🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bây Giờ Tháng Mấy - Hoàng Hải Thủy full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] Ebooks Nhóm Zalo BÂY GIỜ THÁNG MẤY Tác giả: Hoàng Hải Thủy NXB CHIÊU DƯƠNG 1970 Text: Internet Ebook: Cùi Bắp LỜI DẪN L úc “MẮT EM ĐẸP TRỜI SAO” là lúc anh nhìn thấy tình yêu trong mắt em. Những đêm trăng mùa thu sáng vàng trời khi chúng ta chung sống năm vợ chồng đầu tiên ở căn nhà đường Mayer. Em còn nhớ những đêm trăng vàng đó không em? Anh chắc em phải nhớ kỹ hơn anh. Và ngày đó anh mới bước chân vào Tình Yêu, anh đúng là một gã con trai lần đầu tiên đặt những bước chân mê đắm đi trên con đường tình ái. Lúc đó, gã con trai ấy tưởng là nó đã đi vững lắm – Gã con trai đó là Anh – nhưng thực ra anh đã đi theo bàn tay yêu đương dẫn dắt của em, anh đã đi theo bước chân em đi trên con đường Tình Ái. Lúc đó, anh mới và hãy còn là một gã con trai, còn em, em đã là một người đàn bà. Một người đàn bà đa tình và yêu thương – Đa tình với anh và yêu thương anh – Khi chúng ta mới gặp nhau, khi chúng ta mới yêu nhau. Lúc “Mắt em đẹp trời sao” là lúc anh nhìn thấy trời sao trong mắt em. Có người nào trên cõi đời này, nói là “tôi đã yêu, tôi đã được yêu” mà lại ngẩn ngơ trả lời “tôi chưa hề trông thấy trời sao trong mắt người–tôi–yêu–và–người–yêu–tôi”. (Em chú ý : ở đây anh đánh năm bẩy cái dấu gạch nối, vì yêu là gần gũi, vì yêu không phải là xa rời, vì khi yêu xa nhau cũng vẫn là gần nhau, vì yêu khi không được yêu lại người yêu chân chính cũng vẫn yêu, vẫn gần người mình yêu. Vưỡn yêu, vưỡn gần. Như thường. Bây giờ khi yêu em, anh mới hiểu tại sao ở đời này, có những thằng đàng hoàng, tư cách hơn chán vạn thằng mà vẫn chịu đựng được, vẫn cứ phây phây chung sống với những con vợ ngoại tình, vẫn yêu những con vợ không yêu chúng nó mà lại yêu những thằng khác, ngủ, sung sướng với thằng khác. Anh hiểu và anh sẽ dần dần nói đến, trở lại trong những trang sau của cuốn tiểu thuyết tình dài này, của cuốn truyện kể lại lịch sử yêu đương của anh với em. Của anh mí em. Em cứ chịu khó đọc đi. Em sẽ xúc động, em sẽ cảm động và em sẽ cười, em sẽ yêu anh. Cuốn truyện này là cuốn truyện mà anh vẫn nghĩ là có ngày anh sẽ viết nhưng chưa bao giờ anh nghĩ đến chuyện ngày nào anh sẽ viết, và đêm nay anh viết). Bây giờ chúng ta trở lại với câu hỏi trên đây: Có người nào trên cõi đời này, nói là “tôi đã yêu, tôi đã được yêu” mà lại ngẩn ngơ trả lời “tôi chưa hề trông thấy trời sao trong mắt người–tôi– yêu–và–người–yêu–tôi”. Em đừng nghĩ và em đừng sợ rằng anh viết văn lầm cẩm rắc rối và không liên lạc. Em ơi, em đừng sợ. Chỉ cần anh viết ra là chuyện hay rồi. Người đọc sẽ hiểu là anh muốn viết gì, muốn nói gì, tại sao anh lại viết thế v.v. .. Bởi vì anh biết người đọc truyện này của anh và em phải là những người yêu đương, đã yêu đã sướng đã khổ. Bọn không yêu đương và không hề được yêu đương bao giờ không phải là người đọc truyện này. – Những người đó không đọc tiểu thuyết – Họ quảng cáo House for Rent, Cáo thị Đấu thầu công khai và khẩn hạ, Bar sang chỗ thị tứ dang đông khách huê lợi nhiều – Họ đọc giá vàng lên xuống, họ đọc tin Tầu đến Tầu đi – Họ đọc những mẩu tin cướp giật, hiếp dâm, úp hụi, ăn chơi quỵt, đàn bà đánh ghen. Họ không đọc truyện tình yêu. Họ đọc tin người bị quân xa Mỹ cán chết, tin nhà người khác cháy, tin vợ người bỏ đi. Họ vui với những chuyện đau đớn và chết chóc của người khác. Lại trở lại với câu – Có người nào v.v.. Không thể có người nào nói như thế mà lại trả lời như thế. Bởi vì nếu yêu thì chém chết chúng ta cũng nhìn thấy «trăng sao trong mắt người yêu» dù cho người yêu của chúng ta có mù tịt cả hai con mắt đi chăng nữa. Vưỡn nhìn thấy. Không thể không nhìn thấy. Kẻ nào không thấy là chưa yêu. Như anh đã yêu em và đã được em yêu, nên anh đã nhìn thấy «trăng sao trong mắt em», thấy «mắt em đẹp trời sao» – Bao nhiêu lần? Nhiều – Nhiều lần – Ở đâu? Ở bất cứ đâu – ở tất cả cả, ở mọi chỗ chúng ta yêu nhau và anh thò tay ra ngoài màn bật cây đèn nhỏ lên để chút ánh sáng đủ yếu để không đánh thức các con ta dậy, đủ sáng để anh nhìn rõ mặt em, để anh nhìn mắt em. «Mắt em đẹp trời sao» rõ nhất – đúng là sao, sao đến nỗi không còn trời sao nào có thể trời sao hơn được nữa – là những đêm trăng sao mà chúng ta dắt nhau lên sân thượng của căn nhà lầu chúng ta chung sống những năm đầu tiên trong 12 năm chúng ta chung sống ở đường Mayer. Đêm khuya mười một, mười hai giờ, sân thượng của bốn căn lầu liền nhau vắng tanh. Vào giờ đó, ở trên 312,784 sân thượng của 312,784 căn nhà có sân thượng ở Sàigòn này, chẳng có ma nào dẫn nhau lên đó trừ những người yêu nhau. Chỉ có những kẻ có tình yêu và có nhau mới nửa đêm trăng sao dắt nhau lên sân thượng. Những người yêu nhau và những kẻ chán đời. Những người yêu nhau lên đó để yêu nhau. Những kẻ chán đời lên đó để nhìn xuống đất, muốn nhẩy xuống tự tử. Sân thượng của những nhà Việt Nam trần trụi không có gì ngoài một sân xi-măng ráp và những lỗ cửa cho người chui lên, tụt xuống. Đó là nơi dùng để phơi quần áo. Và những gia đình có anh con trai nào thích xì-po, đặt năm bẩy quả tạ trên đó để chiều chiều lên tập đẩy. Trên sân thượng của căn nhà đường Mayer đó – năm chúng ta sống ở đó, con đường Mayer còn có tên là Mayer, năm nay nó đã có tên khác, song anh vẫn thích cái tên đường Mayer, anh vẫn muốn gọi nó là đường Mayer, một cái tên Tây hiền từ hiếm có trong số 752 cái tên Tây mất cảm tình, có những âm thanh chướng tai, nói lên nghe man rợ, đường đặt cho nhiều đường phố ở Sàigòn: Eyraud Des Vergnes, Borgnis Desbordes, Général Lizé, De Lattre de Tassigny, Mac Mahon, Dixmude, Legrand de la Lyraye v.v... Nhưng Mayer! Cái tên nghe êm chứ. Như hai âm thanh tình tứ, như tiếng gọi : “Em ơi” – “Mayer”. Trong tình yêu của chúng ta, đường Mayer sẽ muôn năm, vĩnh viễn, ngàn đời là đường Mayer. Mai sau, nếu có bao giờ... Nếu có bao giờ chẳng may cho đất nước này – quê hương đau khổ – văn chương của anh có đi vào văn học sử, các anh chị học trò con cháu của anh và em sẽ phải lục tìm và kê khai con đường Mayer của anh và em là con đường nào, nằm ở khu nào, trong đô thành Saigon này. Trên sân thượng của căn nhà đường Mayer đó, những đêm trăng mùa thu, anh đã theo em lên đó. Cả đô thành, cả trời đất này như chỉ còn có anh và em là sống. Les Amoureux sont seuls au monde. Toujours. Những kẻ yêu nhau thường chỉ có nhau là sống trên cõi đời này. Đúng đấy. Và những người yêu nhau tầm thường đã vậy rồi. Những người yêu nhau chân chính như anh và em thì còn «chỉ có nhau một mình» biết là bao nhiêu mà kể. Và trên đó, anh đã thấy «mắt em đẹp trời sao». Em nằm ngửa trên chiếc chiếu trải trên nền xi-măng thật ráp – ráp có thể làm trầy đầu gối anh nếu anh không cẩn thận, nếu anh buông thả trong nồng nhiệt – khuôn mặt em đẹp với sống mũi cao như mũi đầm, ngước lên trời trăng sao. Ở trên đời này, có những người đàn bà khổ sở vì có những sống mũi không được cao, không tận hưởng được lạc thú ở đời vì có những sống mũi tẹt, cà chua, sư tử, huyếch. Có những người đàn bà phải vất vả sang tận Nhật để nhờ thầy sửa lại sống mũi cho cao, xẻ lại đôi mắt cho lớn, cho tình. Song em, em của anh, sống mũi đầm lai của em khi Má em sinh ra em đã đẹp. Khi anh viết rằng em nằm ngửa và khuôn mặt em ngước lên trời trăng sao, anh không viết thừa một chữ nào hết. Anh không cẩn thận quá đâu. Có thể có người sẽ nài: đã nằm ngửa thì lẽ tự nhiên mặt mũi phải ngửa lên trời rồi, nằm ngửa mà úp xuống sao được?? Lầm. Có khi người ta nằm ngửa mà mặt vẫn úp được, nhất là khi người ta là đàn bà. Trong kho tàng hình ảnh kỷ niệm của anh, hình ảnh em những đêm trăng đó sáng rỡ, sáng như trăng, như ngọc, như kim cương không bao giờ phai nhạt. Đêm nay, tháng này, năm nay anh nhớ lại và tưởng như hình ảnh đó mới xảy ra đêm hôm qua. 12 năm rồi đấy. Chính em nói với anh là em đã sống với anh 12 năm, trong khi anh tưởng là mới chỉ có 10 năm. Thời gian qua thật mau mà cũng thật lâu. Như Dudintsev viết trong truyện ngắn New Year Fable : «thời gian là một cái gì có thể co vào và dãn ra được ». Như thời gian sống trong Tình yêu qua đi thật mau, như thời gian sống trong Tình yêu thật dài. Anh ngồi bên em, anh nằm bên em, ánh trăng chan hòa trên em như nước. Những lúc đó, anh chỉ còn biết có em, anh không ghi nhận gì về anh nữa. Cuộc sống của anh qui tụ lại quanh em, trong em. Trong tâm hồn và trong thể xác em. Vũ trụ của anh là da thịt em, là núi ngực, rừng tóc, đùi thon, vai mởn và đùi dài; là thung lũng lưng eo, là cồn cát mông tròn gợn. Những đêm đó, tuy anh vẫn yêu em mỗi ngày, vẫn yêu em suốt ngày, anh vẫn thèm thuồng yêu em và thân thể em. Anh chống tay trên em và nhìn xuống thấy «mắt em đẹp trời sao ». Em yêu dấu, trong truyện dài Tình yêu chúng ta, anh mở đầu bằng một bài ca. Lẽ ra ngoài việc viết tiểu thuyết, làm báo và làm cho cuộc đời anh trở nên một bài thơ dài, anh còn phải là nhạc sĩ – ít nhất – Và thi sĩ. Vì Thơ và Nhạc là tiếng nói của Tình yêu. Khi yêu, người ta không cần hát nhưng mạch máu, trái tim của chúng ta đã hát, vẫn hát. Khi tình yêu chết, tiếng hát ngừng. Tiếng hát sau khi Tình yêu đi được gọi là Tiếng hát đau thương, tiếng ra tuyệt vọng... cũng vẫn là tiếng hát ca tụng tình yêu. Một thứ Tình yêu đã . Đã yêu cũng vẫn là còn yêu. Tình yêu một chiều, một nhóm, đơn phương. Tình yêu không có đáp ứng. Tình yêu không được thỏa mãn. Tình yêu khi còn tiếng hát, dù là đau thương, dù có tuyệt vọng, Tình yêu vẫn chưa hết. Lẽ ra anh ít nhất – phải là nhạc sĩ, không là nhạc công, nhạc sĩ sáng tác kia. Âm nhạc là tiếng nói của tình yêu. Tình yêu chỉ có thể thốt ra trọn vẹn bằng âm thanh, không thể trọn vẹn bằng chữ viết. Có lẽ vì chữ viết là do con người đặt ra, âm thanh là một trong số những gi Trời chế tạo và ban cho loài người dùng. Mà cái gì của Trời vẫn quí hơn của người. Em thấy rõ nhé: bức thư tình lâm ly êm ái, gợi cảm nhất của văn chương Pháp không làm cho em, khi em còn là nữ sinh Gia Long, xúc động bằng bài Dictée khi em thi Brevet Élementaire; một truyện tình đẹp như « Hồn Không Mơ Tiên » không làm cho một cô gái Thượng xúc cảm. Nhưng một bản nhạc thì khác. Nhạc mà anh muốn nói tới đây là nhạc tình nhạc yêu, không phải thứ nhạc chọc cười hạ cấp, khiếu dâm bằng những ẩn ý. Như bài ONE DAY của Johann Strauss chẳng hạn. Nhac ca ngợi tình thì dù là nhạc nước nào, cũng là chung của tất cả thế giới. Nghe một bản nhạc tình, người ta tưởng nhớ đến ngay Tình yêu, đến người yêu, lẽ ra anh phải là nhạc sĩ. Ít nhất. Để anh có thể ca ngợi tình yêu của chúng ta mà làm cho tất cả mọi người không hề biết tí ti về tình yêu của chúng ta cũng xúc động, để anh có thể khuyến khích mọi người hãy yêu chân thành yêu không bao giờ lỗ cả. Dù người ta có yêu mà không được yêu lại, người ta vẫn còn được yêu. Tình yêu chân chính không cần cả sự đền đáp. Con người khi hồi tưởng kỷ niệm, có thể chỉ nhớ những khổ đau mà quên sung sướng, có thể chỉ nhớ sung sướng mà quên khổ đau, nhưng chỉ nhớ những đêm trăng đẹp mà không nhớ những đêm mưa dài, chỉ cần một đêm trăng yêu nhau bên nhau có nhau hoặc xa nhau cũng đủ làm cho người ta suốt đời xúc động mỗi khi nhìn thấy lại mặt trăng. Người đồng quê ngày xưa, thường lấy mặt trăng làm chứng khi thề nguyền yêu thương nhau, chờ đợi nhau là vì vậy. Bấy giờ là tháng mấy ?? Những ngày chúng ta yêu thương đầu tiên ấy là mùa thu. Mùa thu là mùa của trăng và mây, mùa của tình yêu. Mùa thu ở Bắc là mùa đẹp nhất trong bốn mùa. Rất tiếc anh và em, chúng ta chưa có dịp nào sống chung với nhau ở Hà Nội. Chúng ta chưa được sống với nhau một ngày nào ở Hà Nội. Anh muốn đưa em về miền quê hương cũ của anh nơi anh đã sống những ngày thơ ấu, những ngày anh chưa gặp em mà anh biết rằng cuộc đời này có em và mãi sau anh sẽ được gặp em, em sẽ yêu anh và chúng ta đã yêu nhau. Nhưng anh muốn đưa em về đó, điều cần nhất,trước nhất, là đời anh phải có em, anh phải tìm được em trước đã. Anh đi tìm mùa xuân trên đời... Một việc làm không bao giờ có kết quả. Vì làm sao anh có thể tìm được mùa xuân – không ai có thể đi tìm được mùa xuân, nhất là anh , vì em ở đâu là mùa xuân ở đó. Nơi nào không có em nơi đó chỉ có mùa đông, nơi đó bao giờ, muôn năm, vĩnh viễn... chỉ là mùa đông. ★ Ở căn nhà đường Mayer, căn phòng chúng ta ngủ, căn phòng có chiếc giường ngủ đệm bông thật đẹp và lớn của em – từ chiếc giường ngủ đó, anh nghiệm thấy rằng giường ngủ của những người đàn bà đa tình trên cõi đời này, đều lớn, êm và đẹp, đối với đàn bà đa tình, cái giường là vật quan trọng nhất – nhìn ra cửa sổ, cửa sổ nhìn sang vi-la bên cạnh, và trong vườn vi-la bên cạnh, có một cây dừa. Lá dừa trong những đêm trường loáng ánh bạc; trong như dát vàng, như có nước chảy. Em đã ngủ trong căn phòng đó nhiều đêm, nhưng vì không có anh, và không có tình yêu, nên em không thấy vẻ đẹp của cảnh vật. Đến những đêm có anh nằm bên em, có tình yêu, em mới thấy cảnh vật quanh em đẹp và thơ mộng : – Anh... anh nhìn những cành lá dừa bên kia.... Đẹp quá phải không anh ?? Có một nửa đêm, em đánh thức anh dậy, để chỉ cho anh thấy những tầu lá dừa dát ánh vàng của nhà bên kia. Và anh thấy đẹp, như anh chưa từng bao giờ thấy trăng, thấy bóng dừa trong trăng. Và sau đó, anh mất ngủ. Những người suy nghĩ nhiều, những văn nghệ sĩ chân chính, thường bị bịnh mất ngủ. Đó là cái tật chung của những người suy nghĩ nhiều. Đã sắp chợp ngủ, tuy trong người rất mệt, chỉ cần một thắc mắc một suy nghĩ nhỏ làm bận trí, ý nghĩ vui hoặc buồn cùng vậy, là anh tỉnh ngủ luôn. Trước nửa đêm đó, chúng ta đã yêu nhau – 6 tháng đầu tiên chúng ta chung sống, đêm nào cũng vậy. Nửa đêm em thao thức nằm bên anh, nhìn qua cửa sổ, ngắm lá dừa đẹp trong đêm trăng, em đánh thức anh dậy để anh thưởng thức. Sau đó, chúng ta lại yêu nhau. Lần yêu nhau thứ hai trong đêm. Và sau cuộc ái ân thứ hai đó, em đa tình hơn, nồng nàn hơn, sôi nổi hơn, mạnh mẽ hơn – em với anh bao giờ, lần nào cũng đa tình, nồng nàn, sôi nổi và mạnh như sóng cuốn, như gió thổi – song lần này em hơn, có lẽ vì cảnh trăng sáng ở bên ngoài quá đẹp – Em yêu và ân ái với trăng sáng ở trong lòng em – Rồi em mệt và em ngủ. Và anh mệt nhưng không ngủ được. Anh nằm bên em, nghe tiếng em thở đều, tiếng thở trong giấc ngủ lấy lại sức khỏe của một người đàn bà đa tình sau cơn ân ái với người yêu–hết mình không gìn giữ –có cái âm thanh của tiếng ngáy. Ngáy là gì? Ngáy là thở mạnh, phải không em? Đàn bà ngáy nhẹ như em đâu có xấu đâu có gì chướng tai. Miễn là ngáy nhẹ như em, đừng kéo gỗ quá lớn. Anh nhìn khuôn mặt em bình yên, hiền lành trong giẫc ngủ và hồi tưởng lại lần đầu tiên anh gặp em, lần đầu anh nhìn kỹ nét mặt em. Có người nói rằng và tin rằng con người ta trong giấc ngủ người nào cũng hiền lành. Nghĩa là khi ngủ nét mặt người nào cũng lành. Anh không nghĩ thế. Trước khi gặp em, anh cho lời nói trên đây là đúng. Nhưng sau khi gặp, yêu em và nằm lặng nhìn em ngủ, anh không cho lời nói đó là đúng nữa. Chỉ có những người tốt và yêu đương như em chẳng hạn và trẻ thơ, khi ngủ, nét mặt rất hiền, mới bình yên. Bọn độc ác, bất nhân, bọn lòng dạ giả dối, khi chúng tỉnh giấc, có thể che dấu được những cảm nghĩ thực của chúng. Nhưng khi chúng ngủ, chúng không giữ được, bao nhiêu xấu xa, bẩn thỉu của đời chúng, hiện cả trên mặt chúng. Người ta khi ngủ, linh hồn cũng phiêu diêu, bay ra khỏi xác gần như là chết, khi đó, người ta còn dấu diếm được gì nữa. Đêm đó. nhìn em bình yên ngủ tốt lành anh bỗng như nhìn thấy cả cuộc đời anh mai sau, như nhìn thấy con đường trải dài trước mặt, Con đường mà anh sẽ đi, với em, có em, Rồi đây trên những lối đi này. Anh sẽ cùng em tay nắm tay... Và anh nhè nhẹ trở dậy, ra khỏi giường. Để cho em trong giấc ngủ khỏi giật mình – Anh ra bàn viết ngồi hút thuốc lá. Trong đêm khuya một mình anh ngồi với anh bên bàn viết, tiếng động của thành phố về đêm tắt dần – Thành phố về khuya thiệt êm – Năm đó Saigon chưa có nhiều xe cộ, máy móc, nhiều người như năm nay. Anh ngồi nhìn về tương lai anh trong đêm khuya, với tiếng thở của em ở sau lưng như tiếng nhạc đệm cho một đoạn phim tình. Tiếng thở bình yên, nhịp nhàng, như tiếng ca trầm tĩnh : « Có em yêu anh. Bao giờ em cũng yêu anh. Em chỉ yêu có mình anh. Anh đừng sợ... Đừng bao giờ sợ ». Như tiếng gió reo, suối róc rách đệm cho những vùng cảnh đẹp. Anh bật đèn bàn, cầm bút, và tay anh viết nên thơ : Mùa thu mây trắng xây thành Tình Em mầu ấy cỏ xanh da trời Hoa lòng Em có về tươi Môi Em có thắm nửa đời vì anh ? Đã lâu lắm anh không làm thơ. Sau một thời gian sống và khổ sở, bỗng dưng nguồn thơ của anh như một dòng suối, chợt cạn, đột ngột khô