiếp tay hay tư thông” với nhà Tống trong cuộc xâm lược nước ta của chúng. Không những thế, hai ông còn là những người có công nữa. Bởi quân đội do Lê Hoàn thống lĩnh để đánh Tống bình Chiêm thắng lợi là quân đội đã được rèn luyện tổ chức dưới thời Đinh công lao đóng góp to lớn của Đinh Tiên Hoàng, Đinh Điền, Nguyễn Bặc. Nhà sử học Lê Tung trong ĐVSKTT, Sđd, tr.46 cho thấy “Đinh Tiên Hoàng thống nhất bờ cõi, dùng bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc làm người phò tá, sáng chế triều nghi, định lập quân đội”.
Về xu thế lịch sử: Việc Đinh Điền, Nguyễn Bặc và chiến hữu của ông chống lại Lê Hoàn, bảo vệ vương triều Đinh là phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử Việt Nam. Bởi ngược với nhà Tiền Lê ở giai đoạn Lê Ngọa Triều vô đạo, nên phải có một triều đại vua sáng tôi hiền Lý Công Uẩn thay thế… Nhà Đinh ở giai đoạn Đinh Tiên Hoàng làm Hoàng đế, Đinh Liễn làm chủ về đối ngoại là giai đoạn đất nước đang trên đà phồn thịnh. Sự thật này, có thể tìm thấy trong lời khen của các sử thần nổi tiếng Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, trong những dẫn chứng về những thắng lợi trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại của nhà Đinh sau khi thu gom non sông về một mối, kiến thiết hòa bình được chép ở ĐVSKTT và hàng loạt sử sách khác. Bảo vệ một vương triều đang lên như vậy để chống lại một nhân vật như Lê Hoàn mà quốc sử đã nhận định ông ta là “vua nhân gian dâm trong cung mà lấy được nước, về luân thường đạo vợ chồng có nhiều việc đáng thẹn”. (Sđd, tr.166). Bảo vệ một vương triều đang lên ấy để chống lại Lê Hoàn, một người “chứa điều bất nhân nhiều lắm” đúng như nhận định của sử thần đầy uy tín Lê Tung (ĐVSKTT, kỷ Tiền Lê, tr.169-180). Đó phải là một việc làm chính đáng hoàn toàn của Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp. Việc chống lại Lê Hoàn đó còn là để bảo vệ nền thống nhất dân tộc mà chính Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc và quân dân ta hồi đó đã đem xương máu ra mà giành được. Đất nước ta sau loạn 12 sứ quân đã yên bình mười mấy năm trời dưới thời Đinh, cần ổn định để phát triển, không nên lật đổ để sa vào một thời chia cắt máu lửa như trước mà Lê Hoàn sau này lại tái diễn. Trong ĐVSKTT tr.169-180 chỉ kể sơ sơ thôi ta đã thấy vùng lên 8 cuộc nổi dậyười trong nước chống đối và phân ly, bị đàn áp đẫm máu dưới thời Lê Hoàn cầm quyền, gây tổn thất cho nhân dân và vương triều, ngay đến Đinh Toàn là một ông vua bị phế, còn rất trẻ vẫn bị đẩy vào cuộc nồi da xáo thịt, phải chết một cách thảm thương. Ngay đến Ái Châu (Thanh Hóa), một vùng đất từng nuôi sống, sinh thành ra Lê Hoàn mà cũng không yên được với những cuộc nội chiến tàn sát của ông. Năm Kỷ Hợi (999) Lê Hoàn thân đánh 49 động Hà Đông (thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa). Năm Tân Sửu (1001) Lê Hoàn thân đánh đất Cư Long (thuộc huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa). Những vùng đó cách làng Trung Lập (nơi chôn nhau, cắt rốn,
có nhiều kỷ niệm và có đền thờ Lê Hoàn) theo đường chim bay chỉ khoảng 20-25 km hẳn thấy rõ cảnh núi xương sông máu. Quê hương sâu nặng nghĩa tình đã hưởng ân huệ của ông như thế đó. Ở ĐVKSTT, Sđd, tr.47, sử thần Lê Tung đã phê phán Lê Hoàn: “Gây nhiều việc can qua, coi nhân dân không khác cỏ rác”… Lê Hoàn vừa nhắm mắt, các con ông đánh nhau suốt 8 tháng giành ngôi. Vậy đất nước không thể quay về một thời như thế nên việc các anh hùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp chống lại Lê Hoàn là cần thiết.
Do thế Đinh Điền, Nguyễn Bặc thật xứng đáng được Đặng Xuân Khanh tôn sùng trong Việt Nam tiền cổ vĩ nhân liệt truyện khẳng định là một trong những “vĩ nhân của thời tiền cổ Việt Nam”. Hai ông thật xứng đáng là một báu vật trung nghĩa của trời Nam” nói như Phạm Kế Biên trong Nam Thiên trung nghĩa bảo lục.
3. Với những công đức uy tín ấy, Đinh Điền, Nguyễn Bặc xứng đáng được nhân dân kính trọng tôn thờ, tạo nên hình ảnh tâm linh bất diệt trong lòng dân.
Thật hiếm có vị thần nào được thờ ở nhiều nơi, có nhiều đền miếu như Đinh Điền, Nguyễn Bặc. Văn bảSự tích Đinh Điền làng Động Xá xã Liêm Cần có những câu viết về ông:
Anh linh phổ chấn cửu lai
Ninh Bình tám xã, xứ Đoài mấy hương.
Xã Tuấn Kiệt, tỉnh Hải Dương,
Cùng làng Đông Xá quý hương đất nhà.
Lập đền phụng sự nguy nga…
Ông Dương Văn Vượng cán bộ Nhà Bảo tồn Bảo tàng Nam Định, từng làm công tác thống kê di tích lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh cũ cho biết: Tỉnh Hà Nam Ninh cũ có tới 134 nơi thờ và phối thờ Nguyễn Bặc. Nơi thờ và phối thờ Đinh Điền càng nhiều. Đền vua Đinh ở Trường Yên, Gia Phương, Ba Dân (Kim Bảng), đền vua Đinh ở Ý Yên… nơi nào cũng thờ Đinh Điền, Nguyễn Bặc, xem như những người hùng tiêu biểu cho tinh thần thượng võ dân tộc. Nhiều nơi thờ các vị thần khác mà vẫn lưu lại sự tích, có khi thờ cả Đinh Điền, Nguyễn Bặc gắn bó với nhau, được dân địa phương sùng kính (như các đền miếu ở huyện Yên Khánh, Ninh Bình, chùa Long Hoa ở xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, đền chùa ở bến Vạc Ninh Bình,
đình Động Phí ở huyện Ứng Hòa tỉnh Hà Tây…). Chứng tỏ, hai vị sống thân thiết, chết lại không xa rời nhau, trở thành hình ảnh tâm linh hòa hợp giữa lòng ngưỡng mộ của nhân dân. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Bá Thế: từ Đời Lý trở đi Đinh Điền, Nguyễn Bặc cùng Lưu Cơ, Trịnh Tú đều được truy phong phúc thần. Chính Lê Hoàn lên ngôi vẫn cảm phục Đinh Điền, sắc phong ông làm: “Tế thế Hộ quốc Hiển ứng Linh quang Đại vương”, vợ ông là Phan Môi Nương cũng được sắc phong là: “Huệ Hoa Gia Tĩnh Trinh Thục phu nhân”. Lê Lợi sắc phong cho Đinh Điền là “Thượng đẳng Vạn cổ Phúc thần Trung thánh Đại tư đồ Bình chương sự Khai ốc Công đức Văn Đại vương”.
