🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bến Đợi
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Mục lục
Xanh Xanh Miền Nhớ - Võ Thu Hương Ông Ba Rạch Đùng - Dương Đức Khánh Thần Mặt Trời Của Rừng - Chu Việt Nga Chuyện Nhỏ Trong Chiến Tranh - Trần Thanh Hà Mùa Cá - Trần Thanh Hà
Người Đàn Ông Của Tôi - Lê Thị Bích Hồng Những Buổi Chiều Tháng Bảy - Vũ Minh Nguyệt Mảnh Vườn Xưa Yêu Dấu - Vũ Minh Nguyệt Thuyền Nan - Trầm Hương
Hoa Mít Vườn Xưa - Trầm Hương
Người Ở Mom Sông - Trầm Hương
Tháng Ba Hoa Xoan Nở - Châu La Việt Bên Dòng Sông Hiếu - Đặng Nguyên Sơn Mẹ Chồng Tôi - Đặng Nguyên Sơn
Nhà Phải Có Đàn Ông - Lê Ngọc Minh Mùa Mắc Mật - Bùi Thị Như Lan
Dòng Sông Tuổi Thơ - Trần Đức Tĩnh Điểm Tựa Đau Thương - Bảo Thương Hương Ổi - Trần Thanh Cảnh
https://thuviensach.vn
BẾN ĐỢI
Nhiều Tác Giả
www.dtv-ebook.com
Xanh Xanh Miền Nhớ - Võ Thu Hương
Lại một mùa mưa.
Bốn bề ướt sũng, trái cây rụng bồm bộp trên mái nhà và tiếng côn trùng i uôm bài ca tẻ ngắt khàn đặc của ca sĩ cuối mùa. Chị tần ngần nhìn ngọn lửa vừa nhóm lên, nhớ những ngày còn thơ bé. Lúc là ngồi đợi củ khoai nướng thơm phức, khúc mía lùi ngọt lịm mẹ cho. Lúc mê mẩn nghe bà kể chuyện cổ tích và tưởng tượng có một kinh thành lung linh bên ngọn lửa. Chị tưởng như vị ấm áp của những tháng năm đã xa lan tỏa trong không gian. Tiếng gà trưa nhảy ổ đột ngột làm chị giật mình. Ngoài sân, mưa bong bóng vỡ. Mịt mùng những bọng mây sầm sì từng vệt dày đặc trên trời, mưa chắc sẽ còn lâu lắm.
Chị lại lenlén cười khi nghĩ lại lúc tình cờ gặp anh lúc chuẩn bị dọn hàng lên xe ra chợ. Đang gom số trái cây còn sót lại thì anh ghé. Không ra dáng người mua hàng, anh hỏi thăm đường về cù lao Ngọt. Chị tần ngần. Nhìn anh mang dáng vẻ mệt mỏi của những ngày đi từ xa đến. Giọng miền Trung nghe nằng nặng thương thương mà có phần rắn rỏi. Chị dè dặt mời anh lên đi chung chuyến xe thổ mộ, dù gì cũng về chung đường. Nét mặt anh thoáng giãn ra, rồi trở lại trầm ngâm. Ở anh có một cái gì đó rất khó nắm bắt, không hiểu sao chị thấy gần gũi và tin tưởng ngay từ những ánh nhìn đầu tiên.
Anh hỏi thăm về một người tên Tính. Phải khựng ra một lúc, chị nhớ ra không phải ai xa lạ mà chính là bác Bảy. Nhà bác có vườn trái cây to nhất vùng, nổi tiếng ở cù lao, đã dăm bảy lần chị ghé vô mua hàng. Xe dừng, chị nhiệt tình dẫn đường anh vào rồi hối hả đi. Như sực nhớ ra điều
https://thuviensach.vn
gì, chị ngoái lại. Nhìn từ sau, chị ngờ ngợ một nét gì đó như thể rất quen từ anh. Bất chợt anh quay lại, chị nhìn lảng đi nơi khác. Trước giờ chị chưa nhìn lâu người con trai nào, như thế sợ bị nghĩ là dạn quá. Anh gọi với theo:
- Cô ơi, tôi muốn hỏi... Ông ấy có vợ con chứ?
- Ờ, ba đứa con. Bác Bảy gái là giáo viên trường làng này. Con cái đi học hết trên huyện.
- Phiền cô... chỉ giúp tôi chỗ nào có thể nghỉ lại một hôm, được không? Nhà trọ hay nhà khách gì cũng được.
Khẽ nhíu mày, chị bối rối. Khái niệm ấy còn xa lạ với vùng quê này. Chợt lúng túng, anh thanh minh:
- Tôi nghĩ là đã nhầm nhà. Sáng mai, tôi sẽ về, trời bây giờ lại sắp mưa.
Mưa dần nặng hạt. Chị băn khoăn một lát, rồi dè dặt:
- Hay là... anh về nhà tui!
- Tôi có làm chị ngại không?
Chị lặng im rồi khẽ lắc đầu thật vội.
Khuya. Càng khuya bỗng dưng càng lo ngại. Từ khi ba má chị lên phố, nhà vắng hơi người quá thể, quẩn quanh bóng chị vào ra với mình. Vì một vẻ ấm áp yêu thương, một niềm tin trong đôi mắt ấy mà chị không nỡ từ chối. Để khi đối diện với bóng đêm, chị lại băn khoăn. Dẫn một người đàn ông về nhà, liệu anh có coi thường chị? Bên ngoài, tiếng trở mình thật khẽ rồi tiếng thở dài giấu mãi bỗng vuột ra. Đêm đặc quá nên những âm
https://thuviensach.vn
thanh não nề kia kéo chùng cả không gian. Chị nén tiếng thở dài, rồi bất chợt cũng đánh rơi ra khỏi lồng ngực. Giọng anh trầm ấm:
- Chị không ngủ được hả?
Lặng một lúc lâu. Anh khẽ: “xin lỗi”. Chị vội vã: “Không”. Rồi trở mình, giọng chị chợt nhỏ đi:
- Lâu lắm rồi nhà không có ai ghé! Sao anh không ghé vào nhà bác Bảy, tôi biết, anh không nhầm nhà.
Đáp lại câu hỏi chị là khoảng không yên lặng. Tiếng côn trùng thi thoảng rúc lên từ đất thẳm. Rồi lộp bộp mưa, gió đập những cành dừa lên mái nhà, dào dạt gió. Một lúc, anh đánh trống lảng: “Nhà dột rồi, để mai tôi sửa lại”. Chị tự trách mình nhiều chuyện rồi khe khẽ à ơi câu vọng cổ dụ mình vào giấc ngủ. Từ khi chỉ một mình, chị có thói quen tự ru như vậy trong những đêm khó ngủ, để bớt thấy đơn côi. Nhưng suốt đêm ấy, chị không chợp mắt lấy được một chút, chị nằm như đếm tiếng thở dài và trở mình của anh lọt qua vách.
Buổi sáng, trời ngớt mưa, hửng nắng. Mưa ngớt đôi chút, anh leo lên gốc mận bên hông nhà, sửa lại mái. Nhà chỉ một người con gái nên đến cái thang cũng không có. Chị cời than, ủ nồi cơm cho chín nóng rồi ra cửa đứng nhìn. Trời nhợt nhạt một màu mây xám, báo hiệu những cơn mưa nối tiếp cơn mưa. Mảnh sân đầy hoa dừa, trái mận non rụng một màu trắng dịu trên nền đất nhờ nhờ những vũng nước đọng. Chị lắc đầu, xõa mái tóc dài đen mướt. Đan tay vào mái tóc, thấy bàn tay mình chợt trống trải khi chưa từng có bàn tay ai đan vào. Cái cảm giác ấy, ô hay! đã bao giờ có ở chị đâu. Chị cảm giác lạnh lẽo, thấy bếp lửa ấm nồng hơn, chị quay vào. Phải chăng vì lâu quá rồi mới đỏ bếp nấu một bữa cơm chohai người.
Chị không biết anh vào từ lúc nào, vẫn ánh mắt ấm nồng, anh chọc chị:
https://thuviensach.vn
- Nhìn từ trên mái xuống có thể nhìn thấy hết căn nhà, cô không sợ trộm rình mò sao, cô ở đây một mình à?
Chị gật đầu xác nhận:
- Chỉ khi nội tôi mất đi, ba má và hai đứa em ra phố, thỉnh thoảng ghé lại. Dạo này họ chuyển hẳn lên phố, cũng ít khi về được. Một mình cũng phải quen, đã ở từ lúc sinh ra, tôi không thể xa nơi này.
Chị bật cười, nhớ lại cái lần chị dọn đồ lên phố khi hết tang nội. Mùi chăn nệm và những bông hồng kiêu sa cắm trong phòng kín không át được vị trống trải. Chị nhớ mùi thoang thoảng hương dừa, hương cau, mùi ngọt nồng của gốc hoàng lan phía đầu ngõ; và cả mùi nồng hăng của đất bùn từ khúc sông đầy ăm ắp phù sa phía sau nhà. Không đầy ba ngày, chị nhớ khúc sông ấy, mảnh sân nhà và những gốc cây quen thuộc đến phát cuồng. Chị vội vã rời phố.
Từ xa, cây bò cạp vàng cổ thụ với cái dáng nghiêng nghiêng tần tảo tỏa rợp hoa vàng cả bến sông. Chỉ nhìn thấy dáng cây ấy, chị như thấy dáng nội lam lũ, dáng những người thôn quê tần tảo ruộng vườn. Chị bật khóc và hiểu sẽ không thể rời xa nơi này. Như duyên nợ tiền kiếp, chốn ấy đã in vào lòng chị.
Những cơn mưa níu chân anh ở lại. Không hiểu sao tận trong lòng, chị không muốn anh ra đi. Chỉ một thời gian ngắn, chị thấy anh như người trong nhà vậy. Anh kể cho chị nghe về miền Trung, nơi chưa bao giờ chị đến. Là dòng sông Lam xanh văn vắt, núi Hồng chín mươi chín ngọn và huyền thoại đôi trai gái yêu nhau bị cấm đoán vì lời nguyền ranh giới hai vùng. Họ nguyện thề và mong thoát sang kiếp khác để bên nhau mãi mãi. Bao năm rồi, dòng sông như áng tóc mướt dài, xanh dịu vợi ôm vòng quanh ngực núi, căng phồng sức trẻ. Câu chuyện muôn đời ở đâu trên mặt đất này đều có thể thân quen như thế mà sao nghe nhói một niềm riêng.
https://thuviensach.vn
Những lúc rảnh, anh tước lá dừa bên thềm nhà, tết tặng chị những con thú dễ thương, con châu chấu đuôi dài, chú dếngóc cao cái đầu tròn như vênh vang ra mặt, những cánh hạc bay mềm... Cả cái xe đạp, giỏ mây... vật nào cũng rất khéo, trông xinh và sinh động hẳn căn nhà.
Trời đã ngớt mưa từ ban trưa. Không ai muốn nhắc nhau rằng mưa đã ngớt. Những tia nắng hửng lên, len vào cửa sổ như trêu ngươi. Chiều xuống, phía khúc sông sau nhà, chị bật khóc. Lần đầu, chị biết đến nỗi cô đơn khi bên cạnh một người. Những đám lục bình hợp rồi tan. Cớ chi phải hợp để thấy nỗi chia xa?
Bàn tay khẽ đặt lên và nắm chặt bờ vai chị. Chị không quay lại. Chị nức nở.
- Đừng khóc... Anh sẽ trở lại thăm em.
Anh đặt lên chị một nụ hôn. Nụ hôn đầu tiên trong cuộc đời chị. Chị dựa vào vai anh tin tưởng. Anh nhẹ đan tay vào tóc. Lần đầu, mái tóc chị biết đến bàn tay đàn ông. Để rồi ngày mai, còn trống trải hơn cả khi chưa từng biết.
*
* *
- Rồi hai người không gặp lại nhau hả bà?
Đứa cháu gái sau khi nghe kể câu chuyện dài về kỷ niệm nụ hôn đầu của bà nội, bỗng thắc thỏm hỏi.Taycô bé nâng niu những con thú xác xơ và nâu khẳm với một vẻ yêu thương. Nó chăm chú nhìn ngón tay bà gân guốc với mảnh lá dừa kết hình con hạc.
- Một lần, khi ông Bảy ốm nặng... Con người ta, ruột rà máu mủ bao giờ cũng có linh tính. Lần đó, bà mới biết ông ấy là con ông Bảy. Ông Bảy
https://thuviensach.vn
không biết mình có một đứa con trong lần tập kết ra Bắc. Cha con nhận mặt nhau không đầy một tháng, chỉ suốt ngày kề cận chăm nom bên giường bệnh.
... Rồi ông Bảy mất, đất vườn này không níu nổi chân người ấy. Dù mùa mưa, sông vẫn đỏ nặng lòng phù sa. Suốt ngày, anh chỉ ngồi trầm ngâm, lặng im đốt thuốc. Chỉ nhìn bộ dạng anh, chị đoán chắc anh suy nghĩ hung lắm mà không dám hỏi. Con người ấy, kể cũng lạ, lúc không muốn nói thì chẳng cách nào có thể đoán biết chút nỗi niềm gì... Anh lại đi với lời hẹn: "Anh sẽ quay lại”. Cô gái biết, chẳng thể níu kéo, biết trước mắt lại là những ngày chờ đợi, nhớ nhung và hy vọng anh trở lại... Trước ngày anh ra đi, cô đã trở thành đàn bà. Hôm ấy trời trong, trăng sáng lắm. Ánh trăng tinh nghịch tràn qua ô cửa sổ nhỏ xíu, ngọt dịu. Nhiều đêm trăng sáng nhiều năm sau đó, đối diện ánh trăng, chị lại xốn xang, gầy hao, mất ngủ, nhớ mùi mồ hôi nồng nồng, mùi khói thuốc hăng hăng tràn trong đêm trăng.
Chị lành như cục đất quê, mỏng mảnh như lá dừa non mới nhú. Có lẽ vì thế mà sau chín tháng mười ngày và bao nhiêu năm nuôi con một mình mà không ai nói gì. Con của chị lớn lên như con chung của cả xóm. Đã có vài cơ hội đi bước nữa, nhưng chị lần lữa né tránh, bởi vẫn mong đợi một ngày anh về. Chị vẫn tin chắc một ngày anh về. Nhiều năm chờ đợi, những hôm gió chướng, ùa về dào dạt vườn dừa, chị lại thắc thỏm dắt con ra ngóng, lại quay vào nhà khi chắc mẩm chỉ là tiếng lá trêu đùa vô ý.
Đứa cháu gái bùi ngùi nắm bờ vai gầy xương của bà. Nó xót ruột khi hình dung, tình yêu duy nhất trong đời của bà ngắn ngủi đến vậy. Bà lão thở dài: “Âu cũng là số trời”.
Khúc sông sau nhà thao thiết chảy. Hương phù sa hoang hoải buồn. Nó bần thần trước những bọc lá dừa kết đủ hình, đủ con hong nơi góc bếp, chỉ còn những hình thù cong queo, co nhúm, màu nâu nhợt nhạt. Bà nó đã từng xếp thật nhiều, đã cất giữ bấy nhiêu lâu mà người cũng không trở lại.
https://thuviensach.vn
Nó bất chợt nhớ câu chuyện về nghìn con hạc mà người con gái xếp để đạt ước nguyện trong câu chuyện cổ tích. Có ước nguyện nào không trong đời thực, khi ngày đã qua, tháng đã qua, năm đã qua... xa lắm. Hay là nỗi nhớ chắt chiu trong những cánh chuồn, cánh hạc để đến một lúc nào đó bỗng hoá quen thân như một phần trong cuộcsống vậy.
Chập chờn giấc ngủ của nó hôm đó, bóng cây bò cạp vàng đổ dài trên bến sông, nghiêng nghiêng dáng bà nội tần tảo đứng chờ sau mỗi buổi tan chợ. Rồi ngày kia, bóng cây đơn côi, bến sông trưa không ai đứng ngóng.
Một lần, người đàn ông năm xưa trở lại, dáng khổ hạnh và rắn rỏi sau những ngày lam lũ mưu sinh. Nhưng anh chỉ có thể tần ngần đứng trước ngõ, khi lối vào nhà dường như đã khác, lại nghe tiếng ru con dịu dàng của người mình yêu: “Ầu ơ... ví dầu...”. Anh đành quay đi, lòng quằn quặn, cũng chẳng thể trách ai ngoài tự trách mình mê mải quá. Thấm thoắt ba năm bay vèo như chiếc lá, chắc là người con gái không thể chờ nữa. Anh không biết, đêm đêm, bóng đổ dài trên vách, cô tỉ mẩn kết lá dừa với những nỗi niềm riêng.
Nó nhờ bà kết những hình thú đưa về phố. Trong căn phòng đầy sắc màu, màu xanh sẫm của lá dừa tươi như những nốt trầm yêu thương trong bản nhạc tình yêu. Cánh hạc mềm, chú dế với cái đầu tròn hãnh diện như muốn ca khúc hát muôn thuở của mình... Những con thú lá dừa lung linh... Khúc sông đầy phù sa và bóng bò cạp vàng che rợp màu xanh mát long lanh...
https://thuviensach.vn
BẾN ĐỢI
Nhiều Tác Giả
www.dtv-ebook.com
Ông Ba Rạch Đùng - Dương Đức Khánh
Lão Ba lúc sinh thời thường hay kể, thuở ông già tía với ông nội lão tới khai khẩn đất đầu tiên ở cái xứ khỉ ho này lão còn ở truồng tồng ngồng. Tròng cái áo bằng bao bố tời lút đầu gối, ngồi bó rọ trên chiếc ghe tam bản dòm đỉa lội lền như bánh canh dưới con rạch đục ngầu. Đêm ngủ trên chòi còn nghe sấu nổi lên quẫy đùng đùng... Rồi sau nầy thành xóm thành làng có cái tên Rạch Đùng. Rồi không biết từ hồi nào, ai đó cắc cớ gắn vô cái tánh khí đùng đùng như lửa của lão, thành tên gọi tới giờ.
Lão qua đời nay, đã hơn chục năm. Hồi giờ, bàn thờ lão chỉ thấy gọn hơ cái bát nhang với tấm bài vị thầy cúng viết bằng mực tàu. Dân ruộng rẫy quê mùa lớp lão hồi đó cả đời mới có dịp chụp hình (có người còn kêu “chớp bóng”) được một vài lần, đó là lúc đi mần thẻ căn cước. Cho nên, cái “thẻ bọc nhựa”của ai rủi ro hư hỏng thất lạc thì tới lúc mãn phần nhắm mắt, cháu chắt đời sau chẳng biết chi mặt mũi ông bà.
Vậy mà mới hôm rày, con cháu lão được dịp mừng húm như cha ông mình tự dưng đội mả sống lại!
Số là bữa đó, có mấy ông cán bộ xã đi bằng tắc ráng vỏ lãi vô ấp lặn lội hỏi tìm nhà ông Ba Rạch Đùng. Ngôi nhà vách ván tềnh toàng ọp ẹp dựng trên nền cũ bằng gạch tàu, còn những tán đá vuông lõm tròn kê chân cột của loại nhà xưa. Bên chái đầu trên thấy còn đống ngói vụn lẫn trong đất và cỏ. Hiện anh Hai Lúng, con trai một của ông Ba đang ở thờ phượng cha mình. Đoàn dẫn theo một ông người Mỹ biết nói tiếng Việt lơ lớ, xưng tên là Rai Xơn. Theo ông Tám xã đội giới thiệu, hồi chiến tranh ông Mỹ đây đã từng đóng quân dài ngày ở Rạch Đùng này. Mấy chục năm nay giờ
https://thuviensach.vn
trở lại thăm. Và đặc biệt là còn lưu giữ một bức ảnh về ông già Ba gần bốn chục năm về trước, nay muốn gửi tặng lại gia đình. Ông Mỹ mở cái va li sam-sô-nai lấy ra một khung hình trang trọng đưa ra trước mọi người: Hình ông Ba đúng y chang không xê một nét! Nó không phải là thứ hình từ trong căn cước. Cũng không phải như hình chụp ở tiệm thường có thợ ngắm nghía, sửa sang, mà là một gương mặt ông già đang cau có, giận dữ chuyện chi đó. Nền bức ảnh lờ mờ như có nhiều người phía sau. (Lúc nãy ngoài ủy ban, ông Mỹ đã đưa ra, nói tấm ảnh này mấy chục năm trước đã từng “lên báo” bên Mỹ!). Đúng là gương mặt hay quạu quọ, nhăn nhó như gáo đờn của ông Ba hồi còn sống mỗi lần gặp chuyện rắc rối, bực tức... Anh Hai Lúng run run ôm tấm hình úp vô ngực kêu tía ơi, rồi rưng rưng đặt lên bàn thờ. Vợ anh ra bẻ mấy trái vú sữa bên chái nhà đặt lên, thắp hương. Mọi người, kể cả ông Mỹ đều lặng lẽ chắp tay xá xá.
Với cuộc thăm viếng chốc lát, với vốn liếng tiếng Việt kiểu “i tờ rít” - Ông Mỹ Rai Xơn dù muốn cũng không thể giải thích đầu đuôi sự tình đã xảy ra cách nay ba mấy bốn chục năm rồi...
Nghe nói lúc trở ra ủy ban xã, ông Mỹ còn ngỏ ý định lần này quay về nước sẽ vận động với hội đoàn chi chi đó. Lần sau trở lại sẽ xin phép cất lại ngôi nhà thờ hệt kiểu nhà lão Ba hồi xưa nữa...
*
* *
Sinh thời, lão Ba là người thiệt như cục đất. Vợ lão mất sớm. Có được thằng con trai là Hai Lúng bây giờ lúc đó cũng bị bắt quân dịch đưa tuốt ngoài Trung, nghe đâu Quảng Trị, Đông Hà chi đó, biệt tăm biệt tích. Lão sống một mình thui thủi. Cả đời lão chỉ quanh quẩn với mấy đám ruộng, quen tật la hét dậy đồng mỗi lần quất roi cày vô mông trâu, nên cái tánh nóng nảy như Trương Phi của lão làng trên xóm dưới ai cũng biết.
https://thuviensach.vn
Có lần ngoài đồng về, lão ực cạn gáo dừa nước mưa rồi hể hả ngồi bệt xuống thềm quấn điếu thuốc rê bằng ngón cẳng cái. Đang tới cữ ghiền, cái máy lửa của lão tự nhiên trở chứng không chịu cháy (mấy người già lớp lão hay gọi cái bật lửa nhôm là cái máy lửa). Lão mở nắp kiểm tra xăng, đá lửa cũng còn đầy đủ. Cạy cục, thổi phù phù một hơi, quẹt tiếp xành xạch mười mấy cái nữa, rồi gí bánh xe xuống nền nhà đẩy lửa văng xẹt xẹt, cũng trơ trơ: “Mẹ cha nó”! Lão nổi khùng, đứng dậy quăng cái vèo tuốt bụi bông bụp ngoài ngõ rồi đùng đùng xuống bếp bươi than đốt thuốc. Bặp gần nửa điếu thuốc, nghe cái cục tức cũng cứ còn nằm ngang cần cổ. Lão bước đụi đụi vô nhà sau rút cái búa, phăm phăm ra hàng bông bụp kiếm lại bằng được cái đồ “mắc ôn mắc dịch”! Lão hằm hè đặt nó lên cục đá kê thềm, nghiến răng nện ba bốn búa tóe lửa! Cái máy lửa bẹp dúm, lão mới chịu quăng một lần nữa xuống ao luôn cái tủm! “Hừ!”.
Trong những vật dụng thường ngày của lão chỉ có cái máy lửa là có phần “máy móc” một chút nên nó mới trục trặc. Còn mấy thứ do chính tay lão làm ra từ cái chạc trâu, tới cái cán cuốc cán cày... thì kể như xài đời đời. Cái gối kê đầu lão đẽo bằng gỗ mít, xài lâu năm màu gỗ lên nước vàng rộm, láng boong! (Mỗi lần làng cúng đình, có dịp giết trâu bò, mấy chú mấy bác cứ hay giỡn: “Không có búa tạ thì chạy vô mượn cái gối của ông Ba mà đập, bảo đảm trâu bò nào cũng chết tuốt!”). Còn cái gậy của lão, có lần lão hì hà hì hục cả buổi ngồi cưa cái cát-tút đạn đại liên tra vô đầu mũi, như người ta đóng móng ngựa.
Lão chống thử cọc cọc, cười khà khà “ba đời cũng chưa mòn!”.
Và, cũng cây gậy này - nó gắn liền với câu chuyện cười ra nước mắt mà người làng Rạch Đùng nhớ đời mỗi lần nhắc chuyện hồi giặc giã chiến tranh.