khan. Tâm hồn anh vẫn còn rung động, nhưng mỗi lần anh muốn làm thơ, mỗi lần anh cầm bút viết thơ, là thơ người khác hiện ra dưới ngòi bút của anh. Như một buổi sáng nào đó, chợt tỉnh giấc, chôt nhìn ra trời xanh, biết đó là sáng mùa thu và mùa thu đã về, lòng bâng khuâng hồi tưởng kỷ niệm – Kỷ niệm như Henry Miller thấy, dựng lên cao ngất, muôn mầu – bỗng muốn, bỗng thèm làm thơ, tự dưng những vần thơ của Đình Hùng dìu dịu đến, làm anh thấy rằng thơ tả sáng mùa thu và tình yêu như vậy là nhất rồi, anh không còn cần phải làm thơ sáng hôm đó nữa... Hôm nay có phải là thu Mấy năm xưa đã viễn du trở về ? Cảm vì Em bước chân đi Nước rung mặt ngọc lưu ly phớt buồn... Một buổi chiều hoàng hôn nào đó, đến trên bến nước một dòng sông, anh nhớ em muốn làm thơ, trong tiềm thức anh những câu thơ nằm sẵn in nếp của Huy Cận : Người ở phương trời, ta ở đây Chờ mong phương nọ, nhớ phương này Chờ mong phương nọ, nhớ phương này Tương tư đôi chốn, tình ngàn dậm Vạn lý sầu lên núi ngất mây ... hiện đến. Hoặc vào những buổi chiều buồn, thất vọng, thương nhớ tiếng nói của em mà không được nghe em nói, thèm khát nhìn ngắm mặt em mà chỉ có thể tưởng nhớ lại em, lại những câu thơ của Huy Cận : Rồi một buổi đứng chờ người chẳng tới Ta thấy buồn cùng mọc với trăng sao... Gió đêm thổi không ngớt niềm thương nhớ Tình đi mau, sầu ở lại lâu dài Ta bỗng để hồn tan trong nhip thở Kêu gọi người thương tiếc nỗi tàn phai... ... hiện đến và từ lâu rồi, anh không làm thơ nữa. Cho đến đêm trăng sáng đó, thức bên em ngủ, anh làm mấy câu thơ cuối cùng của đời anh, những câu thơ cho em. Chỉ bốn câu nhưng chưa bao giờ anh hài lòng đến thế. Mùa thu mây trắng xây thành Tình Em mầu ấy cỏ xanh da trời Hoa lòng Em có về tươi Môi Em có thắm nửa đời vì anh ? Kể từ ngày anh viết phóng tác Tiểu thuyết «A kiss before dying » thành « Chiếc Hôn Tử Biệt » trên báo Ngôn Luận, anh ít viết sáng tác. Vì cuốn tiểu thuyết phóng tác của anh được nhiều người theo dõi, ham đọc, nên từ đó đa số chủ báo mỗi lần nhờ anh viết truyện dài, đều nói – «Anh cho một cái phóng tác...» Lâu dần thành ra quen. Anh cứ lấy tiểu thuyết Âu, Mỹ ra phóng tác nên ngại không muốn viết sáng tác. Song, không phải như vậy là anh sáng tác không được. Anh vẫn cảm thấy trong cánh tay anh tiềm tàng một nguồn sinh lực rất mạnh, như có những dòng chữ tiểu thuyết cuồn cuộn trôi trong các thớ thịt của tay anh. Anh vẫn nghĩ và tin rằng trong một ngày nào mai sau anh sẽ sáng tác và anh sẽ viết nhiều. Trong thời gian qua, anh đã hài lòng với việc phóng tác tiểu thuyết – Kể ra cũng phải có học, có tài mới phóng tác được chứ – Không cỏ ngoại ngữ và không có tài viết chữ thành ra truyện thì phóng tác làm sao được. Ngày anh viết tiểu thuyết Môi Thắm Nửa Đời cho báo Chính Luận trước ngày Từ Chung bị bắn chết, anh đặt tên truyện theo câu thơ « Môi Em có thắm nửa đời vì anh » mà anh đã tặng em. Song, truyện đó không có chút hình dáng, hơi hướng nào của em hết. Truyện đó khác hẳn với truyện này. Truyện này anh viết về em, về mối tình của anh và em – Em sẽ nằm, ngồi, yêu, hờn, thương, giận, thở hít, tắm, ăn uống, cười, khóc, vẽ lông mày, tô son môi, nhổ lông nách, cởi và mặc quần áo, hôn hít, khạc nhổ, chửa đẻ, phá thai, tắm rửa, xức nước hoa trong truyện này – hôm nay, anh muốn viết để trở thành một người viết tiểu thuyết về Tình Yêu của mình, về Vợ mình, nhiều nhất nước, nhiều nhất thế giới. ★ Em yêu dấu, đây chỉ là, mới là đoạn mở đầu cho truyện dài của anh và em, chưa bao giờ anh viết đoạn mở đầu nào dài đến thế này. Dài nhưng không thừa, dài nhưng cần thiết. Cần phải có đoạn mở đầu này để hiểu những mẩu chuyện yêu đương sắp được diễn tả. Đoạn mở đầu chưa phải là chuyện. Những gì sau đây, những gì sắp được kể tới mấy là chuyện. Anh muốn thiên nhiên trong truyện của anh và em sẽ êm như tóc em, vì những mùa thu qua trong tình chúng ta đã trong như mắt em. Anh muốn truyện dài của chúng ta là một bản tình ca dài. Trong đó mỗi nét chữ là một vuốt ve, mỗi chấm phết là một hôn hít, mỗi con số là một nụ cười, mỗi vòng chữ là một vòng tay ôm nhau, mỗi trang giấy là một mặt giường nhầu nát in hình thân thể, anh muốn truyện của chúng ta là một cuộc ái ân dài... MỘT T ỉnh lỵ Hà Đông ở cách Hà Nội 11 cây số, không xa bằng quận lỵ Thủ Đức hoặc quận Đức Hoà xa cách thủ đô Saigon. Hà Đông được gọi là tỉnh chớ không là thành phố, vì nó nhỏ quá. Một lý do làm cho Tỉnh Hà Đông không có gì đáng kể, người Hà Đông không có ai đáng được nói tới là vì Hà Đông ở quá gần Hà Nội. Học trò Hà Đông học hết ban tiểu học ra học ở Hà Nội, có thể sáng đi tối về, đường tầu điện Hà Đông – Hà Nội chạy leng keng qua Thanh Xuân, Ngã Tư Sở, rồi Thái Hà Ấp và vào Cửa Nam Hà Nội. Dân Hà Đông muốn xem chiếu bóng cũng đi ra Hà Nội để tới những rạp Philharmonique, Majestic, ăn cao lâu cũng dắt vợ con ra Hà Nội ăn ở Đông Hưng Viên. Thị xã Hà Đông có đủ màu sắc của một tỉnh lẻ chỉ thiếu đường xe hoả và một nhà ga xép để một thi sĩ như Vũ Hoàng Chương có thể đến làm xếp ga và làm thơ «Mai sau nếu có là ta. Làm gì cũng được làm ga thì đừng» và để một văn sĩ Thanh nam có thể đến ở ít lâu và viết «Buồn ga nhỏ». Bù lại, Hà Đông có đường tầu điện như đã kể. Cũng có rạp xi-nê, một rạp hát cải lương do ông Tư Thiêm làm chủ nhân. Nhân vật Tư Thiêm — (tác giả quen gọi ông là cậu Tư Thiêm và ông anh độc đáo của ông là cậu Ba Sớm, vì ông có đi lại giao thiệp với thân phụ của tác giả) — ở Hà Đông được coi như là một nhà kinh doanh gần lớn như ông Trần-văn-Chi thân phụ của nhà giáo – nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan và nữ ca sĩ Linh Đa. Ông Tư Thiêm còn có một thời mở đường xe buýt chở khách Hà Nội – Hà Đông , bến xe đậu ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm và Đầu cầu Hà Đông. Nhưng, vì Hà Đông quá gần Hà Nội — chỉ cách có 11 cây số, thanh nhiên Hà Đông đi xe đạp cũng có thể phây phân ra Hà Nội xem xi-nê, buổi Matinée và mát mẻ đạp về nhà ăn cơm vào buổi tối nên nhà xi-nê Hà Đông gần như vắng khách thường trực, chỉ vỏn vẹn khách có mỗi một xuất Matinée 2 giờ, 4 giờ trưa chủ nhật. Mà chỉ có chiếu phim Cao Bồi hoặc Tarzan mới đông. Nhưng Hà Đông là một thành phố êm đềm. Thơ mộng thì chẳng có gì thơ mộng nhưng êm tĩnh thì thật là êm. Thị xã không có nhà máy, không có trại lính Tây, không có trại lính Khố đỏ, chỉ có một đồn lính Khố xanh, tiếng Pháp gọi là Garde Indigène. Dòng Nhuệ Giang lặng lờ chẩy qua đầu tỉnh. Xuôi dòng sông đào này, người ta có thể đi thuyền xuống những làng Cự Đà, Khúc Thủy — Tỉnh Hà Đông có Chùa Hương, Chùa Trầm và có làng Cự Đà là nổi tiếng nhất — Dân Cự Đà không nổi tiếng về có đất văn học, nhiều người đỗ đạt, làm quan như các làng Thiện, Mọc Quan Nhân, mà nổi tiếng về khoản giầu tiền và có nhiều người có tay buôn bán, giỏi làm giầu. Dân Hà Đông nói rằng làng nằm ngay sông Nhuệ, đình làng nhìn ngay ra sông, mà dòng sông tới đó thì chạy vòng thành một khúc quanh, nước sông cứ vần vũ xoay tròn ở vũng sông trước cửa đình đó không đi. Như thế là thủy tụ và thủy tụ thì dân giầu, song có cái hại là chỗ nào nước đọng thì bẩn. Do đó, trong làng Cự Đà có họ có máu phong hủi, tức là máu cùi. Ác liệt thay những cô gái có máu phong cùi này — khi nọc cùi chưa phát, khi chưa lấy chồng, chưa ân ái, chưa có hơi hướng đàn ông — lại vừa đẹp vừa giầu. Thị xã Hà Đông cũng có một khu giải trí, đó là khu Cô đầu Bông Đỏ. Gọi là Bông Đỏ vì đó là một khu mà Ty Lục Lộ có trồng nhiều hàng cây me Tây — một thứ cây do các quan Đại Pháp mang giống sang gieo rắc trên đất xứ này — vào mùa hạ, me Tây nở hoa đỏ ối. Các nhà thơ trữ tình và bọn học trò mơ mộng gọi văn vẻ là hoa phượng, dân Hà Đông gọi ngay khu phố có nhiều bông đỏ là Bông Đỏ. Xóm cô đầu Bông Đỏ cách căn nhà cuối cùng của thị xã Hà Đông chừng 1 cây số rưỡi. Từ xóm đó có đường rẽ đi vào làng La Khê, một làng chuyên dệt tơ — tơ La Khê để may áo – và quê ngoại nhà văn, nhà giáo Hiếu Chân Nguyễn Hoạt. Trên con đường đất đi từ xóm Cô đầu Bông Đỏ vào làng La Khê dệt tơ quê ngoại của nhà văn Hiếu Chân đó đặc biệt đáng kể có một cái nhà chứa phân của dân thành phố. Ngay câu chuyện nầy mở đầu ở Hà Đông, ngày nhân vật chính của truyện này còn là một thiếu niên vừa ngoài mười tuổi — một teen-ager, nói theo ngôn ngữ Hoa kỳ du nhập — tức là vào những năm từ 1940 : Nhật bắt đầu tới Đông dương, và năm 1946: Việt Minh cướp chính quyền, hệ thống giải quyết sự tiêu hóa của dân thị xã Hà Đông vẫn còn tổ chức đổ thùng của ô Năm Diệm phụ trách. Phân của dân thị xã được đem về chứa ở kho phân gần làng La khê đó để được phân loại, đóng thùng gửi đi các nơi. Bọn học trò vào làng La Khê chơi, vô phúc đi trúng vào cuối chiều gió thổi, vừa bịt mũi, vừa cười đùa, vừa chạy vừa hít hết mình. Nhân dịp ngàn năm một thuở diễn tả cảnh sắc tỉnh cũ Hà Đông, tưởng cũng nên có vài dòng hoặc là một đoạn viết về Xóm Cô đầu Bông Đỏ. Cái xóm Cô Đầu này xoàng xĩnh và rẻ tiền có lẽ nhất nước An Nam ta hồi ấy. Đó có lẽ chỉ là nơi lui tới của các ông tổng lý, kỳ hào lên tỉnh kiện cáo, hầu việc quan, hoặc của mấy ông lính lệ, lính khố xanh. Chị em ở đó không đẹp bằng bọn các em con sen ở trong tỉnh. Nhưng dòng sông Nhuệ thật hiền từ. Nhưng những đêm trăng thả một con thuyền xuôi dòng sông đi về phía Cự Đà, Khúc Thủy thì cũng đẹp và nên thơ lắm. Khái Hưng đã có đêm đi thuyền trên sông Nhuệ, thấy làm mê đắm và viết thành truyện ngắn. Nhưng Hà Đông có chùa Hương thì đẹp không đâu bằng. Nhưng Hà đông có Quản Dương ra lệnh cho lính nổ súng bắn một buổi chiều chết cả trăm thanh thiếu niên tỉnh dại dột theo bọn cán bộ Việt Minh biểu tình ào vào trại lính định cướp súng, và ven con đường tầu điện Hà đông – Hà Nội ở khoảng Thanh Xuân – Ngã Tư sở – Thái Hà ấp còn có hai hàng cây thấp, mùa xuân tôi thấy trên lá cây xanh nõn hai hàng cây thấp ấy vương vất những sợi tơ vàng tươi mởn trong mưa xuân. Chỉ mùa xuân tôi mới thấy những dây tơ vàng đó, tôi hỏi và được một người con gái nhiều tuổi hơn tôi, đáng tuổi chị tôi, bảo cho biết rằng đó là những sợi tơ hồng. – Tơ hồng gì mà lại vàng? Trên chuyến tầu điện đi giữa mưa xuân nhẹ bay ấy, tôi đi học ở Hà Nội về và nàng đi học ở Hà Nội về, nàng hơn tôi hai lớp, tôi ngây thơ tôi hỏi lại nàng như thế. Tôi ngây thơ tôi tưởng đã gọi là hồng thì phải có mầu hồng, tôi ngây thơ tôi chưa biết rằng sung sướng có thể là đau đớn và hạnh phúc có thể oan trái. Chiều xuân đó tôi chưa hiểu nhưng mai sau, nhưng bây giờ tôi hiểu. Bây giờ tôi biết những người yêu nhau xa nhau vẫn có thể thấy gần nhau, và Tình Yêu của loài người có thể chết — người ta có thể đánh thuốc độc cho Tình Yêu chết dần và đem Tình Yêu đi chôn như chôn một người chết — song một phần nào đó trong tâm hồn tôi vẫn còn nguyên ngây thơ, trong trắng như ngày hôm xưa, tôi vẫn nghĩ rằng, tin rằng Tình Yêu của loài người, Tình Yêu của các bạn, có thể chết, có thể đem chôn, còn Tình Yêu của tôi và nàng thì không bao giờ chết. ★ Người bạn-gái-chị-gái không nhìn tôi khi tôi hỏi nàng : – Tơ hồng gì mà lại vàng ? Nàng nhìn qua khung cửa sổ tầu điện xuống hàng cây xanh có những sợi tơ vàng đang lùi lại vun vút bên thành tầu vì lúc đó con tầu đang chạy. Đôi mắt nàng, tôi còn nhớ, mơ màng như nhìn tới một nơi nào thật xa. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một đôi mắt gái đẹp mơ màng và nàng đáp mơ hồ : – Tơ hồng phải vàng chứ. Nghe nàng nói thế, từ giây phút đó, tôi yên trí những dây tơ vàng đỏ là dây Tơ Hồng, loài dây có thể ràng buộc đôi người nam nữ yêu nhau thành vợ chồng, loài dây có thể giữ cho những cặp vợ chồng gần nhau. Từ đó, tôi không có dịp nào hỏi lại ai rằng những dây tơ vàng đó có thật là dây Tơ Hồng hay không. Nhưng đêm nay, sau bao nhiêu tàn nhẫn, giả dối của người và cuộc đời, đêm nay hồi tưởng lại mùa xuân cũ, giây phút qua, chuyến tầu xưa, người đã xa, tuổi trẻ đã mất, tôi muốn hỏi nàng : – Em... Em... — người năm xưa đã dạy anh những dây tơ vàng đó là dây Tơ Hồng trong một ngày mùa xuân chúng ta cùng đi học về trên chuyển tàu điện Hà nội – Hà Đông. Bây giờ em còn sống hay em đã chết ? ? Nếu em còn sổng em hãy trả lời anh : có thật đó là những dây Tơ Hồng không hay là chiều đó, em nhìn trời xuân, em nghĩ đến chuyện lấy chồng và em nói nhằng với anh như thế ? Em thấy không ? Một lời nói của đàn bà quan trọng đến là chừng nào với một thằng con trai mới lớn. Vì em nói đó là dây Tơ Hồng nên dù không phải, suốt đời anh vẫn tưởng, vẫn yên trí những sợi vàng đó là dây Tơ Hồng. Năm xưa, khi chúng ta cùng chưa ngoài 20 tuổi mà anh kém em tới hai, ba tuổi, sự hơn kém ấy xa cách lắm — Nhưng bây giờ khi chúng ta đã ngoài ba mươi tuổi, sự hơn kém vài ba tuổi đó không còn là xa cách nữa. Dù anh có kém tuổi em, em vẫn phải gọi anh là anh và xưng em với anh. Bây giờ anh trải đời rồi anh không còn dễ tin, dễ nghe lời em như năm xưa nữa đâu. Thị xã Hà Đông có hai cầu qua sông Nhuệ và chỉ có một con phố chính. Phố chính ấy có cái tên trang trọng và lớn là Boulevard de la République. Cái tên A-Nam của nó lại rất khiêm nhượng, nặng những địa phương tính và có thể liệt vào nhà quê nữa là khác. Tên A-Nam của Boulevard de la République ở thị xã Hà Đông là Phố Bóp Kèn. Boulevard de la République kể đã là lạ tồi. Đại lộ Cộng Hòa ? Nghĩa như thế đấy nhưng mà là Cộng Hòa nào ? Thời đó nước A Nam bảo hộ và thuộc địa vẫn chia ra làm 3 kỳ, vẫn có vua Bảo Đại thì Cộng Hòa nỗi gì ? Chắc đó là Cộng Hòa Pháp quốc. Cái tên Phố Bóp Kèn mới quả là kỳ cục. Bóp Kèn là cái gì ? Vì sao lại có cái tên đó ? Tuổi trẻ của tôi sẵn sàng chấp nhận cái tên phố Bóp Kèn . Nhà tôi ở phố đó. Tôi sinh trưởng trong một căn nhà có gác cuối phố Bóp Kèn thị xã Hà Đông. Tôi chưa bao giờ hỏi tại sao người ta lai gọi phố nhà tôi là phố Bóp Kèn. Tôi không thấy cái tên đó là lạ. Tỏi chỉ hơi bất mãn vì tên nó không được đẹp như những tên phố khác. Song ở thị xã Hà Đông chẳng có tên phố nào đẹp. Người ta quen gọi theo các khu như Đầu Cầu, phố Chợ, cửa Dinh, khu Chợ Trâu v.v... Phố Bóp Kèn, con phố chính của Thị Xã, dài đúng một cây số. Dinh Công sứ, Tòa sứ, Dinh Tổng Đốc, Sở Cẩm đều nằm trên phố Bóp Kèn. Và nhà tôi ở cuối phố. Tôi ra đời thì thầy tôi bắt đầu xây cất tòa nhà này. Trước đó, ông ở thuê nhà người khác — Quê quán tôi ở làng Linh Qui, Tổng Kim Sơn, Phủ Gia Lâm — vào năm 1950, Phủ này đổi thành Tỉnh — Tỉnh Bắc Ninh. Làng tôi tên chữ là Linh Qui, song có cái tên tục nghe rất hay là làng Bụi, có người phát âm là làng Vui. Những làng quanh làng tôi đều có những tên chữ hay và những tên tục thât quê như làng Kim Sơn là làng Then, làng Trân Tảo là làng Táo. Rồi những làng Keo, làng Đề, làng Bụi hoặc Vui, hoặc Linh Qui ở Bắc Ninh là một làng ở gần sông Đuống và gần đường số 5. Làng tôi nằm giữa hữu ngạn sông Đuống và đường số 5, vì vậy trong cuộc chiến tranh Việt Pháp 1946-1954, làng tôi bị tàn phá và dân làng tôi bị tàn sát nặng nề. Làng tôi cũng không phải là một làng lớn, cũng không giàu không nghèo, nhàng nhàng nhỡ nhỡ không ra làm sao cả. Làng tôi không có cảnh đẹp. Nói là gần sông Đuống, nhưng không phải là ngay trên bờ sông. Dân làng không có ai hách. Người làng tôi chỉ có một người tương đối nổi tiếng. Người đó là Dương Đức Hiền — Dân chủ Đảng. Dương Đức Hiền là anh em con chú, con bác với tôi, và anh đã chết. Làng tôi ở gần một làng có tên trong văn học sử — Làng Phú Thụy của ông Cao Bá Quát. làng Phú Thụy, có khi gọi là Phú Thị, ở gần đường số 5 hơn làng tôi. Làng Phú Thị cách làng tôi chừng 5 cây số. Làng Phú Thị có vẻ giầu, vững chãi và khang trang hơn làng tôi. Ở miền quê Bắc Việt chỉ cần trông qua lũy tre bao quanh một làng là có thể biết ngay làng đó giàu hay nghèo. Lũy tre làng Phú Thị dầy, có đất cao và cổng gỗ lim lớn, chắc hơn lũy tre, bờ đất, cổng làng của làng tôi. Trong những ngày đầu của cuộc chiến tranh Việt-Pháp ở Bắc Việt. Thầy tôi từ Hà Đông mang mẹ tôi và anh em tôi tản cư về làng Hòa Xá, Phủ Vân Đình, quê ngoại tôi, rồi thấy ở đó không ôn, lại đưa chúng tôi về thị xã Hà Đông để đi xuống đường Văn Điển, qua sông Cái, sang khu Bát Tràng, Thủ Khối —Thủ Khối là quê ngoại của Thầy tôi, nơi quê nội của Mai Thảo và anh Nguyễn Đăng Thục — để rồi đi qua đường số 5 về Linh Qui trong khi Spitfire của Pháp đã bắn phá tơi bời những làng quanh phi trường Gia Lâm và khói lửa đà bốc ngút trời ở những nơi bị bắn phá đó. Chúng tôi về làng Bụi sống trong căn nhà năm gian xưa cổ, xưa cổ đến nỗi không còn căn nhà nào cổ xưa hơn được nữa. Thời đó trước mắt tôi, ở làng Phú Thụy của cụ Cao Bá Quát có một nhân vật nổi tiếng — Người đó là anh Cao Bá Thao, con cháu của cụ Cao Bá Quát. Anh là một trong số những thi sĩ hạng nhì thời tiền chiến ở BV. Tôi nhớ thơ anh