Một vế đối ở miếu Đông Thương xã Khánh An huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đã viết về Nguyễn Bặc: “Lịch triều gia tặng huyến long chương” (Các triều đại gia tặng rực rỡ trên tờ sắc phong). Các triều đại quá xưa lên tận thời Lê Hoàn đã biết ban sắc phong không? Cần xem xét. Song điều đó cũng nói lên rằng Đinh Điền, Nguyễn Bặc là hai vị tôn thần được nhân dân nhiều vùng nước ta sùng kính đặc biệt, có khi thần thánh hóa. Rõ ràng là các triều đại từ Hậu Lê trở đi đã long trọng ban sắc phong cho hai ông ở bậc “Thượng đẳng”, đề cao tới bậc “tối linh”.
Có một bài thơ “Giáng bút” gọi là của Nguyễn Bặc truyền cho hậu duệ, nhưng hẳn là do nhân dân Ninh Bình quá yêu kính nên tưởng tượng ra, trong đó có những câu không thể nào quên được như:
Thiên thu định vị thiên nhiên huyệt.
Ức tải trường lưu vạn thế hài.
(Muôn kiếp vẫn còn đầy khí cốt,
Ngàn thu không dứt mối ân tình).
Thần phả và truyền thuyết ở Hải Dương có kể rằng: Trước khi tuẫn tiết, Đinh Điền có để lại một bài thơ tứ tuyệt. Bài thơ đó có thật của Đinh Điền không? Phải chăng do hậu thế kính mến mà sáng tác ra? Có những câu đáng nhớ như:
Nhất đường tụ hội hoán tinh thần.
Vạn cổ phương danh tại xã dân.
(Một nhà sum họp thắm tinh thần
Muôn thuở tiếng thơm ở xã dân).
Hình ảnh của Đinh Điền, Nguyễn Bặc vẫn còn đó “Muôn thuở” còn tiếng thơm, “Ngàn thu không dứt mối ân tình” với chúng ta và hậu thế.
Ngày 1 tháng 12 năm 1997
4. LÊ VĂN THỊNH " HOÁ HỔ ", MỘT NGHI ÁN ĐẶC BIỆT CẦN XÁC MINH
Lê Văn Thịnh có phản nghịch hay chăng? Vị trí đích thực của ông trong lịch sử Việt Nam thế nào? Công chăng? Tội chăng? Tác giả bài này rất đau đớn đặt những câu hỏi này với một người đáng lẽ từ lâu phải được đặt tên cho đường phố hay tạc tượng kỷ niệm. Song thật đáng tiếc, làm sao minh oan được khi mà sử sách bao đời vẫn cứ lặp đi lặp lại những nhận xét bất công về ông. Thậm chí ở thời đại gọi là đổi mới này, có người lợi dụng quyền hư cấu văn học để dựng kịch coi ông như một tên gian thần phản quốc. Buồn thay hiện tượng "bớt" để "thêm" từng rất phổ biến ở nước ta. Chẳng hạn, người ta từng bớt Mạc để thêm cho Lê; bớt Tây Sơn để thêm cho Nguyễn, sau đó lại bớt Nguyễn để thêm cho Tây Sơn cho "hợp thời"... Vì vậy, hiện tượng bớt Lê Văn Thịnh để thêm cho Nhân tông, cho Ỷ Lan..., bớt công lao với dân với nước của ông để mập mờ cho tội phản nghịch vốn không có của chính ông, có gì lạ đâu? Cho nên, Lê Văn Thịnh là nghi án, là hiện tượng lịch sử đặc biệt rất cần ải xác minh.
Ai cũng biết rõ: Lê Văn Thịnh là thủ khoa trong khoa thi "Minh Kinh bác sĩ và Nho học tam trường" vào đời Lý Nhân tông, khoảng mùa xuân tháng 2 năm Ất Mão (1075). Đây là khoa thi chính thức đầu tiên ở nước ta thời phong kiến để tuyển những người giỏi Nho học, thông suốt mọi kinh điển. Sự kiện đó gắn liền với những sự kiện lịch sử đáng nhớ cách đấy không lâu: Vào tháng 8 năm Canh Thân (1070), triều đình ra lệnh xây Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, Tứ Phối, bốn mùa cúng tế, cho Hoàng Thái tử đến đấy học. Nó chứng tỏ sự đổi mới trong giáo dục, thời kỳ sùng chuộng Nho học đã bắt đầu, thời kỳ tuyển hiền bằng văn học thực tài qua thi cử đã thay cho việc tuyển bằng dòng giống, bằng quá khứ trận mạc, bằng sở thích chủ quan của người cầm quyền từng rất lộng hành trước đó. Cho nên, Lê VănThịnh, ngôi sao chiến thắng rực rỡ nhất trong kỳ thi đầy ý nghĩa thuở ấy phải giữ một vị trí không bao giờ phai mờ trong nền văn hoá giáo dục Việt Nam thời cổ, trong quan niệm mới mẻ của nước ta về tiêu chuẩn hiền tài. Sự thực đã chứng tỏ việc tuyển hiền đó là đúng đắn. Sau đấy không lâu, Lê Văn Thịnh được tuyển vào dạy vua học. Nếu ông chỉ là hư danh học vị thi giỏi mà thôi, hoặc chỉ có tài nhưng không có đức thì làm sao có thể lọt qua cặp mắt tinh anh của những quan chấp chính tài ba lừng lẫy như Lý Thường Kiệt để có sự kiện lịch sử này. Hẳn rằng Thái hậu Ỷ Lan, một người cực kỳ thông sáng và vô cùng yêu quý con trai mình là Nhân tông không thể nhầm khi chọn cho con mình một ông thầy xứng đáng. Việc chọn Lê Văn Thịnh đứng đầu phái đoàn giao thiệp với Trung Hoa ở hội nghị Vĩnh Bình cũng vậy.
Tháng 6 năm Quý Hợi (1083), Đô Tuần kiểm Tả giang nhà Tống là Thành Trạc đến Vĩnh Bình: Vua Lý phái Đào Tông Nguyên đến bàn hội nghị. Sứ ta muốn đòi lại hai châu Vật Dương - Vật Ác, nhưng Tống chỉ muốn trả lại một giải đất ở phía Nam dẫy núi Hoả Diễm mà thôi. Đào Tông Nguyên không chịu, bỏ hội nghị ra về. Không khí căng thẳng kéo dài. Để gỡ thế bí, Vua Lý cũng như Thái hậu không thể tìm ai khác, đã cử Lê Văn Thịnh và Nguyễn Bồi đến Vình Bình vào tháng năm 1084. Hoàng Xuân Hãn, trong tác phẩm Lý Thường Kiệt đã thừa nhận: "Lê Văn Thịnh là người đậu đầu khoa thi Nho học đầu tiên ở nước ta, lại được vào cung dậy vua... chắc ông là một tay ứng đối giỏi nhất ở triều nên được chọn sung vào sứ mệnh này".