Chuyện là hồi lính Mỹ kéo vô làng đợt thứ hai. Dọc bìa làng lúc ấy là dãy hàng rào ấp chiến lược ngăn cách xóm làng với đồng ruộng. Ai ra đồng phải qua mấy cái cổng có lính gác, phải trình giấy tờ.
https://thuviensach.vn
Sớm ấy lão chống gậy tính ra thăm lúa. Tới cổng rào không thấy thằng lính nào mà là... một thằng Mỹ mặt mũi non choẹt, đứng ngơ ngơ ngáo ngáo. Hắn chĩa súng chặn lại, lên giọng bằng tiếng Việt, bặp bẹ:
- Kan-quooc... Ong co kan-quooc khong...
- Tui ra thăm lúa, không đem cuốc... - Lão chỉ tay ra ruộng, trả lời liền.
- No, no... kan-quoc, kan... quooc! - Hắn gằn mạnh từng tiếng, đưa ngón tay lên không khí vẽ hình chữ nhật nhỏ xíu rồi cứ “kan quooc, kan quooc”!
- Tui-đi-thăm-lúa, không-vác-cuốc! Mần chi có cán cuốc! - Lão bắt đầu nổi cáu... Bỗng lão giơ cây gậy lên trước mặt hắn:
- Không có cán cuốc... cán gậy này được không!
- ...
Liền lúc đó có mấy người cả đàn ông đàn bà từ đàng xa vác cày vác cuốc đi tới, lão ngoắc lia ngoắc lịa:
- Mau mau, đem cuốc tới đây! Thằng Mỹ đòi cái cán cuốc! Không biết mần cái chi!
Tới nơi ai nấy cười òa:
- Ơi dà, thằng Xơn... Hắn hỏi cái thẻ căn-cước! Cái “thẻ bọc nhựa”của bác đó...
Như chực nhớ ra chuyện cũ, mặt lão bỗng tím lại, mắt trợn lên đỏ vằn, miệng giựt giựt rung cả chòm râu. Giọng lão đứt nghẹn:
- Căn... với cước... Vườn tao lãnh đủ... hai quả ca-nông tàu... Nhà thờ nhà tự, gia phả mấy đời dòng họ tao cũng cháy thiêu cháy rụi! Đừng nói chi
https://thuviensach.vn
căn
với cước...
Lão vừa gào vừa chỉ vô thằng Mỹ đang nghệch mặt há hốc, chớ biết mô tê là chi cả! Lão còn giơ đầu gậy lên, chỉ cái cát-tút: “Nè, đạn tụi bay bắn ràng ràng nè! Chối không!”. Làm ai nấy cười lộn ruột!
Bà con xúm lại khuyên lơn:
- Chuyện bom đạn giặc giã mà hơi sức đâu bác Ba ơi! Tụi hắn chắc cũng bị bắt “quân dịch quân gà” như con cháu mình đây cả! Nóng giận chi cho mệt!
Thằng Xơn (bà con quen kêu theo cái chữ gì Xon trên túi áo hắn) thì cả làng ai lạ gì! “Cái thằng nhìn cái mặt ngơ ngơ như “đi ỉa không biết đường dzô!”. Chắc đang đi học rồi bị bắt lính qua đây. Súng nổ cắc cụp tối ngày, vậy mà chẳng thấy hắn biết sợ sệt chi cả! Từ hồi về đóng quân, lúc nào cũng thấy mang máy chụp hình, máy thâu băng, gặp cái giống gì cũng chụp, cũng thâu. Hôm hắn chụp với thâu được mấy cô đi cấy dưới ruộng đang hò. Vậy là cứ đứng mở lui mở tới, coi bộ khoái chí lắm! Rồi gặp chỗ nào có mấy ông uống rượu, đờn ca lóc cóc là nhào dzô bấm máy thâu liền. Nhứt là mấy hôm có gánh hát cải lương về hát trong sân đình làng. Đêm nào cũng thấy một mình hắn lêu khêu đi với đám lính địa phương trong xã. Tụi lính ỷ quyền súng ống, cứ xông vô “coi cọp”. Mình hắn đứng lại móc tiền ra mua vé đàng hoàng. Rồi ban ngày, có khi hắn vừa đi vừa mở băng ca cải lương tửng từng tưng dậy làng...
Mấy tháng sau.
Lão đang lui cui buộc giàn bầu trước sân bỗng nghe tiếng loa tay rao vang đầu xóm. Lão chống gậy ra ngõ thấy thằng Tư “a-lô” cũng vừa đi tới. (Cả làng ai cũng kêu bằng thằng Tư nhưng thực sự Tư “a-lô” nay cũng ngót nghét năm mươi rồi. Anh ta mần chức mõ của làng Rạch Đùng này đâu hồi
https://thuviensach.vn
mười mấy tuổi, ai nấy kêu thằng riết quen). Tư mình lúc nào cũng tà lỏn đi chân đất cho tiện lợi “công tác liên lạc”! Không biết đi xe đạp nên anh ta đi bộ kiểu rồng rắn, cứ hết cuối xóm nầy lại lội tắt đường ruộng dzọt qua xóm khác. Nên mỗi cái tin anh ta rao khắp làng maucấp kỳ!
Lão tằng hắng:
- Rao cái chi đó mậy...
- Sáng ngày mai, đúng bảy giờ, ra đình làng nhận bồi thường! Chánh phủ bồi thường thiệt hại trận ca-nông hồi năm ngoái! Ông Ba nhớ đem theo “tờ khai gia đình” nghe ông Ba!
- Mẹ... nó! Cũng giấy với tờ! Mà có chắc không mậy...
Giọng Tư tưng tửng:
- Ơ, tui “a-lô” mấy chục năm nay mà nói dóc cho “chánh phủ” bỏ tù rục xương à! - Rồi anh ta bắc tay lên miệng: A lô!! A lô... Kính mời toàn thể đồng bào!.. Đúng bảy giờ ngày mai... tập trung tại đình làng... A lô! A lô!
Lão vừa trở vô vừa lầm bầm:
- Bồi với thường!... Chắc cũng giống cái đận cứu trợ hôm hổm chớ gì... Bà mẹ cha nó...
Nhớ tới lần đó, trong bụng lão còn cục tức anh ách. Nghe tin xóm giềng ới nhau đi nhận “cứu trợ”, kêu bằng “Chương trình cứu trợ nạn nhân chiến tranh”, cũng từ cái loa của thằng Tư, lão cũng lật đật chống gậy đi. Đang lúc ngay giữa mùa nước lớn, ruộng đồng ngập lênh ngập láng. Đúng là “họa vô đơn chí”, mới bị trận ca-nông tanh bành làng xóm nhà cửa, lúa thóc trong bồ cũng cháy rụi. Nay nhồi thêm trận lũ lớn, hột lúa ngoài đồng sắp sửa cắt cũng chìm ráo trọi. Đói cả làng là cái chắc! Theo thông báo của
https://thuviensach.vn
xã ấp, bà con phải tập trung ra gò đất nổi giữa đồng, rồi có phái đoàn tới phát quà cứu trợ. Từ sáng sớm, lớp xuồng lớp ghe lũ khũ chống chèo như đi nhóm chợ giữa ruộng. Ngồi chờ mỏi cổ tới chín mười giờ trưa, cũng chưa thấy bóng con ma nào tới cứu trợ cái giống chó chi cả! Già trẻ lớn bé đang ngồi sắp lớp giữa gò bỗng trời chuyển đen kịn, mưa ập xuống, không một tán cây cối gì che. Cả làng ướt nhem như bầy chuột lột! Bà con bắt đầu la ó. Nhứt là lão Ba, sáng giờ lão như khùng như điên, chực muốn phang gậy vô đầu mấy thằng cha xã ấp cho bõ tức... Lúc sáng lão quá giang xuồng hàng xóm, giờ như bị giam tù lỏng giữa đảo như dzầy! Giờ tính bơi không nổi lội không xong. Chớ phải chi chỗ khác đường sá khô ráo là lão chống gậy bỏ về mất đất tám chục kiếp rồi! Thèm đách vô! “Bà mẹ cha nó!”...
Cha Bảy Trưởng ấp sáng giờ cũng biết khôn, cứ ngồi trên ghe tam bản gắn máy ko-le, cầm cái loa tay chạy pin giọng ra rả: “A lô, a lô! Bà con yên tâm, bà con cố gắng chờ đợi một lát nữa thôi... Đoàn cứu trợ đang trên đường tới bằng... ca-nô... Bà con cứ bình tĩnh, yên chí... Ca-nô đang chở thực phẩm, áo quần, thuốc men... tới tận đây cứu trợ bà con mình...”.
Cho tới tận giữa trưa, trời lại nắng lên chang chang, cả làng lại phơi nắng chịu trận. Ngóng mút mắt chẳng thấy bóng ca nô ca niếc nào chạy tới. Tới xế chiều, kẻ than người thở, kẻ nằm người ngồi la liệt. Đang kêu trời kêu đất bỗng từ trên trời lù lù xuất hiện hai chiếc trực thăng đâm thẳng tới. “Chết mẹ! Máy bay tới bắn bà con ơi!.. Chết cha rồi! Chạy đường trời!..”. Nó hạ thấp xuống nghiêng mình liệng mấy vòng phần phật trên đầu. Quá hoảng, mạnh ai nấy phóng đùng đùng xuống nước! Tội nghiệp mấy ông bà già cả, mấy người bồng con dại cũng ôm con phóng ào ào. Một cảnh tượng hỗn loạn giữa đồng nước minh mông, như bầy le le gặp diều hâu, nhìn thê thảm hết biết!
Bỗng từ trên máy bay có tiếng loa rền trời vang xuống: “Đồng bào chú ý! Đồng bào bình tĩnh... Đây là đoàn cứu trợ của Hội Hồng thập tự quốc gia... Đồng bào hãy ổn định trật tự để chuẩn bị nhận quà!”. Từng loạt túi
https://thuviensach.vn
quà từ máy bay ào ào trút xuống. Tiếng loa trưởng ấp lại vang lên: “Bà con trật tự, ổn định... Mỗi người được nhận một phần, do các cán bộ ấp kiểm tra, phân phát... Ai nhận xong xuống ghe xuống xuồng. Giải tán...”.
Chèo chống vô tới xóm tới nhà, bà con ai nấy vừa đói vừa mệt đứt hơi. Nhưng cũng an ủi, khấp khởi với bịch quà nhận được. Chẳng biết là cái thứ gì trỏng?! Thiệt tình, thứ bà con cần lúc này cũng chỉ đơn giản chừng năm mười kí gạo, ít mắm muối tương chao gì đó sống qua ngày đoạn tháng. Nhưng cái bịch to tướng mà nhẹ hều, chắc hoàn toàn không phải mấy thứ đó.
Lão Ba cũng muốn lết mới về tới nhà, cũng đói muốn rã ruột! Lão mở bọc quà lôi ra mấy thứ: Một hộp giấy cứng vuông vuông, lắc nghe òng ọc, chắc là sữa bò pha lỏng; một ổ bánh mì niêm trong bịch ni-lông. Một miếng gì xeo xéo tam giác, như cục mỡ đông, chắc bơ béo chi đây! Toàn thứ từ nhỏ tới giờ lão chưa hề nếm tới. Sẵn bụng đang đói, thôi cũng “mần tây” một bữa thử cái coi! Lão xé khúc bánh mì, xoi lủng hộp sữa. Lão cắn miếng bánh mì rồi hớp ngụm sữa, vừa tới miệng lão ọe ra liền. Đúng là cái mùi lờm lợm không chịu nổi... Cơn ói ụa kéo dài một hồi. Lão đứng dậy quăng hộp sữa cái oạch tuốt ngoài sân, chửi lầm bầm. Rồi lão kêu con Mực, quăng cho nó cái bánh mì với miếng bơ. Nó cắn bánh mì, còn miếng kia nó ngửi ngửi, bỏ đi. Đó, rõ ràng tới chó còn chê chớ đâu mình lão! Nhớ sực lúc sáng trước khi đi, lão có bắc nồi khoai lang lên bếp. Vậy là vô nồi bốc mấy củ khoai mần no bụng. Ra ngoài lu mần gáo dừa nước mưa. “Ao ta ta tắm”. Xong! Lão quấn điếu thuốc rê phì phà bập bập rồi lầm bầm tự chửi mình “già cái đầu còn dại”!
Chưa hết, lão lại xăm xoi cái gói áo quần. Thôi thì cái ăn không ra gì, vứt đi cũng còn cái mặc. Mùa gió bấc cũng gần tới, có thêm cái áo cái quần cũng đỡ khổ. Lão lôi ra cái thứ nhứt: Cái quần - một cái quần giữ bò cũ mèm, bự tổ chảng. Lão đứng dậy đọ thử bề dài, đúng tới lỗ mũi. Còn bề ngang cỡ hai người như lão chui vô cũng lọt tót! “Mẹ cha nó! Cứu với
https://thuviensach.vn
trợ!”. Thứ hai: Cái áo - một cái áo thun vàng rực, bự cỡ ba người như lão tròng vô tuốt luốt, có in hình hẹo gì tùm lum. Lão trải ra coi thử, trước ngực là hình một thằng cao bồi râu quai nón cưỡi ngựa đeo súng lục, phía sau lưng hình một cái đầu lâu hai xương chéo, ớn lạnh! Lão đứng dậy ướm thử, gần tới mắt cá, chắc khỏi mặc quần! Chà, lão mà mặc cái áo này vô chắc thiên hạ bật ngửa, chạy la làng hết... Cái thứ ba, lão xổ ra: Hô hô... Một cái xịnh đầm bự chảng, bông hoa đỏ choét!! Tới nước này thì lão hết đổ quạu, hết chửi rủa chi nữa rồi, mà cứ ngồi cười khùng khục...
Nhìn tới nhìn lui mấy cái áo quần khổng lồ, lão bỗng nảy ra cái ý tưởng ngồ ngộ, hay đáo để. Lão gục gật một mình: “Cũng được việc đây, cứ để đó!”.
Mấy sào ruộng của lão thuộc đùng đất gò giáp bìa làng, không bị nước chụp. Mùa nầy lão đang trồng hai sào nếp. Mới trổ đòng đòng nhưng hôm rày thấy lũ chim chóc đã lượn lờ rập rình. Hôm sau lão lui cui cả ngày, chặt tre làm sườn, quấn rơm thành hai thân hình bù nhìn to đùng đùng. Lão cho mặc quần áo khổng lồ vô, thành một thằng cao bồi với một con đầm áo bông đỏ rực! Lão kiếm đâu được cái mũ lưỡi trai cũ với cái nón đệm, đội lên. “Bù nhìn ngoại quốc! Hà hà! Ghê chưa!”. Lão đắc ý lại cười khùng khục một mình rồi vác cả hai ra ruộng, hì hục cắm hai đứa cao lớn nghều nghệu đứng trấn hai đầu bờ.
Cái tin nóng hổi “Tây Mỹ ra đứng đuổi chim ngoài ruộng ông Ba Rạch Đùng - một thằng một con!”. Lập tức được đồn rùm khắp làng chiều hôm đó. Già trẻ trai gái chạy ra rần rần như đi coi hát, ai nấy đứng cười muốn lộn ruột. “Cha cha, cái màu đỏ màu vàng này là chim nó sợ vãi cứt luôn nghe!”... “Oa, có thằng cao bồi cỡi ngựa mang súng nữa các cha ơi!”... “Ô, Sọ người! Xương... Ha, cú nầy tới đại bàng diều hâu cũng chạy cong đuôi, nói chi mấy con bồ chao se sẻ nhóc nhen... Đúng là Ba Rạch Đùng thiệt!”.
*
https://thuviensach.vn
* *
Sáng ấy tại sân đình làng, băng rôn cờ xí treo đỏ rực - Rai Xơn cũng có mặt, mang máy ảnh lăng xăng cùng với tốp lính tóc vàng, mắt xanh làm nhiệm vụ hỗ trợ chính quyền địa phương lo công việc bồi thường thiệt hại cho bà con.
Từ mờ sáng, dân làng đã đứng ngồi lố nhố trước cổng đình. Lần lượt mỗi “nóc gia” được bồi thường hai trăm bạc với hai chục tấm tôn lợp nhà. Ai nhận xong buộc tròn lại, xỏ cây tre, hai người gánh.
Rai Xơn đang nhướng chân lên hốc cây si bên góc sân đình, giơ máy nhắm toàn cảnh. Và, bỗng giật mình hạ máy xuống để nhìn cho rõ. Đúng là lão già nóng nảy hôm nọ - lão Ba Rạch Đùng! Lão chống gậy sai sải như người đang chống xuồng, cái đầu gậy có tra cái cát-tút đạn đại liên kêu ràn rạt. Một tay lão vạch đám đông xấn thẳng vô. Điếu thuốc rê to tướng ngậm trễ bên mép, phà khói xanh um, đặc quánh. Xơn bấm máy “krách, krách!” lia lịa. Lão liệng tàn thuốc cái bịch xuống đất, bước tới trước mặt mấy tay cán bộ xã, ấp mặt hầm hầm.
Biết rành tính khí lão, cha Bảy trưởng ấp ve vuốt xuề xòa:
- A hà, bác Ba mới tới! Đếm tôn lẹ cho bác tụi bây! Có cháu chắt gì theo gánh cho bác không?! Hay là để tụi tui cho lính của ấp gánh tới nhà cho bác luôn nhe! Bác qua bàn bên kia, lăn tay điểm chỉ rồi lãnh tiền trước đi bác Ba...
Vẫn bản mặt chàu quạu, lão lườm xoi xói một lượt từng cặp mắt xanh lè mà lão cho là “thủ phạm giội ca-nông” vô làng Rạch Đùng này hồi năm ngoái!
Tự nhiên, Xơn giựt mình kéo sụp mũ xuống nửa mặt và ôm máy đứng né lui sau vai một thằng kia “krách, krách!”.
https://thuviensach.vn
Lão rê gậy bước qua bàn lãnh tiền, trờn trợn, lắc lắc đầu. Bước tới đống tôn đứng tằng hắng, nhịp nhịp đầu gậy kêu kình kình. Giọng lão gầm gừ chi đó như bửa củi một hồi, rồi hằm hằm vạch đám đông bướcra ngoài.
Ngồi bệt xuống vạt cỏ trước cổng đình một mình, lão lui hui quấn điếu thuốc rê “kèn tây” ngồi phà khói cuồn cuộn như đám cháy.
Lúc ấy thấy Rai Xơn cứ loay hoay với máy ảnh máy thâu, gương mặt răng vẩu ngố ngáo cười, lộ vẻ vui mừng như vừa vớ được của! Xơn bật lại máy thâu băng, tiếng lão ồm ồm phát ra trong máy:
- Không! Không phải cái thứ nầy... Nhà tao ngói âm dương mà... Cột săng kiềng kiềng! Mần tới ba đời chưa xong lận... Đâu phải cái đồ nầy...
Cả tốp mắt xanh tóc vàng đứng đực mặt, chẳng hiểu mô tê trời đất chi! Nhưng bà con cả làng ai nấy đều nghe, cười ra nước mắt!
Ngoài cổng đình lúc ấy thấy lão đứng lên phủi đít, đùng đùng khua gậy bỏ về một mạch. Bóng lão như trôi với làn khói thuốc rê xanh um cả khúcđường làng...
Về tới nhà buông mình xuống cái võng gai giăng trước hàng ba, thọc gậy vô gốc cột tràm đưa cọt kẹt, lão nghĩ ngợi lung tung. Chuyện giặc giã súng đạn, còn cái mạng sống là hú ba hồn bảy vía. “Người sống hơn đống vàng!”. Hôm đó cũng may lão đang bừa ngoài ruộng, chớ ở trong nhà thì cũng banh xác, “đi bán muối” tám kiếp rồi!
Đành rằng “của đi thay người”, cả làng cả nước chớ riêng chi mình lão. Nhưng mỗi khi nhớ tới ông già tía với ông nội lão, lão đau lòng không chịu nổi! Cả đời “trần ai khoai củ”, chắt mót nhịn đói nhịn khát, ông nội lão chỉ ước ao cất được ngôi nhà giống hệt ngôi nhà nơi chôn nhau cắt rốn ngoài xứ Quảng gốc gác, tuốt tận ngoài Trung!
https://thuviensach.vn
Hồi còn nhỏ lão nhớ, qua mỗi mùa lúa trúng là tía lão tròng bộ bà ba đen đi chân đất, xách giỏ đệm đựng cả cục tiền đón đò dọc lên bến Cần Thơ. Ăn chực nằm chờ có khi cả tháng trời, đón ghe bầu chở cây gỗ ngoài Trung vô. Mỗi mùa mua được một mớ cột kèo... Tới ngày sắp kêu được thợ về đục đẽo thì ông nội lão ngã bịnh liệt giường. Trước khi nhắm mắt ổng trăn trối quả quyết chỉ bó chiếu với bảy nẹp tre, khỏi hòm rương chi cả... Để dành dựng cái nhà cho tử tế màthờ tự!
Tới đời ông già tía lão nằm xuống cũng chỉ cái hòm ván gòn nhẹ bẫng! Vậy mà cho tới ngày lão cưới vợ mới mần nổi bộ cửa, mới kín được cái nơi thờ phượng hương khói...
*
* *
Hơn tháng sau.
Anh Hai Lúng đang ngồi ở trần ôm cây đờn vọng cổ tịch tình tang trước hiên thì bất ngờ từ ngoài ngõ, ông Mỹ Rai Xơn lừng lững xuất hiện. Cánh tay đầy lông giơ lên với miệng đầy râu đang cười chữ ô. Quay lại lần này chỉ có ông ta với một anh thanh niên khá bảnh trai, giới thiệu là người phiên dịch của công ty du lịch chi đó.
Ông Xơn bước vô chấp tay cúi đầu trước bàn thờ ông Ba, nhìn rất lâu lên tấm ảnh. Cái “tác phẩm” ông nâng niu gìn giữ từ thời trẻ trai tới giờ sắp thành một ông già bằng tuổi ông Ba hồi đó. Và cứ mỗi lần nhìn vào, ông lại trông chờ người trong ảnh một ánh nhìn tha thứ! Còn với ông, từ hồi là chàng trai mặt búng ra sữa, bị đẩy qua cái xứ sở lạ lùng này; bị sự “la mắng”của một ông già nóng nảy thẳng thắn - Ông còn nhớ rất rõ, từ cái lần đầu ở cổng hàng rào ấp chiến lược tới lần ở sân đình làng, ông đều cúi đầu như một đứa con lầm lỗi...
https://thuviensach.vn
Qua giây phút xúc động, ông quay ra vịn vai anh Hai Lúng, một tay gẩy gẩy vô dây đờn. Ý muốn tiếp tục nghe lại tiếng đờn vọng cổ ông ta từng mê mẩn năm xưa...
Vừa dứt bản đờn, ông loay hoay lôi trong cặp ra - lần này cũng một xấp hình màu cỡ lớn... Vừa bập bẹ tiếng Việt ý được ý mất cùng với lời phụ họa của anh chàng phiên dịch, ông trình bày ý định của mình với anh Hai Lúng. Hóa ra cả tháng nay, ông ta mang máy ảnh lặn lội khắp nơi, không phải gặp thứ gì cũng chụp như ngày trước mà chủ yếu là... những ngôi nhà gỗ xưa ở các miền quê... Đặc biệt là những ngôi nhà có ý định muốn bán.
Bày ra hết các tấm ảnh trước mặt anh Hai Lúng, ý muốn anh Hai chọn ra ngôi nhà nào giống nhà mình ngày trước nhất... Còn lại là việc thực hiện của ông Rai Xơn trong nay mai...
https://thuviensach.vn
BẾN ĐỢI
Nhiều Tác Giả
www.dtv-ebook.com
Thần Mặt Trời Của Rừng - Chu Việt Nga
Từng mảng mây trắng đục ùn ùn kéo tới. Mây vần vũ. Bầu trời mịt mùng lam thẫm. Đàn chim nháo nhácđập cánh, kêu dáo dác tìm nơi trú ẩn. Những ngọn tre oằn oại thân mình chống đỡ từng đợt gió bủa vây tới tấp. Gió gào rít trên mái ngói cổ âm dương. Cánh cửa gỗ đã mục đập ra đập vào, kêu lọc xọc. Bé Mai chơi ngoài hiên nhà, vội chạy vào nép mình bên mẹ. Hoa đang mải khâu áo cho chồng, liền bỏ xuống, ôm bé Mai vào lòng, vuốt làn tóc đen huyền của con bé, vỗ về: “Đừng sợ, út ngoan, mẹ ở đây mà, thầy con và chị Xoan cũng sắp về rồi!”. Bé Mai bám riết tay mẹ, líu ríu: “Mẹ ơi... Mẹ kể chuyện cho con nghe đi... Con... con... sợ ông trời lắm...”.
- Ông trời mít ướt giống y bé Mai nhà mình nhỉ. - Hoa âu yếm, trêu đùa con.
Con bé rơm rớm nước mắt. Hoa chậm rãi kể chuyện cổ tích cho con nghe, những câu chuyện mà Hoa dạy các con cách làm người. “Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ...”.