không nổi như thơ Xuân Diệu, không trữ tình, lãng mạn. Dường như thơ anh có âm điệu hùng hồn, kêu gọi hơn là than thở. Tôi đã quên hết cả thơ Cao Bá Thao, chỉ còn nhớ mấy câu anh làm ở làng Phủ Thụy hòi đầu chiến tranh, để riễu một anh cán bộ Việt cộng. Anh cán này là người làng Phú Thụy tên là Dinh, họ hàng gì đó với anh Cao Bá Thao. Dinh là Uỷ viên kháng chiến Xã. Lẽ tự nhiên, như 2.781.913 anh Uỷ viên kháng chiến Xã ở Bắc Việt, Bố cu Dinh mang súng lục, dao găm, bận y phục nâu, sống bí mật ẩn hiện bất ngờ, đi lại vi vút và ba hoa sống với Xã, chết với Xã. Nhưng, đúng theo thông lệ, ngày Quân đội Liên hiệp Pháp mở cuộc hành quân trên đường số 5 — từ Hải Phòng đi lên, từ Gia Lâm đi xuống — những người chạy trước nhất, nhanh nhất, là Cán Bộ Việt Minh và bọn Uỷ viên kháng chiến xã. Trong số những người lẹ chân nhất có Bố cu Dinh. Cao Bá Thao làm thơ riễu : Tiếng súng Cầu Bây nổ đánh ình Nhìn quanh thấy mất Bố Cu Dinh. Hỏi ra mới biết vừa quăng súng Lõm bõm qua sông lội một mình... Trên đường số 5, khoảng gần ga Phú Thụy, có một cái cầu sắt gọi là Cầu Bây, đằng sau làng Phú Thụy có một con sông đào, nước nông đàn bà xắn váy lội qua phăng phăng. Qua con sông đỏ là tới cánh đồng làng Táo rồi làng Bụi. Làng Bụi chỉ cỏ một người xuất sắc với đời là Dương Đức Hiền. Song họ Dương là họ lớn nhất làng. Con gái họ Dương. Các chị, các em gái tôi ở làng, phải một là đi lấy chồng xa, hai là ế chồng ở nhà nuôi bố, nuôi anh nuôi em. Trong, làng, ông bác tôi là Tiên chỉ. Chánh Tổng, Lý Trưởng, Phó Lý, Trương Tuần đều là chú bác tôi. Số thanh niên ở tỉnh thật hiếm. Hách nhất làng là anh Hiền, anh Lợi, rồi đến anh em tôi. Thầy tôi nói rằng xuất xứ của họ Dương chúng tôi ở làng Linh Qui đã từ một làng ở phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh giáp Hưng Yên. Tức là cũng nằm gần đường số 5. Ngày xưa, các cụ, các kỵ tôi thi trượt, không ra làm quan được, bèn đi giang hồ lang thang tìm chỗ ngồi dạy học — «Tiến vi quan, thoái vi sư» — các cụ xách gói tới đâu đất lành thì chim các cụ đậu lại, lấy vợ, đẻ con, rồi lập nghiệp luôn ở đấy. Vì vậy cụ tổ tôi mới lập họ Dương ỏ làng Linh Qui, rồi sau họ Dương hóa ra quan trọng, đông đinh nhất làng. Mỗi mùa hè về làng chơi, tôi mê đi chăn bò và được các hà Thím, bà Cô, các Anh các Chị chiều ra rít. Thầy tôi còn nói Nhà Thờ Tổ cao cấp nhất của họ tôi là ở một làng ở huyện Đông Anh tỉnh Phúc Yên. Những năm cúng tổ, các bác tôi phải mang đồ lễ về Thuận Thành, họp các tông chi ở đấy rồi mới đi lên Đông Anh. Thầy tôi ra làm việc ở Toà Tổng Đốc Hà Đông và về hưu cũng ở Hà Đông. Thầy tôi làm Thông Phán, người rất được cụ Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu tín cần. Với gia đình cụ Thiếu Hoàng, thầy tôi thân như người nhà. Thầy tôi dạy các cô con gái cụ Thiếu học ở trong dinh. Thầy tôi là người ưa nhàn, không thích bon chen xoay xỏa, làm đủ nuôi vợ con thì thôi. Thầy tôi được cử đi Tri Châu nhưng ông không đi. Với chức Thông Phán đầu tòa, tôi đã được nghe các vị Tổng Lý đến nhà tôi, vái thầy tôi rạp đến tận đất và xưng hô chúng con, quan lớn, cụ lớn nghe thật long trọng. Từ Linh Qui, Bắc Ninh, Thầy tôi sang làm việc và lập nghiệp ở Hà Đông đề rồi tôi sinh trưởng ở đó. Nguyên nhân là ông nội tôi làm việc với Quận Công Hoàng Cao Khải. Dường như có một thời, Cụ Quận trị nhậm ở Kinh Bắc, tức là ở tỉnh Bắc Ninh. Bố làm với Bố, con làm với con. Cuộc phục vụ diễn ra trong gần một trăm năm trời bị trị. Cuộc phục vụ ấy không kéo dài tới ba đời. Đến tôi là dứt. Tôi có muốn tiếp tục việc phục vụ cho gia đình họ Hoàng cũng không được vì cụ Hoàng Trọng Phu không có con trai. Cụ chỉ có mỗi một Cậu Ấm, mà cậu lại chết bất đắc. Người ta sống ở đời này, chắc phải có số mạng, chắc phải có một sức mạnh vô hình điều khiển cuộc sống của con người, làm cho người này sung sướng, sống lâu, giàu có, đông con cháu, vợ đẹp chung thủy, làm cho người kia khổ sở, chết non, hoặc sống cũng như chết, nghèo nàn, con cháu chết trước, vợ cho mọc sừng. Ngày xưa, khi mới bước chân ra khỏi cửa gia đình để đi vào cuộc đời, tôi tương đối gặp nhiều may mắn, tôi không nể sợ gì hết, tôi báng bổ, tôi không tin là đời có số. Với thần linh và những đấng mà người chung quanh tin lưỏng, thờ phượng không những tôi không tin, mà tôi còn nhạo báng. Người ta phải đi nửa đời — có người đi hết cả đời vẫn không biết — mới có thể hiểu, biết đời là gì, đời có những gì. Nếu chúng ta chỉ sung sướng, chỉ gặp toàn thành công không mà thôi, cuộc đời chúng ta vẫn chưa đầy đủ, vẫn thiếu. Phải có thất bại, phải khổ đau mới là sống, có những đau khổ bẩn thỉu và có những đau khổ đẹp. Những đau khổ đẹp làm đẹp đời sống. Nhưng với một điều kiện là đau khổ vừa thôi, đừng đau khổ quá. Đau khổ quá làm cho tâm hồn chúng ta trơ cằn, trở thành chai đá. Đau khổ quá làm cho tâm hồn chúng ta tê dại, không còn rung cảm và thông cảm được những nỗi đau khổ của người khác. Đau khổ vừa, trái lại, làm cho chúng ta thương người và thêm bao dung. «Không ai giàu ba họ. Không ai khó ba đời..» Những câu nói thông thằng của cổ nhân vậy mà đúng không thể tả. Như gia đình cụ Thiếu Hoàng ở Hà Đông chẳng hạn. Quận công Hoàng Cao Khải rồi đến Thiếu bảo Hoàng Trọng Phu quyền uy như hai vị Phó Vương đất Bắc. Quận công họ Hoàng hét ra lửa làm thơ vịnh Hai Bà Trưng với những câu đặt Hai Bà ngồi vào hàng ghế khiêm nhượng, khuất lánh mà xã hội Á Đông vẫn dành cho đàn bà... «Oanh liệt khen cho gái dị thường....». Nhưng gia đình ấy dòng họ ấy không hiển hách được ở BV đến ba đời. Những ngày cuối cùng của cụ Thiếu Hoàng trời buồn và tắt dần trong thời buổi nhiễu nhương hồi Việt Minh mới lên nắm chính quyền. Trước năm 1946 chừng 4 năm cụ Thiếu đã về nghỉ, nhường ghế Tống Đốc Hà Đông lại cho ông Vi Văn Định rồi ông Hồ Đắc Điềm. Nhưng tuy về nghỉ cụ vẫn còn là một nhân vật quan lại mà chính quyền Việt Minh thấy cần phải bôi lọ và làm cho mất uy tín. Ông cụ mất trong tòa nhà ở đường Cột Cờ Hà Nội. Đám ma về Thái Hà Ấp tẻ nhạt. Người ta còn đồn rằng cụ Thiếu tự tử chết vì sợ Việt Minh đem ra làm xấu, và cụ chết giả ? Nếu là sau năm 1954, cụ Thiếu Hoàng chắc chắn bị đấu tố ra gì. Chuyện quả báo ở đời này chắc rằng cũng có. Có thể vì Quận công Hoàng Cao Khải đã chém giết nhiều người — tôi nghiệm thấy chỉ cần giết oan một người thôi cả cuộc đời mình cũng đã bị hồn oan theo, phá hoại, làm hại — tới đời con cháu cự gặp nhiều tai họa. Cụ Thiếu Hoàng chỉ có một cậu con trai nay lại chết sớm. Bây giờ là tháng mấy nhỉ ?? Tôi nhớ đò là một buổi chiều một tháng gần mùa hạ nắng. Mùa hạ Bắc Việt nắng và nóng khủng khiếp. Giường chiếu vào khoảng hai, ba giờ trưa khi có lửa đốt, như khô cong và sắp nứt nẻ. Tôi học ở trường Tự Đức của ông Giáo Kiên. Năm giờ chiều tôi có xe tay nhà đến trường đón, nhà nào có xe tay nhà Omic sơn đen, gọng đồng vàng ngời, đã sang như bây giờ có xe hơi HK. Thằng Hướng, thằng xe nhà tôi, đón tôi từ trường về ghé vào dinh Tổng đốc chờ đón Thầy tôi về. Tôi vào dinh chạy chơi. Thềm nhà cao, những dẫy hành lang dài và sạch. Phòng làm việc của thầy tôi có cái quạt trần bằng vải, ngoài cửa có một anh bé con bằng tuổi tôi vừa ngồi kéo quạt vừa ngủ gật. Trên bàn thầy tôi có cái máy đánh chữ Remington, một thứ cơ khí hoàn toàn mới lạ với tôi. Tôi tò mò hỏi máy đó là máy gì ? Thầy tôi nói đó là máy chữ. Ông cho tôi ngồi lên bàn, cho một phong bì vào máy, gõ lách tách mấy cái. Phong bì màu xanh di chuyển trên trục máy đen sì. Nhưng chữ in mầu xanh đậm hiện ra trên nền giấy mầu xanh nhạt. Từng chữ, từng chữ theo nhau : Monsieur DƯƠNG TRỌNG HẢI No 116 Boulevard de lu République HÀ ĐÔNG — TONKIN Phong bì thư đầu tiên mang tên tôi trong đời tôi là một phong bì do người sinh ra tôi đánh bằng máy chữ. Trong phong bì không có thư, không có một chữ nào khác ngoài tên tôi, không có những lời âu yếm như — « Bố yêu thương con lắm – Bố thương con nhất đời – Với bố, con là nhất» — cũng không có những lời mong ước — « Bố mong mai sau con sẽ đỗ đạt cao, con sẽ làm quan, con sẽ hách, con sẽ làm họ ta mở mày, mở mặt với thiên hạ..» — cũng chẳng có những lời yêu cầu — « Hải, con phải có hiếu với thầy...» Nhưng... trong phong bì thư đó, có chứa đựng tất cả những nỗi yêu thương, trìu mến mà vũ trụ này có thể có. Tôi có thể tả vi vút về mọi thứ tình yêu, nhưng tôi tự thú : tôi không thể tả được một phần nghìn của thứ tình yêu đã dành đã gởi cho tôi trong bức thư không lời trong một buổi chicu mùa hạ trong Dinh Tổng đốc Hà Đông. Có những tình yêu không thể tả bằng lời, không thể không nên và không được. Như tình yêu cha con, như tình yêu vợ chồng, nói tóm lại là tình yêu thuần túy. Tình yêu không còn gì khác. Tình yêu chỉ có thể nói được trong ba tiếng «Bố yêu con», «Anh yêu em», rồi thôi đừng nói gì hơn nữa. Bởi vì thế đã là đủ quá rồi. Bởi vì nếu khi người bố nói với con rằng «Bố yêu con» mà đứa con không hiểu, đứa con đó mai sau chắc chắn sẽ ăn mày, ăn nhặt. Khi người đàn ông nói « Anh yêu em » mà người đàn bà chưa thấy tình yêu, chưa cho là đủ, thì cũng chẳng còn có gì để mà nói thêm với nhau nữa. ★ Tôi chạy chơi trong Dinh — Những văn phòng lúc đó còn có người, những ông Thừa, ông Lục lạ mặt — Tôi đi ra vườn cây. Tuổi trẻ, mỗi khu vườn không phải là vườn nhà mình, là một khu rừng cấm tràn đầy bí mật và cần thám hiểm. Với một đứa bé vừa qua mười tuổi, mỗi căn nhà lạ không phải nhà mình là một thế giới khác. Và tôi tha thẩn đi chơi một mình trong vườn cây dinh Tổng đốc Hà Đông. Những lối sỏi có nhiều hòn sỏi nhỏ, vân đỏ, đen, tím lượm cầm chơi một lúc, bỏ túi đề rồi lại vứt đi. Những bồn cỏ được những chú lính lệ chăm tưới mỗi chiều, tuy mùa hạ vẫn xanh tốt. Những chậu trồng cây hoa mà tôi không biết tên. Một buổi chiều tháng hạ đó, đang đi thơ thẩn trong khu vườn vắng trong dinh tôi bỗng gặp một cụ già — Một cụ già mặc áo gấm lam — Người dong dỏng cao, hai tay dài, tóc bạc, da trắng trông thật sang và hiền từ. Ông cụ cũng đi thơ thẩn trong vườn như tôi. Thoắt thấy tôi biết ngay ông cụ là cụ Thiếu Hoàng, là người đang làm chủ tòa dinh thự này, là người chỉ huy cao cấp nhất ở đây. Tự nhiên, tôi có một thái độ ngoan ngoãn, hiền lành. Chắc ông cụ nhận thấy vẻ ngoan hiền ấy của tôi, nên khi trẻ già gặp nhau trên lối sỏi của buổi chiều mùa hạ, ông cụ hỏi tôi: – Cháu là con nhà ai ? Tôi xưng tên tôi và tên thầy tôi, và nói thêm rằng tôi đi học về, vào đón thầy tôi cùng về. Ồng cụ khen ngoan, và chúng tôi chia tay nhau. Đó là lần đầu tôi gặp cụ Thiếu Hoàng và là lần duy nhất tôi với cụ trao đổi vài lời hỏi đáp. Sau đó còn một vài lần nữa tôi nhìn thấy ông cụ ngồi trong xe hơi đi ra Hà Nội hoặc từ Hà Nội về. Vài năm sau, cụ Thiếu mất. Cảm nghĩ của tôi về cụ Thiếu Hà Đông là ông cụ trông người đẹp, sang, hiền từ và bây giờ khi nhớ lại hình ảnh cũ, tôi thấy thêm là buổi chiều đó, ông cụ buồn, cô đơn. ★ Đối với tôi, thầy tôi là một người cha hoàn loàn về tất cả mọi mặt tình cảm. Trái hẳn với tánh tôi : bừa bãi, tham lam, mê đắm, dễ sa đọa, lười biếng, thầy tôi sống hoàn toàn trong sạch, ông không có một tật xấu nào, ông không cờ bạc, không uống rượu. Năm tôi 20 tuổi, tôi đã hút cặn thuốc phiện đầu tiên trong đời, hai mươi mốt tuổi, tôi đã ra vào các tiệm hút như người cặp sách đi học «cours particulier» buổi tối. Nhưng suốt đời thầy tôi, chắc ông không hề hút thử lấy nửa điếu thuốc phiện. Thầy tôi có số sát thê kinh khủng. Nếu tôi giống người về cung thê tử, chắc là tôi sẽ đau khổ lắm. Thầy tôi đã có 4 bà vợ trước khi gặp mẹ tôi. Cả 4 bà cùng theo nhau lấy vé tàu suốt đi về suối vàng sau một vài năm chung sống với thầy tôi. Thầy tôi phải chôn 4 bà vợ, nhưng không có thời gian nào ông có vợ bé — chỉ một bà, một bà rồi lại một bà — Bà này tịch đi ông mới cưới bà khác. Anh em chúng tôi không bao giờ bị khổ vì nạn vợ nọ, con kia của bố. Một địa danh nữa về tỉnh lỵ Hà Đông cân phäi kể: Hà Đông còn được gọi là Tỉnh Đơ. Vì thị xã nằm trên đất của làng Cầu Đơ. Làng này bao quanh thị xã Hà Đông cũng như tỉnh Gia Định bao quanh thủ đô Saigon. Vì vậy, thị xã Hà Đông còn được, nọi là tỉnh Đơ. Chợ Hà Đông còn được gọi là Chợ Đơ. Bây giờ là tháng mấy nhỉ ? Có lẽ cũng là một buổi chiều mùa xuân, trời ấm mát, không có mưa, không có nắng. Hai cha con tôi dắt tay nhau đi chơi trong cánh đồng làng Đơ. Khoảng cuối phố Bóp Kèn, gần nhà tôi, có một con đường đất khá lớn, xe hơi có thể chạy được, đi qua cánh đồng vào trung tâm làng đơ. Đầu kia của con đường là Chợ Đơ. Ven con đường này có một truông lớn. Mùa thu, tôi và các bạn vẫn đem cần ra đây ngồi câu cá. Thầy tôi mặc quốc phục, gọi nôm ra là mặc quần áo ta : chít khăn, áo dài, quần vải trắng. Thầy tôi nhuộm khăn đen. Với thê hệ bây giờ ông là người cổ, ông được gọi là «người của thế hệ trước ». Ngày thầy tôi đổi vào Nam làm việc, người ở xóm Hòa Hưng có người tưởng ông cụ làm nghề thầy cúng. Ở Saigon, chỉ có những ông làm nghề thầy cúng mới bận áo dài thâm, chít khăn đen. Thầy tôi không chơi tennis như một số các ông Tham, ông Phán khác. Ông hút thuốc lào đánh tổ tôm, tài bàn. Thú tiêu khiển theo Âu Tây của thầy tôi là thú đi bắn chim gáy ở những làng quanh thị xã vào mùa lúa chín. Ông có khẩu súng săn hai nòng rất đẹp. Tôi còn nhớ khẩu súng đó Calibre 16, được gác ngay trên hai trạc sừng hươu giữa phòng khách nhà tôi. Trạc dưới của sừng hươu gác một thanh kiếm cổ. Khẩu súng săn bị Tự vệ Hà Đông mượn mất, thanh kiếm về sau được mang theo đồ tản cư về nhà quê, và bị thầy tôi ném xuống ao mất tiêu. Tôi vẫn đi theo thầy tôi trong các cuộc đi bắn chim. Tôi cầm chùm dây do nhà Chaffanjon Hà Nội bán, dùng để choàng cổ những con chim bị bắn mang về. Trong túi tôi có một số tiền cắc, dùng để chi cho những anh bé con đi nhặt chim. Những con chim gáy bị bắn trúng thằng rớt vào vườn sau bụi tre, hoặc vào giữa bụi tre. Những anh bé con may tay tìm thấy chim mang ra nộp là được tôi chi cho một khoản tiền công nhỏ. Nhưng buổi chiều mùa xuân ấy, chúng tôi không đi bắn chim. Thầy tôi đi ra đồng chơi, dắt tôi đi theo. Ở cánh đồng này nhà tôi có vài thửa ruộng cho lấy rẽ. Một bà vợ đã chết của thầy tôi là người Làng La Khê – mẹ tôi vẫn gọi bà nầy là bà La Khê – được mang về chôn ở đồng làng La Khê, còn ba bà kia được chôn ở thửa ruộng của thầy tôi ở đồng làng Đơ. Một năm đôi kỳ, thầy tôi đi qua thăm mộ. Và gần như lần nào cũng có tôi đi theo. Song, chẳng thấy ông thắp hương hay ngồi suy tưởng bên ngôi mộ nào lấy nửa phút. Năm ấy tôi mười hai tuổi. Cái khiếu về âm nhạc duy nhất của tôi mới là tài thổi harmonica. Tôi còn nhớ những cây kèn Nhật thổi nặng đến nổi xong một bài One Day hoặc Biệt Ly, Buồn Tàn Thu – bắt chước tây Le, cây kèn Harmonica vẫn thường biểu diễn tại các trường tiểu học khắp các tỉnh Bắc Viêt – tôi mệt vì hết hơi đến hoa cả mắt, bủn rủn cả chân tay. Tôi chưa hề mó tay đến cây đàn banjo, cũng chưa thuộc một «nốt» nhạc nào, không hiểu vì lý do nào, tôi nghĩ rằng mai sau tôi có thể làm một nhạc sĩ nổi tiếng và tôi sẽ làm nhạc sĩ. Vì vậy, buổi chiều xuân ấy, khi thầy tôi hỏi : – Mai sau con lớn, con muốn làm nghề gì? Tuy còn nhỏ, tôi cũng biết đó là giây phút thật quý báu trong đời người làm con. Tôi cảm thấy tôi cần phải nói thật, dù lời nói thật của tôi có làm cho ông cụ tôi buồn, lo hoặc thất vọng. Vì không nói thật với bố trong những giây phút này, người con sẽ chẳng còn mấy dịp để mà nói thật nữa. Trong suốt cuộc giao thiệp bố con, có thể là dài năm mươi năm, sáu mươi năm, chỉ có nhiều nhất là ba dịp bố con tâm sự với nhau là cùng. Không do dự, không dấu diếm, tôi trả lời ngay : – Mai sau con muốn làm nhạc sĩ. – Nhạc sĩ ? – Thầy tôi có vẻ ngạc nhiên. Đây là lần đầu tiên ông nghe tôi thổ lộ tâm sự và thốt ra một ý muốn khác thường : muốn làm nhạc sĩ. Ông chờ đợi tôi nói những câu như : con muốn làm quan, làm bác sĩ v.v... Nếu tôi nói thế, chắc ông cụ khoái lắm. Tôi cũng có lẽ là anh họ Dương thứ nhất tuyên bố muốn trở thành nhạc sĩ. Sự ngạc nhiên làm thầy tôi đang đi phây phây phải đứng dừng lại. Ông nhìn tôi. Ông đang cầm tay trái tôi bằng bàn tay phải của ông, lúc đó ông cầm bàn tay trái tôi bằng cả hai bàn tay ông. – Con muốn đánh đàn ? Nhưng... đánh đàn đâu có phải là một nghề ? Cái đó chỉ để chơi thôi đâu có thể nuôi sống được con ? Con còn có vợ con, con phải nuôi nữa chứ. Con phải học để đi làm lấy tiền nuôi thân, nuôi gia đình, con chỉ đánh đàn để mà chơi được thôi. Con người ta ở cõi đời này không phải cứ muốn cái gì là được cái đó, là vừa ý. 2475 năm trước năm trước năm nay có một nhà hiền triết suốt một đời vất vả đi giang hồ quanh năm mà không làm nên cơm cháo gì, tên là Khổng Khâu – ông này mải đi liệt quốc để lập danh đến nỗi bị vợ ở nhà cho mọc sừng đau như hoạn – đã đau đớn nói ra một câu để đời «Người ta ở đời này cứ mười việc ước muốn thì có đến tám, chín việc không được như ý ». 