Những chi tiết cụ thể về việc Lê Văn Thịnh ứng xử trong Hội nghị lần kế tiếp này thế nào? Các sử sách nước ta nói còn đơn sơ hoặc chưa thoả đáng. Tống sử chép rõ hơn nhưng vẫn rất vắn tắt. Nay gộp lại những việc tản mát trong bộ sách Tục Tư trị thông giám trường biên của Lý Đào, vị Tiến sĩ thời Nam Tống, ta càng có cơ sở để khẳng định được thêm là Lê Văn Thịnh đã biện luận đến cùng để đòi thu lại những đất đai nước mình đã bị Trung Hoa chiếm. Công việc đó không đạt kết quả mĩ mãn là do hoàn cảnh khách quan, đường xá bên đối phương cách trở, gây ách tắc thông tin Hội nghị, do sự gian xảo của người cầm đầu phái đoàn nhà Tống là Thành Trạc, kẻ cố ý xuyên tạc, bóp méo sự thật. Điều quan trọng hơn là Lê Văn Thịnh đã gỡ thế bí của Hội nghị mà Đào Tông Nguyên đã. bất lực bỏ về và ông đã đòi đất 6 huyện 3 động để bù vào Vật Dương, Vật Ác chưa được phía Tống chấp thuận. Một tấc đất biên cương Tổ quốc là tấc vàng. Đòi được ngần ấy đã là quý lắm rồi. Đó là sự linh hoạt để bình thường hoá quan hệ Việt-Trung và giải quyết những tồn tại sau chiến tranh giữa hai nước. Làm được việc ấy phải là nhà ngoại giao có tài, lập trường kiên định.
Sau Hội nghị Vĩnh Bình không lâu, vào năm 1085, triều đình Lý đưa Lê Văn Thịnh lên chức Thái sư, đứng đầu triều đình. Đó là một hình thức hữu hiệu để thừa nhận công lao tài đức của bậc thầy vua với văn hoá, giáo dục và ngoại giao đất nước. Nhưng hoạn trường đầy bão táp. Ở ngôi tể phụ 12 năm, chưa thi thố tài kinh bang tế thế được bao nhiêu, ông bỗng nhiên bị cách chức đi đầy vào năm 1096. Tại sao có chuyện lạ lùng ấy? Các sử sách như sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt điện U linh... đều giải thích căn nguyên ông đã dùng thuật biến thành hổ để hại vua. Như Đại Việt sử ký toàn thư đã
viết: "Bấy giờ vua ngự ra hồ Dâm Đàm, đi chiếc thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có hổ... Người đánh cá là Mục Thận quăng cái lưới trùm lên con hổ, thì ra là
Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết chết, đầy lên trại đầu sông Thao...".
Thế là vụ án mờ ám, khó hiểu nhất trong lịch sử Việt Nam, vụ án theo lô gíc thông thường mà suy luận khó có thể xảy ra - vẫncứ xảy ra. Bởi vì, người bề tôi hết lòng cúc cung tận tuỵ với vua, đã đem lại thêm đất đai, đem lại trí tuệ cho vua thì bị vua cho là mưu giết mình. Tức là giết bậc đế vương từng tin
cậy, cất ông ta lên chức vụ trọng đại. Nói cách khác, Người thầy tài đức, rất được Trò và Mẹ trò tôn kính, tin cậy lại định hại ngầm người học trò thân yêu của mình. Lạ lùng thay, âm mưu thí nghịch tầy đình ấy lại được tiến hành bằng thuật hoá hổ, điều mà theo phân tích khoa học thật khó tin. Sau đó là một cuộc đền đáp bằng luật nước của những người từng cộng tác thân thiết với nhau: Vua ra lệnh đầy người bề tôi thân cận của mình, hay là học trò bắt ông thầy đầy ân huệ với mình đi đày biệt xứ. Rõ ràng, chỉ cần nhìn vào cái bề ngoài ấy thôi, ta cũng đủ nghi ngờ tính chất quang minh của vụ án. Thế mà mỉa mai thay, ngót chín trăm năm này, nhiều người, kể cả các nhà sử học có uy tín vẫn liên tục nhắc lại câu chuyện hoá hổ hại vua của Lê Văn Thịnh với niềm tin là thực. Họ không kể gì tới cái bề ngoài dễ hiểu, dễ thấy đó.
Đi sâu phân tích kỹ vụ án ta có thể thấy rõ Lê Văn Thịnh đã bị quy oan. Có thể khẳng định chắc như thế vì mấy lý do cụ thể s>
1/ Hồ Tây - hiện trường diễn ra vụ án, vốn có sẵn những điều kiện thuận lợi để dàn dựng kịch bản nhằm hại Lê Văn Thịnh. Đó là cái nền để người ta thêm thắt nhiều chi tiết ly kỳ cốt lừa bịp dư luận, cố làm cho mọi người tin là thật. Hồ Tây thường bị sương mù bao phủ, một cảnh tượng dữ dội của thiên nhiên, rất dễ làm cho các vua Lý phải hoảng hốt, tâm thần bất định mà nhìn người hoá hổ. (Cái tên Dâm Đàm vốn có từ rất xa xưa, có thể trước cả đời Lý. Các vua đời. Lý, đời Trần có xây "Dâm Đàm hoàng cung" cạnh hồ để hóng mát. Năm 1573 vì kiêng tên huý Lê Thế tông là Duy Đàm mới đổi thành hồ Tây).
Còn chuyện Mục Thận tung lưới chụp Lê Văn Thịnh thì từ lâu người đời đã truyền tụng về việc làng Võng Thị ở khu vực hồ vẫn thờ một vị thần có tài chài lưới và có phép biến hoá như thánh Trấn Vũ. Cái tên làng "Vọng Bố" (hay Võng Thị, xưa trông ra chợ) vốn có tên cũ là Võng Thị (chợ lưới) chứ đâu phải đợi đến khi Mục Thận tung lưới mới có.
Về truyền thuyết hổ ở hồ Tây: Theo sách Tây hồ chí thì hồ Tây có từ thời Hùng Vương. Nó vốn là một cái bến ở Cạnh sông Hồng, thuộc động Lâm Ấp
của thôn Long Đỗ. Xung quanh bến đò là một khu rừng lim rậm rạp, có nhiều hang động (phía tây có Già La động, phía đông có Nha Lâm động, phía nam có Bình Sa động...). Một vùng hiểm trở như thế từ xa xưa, đã là nơi sinh sống của nhiều thú, là cơ sở cho sự phổ biến những truyền thuyết về hổ. Tây Hồ là nơi gắn với nhiều câu chuyện về các loài động vật như trâu vàng, cáo 9 đuôi, bạch mã, rắn trắng... Vậy thì hổ - chúa sơn lâm, hẳn không phải đợi đến khi Lê Văn Thịnh hoá hổ mới có truyền thuyết.
Từ trong dân gian cũng như trong sử sách đời Lý đã có không ít những truyền thuyết, sự kiện gắn với hổ, như truyện Lý Thần tông hoá hổ, phải nhờ Nguyễn Minh Không chữa cho mới khỏi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi đời Lý Cao tông có một vị sư người Tây Vực (Tây Bắc Ấn Độ) tới Thăng Long xưng là biết phép giáng hổ là một minh chứng. Chuyện Lê Văn Thịnh hoá hổ phải chăng đi theo xu hướng đó?