Cơn mưa rào vừa đổ thì chồng Hoa và cô con gái lớn đi làm đồng về. Dạo này, mình mẩy đau nhức, lại bị chứng mất ngủ kinh niên hành hạ nên Hoa ở nhà lo cơm nước. Việc đồng áng để hai bố con nó lo. Chồng Hoa sớm nhận ra những mảng lở loét nâu đỏ xuất hiện loang lổ trên người vợ, khuyên Hoa cứ ở nhà nghỉ ngơi. Sau bữa cơm tối, Hoa lên giường nằm nghỉ sớm, Lĩnh đến bên thủ thỉ bảo vợ:
https://thuviensach.vn
- Mình à, mình cứ đến bệnh viện khám xem tình hình sao, quan trọng là sức khỏe mình à!
- Tốn kém lắm mình... Nhà mình còn nhiều khoản cần lo lắm...
Nói rồi, Hoa trở mình quay mặt vào trong tường. Hoa nhắm mắt mà chẳng thể nào ngủ được, lòng đau đáu khôn nguôi. Hoa giấu giếm chồng việc mình đến trạm y tế xã, bác sĩ nói Hoa có những triệu chứng của căn bệnh phong. Bác sĩ dặn dò: “Bệnh này phải nằm viện theo dõi thường xuyên và uống thuốc. Tôi nghĩ chị nên nhập viện sớm”. Hoa thở dài sườn sượt, người Hoa rụng rời. Thế là hết, cuộc đời Hoa sẽ rơi vào bế tắc ư? Tại sao Hoa lại bị mắc căn bệnh này? Nhà có ít tiền Hoa tích góp được, Hoa luôn muốn để dành cho cái Xoan, đứa con gái lớn đi học trên thành phố. Hoa không muốn dùng số tiền ấy cho việc chữa trị của mình. Hoa vẫn còn nhớ ở cái làng Vạn này mười năm về trước, có một gia đình nọ người chồng mắc bệnh phong. Khuôn mặt anh ta gớm ghiếc, sần sùi từng cục nhỏ. Anh ta cứ cụt tay dần theo năm tháng, tay không còn thấy bàn, thấy ngón nhưng vẫn cố dùng dây vải buộc cán cuốc vào phần thịt còn lại để làm đồng. Bàn chân anh ta thủng loét. Dân làng cho rằng anh bị bệnh dễ lây nhiễm nên kỳ thị, đuổi vào rừng. Người vợ của anh dắt theo đứa con nhỏ dại vào rừng sinh sống cùng chồng. Lâu dần, người ta chỉ nhìn thấy hai người đó như hai bóng ma thoắt ẩn, thoắt hiện, vang vọng những tiếng kêu ú ớ như tiếng xương người rên rỉ. Một hôm có nhóm người làng Vạn đi tắt đường rừng, họ nhìn thấy ánh lửa lập lòe, chứng kiến khỉ, sóc, rắn chết hàng loạt, những bộ xương của chúng rải rác ở hốc cây, khô khốc. Họ quả quyết rằng người vợ đã lây nhiễm bệnh phong của chồng, cả hai hóa điên dại, biến thành con ma cà rồng chuyên đi hút máu người và ăn thịt động vật tươi sống. Tin đồn lan truyền, kể từ đó chẳng còn ai dám vào rừng nữa. Thời gian đã qua lâu, nhưng nỗi ám ảnh về hai vợ chồng bệnh phong khiến Hoa vẫn còn sợ sệt, Hoa sợ ngay cả chính bản thân mình. Hoa ôm mặt, tự xót thương mình, nước mắt cứ thế chảy ướt đẫm gối. Hoa cố tình lảng tránh sự gần gũi của chồng. Lĩnh nghĩ Hoa ốm nên không bao giờ cố nài ép vợ.
https://thuviensach.vn
Đêm nay, tiếng đàn bầu của Lĩnh thánh thót từng nhịp, biết bao tâm tình muốn giãi bày trong từng nốt nhạc trầm tư đó. Tiếng mưa rả rích, âm vang tiếng đàn ngẩn ngơ rơi tõm vào không trung. Khuyên vợ mà vợ cứ chần chừ không chịu đến viện khám, lại nhận ra những cử chỉ khác lạ của vợ, Lĩnh đăm chiêu suy nghĩ suốt cả đêm dài. Khi tiếng gà gáy văng vẳng giữa xóm trong buổi sớm mai, Lĩnh đã ra khỏi nhà tìm đến thầy thuốc làng bên. Ông có tiếng trong việc chữa những bệnh ngoài da và mất ngủ bằng lá thuốc. Ông lang già bảo Lĩnh vào rừng kiếm thêm rễ cây na rừng làm thuốc, ông sẽ sắc vài thang cho vợ Lĩnh uống, vị thuốc ông kê có vị thanh mát chữa mất ngủ hiệu quả.
Người lính từng vào sinh ra tử, lăn lộn ngoài chiến trường như Lĩnh chẳng e sợ điều gì, năm xưa cái chết còn có thể ập đến bất cứ lúc nào. Càng đi sâu, rừng càng âm u, Lĩnh càng nung nấu kiếm lá thuốc cho vợ bằng được. Người làng Vạn đặt tên cho cánh rừng là rừng Ma. Trên những thân cây, Lĩnh thấy những lá bùa yểm với dòng chữ đỏ thắm, bay phấp phới trong gió. Những lá bùa tránh cho người dân không bị lạc hồn khi đi qua rừng. Những cây cổ thụ cao lớn, vươn mình thẳng tắp lên trời xanh để đón ánh nắng mặt trời. Thân cây xù xì nổi những cục u lồi lõm. Giữa hai bên tán rừng cổ thụ là con suối mềm mại uốn lượn dưới chân những rặng núi sừng sững. Làn sương mỏng giăng mắc những sợi nắng, lờ lững trên mặt nước. Bên bờ suối, trầm tích của vụn sỏi, cuội thô nằm lăn lóc. Lĩnh lội chân trần xuống dòng nước, những viên đá cuội tròn nhẵn lạo xạo dưới chân anh. Men theo con suối, Lĩnh thấy hang đá dần lộ ra. Cửa hang như một con quái vật khổng lồ há miệng đen ngòm, lởm chởm các khối đá ngổn ngang. Bóng kí ức chập chờn, huyền ảo, mắt anh nhòe đi. Anh đang đứng giữa một toà thiên nhiên bí ẩn, bao quanh là vẻ đẹp của những khối thạch nhũ ngàn năm. Từng nhịp rơi tí tách của nước từ nhũ đá trên trần rơi xuống. Lĩnh lặng người. Chỗ này là nồi cơm được bắc trên mấy hòn đá chông chênh, chỗ kia là con cá khô bắt ở suối, nướng giòn trong ánh lửa bập bùng, những nụ cười của đồng đội Lĩnh. Những tháng ngày chiến đấu năm xưa làm sao Lĩnh có thể quên. Hang đá này là nơi Lĩnh cùng đồng đội đã ẩn
https://thuviensach.vn
náu. Hai mươi năm về trước, tiểu đội Lĩnh đã dùng hỏa lực súng cối ngắm, dũng cảm đồng loạt đánh giáp lá cà với quân Pháp, lưỡi lê, lựu đạn cứ thế xông lên đánh địch. Xác địch chết như ngả rạ dưới mũi lê của tiểu đội Lĩnh. Chúng đành rút quân, sử dụng máy bay ném bom. Tiểu đội của Lĩnh bị trúng bom nên số người chết, người bị thương khá nặng, cả đội rút quân, chui sâu vào hang đá.Lĩnh bị thương nhưng anh cố dìu người bạn của mình, máu của đồng đội chảy ấm nóng trên tay Lĩnh. Hòa bình, chính Lĩnh và người bạn đồng đội đó lại may mắn sống sót trở về, thi thoảng Lĩnh vẫn hay nằm mơ thấy những người đồng đội cũ đã hy sinh. Hang đá vẫn nằm đó, im lìm với vẻ đẹp mê hoặc như say giấc ngủ nghìn năm, chôn đi bao kí ức. Những bức rèm đá buông rủ thướt tha như dáng của một người thiếu nữ. Ký ức đau thương vẫn hằn lên con tim Lĩnh, cho dù không còn chiến trường, không còn tiếng súng, tiếng bom, không còn hận thù giữa những con người nữa. Lĩnh theo ánh sáng le lói mà tìm lối ra. Ra khỏi cửa hang, Lĩnh nghe thấy những tiếng líu ríu của muôn loài chim như bản hoà âm giữa rừng. Chợt Lĩnh thấy cây na rừng, dây leo to có nhánh mọc trườn, mảnh ở đằng xa. Đồng đội đã đưa đường chỉ lối cho Lĩnh ư? Lĩnh chạy tới, mải miết đào rễ cây, một thoáng Lĩnh nghe những tiếng động lạ. Lĩnh chú tâm nghe ngóng xung quanh, nhận ra đó là tiếng cưa máy rít lên cả một góc trời. Bầy khỉ kêu nháo nhác.
Bụp... bụp... Huỵch... Lĩnh bỗng khuỵu ngã, một cú đánh như trời giáng bất ngờ từ đằng sau. Đất trời tối sầm, quay cuồng trước mặt Lĩnh.
*
* *
Đã hai ngày nay không thấy Lĩnh về. Lòng Hoa bồn chồn không yên. Hoa bảo cô con gái lớn hỏi thăm hàng xóm láng giềng, những nơi Lĩnh hay đến. Xoan đi khắp ngõ hỏi tin tức của cha cô. Có người nhìn thấy cha Xoan đi vào rừng. Cô hối hả đi, vừa đi vừa gọi cha mình khản đặc cổ. Xoan nhớ hồi nhỏ, thi thoảng cùng chúng bạn vào rừng hái quả ăn, người lớn vào
https://thuviensach.vn
rừng kiếm củi đem bán. Rừng phủ tấm áo choàng xanh bạt ngàn chở che cho núi. Mây ôm ấp núi, núi lại e thẹn lấp ló trong làn sương, sáng sớm núi trùng điệp mờ ảo xanh lam, trưa dát vàng lấp lánh như hổ phách, chiều lại khoác trên mình bộ cánh tím pha ráng đỏ của ánh hoàng hôn. Gió thổi khe khẽ, mặt nước bỗng lao xao, bóng núi lung linh, chập chờn theo làn sóng. Kể từ khi có tin đồn về cánh rừng, mẹ Xoan cấm các con bén mảng vào rừng. Giọng kể chuyện ấm áp của mẹ văng vẳng thân quen bên tai Xoan: “Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ, con người đã phá rừng để dựng nhà cửa. Một ngày, có hai anh em nhà kia được Thần Linh báo mộng về cơn Đại Hồng Thủy sắp ập đến, giúp họ tránh kiếp nạn. Tỉnh dậy, hai anh em kể lại câu chuyện cho dân làng, nhưng không một ai tin họ cả. Họ đành đi vào rừng, ăn ngủ tại hang đá, ngày đêm miệt mài tạo nên chiếc trống đồng to vừa đủ cho hai anh em có thể chui vào. Ngày đại họa cũng đến, nước mênh mông trắng xóa, ngập cả ngôi làng, hai anh em sống sót nhờ chui vào chiếc trống đồng. Dân làng bị cơn lũ cuốn trôi đi hết”. Tiếng vỗ cánh gấp gáp trên không trung của bầy hạc trắng khiến Xoan trở về thực tại, chúng chao nghiêng mình tìm bóng trên mặt nước mênh mông. Một bóng hình chầm chậm bước nhẹsau cô.
Im lặng! Không mày chết với tao...
Tiếng quát lớn vọng lên, rồi gương mặt hung tợn bước ra. Hắn hằn học, lẩm bẩm: “Con nhóc này ở đâu ra không biết, lại thêm đứa phá đám”. Hắn trói tay Xoan và bắt đi theo. Hắn dẫn Xoan đi vào một hang đá. Những cây hoa rừng nhỏ xíu, bé li ti mọc trên lối vào hang. Cô siết môi thật chặt, hít một hơi dài để lấn át nỗi sợ trong lòng. Đi sâu vào trong hang, bóng tối bao trùm, một khoảng ánh sáng nhỏ chiếu qua. Xoan nhận ra bóng quen thuộc của cha mình, ông đang bị trói bên cột đá. Ông bất tỉnh, gương mặt hốc hác. Xoan bảng hoảng, khóc òa lên: “Thầy ơi, thầy có sao không?”. Đàn dơi vỗ cánh ràn rạt, bay tứ tung. Lĩnh choàng tỉnh, thấy con gái, cố gắng dùng hết sức lực còn lại của mình, bật ra thành tiếng: “Đừng làm gì con tao, tao xin chúng mày...”.
https://thuviensach.vn
Lão già có im đi không. Ai bảo lão xông vào đất của bọn tao. Nói rồi hắn quay ra Xoan trừng trừng đôi mắt ti hí:
- Nín ngay con kia! Chúng mày cản trở hết kế hoạch của tao.
Có tiếng lạo xạo bước chân, hai gã đàn ông to lớn vào hang. Một thằng thưa:
- Đại ca, đã xử lý gọn hai thân gỗ sưa. Đợi lệnh của đại ca. - Tốt lắm, tí nữa cả đội chuồn lẹ.
Lĩnh nhận ra gương mặt thân quen của gã mới đi vào, Lĩnh ú ớ: - Là thằng Dũng, thằng Dũng con nhà bác Nhân phải không? Hắn lúc này mới quay lại, im lặng vài giây rồi nói:
- Ông cũng nhận ra tôi sao? Chính là tôi, thằng Dũng còi nhà Nhân hủi, cha mẹ tôi chính là người bị cái làng ngu xuẩn này đuổi vào rừng, đau khổ mà chết mòn, sống trong bất hạnh.
- Thật vậy sao? Ta không hề hay biết thầy u cháu mất. Tại sao... tại sao lại cấu kết với bọn lâm tặc phá... phá... rừng - Lĩnh nói trong tiếng thở đầy khó nhọc.
- Làng này đã đối xử với cha mẹ tôi như nào thì sẽ phải trả giá như vậy. Ha ha... - Nụ cười chua chát và cái nhếch mép của Dũng đầy căm hờn.
Những giọt nước mắt lã chã rơi. Phải, phải rồi, bố mẹ thằng Dũng chịu nhiều điều tiếng, bị dân làng coi như nạn dịch. Nhân chính là người bạn thân, người đồng đội sống sót cùng Lĩnh. Năm xưa Lĩnh đã hèn nhát không dám phản đối lệ làng chỉ vì muốn yên ấm cho gia đình mình, để gia đình Dũng phải trốn chui chốn lủi trong rừng. Lĩnh hối hận vô cùng.
https://thuviensach.vn
- Sao tính xử lý con đàn bà này thế nào anh? - Một tên cất tiếng:
- Nhìn nó ngon đấy, xơi thôi chúng mày. Bao lâu ở trong rừng tao thiếu thốn, thèm hơi đàn bà.
Một thằng lập tức xông vào xé nát áo Xoan, đè cô xuống, cô hét lên. Bầy dơi bay đến rào rào như một trận bão cát tới tấp vào mặt. “Không, không, tôi xin các người... Cứu...” Âm thanh vô vọng tàn lụi. Trong mắt Xoan nhập nhòa hình ảnh trống đồng ngàn năm trong câu chuyện của mẹ, lấp lánh hình ảnh ngôi sao trên mặt trống đồng như vị thần mặt trời tỏa sáng. Cô nhìn trân trân vào người đàn ông đang đứng đằng xa mà trào nước mắt. Con tim cô đã rỉ máu.
Không, không, đừng làm vậy, tôi van các ông. - Lĩnh kêu thảm thiết, bất lực nhìn con gái.
- Bọn mày, có biến rồi, bọn biên phòng ập đến, chuyển gỗ lẹ đi... Mặc xác chúng. - Tên Dũng chợt hét lên, thông báo cho đồng bọn.
Bọn chúng rút đi nhanh chóng. Xoan vẫn còn hoảng loạn, nhắm nghiền mắt. Nỗi buồn len lỏi trong tim cô đau buốt, mọi thứ đổ nát, tàn xiêu trong bóng chiều. Trong một buổi chiều hiu hắt hai năm về trước, Xoan đi hái măng ven rừng, gùi nặng, đường trơn, chẳng may cô bị trượt chân, đầu gối vấp vào đá. Lúc đó Xoan gặp được một chàng trai giúp đỡ cô. Người con trai dáng vẻ hiền lành, chạy đến bên bảo: “Anh đang đi săn thì nghe thấy tiếng kêu cứu của em”. Anh ta chạy đi hái lá thuốc đắp vào chỗ chân Xoan sưng tấy, rồi cõng cô về tận nhà. Từ hôm đó, thi thoảng Xoan và người con trai lại gặp nhau, lúc thì anh mang chút mật ong rừng, khi thì chút thịt rừng sang làm quà cho Xoan. Tình cảm của hai người như bông hoa rừng ngày ngày uống khí trời tinh khiết, nở rực rỡ dưới nắng. Rồi anh cũng nói cho Xoan biết, bố mẹ anh chính là những người hủi bị dân làng ghét bỏ, xa lánh năm xưa. Cha mẹ anh mất cách đây vài năm vì sự cô độc nhiều hơn là sự hành hạ của bệnh tật. Xoan nghe vậy càng yêu thương anh
https://thuviensach.vn
hơn, cô muốn bù đắp sự thiếu thốn tình cảm cho anh. Xoan yêu anh nhưng cô sợ khi nói với bố mẹ, họ sẽ phản đối. Nhờ những câu chuyện thêu dệt của làng mà cô và anh có thể hẹn hò nhau trong rừng mà không ai biết. Họ đã yêu nhau bí mật trong suốt hai năm trời. Xoan thương nhớ những mùa trăng xa thấp thoáng, vai cô run rẩy hạnh phúc trong nỗi niềm gió núi mỗi khi bên anh, vấn vương trên thảm cỏ ướt hai đứa nằm bên nhau, bờ môi anh ngọt lịm, hơi thở ấm nóng, bàn tay anh đượm cả hương thơm dịu của mùi bồ kết trên suối tóc Xoan. Đôi mắt nhắm, mà hồn say mê quấn quýt, sương đêm ướt lạnh mà tim hai đứa vẫn bổi hổi. Có lần cả hai chui sâu vào hang đá chơi, nhìn thấy một cột đá tựa như hình đôi trai gái dựa đầu vào nhau. Trần hang cao có in hình các vết lõm nhỏ, mịn màng như xốp. Anh thầm thì với cô rằng: “Chúng mình thề nguyện mãi bên nhau dưới sự chứng giám của đôi tình nhân đá này nhé em”. Cô khẽ gật đầu, say đắm, nhìn mắt anh rạng ngời. Lời hứa ấy vang bên tai Xoan. Ấy vậy mà cô không hề hay biết rằng anh đi theo bọn lâm tặc, anh đã theo bọn phá rừng phá núi. Dũng chính là người cô yêu thương, anh đã che giấu cô lúc nào cô không hay. Tại sao anh phải làm vậy? Xoan ngỡ ngàng, càng không thể tin được điều mà giờ đây cô tận mắt chứng kiến.
Hai cha con Xoan dìu nhau về. Bỏ lại đằng sau lấp lóa màu xanh của cánh rừng ngút ngàn, màu đỏ của ánh hoàng hôn chiều. Xa xa, những ánh đèn từ làng Vạn thắp lên như những đốm sáng nhỏ lạc lõng giữa rừng. Triết lý ngàn đời nay của dân tộc ta là giữ rừng, giữ nước. Trống đồng chính là biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam, là vật tượng trưng cho tinh hoa văn hoá cũng như ý chí quật cường của dân tộc ta con ạ! Đó là những lời nói thấm thía, xương máu mà mẹ Xoan vẫn dạy cho cô sau mỗi câu chuyện mẹ kể, Xoan còn nhớ như in từng lời nói ấy. Nếu như không có rừng có núi, sườn đồi sẽ loang lổ như manh áo vá. Mỗi mùa bão lũ, những dòng suối, sông đỏ ngầu phù sa từ các sườn núi, sườn đồi tuột trôi theo dòng nước xiết. Liệu câu chuyện mẹ cô có thành sự thật trong tương lai hay không, chẳng ai dám chắc được. Chỉ biết rằng, Xoan yêu rừng, Xoan căm ghét bọn lâm tặc. Trên trời, vì sao lẻ loi nhấp nhánh...
https://thuviensach.vn
*
* *
Rừng cây đã bao mùa thay lá, theo nhịp quay tháng ngày của trời đất.
Hai năm sau, Dũng trở về, gầy và đen sạm. Đi cùng anh là một chiến sĩ bộ đội biên phòng. Mọi người đi từ bất ngờ này sang bất ngờ khác khi anh bộ đội biên phòng kể chuyện cho bà con nghe. Chính vì bọn lâm tặc càng ngày càng thông minh, chúng đã nghĩ ra cách róc thịt từng hộp gỗ trên những thân cây mà cây không hề ngã, những cây trầm hương, bồ đề, gỗ quý trong rừng cứ lần lượt ra đi. Bộ đội biên phòng đề cao cảnh giác nhưng không tài nào bắt được bọn lâm tặc vì chúng hành động nhanh gọn và chuyên nghiệp. Với những mảng gỗ vuông vức được xẻ ra, chúng gùi, di chuyển bằng xe máy một cách dễ dàng. Những cánh rừng mới ngày nào còn huyền bí thâm nghiêm, giờ bị xới cày lở lói. Tấm giáp xanh rách toang toác từng mảng. Dũng sống trong rừng từ bé, khi nhìn thấy từng vết thương hoang hoác trên cơ thể rừng, Dũng quyết tâm phải gia nhập vào bọn lâm tặc để triệt phá đường dây của chúng, để chúng tin tưởng và giao nhiệm vụ cho anh. Do tính chất bí mật của công việc mà Dũng đành im lặng, không nói với Xoan, để cô phải hiểu lầm anh. Nhờ có sự trợ giúp từ nguồn thông tin mật của Dũng mà bộ đội biên phòng có thể phá đường dây lớn của bọn lâm tặc. Kế hoạch kết thúc, bộ đội biên phòng và Dũng trở về làng Vạn để làm cuộc tuyên truyền vận động cho mọi người từ trẻ nhỏ đến các cụ già, để mọi người dân xóa mọi định kiến và tin đồn về rừng Ma của làng Vạn, để cùng canh gác bảo vệ tài nguyên rừng này. Dũng cũng được tuyên dương là người anh hùng giữ rừng xanh đại ngàn, anh được trao số tiền thưởng từ ban lãnh đạo với những gì anh đã đóng góp và bảo vệ rừng. Dũng biết mẹ Xoan bệnh, anh có ước nguyện gửi số tiền thưởng đó đến mẹ Xoan. Gia đình Xoan nghẹn ngào không nói nên lời trước tấm lòng của Dũng, càng hiểu hơn tấm chân tình của Dũng với Xoan.
https://thuviensach.vn
Ở góc vườn sau nhà, Xoan khóc nức nở trong vòng tay Dũng. Hương hoa bưởi cứ thế hòa với mùi gió, mùi đất, mùi của lá, mùi ngai ngái của Dũng ôm trọn hương của núi rừng, mùi hương chờn vờn trong những giấc mơcủa Xoan về anh. Những sợi nắng nhảy nhót, vương trên mái tóc Xoan. Lũy tre cong vút nghiêng mái tóc của mình trong làn gió chiều mơn man. Lá và gió hòa quyện thành những bản nhạc vui tươi. Vài chiếc lá bay chạm đất trở về với nguồn cội, những âm thanh khẽ nghiêng rơi của những muộn phiền, vỡ òa trong hạnh phúc, chiếc lá rơi chao nghiêng cả ký ức. Ngôi sao trên mặt trống lại lấp lóa, tỏa sáng trong ánh mắt Xoan. Đó phải chăng là niềm tin của dân tộc Việt Nam trong tín ngưỡng thờ thần mặt trời, như niềm tin của Xoan đặt vào Dũng trong suốt hai năm mòn mỏi chờ đợi ngóng trông tin anh. Với Xoan, thần mặt trời của riêng cô chính là Dũng, anh cũng chính là thần mặt trời của cánh rừng làng Vạn. Dáng núi, dáng rừng đã in sâu vào lòng mỗi người con sinh ra và lớn lên ở làng Vạn, hay trong câu chuyện cổ tích của mẹ Xoan. Trên mái nhà, những hàng gạch ngói âm dương đỏ rực như nét mặt rạng rỡ của đôi nam nữ đang kề sát nhau với nụ hôn và cái ôm siết chặt...
2.6.2016
https://thuviensach.vn
BẾN ĐỢI
Nhiều Tác Giả
www.dtv-ebook.com
Chuyện Nhỏ Trong Chiến Tranh - Trần Thanh Hà
Nói là chuyện gì ghê gớm thì quả không phải. Chuyện một người, hai người, chuyện vài người... trong mịt mù bom đạn thuở đó, rồi cũng nhỏ cả.
