🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson full prc pdf epub azw3 [Phiêu lưu]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tác phẩm: Bắt cóc
Nguyên tác: Kidnapped
Thể loại: Tiểu thuyết
Tác giả: Robert Louis Stevenson Dịch giả: Đỗ Minh Đạo
dịch từ tiếng Đức Entführt
nhà xuất bản Neues Leben, Berlin, 1985 Nhà xuất bản: Trẻ TP.HCM
Năm xuất bản: 1992
Dự án Ebolic #69
Chụp sách: Thanhbt, Silence00
Đánh máy: Tornad
Soát lỗi: Tornad, Minh Trang
Điều hành & xuất bản: Tornad
Ngày hoàn thành: 11/9/2018
Ebolic là dự án chế bản ebook do Bookaholic thực hiện. Chúng tôi hoạt động hoàn toàn phi lợi nhuận và dựa trên tinh thần tự nguyện, với mục đích mang đến cho độc giả những đầu sách hay và lan tỏa văn hóa đọc cho cộng đồng. Chúng tôi khuyến khích độc giả mua sách in, và chỉ nên tìm đến ebook này khi không thể tiếp cận ấn phẩm sách.
Liên hệ với Ebolic qua:
Email: [email protected]
Group: Facebook.com/groups/ebolic
Fanpage: Facebook.com/EbolicEbook
MỤC LỤC
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TÁC GIẢ
Chương 1: CUỘC CHIA TAY
Chương 2: KẾT THÚC CUỘC HÀNH TRÌNH
Chương 3: TÔI LÀM QUEN VỚI BÁC TÔI
Chương 4: TÔI MẮC VÀO MỘT NGUY CƠ LỚN TRONG NGÔI NHÀ HỌ SHAWS
Chương 5: TÔI CÙNG ÔNG BÁC ĐI RA PHÀ
Chương 6: TÔI THẤY GÌ Ở TRONG VỊNH
Chương 7: TÀU COVENANT OF DYSART RA KHƠI – TÔI Ở TRÊN BOONG
Chương 8: TÔI CHUYỂN SANG PHÒNG NGỦ
Chương 9: NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ DÂY LƯNG BẰNG VÀNG Chương 10: PHÒNG TRÊN TÀU BỊ BAO VÂY
Chương 11: VIÊN THUYỀN TRƯỞNG NHƯỢNG BỘ Chương 12: ALAN KỂ VỀ CON CÁO ĐỎ
Chương 13: CHIẾC TÀU BUỒM MẮC CẠN
Chương 14: HÒN ĐẢO TRƠ TRỌI
Chương 15: TÔI ĐI QUA ĐẢO MULL VỚI CHIẾC KHUY BẠC CỦA ALAN
Chương 16: TÔI LỘI BỘ QUA VÙNG MORVEN VỚI CHIẾC KHUY BẠC CỦA ALAN
Chương 17: CÁO ĐỎ CHẾT
Chương 18: TRONG RỪNG LEHERMORE
Chương 19: NGÔI NHÀ CỦA NỖI SỢ HÃI
Chương 20: CHẠY TRỐN TRONG RỪNG GIỮA NHỮNG VÁCH ĐÁ
Chương 21: HANG ĐỘNG CORRYNAKIEGH
Chương 22: TRONG ĐẦM LẦY
Chương 23: LỒNG CỦA CLUNY
Chương 24: CHẠY TRỐN QUA RỪNG NÚI – CUỘC CÃI VÃ Chương 25: Ở BALQUIDDER
Chương 26: CHẤM DỨT CUỘC CHẠY TRỐN – CHÚNG TÔI VƯỢT FORTH
Chương 27: TÔI TÌM ĐẾN NGÀI RANKEILLOR
Chương 28: TÔI GIÀNH QUYỀN THỪA KẾ CỦA MÌNH Chương 29: TÔI VỀ VƯƠNG QUỐC CỦA MÌNH
Chương 30: CHIA TAY VỚI ALAN
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TÁC GIẢ
Robert Louis Balfour Stevenson là nhà văn – nhà thơ nổi tiếng của Scotland, ông chuyên viết tiểu thuyết về những cuộc phiêu lưu theo xu hướng hiện thực, cũng như những chuyện ngắn giàu tính nghệ thuật và trí tưởng tượng. Các tác phẩm của ông đã dược dịch ra rất nhiều tiếng trên thế giới.