2/ Bản thân đời Lý vốn có những truyền thuyết đại đồng tiểu dị, gần gũi với truyền thuyết Lê Văn Thịnh cũng diễn ra ở Tây Hồ. Như chuyện: Một lần, có vị vua mà có người bảo vua đời Lý, ngự thuyền chơi Tây Hồ, xem quăng lưới bắt cá. Trời đang yên lặng, bỗng gió nổi và mây mù phủ kín. Lúc đó, thuyền vua đã ra đến giữa hồ, thì một người con gái đẹp hiện lên. Vua mê mẩn tâm thần, định đón người đó về cung, thì có vị đạo sĩ giỏi chài lưới tâu rằng: "Xin nhà vua chớ lầm, nó là con yêu tinh dưới hồ, đã từng làm hại nhiều người". Vua không tin là thực. Nhưng vị đạo sĩ kia lo cho số phận nhà vua, bèn dùng phép quăng lưới tơ xuống hồ, vây lấy người con gái, biến lưới tơ thành lưới sắt và con yêu tinh hiện hình là con rắn khổng lồ. Đuôi rắn rất dài, có thể cuốn thành 9 vòng trên cổ người nào mà nó định hại. Vua thoát nạn và từ đó dân hồ Tây cũng thoát nan, họ lập đền thánh Võng Thị để thờ người đã có công trừ yêu tinh. Đây chính là một khuân, một mẫu trong truyền thuyết người hoá vật hại vua đời Lý và người quăng lưới diệt yêu cứu vua, dù có một vài tiểu dị như: một đằng là Lê Văn Thịnh - một đằng là người con gái; một đằng hoá hổ - một đằng hoá rắn; một đằng là vua Lý Nhân tông cụ thể - một đằng là vua nhà Lý nói chung; một đằng là người quăng lưới Mục Thận rõ ràng - một đằng là người quăng lưới làm đạo sĩ nói chung... Trên cái nền chung ấy, cốt chuyện có những diễn biến ở những tình tiết tiểu dị ấy, khiến tính mơ hồ càng tăng, thì cũng làm ta khó tin vào sự xác thực của truyền thuyết Lê Văn Thịnh hoá hổ hại vua.
>
3/ Riêng về bản thân Lê Văn Thịnh: Trong dân gian còn truyền tụng rằng: Cũng như Tiết Nhân Quý đời Đường, thuở nhỏ ở Lê Văn Thịnh hay xuất
hiện tinh tướng hổ. Ông đi đứng bệ vệ, dáng dấp như hổ, ngồi vững vàng như hổ, đến mức: Thuở còn đèn sách, dùi mài kinh sử, ông học tới khuya, mẹ thương con mệt đã vào thư phòng, giục con đi ngủ, thấy con ngồi chồm chỗm trên giường học như ông hổ, sợ quá ngất đi. Chúng ta thấy mẹ là người gần gũi con nhất, còn nhìn lầm là hổ, huống hồ vua Lý trong sương mờ mịt nhìn Lê Văn Thịnh là người thành ra hổ thì có gì lạ? Trong Trích Sài thần tích có kể chuyện Lê Văn Doanh theo Lý Thánh tông đi đánh Nùng Tôn Phúc, bắt được y đưa về kinh sư. Văn Doanh thấy y dáng mạo lạ lùng bèn cho ăn uống, ân xá. Hắn trả ơn, xin làm nô tì và hứa sẽ truyền các bí quyết lạ cho. Văn Doanh cho con là Văn Thịnh đi theo, ở biệt cư với Phúc để học bí quyết trong đó có thuật hoá hổ. Sách Việt điện U linh ghi lại chuyện: Lê Văn Thịnh nuôi được tên hầu người Đại Lý (Vân Nam) biết phép thả hơi mù và biến thành hổ báo và được tên này dạy cho phép ấy. Sự thực lịch sử là Lý Thánh tông bắt được Nùng Tôn Phúc và Nùng Trí Thông - là cha và anh Nùng Trí Cao, đem giết cả hai đi, chứ không có chuyện có một người là Lê Văn Doanh cho ăn uống và ân xá để sau đó trả ơn dạy phép. Còn về việc học thuật lạ hoá hổ: Lê Văn Thịnh là bậc đại nho uyên bác nên ngoài văn chương kinh sử, ông có thể nghiên cứu thêm các sách phương thuật (Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú gọi loại sách này là Phương kỹ), bao gồm cả những sách về bói toán, phong thuỷ và các thuật lạ khác. Ông lại từng đi sứ Trung Quốc, ở phía Nam nước này nên có dịp tiếp xúc những dân tộc từng được truyền là có nhiều thuật lạ (như người nước Địa Lô ở Vân Nam). Đó là nguyên cớ để người đời đồn đại về cái học khác thường của ông. Cũng do đó, với một người từng gắn với truyền thuyết hổ như Lê Văn Thịnh thì cái học ấy hẳn phải là học cách hoá hổ, dù ông có học hay không, khó x định.
Tóm lại, ở một người có dáng dấp hổ, lại mang tiếng (không rõ rệt) là học được thuật lạ ấy, gắn với những thần tích không minh xác về mặt lịch sử, đặt trong thời Lý với những sự kiện truyền thuyết về hổ tương ứng, về cái mẫu câu chuyện có nhiều nét đại đồng tiểu dị với vụ án dựng lên sau này của ông, thì nếu đặt Lê Văn Thịnh trong môi trường hồ Tây, nơi sẵn có nhiều tình tiết vô tình nhưng lại rất phù hợp với vụ án, hẳn sẽ là cơ sở thuận lợi cho những ai muốn hại ông dàn dựng vu khống.
4/ Về nội tình triều Lý lúc đó đang tồn tại mâu thuẫn không thể dung hoà giữa phái Phật giáo (có giới tu hành đông đảo) và phái Nho học tân tiến (có thực tài nhưng còn ít ỏi) do Lê Văn Thịnh cầm đầu. Mâu thuẫn đó được biểu hiện đầy kịch tính giữa sự xác lập các ảnh hưởng của ý thức hệ Nho giáo với những Nho sĩ đang nắm quyền lực với ý thức hệ Phật giáo bảo thủ tồn tại lâu đời.
Vua Nhân tông và Thái hậu Ỷ Lan là những người cực kỳ sùng chuộng Phật giáo. Trong thời gian Lê Văn Thịnh làm Thái sư, vua và thái hậu xây dựng rất nhiều chùa tháp tốn kém. Mùa xuân năm 1088, vua Nhân tông lại phong nhà sư Khô Đầu làm quốc sư, cho tiết việt để cùng Tể tướng đứng trên điện xét đoán công việc. Với một nhà nho chấp chính nắm quyền Thái sư (tức Tể tướng) như Lê Văn Thịnh, hẳn riêng ông không thể tán thành sự thao túng của Phật giáo, nhất là khó chấp nhận việc đưa người của Phật giáo vào triều đình; chia sẻ quyền lực với mình. Do đó, đã xảy ra mâu thuẫn giữa phái Nho giáo bắt đầu vươn lên nắm quyền, đứng đầu là Lê Văn Thịnh, và phái Phật giáo vốn là một thế lực cũ, từ lâu đã rất mạnh ở triều đình. Như vậy, cái chết của Lê Văn Thịnh là tất yếu.