*
* *
Khi đó Thịnh đang dạy học dưới Phú Vang, vùng chợ Nọ. Khi đó Nguyên không còn ở Huế nữa. Nguyên về Nong, dạy lớp một ở cái làng tít tắp ngoài gần phá Cầu Hai. Biết vậy chứ Thịnh chưa lần nào tới, chưa biết thực ra Nguyên sinh sống thế nào.
Trước, Thịnh đi xe đạp gần chục cây số từ Phú Cam về chợ Nọ, trưa đi chiều tối về. Sau gom được ít tiền Thịnh mua chiếc xe tám bảy, chạy hai chục phút hết quãng đường từng đi xe đạp hết cả giờ đồng hồ. Chiếc xe máy cũ, máy nổ bành bạch, qua đoạn đường mùa mưa nhiều ở nước, lúc nào cũng bám bùn đất trông rất bẩn. Kệ, Thịnh đi cả tháng, cả năm, chỉ bằng lòng bởi tầm năm, sáu giờ ngược lên thành phố, Thịnh thêm thời gian la cà trong quán cà phê Hạ Trắng.
Quán nằm góc đường Điện Biên, hơi sâu, trồng nhiều chanh và sapuchê, lúc nào cũng âm sầm tối lẫn lộn nhiều thứ mùi, mùi những chòi lá lên mốc, mùi quả sapuchê, mùi lá chanh, mùi cà phê thuốc lá, thoang thoảng mùi rác bốc dưới sông Bến Ngự lên nữa. Thịnh chỉ tới đó vào mùa mưa, ngày mưa lớn, lụt, đường qua Đập Đá ngập, quán nghỉ, Thịnh cũng ra ngồi cả ngày. Chiều lòng khách quen, ông chủ quán đặt đĩa nhạc, thường là Trịnh Công Sơn với giọng Khánh Ly não nuột. Không có chỗ nào trong
https://thuviensach.vn
thành phố khiến Thịnh nghĩ và nhớ Nguyên nhiều như chỗ đó. Thịnh ngồi trong chòi lá cuối vườn, trên một con ghế, kéo thêm một con ghế để kế nhìn mưa nhỏ từ mấy giọt lá tranh lúc to lúc nhỏ, nghĩ ngày nào Nguyên ngồi đây, vai hai đứa chạm nhau, đôi khi muốn quàng tay ôm Nguyên thấy Nguyên im lặng lại thôi. Thịnh không quen bày tỏ tình cảm, Nguyên cũng vậy, ngồi với nhau im lặng nhiều hơn nói, từ hồi nào cả hai học chung đến mấy năm ra đi dạy, đều thế. Ngồi vậy mà nghe trong lòng dễ chịu, bữa nào lạnh Thịnh đưa tay cầm tay Nguyên thấy tay Nguyên ấm dần lên... Khi Nguyên bỏ chuyến bay đi California trốn tàu hoả về đây, Nguyên hẹn Thịnh tới, Thịnh tới ngồi cầm tay Nguyên hỏi buồn không, Nguyên nói buồn chi, ở lại với anh, chi buồn. Thịnh thấy Nguyên tội muốn có một cử chỉ tỏ ý biết ơn Nguyên nhưng rồi cũng chỉ ngồi cầm tay thế yên lặng. Nguyên bỏ gia đình vì Thịnh, nhưng lại bỏ Thịnh, bỏ luôn Huế vì lẽ khác...
Những ngày mưa ở Huế rất dài, sáng mở mắt ra đã thấy mờ mịt bên ngoài. Đi ra khỏi nhà, trưa về ngủ vùi một giấc tỉnh dậy, chiều đi ra, tối đi ra, lúc nào cũng thấy mờ mịt như thế. Mưa giăng giăng mịt mùng suốt từ tháng bảy qua tháng hai năm sau, mưa lụt rồi mưa phùn, mưa sập trời đất, nước kéo qua các phố, ẩm ướt, sụt sùi. Mưa như Khánh Ly hát làm người ta tuyệt vọng, chỉ muốn từ nay gục xuống. Thịnh ngồi nhìn mưa, thỉnh thoảng bỏ xe đi bộ ra quãng đường Lê Lợi ngược lên phía ga. Quãng đường đó nhiều cây me trồng hai bên. Ngày mưa phùn, trong tầng mưa lá me rụng là đà xiên lẫn như sợi nước, ẩm ướt, nhẹ tênh dính đầy trên tóc vai khách qua. Thịnh đi vì cái xúc cảm của Nguyên nhiều năm trước, Nguyên rùng mình khi qua cổng nhà số 5, chỗ đó Nguyên nói, ông nội Nguyên đã chết. Thịnh hình dung người đàn ông mặt gầy mang kính trắng ngồi sau cái bàn trong văn phòng thủ hiến, như thường ra mở cửa tiếp khách, vừa đưa tay bắt thì bị bắn vô ngực. Thịnh hình dung thế, Thịnh thấy ông ngã xuống ghế, chết ngồi, máu sũng vạt áo, kính trễ xuống mũi nhưng không rớt. Thịnh nói quên chuyện đó đi, chuyện từ thời nào mồ ma người khác, bây giờ hết chiến tranh, chúng ta đã ở vào thời đại khác, chuyện đó đến ba Nguyên cũng không chứng kiến huống chi Nguyên. Nguyên gạt mấy lá me, ừ, đâu
https://thuviensach.vn
có nghĩ, nhưng có cái gì vô lý thỉnh thoảng làm mình nhớ tới hình ảnh thực ra mình không biết. Nhiều năm sau, đi một mình qua quãng đó, Thịnh không cưỡng được ham muốn bước vào ngôi nhà kia, tìm đến căn phòng có cửa sổ trông ra sân, ngồi vào cái ghế ông nội Nguyên đã ngồi, thử bước ra mở cửa, thử cảm giác viên đạn phóng tới ngực... Thịnh chỉ ham muốn nhưng không lần nào lọt được vào cổng số 5, đó đã thành một nhà bảo tàng nhưng mấy năm liền người ta chăng bạt sửa chữa, không đón khách. Rồi Thịnh cứ đi qua đi qua, không gì hơn ngoài thả một tiếng thở dài.
Thịnh nhớ người đàn ông gầy ốm buồn rầu trong khung kính nhà Nguyên. Ông là nhân viên văn phòng. Nhân viên văn phòng thì có giữ bí mật gì ghê gớm không, có nợ máu không,... Thịnh không biết, song cái chết của ông để lại mối hận thù nơi người con trai, tức ba Nguyên, thì Thịnh biết. Nhiều năm trước, giỗ nào của ông nội Nguyên cũng gọi Thịnh sang. Lần đó Thịnh sang, gặp lúc ba Nguyên từ trại cải tạo về tới, lầm lì, mắt ngun ngút một nỗi tàn khốc. Ông làm hồ sơ đi H.O. đợt đầu tiên. Ngày sắp đi, ông gặp Thịnh bảo, anh tha con bé đi, về gia cảnh, không hợp, anh không lo nổi cho nó miếng ăn, vậy đừng nghĩ tới nó. Thịnh đạp xe về Phú Cam nằm, nghĩ mình cũng hận thù người đàn ông đó đi, nhưng không được, Thịnh chỉ thấy lòng trống rỗng. Sự giàu sang quý tộc của nhà Nguyên ngày nào Thịnh chưa từng thấy, những đồ gia bảo đã lần lượt ra đi, khi quen nhau Thịnh đã chứng kiến việc mạ Nguyên ngồi chợ Đông Ba, Nguyên đi bỏ mối thuốc lá. Tấm áo dài cũng nhịn không dám may. Vài lần lui tới, Thịnh thành người đàn ông duy nhất trong ngôi nhà toàn đàn bà con gái, tự nhiên xắn áo bổ củi, xách nước hay dọi lại mái nhà dột. Khi ấy, ông trung tá không lực ở đâu...
Thịnh không thôi Nguyên như cách ông trung tá muốn, nhưng cuối cùng Thịnh cũng không có được Nguyên.
*
* *
https://thuviensach.vn
Một bữa cuối năm, trời rất lạnh, gió bấc hun hút qua mặt sông Hương thổi vào thành phố, Thịnh chạy xe dưới chợ Nọ lên, mặt tê tái vì gió, vì một nỗi buồn bã như mắc nghiện đã ôm trùm lấy Thịnh những buổi chiều ngưng giảng nhìn đám học trò ríu rít túa ra đường. Dù cô em ban trưa dặn hôm nay về sớm nhà có giỗ thì quen lối Thịnh vẫn rẽ vào Hạ Trắng. Buổi nhập nhọa quán có mình Thịnh, nhà quán nhẵn mặt không còn để ý, quen tay ấn một đĩa Khánh Ly rồi chừng nào Thịnh ngồi hay đi ra không cần. Nhưng bữa nay ngoài Thịnh thêm một người nữa, một người Tây lạ lẫm, đã phong sương hay đau đớn vì những sầu muộn đọng trên nét mặt. Người Tây ngồi y Thịnh, một mình ngổn ngang ghế, tách cà phê nguội ngắt, mẩu thuốc tàn và mắt nhìn mung lung ngoài kia. Thịnh bỗng chạnh lòng, bắt chuyện không tiện, Thịnh bèn ngồi, coi cái sự ngồi của mình như một sẻ chia. Thịnh sắp đứng lên thì chính người kia bỏ chòi sang chỗ Thịnh.
Thịnh không ngờ gặp thêm một nhân chứng của nhà số 5, có điều chuyện của người này lùi cách hai chục năm so với cái chết của ông nội Nguyên.
- Tôi là William Dubin, người Mỹ. Tôi đến Việt Nam lần này có ý tìm một người quen.
Ông ta giới thiệu, tự nhiên như đã quen thân lâu lắm, làm cử chỉ tỏ ý xin điếu thuốc từ gói của Thịnh, rồi nói bằng một thứ tiếng Anh chuẩn xác, thỉnh thoảng xen đôi câu tiếng Việt.
- Năm 1967, tôi ba mươi tuổi, lần đầu tiên đến Việt Nam trong một nhóm nghiên cứu về môi trường. Gọi là nghiên cứu môi trường, song thực chất tôi là người của Bộ Quốc phòng Mỹ, vì kết quả nghiên cứu của chúng tôi sẽ làm ra những cơn mưa nhân tạo trút xuống những miền rừng Việt Nam nhằm ngăn chặn bước tiến của quân Cộng sản. Từ Sài Gòn tôi bay ra Huế chơi. Ở Morin tôi kết thân với vài người bạn. Chúng tôi la cà ở các bar rượu, đánh bạc và cặp với rất nhiều vũ nữ. Một trong các vũ nữ ấy là cô Bé. Tôi thích cô, vì cô giữ cái tên quê mùa trong khi những người khác mang
https://thuviensach.vn
những cái tên rất mỹ miều. Nhưng cũng là thích như một đồ chơi. Nhiều đêm khuya, khi đã uống rất say, chúng tôi thường bắt cô nhảy và hát, hát cho thật vui và nhảy sao để chúng tôi phải cười lên được. Tôi không biết bản chất mình có độc ác hay không, nhưng bấy giờ đang giữa thời binh lửa, tôi có thể an toàn hơn vì thời gian của tôi chủ yếu ở các văn phòng, giảng đường và phòng thí nghiệm, còn những gã bạn khác, một vài ngày tới chúng sẽ phải rời thành phố và số phận chúng ra sao có trời mà biết được...
Tôi không biết tại sao tôi lại không rời Huế như dự định, nghĩa là trước dịp Tết Mậu Thân. Thành ra tôi đã chứng kiến toàn bộ sự biến thảm khốc của thành phố hồi mùa xuân đó... - William nói. Và Thịnh, bỗng dưng thấy hiện lên trong tâm dấu ấn của cái thời khắc anh trải qua hồi thơ ấu.
Súng nổ vào đêm mồng một Tết, lúc trời sắp trở sáng. Cả thành phố im lìm trong cơn thiếp ngủ choàng thức bởi ba bề súng, súng rền phía Mang Cá. Phú Bài, trên cầu mới, ở mọi điểm trong phố phường. Mạ dựng Thịnh dậy, mặc cho cậu con giãy đạp, mạ xù lên như một con mèo cái tha hai đứa con chạy vào nhà thờ Phú Cam, rồi ngay ngày hôm sau tiếp tục tha con chạy khỏi Phú Cam, nhào về Vỹ Dạ, từ đó qua Phú Vang, vòng sang Tây Linh, hơn tháng sau trở lại ngôi nhà cũ trong nỗi tơi tả và sợ hãi. Bằng cách đó mạ Thịnh đã cứu được hai đứa con nhỏ, nhưng người cha và người anh lớn thì bà không cứu được.
- Vậy ông thoát khỏi thành phố này bằng cách nào? - Thịnh hỏi.
- Tôi đâu có thoát. Tôi bị vây trong Morin cùng với Bé. Bé là người Việt, còn tôi là người Mỹ. “Anh tìm cách chạy trốn đi, nếu không anh sẽ bị họ bắn chết, hoặc là bị bắt. Còn tôi, tôi đi đây. Bây giờ thì tôi đổi đời rồi, nếu anh không bắn tôi ngay thì lập tức tôi sẽ dẫn họ đến bắt anh. Tôi căm thù anh. Tôi khinh bỉ anh”. Cô ta nói, bằng một giọng hả hê, đôi mắt nhìn cũng hả hê như thế, rồi bỏ đi.
https://thuviensach.vn
Tôi cũng đã gắng ra khỏi khách sạn, tìm một sự chi viện nào đó, nhưng gần như lập tức tôi bị bắt. Khi đó trời đã sáng rõ và những cuộc đọ súng có vẻ ngày càng căng thẳng hơn. Quân giải phóng đã chiếm một số cứ điểm dọc theo đường Tulle Perry, như tòa đại biểu Trung phần, trường Quốc học, dinh Tỉnh trưởng... từ đó họ tiến đánh ga Huế và nhà lao Thừa Phủ. Trong đêm sau, họ giải phóng được Thừa Phủ, song ga tàu hỏa vẫn thuộc về quân Cộng hòa cho đến ngày quân Mỹ từ Đà Nẵng và Quảng Trị chi viện lấy lại Huế.
Tôi bị giam ở Quốc học, sau đó bị giải đến nhà số 5 Julle Perry, trụ sở đại biểu Trung phần. Có hai ông cố đạo người Pháp ở Dòng Cứu Thế cũng bị giam chung với tôi, nhưng họ được thả sau vài ngày. Còn lại mình tôi trong căn phòng nhỏ ở sâu trong tòa nhà, căn phòng rất trống, không bàn ghế, chăn nệm. Hằng đêm, tôi nằm còng queo trên sàn nhà, đắp một mảnh vải bạt mỏng. Trong các cuộc thẩm vấn tôi khai tôi là nhà khoa học, rằng ngoài vấn đề môi trường tôi không biết gì khác. Không tin tôi, nhưng những người chỉ huy không thèm hỏi tôi nữa, họ mặc kệ tôi. Thế là tôi cứ còng queo ở đó, ngày nhận hai bữa ăn, khi bánh chưng, lương khô hay cơm nắm, ngẫm nghĩ về quá khứ, về cô Bé cùng nỗi hả hê trước khi bỏ đi, nghe súng đì đùng và đành phó mặc cho số phận. Nhưng cũng có những ngày đêm thành phố thật yên tĩnh, giống như hòa bình đã đến ở ngoài kia thật rồi, như cơn ác mộng cho xứ sở này đã chấm dứt. Chỉ có tôi, không biết kết cục với mình sẽ là thế nào đây...
Thời gian chậm chạp trôi đi. Hai mươi mốt ngày kể từ khi tôi bị bắt. Sáng nọ, đích thân người chỉ huy mở cửa cho tôi. Ông ta, một con người tầm thước chừng ngoài bốn mươi, nói giọng Huế chuẩn, chất giọng chậm rãi và hơi chút gì muộn phiền... “Từ giờ phút này anh được tự do - Ông ta nói - Anh cứ ra khỏi cổng rồi đi đâu tùy ý, miễn rằng - ông nhắc thêm - đừng làm gì chống lại chúng tôi, vì dẫu có chống lại thì chúng tôi cũng thắng”. “Nhưng tôi không muốn đi” - tôi nói. Tôi đã không chờ tự do theo kiểu này. Nghe tiếng súng, tôi biết ngoài phố lại đang chiến sự và có lẽ
https://thuviensach.vn
người Mỹ đã bắt đầu muốn chiếm lại Huế. “Đi đi, ngài cố vấn - người chỉ huy nhìn tôi - chúng tôi đã không bắn ông thì bây giờ cũng không bắn. Chiến hữu của ông ở ga tàu đang kiểm soát đoạn đường phía trước chắc là không nhằm vào ông rồi. Ông cầm lấy cái này mà liên lạc với họ”. Ông ta đưa tôi một cái khăn tay. Thì vậy, tôi đành ra đi, tôi được tự do từ giờ phút này, thì tôi cần phải đi chứ. Tôi vẫy chiếc khăn trắng cao trên đầu, từ từ bước khỏi tòa nhà, tiến ra phía cổng. Tôi là người Mỹ, Chúa ạ, những người lính đang ẩn nấp đâu đó phía ga tàu hẳn nhận ra tôi. Này bước đi, một, hai, ba... Nhưng mọi sự đều nằm ngoài ý niệm của tôi, khi tôi lồ lộ ngoài đường, thì trong yên ắng của buổi mai, một phát súng duy nhất, một phát súng gọn ghẽ đã vang lên. Tôi không nghe thấy, nhưng tôi biết mình đang ngã xuống...
Ngã xuống ư, một ngôn từ hợp lý để diễn tả những cảnh nằm xuống trong chiến tranh, nằm xuống trên mặt đường, dưới bầu trời mưa rộng rãi, từng hạt li ti dịu ngọt nhưng sẽ thật buồn. Người ta thế nào lúc đó? Hẳn rằng người ta cô đơn, vì dẫu cho có nằm xuống một mình thì vẫn cô đơn xiết bao. Thịnh mơ hồ theo đuổi những ý nghĩ, đầu óc anh trôi dạt về ngày mưa phùn năm 1968 đó. Anh nhớ anh chạy đi dưới nách mạ, không sợ chết, thấy mệt quá chừng đi. Này mạ ơi, cho con nằm một chút, rồi con sẽ tỉnh dậy, rồi mạ bảo đi đâu con cũng đi, Thịnh rên rỉ. Mạ không nói không rằng, cứ xốc Thịnh lên, không cho dừng lại huống chi còn nằm xuống. Về sau khi ba mạ con trở lại xóm đạo sau lưng Phú Cam, nghe nói người cha và anh cả trốn vào nhà thờ, ở lại trong đó với nhiều người khác. Thịnh hình dung họ xếp hàng nằm trên sàn phòng nguyện, thứ tự lần lượt người này đến người nọ, mắt nhắm cho thật chặt, dù bên ngoài súng nổ thì bên trong thành quách chuông vẫn rền vang. Họ nằm đó và không về nữa. Mạ Thịnh sấp xuống nền đất ẩm ướt của khu vườn chôn nhau cắt rốn, gào lên, như dồn tỏa đau thương muôn ngàn kiếp đầu thai lại trong bà. Nguyên, nhiều năm sau lên chơi gặp bữa mạ Thịnh lên cơn, cứ quỳ xuống mà khóc, cháu có tội, cháu phải làm gì, làm gì... Nguyên không nói gia đình Nguyên đã ở đâu hồi Tết đó, nhưng Thịnh biết ba Nguyên, sĩ quan không lực, đã bay
https://thuviensach.vn
giội napan xuống những cánh rừng miền Tây để trả thù cho thành phố bị tấn công hồi Tết.
Cảnh tàn sát những cánh rừng miền Tây bằng B52, napan và chất diệt cỏ, Thịnh nghe từ chính chị Duyên. Vào hồi Thịnh là bé con, chị Duyên đã lớn, kiều diễm lộng lẫy như một nhan sắc lạc lõng nơi xóm đạo đàn bà con gái đời này qua đời khác không biết gì ngoài chằm nón, những lưng còng mặt cúi như định mệnh. Sau dịp Tết Mậu Thân, chị bỏ thành phố lên rừng theo quân Giải phóng. Nhưng đời sống chừng nào cũng phi lý, chị nói, chị muốn trở về thành phố với một tư thế khác, cần ngẩng đầu lên, nào hay những cuộc chạy, chạy bom đạn, chạy biệt kích ở trong rừng đã làm chị không đủ sức để chịu đựng. Lần này bỏ rừng chị không bao giờ còn dám nghĩ tới đổi thay nữa. Quên đi nhan sắc, quên đi giấc mơ kiêu hãnh, chị ngồi xuống bên cái khung nón, ngày qua ngày đâm kim kéo chỉ lên nỗi lòng, để lòng càng lúc càng câm nín đi...
Nhưng người con gái đó, chị Bé nào đó đã đi đâu về đâu trong tháng ngày kia. Thịnh bất chợt rùng mình.
- Tôi có nghĩ về cô ta, nhưng không nhiều lắm nếu tôi không gặp lại cô ta. Một tình huống oái oăm. - William kể tiếp. - Vào khi tôi đã nằm trên mặt đường, tôi nghĩ tôi sẽ chết, mọi sự sẽ kết thúc tại đây, không vinh quang song cũng chẳng bi đát cho lắm. Nhưng bỗng dưng tôi thấy có bóng người lọt khỏi cánh cổng tôi vừa đi ra ban nãy, chạy về phía tôi. Tôi cảm thấy cả những luồng đạn líu ríu bay từ đâu đó nữa. Một người thật, một người con gái quỳ bên cạnh tôi, bàn tay mềm giống không phải sự thật, vuốt lên gương mặt tôi, này William, anh nhận ra tôi không, tôi là Bé, cô Bé cave, cô ta nói, tôi đến để băng vết thương cho anh đây... Trong cơn mơ màng của cái chết đang đến gần, tôi thấy gương mặt dịu dàng của cô ở trong vành mũ, đôi mắt rộng lớn có những tia sáng ấm áp. Trong bầu trời mưa còn bay và những chấm lá nhỏ theo mưa rơi xuống trên mặt tôi. Ngần
https://thuviensach.vn
ấy thời gian của cuộc đời, tôi chưa từng có buổi sáng nào tuyệt đẹp như thế...
- Sau đó thì sao? - Thịnh hỏi.
- Sau đó ra sao tôi không biết. Tôi tỉnh dậy ở trong bệnh viện. Người ta nói quân Giải phóng đã rút sạch rồi. Mổ vết thương xong, còn nằm nguyên trên băng ca, tôi bay về Mỹ...
*
* *
Mất khá nhiều thời gian Thịnh mới tìm được người chỉ huy cánh quân giải phóng ở bờ Nam sông Hương hồi mùa xuân 1968. Bấy giờ ông đã lên cấp tướng và đã về hưu. Cũng mất nhiều thời gian nữa Thịnh mới gợi ông nhớ lại hình ảnh ngôi nhà Đại biểu Trung Phần số 5 đường Julle Ferry.
- Chúng tôi là những người cuối cùng rút khỏi thành phố, - ông ta nói, - song chúng tôi đã bị thiệt hại rất nhiều.
Thịnh hỏi ông ta về người con gái tên Bé, một trong số bao nhiêu người Huế đã theo quân Giải phóng năm đó. Ông trầm ngâm, rồi cũng nhớ được. Quả cũng có một nữ cứu thương mang cái tên như thế. “Nhưng cô ta chết rồi, chết vào buổi cuối cùng trước khi rời bỏ thành phố. Cô ta muốn cứu một thằng Mỹ. Tôi bảo, mặc kệ hắn đi, chúng ta đâu có bắn hắn, chiến hữu của hắn bắn hắn đấy chứ, nhưng cô ta cứ đi. Và bọn lính ở ga tàu hỏa đã không bỏ lỡ cơ hội...”. Giọng ông ta đều đặn, chậm rãi, thứ giọng William nói, hơi có chút gì muộn phiền. Mà muộn phiền thật không, những câu chuyện, những phận người đã như lá bay qua, ở xứ sở lịch sử có quá nhiều đau thương này...
Rời nhà ông già, Thịnh đi bộ qua thành phố, về ngang Hạ Trắng. Dẫu khuya muộn quán vẫn chưa đóng cửa, trong im lìm, trong bao nhiêu mùi
https://thuviensach.vn
ngai ngái quen thuộc, trong một trạng thái ơ hờ không vồ vập mà chẳng bỏ lơi, Khánh Ly vẫn hát như nhiều năm về trước, như năm nào Nguyên còn ngồi đây vai khẽ chạm vào Thịnh, im lặng thôi nhưng sao dịu dàng thế, Người đã đến và người sẽ về bên kia núi, từng câu nói và từng tiếng cười... Thịnh lặng đi, ồ người này, sao cứ ca hát không mỏi mệt về phận người. Còn lại gì, còn như lá kia bay đi... Thì sao Thịnh không thể coi chuyện đó như không, để gọi Nguyên về, giữa Huế, giữa những ngày không vui sướng gì mà thương xót bao nhiêu.