Các mốc chính trong tiểu sử của ông:
Sinh ngày 13-11-1850 ở Edinbourgh, là con của một kỹ sư hàng hải.
Năm 1867: Bắt đầu học đại học kỹ thuật ở Edinbourgh, nhưng sau đó phải bỏ học và chọn nghề khác vì bị bệnh lao.
Năm 1875: Làm nghề biện hộ, sau đó làm nhà văn. Để dưỡng bệnh, ông đã đi đến những vùng khí hậu ôn hòa.
Năm 1878: Viết Cuộc hành trình qua đất nước (ghi chép về chuyến đi thuyền qua Bỉ về Pháp).
Năm 1879: Viết Hành trình đến Cevennen trên lưng lừa.
Năm 1883: Viết Đảo châu báu (dã dịch ra tiếng Việt).
Năm 1884: Viết Kẻ cướp xác chết.
Năm 1886: Viết Trường hợp hiếm có của tiến sĩ Jekyll và ngài Hyde và Cuộc phiêu lưu của David Balfour: Bắt cóc.
Năm 1888: Dừng chân cho đến cuối đời trên đảo Samoa ở Biển Nam. Viết Mũi tên đen.
Năm 1888/89: Viết Địa chủ Ballantrae.
Năm 1891: Viết Quỷ sứ chai lọ.
Năm 1892: Viết Một chú giải cho lịch sử: 8 năm hỗn loạn ở Samoa.
Năm 1892/93: Viết Cuộc phiêu lưu của David Balfour: Catriona. Năm 1893: Viết Chiến tranh ở Samoa.
Ngày 3-12-1894: Stevenson từ trần trên đảo Samoa.
Chương 1:
CUỘC CHIA TAY
Tôi khóa cửa ngôi nhà của bố mẹ và rút chìa khóa ra. Khi tôi đi dọc theo con đường làng thì những tia nắng đầu tiên bắt đầu chiếu lên đỉnh núi, và khi tôi đến nhà của mục sư, những con cuốc trong các bụi mộc đinh hương bắt đầu kêu, sương mù buổi sớm trong thung lũng đang bốc lên cao và tan dần.
Ông Campbell, mục sư vùng Essendean, chờ tôi ở cổng vườn. Ông già vui tính hỏi tôi đã ăn sáng chưa và khi biết tôi đã no nê rồi, bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, ông cầm tay tôi kéo đi và nói:
— Thế thì, Davie của Cha, Cha sẽ đưa con đến quãng suối ngầm để con khỏi lạc đường.
Chúng tôi đi yên lặng bên nhau. Một lúc sau ông hỏi: — Con không muốn rời Essendean phải không?
— Ồ, thưa Cha – Tôi trả lời – Nếu con biết cái gì sẽ xảy ra với con, con sẽ có câu trả lời thành thật. Essendean không phải là nơi xấu và con đã sống rất hạnh phúc ở đây. Nhưng con không biết gì khác hơn. Vì cha mẹ con đã mất rồi, cho nên, với con Essendean cũng không gần gũi hơn, chẳng hạn như vương quốc Hungari. Vâng, thành thật mà nói, nếu con biết ở nơi con sẽ đến cuộc sống sẽ tốt hơn thì con rất sung sướng lên đường.
— Thế thì, Davie ạ, Cha rất vui mừng nói trước cho con biết tương lai sẽ đem lại gì cho con, ít nhất là những gì cha biết.