5/ Lê Văn Th cũng như Lý Thường Kiệt đều có chủ trương đòi lại đến cùng những vùng đất bị Tống chiếm ở biên giới. Thậm chí ông còn cho rằng nếu cần có thể dùng sức mạnh để phục hồi và mở rộng biên cương. Điều đó không thể không làm phật lòng những kẻ chủ trương hoà hoãn để an thân, giữ yên quyền lợi ở triều đình. Vua và Thái hậu cũng vậy. Lúc đầu cả hai mẹ con đều tán thành việc tấn công lên phương Bắc, bảo vệ có hiệu quả biên cương Tổ quốc. Nhưng sau này, cả hai có lúc nản lòng. Theo Hoàng Xuân Hãn: Khi giặc Tống đánh đến sông Cầu, trong cơn nguy kịch, khi lăng tẩm kinh thành nhà Lý bị uy hiếp, Thái hậu và vua là đàn bà con trẻ, quen sống êm ấm chắc cũng có lúc nản lòng và oán Lý Thườg Kiệt, viên đại tướng quen với trăm trận, đề ra chiến lược quyết chiến quyết thắng với Tống. Hơn nữa, vua dần lớn lên, cần nắm trọn quyền nhưng có Lý Thường Kiệt đang nắm đại quyền ở bên cạnh can gián. Cho nên, nhà vua đã đưa Thường Kiệt ra trấn Thanh Hoa 19 năm trời (từ năm 1082 đến năm 1101). Trong tình thế ấy làm sao Văn Thịnh, người cùng xu hướng, chủ trương với ông, lại có tài xuất chúng và là thầy dậy vua, có thể yên được. Do đó, dù Văn Thịnh có công, rất thân với mẹ con vua, vẫn không cứu được bản thân ông. Dường như tất cả mọi mâu thuẫn, mọi mũi dùi của triều đình đã tập trung vào ông, quyết đẩy ông khỏi ngôi tể tướng. Và như trên đã nói: điều kiện xã hội, điều kiện gia đình, bản thân, điều kiện ở Tây Hồ, nơi ông hay đến với vua, nơi có bao nhiêu truyền thuyết, đồn đại sẵn... như đã dăng bẫy, chuẩn bị một cuộc đi đày xa khổ ải của Thái sư Lê Văn Thịnh.
Chính Hoàng Xuân Hãn đã cảnh tỉnh chúng ta phải xem lại vụ án Lê Văn Thịnh. ông viết: "Về tháng 11 trận mù thình lình tới trên hồ, đó là sự thường. Nhưng với tâm hồn hay bị xúc cảm của vua Lý, khi thấy trời tối mà mình còn ở trên mặt nước thì hoảng hốt. Có lẽ Văn Thịnh cũng vì thấy trời tối mà vội vã sai chèo thuyền gấp tới để hộ vệ vua về. Ngồi trên thuyền bị trùng triềng không vững, Văn Thịnh phải khom mình, tay chống vào thuyền cho
vữdáng trông như con hổ. Mặt khác, Văn Thịnh có tiếng sẵn là đã học được phép hoá hổ. Cho nên kẻ trông thấy hình con hổ trong thuyền lại càng nghi cho ông muốn hại vua". Đó là cơ hội cho phe đối lập được dịp vu khống, quyết hãm hại ông.
Chúng ta thấy rõ, dù nhìn ở góc độ nào, thì cả lý và tình, Lê Văn Thịnh đều bị quy oan.
Gần 9 thế kỷ qua, nhiều vụ án lịch sử đã được làm sáng tỏ. Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, v.v... đã lần lượt được minh oan. Vậy mà đến nay, sự thật về vụ án "Hồ Dâm Đàm"' với danh nhân văn hoá xuất chúng, nhà ngoại giao lỗi lạc, nhà giáo được cả nước trân trọng, vị Thái sư có tài kinh bang tế thế ấy vẫn trôi nổi, mờ ảo như làn sương mịt mờ trên hồ Tây? Chúng ta không chỉ thắp hương tưởng niệm một tài năng bị oan khuất mà cần phải bằng luận chứng khoa học giải toả nỗi đau nhân tình này. Chỉ như thế mới tỏ rõ chúng ta không đi nhầm vào vết xe đổ của người trước nhìn người hóa hổ.
5. NGUYỄN TRUNG NGẠN, TỪ MỘT THẦN ĐỒNG TỚI VỊ THẦN THÀNH HOÀNG LỪNG LẪY
Danh nhân Nguyễn Trung Ngạn sinh tại xã Thổ Hoàng, huyện Kim Thi, tỉnh Hưng Yên, vùng đất từng một thuở mang cái tên Sơn Nam lừng lẫy thời vua Lê chúa Trịnh, với câu :Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, ở phần Dư địa chí, Phan Huy Chú đã cho đây là một "mảnh đất tụ khí anh hoa". Có "anh hoa" ấy, tất phải có "Văn miếu Hưng Yên", nơi tích tụ những tên tuổi đầy tài năng nay còn khắc trên bia đá "bền gan cùng tuế nguyệt". Có anh hoa ấy, tất phải có một làng văn hiến như làng Thổ Hoàng với 10 tiến sĩ mà Nguyễn Trung Ngạn là người khai khoa, cũng là một thần đồng sớm phát triển nhất, để lại nhiều công lao, tác phẩm nhất trong số những tiến sĩ cùng làng. Trong Hưng Yên văn miếu đệ nhất bi, Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn được xếp thứ hai sau Tống Trân - vị Trạng nguyên đỗ năm Giáp Thìn đời Trần, người nổi tiếng trong truyện nôm khuyết danh được lãng mạn hoá trên cơ sở con người thật với mối tình tuyệt đẹp Tống Trân - Cúc Hoa.
Theo Tự điển văn hoá Việt Nam, Nguyễn Trung Ngạn sinh năm 1289 (tức năm Kỷ Sửu, nên hiệu Trùng Hưng đời Trần Nhân Tông). Tức là ông chưa thể tham gia vào cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Nhưng rõ ràng ông sống gần thời ấy, hào khí Đông A còn tỏ rõ trong con người ông, thể hiện ở việc làm của ông. Cùng với bản chất gia truyền tốt đẹp của dòng họ Nguyễn và bản tính bẩm sinh mạnh mẽ của bản thân, Nguyễn Trung Ngạn sớm có chí khí nuốt sao Ngưu, bao hàm cả vũ trụ, tạo nên cái hùng khí "thôn Ngưu Đẩu” phù hợp với Kỷ Sửu là năm trâu sinh ra ông. Đúng như ông đã viết:
Giới Hiên tiên sinh là vật thiêng của triều đình.
Có chí nuốt sao Ngưu từ lúc tuổi xanh.
Ngay từ tuổi xanh, Nguyễn Trung Ngạn đã nổi tiếng là người có chí mạnh, thông minh, nên được suy tôn là "thần đồng". Thuật ngữ "thần đồ với cái tên huý "Ngạn" và tên tự "Giới Hiên" mà cha mẹ đặt cho ông, thể hiện niềm mơ ước thiết tha của dòng tộc và bậc song thân. "Giới" là ngay thẳng, bất khuất, lớn lao, biết giữ mình, tỏ rõ sự sạch trong, cứng cáp; "Hiên" thể hiện sự tôn quý, bao dung và đầy vẻ hiên ngang. Còn "Ngạn" để chỉ người nho nhã. Cái gọi là "Ngạn", là “Giới Hiên" của thần đồng được chứng minh ở tuổi trẻ đã đỗ cao như Nguyễn Trung Ngạn đã viết:
Tuổi mới mười hai vào Thái học.
Đến năm mười sáu dự thi Đình.
Sự thực ấy đã được Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ nhà Trần ghi cụ thể hơn: "Giáp Thìn năm thứ 12 (1304) tháng 3 thi học sinh cả nước, lấy Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên làm Thái học sinh Hoả dũng thủ, sung Nội thư gia... lấy Nguyễn Trung Ngạn đỗ Hoàng giáp, cả thảy 44 người đỗ 1 Thái học sinh... Trung Ngạn mới 16 tuổi, đương thì gọi là thần đồng". Chứng tỏ trong toàn bộ những người dự thi đợt này kể cả tam khôi đỗ cao hơn, nhất là kể cả Mạc Đĩnh Chi Lưỡng quốc Trạng nguyên lẫy lừng tiếng tăm cả hai nước Trung - Việt xếp đỗ loại trên hết vẫn chưa được Đại Việt sử ký toàn thư gọi là thần đồng, nhưng người đỗ thứ tư đợt này là Nguyễn Trung Ngạn lại duy nhất trong đợt thi được sách ấy suy tôn là thần đồng. Về năng lực thực sự có ích cho đời, sách Kiến Văn tiểu lục, phần Chế độ khoa cử của Lê Quý Đôn cho rằng khoa này chỉ có "Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Trung Ngạn đỗ Hoàng giáp, sau này đều là bậc danh thần". Điều đáng nhớ của khoa cử Việt Nam và cũng là điều vinh dự của Nguyễn Trung Ngạn, theo Lê Quý Đôn là: "tên gọi Hoàng giáp mới bắt đầu từ đây". Vậy Nguyễn Trung Ngạn là vị Hoàng giáp đầu tiên của toàn bộ nền khoa cử phong kiến Việt Nam.>
Từ một thần đồng của khoa trường, Nguyễn Trung Ngạn có điều kiện tỏ rõ sức thần của mình trong hoạn trường. Ông có hai thời điểm làm quan vẫn tiếp tục cái chất thần đồng:
Hai mươi bốn tuổi làm Gián quan.