1102 năm sau ngày Khổng Khâu nói câu đó, vị chưởng môn của Phái Tiêu Diêu ngồi lơ lửng cả 30 năm ở giữa không khí bằng cách buộc mái tóc vào sà nhà trong căn nhà gỗ thông không có cửa ra vào, chờ đợi một anh thiếu niên đẹp trai, con nhà quí phái như Mộ Dung, như Đoàn Dự bước vào để truyền thụ thần công 70 năm tu luyện, khi thấy anh nhà chùa Hư Trúc xấu trai, mũi huếch, tai vểnh, mắt trố sau khi tình cờ phá giải được thế cờ thử thách ngoài sân phom phom bước vào, lại nói – «Người ta ở đời này mười việc có tới tám, chín việc không được như ý». Ngày xưa tôi muốn làm nhạc sĩ nhưng vì không phải con người ta ở đời này muốn cái gì cũng được. Nên dù muốn, tôi vẫn không trở thành nhạc sĩ. Đó là một ân hận trong vài cái ân hận của tôi. Đáng lẽ ra, tôi phải có điều kiện để diễn tả những tình cảm yêu thương, sung sướng, đau đớn của tôi bằng âm thanh. Những dòng chữ ghép bằng 24 chữ cái và có 5 dấu chỉ âm cao thấp này, theo tôi, yếu và giống nhau quá. Khi ta sung sướng, ta cười lên ha bả, ta kêu ầm lên. Khi ta đau đớn, ta khóc rú lên. Những âm thanh đó khác nhau biết chừng nào. Còn chữ viết không có âm thanh. Chữ viết không truyền được cho người khác những cảm giác một cách mau lẹ như người viết muốn. Chỉ ba tiếng kèn trompette, chỉ một đường tay lướt trên phím ngà piano, những âm thanh phát ra có thể làm cho các em đẹp nhất ở cõi đời này xúc động đến da thịt nổi da gà, sởn gai ốc, người co rúm lại và tâm hồn tê tái đến són đái ra slip Scandal. Tiểu thuyết với chữ viết muốn đạt được thành quả ấy, còn mệt. «Em yêu dấu, lẽ ra anh phải là nhạc sĩ. Thế kỷ này là thế kỷ của âm Thanh. Lòng người không đủ tĩnh để cảm thông với chữ viết. Chỉ có âm nhạc với hàng trăm âm cao thấp của nó, mới đủ để diễn tả những yêu thương, sung sướng, đau đớn của anh, của loài người và những gì chất chứa, sống và chết trong tình yêu đôi ta. Nỗi ân hận vì mình không trở thành nhạc sĩ của anh càng tăng khi ngoài ba mươi tuổi, khi thấy mình không còn đủ thì giờ và điều kiện để trở thành bất cứ một con người nào khác con người mà mình đang là, anh đi xem cuốn phim Jazz à Newport, để thấy những người chơi nhạc tụ về bờ biển Newport làm một cuộc trình diễn chung. Những người nhạc sĩ ra sân khấu trông đẹp như những thiên thần. Người ca hát chỉ cốt để làm vui cho đồng loại. Người ca hát, trừ một thiểu số hạ cấp, rẻ tiền, không bao giờ làm cho đồng loại phải đau đớn hoặc buồn rầu. Đó là một việc làm xứng đáng với những tâm hồn đẹp. Một việc làm xứng đáng với anh. Song, hôm nay, tháng này, anh đã không là nhạc sĩ, mặc dầu ngày xưa, ngay từ ngày mới lớn, chưa đến tuổi mười lăm, mười bẩy, anh đã ước mơ làm nhạc sĩ. Bởi vậy, anh không thể diễn tả được tình ta bằng âm thanh, anh không thể gọi em bằng trompette, anh không thể vuốt tóc em bằng violon, anh không thể để những ngón tay anh đi lại tung tăng trên da thịt em hằng những nốt piano, anh không thể đánh đập em bằng trống, anh không thể cấu vào được em bằng violoncelle... Vì vậy, hôm nay anh phải mượn lời nhạc của người khác để nói thêm với em, ngoài những gì anh nói với cm bằng chữ viết. Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em? Lênh đênh, ngàn mây trôi êm đềm Chiều nay, nếu em đừng hờn dỗi Trách nhau một lần thôi Tâm hồn mình đâu lẻ đôi. Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em? Anh đi tìm mầu hoa em cài Chiều nay, nhớ em rồi và nhớ Áo em đẹp mầu thơ. Môi tràn đầy ước mơ. Em ơi, thôi đừng buồn anh nữa.... ★ Ngày xưa, tại sao khi mới mơ hồ biết ước mơ, khi chưa ước mơ tình yêu, chưa có bóng người thiếu nữ tóc thề, mắt biếc nào ẩn hiện trong những giấc mơ mộng tinh, tôi đã mơ làm nhạc sĩ? Mọi ước mơ ở cõi đời nầy đều có nguyên do nhất là những ước mơ ta có từ ngày ta mới lớn. Tính tôi bừa bãi, bê bối, buông thả, không thích ghép mình vào lệ luật, tôi học toán rất dở, tôi vì nó có những định luật, những phép cộng, trừ, nhân, chia, phải theo đúng, không thể muốn làm gì thì làm cũng được. Những năm đi học, cứ đến giờ toán là tôi xách cặp đi bát phố hoặc vào Cinéma ngồi. Tôi học không khá được, không đỗ đạt được là vì tôi ghét Toán, tôi ghét sự bó buộc của nó, tôi ghét phải nhớ những con số, những phương trình. Nhưng những giờ học về văn chương, sử địa đều có tôi chăm chỉ ngồi. Về sinh ngữ cũng vậy, tôi thích những gì liên can đến tiếng nói. Tôi thích những chuyện gì nói hai tiếng cũng được mà cao hứng nói ra 2,785 tiếng cũng được. Về văn Anh, Pháp, nếu giáo sư bắt tôi làm phân tích mệnh đề, có thể tôi bí, tôi làm sai đấy. Song, nếu bảo tôi dịch một câu văn ngoại ra văn Việt, tôi dịch lưu loát ra trò. Tại sao tôi lại mơ ước là nhạc sĩ? Phải có nguyên do chứ ? Mọi sự ở đời nầy đều có nguyên do chứ ? Nếu chúng ta chịu tìm, nếu chúng ta tìm đúng, chúng ta sẽ thấy nguyên do của mọi chuyện. Nguyên do : tôi mang bản chất lãng mạn thích văn nghệ thừa hưởng của bên ngoại. Ông ngoại tôi làm thơ hay, sâu sắc, mẹ tôi là một người đàn bà có nhan sắc và tài hoa, nhưng tài hoa của mẹ tôi không nẩy nở. Nguyên do đậm nhất là tôi bị ảnh hưởng của xi-nê. Ngoài mười tuổi, tôi mê xi-nê như mê đi bơi sông, mê đánh Ping-Pong. Mê chơi đến bỏ học. Ngoài những phim cao bồi có Gary Cooper đóng, tôi vừa được coi hai cuốn phim bất hủ, vô song diễn tả một cách lãng mạn, thơ mộng hóa cuộc đời của hai nhạc sĩ Johann Strauss và Franz Schubert. Johann Strauss trong phim Toute la ville danse. Johann sống và yêu thương, hy vọng và thất vọng trước mắt tôi dưới nét mặt Fernand Gravey. Chàng nhạc sĩ đang giờ làm việc, đáng lẽ phải chép sổ lại xé giấy sổ viết bản nhạc, đến sở làm trễ, chậm bị chủ đuổi. Đó là nhạc sĩ Johann Strauss. Franz Schubert thầy giáo tỉnh lỵ, hiền lành đến nỗi bị bọn học trò con nít bắt nạt, đang viết mấy con toán nhân trên bảng đen bỗng nổi hứng ghi luôn một bản nhạc. Và cả lớp học trò ngừng phá để hát theo thầy. Và để Thầy cũng bị mời ra khỏi trường. Thầy đói, thầy mang cây đàn ghi-ta đi cầm. Hình ảnh người nhạc sĩ mang đàn đến tiệm cầm đồ làm tôi xúc động nhiều, xúc động và nhớ : hình chàng in trên làn kiếng mờ, người thiếu nữ con nhà cầm đồ hỏi tên, chàng đáp : – Franz... Franz Schubert.... Tôi nhớ rõ lúc chàng nói hai tiếng – «Franz... Franz...» Cô gái nhà cầm đồ mê nhạc sĩ Franz Schubert, muốn giúp chàng có tiền nên đánh lừa ông bố – các em khi bị bả tình yêu các em thật nhảm, các em phản hết, cả bố mẹ các em là những người sinh dưỡng các em, các em cũng phản vì một thằng cha căng, chú kiết từ đâu dẫn xác đến xuất hiện trong đời em như thường – em biên gấp năm, gấp sáu số tiền giá cây đàn đã chuyển qua «két» cho ông bố, và ông bố tin con gái, cứ thế chi tiền, làm cho nhạc sĩ nhà ta quýnh cả chân tay lên vì thấy tiền nhiều quá. Nhạc sĩ Franz...Franz Schubert được con gái tiệm cầm đồ yêu mê, nhưng chàng không yêu mê em cầm đồ, chàng lại yêu mê con gái nhà bá tước, một em quí phái kiêu sa, lãng mạn ra gì. Cũng như nhạc sĩ Johann Strauss được em con gái nhà hàng bánh yêu mê, nhưng lại đi yêu mê một bà công tước lẩm cẩm nào đó. Những sự yêu mê ngoại tình ấy làm cho đời có những bản nhạc tình bất hủ Le Beau Danube Bleu, One Day, La Forêt de Vienne. Nếu Johann Strauss vui và an phận bánh nhà quà vợ với em con nhà hàng bánh, chàng sẽ mập ú, má phính, bụng phệ và chàng chỉ là tác giả của một lũ tí nhau vô bổ cho xã hội. Nếu Franz Schubert an phận làm một ông chủ tiệm cầm đồ, cả ngày ngồi viết biên lai cầm cố đồng hồ, radio, tính tiền lời, cuộc đời chàng và cuộc đời này đã chẳng có những bản Symphonie Inachevée, Ave Maria. Chẳng biết trong cuộc đời thật, Franz Schubert sáng tác bản nhạc Dang Dở ấy trong trường hợp nào – có thể như một văn sĩ cạn nguồn văn, bỏ dở một truyện viết nửa chừng – Franz Schubert cũng có thể bỏ dở bản nhạc đó vì bí hứng, nhưng ở trong phim, chàng xé bỏ đoạn cuối bản nhạc vì yêu . Chàng chỉ đờn trên piano bản Symphonie đó có hai lần cho người yêu nghe. Lần đầu, vì nàng bất lịch sự cười rinh rích khi chàng đang dạo đàn nên chàng ngừng ngang, lần thứ hai nàng đã có chồng, ngồi nghe chàng biểu diễn bản nhạc cũ hồi tưởng lại thời mình còn con gái, nghĩ đến tình cũ, tình bây giờ, nàng xúc động đến nỗi ngất xỉu, và một lần nữa, chàng lại ngừng đờn nửa chừng. Nhà nào có đàn, con gái sẽ dâm... Các cụ nói trúng phóc, chẳng sai câu nào. Tiếng đàn có ma lực kinh khủng thật. Đánh đàn đến nỗi con gái nhà người ta ngất đi. Trong giới văn nghệ sĩ, kẻ sĩ được nhiều đàn bà, con gái yêu, mê nhất không phải là thi sĩ, văn sĩ, lại càng không phải là hoạ sĩ, mà là các anh thầy đờn, thổi kèn, ca hát. Vì hai cuốn phim Toute la ville danse và La Symphonie Inachevée mà sự say mơ trở thành nhạc sĩ trong tôi gia tăng. Cuốn phim thứ ba có ảnh hưởng đến tôi là phim La Symphonie Pastorale : một phim Nhật, tên Việt là Khúc Nhạc Đồng Quê. Vào những năm này, Nhật chưa đảo chánh Pháp nên cuốn phim Nhật vừa kể còn có tên Pháp. Lần đầu tiên, màn ảnh Hà Nội xuất hiện một phim Nhật nghệ thuật. Trước đó, Hà Nội chỉ mới chiếu những phim, tuyên truyền đề cao Quân-đội Thiên Hoàng bách chiến, bách thắng và đánh hạ giá quân Anh – Mỹ ở Á Châu như phim «Tân Gia Ba thất thủ » v.v... Vai chánh của phim Khúc Nhạc Đồng Quê là một thanh niên thuộc loại «chân chỉ hạt bột », có tài kéo đàn cò Tây, tức Violon, được cô con gái ông chủ mê tít cứ khăng khăng đòi bố cưới chàng làm chồng. Trên màn ảnh, cuộc sống của những chàng nghệ sĩ đẹp và phong lưu như những ông Hoàng, hơn cả những ông Hoàng, Cinéma cũng thỉnh thoảng năm thì, mười họa, lâu lâu mới có một lần – cũng đề cao cuộc sống của một anh chân chỉ hạt bột, hoặc những anh có chí thì nên, cố gắng học hành để đỗ đạt, để sáng chế ra những phát minh làm lợi cho người đời. Song, cuộc sống của những sinh anh chân chỉ hạt bột cơm nhà, quà vợ chẳng có gì gay cấn, không có một xu thơ mộng dù có được làm thành phim cũng chẳng có ma nào ưa, không hấp dẫn được ai cả, kể cả những người cơm nhà quà vợ quanh năm. Bởi vì, những anh cơm nhà, quà vợ mới là những anh ôm mộng chơi bời nay em này, mai em khác mơ thay vợ như thay áo may-ô, hơn ai hết. Vì vậy Cinéma Âu-Mỹ chỉ chăm khai thác cuộc đời của những gã giang hồ hoặc chơi bời phóng túng. Ai cũng thích, thiên hạ đi coi chật rạp. Chẳng hạn như cuộc đời của lãng-đãng-tử Clark Gable trong phim L’Incendie de San-Francisco. Trong phim Lửa Cháy Thành Thánh Phăng- Xi- Cô đã được xếp vào Lịch sử Điện Ảnh này, Clark Gable đóng vai một anh chủ Bar – Dancing Bar của anh có cô đào hát Jeannette Mac Donald đến trình diễn. Chủ Dancing mà kết với nữ ca sĩ thì đẹp đôi nhất rồi – đẹp đôi đến nỗi không cặp tình nhân nào có thể đẹp đôi hơn được nữa trừ hai cặp văn sĩ – vũ nữ – em ca sĩ Jeannette Mac Donald có giọng oanh vàng của Thái Thanh và cái nhan sắc của Thẩm Thúy Hằng – gái một con trông mòn cả hai con mắt – Em hát hay, em quyến rũ, em đa tình nhưng em vẫn ngây thơ, vẫn là con nhà lành, em vẫn chưa biết đàn ông là gì và em chưa biết những người đàn bà nhan sắc như em có thể làm những gì cho đàn ông. Mà anh chủ Bar-Dancing Clark thì lại là trai tứ chiếng chơi bời, phóng đãng quá cỡ. Em yêu dấu, cũng như em đã yêu anh, cũng như em đã cho anh tất cả, cho anh nhiều hơn là anh đáng được cho, cho nhiều hơn là anh đòi hỏi, Jeannette Mac Donald nữ ca sĩ đã yêu, đã cho Clark Gable chủ Bar-Dancing như thế trong phim nhưng chủ Bar Clark Gable chơi bời, phóng đãng, khinh mạn quen rồi, anh làm cao, anh hắt hủi mối tình chân chính ấy. Anh làm nàng giận, nàng hờn và khi nàng giận hờn mà nàng không làm gì được, nàng bèn « phú lĩnh », tức là nàng đi mất .. Nàng đi rồi – cũng như em đã yêu anh và em đã giận, đã hờn, đã xa anh, em đã đi mất – chủ Bar Clark Gable lúc đó mới biết là mình đã được yêu, được mê, được cho, được hưởng và mình đã mất tất cả tình yêu lẫn giai nhân tức là chẳng còn gì hết, đến lúc đó chủ Bar Clark Gable mới thấy người đã yêu mình là quí, là thơm, là vô song, là người duy nhất, người mà anh không bao giờ có thể tìm được người khác thay thế. Đến lúc đó chủ Bar Clark Gable mới cay cú, mới thấy thấm thía lời ca «Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em ?..» Đến lúc đó đã là đoạn cuối của phim Lửa Cháy Thành Thánh Phăng- Xi- Cô rồi, và theo như cái tên phim, chém chết trong phim này cũng phải có xảy ra một vụ cháy nhà. Đúng vậy. Trong phim Lửa Cháy Thành Thánh Phăng- Xi- Cô không những chỉ có một trận cháy nhà mà là có những hai trận cháy nhà. Hỏa hoạn đầu tiên ở đầu phim, cháy một khách sạn, vì vụ cháy này chàng và nàng gặp nhau. Vụ cháy thứ hai kinh khủng, rùng rợn, vĩ đại hơn. Cháy nhà vì động đất. Trận động đất, cháy nhà này tàn phá thành phố tan tành, làm cho bao nhiêu nhà đổ, hàng ngàn người chết, song có một cái hay là đó là một cơ hội để chàng và nàng tái ngộ. Chủ Bar Clark Gable gặp lại Nữ ca sĩ Jeannelte Mac Donald trong cảnh hoang tàn, đổ nát của thành phố. Em nữ ca sĩ – như 1.792.813.056 người đàn bà đẹp ở cõi đời này, mỗi khi thấy đồng loại đau đớn, thấy có đồng loại chết, bèn tự hóa thành những nữ thần an ủi. Em nữ ca sĩ Jeannette Mac Donald đa tình – giữa thành Phan-Xi Cô còn lửa cháy ấy – đã hóa thành một thứ Dì Phước dân sự săn sóc bọn trẻ nhỏ vừa mồ côi vì cha mẹ vừa chết. Dì Phước thường dân Jeannette Mac Donald ấy đang hát bản Ave Maria thì đãng tử Clark Gable Chủ Bar lọ mọ tới. Nghe tiếng nàng phơi phới bay lên, thần tiên, thoát tục, chàng hốt nhiên giác ngộ, lĩnh hội được đạo lý, bèn thấy đời mình tội lỗi và chàng bèn quì gối xuống, mặt ngước nhìn lên trời. Nàng bèn biết là chàng hối hận, bèn tha thứ cho chàng và lại trở về chung sống với chàng, họ lại yêu nhau như cũ. Phim L’incendie de San Francisco là một phim hay trong số những phim hay mà tôi đã được coi thời tiền chiến ở những rap xi-né Hà Đông và Hà Nội. Tâm hồn tôi chịu ảnh hưởng những phim đó rất nhiều thật nhiều. Xem L’appel de la forêt, tôi muốn mai sau tôi sẽ một mình hai súng vào rừng, săn thú như Gary Cooper. Xem Les Aventures de Buffalo Bill, tôi thấy chỉ có mẫu người cao bồi bắn súng như máy, một mình lăn qua phải, tung sang trái, hạ cả năm, sáu tên cướp mới là người hùng. Xem Toute la ville danse và La Symphonie Inachevée, tôi muốn làm nhạc sĩ, xem L’incendie de San Francisco tôi mơ sống cuộc đời lãng đãng tử, mở một cái Bar Dancing, yêu toàn đàn bà đẹp để rồi sau cùng kết liễu cuộc đời bằng cách kết duyên với một em ca sĩ hát hay như Thái Thanh, đa tình như Thẩm Thúy Hằng và thơm như múi mít. Qua phim Lửa Cháy Thành Thánh Phăng-Xi-Cô, cũng giống như qua 27.914.012 phim lửa cháy mọi thứ thành quách, thị trấn, thủ đô ở trên cõi đời nầy tôi rút được một kinh nghiệm : đàn ông phóng đãng cách mấy, khi gặp đàn bà đẹp, khi gặp Tình Yêu, vẫn bị Tinh Yêu cải huấn và cải hoá như thường .Và đàn ông cứ việc chơi bời, miễn là ở đoạn sau cùng tỏ ra hối hận là được đàn bà tha thứ rồi. Nhưng với một điều kiện tối cần, không có không được, là anh đàn ông đó phải có mã người, phải đẹp trai, phải hào hoa phong nhã, có đầy đủ kỹ thuật và nghệ thuật chiều chuộng đàn bà, làm cho đàn bà hài lòng. Những anh đàn ông «cù lần», những anh đàn ông thiếu nhan sắc, dù có ăn ở hiền lành ngay từ thuở cha sinh, mẹ đẻ, dù có chiêu chuộng đàn bà hết lòng, cũng vẫn bị đàn bà chê và bỏ rơi không thèm đếm xỉa. ★ Đói. Rách. Những nghệ sĩ của chúng ta ở hồi đầu thế kỷ 20 này rất đói, rất rách. Văn nghệ ngày ấy chưa được kể là một thứ có thể giúp người ta sinh sống, có cơm ăn, áo mặc. Văn nghệ thời ấy chỉ là một món giải trí, có càng hay mà không có cũng chẳng sao. Tác phẩm văn chương nào đẹp, hay và có giá trị cho bằng Truyện Thơ Đoạn Trường Tân Thanh của Thi Hào Nguyễn Du ? Bài Tình Ca nào trữ tình cho bằng Khúc Ngâm Chinh Phụ của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm ?? Song những tác giả đó không ai được một xu tiền bản quyền bán sách. Sáng tác để cho không người đời, không đòi đồng bào mình trả lại chút nhỏ công lao nào hết. Người xưa mới đúng là làm văn nghệ thuần túy. Nhưng đói thì đói dài, rách thì rách nát. Rách đến không còn có thể vá được. Nhà thơ Tú Xương có uống rượu uống mỗi ngày để mà là thơ là nhờ bà vợ giỏi buôn bán. Nhà thơ Tản Đà phải đi làm thầy bói. Tiểu thuyết gia Lan Khai vợ chết không có tiền làm đám ma, phải đến xin ký giấy bán trước 4 bộ truyện dài cho nhà xuất bản Tân Dân, để lấy tiền về mua áo quan cho vợ. Bị nhà xuất bản bắt bí, trả rẻ, Lan Khai cần tiền nên bao nhiêu, cũng nhận. Nhưng anh cay cú, nhưng anh thấm thía sự đểu cáng ấy, nhưng anh đau đớn, cho nên sau đó, viết tiểu thuyết trả nợ cho