Khi mẹ con mất và cha con, một người công giáo gầy gò, bắt đầu ốm yếu và cảm thấy ngày tận thế của ông ấy đang đến gần, ông đã gửi cho Cha một bức thư tin cẩn, mong muốn trình bày việc thừa kế “khi tôi không còn nữa” – Cha con nói – “nếu ngôi nhà đã mua xong
và đã có chủ quyền”, việc này con đã hoàn tất trong thời gian vừa qua, Davie ạ. “thì hãy đưa cho con trai tôi bức thư này và gửi nó về ngôi nhà của họ Shaws nằm không xa Cramond. Đó là quê hương tôi, và con trai tôi trở về đó là hoàn toàn chính đáng. Nó là một đứa bé ngoan”. – Cha con còn nói thêm “Nó sẽ làm tốt mọi việc và tôi tin rằng nó sẽ cảm thấy hạnh phúc ở đó và mọi người sẽ yêu quí nó”.
— Ngôi nhà của họ Shaws? – Tôi kêu lên – Cha con định làm gì với ngôi nhà này?
— Bây giờ, Davie ạ, không ai có thể nói chính xác điều này. Nhưng cái tên họ đó cũng là họ con đang mang – Baffour of Shaws – một dòng họ lâu đời, danh giá và vinh hiển, có lẽ những năm cuối hơi thất thế một chút – cha con cũng là người hiểu biết nhiều, xứng đáng với nguồn gốc của mình. Không giáo viên nào có thể dạy tốt như ông. Ngay cả phong cách và lối thể hiện của ông cũng không phải là của một giáo viên thông thường. Chắc con còn nhớ, Cha đã hài lòng như thế nào khi đưa ông tới gặp những tinh hoa của vùng này và những người thân thuộc của Cha như Campbell of Kidrennet, Campbell of Dunswire, Campbell of Minch… Toàn những người thông thái, đã sung sướng đón tiếp ông. Nhưng để hiểu biết mọi chi tiết, con hãy cầm lấy bức thư của người cha quá cố đã tự tay viết.
Ông đưa cho tôi bức thư, trên phong bì đề rõ: chuyển cho Ebenezer Balfour, chủ ngôi nhà họ Shaws qua con trai tôi là David1Balfour.
Tim tôi đập liên hồi khi triển vọng này mở ra trước mắt tôi – một cậu bé 17 tuổi, con của một giáo viên nghèo vùng rừng núi Ettrik.
— Thưa ngài Cambell. – Tôi ấp úng – Ở địa vị con, Cha có đi tới đó không?
— Tất nhiên là có. – Vị mục sư nói – Chắc chắn Cha sẽ làm điều đó và không chần chừ. Một chàng trai nhanh nhẹn như con cần nhiều lắm là hai ngày để đi đến Cramond, không xa Edinbourgh. Nếu xảy ra chuyện nghiêm trọng nhất trong những chuyện nghiêm trọng là họ
hàng con, lại đẩy con ra ngoài trời thì con cũng chỉ cần hai ngày nữa để quay lại đây và gõ cửa nhà Cha. Nhưng Cha hy vọng là con sẽ được đón tiếp chu đáo vì như người cha yêu quí của con đã dự đoán và như Cha hiểu về con, con có cái để trở thành người quan trọng. Và bây giờ, Davie của Cha. – Vị mục sư tiếp – Cha coi là nghĩa vụ của mình và ý thức thúc đấy Cha làm việc này là trước lúc chia tay, phải nhắc nhở con về những mối hiểm nguy của thế giới này.
Hãy nhường nhịn trong những việc không quan trọng, Davie ạ. Con đừng quên là mặc dù sinh ra ở một gia đình quý phái nhưng con được nuôi dưỡng một cách đơn gian ở nông thôn. Đừng làm ta phải hổ thẹn, Davie ạ. Đúng, đừng làm ta phải hổ thẹn! Trong ngôi nhà lớn và đẹp đẽ với rất nhiều người hầu hạ, lớn hoặc nhỏ con phải luôn tử tế, trân trọng, nhanh nhẹn và yên lặng tới mức có thể. Còn cái gì liên quan đến chủ nhân – con phải nghĩ ông ấy là ông chủ – Cha không cần nói thêm gì với con. Nghe lời ông chủ là một niềm vui, ít ra thì cũng đối với những người trẻ tuổi.