Hăm sáu tuổi sang sứ Yên Kinh.
Lịch triều hiến chương loại chí, phần Bang giao chí của Phan Huy Chú cho biết: "Năm thứ 22 (1813) vua nhường ngôi sai Nguyễn Trung Ngạn và Phạm Mai sang thăm lại nhà Nguyên". Như vậy thì ngay từ 24 tuổi, lúc làm Gián quan, Nguyễn Trung Ngạn đã đi sứ Trung Hoa; nếu 26 tuổi ông có đi sứ là đi sứ lần thứ hai. Làm Gián quan dù trẻ tuổi phải có uy tín, có tài thuyết phục vua. Còn đi sứ (kể cả tiếp sứ nước ngoài) cũng phải có trí tuệ uyên bác, có tài quyền biến giỏi hùng biện, có khí tiết để thuyết phục bốn phương, giữ gìn quốc thể. Sang tuổi 35 không có là "đồng" nữa, nhưng cái tố chất hùng biện từ thuở thần đồng đã được phát huy trong việc thuyết phục những viên sứ thần hung hăng ngang ngược của thiên triều. Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ nhà Trần cho biết: "Năm Giáp Tý, Khai Thái năm thứ nhất (1324) vua Nguyên
sai Mã Hợp Mưu và Dương Tông Thuỵ sang báo việc lên ngôi... Bọn Hợp Mưu cưỡi ngựa đến tận đường ở cầu Tây Thấu không chịu xuống. Những người biết nói tiếng Hán vâng chỉ đến tiếp chuyện từ giờ Thìn đến giờ Ngọ, vẻ giận (của Hợp Mưu) càng hăng. Vua sai Thị Ngư sử Nguyễn Trung Ngạn ra đón, Nguyễn Trung Ngạn lấy lễ bác bẻ lại, Hợp Mưu không cãi được phải xuống ngựa, bưng tờ chiếu đi bộ. Vua rất hài lòng".
Nguyễn Trung Ngạn vốn là người tài đức, sớm có “chí nuốt sao Ngưu”, lại sinh ra gặp thời, gặp được những minh quân nên ông có dịp nắm những chức tước trọng yếu của vương triều. Ngoài những chức quan to ở địa phương, Nguyễn Trung Ngạn từng nắm những chức quan lớn ở trung ương. Có khi làm quan to cả hai nơi. Như năm Ất Mùi (1355) cùng với việc làm Kinh lược sứ trấn Lạng Giang, ông còn làm Nhập nội Đại Hành khiển, Thượng thư hữu bật kiêm Tri khu mật viện sự, Thị Kinh diên Đại học sĩ, Trụ quốc Khai Huyện bá. Ngoài những chức vụ mang tính pháp quyền của người cầm quyền, Nguyễn Trung Ngạn còn làm quan chức ở các cơ quan văn hoá như Quốc sử viện, Hàn lâm viện. Vai trò quan trọng, vị trí vẻ vang của ông ở cương vị này đã được Phan Huy Chú khẳng định rõ hơn, khi so sánh với các quan chức nổi tiếng khác (cũng trong Lịch triều hiến chương loại chí, phần Quan chức chí): "Công việc của Hàn lâm phụng chỉ là soạn đặt tờ chiếu thay vua. Trải qua nhiều triều, những người lên chức ấy đều là các nhà nho nổi tiếng về văn học như Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Hồ Tông Thốc trước sau nối nhau vào Viện Hàn lâm. Những phẩm giá ngọc đường ấy... vẻ vang một thời". Được xếp vào những chức vụ trọng yếu ấy Nguyễn Trung Ngạn được dịp cống hiến nhiều cho đất nước. Ngoài công lao đối ngoại, ông còn là người lập kho chứa thóc tô ruộng để chẩn cấp cho dân nghèo. Việc đó làm tốt :'tới mức Hoàng đế đương triều phải xuống chiếu cho các lộ bắt chước mà làm”. Ông lập ra Bình doãn đường để xét kiện nên việc kiện tụng không việc nào bị oan. Ông biên dịch bộ Hoàng triều đại điển và khảo soạn Hình thư, giám tu quốc sử, biên soạn thực lục. Năm Giáp Tuất (1334), Thượng hoàng Trần Minh Tông đi đánh đạo Nghệ An, nước Ai Lao, chiếu cho Nguyễn Trung Ngạn mài sườn núi khắc chữ ghi công, để lại áng văn trên bia Ma Nhai bất hủ. Ông còn để lại tập thơ Giới Hiên thi tập - được Phan Huy Chú khen "lời thơ phần nhiều hào mại phóng khoáng, có khí phách và cốt cách Đỗ Lăng" (tức là Phan Huy Chú khen Nguyễn Trung Ngạn có cất cách của Đỗ Phủ, bậc "thi Thánh" - nhà thơ hiện thực lớn nhất đời Đường).
Trong Nhân vật chí, Phan Huy Chú đã xếp Nguyễn Trung Ngạn vào hàng "những người phò tá có công lao tài đức", cùng hàng với Tô Hiến Thành, Trần Quang Khải, Nguyễn Trãi, Nguyễn Trực, Lương Thế V Nguyễn Quí
Đức... Cuộc đời Nguyễn Trung Ngạn nhìn chung là thông đạt, có chỗ thi thố tài năng, ấy thế mà cũng có khi bị đuổi ra làm quan ở ngoài, có đôi lúc lên voi xuống chó. Ông đã thể hiện tâm sự này qua nàng Tương Phi, qua chàng Tống Ngọc hiện lên trong những câu thơ của mình:
Sóng cuộn đầy sông như nỗi oan của Tương Phi
Mái tóc phong sương đượm nỗi sầu của Tống Ngọc.
Sự nghiệp như vậy, còn về tình riêng cũng "Thật là cá nước duyên may", Nguyễn Trung Ngạn được vua Trần tác thành. Bản Sự tích Đại vương lưu hành ở nơi thờ ông ở Hà Nội cho biết: "khi Đại vương (tức Nguyễn Trung
Ngạn) đến địa giới phường Hà Khẩu thì gặp gỡ nữ thánh. Hai người ân cần chào hỏi nhau. Đấy thực là mối duyên thủy chung trọn vẹn. Vua Trần thấy vậy thay mặt triều đình ban hành hôn lễ để lo việc về sau. Đôi lứa hưởng lộc trọn vẹn mãi đến già cho tới lúc về tiên cảnh. Tinh khí của hai vị trở nên anh linh. Nhân dân nơi đây xây dựng miếu vũ, hàng năm bốn mùa tôn sùng cúng tế"..., "Trải qua các triều tỏ rõ sự linh ứng nên được tôn phong làm Đương cản thành hoàng". Hiện còn 7 đạo sắc ban phong cho hai người, đạo sắc sớm nhất vào ngày 26 tháng 7 năm Cảnh Hưng 44 (1783), đạo sắc muộn nhất vào ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924).