nhà xuất bản Tân Dân, anh chấm xuống hàng thật nhiều để cho mau đủ số trang. Chẳng hạn: Lá rụng. Vèo. Nàng nhìn lên. Trời mùa thu có nhiều mây trắng. Gió reo... Những trang tiểu thuyết hai, ba chữ một hàng như vậy kéo dài suốt bốn, năm cuốn tiểu thuyết viết trả nợ tiền làm đám ma cho vợ của Lan Khai. Kết quả là tác giả, nhà xuất bản, lẫn độc giả cùng thiệt hại. Những người chơi nhạc ở nước ta vào những năm 1930-1945, chưa sống được với đàn, địch, kèn, trống. Những nhà Bar-Dancing Hà Nội chưa có nhiều, khác toàn là Lính Tây, Lính Khố Đỏ đi giầy săng-đá nhẩy cồm cộp trên nền xi măng. Nhạc là nhạc máy hát. Vài nhạc sĩ chơi đàn, thổi kèn, muốn kiếm ăn chỉ có thể đi làm cho các rạp hát cải lương. Chỉ có một số nhỏ Dancing mướn ban nhạc đến chơi vào những đêm thứ bẩy, chủ nhật. Thầy tôi đã đúng khi ông nói ngày ấy – một buổi chiều mùa xuân giữa cánh đồng làng Đơ, khi hai bố con tôi tâm sự – rằng thổi kèn, khẩy đàn, ca hát không phải là một nghề có thể nuôi sống tôi. Lời nói đó đúng nhưng chỉ đúng trong thời gian đó thôi. Sự thật của năm 1910 không còn là sự thật của năm 1950. T HAI ừ 1940, sau khi Quân đội Phát Xít Nhật đặt gót giầy chinh phục lên mảnh đất cong cong hình chữ S nằm ven biển Thái Bình, nhiều thiên tai, hoạn nạn, bệnh não kinh khủng theo gót giầy xâm lược và theo nhau, tới hành hạ đám dân khốn khổ sống trên mảnh đất chữ S ấy. Năm 1942, thuốc Tây không có, thuốc Tàu cũng hiếm, một chứng bệnh hiểm nghèo và mới tinh đến với dân Bắc Việt: bệnh đau màng óc. Bệnh tật – những bệnh tật làm chết người – cũng như những tai nạn, tai họa – đến với con người ta không báo trước. Buổi chiều, có lẽ là một chiều đầu mùa xuân, vì sau trận đau dài này, khi tỉnh cơn mê loạn lớn nhất đầu tiên trong đời, tôi thấy tôi sống những ngày mùa hạ nắng. Buổi chiều, vào lúc 4 giờ, tự nhiên tôi thấy tôi khó chịu. Nhà tôi có một tầng lầu. Có vườn chung quanh. Nhà có cổng, một con đường lát gạch từ cổng vào đến nhà để chiếc xe tay Omic bên nhà bếp. Đó cũng là con đường tôi dùng để dượt chiếc xe ô-tô đạp năm tôi mười tuổi. Một bên đường là vách nhà, bên kia là vườn hoa, một bệ gạch xây cao chừng 80 phân, trên có đặt những chậu hoa lan, Thầy tôi thích chơi lan và khô mộc. Tôi lại kỵ lan nhất. Ngày đó, tôi chưa thấy cái đẹp của những bông hoa lan. Tôi ghét nó vì lá nó nhọn và sắc. Đứng gần những chậu lan, mặt tôi cao bằng những ngọn lá dài và nhọn ấy, tôi dễ bị lá lan chọc vào mắt. Buổi chiều, bốn giờ, tôi còn nhớ tôi ngồi ở bậc cửa ngánh, nhìn ra vườn hoa . Cô hàng kẹo kéo đi qua, Chị Thìn – bà chị cả của tôi – mua cho tôi một xu kẹo. «Cây đớp» bị bệnh xâm lăng mạnh đến nổi ăn không hết xu kẹo. Bệnh đau màng óc đến thật nhanh. Năm giờ chiều tôi vào giường nằm, sáu giờ tôi đã mê man. Hôm đó, thầy tôi có việc đi Hà Nội về muộn. Mẹ tôi lên nhà ông ngoại tôi chơi. Ông ngoại tôi, cụ Phủ Ninh, Nghiên Duy Ninh, chính quán tại làng Hòa Xá, Vân Đình, Hà Đông, cũng ở lại thị xã Hà Nội. Ông ngoại tôi có thời làm Thị Trưởng Thị xã Hà Đông, thời Nhật đã đảo chánh Pháp. Tôi chắc mẹ tôi lên nhà ông ngoại tôi đánh chắn với các bà dì, các ông cậu tôi, bỏ tôi nằm một mình nên tôi cay cú, tôi tủi thân. Khi mẹ tôi về tới, vào buồng chỗ tôi nằm, bà nghe tiếng cậu con nức nở. Lúc đó, tôi nửa mê nửa tỉnh, nhưng khi mẹ tôi về tới, tôi tỉnh lại hoàn toàn. Cơn tỉnh lúc ấy ngắn thôi, vừa đủ để tôi biết rằng mẹ tôi đã về tới và tôi đã được săn sóc. Tôi nhớ rõ mẹ tôi vào buồng – căn buồng lúc đó tối om – mẹ tôi vừa bật đèn điện, vừa cười nói : – Con trai gì mà lại khóc như con gái thế... Xấu quá.. Con trai thì phải giỏi dắn chứ... Bà vẫn có lối nịnh nhẹ cậu con như vậy để kích thích tự ái của cậu con. Chẳng hạn như tôi lở chân hay bị sâu quảng, tôi sợ đau, mỗi lần rửa chân bằng nước ấm pha thuốc tím, chính tay mẹ tôi phải rửa và rắc thuốc vàng cho tôi. Bà vừa cầm những miếng bông gòn mơn mơn vết sâu quảng nổi bờ tròn trên cổ chân tôi, vừa nói ngọt như đường phèn – «con tôi gan lắm, con tôi nó anh hùng lắm..... Nó đau nhưng mà nó chịu được... Nó không khóc... » Bà thường kể cho tôi nghe chuyện Quan Công ngày xưa đi đánh trận bị trúng tên tẩm thuốc độc vào cánh tay. Ông mời thầy thuốc tới điều trị. Ông vừa ngồi trật tay áo cho thầy thuốc cầm dao cắt chỗ thịt bị trúng tên tẩm thuốc độc, rồi dùng lưỡi dao cạo sồn sột vào chỗ xương bị nhiễm độc. Quan Công vừa đánh cờ, vừa uống rượu, thản nhiên để cho thầy thuốc nạo xương cánh tay. Bà kể chuyện Quan Công với mục đích khuyến khích tôi chịu đau. Bà còn nói đến chuyện mai sau tôi sẽ đỗ đạt, sẽ làm quan, sẽ lái xe hơi đi chơi oai như ông Huyện Hoài. Ông Huyện Hoài thời thơ ấu của tôi là ông Huyện Hoài Đức, ông này có xe hơi, thường tới nhà mời thầy tôi đi đánh tổ tôm. Nơi lui tới của các ông ở Thị xã Hà Đông là nhà riêng mấy ông nhà giàu dân Cự Đà. Mấy ông Cự Đà này không có chức tước hay địa vị gì trong chánh quyền, các ông chỉ là nhà giàu chịu chơi, quen giao du toàn với các ông có chức việc. Đó là các ông Hai Lâm, ông Tám Thụ v.v. Tôi nghe không trọn câu nói của mẹ tôi. Tôi lại mê man, nhưng từ giây phút này, tôi không lo sợ nữa.Tôi đã có mẹ tôi săn sóc ở bên. Từ giây phút đó, mẹ tôi không rời xa tôi nữa. 8 giờ tối, thầy tôi về tới nơi. Ông mời ông Đốc Miên, Giám đốc bệnh viện Hà Đông tới nhà, xem bệnh cho tôi. Ông này chỉ là Médecin, tức là Y sĩ, song ở Hà Đông, người ta vẫn quen gọi ông là ông Đốc, như Docteur vậy. Ông Đốc Miên tới nhà. Ông bảo đỡ tôi ngồi dậy, bảo tôi cúi đầu xuống cho cằm chạm vào ngực. Nhưng tôi không cúi đầu xuống được, xương cổ tôi đã cứng rồi. Triệu chứng rõ nhất của bệnh đau màng óc là nhức đầu và xương cổ cứng. Tôi là con đầu của mẹ tôi. Tiong số bốn bà vợ trước đã đi qua cuộc đời của thầy tôi, có hai bà sinh con. Tôi có hai chị và một anh cùng bố khác mẹ. Đến ngày thầy mẹ tôi « rổ rá cạp lại» – mẹ tôi đã có một đời chồng, và ông này qua đời sớm, tôi có một người anh cùng mẹ khác bố – tôi là anh con trai đầu của hai ông hà. Sau tôi toàn là em gái. Đến năm tôi đau màng óc, tôi đã có ba đứa em gái liền tù tì. Các cô Thu Nguyệt, Thu Thảo, Thu Mai. Bởi vậy, mới có mình tôi là con trai. Cũng quí lắm. Cái tin tôi bị đau màng óc làm thầy mẹ tôi xúc động nhiều. Phải nói là cả họ tôi xúc động, cả khu phố Bóp Kèn gần nhà tôi xúc động, bàn tán. Bởi vì vào những ngày của những năm từ 1940 đến 1945, chiến tranh cắt đứt đường liên lạc giữa Á Châu và Âu Châu, thuốc tây hiếm, quí và đắt như vàng. Thuốc Bắc cũng hiếm, cũng quí, cũng đắt, có nhiều thứ thuốc có tiền cũng không mua được. Môn thuốc Tây được chuộng nhất thời đó là Danégan : trừ bách bệnh. Bệnh gì cũng phải dùng đến Dagénan, từ đau lậu đến sưng phổi, sưng lá lách, đau dạ dày đến sưng màng óc. Người ta làm hàng sách kiếm sống bằng cách mua đi, bán lại thuốc Tây. Người ta chỉ có thể mua được thuốc Tây ở Chợ Đen mà thôi. Người ta làm Dagénan bằng bột nếp. Trong khi đó, những con bệnh nặng đau ốm không có thuốc điều trị. Chết. Mà bệnh đau màng óc lại là một chứng bệnh nặng nhất, bệnh mới, người ta chữa mò. Nhà thương Hà Đông – cũng giống như tất cả những nhà thương tỉnh nhỏ ở trên cõi đời này – trước đôi mắt thơ ấu của tôi, là một khu tràn đầy bí mật và rùng rợn. Huyền bí và đáng sợ. Vì đó là một khu bệnh não, chết chóc. Bệnh và chết bao giờ cũng kinh tởm, cũng làm người sống sợ hãi, lánh xa. Kể cả những cái chết đẹp nhất, kể cả những cái chết của những người mình thương yêu nhất. Đáng sợ vì Nhà Thương là nơi có người chết, có Nhà Xác, và có ma. Nhà thương Hà Đông nằm trên một khu đất lớn gần Trại Lính, sau dẫy phố Bóp Kèn, sau nhà ông Ngoại tôi. Cơ sở này khá văn minh, chia ra làm từng khu. Hàng rào dây thép gai và tường gạch bao quanh. Tôi và các hạn thân của tôi rất kỵ vào nhà thương.Trong khu đó không có gì để chơi cả. Tuy trong đó có nhiều cây cối, nhiều chim, nhưng bên ngoài, thị xã cũng có nhiều khu cây cối mát mẻ hơn, chim chóc đông đảo hơn. Chúng tôi chỉ một năm đôi kỳ, xếp hàng đôi cả trường, đi vào nhà thương vạch tay áo chủng đậu và chích ngừa dịch tả. Chúng tôi chỉ hay chơi ở con đường chạy dài bên ngoài Nhà Thương. Đường phố trong Thị xã Hà Đông thời ấy vắng xe ô-tô – chỉ có con đường chính chạy qua tỉnh, đường Bóp Kèn, là có xe hàng chạy qua – những con đường khác cả ngày chẳng có bánh xe ô-tô nào lăn qua. Nhưng con đường trước Nhà Thương vẫn là con đường vắng xe ô-tô nhất. Cả năm chẳng có chiếc xe ô-tô nào lăn bánh tới. Bọn thiếu niên, nhi đồng chúng tôi thường tới con đường đó tập đi xe đạp, đua xe đạp và đá bóng. Tôi đi qua khung cổng bi thảm của Nhà Thương Hà Đông vào một đêm đầu mùa xuân. 10 giờ tối, ở tỉnh lỵ, đã là khuya lắm. Đã là đêm rồi. Luật pháp của Nhà Thương tỉnh nhỏ không cho xe cộ đi vào bên trong Nhà Thương, dù là xe tay. Mẹ tôi bồng tôi đi mãi, hun hút con đường dài tối đen đi sâu vào những khu sâu nhất của Nhà Thương. Năm đó, tôi đã mười hai, mười ba tuổi, tôi đã khá nặng rồi, tôi không còn là con nít nữa. Mẹ tôi bồng tôi nặng trĩu tay. May là đêm đó có Bà Trẻ tôi – Bà vợ kế của ông Ngoại tôi, bà trạc tuổi mẹ tôi – đi theo. Hai bà thay phiên nhau bồng tôi. Đi mãi. Bệnh đau màng óc đã hoành hành ở tỉnh lỵ Hà Đông. Tôi không phải là bệnh nhân đầu tiên bị Thần bệnh chiếu cố đến. Trước tôi đã có nhiều con bệnh đau màng óc vào nhà thương Hà Đông và đã chết trong đó. Bệnh truyền nhiễm, nguy hiểm và dễ lây. Người ta đặt riêng một khu cho bệnh nhân đau màng óc nằm. Một dẫy phòng bệnh chung quanh có dây thép gai và lính lệ bồng súng gác cấm mọi người ra vô, trừ những thân nhân có giấy phép. Khu đau màng óc lẽ tự nhiên, được đặt ở nơi hẻo lánh nhất của nhà thương. Nó nằm ngay cạnh Nhà Xác. Phòng bệnh với Nhà Xác chỉ cách nhau một sân có chừng 30 thước. Trong nạn dịch đau màng óc ấy, cứ 10 bệnh nhân vào Nhà Thương Hà Đông nằm điều trị, có tới 8 người chết. Số người sống là sống sót, là số chưa chết, số chỉ bị một cơn đau nặng. Vì bệnh nhân dễ chết như vậy, người ta cho bệnh nhân nằm ở sát bên Nhà Xác, để khi chết, đua xác xuống Nhà Xác cho gần, cho tiện. Mười người đau chỉ có hai người sống sót, không phải sống vì thuốc mà là sống vì số chưa chết. Trong số những sống sót năm ấy có tôi và Nàng. Nàng – viết hoa chữ N : Nàng – Tôi vốn kính trọng đàn bà, tôi kính trọng loài người. Nhất là những người yêu nhau. Trong tất cả những truyện tôi viết sau này, khi tôi sống với nghề viết truyện, nuôi vợ con tôi bằng những truyện ngắn, truyện dài tôi viết đăng trên báo, hai tiếng Chàng và Nàng bao giờ, luôn luôn được tôi viết hoa. Như đó là những danh từ riêng, như đó là tên riêng của những nhân vật. Chàng tên là CHÀNG và Nàng tên là NÀNG. Một vài người bạn chỉ cho tôi cái lỗi ấy. Họ bảo tôi viết sai. Trong tiểu thuyết, chỉ có tên riêng mới viết hoa. Chàng và Nàng không phải là tên riêng của hai người, những chữ C và N phải viết thường. Song, tôi đã viết quen rồi. Nếu đó là một cái lỗi – nếu anh yêu em là một lỗi, anh nhận lỗi đó – tôi nhận cái lỗi đó. Tôi vẫn viết hoa hai chữ C và N của Chàng và Nàng. Như tôi vẫn làm những gì tôi biết là không nên làm, như khinh bỉ đồng tiền, như lạnh nhạt với việc làm giầu, khinh bỉ bọn nhà giầu, như tin tưởng tuyệt đối vào Tình Yêu. Như nghĩ rằng Tình Yêu của tôi và Nàng không bao giờ tàn. Như tin rằng tôi và Nàng yêu nhau mãi mãi, tôi được yêu mãi mãi. ★ Ngọc Diệp – Lá ngọc. Nàng đúng là một cánh lá, một bông hoa bằng ngọc. Ở đời này, Thượng Đế ban cho loài người tiếng nói, cho tiếng nói có âm thanh, có nghĩa. Thượng Đế cho loài người thông minh và nhờ có thông minh, loài người biết làm thơ, biết đặt tên cho nhau. Và có những cái tên tiền định. Có những người – nhất là những người con gái – giống hệt với cái tên đã được cha mẹ đặt cho từ ngày cất tiếng khóc chào đời, khi mới chỉ là một hài nhi đỏ hỏn Ngọc Diệp được đặt tên là Lá Ngọc khi nàng chưa có một vẻ gì giống như cánh lá bằng ngọc hết. Những năm gặp Ngọc Diệp, Nàng đã là một lá ngọc, hơn nữa nàng là bông hoa bằng ngọc. Ngọc Diệp vào nằm trong khu đau màng óc trước tôi hai đêm. Nàng tỉnh trước tôi. Khi tôi tỉnh lại, nhận thấy mình nằm trong một căn phòng lạ giữa những người lạ nằm trên những chiếc giường sơn vàng, việc đầu tiên của tôi là nhận thấy có mẹ tôi ở bên cạnh. Mẹ tôi là một người đàn bà đẹp. Nước da bà trắng, bà đẹp nhất ở đôi mắt. Đôi mắt mà tôi cho là có đuôi dài, những lúc bà cười vui, đuôi mắt ấy hiện rõ, dài gần bằng cả con mắt của bà. Từ ngày thơ ấu lên năm, lên bảy, khi chưa biết thế nào là nhan sắc, chưa biết cả đánh vần, chưa biết ghép 25 chữ cái A, B, C vào nhau, tôi đã cảm thấy hãnh diện vì tôi có bà mẹ đẹp. Vì mẹ tôi đẹp. Chúng ta, các bạn yêu thương cha mẹ chúng ta, tôi tin chắc, tôi hoàn toàn tin rằng các bạn, người đọc những dòng chữ này tôi viết, người theo dõi câu chuyện này tôi kể, các bạn là những người có tình, có tâm hồn đẹp, dễ xúc động. Và các bạn là những người yêu thương cha mẹ. Bởi vì – dễ hiểu, không có gì khó đoán – nếu các bạn không như thế, các bạn đã không theo dõi, không đọc câu chuyện này, những dòng này. Chúng ta yêu thương cha mẹ chúng ta. Khi đã yêu thương, cha mẹ chúng ta người đẹp hay xấu, tình nết tốt hay bần tiện, đối với chúng ta không thành vấn đề. Cha mẹ chúng ta xấu xí, lòng dạ nhỏ nhen, hèn hạ, chúng ta vẫn yêu thương các người như thường. Chúng ta có thể chọn vợ, chúng ta có thể chọn người yêu – tôi không tin lắm ở quyền hạn lựa chọn này, trong tình yêu, chúng ta không có cả quyền lựa chọn. Kẻ nào lựa chọn tức là chưa yêu, hoặc chưa yêu đến tuyệt đối, chưa yêu hoàn toàn. Tôi nói «chúng ta có thể chọn vợ, có thể chọn người yêu» với một nửa lòng tin mà thôi. Có khi chúng ta có thể chọn, có khi chúng ta không thể chọn. Phải nhận là duyên số. Có duyên số. Có một sự xếp đặt, hẹn hò nào đó ngoài ý muốn, ngoài tầm quyết định của chúng ta. Tình yêu cũng như cuộc đời, như sự sống cái chết. Đến một ngày nào đó – giờ phút, nơi chốn, tức không gian và thời gian, địa điểm, đã được định trước rồi – ta sẽ gặp người ta yêu. Và ta yêu người đó, dù muốn hay không, dù người yêu ta yêu có làm cho ta đau đớn hay ta sung sướng. Ta phải chịu, phải nhận. Song, có một điều an ủi lớn trong Tình Yêu là trong Tình Yêu, đau đớn cũng là sung sướng. Trong Tình Yêu, ta sung sướng hay cả khi ta đau đớn, ta hài lòng, ta ghi nhận, ta biết ơn dù ta bị Tình Yêu hành hạ. Thuở nhỏ, tôi được yêu thương, được chiều chuộng. Tôi phá, quấy, hư hỏng và nghịch ngợm láo lếu nhiều, song tôi vẫn được yêu, vẫn được chiều. Ngày thơ ấu, tôi không biết là tôi sung sướng, là tôi được chiều chuộng. Lớn lên, trưởng thành, tôi vẫn được yêu, được chiều, tôi vẫn sung sướng. Trưởng thành, tôi biết là tôi được yêu, được chiều chuộng. Song, tôi chỉ biết là tôi sung sướng – đã sung sướng – khi tôi bị khổ sở. Và khi bị khổ sở, tôi vẫn thấy tôi sung sướng. Ngay sau năm sinh ra tôi, mẹ tôi xem bói. Một ông thầy bói có duyên nào đó – chắc chắn là thầy bói mù. 30 năm trước xã hội ta có rất ít thầy bói sáng, gần như hoàn toàn không có những ông thầy bói khách mã hiệu chiêm tinh gia, trò đoán những việc sắp xẩy đến qua bài Tây chỉ là trò tiêu khiển của một số nhỏ các em Me Tây – ông thầy bói có duyên, ăn nói hợp thời đó đã đoán rằng cậu con mới ra đời của mẹ tôi là một quí tử, sau này sẽ làm nên, rất có hiếu với bố mẹ. Thầy đoán sai hơi nhiều. Song mẹ tôi tin lắm. Mẹ tôi kiêu hãnh kể lại lời ông thầy bói đó mỗi lần nói về tôi. Tôi vẫn khinh giới thầy bói, tôi vẫn gọi, vẫn viết là các «anh» thầy bói. Riêng vị thầy bói đã đoán về tôi năm xưa, tôi phải gọi là ông. Nếu không có thầy bói nào tuyên bố rằng tôi là quí tử, chắc mẹ tôi vẫn yêu thương và quí báu, và chiều chuộng tôi như bà đã yêu thương, quí báu và chiều chuộng. Còn như, tôi biết nếu có anh thầy bói nhảm nhí, thối mồm nào nói láo rằng tôi là một thằng con mất dậy, trời đánh, bất hiếu, bất mục, bất lương phá hoại gia cang, làm xấu hổ họ hàng, làm bố mẹ nhục nhã, tôi sẽ ăn trộm, ăn cướp, hiếp dâm, ở tù, bị người ta đánh đập ngoài phố v.v... chắc chắn là mẹ tôi không tin, cho là nói láo và dấu biệt chuyện đó đi không kể lại cho ai nghe hết. Tôi tỉnh dậy vào buổi sáng. Hình như lúc đó sớm lắm. Sáu giờ sáng một ngày đầu mùa xuân không khí còn lạnh, còn như là mùa đông. Ánh sáng trắng và loãng đục. Văn sĩ thường tả rằng ánh sáng sáng của những buổi sáng sớm khi trời lạnh có mầu trắng đục như sữa loãng, Nghe thì có vẻ vẽ vời, nhưng thực là vậy. Ánh sáng của những buổi sáng sớm nơi xứ lạnh, vào mùa lạnh, quả thật có mầu trắng đục như mầu sữa loãng. Bàn tay êm đặt trên trán tôi. Tôi biết đó là tay mẹ tôi trước khi nhìn thấy mặt hà. Trước cơn mê, tôi biết có mẹ tôi ở bên tôi. Cơn mê loạn của tôi có thể