Thôi, sớm mai Thịnh sẽ về Nong, về gặp Nguyên và nói rằng, thôi Nguyên, vậy, đời chúng mình cũng đã buồn lắm rồi.
https://thuviensach.vn
BẾN ĐỢI
Nhiều Tác Giả
www.dtv-ebook.com
Mùa Cá - Trần Thanh Hà
Năm ấy, đến độ tế thần Đầm trời vẫn còn rét đậm. Theo trí nhớ của Đăm, thì chưa năm nào đến giữa tháng ba mà còn giá thế. Sáng ra nhìn bên ngoài hơi giá bốc từ mặt đầm lên mù mịt, không thấy mặt trời, chừng trưa hơi hửng nắng, mới cảm thấy ấm đã sập lại, đêm càng rét dữ. Vạn chài đã kéo về nấp ven chân núi, người ta chỉ đi loanh quanh bờ kiếm chút cá tôm, không ra chài cả vạn nữa từ lâu. Nhưng đến lễ tế thần Đầm, thì lại kéo nhau ra ngoài vụng tế lễ. Mỗi khẩu mấy nghìn bạc, ngày thường đỡ nhau, nhưng lễ tế ai cũng muốn đóng góp công bằng, không xin không nợ ai. Nhà Đăm có Đăm và mẹ già, mẹ ốm đã ba năm, Đăm có bao nhiêu thuốc thang hết cho mẹ bấy nhiêu, kiệt lực phải vay trùm vạn một suất. Mẹ Đăm giữa chừng cơn ho gượng dậy được, hỏi Đăm có dành đủ tiền lễ xong lên bờ bắt vợ không. Mẹ Đăm biết gần đất xa trời, chỉ muốn Đăm mau lấy được vợ. Trai như Đăm, ngót hai lăm, ở vạn này có một. Chăm chỉ, nhưng mà thật thà quá, con gái vạn hiếm hoi chẳng nhìn đến, lẽ thường đã phải lên bờ tìm vợ từ lâu, nhưng ngặt nỗi mẹ ốm Đăm lần khân mãi. Gái vạn chài đã không, lên những vùng ven đầm, rập rình vài phiên chợ, có con gái nhà nào nghèo quá, hay sơ sểnh không cha không mẹ, may người ta thuận lòng về theo cùng. Đăm nói còn tiền, tế xong theo anh em trai vạn lên chợ phiên. Đăm nói thế, nhưng mà biết năm nay mình cũng không thể nào theo được anh em, rồi sang năm, sang năm nữa, không biết đến bao giờ... Đăm sinh ra đã lênh đênh mặt nước, theo cha mẹ sống bám lấy nước, rong ruổi qua nhiều miền sông nước, đến lúc nhập được vào các vạn chài vùng phá Tam Giang này thì cha chết. Đăm chín tuổi, lui cui thuyền nóp, đã biết chèo mủng câu cá tôm, lớn mười hai mười ba biết cùng trai tráng quăng chài, xuân hạ thu đông, chỉ biết có mặt đầm mà không mấy khi đặt chân lên đất.
https://thuviensach.vn
Ai còn có tuổi nào vui chơi, Đăm thì không, nhỏ lớn đều làm lụng đơn độc, không biết tình yêu, chưa chạm tay một cô gái, nhưng biết mong mỏi đời sống chồng vợ, chồng đầu tắt mặt tối, rời tấm lưới cung câu ngóng lên thuyền thấy vợ thổi nấu đầu mui, đàn con lít nhít sàn thuyền. Nhưng chưa biết chừng mẹ chết, Đăm rồi ra cô độc suốt đời.
Đăm không quen nghĩ, mẹ giục chuyện nhạy cảm buồn mất một lúc rồi kệ, không buồn nữa. Lễ tế, khi vạn chài đốt vàng hương rắc lễ cho thần Đầm, Đăm hò reo dữ nhất. Giá lạnh mà chàng ta chỉ quấn khố, phơi tấm thân trùi trũi đen bóng, hết lễ cúng lao đầu xuống nước mong được ăn lộc thần theo như giai thoại truyền nhau qua bao thế hệ dân chài. Trẻ tráng thấy Đăm nhộn, cười, đám ông bà già, đám con gái cười, nhìn Đăm như con nít ăn chưa no lo chưa tới. Đăm lội quẫy một lúc, đến vãn hết thuyền mới ngoi lên, thay cái khố, tự cời bếp than, tự nướng vỉ cá, sắc cho mẹ ấm thuốc, chưa ngủ đẫy giấc đã bừng mắt nghe sấm chớp rồi mưa nặng hạt như đã giữa vụ hè. Vạn chài tưng bừng, trời có sự lạ, thể nào cũng báo được mùa cá tới. Đàn bà mang lu chậu hứng nước, đám đàn ông tụ quanh mấy thuyền, rủ nhau uống rượu, uống xong say khật khưỡng hò mấy câu giọng líu cả lại. Đăm cũng vần hai cái lu hứng ít nước ngọt, ngồi nhìn những giọt mưa nhỏ từ mái nóp, rồi bươn bả lấy thúng đi. “Không ngủ còn đi con?” - người mẹ đau ốm cố hỏi thì thào. “Đi bữa nay, may ra được con cá lớn.” - Đăm nói. Nhiều năm rồi đêm nào sau lễ tế Đầm, Đăm cũng đi. Giấc mơ được con cá chủ đầm biết phù hộ cho kẻ nào diện kiến nó ăn vào trí chàng trai quá lứa vạn chài. Người mẹ không dám nói, đó chỉ là câu chuyện bà thêu dệt kể cho con trai nghe như một nỗi hy vọng mơ hồ trong cuộc sống lênh đênh cơ cực. Tiếng thở dài của bà nghẹn trong cơn hen đã dâng tận cổ, nước mắt đẫm gò má hõm đứa con không thấy. Tiếng dầm của Đăm đã khua ngoài xa. Lẫn trong tiếng giọt mưa có tiếng ai đó hò não nuột, một cái đầu ló ra khỏi một mui thuyền, hỏi trong màn mưa mù mịt: “Ai?” - “Tui Đăm.” - “Lại đi kiếm con cá chủ à Đăm?" - “Đi chớ, năm này tui không gặp nó thì không năm nào tui được gặp nó.” Đăm nói câu đó, như dăm năm trước
https://thuviensach.vn
Đăm đã nói, không phải ở vạn Thọ Xuân mà ở vạn trên, khi hai mẹ con còn ở trên đó.
*
* *
Chuyện Đăm đi tìm con cá chủ đêm lễ tế không nói ai cũng biết. Chuyện Đăm về sớm hôm sau không phải với con cá mà với một xác người bã bượi còn loang nhanh hơn. Tin chiếc tàu lạ tránh vùng biển xoáy vào ven đầm bị chìm đã có người đưa trước khi Đăm về, cả đêm vạn chài nín thở cầu khẩn thần Phật. Vừa cúng thần Đầm ban trưa, đêm đã có vật sống dâng thần, chuyện xưa nay hiếm, dù là chuyện may mắn nhưng cả vạn thấp thỏm. Âu lẽ trời định thế, vạn chỉ cố chờ cho cuộc tế mạng được đủ đầy. Thế mà sớm nay Đăm về với một cái xác, xác con gái, dù xống áo rách nát cũng biết rõ người thành phố, mà nhất định người từ cái tàu trang trí diêm dúa bị đắm hồi đêm. “Bỏ xuống đi Đăm. Mạ lạy con! Con sống trên đầm đã biết tục vạn chài. Người có mỗi miếng ăn con không được tranh mất miếng của Người!”. Mạ Đăm ráo hoảnh, quên cơn đau đớn sợ hãi nhìn con trai. Vạn chài nổi giận, tiếng thanh la inh ỏi, dăm đàn ông bắp thịt cuồn cuộn đã rút chuôi dao đằng đằng sát khí. Cả vạn vây lấy con thuyền nhỏ của Đăm. Người đàn bà còn nằm vắt ngang, tóc xõa ra, vừa được Đăm trùm cho chiếc chăn dạ rách. Không phải người sống, cô ta chỉ là cái xác chết.
Mày tính sao Đăm? Đăm ngửa mặt ngơ ngác. Tế nó luôn! Vài cánh tay đã vung dao sáng loáng. Tế nó! Những tiếng hưởng ứng trầm trầm. Người mẹ Đăm như con ve khô, hết gập về phía Đăm lại gập lạy đám trai vạn chài đang phẫn nộ. Người ta đang sắp sửa nhảy sang thuyền Đăm. Con thuyền nhỏ chòng chành hoảng lên giữa hàng chục ánh mắt hằn thù. Tính sao bác trùm? Ai đó hỏi trùm vạn. Im lặng. Tính sao bác trùm? Giọng hỏi đã mất kiên nhẫn. Ông Vĩnh, trùm vạn Thọ Xuân đứng đầu con thuyền lớn nhất, áo the đã buông xuống tự bao giờ, tiếng vỡ ra: “Anh em! Chúng ta tứ xứ vì thương yêu nhau mà kết thành vạn, không ai quê hương bản quán ở
https://thuviensach.vn
đây. Nhưng đầm cho chúng ta cái ăn cái mặc, đầm nuôi sống chúng ta, nên đầm phá là cha là mẹ là quê hương của ta. Năm nào ta cũng tế lễ thần Đầm, năm đói lễ nhỏ năm no lễ to, mỗi ngày ăn ngủ ta đều cầu khẩn thần. Thần không thể không thấu lòng thành của anh em ta. Lệ vạn chài ta, cái gì trời cho thần cái đó thuộc về thần, không ai được tranh cướp. Ta không tranh cướp cái gì của thần. Kẻ nào làm việc đó tự nó sẽ chịu phạt. Ta không nên gây thêm thù oán. Đầm này rộng lớn, ở vụng này không xong ta tìm vụng khác. Thần Đầm chở che anh em, không cớ gì phải sợ...”. Trùm Vĩnh chưa nói xong, đã vang tiếng rút neo loạt soạt. Rồi đồng loạt thuyền trước thuyền sau, không ai tiếc thương, trong chưa đầy mấy mươi phút, cả vạn chài đầm ấm quây quần không còn dấu vết, chỉ còn trơ lại thuyền nhà Đăm với trời nước.
Đăm cứu được cô gái nhưng không giữ được người mẹ. Mấy hôm sau người mẹ lên cơn hen, lịm dần rồi không tỉnh lại nữa. Đăm mặc cho mẹ bộ quần áo lành duy nhất còn lại trong thuyền, cõng xác mẹ lên bờ, suốt một đêm rét buốt loay hoay mới đắp được nấm mộ, trồng hòn đá làm dấu, không cả hương để đốt, quỳ vái mẹ ba vái, rồi xuống thuyền. Đăm cũng nhổ neo đi, từ đó không nhập vạn chài nào nữa, lênh đênh trên mặt đầm phá một mình, khi đi về tây khi dạt sang đông, đêm hay sáng cũng lênh đênh như thế, chỉ lên bờ đổi lương thực, quần áo và nước ngọt. Cũng từ đó, không còn tìm đâu thấy chàng Đăm vui cười, chỉ còn gã trai lầm lì mắt tối sầm nỗi buồn lúi húi chài lưới, buồn quá cất dăm câu hò ngớ ngẩn không ra đầu không ra cuối.
Người con gái Đăm cứu từ chiếc thuyền đắm tên Vân. Những năm giữa thế kỷ trước Vân nổi tiếng hoa khôi ở Đồng Khánh, cũng nổi tiếng bởi mối tình với chàng công tử con một nhà quan ở Huế. Người con gái thanh xuân vừa mơ giấc mơ hạnh phúc, không ngờ bị tình phụ. Để tránh tai tiếng cho con gái, gia đình tìm cách gả cô cho một nhà giàu đứng tuổi mãi tận xứ Tư Hiền. Chiếu hoa trải đỏ rực từ thềm xuống bến, thuyền hoa dập dình hai ngày hai đêm suốt mạn sông Hương, đàn sáo inh ỏi, mà mặt cô dâu buồn
https://thuviensach.vn
như đưa đám. Mối tình đầu chưa dứt cho đến ngày cô lấy chồng, cái mầm sống bé xíu đang từng giờ đòi lớn ở trong cô. Nhà giàu còn muốn loanh quanh trăng mật trên đầm nước, bất kể gương mặt buồn cô dâu, bất kể trời trở sụt sùi, chỉ không lường cái tai nạn bất đồ đúng vào đêm dân các vạn chài Tam Giang tế thần Đầm của họ.
“Cô về đâu tôi đưa cô về?”. Đăm mở miệng hỏi khi cô gái đã khỏe lại. Lắc đầu. Đăm lại nhổ neo đi. Không chỗ nào thuyền dừng đủ ba ngày. Sau một tháng đã xa vùng cửa Tư Hiền không biết bao nhiêu mà kể. Sau ba tháng, bụng cô gái đã nhô lên khỏi lần áo. Năm tháng đi đứng đã khó khăn. Tháng thứ tám chỉ còn nằm một chỗ. Một mình Đăm kiếm cá đổi gạo, một mình Đăm nấu nướng giặt giũ. Mà tên cô Đăm cũng không hỏi. Những ngày cuối khi biết cô gái sắp sinh đẻ, Đăm lân la một vạn chài nhỏ, đem những thứ đổi được trên bờ biếu cho bà mụ. “Vợ tui - Đăm nói - nó sắp đẻ. Trăm sự nhờ mụ.” "Từ lúc nó chớm đau đến lúc đẻ, mất hàng buổi, cứ làm lụng đi, lúc nào nó đau dữ tới gọi". Bà mụ dặn. Nhưng lúc cô đau, bà mụ đi mất lên chợ chưa về, thế là người trai chưa một lần gần gũi đàn bà là Đăm đành làm thay phần việc của bà mụ.
Đêm hôm trước ngày thằng bé chẵn tháng, Đăm nói với mẹ nó: “Ngày mai tôi tế nó”. Đăm không hiểu cái từ tế Đăm nói gây nên một nỗi kinh hoàng trong lòng người mẹ. Ngày chẵn tháng thằng bé, Đăm đồ một liễn xôi, sắm ít vàng hương, anh lập một ban thờ ngay đầu mui thuyền sắp lễ cúng. Thắp hương khấn vái xong, anh bế thằng bé đưa ra mạn thuyền, chưa kịp một tiếng kêu, chỉ nghe bõm, thằng bé đã như hòn sỏi chìm nghỉm dưới nước. Người mẹ trẻ thét một tiếng lớn, ngất lịm.
Đứa bé không chết, người mẹ không chết. Người vớt họ lên khỏi đầm nước lại chính là Đăm. Nhưng vài hôm sau, giữa một đêm Đăm ngủ thì người mẹ bỏ con vào chiếc mủng nhỏ chèo đi.
*
https://thuviensach.vn
* *
Thầy giáo Nghĩa, người đã nhiều năm lặn lội dạy chữ cho trẻ em các vạn chài trên phá Tam Giang rủ tôi ra đầm câu cá vào một đêm tối trời. Tôi làm báo, theo nhóm của Mặt trận Tổ quốc huyện đi vận động định cư trong khối vạn chài, tình cờ gặp Nghĩa khi anh đang dạy một lớp học ở vạn Thọ Xuân mấy năm trước. Bây giờ dân vạn Thọ Xuân đã lên bờ lập xóm, người vạn chài đã có nhà cửa, biết sống vệ sinh, con cái đến trường học. Dân chài bỏ cuộc sống lênh đênh được hướng dẫn cách nuôi trồng thủy sản, đã đổi được đời, chưa giàu nhưng có của ăn của để. Nhưng trên phá Tam Giang còn nhiều vạn chưa làm được như Thọ Xuân. Nên Nghĩa còn lặn lội. Khi bên này lúc bên kia phá, Nghĩa không ngừng những lớp học di động, chừng nào vạn chài chưa hết người thất học. Trong khi ngồi chờ cá, nhìn ra xa phía cửa Tư Hiền thấy những đốm sáng của thuyền chài ngoài cửa biển, trên mặt đầm lâu lâu lóe lên ánh lửa của nóp canh tôm, Nghĩa kể tôi nghe chuyện này. Anh nói: "Đêm đó, mẹ tôi chèo mủng đi cả đêm, đến sớm hôm sau nhìn lại con thuyền cũ đã mất hút. Mẹ nhịn hai ngày mới gặp được người cho ăn. Rồi cứ đoán định phương hướng mà đi. Mẹ muốn đưa tôi trở lại thành phố. Trên đường mẹ tình cờ thấy người ta làm lễ chẵn tháng cho một đứa bé trai, cũng cái lễ như cha tôi đã làm với tôi. Đứa trẻ trai đầy tháng sinh ra trên đầm phải là con cái của đầm, nó cần có một cuộc tiếp xúc với đầm nước vào cái ngày đủ tuần trăng. Tục lệ muôn đời trên đầm phá này là thế. Cha tôi muốn tôi là con của Người, nên đã hành lễ cho tôi theo tục của dân vạn chài. Nhưng mẹ tôi lại hiểu lầm.
Hôm sau, trông dáng núi mẹ tìm về hướng neo thuyền bữa trước, nhưng đi loanh quanh một tháng trong vùng đầm, người trai tên Đăm vẫn bặt vô âm tín. Mẹ tôi mang tôi lên bờ, tá túc một gia đình ở ven đầm, cũng cố đến mấy năm tìm kiếm mà không thấy tăm tích người cũ, mẹ mới mang tôi trở lên Huế. Năm tôi tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, mẹ mới cho tôi biết gốc gác của mình. Theo nguyện vọng của mẹ, tôi trở lại vùng đầm. Tôi chọn công việc dạy học cho các vạn chài còn có mục đích là tìm lại cha tôi.
https://thuviensach.vn
Tôi làm công việc này từ hồi còn chiến tranh. Nhưng ngày đó không ai chịu học. Bây giờ thì trẻ con người lớn đều muốn học. Nhưng để thay đổi cuộc sống của người vạn chài thì không phải ngày một ngày hai mà được. Nhưng bây giờ chính quyền, mặt trận... đã vào cuộc. Tôi tin chả mấy chốc nữa, các vạn chài đều có cuộc sống tốt như vạn Thọ Xuân". - Nghĩa nói. Nhưng tôi quan tâm đến câu chuyện đời của anh. Tôi hỏi: "Anh có tìm được ông Đăm không?" Nghĩa trầm ngâm, một lúc mới nói: "Có, tôi tìm được cha tôi. Nhưng tôi chậm chân. Năm 1968, cha tôi giấu một người trong thuyền. Bị lính cộng hòa lục soát. Cha tôi cứu được người kia, nhưng ông thì bị lính bắn chết". Rồi anh cười: "Đó, cái ông chủ tịch mặt trận dắt anh đi viết bài đó, là cái người cha tôi đã cứu. Sau giải phóng, chuyện tôi tìm cha đã loang khắp vùng đầm, đám trẻ tôi dạy học đem câu chuyện của tôi kể cho khắp lượt, rồi chúng thay tôi dò hỏi tin tức cha tôi. Ban đầu có người cũ ở vạn Thọ Xuân tìm tôi, họ cho tôi biết phần đầu của câu chuyện, rồi thì chính ông chủ tịch mặt trận đi tìm tôi, và tôi biết đoạn kết".
Tôi ngồi bật dậy: "Trời ạ, quanh cái vùng đầm này, thêm từng ngày tôi biết về nó là từng ngày tôi nghe thêm một câu chuyện y như cổ tích. Những chuyện Nghĩa kể, nó đã thuộc về quá khứ, nhưng chuyện anh đang làm đây, là cổ tích của thời hiện tại, nó đẹp và đáng trọng biết bao. Tôi sẽ viết về anh". - Tôi nói.
Nghĩa thấy tôi sửng sốt, anh còn cười. Anh bảo: "Thôi, mai tôi đưa anh về nhà gặp mẹ tôi. Bà mới là nhân vật sống của những câu chuyện cổ tích. Mọi chuyện tôi làm đây đều là do ý bà. Vạn Thọ Xuân lên bờ được hết cũng nhờ bà vận động. Anh về tháng ba, sẽ thấy những lễ cúng đầm bây giờ không phải do trùm vạn đứng ra tế nữa, người tế là bà mẹ tôi đấy... Bây giờ no đủ quanh năm, không phải chờ mỗi năm một mùa cá như trước đây nữa... Anh nhìn xem, lúc này cũng đang mùa cá đấy!".
Tôi chui ra khỏi nóp. Ở bên ngoài đã hửng ánh sáng của một ngày mới. Phía xa cửa Tư Hiền, thuyền đang về bến. Trong một vụng đầm,
https://thuviensach.vn
người chủ chài tung mẻ lưới cuối cùng của đêm, mắt lưới bắt ánh sáng buổi sớm tạo nên những đốm sáng lóng lánh. Nghĩa đứng đầu mui thuyền mỉm cười. Trên gương mặt anh một niềm hạnh phúc đang bừng thức.
https://thuviensach.vn
BẾN ĐỢI
Nhiều Tác Giả
www.dtv-ebook.com
Người Đàn Ông Của Tôi - Lê Thị Bích Hồng
1. Anh là người đàn ông tôi gặp và yêu sau một thời gian trái tim ngủ yên trong mùa đông băng giá. Mối tình đầu chỉ còn là kỷ niệm xa xăm. Tôi những tưởng không còn biết yêu, biết rung động trước một người đàn ông nào khác. Định mệnh hay duyên trời đã khép cuộc đời chúng tôi vào một chiều thu se lạnh tại vùng Đông Bắc trập trùng đồi núi quanh co. Anh không như những giọt gió tình ào ạt, sự ân cần, từ tốn và tấm lòng độ lượng ấy đã chinh phục trái tim khép kín nơi tôi. Cuộc gặp gỡ định mệnh với người chiến sĩ công an nhân dân đã tạo bước ngoặt đời tôi. Tôi thực sự hạnh phúc từ khi có anh...
Sau khi tốt nghiệp khoa ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, theo điều động của tổ chức, tôi về nhận công tác ở một huyện biên giới của tỉnh Quảng Ninh. Thăng, bạn trai tôi, người phố cổ Hà Nội, đang công tác tại ngành ngoại giao phản đối kịch liệt quyết định đó. Anh cho là tôi bướng bỉnh, dại khờ và quá lãng mạn khi không tuân thủ sự sắp đặt khôn ngoan của anh. Anh nói như quát:
- Em định chết già ở vùng núi rừng heo hút đó à? Em để mẹ lụi hụi một thân một mình sao? Sướng không biết đường sướng, lại lao đầu vào chỗ khổ. Rồi xem em bướng bỉnh đến bao giờ. Yêu em nhưng không bao giờ anh lại rồ dại theo em dấn thân ở nơi xa xôi hẻo lánh: điện không có, văn hoá nghèo nàn, dân thì thất học... Có nhất thiết cứ phải chôn vùi tuổi xuân ở đó? Gia đình xin cưới vào cuối năm nay. Có hộ khẩu Hà Nội chẳng dễ đâu. Buồn, muốn đi làm, anh chạy cho chân coi giữ thư viện, hoặc mở cửa hàng, báu gì cái nghề bán cháo phổi, đồng lương còm cõi không đủ hút thuốc vặt...
https://thuviensach.vn
Chúng tôi chia đôi ngả rẽ. Con đường tôi đi không có Thăng. Anh nói yêu tôi, nhưng vô tình gạt bỏ những nghĩ suy, mỏi mong, niềm đam mê tôi đã từng ấp ủ. Anh muốn biến tôi thành “búp bê dễ thương”, chỉ bày tủ kính, cách ly khỏi thế giới bên ngoài. Anh thường xuyên vắng nhà với những chuyến công tác nước ngoài dày đặc. Bạn bè và ngay anh luôn cổ suý cho mốt thời thượng kiếm vợ giáo viên, nghề sạch sẽ, cao quý, có thời gian chăm sóc gia đình, lại hiền thục, chung thuỷ... Sự đảm bảo bằng vàng cho một cuộc sống nhung lụa là mơ ước của nhiều cô gái, thế mà tôi dám từ chối. Kẻ ác miệng gán cho tôi nào là ấm đầu, nào là lãng mạn, thiếu thực tế... Anh lấy Tần - cô bạn cùng lớp tôi - ra so sánh: “Con bé ấy mới thức thời. Nó dám chống lệnh, dám tuyên bố sẽ chỉ nhận công tác với bán kính không quá năm kilômet (lấy Hồ Gươm làm tâm). Còn em thì...”. Anh dám đem tôi ra đo với cái người sinh ra ở nông thôn mà lại chối bỏ bùn đất lấm láp. Nó chê cái tên Tần nghe có vẻ quê kệch tự đổi là Lan Tâm. Mấy lần có khách hỏi cái tên mới, lớp chúng tôi đều ngơ ngác và nói phòng không có tên này. Một hôm, cả phòng ngạc nhiên thấy nó chạy ra ôm chầm một ông dáng như đại gia, đầu cạo trọc, nhẵn thín, đeo đầy vòng, đầy lắc khoe với phòng: “Đây là ba tớ, công tác ở Bộ...”. Sự việc vỡ lở khi mẹ Tần lặn lội từ quê ra thăm con. Bà lễ mễ tay mang nải chuối, tay xách bao khoai lang, móng chân nhấp nhới nhuộm bùn nâu đứng trước cửa phòng:
- Các con cho u hỏi đây có phải là cái lớp 3 “bi”có cái Tần nhà bác không?