Thăng Long gắn với tình chung, tình riêng của Nguyễn Trung Ngạn, gắn với công lao bất hủ của ông nên trong việc chuẩn bị kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, vai trò của ông trong lịch sử không thể không được nhắc đến. Nguyễn Trung Ngạn xứng đáng là một ngôi sao văn hoá, ngôi sao chính trị có tầm lớn của Thủ đô nước Việt nghìn năm văn hiến, xứng đáng là người con ưu tú, là một viên ngọc sáng trong chuỗi ngọc danh nhân rực rỡ của Thổ Hoàng -Kim Thi, của Phố Hiến - Hưng Yên.
6. MƯU GIAN LẬT ĐỔ QUỐC VƯƠNG TƯ TỀ
(Xét từ góc độ truyền thuyết dân gian, dã sử)
Khi ngọn lửa Lam Sơn khởi nghĩa vừa bừng lên năm 1418 thì Lê Tư Tề chỉ kém Bình Định Vương Lê Lợi, cha mình 18 tuổi. Theo truyền thuyết dân gian, ở lứa tuổi rực rỡ này, Tư Tề đã là một võ tướng anh tuấn, "cao trên 1 thước 7, da đỏ, sáng như đồng thau, mặt vuông, lông mày rậm, sắc nhưng cặp mắt lại rất hiền từ, trung hậu, giáp trụ uy nghi, lẫm liệt, cưỡi ngựa, xếp đầu hàng quân". Tháng chạp năm 1420, sau gần 3 năm thử lửa quyết liệt theo vua cha, đem quân xuống hoạt động ở miền Lỗi Giang, đóng đại bản doanh ở cửa ải Ba Lẫm, huyện Bá Thước, Lê Tư Tề đã nổi tiếng trong ngoài, quân dân kính phục,. không dám gọi tên thật mà thường gọi là Lê Tướng quân. Truyền thuyết dân gian kể rằng: "Một hôm Lê Lợi ngồi tại sảnh đường cùng Tư Tế và các tướng lĩnh trong bộ tham mưu, bàn về phương hướng đánh giặc. Bỗng viên tướng trấn cửa doanh vào báo: có hai nghĩa sỹ từ Đông Quan xin ra mắt. Lê Lợi truyền cho vào. Vừa trông thấy, Ngài đã đứng dậy reo lên:
- Tưởng ai hoá ra Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi. Ta đinh ninh Trần Võ, Trần Văn thế nào cũng trở lại đây, quả không sai.
Xúc động trước cử chỉ nồng hậu của Bình Định Vương, Trần Nguyễn Hãn tức khắc trình bày tình hình Bắc Hà, nhất là tin vui: cơ sở nghĩa quân vùng Tam Đảo đã thông với cơ sở nghĩa quân vùng Thái Nguyên của Lưu Trung. Nhân tiện, ông quay sang phía Lưu Nhân Trú, con Lưu Trung đang đứng cạnh Lê Lợi, nói: "Thưa Lưu đại huynh, cha đại huynh có nhắn vào đây rằng Ngài rất mừng vì biết tin đại huynh vào Lam Sơn đã làm được nhiều việc có ích như đánh thắng nhiều trận, đào tạo được nhiều nhân tài như Lê Tướng quân....”
Lưu Nhân Trú chắp tay khiêm nhường:
- Thưa hai vị đại huynh, việc làm của tôi cũng chỉ là tiếp tục những anh tài như Đinh Liệt, Trịnh Khả... Để sâu sắc hơn cần phải đợi hai vị.
Lê Lợi hồ hởi nắm tay Tư Tề:
- Con hãy ra lạy chào hai ông thầy lớn này mà con hằng khao khát từ lâu. Nhưng tiếc thay một khoảng rừng Lam Sơn lần trước còn hẹp chưa lưu được những cánh chim đại bàng.
Nâng Tư Tề dậy, Nguyễn Trãi mỉm cười:
- Thưa chúa công, chúng tôi đâu dám nhận là đại bàng. Nhưng rõ ràng là những cánh chim hồng phương Bắc "Việt điểu sào Nam chi" đã trở về tổ ấm phương Nam, mang trên đôi cánh món quà tâm huyết này. - Nguyễn Trãi dâng cuốn "Bình Ngô sách" cho Lê Lợi và quay về phía Tư Tề trân trọng :
- Thưa tướng quân, chúng ta có thể bắt đầu từ cuốn sách này. Đánh vào lòng người còn quan trọng hơn đánh thành đánh lũy. Mến người có nhân là dân, phải học từ dân.
Trần Nguyên Hãn chiêm ngưỡng kỹ tướng mạo Lê Tư Tề, phấn khởi nói :
- Xin bày tỏ niềm vui với Bình Định Vương vì người có vị kế nghiệp xứng đáng. Theo gương Nguyễn Thận trước đã dâng một phần kiếm Thuận Thiên cho chúa công. Nay để kỷ niệm cuộc trùng phùng tốt đẹp này, tôi xin dâng kiếm Đông A cho Lê tướng quân. Rất mong rằng sau kiếm Thuận Thiên, lưỡi gươm sắc Đông A sẽ tiếp nối đắc lực nhất để đưa cuộc bình Ngô mở nước đến thắng lợi cuối cùng.
Tư Tề trân trọng quì, nâng lưỡi gươm sáng quắc của hào kiệt vùng Lập Thạch Bắc Hà lên đôi tay rắn chắc, vạm vỡ của mình, không lưu ý gì đến một số cặp mắt hằn học trong bộ tham mưu đang nhìn vào.
Trong con mắt ở bọn cơ hội trong bộ tham mưu Lam Sơn bấy giờ, Lê Tư Tề có hai điểm đáng ghét nhất là : Niềm say sưa với trí tuệ, học vấn và tầm nhìn sâu rộng của chim đại bàng. Say mê với trí tuệ, học vấn nên ông cực kỳ sùng mộ và muốn gần gũi những bậc khoa bảng hoặc những tướng lĩnh được học
hành đầy đủ như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lưu Nhân Trú... ông muốn họ phải nắm địa vị chủ chốt trong bộ tham mưu Lam Sơn, dù họ đến sau hay không phải người Ái Châu. Có tầm nhìn chim đại bàng nên sau đó ông là một trong những người đầu tiên tán thành Nguyễn Chích đề nghị tiến binh vào Nghệ An, cổ vũ cho Trần Nguyên Hãn tung hoành ở Tân Bình - Thuận Hoá. Ông muốn mở rộng tầm mắt ra toàn quốc không phân biệt thành phần xuất thân hay địa phương nào, miễn là phải phục vụ đắc lực cho cuộc bình Ngô do vua cha đứng đầu. Điều đó, làm cho những kẻ ít học vấn nhưng lại muốn cưỡi lên học vấn, những kẻ có đầu óc địa phương cục bộ, hẹp hòi và cơ hội trong giới quyền chức bấy giờ hết sức hằn học. Chúng lo rằng một mai Bình Định Vương qua đời, Tư Tề nối nghiệp thì ông sẽ đặt những người có tài đức thực sự vào cương vị xứng đáng. Lúc ấy, bọn chúng sẽ lép vế hoặc bị đặt ra ngoài, không thể bàn bạc hoặc ký những lệnh
có lợi cho giới quyền chức mà bọn chúng là đại biểu. Cho nên, với bọn chúng, Tư Tề vẫn là cái gai phải nhổ đi sớm hoặc muộn để thay vào đó một người thực hiện đúng ý đồ của bọn chúng, người kế đó càng ít tuổi, càng sa đoạ, càng dễ lợi dụng. Vậy nên, Hoàng tử trẻ con Lê Nguyên Long (người mà sau này trong hồi ký của Đinh Liệt ghi là "Đắm sắc say hương biếng kiệm cần") là một đáp ứng tốt nhất. Lợi đụng mẹ và em gái Tư Tề là Chính phi (hay sử còn gọi là Thần phi) Trịnh Thị Ngọc Lữ và công chúa Lê Thị (dân gian gọi là Đào Nữ) bị bắt đã anh dũng hy sinh hoặc mất tích trong cuộc bình Ngô, trong cung thiếu người cai quản, cha con Phạm Hoành, Phạm Vấn đưa con, em mình là Phạm Thị Ngọc Trần vào làm vợ Lê Lợi để sinh ra Lê Nguyên Long. Điều ấy làm cho bọn cơ hội rất mừng. Cha con họ Phạm cũng muốn lợi dụng việc ấy để vinh thân phì gia. Hai người thường xuyên liên hệ với nhóm Lê Sát để từng bước hạ bệ khéo Tư Tề. Nhất là vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến, âm mưu đó càng khẩn trương tiến hành.