— Vâng, thưa cha. Điều đó chắc là đúng và con hứa sẽ làm như vậy. — Rất giỏi, cậu bé ạ – Ông Campbell sung sướng kêu lên.
Tất nhiên là tôi cười, nhưng không phải cười thoải mái mà tôi phải cười cố ngăn nước mắt. Tôi cảm thấy sung sướng khi buộc gói đồ của mình vào gậy và vác lên vai bước qua chỗ suối cạn đối diện với một quả đồi. Khi tới con đường mọc đầy cỏ dại ở giữa đồng, tôi nhìn lại lần cuối nóc nhà thờ Essendean, nhìn lại lùm cây che lấp nhà tôi và nhìn lại những cột cao của nghĩa địa, nơi bố mẹ tôi đã nằm lại.
Chương 2:
KẾT THÚC CUỘC HÀNH TRÌNH
Vào buổi sớm ngày thứ hai, khi tới một ngọn núi, tôi nhìn thấy bình nguyên thấp dần chạy dài tới bờ biển, ở khoảng giữa đường dốc núi là thành phố Edinbourgh đang nhả khói như một lò than. Trên đỉnh tháp của lâu đài phấp phới một lá cờ và trong vịnh có nhiều tàu thủy đang bỏ neo hoặc chạy vào hoặc rời cảng. Mặc dù còn cách xa, tôi vẫn nhìn rõ tất cả điều đó và trái tim tôi, trái tim của một cậu bé đồng quê, đã đập nhanh hơn.
Mặt trời bắt đầu lặn, lúc đó tôi gặp một bà béo mập trông có vẻ phiền muộn, đang mệt mỏi xuống núi. Khi tôi hỏi thăm, bà quay gót kéo tôi lên đinh núi nơi bà vừa mới rời đi và ở đó chỉ cho tôi một công trình xây dựng đồ sộ nhô lên ở một vị trí không cây cối trong thung lũng. Vùng xung quanh có những đồi cây và suối trông khá đẹp. Tôi đánh giá vùng đất này phải cho ta mùa màng tươi tốt. Nhưng ngôi nhà thì trông như một đống đổ nát, hình như chẳng có đường đi tới đó, không có chút khói nào trên ống khói. Không có gì trông có vẻ là vườn cả.
Tim tôi muốn ngừng đập.
— Đó là ngôi nhà họ Shaws à? – Tôi kêu lên.
Mặt người đàn bà trở nên giận dữ:
— Đúng, đó là ngôi nhà họ Shaws – Bà đáp lại – Nó được xây bằng máu. Máu làm gián đoạn việc xây dựng và máu sẽ phá hủy nó. Ta nhổ vào cái nhà đó, ta nguyền rủa nó. Nếu cậu gặp tay chủ nhà, hãy nhắc lại những điều ta nói với cậu: Jennet Clouston nguyền rủa một ngàn hai trăm mười chín lần hắn và ngôi nhà của hắn, chuồng trại, súc vật, vợ con hắn. Thật đáng sợ, tất cả phải chấm dứt thôi.
Và người đàn bà vừa ca bài hận ca đó bỗng nhiên quay gót và biến mất. Tôi đứng đó, tóc dựng đứng.
Thời đó con người còn tin có phù thủy và sợ nó. Những lời gớm ghiếc của bà già tác dộng vào tôi như một sự báo trước không hay ho gì. Tôi không biết làm gì và cảm thấy hai đầu gối muốn sụm xuống.
Sau cùng tôi ngồi xuống và nhìn xuống thung lũng vào ngôi nhà họ Shaws. Càng nhìn lâu tôi càng thấy xung quanh dễ chịu hơn. Khắp nơi trên mặt đất ánh lên những bông hoa trắng của các bụi gai, không biết bao nhiêu cừu đang chuyển động như những chấm trắng trên đồng cỏ. Một bầy quạ khoang bay ở bên trên. Tất cả cái đó là dấu hiệu của mảnh đất phì nhiêu ở một góc của thế giới. Chỉ có cảnh hoang tàn của ngôi nhà giữa phong cảnh đẹp này làm tôi khó chịu.