dài lâu với người tỉnh, dài lâu với mẹ tôi, nhưng với tôi, rất ngắn. Qua rất mau. Vừa tỉnh lại, tôi biết ngay, nhớ ngay là tôi có mẹ tôi ở cạnh. – Em có đói không ? Tôi đói, tôi được ăn sữa bò. Sữa tươi đựng trong chai thủy tinh, không có đường, nhạt huyếch. Tôi vốn ghét sữa, tôi ưa ăn ngọt. Tôi chỉ gượng nuốt vài muỗng sữa nhỏ, rồi thôi không ăn nữa. – Em có biết đây là đâu không ? Em có biết Em với Me đang ở đâu không? Anh em chúng tôi được dạy xưng «em» với thầy mẹ. Không hiểu tại sao là «em» mà không phải là con. Song tiếng «em» thật êm đềm, thật đẹp. Tiếng xưng hô nào cũng êm, cũng đẹp, nếu có tình yêu trong đó. Tôi nhìn quanh và lắc đầu. Lần đầu tiên tôi nằm ngủ trong một căn phòng lạ, giữa những người lạ. Sau đó, tôi lại ngủ. Nhưng tôi ngủ không mê loạn. Mẹ tôi đã bớt lo, đỡ sợ. Nỗi lo sợ tôi chết trong lòng mẹ tôi nhẹ đi quá nửa. Bệnh đau màng óc đến nhanh và đi thật lâu, thật chậm. Người đau quá nếu chết ngay khi vừa lên cơn. Tỉnh lại là có cơ thoát. Song, phải mất 6 tháng nằm riêng một chỗ trong một căn phòng đóng kín, không được đi ra ngoài không được cả giao du thân mật với bất cứ ai. Anh em tôi không được bước vào phòng chơi với tôi. Tôi tỉnh lại lần thứ hai vào lúc 9 giờ sáng. Nắng vàng mùa xuân ấm đã chan hòa bên ngoài. Nắng vàng của Trời đất đến với tất cả, người và mọi nơi. Những khung cửa kính phòng bệnh đục mờ cũng vàng hoe ánh nắng. Tôi nhìn xung quanh. Phòng có hơn 10 giường, giường nào cũng có người bệnh nằm. Người theo nuôi bệnh nhân ban đêm nằm trên những chiếc ghế vải, hoặc trải chiếu nằm ngay trên lối đi. Vào giờ này, những người nuôi đi ra, đi vô, hoặc ngồi bên giường. Đa số bệnh nhân là thiếu niên dưới 15 tuổi. Bà Thần đau màng óc dường như yêu thích trẻ con. Những anh bé con trong phòng đều là dân nhà quê. Trừ tôi ra, và Nàng. Tôi nhìn sang chiếc giường bên cạnh – Lá Ngọc. Bà vú của Nàng đang chải mái tóc cho Nàng. Mái tóc ấy thưa và mỏng, vì Nàng vừa trải qua một cơn bệnh khủng khiếp. Nhưng trước mặt tôi, mái tóc con gái đầu tiên ấy trong đời rất đẹp. Ngọc Diệp đã tỉnh. Nàng đau trước tôi và nàng tỉnh trước tôi. Trong thời gian chúng tôi thoát tay Thần chết đó, có hai anh bé con đã chết trong căn phòng này. Người thiếu nữ ấy hơn tôi hai tuổi. Năm ấy, so với tôi, nàng đã người lớn rồi. Trong khi tôi vẫn còn là một anh bé con. Có một tiền định trong đời tôi. Đó là việc tôi có duyên với đàn bà lớn tuổi hơn tôi. Tôi dường như chỉ yêu những người đàn bà nhiều tuổi hơn tôi, và tôi hay được người đàn bà nhiều tuổi hơn tôi yêu lại. Tôi không chịu nổi những em Lolita. Âu Tây gọi những người thanh niên yêu thích đàn bà hơn tuổi mình là những người có mặc cảm Œdipe. Ngày xưa chàng Œdipe yêu mẹ ruột của chàng. Nhưng yêu trong tiềm thức thôi, không loạn luân và Œdipe tìm thỏa mãn cho mối tình của chàng qua việc yêu những người đàn bà hơn tuổi chàng. Có thể. Có lý. Tôi nhìn sang Ngọc Diệp và ngắm nàng ngồi để cho bà vú nàng chải tóc.. Nàng bận bộ áo cánh trắng, quần trắng. Chắc là vừa thay y phục, vì bộ quần áo nàng còn nguyên nét ủi. Khuôn mặt nàng trái soan, đôi gò má hơi nhô cao, đôi mắt trũng xuống vì cơn bệnh vừa hoành hành. Đôi mắt đã to đen lúc thường, trông càng to và đen. Lần đầu tiên, tôi nhìn ngắm kỹ hình người con gái ngồi chải tóc. Nàng đang ăn cam. Những múi cam Triều Châu bóc vỏ, nằm trong lòng dĩa, hồng mọng. Hôm nay, khi hồi tưởng lại những múi cam ngày ấy tôi thấy nó giống như môi đàn bà đa tình, lúc đang thèm yêu, đang chờ đợi môi người yêu gắn lên. Song buổi sáng đó, với tâm hồn trẻ thơ, với đôi mắt chỉ mới quen nhìn cỏ cây, bướm hoa và mây trắng, nước trong, tôi chỉ thấy những múi cam tươi đó gợi ý ngon và mát Một lọn tóc rối. Chiếc lược giật hơi mạnh. Nàng hơi đau, làn môi dưới nàng trề ra tỏ dấu phản đối. Cái trề môi ấy, nếu là môi bọn em gái tôi, chắc tôi ghét lắm, tôi có thể cốc thêm cho em em gái tôi mấy cái chỉ vì cái trề môi đó. Nhưng trên môi Ngọc Diệp, cái trề môi lại đẹp, có duyên làm tôi nhớ mãi. Hai mươi năm sau, tôi tìm thấy cái trề môi ấy trên môi của Brigitte Bardot. Sau cái trề môi ấy, nàng như cảm thấy, tôi đang nhìn nàng. Nàng nhìn sang tôi, thấy đôi mắt tôi thao láo, nàng mỉm cười với tôi. Nàng chỉ tôi nói với bà vú : – Cậu ấy thức rồi kìa. Nàng bưng dĩa cam dơ lên, mời tôi : – Ăn cam không ? Tôi cũng có chục cam để trên đầu giường với chai nước lọc, chai sữa tươi. Thấy nàng mời, mẹ tôi nói : – Cô Diệp ăn đi. Em nó cũng có cam đây Nàng vẫn cầm dĩa cam dơ về phía tôi đôi mắt vẫn nhìn tôi, vẫn mời. Thấy tôi làm một cử chỉ định ngồi dậy, nhưng tôi hãy còn yếu lắm mẹ tôi vội đỡ lấy dĩa cam trên tay nàng : – Cám ơn cô. Mối tình đầu của tôi có từ phút mẹ tôi bỏ múi cam ngọt lịm vào miệng tôi. Và tình yêu đến trong tim tôi thật sớm. Nhung những mối tình đầu, tất cả những mối tình đầu trên cõi đời này, đều sạch, thơm và thơ mộng. Những mối tình đầu không có chia ly, không có tan vỡ. Vì trong tình đầu, người ta không có một ước vọng nào về tương lai, không có cả sự ham muốn được gần nhau. Trong tình yêu đầu, chúng ta không có cả sự thèm muốn được yêu đền đáp Chúng ta cũng không biết là chúng ta đã yêu. Vì vậy trong tình đầu, chúng ta không bao giờ thất vọng. Ngọc Diệp là con gái một ông Đốc Phủ người Nam Kỳ. Ông cụ ra ngoài Bắc Kỳ làm việc lấy vợ Bắc, và lập nghiệp ở tỉnh lỵ Hà Đông. Nhà Ngọc Diệp đông anh em. Nàng là con gái thứ sáu, thứ bảy trong nhà. Bà mẹ nàng đã qua đời. Ông Đốc Phủ có vợ kế. So sánh với tôi thì Diệp không được gia đình săn sóc đến nhiều. Mỗi ngày, Thầy tôi vào thăm tôi một lần. Còn ông Đốc Phủ mỗi tuần lễ mới vào nhà thương thăm con gái một lần. Có khi cả hai tuần mới thấy ông xuất hiện. Ông Đốc Phủ người hơi thấp. Ông bận đồ Tây, mùa hạ ông bận bộ «faux-tussor » mầu mỡ gà, tay xách ba-toong. Đặc biệt tay ông luôn luôn cầm một điếu thuốc lá giả làm bằng gỗ, sơn trắng, trông như cây bút chì mầu. Nơi đầu điếu thuốc lá giả bằng gỗ ấy có một chút sơn xám, giả làm tro thuốc lá đàng hoàng. Điếu thuốc giả ấy, mới trông, ai cũng tưởng là thuốc thật. Chỉ thiếu có khói. Ông nói rằng người lịch sự lúc nào tay cũng phải có điếu thuốc lá, nhưng ông hút nhiều thuốc quá không được, có hại, nên ông bày ra chuyện cầm điếu thuốc lá giả. Ông Đốc Phủ nói tiếng Nam kỳ. Nhưng giọng nói của Ngọc Diệp là một giọng nói lai, nàng sinh trưởng ở đất Bắc mẹ nàng lại là người Bắc, nên giọng nói của Nàng có nhiều âm Bắc hơn là Nam. Kể từ giây phút ấy, tôi sống trong căn phòng bệnh, giữa những người gần chết, sắp chết, nằm gần ngay nhà xác, như sống trên một con tầu bồng bềnh trôi trên biển. Những ngày thật êm đềm và bình thản. Tôi có mẹ tôi suốt ngày, suốt đêm ở bên cạnh, nâng niu săn sóc, nuông chiều. Tuổi thơ ấu tôi sung sướng nhất là được mẹ tôi săn sóc, chiều chuộng, được coi là người quan trọng nhất nhà. Tôi sống không biết có những gì xẩy ra quanh tôi. Tôi chỉ biết tôi đang có mẹ tôi và một cô gái xinh xắn, dễ thương sống bên cạnh. Tôi không nhận thấy có những gì bẩn thỉu, ghê rợn – những gì đặc biệt của cái chết – đang diễn ra quanh tôi. Những ngày nằm bệnh ấy, giờ đây trong ký ức tôi, chỉ còn là một chuỗi dài những ngày ngọc sáng êm đềm. Ngày cuối xuân, đầu hạ, khí hậu vẫn còn lạnh ban đêm và không nóng lắm ban ngày. Chúng tôi vẫn còn nóng sốt bất thường. Những cơn sốt nóng đột ngột đến, vừa đủ để gây lo âu, rồi từ từ đi, cho thân nhân của chúng tôi có quyền nghĩ rằng cơn bệnh của chúng tôi đang giảm dần, đang sắp hết... Tôi được nghe mẹ tôi kể lại rằng tôi nằm mê man mất ba đêm, hai ngày. Ngọc Diệp vào nằm đây trước tôi năm ngày, khi cơn đau của tôi đang thời kỳ nặng nhất, nàng đã tỉnh. Trong đêm đầu tiên tôi được đưa vào đây, phòng này có hai người đau màng óc từ trần. Xác chết vừa được mang đi thì tôi chiếm giường của người vừa chết. Mẹ tôi vốn sợ ma như hầu hết những bà mẹ trên cõi đời này. Trong đêm đầu tiên ở đây, không biết nhà xí ở đâu, vào khoảng gần sáng, bà đi ra vườn thấy một căn nhà nhỏ, tối om ở góc vườn. Yên trí đó là nhà xí, bà liền đến đó ngồi đái một bãi. Cũng may là bà lại ngồi đái ngay ngoài cửa, không cẩn thận mò vào bên trong căn nhà tối om đó. Vì đó là Nhà Xác. Sáng hôm sau, bà chết khiếp vì thấy người ta đem xác chết vào đấy. Trong tâm hồn trẻ thơ cái chết thật bình thường. Tôi dửng dưng, thản nhiên với cái chết bình thường. Tôi dửng dưng, thản nhiên với cái chết của cả chính tôi. Chưa biết cuộc đời này có những gì nếu ngày trẻ thơ đó tôi phải ra đi, tôi thảnh thơi đi. Khi đứa con nhỏ chết, người đau đớn nhất là người mẹ. Tháng ấy, trong căn phòng nhỏ cuối nhà thương Hà Đông , tôi được chứng kiến nhiều cái chết. Đêm khuya, tôi thức dậy vì những tiếng kêu – «...ước… ước» khô khan, sắc và lạnh vang lên trong cái âm u rờn rợn của phòng bệnh. Mẹ tôi vẫn thức. Bà nằm bên tôi vòng tay ôm mình tôi. Tôi bàng hoàng : – Ai kêu đó mẹ? Đó là tiếng kêu của một anh bé con trạc tuổi tôi. Anh cũng đau màng óc. Từ làng quê xa, anh được ông bố mang ra đây cứu chữa. Anh kêu «...ước....ước» và ông bố anh tưởng anh đòi uống nước rót nước cho anh uống, nhưng anh không uống. Ông bố anh cằn nhằn: – Nước hả ? Mẹ bố mày...đòi uống nước người ta rót cho lại không uống. Anh bé con đang mê hoảng. Không ai hiểu anh đòi gì, anh muốn nói gì qua những tiếng «ước..ước...» của anh. Gần sáng trời lạnh. Tôi nằm thu mình trong lòng mẹ. Hai bàn chân trẻ con, nhỏ bé của tôi nằm gọn trong hai đùi bà. Tôi được ngủ với mẹ đến năm lên tám, lên chín tuổi. Mùa rét, tôi được ủ hai bàn chân trong lòng mẹ. Ấm không thể tả. Đến khi tôi có em gái là bắt đầu có sự canh tranh. Em gái gái tôi chỉ kém tôi có một năm, nó đòi hỏi quyền lợi của nó đâu ra đấy. Tôi cũng sờ tí mẹ và lẽ cố nhiên, con bé cũng sờ tí mẹ. Buổi tối, nhất là những tối mùa đông, nằm trên là chăn bông, dưới là nệm bông, mẹ nằm giữa hai con hai bên, cuộc tranh chấp sờ tí mẹ và được mẹ ủ chân diễn ra dữ dội. Một đứa tranh sờ một vú. Mẹ tôi ủ chân cho đứa này một lúc lại phải quay sang ủ chân cho đứa kia. Tôi yếu thế hơn em gái tôi. Nó có nhiều chính nghĩa hơn tôi. Nó là con gái, xã hội và pháp luật gia đình cho nó cái quyền được ngủ với mẹ. Tôi con trai, quá 6 tuổi mà còn sờ tí là một sư bê bối cần dấu diếm. Anh em khi còn nhỏ thường ghét nhau là vì những cạnh tranh quyền lợi ấy. Gần sáng, trong nhà thương lạnh, khi tôi ngủ say, anh bé con cùng tuổi tôi qua đời. Người ta thường nói chết là không may, thường gọi kẻ chết là xấu số, bạc phước, bất hạnh. Nhưng chắc đâu anh bé con chết năm đó đã là bất hạnh. Buổi sáng dậy, tôi ăn bánh mì sữa. Ngọc Diệp cũng ăn bánh mì sữa. Mãi khi nắng lên, trời hết lạnh, tôi mới nhớ đến anh bé con kêu « ước... ước...» đêm qua. Nhìn sang giường anh nằm, thấy giường trống, tôi hỏi mẹ tôi anh ta đâu. Mẹ tôi tôi nói: – Anh ấy khỏi rồi. Ông Đốc cho anh ấy về nhà rồi... Tôi tin là thật. Tôi nghĩ đến ngày tôi cũng phải về nhà. Tôi không muốn về. Tôi muốn ở đây mãi với mẹ tôi bên cạnh suốt ngày đêm chiều chuộng tôi, âu yếm tôi, nói với tôi những lời ngọt ngào. Ở đây với Ngọc Diệp nằm bên, xa hẳn cuộc đời, xa sự quấy nhiễu của các em tôi. Về nhà, mẹ tôi sẽ phải chia thời giờ lo cho các em tôi nữa chứ, tôi đâu có thể chiếm trọn vẹn mẹ tôi mãi như thế này được. Ngày lại ngày êm đềm theo nhau qua. Từ phía Nhà Xác, cách vài ngày lại có tiếng khóc vang lên. Người chết trong nhà thương công cộng, tống táng trong Nhà Xác chung, không được khóc than nhiều. Có thể là người chết trong những nhà thương thí được những người thân yêu thương xót nhiều hơn nhưng không được khóc nhiều như những người chết ở nhà, đám ma rềnh rang đủ lệ bộ, có thân bằng, quyến thuộc đến phúng viếng. Khi đã mạnh đủ sức ngồi dậy được, mỗi lần nghe tiếng khóc từ phía góc vườn vẳng lại, tôi vẫn ngồi lên, dựa lưng vào thành giường sắt, ngóc đầu nhìn qua cửa sổ. Lần nào cũng vậy, một chiếc xe bò đậu ở cửa căn nhà nhỏ. Chiếc áo quan gỗ mộc trắng phếu được khiêng từ trong nhà ra, đặt lên xe. Người ta đẩy xe đi. Đi sau xe, sụt sùi khóc, tôi thấy nhiều lắm là ba người. Mẹ tôi thường bắt tôi nằm xuống. Bà không muốn để tôi thấy nhiều cái cảnh đưa ma bi đát đó. Một hôm, tôi thấy một anh bé con cũng đau màng óc vào nằm. Anh cũng trạc tuổi tôi. Dường như năm đó, Thần Đau Màng óc chỉ bắt những anh bé con trên dưới mười tuổi. Người lớn bị chê. Anh bé mê man ,anh vào nằm lúc chiều thì đến tối anh chết. Hình như bà mẹ anh đi lấy chồng khác hay sao đó nên hôm sau, tôi mới thấy bà mẹ anh tới. Một thiếu phụ trạc ba mươi tuổi ngoài. Trông khá đẹp. Bà có vẻ là người buôn bán ở tỉnh lẻ. Tôi nhớ rõ bà mặc chiếc áo trắng xổ gấu, chít khăn sô trắng. Chắc bà vừa có đại tang..Bố hay mẹ chết và con bà lại chết. Tôi nghĩ chắc bà có chồng khác vì bà không đưa con vào nằm bệnh viện như mẹ tôi đưa tôi. Anh bé chết, bà mới vào lãnh xác con đi chôn. Quan tài anh bé được chở đi trên một chiếc xe tay. Người thiếu phụ đi theo áo quan của con. Bà không khóc mấy. Tôi nhận thấy bà không khóc nhiều. Song, tôi nghe mẹ tôi nói chuyện với bà vú Ngọc Diệp : – Tội nghiệp... Bà ấy không khóc được... Bà ấy cứ lặng đi thôi. Khóc không được mới thật là đau đớn. Bà vú Ngọc Diệp đồng ý với mẹ tôi : – Vâng... người nào khóc lớn chưa hẳn là đau đớn. Lặng đi không khóc lên tiếng được mới là khổ... Tôi thơ ấu, mười tuổi, tôi đã để ý đến những chuyện mà những đứa trẻ khác cùng tuổi tôi không để ý. Tôi ghi nhận : người ta đau đớn thực sự, đau đớn nhiều thật nhiều, nhiều lắm, không khóc được. Tôi ghi nhận người khóc nhiều vẫn chỉ là đau khổ vừa. Những nỗi đau đớn lớn làm vỡ gan, đứt ruột không thể thốt ra được bằng tiếng khóc nhưng trong tuổi thơ tôi chỉ biết ghi nhận vậy thôi. Tôi chỉ lấy làm lạ vì trước đó tôi vẫn tưởng rằng người nào khóc nhiều, khóc lớn là có sự đau đớn hơn những người khóc ít. Từ giây phút đó, tôi nghĩ : « Lạ nhỉ khóc ít mới là đau lòng nhiều, khóc nhiều lại là đau lòng ít ư ? » Hai mươi năm sau – thực thế thời gian qua lâu dài và mau chóng đúng như Dutdinsey đã tả – thời gian qua mau nếu ta nghĩ nó qua mau, thời gian qua chậm nếu ta nghĩ nó qua chậm. Quan niệm về thời gian là trong tâm ta chứ không phải chính ở thời gian. Thời gian có thể co lại, dãn ra như cao su – và sự thực thay đổi theo số tuổi của con người. Có những sự thực đúng năm ta mười tuổi trở thành sai năm ta ba mươi. Và ngược lại. Có những nghi ngờ năm ta còn trẻ, còn nguyên tin tưởng ở tương lai, không còn là ngờ nữa khi ta có tuổi. Bây giờ là tháng mấy? Cuối mùa Xuân năm 1942... Hà Đông, Bắc Việt.. Nhà thương. Tôi nghi ngờ chuyện «đau đớn nhiều không khóc được». Năm nay, tôi thấy đúng. Những nỗi đau đớn lớn làm cho người ta không khóc được ra tiếng, không nói được thành lời. Cũng như những tình yêu lớn. Hôm nay, tôi viết nhiều về Tình Yêu của tôi, về những đau đớn của tôi, nhung những gì tôi viết chưa được là một phần nghìn một phần triệu mối tình của tôi yêu cha mẹ yêu vợ con tôi. Có thể là vì tôi bất tài tôi chỉ diễn tả được có ít thế. Nhưng nếu tôi có tài, nếu tôi là văn sĩ, tôi cũng không thể nào diễn tả được lấy một nửa số lượng tình yêu chất chứa trong lòng tôi. Mãi cho đến năm tôi 30 tuổi, tôi không tin ở Thần linh, tôi thích nhạo báng những tin tưởng của người khác, nhất là những người quanh tôi. Chúa Jesus, Đức mẹ Maria, Đức Phật Thích Ca, Phật bà Quan Âm ? ? ? Là cái gì ? Để làm gì ?? Chẳng làm quái gì được người ta ?? Chẳng có quyền phép gì hết !! Tôi cóc bao giờ tin và tôi tin rằng suốt đời, tôi sẽ chẳng bao giờ phải cầu nguyện. Tôi tương đối thành công trong cuộc đời. Hai mươi tuổi, muốn viết tiểu thuyết, tôi viết tiểu thuyết, yêu một người đàn bà đẹp, muốn ăn đời, ở kiếp với người đàn bà đó, tôi lấy được nàng làm vợ. Tôi tự cho tôi thành công, tôi không tin một sức mạnh huyền bí nào có thể ảnh hưởng đến đời sống của tôi, làm tôi sung sướng, đau khổ, hoặc có thể cứu giúp được tôi, có thể làm cho tôi bớt đau khổ. Nhưng nghĩ vậy là lầm , nghĩ vậy là sai; là có ngày sáng mắt ra, có ngày vỡ mặt, có ngày sẽ rất đau. Bây giờ là Tháng Năm, bây giờ là đầu một mùa mưa ở Saigon. Bây giờ cơn mưa thứ nhất vừa trút xuống thành phố Saigon này, bây giờ tôi tin là cuộc đời có số Mệnh. – Số mệnh ! Định mệnh ! Đời có số – Người ta có số ! Câu đó người ta vẫn nói, tôi vẫn nghe – Cả ngàn ngàn lần từ giây phút biết nghe, nghe và hiểu tiếng nói. Nhưng nghe mà không nghĩ, tiếng nói trôi tuột đi không để lại một dấu vết gì, không gây ra một ý nghĩ nào. Đời có Số – Số mệnh – không tránh được Số! Những câu rất thường, cửa miệng, mà cũng rất thâm trầm chứa đựng nhiều. Số mệnh ! ! Là gì ! Có không? Tại sao ? Một triệu cuốn sách mỗi cuốn một triệu trang cũng chưa giải thích xong cái gì là Số Mệnh. Nhưng bây giờ là