Trước tiên là sự kiện thần Cá Quả:
Trên bờ sông Cả ở xã Triều Khẩu, phía Nam thành Rum (còn gọi là thành Nghệ An hay Lam Thành) có ngôi đền thờ thần Cá Quả. Thuyền bè qua lại đó nếu không giết vật cúng thần thường bị lật úp. Giữa tháng 4 năm 1425,
nghe tin Lý An, Tham tướng giặc Minh sắp dẫn một đội thuỷ quân vào giải vây thành Nghệ An. Nhóm Lê Sát có bàn bạc trước với cha con họ Phạm, chộp lấy cơ hội ấy, tâu với Lê Lợi xin hiến một phụ nữ làm vợ thần để cho cuộc quyết chiến của ta chắc thắng hơn. Lê Lợi phân vân hỏi ý kiến quần thần. Thừa chỉ Nguyễn Trãi vốn biết mưu gian của bọn Phạm Vấn - Lê Sát định đưa Phạm Thị Ngọc Trần làm vật hy sinh để mặc cả ngôi vua tương lai cho Nguyên Long, lật đổ Tư Tề, liền tâu với Lê Lợi rằng: "Có thể dùng vật giống cái như bò, dê, lợn làm tam sinh để tượng trưng cho lễ hiến phù cũng được. Gia Cát Lượng xưa lúc bình Mạnh Hoạch xong, rút quân về qua sông Lư thuỷ dùng bột nặn thay cho xác người hy sinh mà còn khiến cho sông yên sóng lặng, toàn quân về được nữa là". Dù Nguyễn Trãi chân thành, khẩn khoản phân tích cho vua nhưng lúc này các vị trung thần hầu hết vắng mặt, một mình ông không cản nổi bọn gian thầ Lê Sát liền quỳ xuống tâu: “Làm theo Nguyễn Trãi là lừa dối nhạo báng thần. Đây là việc khẩn cấp, cần dẹp tình riêng vì nghĩa lớn. Nếu phi tần của chúa công không ai dám hy sinh thì kẻ hạ thần này xin đưa vợ con thay thế, chỉ hiềm vợ con kẻ hạ thần ở xa và vợ con hạ thần cũng không thể được thần quí trọng bằng phi tần của chúa công".
Một tên gian thần khác cũng nhắc lại chuyện Trần Duệ Tông khi đi dẹp
Chiêm Thành đã phải hy sinh Thứ phi Nguyễn Thị Bích Châu tế thần Giao Long ở cửa biển Kỳ Anh (Nghệ Tĩnh). Lê Lợi bất đắc dĩ phải hỏi xem trong đám phi tần của mình ai vui lòng hy sinh. Ngọc Trần với sự chuẩn bị sẵn và được mớm lời từ trước, tiến lên xin hy sinh, với nguyện vọng độc nhất: "Thiếp ra đi không vướng mắc gì, chỉ mong sau này cho con thiếp được nối ngôi thiên tử thì dưới suối vàng thiếp được mãn nguyện". Trong cảnh ly biệt thảm thương này, với cái gọi là hy sinh vì nghĩa cả nỡ nào Bình Định Vương lại không nghe theo. Như thế là bọn gian thần đã khéo léo buộc Lê Lợi, vị chân chúa rất trọng danh dự vào lời nguyền trước đông đảo người đến xem chứng kiến, trong tiếng trống lệnh trang nghiêm đổ hồi hoà lẫn với tiếng khóc nức nở của thân nhân và tiếng sóng gầm rít vang lên từ sông Cả. Càng trọng danh dự, càng trang nghiêm, thương tâm, lời nguyền càng linh thiêng, Bình Định Vương càng không thể khác được, phải hứa truyền ngôi về sau cho đứa bé 3 tuổi. Trò hề gọi là thề nguyền ly biệt này, Nguyễn Trãi và các bậc tinh đời đều có thể biết là không cần thiết, nếu có cần là chỉ cần cho bọn gian thần muốn thay ngôi cho phù hợp với mưu đồ vinh thân phì gia của chúng. Bởi sự thực lúc ấy thế thắng của ta với giặc Minh là trên đà vươn lên, không thể đảo ngược, dù có hay không có việc hiến thân cầu thần cũng vậy. Do đó, khác với sự hy sinh của nàng Bích Châu đời Trần là cần thiết, trong sáng để cứu vãn cả một đoàn quân lớn, còn sự hy sinh của Phạm Thị Ngọc Trần thì ngược lại.
Đã buộc được Lê Lợi vào lời hứa truyền ngôi, thế nhưng bọn gian thần vẫn chưa thể yên tâm được vì càng trải qua chiến đấu về sau, Tư Tề càng tỏ rõ tài đức, công lao, điều mà tất cả mọi người không thể phủ nhận được. Vậy nên, năm Bính Ngọ (1426) ông được trao chức Thị trung, tháng 6 năm Đinh Mùi được gia thêm chức Tư đồ. Tháng 11 năm ấy, đợt cùng đi với Lưu Nhân Trú vào thành Đông Quan làm con tin để thực hiện hoà ước với Vương Thông của ông đã thành công rực rỡ. Đúng như các sử sách của triều Lê về sau như Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn... phải ca ngợi ông là “tính dũng cảm, ham giết giặc". Cho nên, năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), ông được phong làm Hữu tướng quốc. Lê Thái Tổ sai các đại thần mang kim sách lập ông làm Quốc vương, tạm coi việc nước, lệnh cho mọi người trong nước phải gọi ông là Quốc vương điện hạ. Bấy giờ nhà vua nhiều bệnh, chính sự lớn của nhà nước đều giao cho Quốc vương quyết định. Cho nên, việc lật đổ Tư Tề ngay một lúc không thệ thực hiện được, âm mưu của bọn gian thần là: Một mặt lợi dụng vua bệnh tật, giảm sáng suốt, thường xuyên nhắc lại lời hứa để Ngài sớm phong Nguyên Long làm Thái tử, chia xẻ bớt quyền lực của Quốc vương. Chúng tung nhiều tin, thần thoại hoá vai trò của mẹ con Nguyên Long để chuẩn bị dư luận cho rằng việc lên ngôi của Nguyên Long là hợp lý. Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, phần "Hậu phi truyện" về "Thái tổ Phạm