Trong khi tôi ngồi đó, ở bên rừng thì những người nông dân từ cánh đồng đi lên ngang qua nhưng tôi không còn dám chào họ nữa.
Cuối cùng mặt trời lặn hẳn và bây giờ tôi nhìn thấy trên bầu trời màu vàng cột khói bay lên từ ống khói của ngôi nhà, mỏng manh như khói một ngọn nến. Nhưng dẫu sao điều đó cũng có nghĩa là có lửa, có nhiệt, một bữa ăn và một con người đang sống – con người đã châm lửa – đó là điều an ủi.
Tôi đứng lên và đi tiếp về phía ngôi nhà theo một con đường nhỏ rất khó nhận ra. Con đường khó đi, nhưng không có đường nào khác.
Cuối cùng tôi đến chỗ hai cái cột đá, bên cạnh là một chòi bảo vệ, một cái lều không mái, trên cửa có tấm huy hiệu. Chắc đây là cổng chính nhưng mới xây xong một nửa. Thay vào cái cổng sắt thông thường, tôi chỉ nhìn thấy một cánh cửa gỗ buộc lộn xộn bằng một sợi dây thừng. Cũng không có rào chắn, không có lối vào, không có gì ngoài một lối mòn mà tôi vừa đi qua nằm bên phải cột đá. Tôi tiếp tục đi về phía ngôi nhà.
Càng đến gần, ngôi nhà càng làm tôi hết hứng thú. Nó trông tựa
đầu hồi của một ngôi nhà không bao giờ xây xong cả, với bậc thềm, cầu thang và những bức tường dở dang. Rất nhiều cửa sổ không có kính, những con dơi bay ra, bay vào như chim cu bay bầy.
Trời đã rất tối khi tôi đến sát ngôi nhà. Qua ba cửa sổ đặt khá cao, rất hẹp và có chấn song ở tầng dưới người ta có thể nhìn thấy một ngọn lửa cháy bập bùng.
Chẳng lẽ đây là cái lâu đài mà tôi phải lặn lội từ rất xa mới tới được? Chẳng lẽ tôi cần tìm trong những bức tường tang thương này những người bạn mới, và sẽ tìm được hạnh phúc tương lai? Nếu là nhà cha mẹ tôi thì từ xa một dặm người ta đã thấy ánh bếp lửa và ánh sáng của nến rồi, còn cửa thì luôn luôn mở đón khách kể cả khi một người ăn xin tới.
Tôi tiếp tục lần mò thận trọng và lắng nghe căng thẳng trong bóng đêm. Tôi nhận ra thỉnh thoáng có người nào đó ho khan, có tiếng bát đĩa lách cách. Nhưng tôi không thấy tiếng ai nói cả. Không có cả tiếng chó sủa.
Tôi nhận ra trong bóng tối cửa ra vào bằng gỗ mộc và được đóng đinh khắp nơi. Tôi ngần ngại giơ tay và gõ một lần duy nhất vào cánh cửa. Sau đó tôi chờ. Trong nhà yên lặng như chết. Một phút trôi qua, không có động tĩnh gì, chỉ có lũ dơi vỗ cánh trên đầu. Tôi lại gõ cửa và lắng nghe. Dần dần tai tôi quen với yên lặng nên tôi nghe được tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ ở trong nhà. Giây phút trôi qua. Nhưng người nào đó trước đây ở trong nhà bây giờ câm lặng như hến, có lẽ anh ta còn nín thở nữa.
Tôi không biết có nên đi khỏi dây không nhưng sự giận dữ đã thắng và tôi dùng nắm tay và chân đập vào cửa và gọi to tên ông Balfour.
Ngay khi tôi còn đang đập cửa thì nghe thấy ai đó ho ở trên lầu. Nhảy lùi lại, tôi nhìn thấy trên cửa sổ tầng một, đầu của một người đàn ông với chiếc khăn trùm lớn, bên cạnh đó là một họng súng chĩa vào tôi.