tháng năm, bây giờ là đầu mùa mưa, tôi tin là đời này có Số Mệnh. Chúng ta đau khổ hay sung sướng là do Số Mệnh. Định Mệnh đã sắp đặt trước cho chúng ta sướng hoặc khổ. Chúng ta không thể tránh được. Câu nói: « Một miếng ăn, một miếng uống của con người cũng đã được định trước: Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định... » nghe thì có vẻ hơi quá đáng, song thực là thế. Đúng thế. Tôi đau màng óc, một chứng bệnh nặng, nguy hiểm giữa thời kỳ chiến tranh, thuốc Tây không có. Nhưng tôi không chết. Vì số tôi chưa chết. Trong lòng bàn tay mặt của tôi đường sinh đạo bị ngắt ngang ở gần khởi điểm. Không cần phải là thầy bói không cần nghiên cứu về chỉ tay, chỉ nhìn vết sinh đạo đứt ngang đó, tôi cũng biết rằng thuở nhỏ, tôi bị một cơn đau nặng, mười phần chết chín. N BA ằm trong Nhà Thương hai tháng. Mẹ tôi ở liền 60 ngày 60 đêm trong căn phòng bệnh gần Nhà Xác đó với con. Nhà tôi ở cuối phố Bóp Kèn. Lên lầu nhà tôi, ra cửa sổ sau nhà nhìn qua một cánh đồng nhiều ruộng rau muống, thấy góc cuối cùng của Nhà Thương Hà Đông, thấy cổng sau Nhà Thương, thấy con đường đá từ đó dẫn ra Nghĩa Trang Thành Phố ở bờ sông. Đêm tối, khu nhà thương đó tối om, có một ngọn đèn điện sáng vàng sau vòm cây. Đó là ngọn đèn điện sáng trên cửa Nhà Xác. Trong vùng bóng tối âm u ấy, tôi đã sống với Thần Chết trong hai tháng. Nhiều buổi sáng nắng, nhiều buổi chiều xám tôi đã đứng trên lầu nhà tôi, nhìn về phía Nhà Thương và trông thấy chiếc xe bò Nhà Thương chở xác người chết đi chôn. Cách xa một cánh đồng, song tôi tưởng như nghe thấy tiếng vành sắt của bánh xe kêu cọc cạch, nghiến ken két trên mặt đường sỏi đá. Đứng trên lầu nhà tôi nhìn thấy khu Nhà xác Nhà Thương, tất nhiên đứng trong khu Nhà Xác đó, mẹ tôi cũng có thể nhìn thấy nhà mình. Có những buổi chiều, mẹ tôi nhớ nhà, mẹ tôi nhớ bọn em gái tôi, bà ra cổng sau nhà thương nhìn qua cánh đồng về nhà. Chỉ vài phút thôi, bà trở lại với tôi ngay, bà nói với chị vú nuôi Ngọc Diệp: – Nhìn thấy nhà mà không về được. Thật khổ... Rồi bệnh tôi thuyên giảm, rồi cũng đến ngày tôi rời nhà thương trở về nhà. Bệnh dịch đã lắng, đã đi. Chuyện đau màng óc không còn là một đề tài mới lạ để nói nữa. Những người số chết bị bịnh đau màng óc đều đã chết. Tôi và Ngọc Diệp được rời bệnh viện cùng một ngày. Tôi không buồn, không vui. Trẻ thơ vô tư, nằm mãi lại trong nhà thương cũng được mà về cùng được. Mẹ tôi mừng và bồn chồn náo nức nhiều, tôi nghe bà nói với chị Vú : – U có mừng vì được về nhà không chứ.... Thật tôi mừng như ở tù được thả... Về đến nhà, vẫn chưa hết bệnh. Tôi phải «cấm cung» một thời gian khá dài. Sáu tháng. Sáu tháng nằm một mình trong căn phòng đóng cửa «bế quan tỏa cảng, nội bất xuất ngoại bất nhập». Chỉ có một mình mẹ tôi ra vào căn phòng đó với tôi. Nhà tôi hồi đó rộng thênh thang. Anh em chúng tôi còn nhỏ, ở không hết nhà. Có một sự trái ngược về nhà cửa trong gia đình tôi là trong tuổi già của thầy tôi, anh em tôi có vợ có chồng có con, thì nhà chúng tôi lại chật hẹp, không đủ chỗ cho các cháu nội, cháu ngoại của Cụ chạy chơi, nô đùa. Đây là lỗi của tôi. Tôi đã không lo nổi một cái nhà đàng hoàng cho thầy tôi nghỉ ngơi khi cụ về già. Tôi nằm một mình trong căn phòng sau. Phòng có hai cửa sổ, mở ra sân nhà sau. Tôi ngồi cả ngày bên cửa sổ, nhìn ra vườn, nơi có cây ổi Tàu thật ngon vào những mùa hè năm trước tôi vẫn leo trèo. Anh em tôi đi học đi chơi, những tiếng cười đùa của các em vẳng vào phòng làm cho tôi thèm thuồng. Nhưng tôi vẫn ngoan, không đòi ra ngoài chơi, không khóc. Tôi nằm «cấm cung» như vậy liền trong sáu tháng. Dường như trong tôi vẫn còn nọc độc của bệnh đau màng óc, tôi vẫn còn có thể truyền bệnh cho em tôi. Suốt thời gian đó, tôi đọc nhiều tiểu thuyết. Tất cả mọi thứ tiểu thuyết kiếm hiệp, tình ái lâm ly, đường rừng có để ở những tiệm cho thuê sách ở Hà Đông đều được mẹ tôi cho đi thuê mang về cho tôi đọc. Tôi làm bạn với ông Trọng Khang, nhân vật người hùng của tiểu thuyết Trường Đời, người chê mối tính của cô gái nhà giàu Marie Khánh Ngọc, tôi thán phục Trọng Khang và khinh bỉ anh François Giáp bụng phệ, tôi hồi hộp với những chàng cha chú «tiền bối» của James Bond Điệp Viên Bí số 007 như Đoan Hùng, Lê Phong, Kỳ Phát. Tôi tưởng tượng đến cỏ non, nước trong, trăng sáng, giếng nước ngoài đồng, cây da đầu đình qua những trang tiểu thuyết của Tô Hoài. Tôi học nghề viết tiểu thuyết từ những ngày nằm bệnh «cấm cung» dài và qua mau ấy. Để cho tôi vui, me tôi bầy ra một chuyện để quyến rũ bọn em gái tôi tới bên cửa sổ, trò chuyện với tôi giây lát. Mỗi buổi sáng, bà mua thêm cho tôi một ổ bánh mì, một miếng chả. Tôi làm ông bán bánh mì chả cho bọn em gái tôi. Các em tôi đến cửa sổ, gọi vào «ông bán cho tôi năm xu bánh mì chả... !» Tôi vui vẻ cắt một miếng bánh mì nhỏ xíu bằng nửa cái hộp quẹt, kèm theo một miếng chả cũng nhỏ bằng ngón tay, đưa qua cửa sổ. Ông hàng bất đắc dĩ bán bánh tây chả thật – dù là bán ít – nhưng lấy tiền giả làm bằng giấy, khi hết bánh là hết khách. Các cô em tôi «phú lỉnh» đi chơi nơi khác. Ông “hàng” hết khách, hết cả bánh mì lại quay vào giường nằm đọc truyện. Sáu tháng sau, tôi được ra khỏi phòng cấm. Trời cuối mùa thu rồi, tôi vẫn còn được nghỉ học. Muốn cho tôi lấy lại sức khỏe, buổi chiều những ngày trời không lạnh lắm, thầy tôi đi làm về sớm, dắt tôi đi chơi ra cuối tỉnh đi trên con đường giữa cánh đồng. Một buổi chiều, thầy tôi hỏi tôi nghĩa vài câu tiếng Pháp – «Le Soleil là cái gì ? La Terre là gì , con còn nhớ không ?» Le soleil ... la lune?» Những danh từ đó tôi đã học rồi, và tôi đã quên – quên hết. Quân Phiệt Nhật chỉ thắng trong hai năm 1940 – 1941. Tới năm 1942, Nhật hết tiền và bắt đầu bại. Vào năm 1943, bọn thiếu niên Hà Đông ngu si chúng tôi đã bắt đầu nói đến chuyên Mỹ thắng trận, Mỹ «đổ bộ» Phi Luật Tân, Mỹ «giải phóng» Phi Luật Tân. Trong khi đó Tây Thực Dân bị Nhật Bản đàn áp, trên chân về tất cả mọi mặt, tự cứu vãn bằng cách phát động một phong trào vô thưởng, vô phạt là phong trào Thanh Niên khỏe để Phụng Sự. Những đoàn Thanh Thiếu Niên mặc áo sơ-mi trắng, quần xanh đều được thành lập ở mỗi tỉnh. Các trường học, kể cả trường tư, đều được lệnh tổ chức các đoàn Thiếu Nhi. Các đoàn này sinh hoạt giống như Hướng đạo sinh, nhưng ô hợp và hạ tiện, kém tổ chức hơn nhiều. Tôi trở lại trường Tự Đức của ông Giáo Kiên – ông người làng Vạn Phúc, một làng có nghề dệt nổi tiếng về mục đàn ông gan dạ hay đâm chém nhau nhất tỉnh – vào đúng lúc phong trào Sport được phát động. Tôi nhập đoàn tập ca hát, đi cắm trại và tập thể thao một tuần hai lần ở sân vận động Hà Đông. Sân này được đặt tên là sân Yves Chatel, ông Thống sứ Sa Tiền nổi tiếng dâm đãng nhất Bắc Kỳ. Thống sứ Chatel là quan thầy của Án sát Bùi Đường Tịnh. Vào năm này, Quan Án sát Bùi Đường Tịnh đổi về ngồi ở Hà Đông. Nhà ông ở gần nhà tôi. Ông được giao trọng trách tổ chức và phát triển phong trào khỏe ở tỉnh. Nhờ ông, đội đá bóng tròn Hà Đông – có hai hội đá giầy đàng hoàng và đội đá chân đất – vào những năm này được nâng đỡ và là một hội đá có hạng ở Bắc Kỳ, Tôi mê đá bóng. Trận đá giầy nào ở sân Hà Đông cũng có mặt tôi ngồi cổ võ đội nhà. Tôi nhớ những trận Hội Đá Giầy Hà Đông đá với Hội Ancre của Tây. Hai trận, trận nào cũng thua 3-1. Đó là thời «gôn» Fay nổi tiếng nhất Bắc Kỳ. Tên «Fay» về sau trở thành một danh từ chung để chỉ những tên giữ «gôn» bắt bóng dính : Thằng ấy giữ «gôn phay» không thể tả. Đó là thời Hội Bóng Tròn Hà Đông có Thọ Ve giữ gôn. Đá với Tây, các đàn anh trong Hội Bóng Hà Đông ngán, sợ – mặc cảm đầy tớ đá bóng với ông chủ còn nặng – nên không dám xông xáo để tránh sự đụng chạm. Tôi thấy hào hứng nhất là những trận Hà Đông đá với Hội Tuyển Sơn Tây của Tí Bồ. Lần nào cũng huề nhau 2-2. Tí Bồ lùn nhưng to bề ngang đi tả biên, chạy theo bóng nhanh xứng đáng được nổi tiếng. Và cũng vào những năm 1943, đám thanh niên hơn tôi năm, sáu tuổi, thuộc loại thanh niên lấc cấc như ông anh tôi, bắt đầu nhỏ to, bàn tán đến chuyện chánh trị, chuyện đánh nhau Mỹ–Nhật, chuyện mai sau sẽ «được» nước nào đô hộ. Tôi còn nhớ những mẩu đối thoại đại khái : – Mỹ đổ bộ lại Phi Luật Tân rồi... Thế nào quân Nhật cũng thua... – Nước Phi Luật Tân ở đâu hả mày ? – Nước Phi Luật Tân ở giữa biển... Nó nằm ở giữa nước mình với nước Mỹ. Nó là thuộc địa của nước Mỹ. – Cũng như nước mình là thuộc địa của Tây phải không mày... ?? – Ừ . Nhưng được Mỹ đô hộ sướng hơn nhiều. Mỹ nó giầu tiền lắm. Mỹ nó không thèm bóc lột như Tây, vì nước nó giầu, dân cái gi cũng có cũng thừa, nó đem của cho dân thuộc địa... – Ăn tiêu như Mỹ mà lỵ.... còn phải nói...giá nước mình mà được Mỹ đô hộ thì sướng nhỉ ?? – Sướng phải biết... – Nhưng có chắc là Nhật nó thua không mày ? ... – Thua hẳn đi chớ lỵ. Không nước nào có thể đánh nhau lại với Mỹ. Mỹ nó giầu lắm... Mỹ nó nhiều phi cơ, xe tăng, súng đạn nó có thừa, nó bán súng đạn cho cả thế giới. Nga đánh nhau với Mỹ, Nga cũng thua... . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Tôi trẻ thơ, tôi ngây ngô, tôi cứ tưởng như ông Mỹ nào cũng hào huê phong nhã như ông Clark Gable trong phim L’incendie de San Francisco. Mà không cứ gì tôi, một triệu anh nhi đồng bằng tuổi tôi ngày đó, mê coi xi-nê, cũng đều tưởng Mỹ bảnh như tôi tưởng. Có lẽ những ước vọng «chính trị cao đẹp» đó được mẹ tôi nghe thấy. Mẹ tôi ngồi trong nhà. Bọn anh tôi nói bô bô ngoài cửa nên bà nghe tiếng hết. Chắc bà nói lại cho thầy tôi biết. Nên ngay bữa cơm hôm sau, anh tôi bị ông cụ chỉnh : – Mày ngu lắm. Mày không biết gì thì đừng có nói... Có ngày nó bắt, nó đánh mày khốn nạn cái thân, con ạ... «Nó» mà ông cụ nói tới đây ám chỉ bọn Mật Thám Tây. Từ ngày ông giáo Kiên, Hiệu Trưởng Trường Tiểu Học Tư Thục Tự Đức, bị Mật Thám Tây từ Hà Nội vào khám trường, bắt, còng tay ra Hà Nội, dân Hà Đông sợ xanh mắt và những danh từ Mật Thám, Liêm Phóng, Săng tan, được dân Hà Đông khe khẽ nhắc tới luôn. Vụ Liêm Phóng Tây bắt ông Giáo Kiên vì ông này có liên can đến một Hội Kín làm dư luận Hà Đông sôi nổi. Ông Giáo Kiên chỉ bị giữ đâu có nửa tháng. Rồi được được thả về, ông lại dậy học như cũ. Song, từ đấy người ta thấy ông xanh xao, gầy ốm hơn trước nhiều. Về sau, ông hút thuốc phiện và chết vì bệnh ho lao. Có lẽ ông mắc nghiện sau những trận đòn ở Sở Liêm Phóng Bắc Việt. Ngày đó, tuy Nhật Bản đã vào Đông Dương, song các Quan Tây cũng vẫn còn quyền sanh sát với dân nó. Quan Tây chỉ nể sợ những người A-Nam nào làm việc với Nhật. Bị mắng, anh tôi ú ớ : – Em... em... có nói gì đâu... Và anh tôi chối : – Chúng nó nói đấy chứ... Em có nói gì đâu... Em chỉ nghe... Thầy chúng tôi gắt : – Không có chơi với mấy thằng ngốc ấy. Thấy chúng nó thì đi chỗ khác. Ranh con rửa mặt chưa sạch mà đã bàn tán chính trị... có ngày chết oan.... ★ Nhưng ý nghĩ được «Mỹ đô hộ sướng» đã in sâu trong ý thức của tôi từ ngày đó. Nước Mỹ, người Mỹ trước mắt lớp trẻ thơ như tôi thời ấy chỉ là nước Mỹ văn minh, có tổ chức, giầu đẹp, sung sướng, người Mỹ hào hoa, lương thiện, vui sống trên phim ảnh: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Và trong thời gian đó, tôi đi học, đi cắm trại, đi sinh hoạt Thiếu Nhi, tôi học thuộc lòng những bài dịch các diễn văn của Thống Chế Pétain tuyên đọc bên trời Âu : Thống Chế Pétain đã nói... Le Maréchal a dit... Anh tôi cua Suýp (Supérieur) học thuộc lòng các bài tiếng Tây, tôi và Nguyệt, em gái tôi cua Moay Ăng Oong (Moyen Un), phải học thuộc lòng những bài Paroles du Maréchal bằng tiếng Tây ngắn hơn. Tôi và các bạn tôi ngày nào cũng gân cổ hát trước bức hình mầu in Thống Chế Pétain mũ képi, râu bàn chải trắng, trước lá cờ ba sắc : – Maréchal... nous voilà... devant toi, le sauveur de la France... Những kho giấy trắng cuối cùng của Nhà Nước Bảo Hộ Đại Pháp ở Bắc Kỳ được tung ra in affiche hình Thống Chế Pétain. Nhà in Ideo Hà Nội vừa in bích chương Pétain, vừa in tiền giấy. Tài liệu Pétain được gửi đi khắp nơi. Quá nhiều. Thầy tôi mỗi ngày đi làm về, mang theo hai tờ nhật báo Đông Pháp và Việt Cường, cùng một tập lớn in hình Thống Chế Pétain in đủ cỡ. Người ta được lệnh phải dán hình Thống Chế Pétain ở khắp nơi. Hết chỗ dán, người ta đem hình vào dán cả trong những vách tường cầu tiêu. Chúng tôi hát bài Marseillaise một cách thật hùng hồn. Những bài hát Việt Nam được chúng tôi thuộc lòng, hát ầm ầm mỗi ngày là bài LÊN ĐÀNG. Nào anh em ta... Cùng nhau xông pha. Lên đàng..... Kiếm nguồn vui mới. Ta nguyền đồng lòng ...điểm tô non sông... Cùng nhau ca khúc...lên đàng... Cùng những bài Bạch Đằng Giang, Đống Đa, Tiếng Gọi Thanh Niên, bài Quê Tôi của Hoàng Quý: – Quê nhà tôi nhiều khi nắng êm đềm Chạy dài trên khóm cây Đàn chim ríu rít ca Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm... Chuyện trò chung với nhau....đời sống thần tiên... Du dương và lãng mạn hơn, chúng tôi hát những bài Thiên Thai, Đêm Thu, Giọt mưa thu, bài Biệt Ly: – Biệt ly ... nhớ nhung từ đây. Chiếc lá rơi theo heo may. Người về có hay... Hoặc những bài nhạc ngoại quốc lời Việt như bài được gọi là bài Tango Chinois : – Ta muốn được cùng em vui sống. Trong núi cao trong chiều mơ hồ... Trong số có một bài tôi không nhớ rõ tên là gì, cho đến bây giờ tôi vẫn thấy còn nguyên mùi lãng mạn : – Đàn chim ríu rít ca... trên núi cao miền xa mang theo những nỗi buồn mộng mơ, nguồn thảm sầu đã qua.... Sông kinh châu... có con buồm trăng trắng... Gió thu đưa dẫn người biệt ly vào cảnh sầu đó chăng ?? Năm 1943, Quân Nhật vào đóng ở Hà Đông. Thành phố tỉnh lẻ yên tĩnh cả chục năm không có chuyện gì có dịp sôi nổi bàn tán vì tin lính Nhật đi chiếm nhà cho Quan Nhật ngụ. Vài chiếc xe hơi sơn màu đất thó loang lổ đi vào tỉnh, dừng lại trước những tòa nhà lớn. Sĩ quan Nhật đi bốt mang kiếm dài, đeo kiếng trắng, ria mép, từ trong xe ngó nhìn nhà, rồi lại đi chứng minh tin đồn trên là có thực. Nhưng rồi Quân đội Nhật chẳng chiếm một căn nhà tư nào ở Hà Đông hết. Nhà của Pháp ở trong tỉnh thừa chỗ cho họ ở. Cơ sở công cộng lớn nhất tỉnh là nhà riêng của Thống sứ Pháp ở ngay đầu cầu bên bờ sông. Quân Nhật chiếm nhà riêng đó. Thống sứ Pháp dọn về ở một tòa nhà nhỏ hơn. Quân Nhật còn đóng ở khu chợ Trâu, sát bên chợ Hà Đông và sân vân động. Việc Quân Nhật đến đóng ngay bên sân vận động làm cho phong trào tập thể thao của Thanh niên Hà Đông thiếu chút nữa thì chết ngủm. Lính Nhật đứng gác trên chòi cao bên chợ Trâu nay đã trở thành trại lính, nhìn sang sân vận động thấy đám thanh niên chạy trong sân đang chạy lại nằm rạp xuống theo tiếng hò của tên chỉ huy nằm rạp rồi lại nhổm lên chạy... Đúng kiểu tập quân sự... Sĩ quan an ninh Nhật được báo cáo. Một vài vụ xét hỏi xẩy ra làm nhiều người sợ xanh mặt. Án sát Bùi Đường Tịnh nhờ Quan Tây can thiệp. Không ai bị bắt, bị đánh cả, nhưng nhiều người sợ. Một số thanh niên bị bố mẹ cấm không cho ra bãi tập, trong số này có anh tôi. Mỗi trường phải có một huấn luyện viên thể dục, ông này phụ trách dậy thể dục cho học sinh và phát động phong trào Jeunesse trong trường. Ông huấn luyện viên trường Tự Đức cùa tôi xuất thân từ lò đào tạo Moniteur ở Phan Thiết ra. Ngày ông mới về Hà Đông trông ông có vẻ quắc thước, cương nghị lắm. Ông có mầu nước da ngăm ngăm đen, mầu da thường được nhà văn Lê văn Trương tả là «bánh mật»– mầu da của Trọng Khang trong Trường Đời – mắt ông sáng, tiếng nói ông sang sảng, ông hò hét ra trò. Nhưng ông huấn luyện huynh trưởng của tôi càng ở lâu ở Hà Đông, trông ông càng yếu đi, ông xanh xao, vàng vọt, gầy ốm ra trông thấy. Những ngày đầu ông ăn ở luôn ở trong trường với các ông giáo khác. Vài tháng sau, ông dọn va-li xuống ở một nhà trong xóm Cô Đầu Bông Đỏ. Huấn luyện viên thể dục kiêm huynh trưởng Thiếu nhi Học đường mà nằm thường trực trong nhà cô đầu thì nhất rồi. Ít lâu sau, tôi có một tên bạn học – gã này có bà mẹ làm chủ cô đầu xóm Bông Đỏ, gã con một được mẹ chiều ra gì, song có lẽ vì gần với những trò đâm dật, gã mới tí tuổi mà đã ốm yếu xanh lét – tên bạn học này cho chúng tôi biết là ông huynh trưởng, Anh cả của đoàn Jeunesse chúng tôi nghiện thuốc phiện. Đến những năm phi cơ bay đến thả bom Hà Nội, Bắc Kỳ chấn động. Tiếng bom rền từ Hà Nội vang vào tận Hà Đông, làm cho mặt đất rung chuyển. Thị xã Hà Đông đột nhiên vui nhộn, đông đảo hẳn lên. Người Hà Nội tản cư về Hà Đông để tránh bom, Hà Đông được dân Hà Nội chiếu cố đến nhiều, vì Hà Đông yên tĩnh, Hà Đông không có nhà máy lớn, không có bến tầu, nhà ga xe hỏa. Hà Đông tuy có quân Nhật đóng song cũng không có xưởng máy nào của quân đội Nhật. Số quân Nhật đóng ở thị xã Hà Đông cũng tương đối ít hơn các tỉnh khác. Hà Đông lại gần Hà Nội. Những người có công việc làm ăn phải ở lại Hà Nội