- Vâng, lớp chúng con là 3B, có bạn Tần u ạ.
- Thế mà con Tần nó bảo phải gọi là 3 bi theo tiếng Anh, tiếng Pháp gì đấy. Thầy nó đi làm đồng nắng bị cảm nặng. Đánh mấy cái điện mà không thấy nó về. Hôm nay u lên tận nơi gọi. Chả nhỡ ông ấy...
Tần trốn biệt không gặp mẹ. Đã thế, nó còn nhờ tôi nói dối là đi kiến tập. Cả phòng chúng tôi thương mẹ mà phải vờ theo nó. Bà ngủ một đêm tại phòng rồi hôm sau anh Ba (lớp trưởng) chở mẹ Tần ra bến ô tô...
https://thuviensach.vn
Tôi lặng lẽ ra ga. Thắng “cấm vận” mọi mối quan hệ. Anh nghĩ “liễu yếu đào tơ” như tôi làm sao có thể trụ được ở cái xứ sở anh cho là khỉ ho cò gáy. Lấp chỗ trống vắng và cố tình trêu tức tôi, anh ta kều ngay cô bạn “thức thời” ấy...
Không biết bao đêm tôi đã khóc. Nỗi nhớ mẹ giày vò. Nhưng khủng khiếp hơn là hẫng hụt và thất vọng với người mình trót trao gửi niềm tin. Sự đổ vỡ ấy thật đáng sợ: “Mất tiền là chưa mất gì, mất tình yêu là mất một nửa, mất niềm tin nghĩa là mất hết” như ai đó đã nói. Tình yêu, niềm tin, mong ước cứ dần dần tuột khỏi. Tôi chới với...
Xuống ga Hải Phòng, ngồi vật bên một đống hành lý lỉnh kỉnh, định đứng lên gọi xích lô ra tàu thuỷ sang Hòn Gai cho kịp giờ... thì phựt... chiếc túi khoác bị giật mạnh khỏi vai... tôi đổ vập xuống chiếc hòm sắt... Cựa mình, toàn thân đau nhức, đầu óc ngất ngư, ong ong, váng vất như đang trên tàu... Nhìn quanh, mọi thứ đều xa lạ. Mình đang ở đâu thế này, hành lý, chết rồi, mình bị cướp chiếc túi - toàn bộ cơ nghiệp, giấy tờ nhận công tác? Tôi hoảng hốt vụt dậy, ngơ ngác... Trước mặt tôi, một người phụ nữ nhỏ bé đứng tuổi cầm trên tay cốc nước. Hoảng hốt, tôi lùi sâu vào góc giường, thoáng tưởng tượng những điều khủng khiếp... Nhưng nỗi lo mất giấy tờ choán hết tâm trí, tôi đứng lên, đầu choáng váng, mắt hoa, mồ hôi tháo ra như tắm... lại đổ phịch xuống. Bác ấy đỡ tôi dậy:
- Cháu tỉnh là tốt rồi... Cứ nghỉ đi. Tội nghiệp. Cháu uống nước đã... - Tôi cầm cốc nước. Bác lấy khăn chặm mồ hôi, lau nhẹ trên mặt tôi, chắc là lem luốc lắm... Bác nói: - Vừa nãy chồng cháu cõng cháu vào đây gửi bác...
- Chồng cháu. - Tôi giật nảy người, đánh rơi cốc nước...
Bác giật mình trước sự thảng thốt ấy, vụt đứng lên:
- Cháu bị cướp đồ và ngất trước nhà bác. Chú ấy chỉ kịp đưa cháu vào đây, dặn bác sơ cứu, rồi chạy ngay. Có lẽ chú ấy đi đuổi cướp... Tệ lắm, ở
https://thuviensach.vn
ga có một nhóm chuyên giật đồ khi khách xuống tàu sơ ý... Không biết có lấy được không? Phải báo công an, chứ một mình đuổi là nguy hiểm lắm...
Bác lẩm bẩm một mình. Chợt nhớ là lỡ miệng, bác quay sang động viên:
- Chú ấy không đi một mình. Nếu báo công an là tìm được. Các chú công an ở đây có kinh nghiệm bắt cướp... À, chồng cháu về rồi... Chú có...
Người đàn ông cao lớn, quần áo xoạc rách, mặt mày bê bết bùn đất, mảnh vai trần lộ vết rách máu chảy, đứng trước cửa, tay cầm túi. Tôi thở phào, chỉ kịp lao tới giật mạnh chiếc túi trên tay... Anh không để ý thái độ của tôi, vội vàng cảm ơn bác, chào tôi bằng một nụ cười hiền hậu, rồi tất tả chạy đi ngay... Bác ngạc nhiên nhìn tôi:
- Thế không phải là... Người đâu mà tốt thế không biết. Tội nghiệp, quần áo rách bươm thế...
Sau khi anh ấy lao ra khỏi cửa, tôi ân hận vì đã quên cảm ơn...
Sau gần tuần làm thủ tục ở sở giáo dục, tôi được tổ chức điều động về trường cấp ba huyện biên giới. Quen sống ở đồng bằng, bây giờ tôi mới thấm thía con đường vùng cao, cảm giác được chao liệng theo những khúc cua tay áo, đường đèo quanh co, đồi thông vi vu, con suối róc rách, thang mây uốn lượn, thung lũng, khe sâu... Anh lái xe vui tính, nói chuyện với hành khách suốt dọc đường. Nghe nói, anh là tay lái lụa của Trường Sơn. Cả xe râm ran. Còn tôi, chẳng khác nào tàu lá héo, “sản phẩm” vắt tôi cùng kiệt đến “mật xanh, mật vàng”... Thỉnh thoảng anh dừng xe, mang nước, bóc cam và bấm huyệt tay giúp tôi đỡ say:
- Cô giáo cứ yên tâm. Chỉ còn qua con dốc kia là đường đỡ xóc...
Phía trước, một đoàn học sinh chạy tràn ra đường, mặc còi xe inh ỏi. Bỗng rầm rầm... xe nghiêng ập vào vách ta luy...
https://thuviensach.vn
Tôi tỉnh lại. Đầu óc vẫn mơ mơ... Sao lại ở trong bệnh viện? Xe, anh lái xe, hành khách... ? Trước mặt tôi... gương mặt này quen quen... là cái anh đuổi cướp giúp tôi ở ga Hải Phòng...
- Hình như tôi gặp... - Tôi dò hỏi:
Anh không nói gì, vẫn nụ cười hiền dịu ấy, anh bước đến gần hơn và đưa cốc nước cam:
- Chị uống đi cho đỡ mệt. Tôi pha từ nãy chờ chị tỉnh. Xe chị đi bị lật ở dốc cua vì tránh đoàn học sinh. May mà anh lái xe có kinh nghiệm, không thì vừa nguy hiểm cho người trên xe và cả các cháu học sinh. Đơn vị tôi được lệnh hỗ trợ. Số người bị thương nặng đã tỉnh lại. Chị là người bị mất máu nhiều...
Uống xong cốc nước, người dịu lại, tỉnh táo dần. Tôi đưa trả anh chiếc cốc:
- Cảm ơn anh. Phiền anh cất đi giùm tôi!
Thở phào. Nhận công tác mà thử thách đã đón mình ngay trên chuyến xe bão táp. Ngẫu nhiên, hay sự sắp đặt đây. Đúng là người ấy rồi. Cũng thật lạ. Hôm đó, mình đã rất tệ. Không một lời cám ơn. Thôi, còn cơ hội chuộc lỗi...
Tôi đôn đáo nhìn xung quanh. Nghe tiếng còi xe phía ngoài, anh quay quảy dọn dẹp đồ đạc, nói với tôi:
- Mời chị ra xe về cơ quan. Đơn vị đã bố trí xe đưa chị tới trường.
Theo anh, tôi bước vào trụ sở Công an huyện và vào phòng nhỏ. Căn phòng ngăn nắp, gọn ghẽ. Tủ sách đặt trên chiếc bàn nhỏ. Những cuốn sách văn học sờn gáy, xỉn màu hẳn đã có "thâm niên". Anh khệ nệ bê đống đồ đạc ra xe, rồi trở vào. Tôi dò hỏi:
https://thuviensach.vn
- Đây là...
- Nhà của đơn vị bố trí cho chiến sĩ. Tuềnh toàng lắm. Toàn đàn ông mà. Sau khi miền Nam giải phóng, tôi được trở về trường học tập. Tôi theo ngành công an và rất mê văn chương. Bố tôi là thầy giáo dạy chữ Nho ở làng Diềm - làng quan họ ấy, chị biết không? Chết, đồng hương, mà đồng hương đến tận cấp huyện
Quay sang, thấy tôi chăm chắm nhìn vào giá sách, anh bối rối lật giở vài trang, rồi lại đặt lên giá:
- Cụ rất ham đọc sách và làm thơ... Tôi không có khiếu làm thơ, nhưng thích viết văn. Chiến tranh, mọi kế hoạch đều phải gác lại... Và đến giờ, công việc của những chiến sĩ cảnh sát chúng tôi vốn đã quá bận rộn, lại ở vùng biên giới này độ phức tạp lớn, nên thời gian căng lắm. Mọi dự định vẫn đang ở trong đầu... Tôi luôn có cảm giác mắc nợ mảnh đất miền Trung đã che chở những người lính chúng tôi trong những tháng năm trận mạc... Chị mang nhiều đồ đạc thế mà đi có một mình...
Vừa nói, anh đi lại bàn sách sắp sắp xếp xếp lại vài thứ giấy tờ. Bỗng anh loạng choạng, ngã dúi xuống nền nhà. Tôi hốt hoảng đỡ anh lên ghế. Anh khoát tay:
- Không sao! Đêm qua tôi thức khuya thôi...
Một chiến sĩ công an hơ hốt chạy vào:
- Đồng chí Tâm! Có điện khẩn từ cửa khẩu...
Anh lại bắt tay tôi, dặn dò cậu lái xe còn khá trẻ, rồi chạy ra khỏi phòng...
... Tôi được công an huyện bố trí xe đưa đến trường. Đồng chí lái xe dường như rất quen với con đường nhiều khúc cua tay áo. Có đoạn uốn
https://thuviensach.vn
lượn như trên thang mây. Trên đường, cậu ấy kể chuyện như chú chim sáo cho tôi quên việc say xe. Thì ra, máu chảy trong tôi có dòng máu của anh. Thảo nào anh ấy ngã...
Tôi vững vàng, lấy lại được niềm tin nhờ anh. Anh chờ đợi trái tim tôi hâm nóng lại khát vọng yêu. Sau khi miền Nam giải phóng, anh được lệnh trở về trường tiếp tục học tập. Tốt nghiệp thủ khoa, anh trong danh sách đầu tiên được giữ lại trường. Lẽ ra vậy. Nhưng một hôm tổ chức gọi anh lên huấn thị:
- Anh đủ tiêu chuẩn giữ lại trường, chuẩn bị đào tạo tiếp, nhưng chỉ có một suất, là đảng viên, là quân nhân chuyển ngành, anh phải gương mẫu...
Cũng như tôi, anh nghiêm túc nhận lệnh tổ chức. Còn chỗ lẽ ra của anh, chỉ sau khi anh nhận quyết định ít hôm đã có con vị cán bộ cao cấp thế chỗ. Nghe nói anh ta học rất xoàng...
Quyết định neo đậu trong cuộc đời anh, tôi không ân hận về lựa chọn. Chúng tôi đã có nhau, bên nhau những năm tháng xiết bao hạnh phúc. Cuộc sống luôn mỉm cười từ khi có anh. Anh vẫn bảo tôi ở đâu có tình yêu thì nơi ấy đạt được sự phi thường. Những bài giảng của tôi thấm đẫm tình yêu của anh. Tác phẩm anh viết ra, tôi là người đầu tiên đánh máy, đọc bản thảo. Tôi mãn nguyện trước hạnh phúc và yên ổn bên anh... nếu như, nếu như không có chuyện bất ngờ ấy...
2. Tôi tranh thủ xem lại giáo án trong giờ trống. Cô văn thư đưa tôi lá thư. Giật mình. Tai nóng ran. Linh tính mách bảo có gì đó không ổn. Lâu nay, tôi không có thói quen viết thư. Gia đình ở gần, bạn bè đã có điện thoại. Lướt qua phong bì, chợt nghĩ bưu điện chuyển nhầm. Trường hợp trùng tên có gì lạ. Người nhận đúng tên tôi, chính xác đến tổ bộ môn, nhưng chỉ thiếu họ. Khó khăn lắm tôi mới lôi được bức thư dính chặt vào phong bì. Một bức ảnh rơi ra. Cầm lên, tôi giật mình. Một cậu bé chạc mười bảy tuổi khôi ngô, nét mặt thanh tú, có đôi mi mắt dài, cong giống
https://thuviensach.vn
con gái tôi. Lướt qua vài dòng, đầu óc tôi lú loá. Cố trấn tĩnh, đọc đi đọc lại, lờ mờ bán tín, bán nghi. Tôi không dám tin, không thể có sự thật phũ phàng: Chồng tôi có con riêng...
Cả Hội đồng giáo dục nắc nỏm khen tôi có số sướng. Thầy Sô gật gù tán thưởng: "Kiểu người mỏng mày hay hạt, nét mặt ngời sáng, có dáng đi quý phái, chậm chãi; răng trắng muốt đều tăm tắp kèm thêm chiếc “mầm giềng” khiến cho miệng cười tươi như hoa thường là dáng của các quý phu nhân tôn quý". Châu, cùng tổ chuyên môn, ngắm miết bàn tay của tôi phán như một ông thầy xem tướng số: “Bàn tay tiết lộ số phận. Cuộc đời cậu hiện hết ra bàn tay rồi”. Thanh đang chấm bài cũng góp thêm chuyện: “Thôi đi, các cậu chỉ khéo tán dóc”. Tôi quay quảy đứng dậy, thế mà Châu vẫn chưa chịu buông tha: “Mình biết cậu không chịu cho bàn tay yên, nào là đan lát, thêu thùa, may vá, trồng rau, nuôi lợn. Thế mà bàn tay hay lảm hay làm ấy cứ mát rười rười, mềm như bún, từng ngón thon dài...”.
Ngượng quá, không biết giấu bàn tay đi đâu. Lần đầu, Đức Tâm ngắm miết, nâng niu đôi bàn tay tôi, ấp vào ngực hồi lâu. Tôi yên ổn và hạnh phúc bên chồng - một sĩ quan cảnh sát và hai cô con gái xinh xắn, học giỏi, ngoan ngoãn. Anh luôn tôn trọng việc làm và những suy nghĩ của tôi. Gần mười lăm năm chung sống, tôi ấm áp khi có anh. Vắng anh chỉ ít ngày tôi đã có cảm giác chống chếnh, hẫng hụt. Bạn bè ngạc nhiên đến mức khó tưởng tượng sau bấy nhiêu năm gần nhau mà vẫn giữ được tâm thế như thời mới yêu - cái thời “đau răng trong trái tim”. Anh chưa bao giờ làm tôi buồn. Chỉ có điều tôi hay phải lo khi anh tham gia phá chuyên án lớn. Minh Hằng - cô bạn thời sinh viên bỏ nghề dạy theo nghề báo - tuyên ngôn xanh rờn: “Hạnh phúc của đàn bà chúng ta là có ông chồng tuyệt vời. Anh ấy là quý nhân của cậu”. Duyên trời khéo sắp đặt, mang anh tới và ban tặng hai thiên thần đáng yêu.
... Chỉ trước đó ít phút, tôi nhận được bao lời tán dương: số sướng, quý nhân phù trợ... Thế mà... Mắt hoa đi, đầu óc quay cuồng, chân tay run rẩy,
https://thuviensach.vn
trước mắt tôi như có đám mây đen vây bọc. Tôi ngã gục xuống bàn nức nở (đã lâu lắm rồi tôi mới khóc), nước mắt đẫm nhòa dòng chữ nguệch ngoạc của người phụ nữ chưa biết mặt, nhưng duyên kiếp trời định đã ngầm gắn số phận chúng tôi. Chới với, uất hận, đau xót với cảm giác của người bị lừa. Căm thù người đàn bà kia. Giận người chồng bội phản, lọc lừa. Chưa bao giờ tôi có cảm giác giận đến vậy. Vò nát bức thư trong tay, ném tọt vào sọt rác như muốn bóp vụn, quăng quả người đàn bà xa lạ kia cho hả. Đi ra, đi vào, quay phải, quay trái, tiến trước, lùi sau. Nhặt lại cục giấy bị vò, vuốt lại. Tôi đưa ra những khả năng khác để biện minh cho anh, gỡ rối cho tôi: “Không thể thế được. Ai đó nhầm chăng. Chồng tôi là một người đàn ông tuyệt vời nhất mà cuộc đời ban tặng. Không có chuyện đó. Anh yêu vợ con nhất. Tôi rất hiểu anh...”. Tiếng trống trường khiến tôi giật mình. Thót tim. Trái tim rỉ máu như có ai bóp nghẹt. Thẫn thờ như kẻ mộng du, tôi đổ vật xuống. Mọi người xúm lại lo lắng. Tôi cố giấu. Ra nhà xe, chân run run ngã khuỵu. Chếnh choáng. Đau tức đến nghẹt thở. Bước chân vô định. Loanh quanh vài dãy phố mà không biết đường về nhà... Bác hàng xóm mang cốc nước chanh sang, tôi mới hay mình ngã, may ô tô tránh kịp, chỉ xây xước nhẹ. Các con chưa về, anh đang đi phá chuyên án rất phức tạp, tội phạm xuyên quốc gia. Căn phòng bỗng rộng ra. Tôi rơi vào cảm giác cô đơn, hẫng hụt như người vừa bị lừa đánh cắp thứ quý giá nhất. Uống xong cốc nước, tôi cố trấn tĩnh đọc tiếp: “Tôi có lỗi khi lá thư này đến chị. Lẽ ra tôi không nên cho chị biết tin này. Tôi hiểu trái tim đàn bà. Chị muốn trừng phạt thế nào cũng được, nhưng chị ơi! Bệnh tật đã không cho tôi được sống. Như thế là tôi đã bị trừng phạt rồi. Quả thật, tôi vẫn định lặng lẽ, ở vậy nuôi con mà không bao giờ cho ai biết về điều bí mật cất giữ gần hai mươi năm. Chị hãy tin, con chim sắp chết cất tiếng kêu thương, con người sắp chết thường nói lời phải. Tôi không muốn làm xáo trộn sự yên ổn, hạnh phúc của anh chị nếu như... nếu như trời thương tình cho được sống, cho con tôi không thêm một lần mồ côi. Mắc phải căn bệnh hiểm nghèo, sự sống với tôi chỉ còn tính được bằng tháng, bằng ngày. Điều đáng sợ không phải là chết. Ai trong đời cũng phải chết. Nhưng cái chết làm tôi sợ, bởi con tôi không còn nơi bấu víu, nương tựa. Cháu đã sang tuổi mười tám, chỉ
https://thuviensach.vn
còn mấy tháng nữa tốt nghiệp phổ thông, thi đại học. Chị ơi! Tôi là đứa trẻ mồ côi duy nhất sống sót trong một trận càn. Hôm đó, tôi nhận nhiệm vụ đưa cán bộ về cứ. Trở về, mọi cái đã hoang tàn. Tôi không còn thiết sống. Chính lúc đó tôi đã gặp anh. Biết hoàn cảnh của tôi, ảnh động viên rất nhiều. Ảnh hay kể về vùng đất Kinh Bắc và hát nhiều bài quan họ... Chị đừng trách ảnh mà tội nghiệp, ảnh hổng có lỗi chi. Lỗi là ở tôi. Cuộc chiến tranh tàn khốc. Sự sống cái chết chỉ trong gang tấc. Anh bị thương. Bọn giặc quây dữ, suốt mấy tháng ròng nằm hầm bí mật. Cơn sốt hành hạ. Người xanh rớt, tóc trút từng mảng, chân đi xiêu vẹo, duy có đôi mắt với cặp mi cong vút luôn cười. Tôi có hạnh phúc được chăm sóc, được gần gũi và chẳng biết tự khi nào trái tim đã thổn thức vì thương. Tôi tình nguyện dâng hiến đời con gái mà không dám mong anh đoái thương... Một lần trong đời thoả mãn cơn khát của đàn bà tích lại nguồn năng lượng đủ nuôi sống một đời. Tôi thầm ước sau chiến tranh được gặp anh. Đơn vị ảnh nhận lệnh vào tuyến trong. Anh đi gấp, tôi không về kịp. Anh đi rồi, tôi mới cảm nhận được trái tim đàn bà đã trọn vẹn trao gửi. Lặng thầm giấu một cái tên, một tấm hình để làm kho báu tình yêu. Đã bao ngày ròng tôi khóc vì nhớ thương. Nặng lòng yêu, nặng lòng nhớ - một mối tình đơn phương. Cuộc đời không cho người tôi hằng yêu quý, nhưng lại cho tôi giọt máu hồng sinh nở mà tôi đã chủ động đánh cắp, bất chấp tất cả: đạn bom, sống chết, kỳ thị, đàm tiếu, tiết trinh đàn bà... Chị đừng cho tôi là người đàn bà trắc nết. Dâng hiến tiết trinh là tôi đã chấp nhận sự phỉ báng của người đời. Tôi mang giọt máu của anh vào rừng mai danh ẩn tích... Trở dạ sinh con khi chưa kịp lết đến buôn người Thượng. Hai mẹ con loay hoay, gắng gượng, kiệt sức trước lưỡi hái tử thần. Giữa lúc ấy, mẹ con tôi gặp đơn vị bộ đội. Cháu sinh vào đúng ngày 30-4-1975... Nhờ đơn vị hỏi tin tức, tôi hay tin anh hy sinh trước cửa ngõ Sài Gòn trước giờ chiến thắng. Tôi như hoá đá. Ở vậy, lặng lẽ nuôi con. Truyền thần lại tấm hình, đặt lên bàn thờ, lấy tên ảnh đặt cho con và mang họ mẹ. Hai mẹ con sống cực lắm chị ơi. Bằng cấp chẳng có, lại khoác một lý lịch lem luốc trong sự đàm tiếu của người đời: đảo ngũ, chửa hoang. Có người ác miệng đồn Đức Tâm là con lai (con có dáng người cao lớn, cặp mi cong, da trắng). Chẳng xin được việc, đành làm
https://thuviensach.vn
thuê, làm mướn qua ngày. Con là tất cả cuộc đời còn đoái thương, chiếu cố đến tôi. Tôi ru con bằng những bài dân ca quan họ anh đã hát. Đức Tâm sống trong âm hưởng dân ca ngọt ngào, trong niềm tin và hy vọng ấy. Con rất tự hào về cha. Con khoẻ mạnh lớn lên như củ khoai củ sắn, ngoan ngoãn, thương mẹ. Con ao ước được ra Bắc thăm nội, đi tìm mộ ba. Thương con, tôi liều hứa: Chừng nào con thi đỗ, má sẽ kiếm tiền tàu đưa con ra Bắc. Con thích nghe giọng Bắc, tập nói giọng Bắc. Thấy ai giọng Bắc con lân la làm quen và dò tin ba Tâm. Con khát khao có cha, có bà con nội tộc.