buổi tối có thể vào Hà Đông ngủ với vợ, chơi với con, sáng sớm lại ra Hà Nội làm việc. Hà Đông chưa bao giờ đông thế. Những trường tư thục Thăng Long, Văn Lang cững được dọn vào Hà Đông. Vào những giờ tan học, phố Bóp Kèn đầy học sinh. Cũng chưa bao giờ học trò lại có dịp đùa chơi nhiều học ít đến như thế. Ngày nào cũng có còi báo động ít nhất là hai, ba lần. Theo đúng pháp luật, mỗi lần có còi báo động, học trò phải ra khỏi lớp, chạy xuống hầm trú ẩn. Nhưng ở Hà Đông, học trò chúng tôi được thả chạy ra đồng! Còi báo động rú lên là ngoài đồng đầy học trò. Chạy chơi, nô đùa, bắt chim, câu cá, bắt cào cào, châu chấu ở ngoài đồng cho hết buổi là cắp cặp về. Bom nổ chết không biết bao nhiêu người ở Hà Nội. Nhà Đấu Xảo bị trúng bom... Không khí kinh hoàng bao trùm thủ đô. Người Hà Nội tả lại những trận bom nổ kinh khủng, người đang đi xe đạp bị bom tiện mất đầu, chết ngồi trên xe đạp mà xe vẫn chạy phom phom. Cả gia đình chết trọn vì nhà trúng bom, những xác người chết mà không có một vết thương, người dưới cống, tay chân, giăng mắc lủng lẳng trên cột điện v.v... Nhưng Hà Đông ở gần sát Hà Nội lại không hề hấn gì. Tôi «hy vọng» được thấy máy bay Mỹ ném vài quả bom con xuống Hà Đông, bom nhỏ cũng được, gọi là có bom nổ cho bằng thiên hạ. Tôi vẫn ấm ức vì chuyện tỉnh tôi không bị dội bom. Tôi thấy đó là một sự thiếu thốn làm cho tỉnh tôi thua kém các tỉnh khác. Phi cơ có bay qua tỉnh Hà Đông vài lần. Tôi trông thấy những chiếc phi cơ hai mình xẹt qua. Thời đó, phi cơ hai mình của Mỹ là kiểu phi cơ tối tân nhất. Nhưng phi cơ chỉ xẹt qua tỉnh thôi. Hà Đông bị phi cơ Mỹ chê. Nỗi hy vọng của tôi ngày ấy không thành sự thật. Hơn hai mươi năm, năm 1967, phi cơ Mỹ tới dội bom lần thứ nhất xuống thị xã Hà Đông. Bản tin Télétype ngoại quốc loan rằng những phản lực cơ F.10 tới dội bom «Trại Quân» Hà Đông. Tôi tưởng nhớ đến trại lính Hà Đông – trại lính ở sau dinh Tổng Đốc – nơi có vòm tròn lô-cốt cao vút, trên mỗi lô-cốt đặt còi báo động. Ở trại lính này, Quản Dưỡng đã giết hàng trăm thanh niên Hà Đông trong một buổi chiều, nơi máu Thanh niên Hà Đông chẩy phí phạm chan hòa với mặt nước lụt từ đê Đồng Lao vỡ đổ về tỉnh, nơi tôi suýt chết vì đạn mousqueton của đám lính khố xanh nghe lệnh của Quản Dưỡng. Hà Đông ... tỉnh cũ của tôi, thành phố êm vắng tôi đã sống những ngày thơ ấu, nơi tôi ra đời lớn lên, nơi kết mộng ước về tương lai . Hà Đông trong hơn hai mươi năm qua, đã chịu nhiều thay đổi, tàn phá. Lần «tiêu thổ kháng chiến» vào năm 1946 Việt Minh cho phá hết đốt hết nhà cửa trong thị xã Hà Đông... Hà Đông hôm nay, tháng nầy chắc đã thay đổi nhiều. Bây giờ, nếu trở về đi những bước mới trên những con đường năm xưa tôi đã đi, chắc tôi không còn tìm lại được một hình ảnh nào, sân vận động Yves Chatel chắc đã được cầy lên thành ruộng, bến sỏi sông Nhuệ Giang, nơi tôi được Khê dậy bơi những mùa hè sáng rực ánh nắng , chắc đã được vét hết sỏi... Nhưng Hà Đông vẫn là tỉnh cũ của tôi, tôi vẫn thương mến, vẫn tưởng nhớ đến Hà Đông như tưởng nhớ, như thương một người tình xưa không được cùng nhau chung sống. Như Bất Bạt, Sài Sơn, Sông Đáy, Phủ Quốc Oai là của Trần Quang Dũng, Hà Đông là của tôi, bom đạn và thời gian không thể làm cho Hà Đông trong lòng tôi thay đổi. P BỐN aroles du Maréchal Pétain adressé aux jeunes écoliers de France et Indochine. – Si je désirai vous parler aujourd’hui au moment où vous commencez l’année scolaire, c’est pour que vous sachiez que je compte absolument sur vous pour reconstruire la France..... Học sinh Bắc Kỳ học thuộc lòng những bài diễn văn như trên của Thống Chế Pétain, do lệnh của Nhà Nước bảo hộ. Bộ máy tuyên truyền của Toàn Quyền Decoux học được phương pháp suy tôn lãnh tụ trở thành siêu nhân, thành thần tượng của Himmler, người phát động phong trào suy tôn Hitler của Đức Quốc Xã. Nhưng vào thời này, Pháp Quốc ở quá xa Đông Dương, đường giao thông lại bị cắt đứt, những chuyên viên phụ trách việc suy tôn Pétain ở Đông Dương không có nhiều tài liệu để tuyên truyền. Thanh niên học sinh Đông Dương không thể thông cảm được những lời kêu gọi của một ông Tây Già nào đó ở tít tận bên trời Âu xa thẳm, một xứ mà những anh trẻ tuổi hay đọc tiểu thuyết được nhìn thoáng thấy qua một cuốn truyện Dưới Rặng Thông của Nguyễn Dân Giám, viết lại mối tình của một thanh niên lính thợ Việt Nam đầu quân sang Pháp và được một cô đầm Pháp yêu thương Yvonne – Tuyết trắng – Nước mắt và da thịt đầm. Bài diễn văn của Thống Chế Pétain đọc nhân dịp khai trường ở Pháp, suốt bài không có một chữ nào đá động đến Đông Dương, Chuyên viên tuyên truyền của Toàn Quyền Decoux ghi thêm câu nối đuôi ...et d’indochine. «Paroles du Maréchal Pétain adressé aux jeunes écoliers de France et d’Indochine» để tạo một chút liên lạc dây mơ, rễ muống. Những buổi sáng chào cờ, học trò xếp hàng trước hình Thống Chế, đồng ca bài «Maréchal, nous voilà....» rồi dơ tay chào và hô to như vẹt: – Vive le Maréchal.... Đây là lần suy tôn thứ nhất trong thế kỷ 20 ở Việt Nam. Trước đó nhiều thế kỷ nước ta có một lần suy tôn. Đó là Vua Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn. Quân sư Nguyễn Trãi nghĩ ra cách dùng mật viết những chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần» lên lá cây rừng cho kiến rừng ăn mật đục thủng lá cây thành chữ. Lá rơi xuống, dân chúng lượm được, cho là chữ của Trời viết. Chưa đầy 5 năm sau ngày đám học sinh thiếu niên đứng phưỡn ngực trước lá cờ ba sắc, giơ tay hô lớn «Vive le Maréchal...» , cũng lại đám thiếu niên ấy, vẫn chưa trưởng thành, chưa thành người lớn, sánh vai nhau bước đều theo nhịp trống ếch, đi diễu trong các phố, cất tiếng hát: – Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn các. em nhi đồng. ? ? – Bác chúng em... mắt như sao, râu hơi dài... Chưa quá 10 năm sau, cũng lại đám trẻ con ấy – những tên sống sót qua chiến tranh, qua những ngày kháng chiến ở hậu phương, đụng chạm với cái chết ở Đường số 5, Đường số 6, bị vi trùng sốt rét tàn phá cơ thể và tinh thần ở Việt Bắc, những tên sống sót trở về thành, lại phải nghe ca hát suy tôn ở miền Nam – «Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống... Ngô Tổng Thống .. Ngô Tổng Thống muôn năm». Nhưng những tên sống sót ấy – trong số có tôi, kẻ viết truyện dài này – đã chán ngấy vì bị đánh lừa nhiều rồi. Chúng tôi đã trở thành – không phải là chai đá, cũng không phải là chán chường, lại càng không phải là dạn dầy như những người đàn bà làm đĩ đến giai đoạn trở thành đĩ lửa, vì chúng tôi không đánh đĩ, chúng tôi chỉ bị lợi dụng – tôi bắt buộc phải dùng vài chữ tiếng Pháp để diễn tả tình trạng tinh thần của chúng tôi: Chúng tôi đã trở thành «blasé, cynique», chúng tôi đã thấy quá nhiều, đã ngấy đến mang tai những trò suy tôn. ★ Bom nổ, người chết, nhà đổ... Dân chúng Bắc kỳ, trong số có cha mẹ tôi, than vãn vì chiến tranh. «Bom đạn đến thế này là cùng?» Các cụ nói đến những câu Sấm «khôn cũng chết, dại cùng chết, biết thì sống...» và «Thế gian chết bẩy, còn ba. Đến khi vua ra, chết hai còn một» để chứng minh rằng thời kỳ này là thời kỳ dân Việt Nam phải chết nhiều nhất. Bom đạn ấy, người chết ấy chưa thấm thía vào đâu với số bom đạn nổ trên đất nước ta sau đó, với số đồng bào ta chết vì đói và vì hai mươi năm ròng rã chiến tranh. Nhưng trong cuộc sống thiếu nhi, những giờ báo động ôm cặp sách, bỏ lớp học, chạy ào ra đồng thật là thú vị. Tôi thường tìm vào những bờ ao vắng, những góc đình trang nghiêm có những gốc ngô đồng lớn, mỗi lần gió thổi lá reo ào ào ngồi đọc tiểu thuyết. Mặc cho bom đạn rơi, cuộc đời nếu kéo mãi như thế này cũng không sao, càng thích. Vui nhất là nhà tôi lúc nào cũng vui đông như những khi nhà giỗ Tết. Chị tôi đem cháu từ Hà Nội tản cư về. Các bác, các cô tôi cũng từ Hà Nội về tạm trú tại nhà tôi. Bữa ăn nào cũng linh đình như đại tiệc. Ai nấy cười nói vui vẻ. Mọi người đều dễ tính. Khoái nhất là bọn trẻ con chúng tôi, ai cũng chiều, chúng tôi không bị mắng không bị xét nét. Dân Hà Nội đi đâu, các gánh hát cải lương đi theo đến đó. Hà Đông có một rạp hát và đêm ngủ đường đầu tiên trong cuộc sống giang hồ của tôi xẩy ra vào một đêm cuối hạ, đầu thu, khi gánh Ái Liên lưu diễn tại thị xã Hà Đông. Rạp hát do Cậu Tư Thiêm làm chủ nằm trên phố Bóp Kèn, cách nhà tôi chừng ba trăm thước. Buổi tối, tôi thường lảng vảng ở khu đèn điện sáng trưng này. Mới lớn, tôi đã có nhiều đam mê, tôi đã nhiều tưởng tượng. Tôi bị cuộc sống trong những cuốn tiểu thuyết, trên màn ảnh quyến rũ. Và tôi mê say ánh sáng của sân khấu cải lương. Vì đoàn Ái Liên lưu diễn ở Hà Đông quá lâu, bọn thanh niên du đãng Hà Đông có thì giờ gia nhập đoàn. Một số thanh niên Hà Đông được nhận vào làm gác cửa, xé vé, đưa ghế và đi trên xe kéo, đánh trống, gõ phèng la đi quảng cáo cho những vở tuồng mới. Tôi nhìn bọn đó bằng đôi mắt thèm thuồng. Tôi muốn được như họ, nhưng bọn thanh niên du đãng ấy đều là con nhà hạ tiện, chúng dễ dàng đi theo cải lương. Còn tôi, tôi muốn nhưng không dám bỏ nhà đi theo gánh. Những buổi tối cuối hạ, đầu thu, thành phố tỉnh nhỏ có một mầu tím, trước nhạt rồi sẫm dần và sau cùng, trở thành bóng tối. Mùa hè tôi và các bạn tôi buổi tối quen ra ngồi hóng mát trên thành cầu sông Nhuệ. Cầu ở đầu tỉnh, ngang bến xe điện. Gió mát thổi lồng lộng. Chúng tôi ngồi trên thành cầu nói chuyện nhìn người qua lại. Rồi đến những ngày mùa hạ đã tàn. Trời buổi tối không còn nóng bức lắm nữa. Chúng tôi vẫn quen ngồi trên cầu mỗi buổi tối. Vào một buổi tối không gian mầu tím ấy, ngồi trên thành cầu, tôi trông thấy hai kép hát Huỳnh Thái và Phong Trần Tiến đi ngang. Hai anh từ Hà Nội vào; vừa xuống tầu điện và đi bộ xuống xuống rạp hát. Hơn hai mươi năm trước, trước cuộc chiến tranh 1946, trước những ngày đi lưu diễn ở Đồng Quan, Cống Thần, Huỳnh Thái đang thời phong độ nhất. Thái bận bộ complet tropical mầu xanh lá non. Phong Trần Tiến bận bộ complet mầu gris-perle. Hai anh mang trên đầu hai cái «mão» Fléchet. Họ sánh vai thong dong đi ngang mặt tôi. Trước mắt anh con trai mới lớn còn phải xin tiền mẹ để mua mỗi tuần một cái vé xi-nê Troisième, tức là hạng bét, ngồi ghế dài bằng gỗ, cách màn ảnh mười tám thước, hai anh kép hát tối đó là những người ăn diện đẹp nhất, hào hoa nhất. Tôi nhìn họ bằng đôi mắt tưởng tượng đến hình ảnh của tôi mai sau. Tối đó, tôi nghĩ : bao giờ minh có tiền để may những bộ complet hách như thế này ?? Cũng như những lần ra Hà Nội, đi lang thang ở Hàng Đào nhìn tủ kính. Thấy những người đàn bà đẹp Hà Nội phây phây, nõn nà đi trong nhung lụa, tôi tưởng tượng da thịt họ mát và thơm như mùi những trái đào Hồng Kông, tôi nghĩ : Mai sau mình sẽ làm gì có tiền để có thể ôm ấp, yêu đương, với những người đàn bà đẹp, thơm như thế này ?? Tôi thèm muốn được gia nhập đoàn hát Ái Liên như bọn thanh niên du đãng Hà Đông thời ấy. Nhưng tôi không dám thoát ly gia đình. Những buổi trưa, tôi thường vào rạp xem đào kép tập tuồng. Tôi chưa đến tuổi mê đào hát.Tôi chỉ bị cuộc sống náo động, xô bồ ở rạp hát quyến rũ. Tối nào tôi cũng quanh quẩn trong khu đèn đóm sáng trưng, trống chiên ầm ĩ trước cửa rạp hát. Thấy anh em tôi đi chơi tối hơn nhiều, lại bảo không được, một tối mẹ tôi dặn con sen không mở cửa khi anh em tôi đi chơi về nhà. Ý bà cũ chỉ định dọa cho sợ thôi. Đứng năn nỉ thì sau đó, bà cụ lại ra mở cửa cho vào ngủ, kèm theo một chầu sỉ vả. Khuya ấy, chừng 9 giờ tối thôi nhưng tỉnh lỵ 9 giờ tối đã là khuya rồi, tôi từ rạp hát về nhà. Đập cửa, con sen nhà tôi nói qua cửa sổ: – Cậu đi chơi quá. Bà bảo không được mở cửa. Cậu đi đâu ngủ thì đi. Anh tôi đứng lại năn nỉ, còn tôi «oai hùng» đáp: – Không mở cửa, không cần, đi luôn. Tôi đi trở ra cửa rạp hát. Tôi còn ngây thơ và ngu ngốc đến cái độ tôi yên trí rằng cửa rạp hát, với những hàng phở, hàng nước, cam quít, với cả cái xã hội người ngợm hoạt động linh đình ấy, cứ sống vui nhộn như vậy suốt đêm. Nếu người ta đông vui như thế, tôi cần gì ngủ. Tôi sẽ sống với họ đến sáng mai. Tôi không ngờ đến giờ tan hát, thiên hạ ra về hết đèn tắt tối om. Đường phố vắng tanh không còn một bóng ma. Đêm khuya rồi, tôi không dám về nhà đập cửa nữa. Tôi tìm đến hàng hiên một nhà, nằm lên bậc cửa, cố ngủ. Đêm ngủ «giang hồ vặt» thứ nhất trong đời tôi trôi qua chập chờn. Quen ngủ ấm, tôi không chiu nổi cái lạnh của trời đêm, nhất là lại nằm lộ thiên không gối. Trời càng về sáng càng lạnh. Tôi không thấy hối hận vì chuyện không năn nỉ để vào nhà. Tôi chỉ chịu không được lạnh. Vào khoảng 4 giờ sáng – tôi nằm nghe những tiếng chuông đồng hồ quả lắc từ trong các nhà quanh đó theo nhau điểm boong boong – tôi thấy có người hoạt động trong dẫy phố vắng. Có mỗi một người. Và người đó là ông đổ thùng. Những ông đổ thùng đặc biệt của xã hội Bắc kỳ những năm trước 1946, trừ những nhà Tây lớn có cầu tiêu hầm, nhà nào cũng giải quyết vấn đề tiêu hóa bằng cách đi tiêu vào những thùng sắt tây – thường là sơn đen, có hai tai quai để móc dây vào gánh – mỗi sáng sớm, có người đến đập cửa ầm ầm, kêu «Đổi thùng... Đổi thùng». Những em Mari Sến ngái ngủ, mắt nhắm mắt mở ra mở cửa. Nhà nào có lối sau hay cửa riêng đi còn đỡ, nhà nào mà nhân vật đổi thùng phải đi qua nhà thì khổ vì uế khí đến năm bẩy phút. Nghe tiếng gọi «đổi thùng», tôi chợt nghĩ ra một chuyện. Rời chỗ nằm, tôi đi về phía ánh đèn leo lét nơi cuối phố. Đó là ngọn đèn dầu treo trên đầu gánh phân. Ông đổi thùng đang ngồi phì phèo hút điếu thuốc lá tổ sâu quấn lấy khi tôi đến gần. Tôi chỉ tay về phía nhà tôi và hỏi ngay ông ta: – Ông có đổi thùng nhà kia không? Qua ánh đèn dầu leo lét, vàng vọt, tôi thấy người đàn ông gầy gò, gật đầu. Tôi lại hỏi : – Thế ông đã đổi thùng nhà đó chưa ? Ông ta lắc đầu. Tôi gọi: – Bây giờ... ông gọi cửa đổ nhà đó đi. Nhà tôi đấy mà. Cho tôi về mấy... Ông ta bằng lòng ngay, không hỏi han tôi nửa câu. Tôi theo ông đổ thùng về trước cổng nhà tôi. Ông đập cổng đùng đùng. Chó trong nhà tôi sủa ran. Con Sen nhà tôi mắt nhắm, mắt mở ra mở cửa. Tôi theo chân ông đổ thùng vào nhà, lẻn lên gác, chui vào giường nằm ngủ một giấc ngon lành. Trong lúc ngái ngủ con sen nhà tôi cũng không thấy tôi lẻn vào nhà. Mẹ tôi tưởng rằng tôi lên nhà ông ngoại tôi ngủ. Bà không ngờ tôi có đủ can đảm để nằm ngủ ngoài đường. Đến sáng, bà cũng không biết là tôi đã lọt vào nhà từ đêm, khi bà lên nhà ông ngoại tôi để tìm, tôi vẫn còn ngủ ngon trên lầu. Từ ngày đó tôi «nổi danh» trong gia đình là thằng sống ngoài vòng gia pháp, một thứ «du đãng trong gia đình», một thằng mà sau này, «sự bê bối sẽ không biết đến thế nào là cùng». Như để giảm bớt cái «uy danh du thủ, du thực ngủ đường, ngủ chợ» của tôi, mẹ tôi đành hạ giá tôi bằng cách bảo các em gái tôi «gọi nó là thằng đi theo bọn đổ thùng...» Và «... Mày đi theo ai chớ đi theo những thằng đổ thùng thì còn khá làm sao được..» ★ Và cuộc đời tôi, với đêm ngủ đường đầu tiên không trọn vẹn, để rồi phát lén lút về nhà theo chân ông đổ thùng phân, như sự tiền định báo trước rằng những cuộc ra đi, những chuyến thoát ly mai sau trong đời tôi sẽ không ra gì. Những chuyến thoát ly không trọn vẹn. Đêm đầu tiên đó, chỉ còn cố gắng một chút nữa thôi, tôi đã sống qua được một đêm ở ngoài đường, tôi đã thành công, tôi đã thắng – 10 phần đường, tôi đã đi hết 8 – 10 giờ đêm, tôi đã ngủ đường được 8 giờ. Chỉ còn một chút nữa là xong, nhưng tôi vẫn thua. Trở về nhà đêm ấy, lén lút trở về, tôi đã thua. Thua với người không sợ, nhưng tôi đã thua với chính tôi. Đó mới là điều đáng kể. Trở về như vậy là đầu hàng. Tôi đã đầu hàng trong việc làm liều đầu tiên. Tôi đã đầu hàng nhiều lần, gần như tất cả mọi lần, tôi liền sau đó. Tôi có máu giang hồ lãng tử từ thuở nhỏ. Tôi có mộng hải hồ, tôi thích phiêu lưu, mạo hiểm, tôi không muốn sống cố định. Nhưng không phải bất cứ việc gì người ta muốn cũng có thể xẩy ra. Con người ta ở cõi đời này cứ 10 việc thì có đến bẩy, tám việc không được như ý – Khổng Phu Tử đã nói như thế –Và đúng –Tôi muốn sống đời giang hồ nhưng không toại nguyện. Đời tôi bị trói buộc vào gia đình. Đi đâu rồi tôi cũng trở về sống quanh quẩn trong gia đình. Tôi như một cô gái ngoan thời phong kiến : còn nhỏ ở nhà với cha mẹ, trưởng thành lấy vợ , sống theo vợ, theo con. Tính tôi bông lông, hay thay đổi nhưng khi yêu, tôi lại chỉ yêu, chỉ chung tình với mỗi một người đàn bà. Có điều đáng kể là đến năm này, tháng này, ngoài ba mươi tuổi, tôi hài lòng với sự chung tình ấy, tôi chỉ muốn yêu có một người đàn bà ấy mà thôi. ★ Thầy tôi thuộc phái cổ, cụ bận y phục ta: đội khăn, áo dài. Mùa hạ áo dài the, mùa đông áo đoạn, áo sa, ngày Tết áo gấm. Thầy tôi thích chơi lan và đồ cổ. Phòng khách của nhà tôi có sa-lông Tầu, hoành