Chị em mình là đàn bà, có những nỗi sướng khổ, sức chịu đựng giống nhau. Tôi rất hiểu khi chị nghe điều bí mật này. Tin chị, tôi gửi thư này mong chị nhận trước và hiểu cho tôi. Thời gian không còn nhiều. Quyết định là ở chị. Chị nhận tin này từ anh, khó hơn từ tôi. Tôi không muốn mang khó cho ai, nhưng lại đặt chị vào hoàn cảnh không dễ dàng. Có thể chị nghĩ ảnh giấu chị liên lạc với mẹ con tôi. Không có. Thật là trời thương. Con nhận phần thưởng học sinh giỏi, trong đó có cuốn tiểu thuyết ảnh viết về quê tôi. Những chi tiết trong truyện là điều bí mật chỉ có chúng tôi biết. Con thắc mắc sao ông nhà văn ni lại giống ba, tên hệt ba. Tôi choáng váng khi nhận ra anh qua tấm hình và lời giới thiệu. Tôi nhờ người ở Hội Văn nghệ tỉnh tìm thông tin về nhà văn, xác nhận lại sự thực. Chị có biết cảm giác của tôi lúc đó: lẫn lộn buồn vui, tự hào, nuối tiếc, yêu thương, mong nhớ... Nhưng tôi tự dằn lòng, không được làm khó nếu như anh đang yên ổn, hạnh phúc. Giấu một tin vui rất lớn với con, tôi thấy mình có tội. Đức Tâm sẽ vô cùng sung sướng biết bao khi biết ba còn sống, đang trở thành người nổi tiếng. Nếu như không có căn bệnh hiểm nghèo này thì suốt đời tôi biết vậy, dõi theo anh, một mình nuôi con và dạy con sống thật tốt. Tôi đã oà khóc khi biết trước khi ra Bắc học, anh đã về quê tôi. Nhiều tháng ngày dò la, nhưng không ai biết tôi nơi mô tìm. Thế mà, tôi cứ ngỡ anh quên. Những kỷ niệm khiến ảnh nặng lòng, đáp nghĩa mảnh đất đã đùm bọc, che chở mình bằng cuốn tiểu thuyết đậm ân tình. Một lần, do không kìm chế được, tôi đã liều điện ra ngoài ấy. Gặp anh, giọng tôi lạc đi, dù đã
https://thuviensach.vn
cố trấn tĩnh. Giả là bạn chị, tôi đã hỏi thăm và biết nơi chị làm việc. Tôi đã tin và quyết định nói rõ sự thật với chị. Bởi chị sẽ không nỡ vô tình với một người đàn bà đang kêu cứu. Chị ơi! Em gửi con lại cho chị, gửi lại núm ruột của anh, gửi niềm tin của chính cuộc đời mình (chị đột nhiên xưng em với tôi). Cháu mất mẹ, nhưng còn cha mẹ ngoài đó. Con là con của chị. Chị thương hãy nhận con giùm em. Như thế... là em... mãn nguyện rồi...”.
Tôi không khóc nổi. Có khối chì đông cứng chẹn ngang họng. Nước mắt lặn vào tim. Đau. Đau quá. Đau kinh khủng. Đau nghẹt thở. Tôi đấm vào ngực thùm thụp. Càng đau hơn. Nấc khan. Nuốt không được. Không ai xoa dịu được cơn đau. Trái tim loạn nhịp, rỉ máu. Xót như muối. Lặng đi một hồi, những ý nghĩ vẩn vơ. Tôi biết anh khát khao có thằng con trai. Anh là con một. Dòng họ của anh ba đời nay độc đinh. Bố mẹ anh mong có thằng cháu đích tôn. Một vài lần mẹ anh mát mẻ xa xôi rằng nhà ít phúc, nên dòng tộc bị đứt, không có người nối dõi tông đường. Tôi có lỗi sao khi không sinh cho anh, dòng họ đứa con trai? Thương tôi, anh cố gắng bình thường hóa: “Em cứ nghĩ vớ vẩn. Trai mà chi, gái mà chi. Sống sao có nghĩa, có nghì thì nên”. Trời đã không cho tôi cái mà người đàn bà kia vội vàng đánh cắp được. Số sướng, quý nhân phù trợ ư? Có phải đây là sự sắp đặt nghiệt ngã. Ông trời vốn rất công bằng. Một “hạt mầm” đã không “nảy” trong tôi. Tôi thầm ghen với người đàn bà kia. Con gái tôi sẽ lấy chồng, chúng sẽ thế nào? Mẹ nó bảo gửi núm ruột cho quê hương, dòng họ, còn con tôi thì sao? Nó là cái rơm, cái rác chắc? Thằng bé kia ở đẩu ở đâu lại về nhà tôi ư? Mọi người sẽ nghĩ gì, lại bao lời đàm tiếu, đồn thổi... Tôi lại ngã khuỵu xuống. Người tôi nóng ran, lúc nóng toát, khi lạnh bao nhiêu chăn đắp không đủ, lúc như điện giật, khi như kim đâm. Các con hớt hải dìu tôi, đứa lấy nước, lấy khăn, gọi bác sĩ. Hơn một tháng, tôi vẫn như người mất hồn, lặng lẽ giấu điều bí mật, thấm thía nỗi đau của người đàn bà có cảm giác bị phụ bạc, bị đánh cắp đến trắng tay. Anh về, nghe tôi ốm đã lao ngay đến giường. Nhìn đôi mắt vô hồn, thẫn thờ, hoảng loạn, anh tưởng tôi mắc bệnh thần kinh. Quyết định giữ chặt điều bí mật, dù trước đó tôi định nói ra cho bõ tức, những ẩn ức, sẽ gầm gào lên, đập phá, bóp vụn cho hả giận...
https://thuviensach.vn
Nhưng khi anh ở bên, tôi không nỡ, không đủ can đảm... Công việc của anh luôn phải đối mặt với tội phạm nguy hiểm. Ai có chồng là cảnh sát hình sự mới cảm nhận được hạnh phúc lớn lao khi chồng lành lặn trở về sau khi phá chuyên án. Sự đấu trí với tội phạm... chỉ một phút lơ là, phân tâm... là phải đổi bằng cả tính mạng. Tôi đã sống trong nỗi lo ấy triền miên. Không, không để anh phải bận tâm, tôi sẽ có cách... Tĩnh tâm lại, cố gắng lắm tôi mới nghĩ khác để biện minh cho anh. Anh có lỗi gì? Chiến tranh, chiến tranh, mọi cái đều có thể...
Bên tôi, anh tận tâm, ngơ ngác đến tội nghiệp. Xưa nay, chúng tôi ít có gì giấu nhau. Chị nói đúng. Tôi không thể không ghen. Tôi là đàn bà. Đàn bà có những nỗi niềm, chịu đựng, hy sinh chẳng giống nhau. Đàn bà muốn độc quyền trọn vẹn người đàn ông của mình. Đã bao đêm tôi thức dậy ngắm anh trong giấc ngủ để rồi lại vật vã, đau đớn. Nỗi đau vò xé, khắc khoải không yên. Dạo mới yêu nhau, anh có kể tôi nghe về cô du kích nuôi anh trong hầm bí mật. Nếu anh tìm được cô ấy... Tôi không cho anh nói tiếp. Quá khứ cần được gác lại... Anh nghỉ phép ở nhà chăm sóc tôi mà không hết lo lắng. Anh đưa bác sĩ đến thăm bệnh. Tâm bệnh - Anh băn khoăn trước chẩn đoán của bác sĩ. Giá nói ra được cho lòng mình nhẹ nhõm hơn...
Mấy tháng nay tôi vẫn luôn sống trong cảm giác giằng xé. Không ai biết chuyện này. Điều bí mật tôi vẫn giữ cùng người đàn bà kia. Tôi có thể im lặng. Bức thư kia chỉ là sự vu khống, bịa đặt. Tôi khước từ lời cầu cứu. Sẽ chẳng có chuyện gì xảy đến. Anh mãi mãi yên ổn bên tôi. Không ai cướp được Tâm của tôi... Có thể đó là sự thật. Một phút mềm lòng, giây phút bản năng giữa sự sống, cái chết kề cận. Người phụ nữ ấy khao khát được yêu. Chiến tranh liên miên chưa biết ngày kết thúc. Sống. Chết. Ranh giới quá mỏng manh. Chị ấy triền miên trong cô đơn. Ao ước trong đời có một lần, dù chỉ một lần được bàn tay người đàn ông xoa dịu nỗi thèm khát. Được trở thành đàn bà đích thực... Chị ấy chủ động. Sự chủ động và quyến rũ của đàn bà... khó mà từ chối. Đàn ông chứ đâu phải gỗ đá. Tuổi trẻ, đam
https://thuviensach.vn
mê hừng hực, cháy bỏng... Sẽ không lạ điều ấy xảy ra. Cố gắng vượt khỏi mình, mới nghĩ thoáng được vậy. Thế mà đâu có thanh thản. Cả anh và người đàn bà kia có lỗi gì? Chiến tranh. Cứ đổ lỗi cho nó đi, sẽ thấy lòng bớt trĩu nặng...
Tôi chờ đợi thư chị. Một tháng, hai tháng, ba tháng... Có thể tự trọng, chị ấy không dám đề nghị khi chưa thấy phản hồi từ tôi. Chị ấy, con trai chị, con của chồng tôi, anh của hai con gái tôi, đang cầu cứu, trông chờ vào sự độ lượng của tôi. Có hèn nhát không khi tôi vẫn im lặng, vô tình trước lời khẩn cầu của một người đàn bà mà sự sống đang đếm từng ngày, đau đớn phải xa con khi nó không còn nơi bấu víu, nương tựa? Tôi thực sự sốt ruột. Đức Tâm sắp thi tốt nghiệp.
Mọi dự định tôi không cho anh biết.
Trước khi đi công tác, anh mang cốc nước cam vào phòng cho tôi:
- Em uống đi. Cam Vinh, cậu chiến sĩ cùng phòng vừa trả phép biếu. Anh pha nguyên chất đấy.
- Anh cứ để đấy. Em không khát.
Anh nhìn trân trân, rồi ngồi xuống bên tôi. Có cái gì đó rất khó mở lời. Tôi chưa từng thấy sự lạ lùng ấy của anh bao giờ. Tôi không còn tâm trí đâu đoán
định thái độ của anh. Tất cả, tôi đang dự định cho chuyến đi.
- Chuyến công tác này có lẽ anh sẽ đi hơi lâu. Em và các con lại vất vả. Anh đón bà ngoại xuống nhé.
Tôi không nói gì...
https://thuviensach.vn
Nhân anh đi công tác, tôi xin nghỉ coi thi, nói dối đi giám sát thi miền Trung. Chuyến tàu gặp bão. Bão đến sớm. Miền Trung oằn mình trong bão. Đất đá sạt lở. Chuyến tàu trễ vì nhiều đoạn sự cố, khắc phục chưa kịp. Ruột gan như lửa đốt. Tôi vẫn mắc kẹt giữa đường. Ngày mai là ngày thi đầu tiên. Tôi bỏ tàu, tăng bo từng chuyến... và kịp đến vào đúng trống lệnh thi môn văn. Tôi chạy như bay vào căn nhà tuềnh toàng của hai mẹ con nằm nép mình dưới rặng phi lao. Dấu tích một trận bão còn in hình trong căn lều ọp ẹp. Thằng bé từ ngoài cổng ập vào. Tôi nhận ra nó. Tâm là bản sao của anh tôi gặp hơn mười lăm năm trước. Nó lén nhìn tôi ngơ ngác. Nghe giọng Bắc, nó sung sướng ôm chặt tôi, nước mắt đẫm ướt vạt áo: “O ơi! Sao bây giờ o mới tới? Má không qua nổi o ơi”. Ôm giọt máu của anh vào lòng, cảm giác thật lạ, vừa xa xôi, bí ẩn... vừa... có chút gần gũi. Nhìn thằng bé mếu máo, tôi không kìm nổi cũng tức tưởi. Mình mắc tội với mẹ con chị. Lẽ ra, tôi phải quyết định sớm hơn. Lau nước mắt cho Đức Tâm: “Con ơi! O vào lo thu xếp đón hai má con ra thăm nội. Nhưng đến giờ thi rồi, con chào má rồi o đưa con đến trường ngay”. Thằng bé nấc lên: “Không kịp rồi o ơi. Má đang đau... Má không nói được...”.
Tôi theo thằng bé vào nhà. Người đàn bà khốn khổ đang hấp hối. Chị linh cảm người đến là tôi - rúm ró, run lên bần bật, đau đớn, tràn trào nước mắt. Tôi trở thành vị cứu tinh. Thằng bé lén nhìn tôi bằng đôi mắt đỏ hoe. Tôi kéo thằng bé lại phía mình. Đã quá giờ thi, nó cứ quanh quất bên mẹ. Chị nấc lên từng hồi, ú ớ chỉ đồng hồ rồi nhìn Đức Tâm. Tôi hiểu ngôn ngữ từ đôi mắt đờ đẫn của chị, vội đỡ con dậy khuyên nhủ: “Quá giờ thi rồi con ơi! Nghe cô đi con. Nếu con không thi má không vui đâu”. Đôi mắt chị rực sáng chừng như tôi đã dò đúng kênh. Nó chạy lại áp má vào ngực mẹ: “Tâm nghe o, nghe má đi thi. Má ráng chờ Tâm đi thi về nghe má. Chờ Tâm thi vào Đại học Công an của ba. Tâm sẽ học tiếp phần của ba phải bỏ dở theo lệnh Tổng động viên. Tâm sẽ thi tốt má ơi”. Đôi môi chị khẽ mấp máy, giọt nước mắt lăn nhanh.
https://thuviensach.vn
Mải miết đưa Đức Tâm đến trường, tôi vừa thở vừa dặn dò con kinh nghiệm bước vào kỳ thi. Khó khăn lắm khi nghe trình bày và lời cầu xin trong nước mắt của tôi, Hội đồng thi đặc cách cho cháu vào phòng thi riêng sau khi đề thi đã bóc. Tôi đôn đáo trở về bên chị. Chị run rẩy ra hiệu cho tôi lấy từ dưới gối một bọc nhỏ. Chị gửi lại cho tôi như một niềm tin cứu cánh. Tôi mở ra. Trong đó có một ít tiền, một chiếc ảnh khi anh nhập ngũ, một số giấy tờ quan trọng. Chị vật vã, đau đớn như đang đấu tranh quyết liệt trước lưỡi hái tử thần. Bà chị họ kéo tôi ra ngoài: “Chị ấy không chờ được con về mô. Khó qua nổi. Nhưng hình như còn điều gì đó thì phải”. Trở vào, chị nhìn tôi trân trân, như muốn nói điều hệ trọng. Tôi hiểu day dứt trong chị, cầm bàn tay dăn deo chỉ còn da bọc xương của chị hồi lâu, tôi thì thầm: “Đức Tâm ngoan, con sẽ thi tốt, chị cố chờ con thi xong... Em hứa với chị...”. Không đợi tôi nói hết câu, chị nấc lên, đôi bàn tay yếu ớt chới với chút sinh lực cuối cùng, dướn cong lên, đổ phịch, buông thõng. Đôi mắt không chịu khép, lăn chầm chậm giọt nước, chảy nhòa. Trên khuôn mặt khắc khổ sáng lên tia nắng rớt lại trong ráng chiều, nét thanh thản, mãn nguyện. Tôi đặt cánh tay lên giường và vuốt mắt cho chị...
Trở lại trường đón con. Còn hai phút nữa mới kết thúc môn thi. Con có dự cảm điều gì không? Hình ảnh vật vã cuối cùng của chị ám ảnh không yên. Em không phải người đàn bà cao thượng như chị đã nghĩ, nhưng em sẽ thay chị chăm sóc con, chăm sóc con của chúng ta... Nước mắt giàn giụa. Tôi khóc đang khóc cho ai: cho chị, cho anh hay cho mình? Đức Tâm ra sớm, nét mặt buồn rầu. Nó đứng lặng một hồi như trời trồng. Không biết phải mở lời thế nào với con. Phút im lặng đến sợ. Tôi chạy lại ôm con: “Con làm bài thế nào? Đề thi không khó chứ?”. Nó không trả lời, nhìn rất nhanh vào mắt tôi, rồi bứt khỏi, vụt chạy như bay. Tôi chạy theo đến nghẹt thở, đôi chân líu ríu, khựng lại. Phủ phục bên thi hài mẹ, thằng bé khóc tức tưởi: “Má hẹn chờ Tâm về, chờ Tâm thi đại học nữa mà... Má không thương Tâm rồi... Má ơi...”. Con cứ khóc đi. Nước mắt sẽ xoa dịu nỗi đau của con người và tôn lên yêu thương. Ôm con vào lòng. Hai thực thể xa lạ... ngập ngừng... yêu thương... gắn kết. Nhìn chị lúc đó, trên môi còn
https://thuviensach.vn
vương lại nụ cười - nụ cười của người mẹ mãn nguyện ra đi, nhưng nơi khoé mắt vẫn còn đậu lại giọt nước mắt như giọt nhựa dù lìa khỏi thân cây, vẫn cố bám đậu. Chỉ có tôi mới hiểu lòng người mẹ trong nét rạng ngời đó. Trước vong linh chị, tôi phải cố dìu con và thằng bé mười tám tuổi đã phải cố vượt lên để thi tiếp trong hoàn cảnh trớ trêu
như vậy...
3. Sáng sớm, Đức Tâm dẫn tôi ra bưu điện gọi điện đến cơ quan, nhờ cơ quan báo tin cho anh. Hai o con tôi đến sớm, cô điện thoại viên chưa đến. Tôi thẫn thờ đưa Tâm ghé vào quán nước. Một cụ già đang mở chiếc ti vi neptuyn đen trắng. Tiếng ti vi cụ già mở to khiến tôi dán mắt vào màn hình: “Vào hồi 4 giờ 15 phút công an tỉnh đã phối hợp với các lực lượng chức năng phá chuyên án ma túy, bắt gọn 5 đối tượng, thu giữ 108 bánh heroin, nhiều súng, đạn các loại. Trong cuộc chiến đấu với nhóm đối tượng trên, Đại úy Mẫn Đức Tâm, cán bộ Phòng Cảnh sát bảo vệ và cơ động Công an tỉnh... đã anh dũng hy sinh. Hiện, Công an tỉnh đang hoàn tất các thủ tục để làm lễ an táng cho Đại úy Mẫn Đức Tâm theo quy định của lực lượng công an nhân dân...”.
Tôi ngã khụy xuống. Đức Tâm ôm choàng tôi lay lay nức nở: “O mở mắt ra đi. O đừng làm con sợ. O hứa đưa con ra quê nội. O làm sao ai đưa con ra Bắc...”. Tôi chới với, mất trọng lượng. Tôi không thấy gì ngoài giấc mơ đêm qua. Anh đã kịp đến nghĩa trang vào giờ phút cuối của người đàn bà xấu số, mà dấu ấn của một thời tuổi trẻ, chiến tranh, bom đạn, sống chết... có thể đã ẩn sâu trong tiềm thức xa xăm. Miền ký ức trở lại. Cái thời hai mươi nông nổi, dại khờ, đam mê, thăng hoa của những người lính tài hoa ra trận... Anh ngạc nhiên, sửng sốt, run rẩy... Ôm chặt tôi và thằng bé vào lòng, anh tràn trào nước mắt. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh khóc.
Tôi giật mình choàng dậy. Nước mắt Đức Tâm thấm ướt tôi...
https://thuviensach.vn
BẾN ĐỢI
Nhiều Tác Giả
www.dtv-ebook.com
Những Buổi Chiều Tháng Bảy - Vũ Minh Nguyệt
Những buổi chiều nóng nhất mùa hạ.
Hầm hập, mặt đất bỏng rát, bầu trời cao, và nắng chói chang. Oi bức từ sáng sớm đến tối mịt. Chẳng có lấy một gợn gió nhỏ, hay một đám mây lạc loài nào. Suốt cả tháng liền cỏ cây héo quắt, đến cả những viên sỏi và cát dưới chân cũng bị nung lên. Con người, con vật đều khô nỏ cả ra. Bệnh viện lại mất điện vì quá tải. Tất cả quạt hơi, quạt gió, tủ lạnh, tủ đá đều chạy hết công suất. Mất điện là y rằng mất nước. Người ta dành nước dự trữ để nấu nướng. Không còn nước đâu để tắm táp, hạ bớt nhiệt cho bệnh nhân.
Chiều nào, mấy ông già thương binh cũng kéo nhau ra trước cửa khu căng tin của bệnh viện. Các ông không muốn uống nước, cũng chẳng muốn mua bán gì. Những khuôn mặt rúm ró, những đôi mắt đỏ ngầu nhìn ai cũng giống như muốn cà khịa. Mấy đứa trẻ mặc áo thanh niên tình nguyện mang những hộp cháo phát miễn phí cho bệnh nhân nghèo, cũng bị các ông già quát nữa chứ. Khổ thật! Các ông cho rằng, chúng nó làm thế là xúc phạm, làm thế là bêu xấu bệnh viện quân đội. Các ông già cứ tưởng bệnh viện quân đội chỉ để chăm sóc và điều trị cho những người có liên quan đến lính tráng, hay những người đi qua cuộc chiến như các ông, oai hùng, ngẩng cao đầu; chứ sao lại phải nhận những hộp cháo bố thí làm gì? Vậy là giận dỗi, vậy là quát tháo, huyên náo cả một gócbệnh viện.
Chỉ có bác sĩ chuyên khoa thần kinh mới hiểu được tâm lý, bệnh tình những người thương binh này. Họ thường xuyên chống chọi với những cơn đau, trong lòng như lửa đốt, lại gặp thời tiết nóng hầm hập thế này nên tinh
https://thuviensach.vn
thần bị kích động... Năm sau, rồi năm sau nữa, cứ mỗi dịp 27 tháng 7 nắng nóng, lại thấy thưa dần, ít dần người quay trở lại bệnh viện điều trị. Ốm đau, bệnh tật đã đưa họ về dần với tổ tiên, với cát bụi. Chiến tranh đã lùi xa quá rồi, mà có vẻ như chẳng còn ai muốn nhắc đến hai từ chiến tranh nữa. Chiến tranh chắc cũng không khổ bằng thời tiết khắc nghiệt này. Chiến tranh cũng chả liên quan gì đến những ngày nắng nóng như thiêu đốt ở vùng ngoại ô thành phố này.
*
* *
Tôi là cô giáo dạy văn ở trường trung học. Lúc rảnh rỗi, tôi giúp mẹ chồng bán mấy thứ lặt vặt ở cổng quân y viện. Khách hàng đa phần là những bệnh nhân mua bán mấy thứ đồ nhỏ nhặt. Người cau có, kẻ cò kè, nhiều khi bực mình hết nỗi, nhưng tôi đâu dám nặng nhẹ với ai như mấy ông già thương binh kia!
Tôi mang một túi cam đường, quả nào cũng căng mọng nước ra mời các ông ăn. Tôi đặt vào tay các ông những cái quạt giấy nhỏ. Một ông cao lòng khòng, cằm bên trái mất một góc, thành ra mặt mũi không còn bình thường nữa. Ông quay lại quắc mắt lên nhìn. Sợ quá, tôi nói thật rành rọt :
- Ngày trước bố cháu cũng là bộ đội.
Ông già cụt tay ngồi bên cạnh nói mát:
- Hư... ừ! Bố chị cấp tướng, cấp tá nên chị mới ăn trắng mặc trơn thế này?
Tôi xót xa đến nghẹn lòng bởi cái sự giận hờn của người già bị thương tật:
- Bố cháu cũng chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị mà.
https://thuviensach.vn
Một ông cụt đến giữa đùi, cầm cái nạng gỗ, hỏi:
- Ôi giời! Có đau đớn như chúng tôi không?
Tôi gấp tờ báo cũ, quạt phe phẩy:
- Chắc bố cháu chẳng kịp đau đớn đâu ạ.
- Biết ngay mà, ông ấy chỉ ngó qua chiến trường. Sao mà nếm được mùi súng đạn?
- Bây giờ, bố cháu vẫn nằm dưới sông Thạch Hãn ấy...
Mấy ông già thương binh sửng sốt trố mắt nhìn tôi. Ông già mất một góc cằm trái lúc ấy mới cất giọng gió phào phào:
- Còn mẹ chị? Bây giờ mẹ của chị ở đâu?
Tôi chợt hiểu ra rằng, sự quan tâm đầu tiên của những người lính chiến dành cho nhau là... gia đình, vợ con. Bao đau thương mất mát và cả sự khó chịu trong nắng nóng hình như dịu hẳn lại. Tôi ngồi ở giữa những đồng đội của cha mình, bỗng dưng cảm thấy gần gũi, thân mật quá, dù chỉ mấy phút trước, họ làm cho tôi sợ hãi và xa cách.
- Mẹ cháu vào trong ấy mấy hôm rồi, năm nào vào dịp 27 tháng 7, mẹ cháu cũng vào Quảng Trị. Cũng có năm cháu được mẹ cho theo, nhưng từ ngày cháu lấy chồng bận rộn nên năm thì đi được năm thì không.
- Khổ thân! Chị ấy còn vào làm gì nữa? - Một ông nói nho nhỏ.
- Chẳng ai ngăn được đâu. Mẹ cháu bảo nếu không vào, bố cháu sẽ mong lắm. - Tôi ngồi xích dần lại gần mấy ông già thương binh khó tính. - Các chú về phòng nghỉ đi. Trời mát rồi, mai các chú lại ra đây chơi với cháu nhé.
https://thuviensach.vn
Các ông già lập cập đứng dậy, chậm rãi đi về phía trong khu điều trị. Lúc ấy, họ hiền lành như hạt lúa củ khoai. Tự nhiên, tôi thấy xót xa và thương họ vô cùng.
Tôi đã quen biết các ông già thương binh ấynhư vậy.
*
* *
Ông già thương binh mất một góc hàm trái ngồi nán lại. Ông nằm điều trị ở khoa ngoại, mặc quần áo bệnh nhân màu xanh da trời. Hai bên ống quần dài chùng xuống che kín cả bàn chân. Cái áo may ô màu trắng ngà không che được một bên lồng ngực bẹp dúm, nhưng ông già ý tứ vắt cái khăn mặt trên vai, giấu kín một bên xương đòn cong oằn ra phía trước. Mấy người lạ nhìn cái hàm trái bị mất một góc của ông như dòm ngó quái nhân dị tật. Mặc kệ ai quát tháo, hay xì xầm, ông già cứ ngồi im, đôi mắt lờ đờ nhìn tận đâu đâu. Ông cầm cái mảnh mo cau quạt phành phạch, ông chẳng nói chuyện với ai, chẳng hò hét, chửi bới ai, và ai hỏi cũng chẳng thèm trả lời.
Chỉ đến khi những ông bạn già về hết, nhà chờ thăm của bệnh viện lại tĩnh lặng, yên ắng, thì ông bắt đầu nói. Đầu tiên ông lẩm bẩm giọng phào phào một mình, rồi to dần, to dần. Mấy người nhà bệnh nhân thấy lạ lẫm lắng tai nghe, tôi cũng giỏng tai nghe và cảm thấy thân thiện. Ông già nói toàn những chuyện ngày xửa ngày xưa có vẻ chả liên quan đến bầu không khí đang nung nóng cỏ cây hoa trái ở đây.
Tôi đóng cửa, thu dọn hàng quán, ngồi bên cạnh ông. Có một sợi dây vô hình nào khiến tôi cảm thấy thật gần gũi với một ông già cô đơn tật nguyền, bị chứng trầm cảm, đang cố gồng người trở lại thời trai trẻ đã đi qua. Tôi gọi ông là chú, thân mật và gần gũi.
https://thuviensach.vn
Sâm sẩm tối. Những người nhà đi chăm người ốm tranh thủ kiếm chỗ rải cái chiếu trong nhà chờ thăm bệnh nhân, cũng chạnh chọe, tranh giành mấy phút rồi đâu lại vào đấy. Ai cũng có một chỗ đủ để mắc cái màn để ngủ vạ vật qua đêm. Họ để cái ba lô, cái túi xách sang một bên rồi quay ra góp chuyện với nhau. Ông già quay sang nói chuyện với tôi. Cái hàm dưới khuyết một góc bên trái mỗi khi há ra thì miệng lại hở sâu như cái hố tối om.
"Chị người thành phố chả biết được đâu? Muốn đến quê chú xa lắm, tít sau dãy núi kia kìa".
Ông già nói, rồi chỉ tay về hướng mặt trời đỏ ối như quả cầu lửa đang lặn, chìm dần sau dãy núi mờ mờ. Giọng nói của ông rặn rộ phào phào nặng trình trịch, ẩn mất dấu huyền.
"Quê tôi ở đấy, các ông bà thấy chưa? Phía dưới ấy là thung lũng, thỉnh thoảng vớ được vũng nước, cắm cây lúa là tốt bời bời, cá cua có mà vô khối, tuyền cá rô, cá diếc, chạy lên đồi rứt nắm lá chua me, rồi kho cháy, gớm giờ thì chả còn nữa...".
Tôi vẫn chăm chú nghe, chỉ sợ hỏi ngang sẽ cắt đứt luồng suy nghĩ của ông già. Tôi bắt gặp đôi mắt lờ đờ của ông nhìn về phía xa xa tiếc nuối một điều gì đó không cắt nghĩa nổi. Tôi chưa một lần được thưởng thức món cá diếc kho lá chua me, nhưng nghe ông già tả mà thấy thèm và cuốn hút quá.
"Ấy, cái giống cá chuối, cá sộp khôn đáo để, lẩn xuống đám thung năn, thung lác sinh đẻ ở đấy, có con dễ đến cả yến. Tết đến chả có tiền mua thịt nhưng cá thì đầy, nhà nào cũng kho, cũng luộc, đêm ba mươi, cả làng đốt rơm um cá, ăn hết Giêng cũng còn khối. Ngày trước chú đốt cả một quả đồi, tro than gì cũng mặc kệ, mưa xuân xuống, những lớp đất xốp lên, tơi bở ra. Chè tốt rậm kín cả vùng. Ngày chưa đi lính ấy à, chú hái được khối các loại hoa lá ở rừng, quẩy cả gánh rau sắng về Hà Đông bán. Người kẻ chợ nấu với thịt nạc, ngọt lắm...”.
https://thuviensach.vn
Tôi nói chen vào và cốt để ông có thời gian ngừng lại, được nghỉ ngơi cho đỡ mệt:
“Chú làm cháu thèm quá. Bây giờ họ vẫn bán mà chú, nay mai khỏi bệnh, đến mùa rau sắng, chú mang ra, cháu bán giúp nhé”.
Ông già dường như không nghe tôi nói, giọng cứ đều đều phào phào, xa xăm:
“Mùa không có rau sắng thì gánh củi, cả chè xanh, cả lá thuốc bắc. Vậy mà bây giờ, đến cái lá cũng tiệt. Tài thật, chim muông thú dữ cũng biến sạch...”.
Ông già lại chỉ tay về cái nơi hoàng hôn đang sậm dần lại. Phía chân trời xa xa, những tia nắng cuối cùng cũng lặng lẽ lịm đi, rồi tắt hẳn.
Tôi có nghe mẹ kể những ngày chiến tranh và tôi cũng không lạ gì đất và người quê hương ông, một vùng bán sơn địa. Ở đấy là có những khu đất cao vói lên, người ta chăn nuôi trâu bò nhiều vô kể. Lạ lùng, nếu trâu trắng ở quê ông là phổ biến thì ở vùng khác, trâu màu trắng là hiện tượng lạ, bò thì da đen như da trâu. Họ chăn thả từng đàn trên sườn đồi. Chỉ những chỗ trũng nhất mới trồng được lúa, nhưng vất vả lắm, cây lúa mới ra bông được, hình như nơi ấy hợp nhất với cây sắn, mà ăn sao được sắn quanh năm. Người dân trong vùng vẫn trồng rồi chở ra chợ đồng bằng bán làm của ăn chơi quà vặt. Vất vả thiếu thốn chứ đâu được an nhiên, thơ thới như ông kể.
Ngồi nói lảm nhảm giọng gió phào phào kể lại chuyện quê hương từ cái thuở nảo, thuở nào, mà ông già cứ say sưa như vừa xảy ra. Tôi hẹn với ông: “Tối rồi, chú về khoa nghỉ ngơi đi. Mai chú lại ra đây cho mát ạ". Ông đứng dậy, chào tôi rồi cắp cái mo cau tập tễnh bước đi. Tôi biết dù không hẹn, ngày mai ông vẫn lại ra và lại bắt đầu câu chuyện làng quê trước sau, xa gần lộn xộn...
https://thuviensach.vn
Bóng ông già nhập nhoạng dưới những cây xà cừ cổ thụ, khăn mặt màu cháo lòng vắt trên vai. Ông đi về khu điều trị thương binh khoa ngoại.
*
* *
Chiều tối hôm sau, ông già thương binh mất một góc hàm trái lại ra quán hàng của tôi. Ông không ngồi lẩm bẩm nói phào phào một mình nữa. Tôi xếp gọn gàng mấy thứ tạp hóa lặt vặt lại. Thời tiết này, chỉ những thứ nước giải khát mát mẻ là đắt hàng, còn mấy thứ kim chỉ vá may, đồ chơi cho trẻ con hay những quyển sách bìa dày cộp thì ai mà thèm đụng đến thành ra hàng của tôi ế ẩm quá chừng. Có hôm tôi đóng quán, đi lang thang lòng vòng ở bệnh viện. Tôi thường bị ám ảnh bởi những chiếc nạng gỗ chống lọc cọc xuống con đường xi măng trơ trọi trong bệnh viện, hoặc là những ống tay áo vắt lủng lẳng sau vai của một người nào đó bởi một cánh tay đã gửi lại nơi chiến trường.
Tôi chỉ được biết mặt cha qua tấm hình đặt dưới cái bằng “Tổ quốc ghi công”. Bà nội tôi kể lại rằng: Một chiều cuối năm, cha tôi tạt qua nhà. Lúc ấy mẹ tôi đang tất bật gói bánh chưng ở cửa hàng thực phẩm, biết tin chồng về, mẹ tôi vội vàng để thịt mỡ, đậu xanh, lá dong, gạo nếp lại, cuống cuồng đạp xe về nhà...
Bà tôi khẽ khàng đóng cửa, và ngồi xây lưng lại như người gác ở bên ngoài. Ai hỏi mẹ tôi, bà cũng bảo chưa về nhà. Khi bóng tối sập xuống, tiếng còi tàu hú vang ngoài ga Hàng Cỏ, cha tôi khoác vội cái ba lô cậy cửa nhào ra ôm chặt lấy bà. Bà tôi ôm lấy con trai, nước mắt chảy dài. Mẹ lại cuống cuồng chở cha tôi ra ga, sau lưng là bà tôi ngồi thụp xuống thềm âm thầm khóc. Chỉ đến khi con tàu lẫn vào màn đêm, mẹ tôi mới lau nước mắt rồi vội quay lại cửa hàng. Đàn chuột cống đã nhanh chân xơi sạch cả mấy tô thịt gói bánh. Năm ấy, bánh chưng của cửa hàng không có nhân thịt lợn.
https://thuviensach.vn
Tôi ra đời vào một chiều cuối thu nắng vàng rực rỡ. Cha tôi mãi mãi ở lại chiến trường, dù mẹ héo mòn chờ đợi cha tôi về, để khoe con gái...
Tôi kể tiếp với ông già mất một góc hàm trái về chuyện mẹ tôi, bao năm rồi, mẹ luôn sống bằng ký ức. Năm nào làm giỗ cha tôi xong, mẹ lại vào Quảng Trị. Lần nào mẹ cũng ôm một bó hoa hồng từ Hà Nội vào để thả xuống dòng sông, nơi cha tôi đã hy sinh. Mẹ ngồi hết chiều trên bờ sông Thạch Hãn, một mình lầm rầm nói chuyện với người âm. Lần nào trước khi ra về mẹ cũng nói với cha: "Sang năm... cuối tháng bảy... em lại vào".
Nghe tôi kể, ông già thương binh thở dài đếnnão ruột.
*
* *
Những ngày cuối tháng bảy năm nào quân y viện cũng đông đúc hơn thường lệ. Bệnh nhân là những người thương binh từ các trại điều dưỡng, từ các vùng quê lũ lượt về khám và điều trị. Cũng là một cơ hội gặp gỡ nhau, ôn lại những tháng ngày trận mạc. Nằm điều trị cùng nhau nhiều lần, quen thân nhau đến nỗi thuộc làu làu quê quán và đơn vị thời chiến tranh, đánh ở chiến trường nào, thương tật ra sao. Tất nhiên, mỗi lần gặp lại, họ biết thêm về nhau nhiều điều mới mẻ trong cuộc sống đời thường: chuyện đứa cháu nội mới chào đời, con bò cái mắn đẻ, bà vợ già hay đi đái đêm..., trên trời dưới biển đủ thứ chuyện.
Tháng bảy năm nay, tiết trời dịu hơn mọi năm trước, nhưng bệnh viện cũng vắng vẻ đi nhiều. Những người khó tính cứ ít dần đi, nhóm hút thuốc lào của năm trước chỉ còn lại ba người. Cứ thấp thoáng xa gần từng khuôn mặt, từng giọng nói, từng vùng quê của họ... ám ảnh trong trí nhớ của tôi.
Ông già thương binh hàm trái mất một góc ấy lại về nằm viện. Ông xách ra cho tôi cân bột sắn, một gói lá kim tiền thảo và chục trứng gà. Ông khoe: "Cái đèn pin chị cho, chú dùng vẫn tốt lắm". Ông bảo, chú không ốm
https://thuviensach.vn
đau gì cả. Chú về bệnh viện để gặp gỡ anh em bạn bè thôi. Ngày trước, đơn vị chú cũng đánh Quảng Trị. Ác liệt lắm, mình còn lê được tấm thân về đây là lãi rồi, tốt phúc lắm rồi, đòi hỏi làm gì, ầm ĩ mà làm gì.
Trước khi đổi quần áo bệnh nhân, ông già thương binh mặc quân phục thẳng ly, ngực đeo đầy huân huy chương. Lần đầu tiên tôi thấy ông vui vẻ, hoạt bát. Tôi lặng lẽ ngắm nhìn người lính già trang nghiêm trước mặt. Ở cửa phòng khám bệnh, ông nhanh nhẹn đi bắt tay từng người, kể cả quen hay không quen, có lẽ với ông, cứ vào đến bệnh viện quân đội đều là thân thiết, đều là đồng chí.
Tôi không nghĩ đây là lần cuối cùng ông già đến bệnh viện, bởi kết quả xét nghiệm rất bi quan, ông bị ung thư dạ dày đã di căn lên phổi. Tội nghiệp ông già, những cơn đau bụng âm ỉ xuất hiện từ sau Tết. Cơn đau thường lẫn lộn với cái nhức nhối của vết thương cũ, với ông thì đau gì cũng là trái gió trở trời nên nó hành hạ. Đau chán, nhức nhối vài ngày rồi cũng xong. Lạ kỳ! Ông cứ một mực nghĩ: Đến bệnh viện là chỉ để gặp gỡ đồng đội trong những ngày cuối tháng bảy chứ hoàn toàn không phải bệnh tật...
Con gái út của ông nói với tôi rằng, thôi thì để ông vui vẻ những ngày cuối cuộc đời. Chị đã nhờ người bác sĩ quân y làm giả cái giấy xét nghiệm ghi "viêm dạ dày mãn..." rồi đưa cho ông xem. Chị nói với cha rằng, chứng viêm dạ dày ai chả bị, bố cứ điều trị qua tháng bảy, nếu không khỏi thì về quê. Chúng con đưa bố đến gặp bà lang núi kiếm ít lá thuốc sắc đặc, uống là khỏi ngay. Ông nghe xong, cố mỉm cười.
Chiều bệnh viện oi nồng hơn nơi khác. Tôi vào thăm, ông đang truyền nước. Đôi mắt hấp háy, không mở to ra được, những ngón tay khẽ động đậy, muốn giơ ra cũng chẳng được nữa rồi. Tôi hỏi han ông vài ba câu cốt để khỏa lấp nỗi lo âu:
“Ngày 27 tháng 7 năm nay, chú có lên nhận hoa bệnh viện tặng nữa không ạ?”.
https://thuviensach.vn
Chẳng hiểu sao, ông lại lảng đi chuyện khác. Da mặt nhăn nheo, sạm lại, ông vẫn cố cười, bảo:
“Chú năm nay 73, sang năm 74 tuổi. Qua năm tuổi chú sẽ khỏi bệnh". “...”
Tôi lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh ông, nắm lấy bàn tay khô khẳng lạnh giá của ông, khẽ gọi: "Chú ơi! ". Miệng ông mấp máy, nhưng hơi thở của ông gấp gấp, rồi nghẹn lại. Tôi cúi xuống, giọng sẽ sàng lại nói với ông câu chuyện mà ông đã nghe nhiều lần: "... Mẹ cháu vào Quảng Trị mới về chú ạ..."
Tôi thấy ông khẽ gật đầu, lại mỉm cười.
Rồi nụ cười chợt tắt, nhưng gương mặt vẫn rạng rỡ. Có lẽ ông đang nghĩ đến đàn bò đen, lũ trâu trắng no tròn đủng đỉnh trên con đường cát, bụi mù của những buổi chiều mặt trời xuống núi.
4-2014
https://thuviensach.vn
BẾN ĐỢI
Nhiều Tác Giả
www.dtv-ebook.com
Mảnh Vườn Xưa Yêu Dấu - Vũ Minh Nguyệt
Bà nội đón cháu gái ngay lối rẽ vào cổng phía sau nhà. “Cẩn thận cháu!”. Hai bà cháu đi như dìu nhau trong cái ngõ hẹp. Bà nội nhai trầu cười sóm sém, khuôn mặt già nua, nhăn nhúm tưởng như kẹp da, kéo ra được. Cháu gái nhìn ngửa mặt lên trời đầy sương muối, thấy mắt mình ướt nhoè nhoẹt. Bước chân cháu gái lâng châng như muốn đổ ập vào lòng bà nội. Rõ xấu hổ, đứa cháu gái côi cút của bà có còn bé dại gì đâu? “Nhà ai to thế hả bà?". “Trường mẫu giáo, nhà trẻ đấy, cháu chả chịu về, người ta xây lại rõ đẹp”. Chỗ ấy, trước kia là mảnh vườn trống trơ, bên góc trái có cái rãnh nước, khoai ngứa tím mọc um tùm, thỉnh thoảng bà nội cắt những đọt non nấu mẻ, cháu gái ăn nhỏ nhẻ một thìa ngứa móc cả họng. Bà nội khen ngon, bà bảo mát ruột, nhưng cháu gái tưởng tượng ra những con sâu khoai, to như ngón tay, có hai cái râu vểnh lên bò ngoe nguẩy, khủng khiếp. Giờ nghĩ lại cháu vẫn rùng mình. Toàn bộ khu đất còn lại chỉ có cỏ dại mọc lưa thưa. Lạ thế, miếng đất giữa làng thành ra hoang hoải. Vậy mà suốt thời thơ ấu, mảnh vườn ấy là thiên đường của cháu gái và lũ trẻ con lối xóm. Mảnh vườn huyền bí ngăn cách cánh đồng với ngôi nhà của hai bà cháu là một bụi dây leo rậm rịt lá cọc dậu, sắn dây và cả bìm bìm làm thành một bức tường thành chắc chắn. Ấy vậy mà bọn trẻ trâu vẫn tìm ra dây sắn, chúng dùng liềm cắt trộm để nhai. Mấy ngày sau những đám là úa vàng, héo quắt lại, bụi cây quang hẳn đi, đến lúc ấy bà mới biết và bà chửi. Bà nội chửi đến lúc mệt nhọc vì tiếc cái dây sắn. Bác An thấy thế bảo: “Trẻ con nó nghịch dại, bà chấp làm gì, mấy ngày nữa lại đâm chồi ngay”. Rồi bác nói nhỏ như chỉ để mình nghe: “Củ giả ra gì đâu”.
https://thuviensach.vn
Cái bụi dây leo chằng chịt ấy nhiều khi tím ngăn ngắt, chả ai phân biệt được màu của loại nào. Cọc dậu xòe lá to, non mỡ màng, đậu ván cũng len lên đua ngọn, vươn dài bám vào dây sắn, rồi bìm bìm lá nhỏ li ti nhưng dày đặc là lá. Đám cọc dậu năm nào gần Tết bà cũng nhờ chú Lành đào củ, xong chú cắt miếng đầu già, đổ mùn rồi vùi xuống. Ra Giêng, mưa xuân ẩm ướt, mải cấy hái, rau mạ, cái mậm cây bụ bẫm tím sẫm đã đâm nhoài lên khỏi ụ đất. Bà nội chỉ cần cắm cái que rào là mấy cái ngọn như có mắt, chúng bò lại và bắt ngay vào rồi mấy hôm sau đã thấy leo tít lên. Mùa hè đến, lá trùm kín mít, lấn lướt cả cây găng già. Cháu gái và lũ bạn thích nhất mấy cái dái cọc dậu, không ra quả mà cũng chẳng là củ. Buổi chiều đi học về, đói bụng, cháu gái bứt mấy cái vùi vào tro bếp, chỉ một lúc là ăn được. Mấy cái dái (thôi cứ gọi là “quả” cho đỡ thô) bé như quả sung, sống sít, nhớt lèo nhèo, chát òm, cắn dè đến giữa mới thấy hơi bơ bở... Vậy mà, hễ đứa nào ngó ngấp là bị bà mắng đấy. Ra là bà dành dặp phần cho “cái Tý” của bà.
Hai bà cháu ngồi thụt xuống giường. “Lời đất ơi, bà cứ trông mày mãi. Một chuyến công tác, công teo nữa, lúc về có mà bà chết nghẻo mất rồi con ạ. Bà không cho mày đi nữa đâu. Ở nhà, lấy chồng, bà bảo bác An xin việc dưới huyện cho. Lấy chồng, đẻ cho bà mấy đứa chắt, bà bế ẵm. À mà bà có ối tiền, tiền tuất liệt sĩ của bố mày, rồi tiền mày gửi về bà gửi vào tiết kiệm tất. Ở nhà bà cháu bên nhau, nhá. Này bà biểu: Mày đi công tác xã hội, đổi tên đẹp là Lý, Loan, Linh hay là Hồng, Hạnh... thì kệ mày, bà cứ “cái Tý” bà gọi...”. Bà nội mừng quá, bà nói một thôi một hồi, rồi cứ lụi cụi, sờ sẫm, xuýt xoa khắp người đứa cháu gái. Chả biết nó có nghe thủng không mà bà còn nói nhiều nữa cơ. Cháu gái nghe câu được, câu mất, đầu óc ù ù, gian nhà bé nhỏ chìm vào sương mù. Hương vòng trên ban thờ tỏa khói vấn vít. Gian nhà gạch xây lại trên nền đất cũ đã mấy năm, tường vôi ẩm tróc từng mảng, một mình bà không đủ hơi người cho gian nhà ấm áp. Cháu gái đã quên mùi nồng nồng từ ngày bước chân ra thành phố. Cháu gái thương bà, nếp nhà nhỏ này đã thắp lên ngọn đèn dầu nho nhỏ, tỏa ánh sáng vàng đục soi vào trang vở cho nó học bài, quen thân mùi trầu đậm vôi, cay cay mỗi
https://thuviensach.vn
buổi tối. Ngày cháu gái xách tòng teng cái túi vải, bước chân qua bức tường dây leo chằng chịt, bà nội dùng dằng rồi quay đi chấm những giọt nước mắt đang tràn xuống má. Mấy năm đại học, cháu gái cứ ám ảnh những giọt nước mắt lăn dài của bà nội mãi.
Bà nội lụi cụi dọn dẹp cái nọ, cái kia, cháu gái quẩn quanh bên bà như con mèo con, nhưng đầu óc nó đang mải nghĩ đến ngày mai ba mươi, ngày kia mùng một Tết âm lịch rồi, lại là ngày làm việc của cơ quan. Ngày ấy xếp James Bond, Tổng giám đốc Tập đoàn khoáng sản, sẽ sang Việt Nam kiểm tra các công ty vệ tinh. Mọi giấy tờ sổ sách phải gọn trước mười sáu giờ ba mươi phút chiều ba mươi Tết.
Đang mải nghĩ ngợi sẽ nói với bà thế nào thì chuông điện thoại di động réo rắt. Bản nhạc Happy new year rộn rã. Cháu gái lật đật lục tìm hết các túi mới móc được máy ra... Chuông vẫn đổ, màn hình hiện lên khuôn mặt nghiêm trang của người đàn ông mặc comle đen, thắt calavat xanh cổ vịt. Chắc có việc quan trọng lắm cuộc gọi mới kiên nhẫn đợi như vậy. Một phát hiện lý thú là ở đây đã phủ sóng điện thoại. Mấy năm trước, mỗi lần cháu gái về quê là chịu chết, lúc ra lại bao nhiêu ngờ vực: Cô đi đâu mà ngoài vùng phủ sóng? Tại sao cô lại đóng máy?... Bao nhiêu là phiền toái từ cái chuyện quê nhà không phủ sóng thuê bao. Bà nội nghển nghển tai lắng nghe chuông điện thoại, bà cười nhăn nheo hai mắt mờ mờ máy máy. “Đài hở con?”. Nhưng khi thấy cháu gái áp sát vào tai và okê... ôkế rối rít, thì bà không cười nữa. Bà già ngơ ngác nhìn đứa cháu gái kê... kê đậu đậu với cái hộp bé tẹo tèo lấp lánh mạ vàng... Cháu gái quên mất nó đang bên bà nội, quên rồi những ngày lũn cũn theo bà nội từng bước chân trong nhà, ra khu vườn hoang cằn lưa thưa cỏ. Không gian của cháu gái bây giờ là ồn ào tấp nập, là những sáng choang đèn màu và những bộ comle, váy áo thơm ngát... Quên rồi nên cháu gái nói thật to như thói quen mỗi khi xuống xưởng máy. “Sắp xong rồi sếp ạ, trưa mai, trưa mai khoảng 12 giờ em sẽ đi ô tô đến”... Bà nội ngơ ngác nhìn rồi lẩm bẩm: Cái gì, nó vừa bảo cái gì? Đến đâu nhỉ? Hay là nó đi thăm bạn bè rồi lại về với bà... Bà lão lại
https://thuviensach.vn