— Hãy coi chừng, súng đã nạp đạn đấy nhé – Một giọng hét lên ở phía trên.
— Tôi mang đến một bức thư – Tôi nói – cho ông Ebenezer Balfour of Shaws. Ông ấy có ở đây không?
— Thư của ai? – Người cầm súng hỏi.
— Điều đó không quan trọng – Tôi đáp lại, lúc đó tôi càng ngày càng cáu giận.
— Được. Mày có thể để thư ở cạnh cửa và cút khỏi đây.
— Tôi không nghĩ vậy. Tôi phải đưa thư đến tận tay ngài Balfour, đó là yêu cầu của người viết. Đó là một bức thư giới thiệu.
— Cái gì? – Một giọng hỏi thô bạo.
Tôi nhắc lại:
— Thư giới thiệu.
— Còn mày, mày là ai? – Sau một lúc lâu, ông ta hỏi.
— Tôi không xấu hổ vì tên của mình đâu – Tôi đáp – Tôi là David Balfour.
Tôi có cảm giác khi nghe những từ ấy, người đàn ông trên cửa sổ giật thót mình, có tiếng khẩu súng va vào mái nhà. Sau một lúc yên lặng khá lâu nữa là câu hỏi tiếp, giọng đã thay đổi.
— Bố mày không còn nữa phải không?
Tôi bị hẫng vì sự thay đổi đột ngột đó nên một lúc lâu không trả lời được mà chỉ ngạc nhiên nhìn lên trên.
— Thế nào, làm sao vậy? Có lẽ ông ta đã chết vì vậy mày đứng đó đập cửa nhà tao!
Lại yên lặng. Và sau đó.
— Thôi được, thằng bé. Tao cho mày vào.
Và cái đầu biến khỏi cửa sổ.
Chương 3:
TÔI LÀM QUEN VỚI BÁC TÔI
Ngay sau đó có tiếng lạch cạch của xích sắt và chốt ở phía sau cửa. Cửa được mở ra rất thận trọng và ngay sau khi tôi vào nhà, nó được đóng lại liền.
— Đi vào bếp đi nhưng đừng mó vào nó – Một tiếng nói trong bóng tối. Trong lúc cửa đang được chốt lại và khóa an toàn bằng xích thì tôi lần mò trong bóng tối về phía bếp.
Lửa cháy trong bếp lò chiếu sáng căn phòng lạnh lẽo nhất mà tôi chưa từng thấy. Trên cái giá sát tường có độ nửa tá đĩa, trên bàn là một đĩa xúp lúa mạch của bữa tối, phía trước là một vại bia loãng đặt bên cạnh một cái thìa bằng sừng. Ngoài ra, dưới cái vòm to bằng đá này chỉ có một số hòm được khóa kín ở sát tường và một cái tủ góc với một ổ khóa lớn.
Khi người đàn ông vừa cho tôi vào nhà khóa xong cửa, ông ta cùng đi với tôi vào bếp. Thân thể nhỏ bé, vai hẹp của ông không có gì đáng chú ý, mặt ông ta có vết bẩn. Thật khó đoán tuổi ông ta, có thể từ năm mươi đến bảy mươi. Mũ cũng như áo khoác của ông ta bằng vái thô, chùm lên một cái áo sơ mi nhàu nát. Có lẽ lâu lắm rồi ông ta không cạo râu. Nhưng cái làm tôi bứt rứt và ngại nhất là cái cách nhìn trân trân vào tôi, nhưng lại không nhìn trực tiếp vào mặt. Thật là khó nói về nghề nghiệp và xuất xứ của con người này. Điều tôi đoán đầu tiên chắc ông ta là một nô bộc già, kiệt sức, ở lại đây lúc già và trông coi ngôi nhà.
— Mày có đói không? – Ông ta hỏi và nhìn vào đầu gối tôi – Mày có thể ngốn cái món xúp lúa mạch này.
Tôi nói rằng đó đâu phải là bữa ăn tối.
— À, tao có thể nhịn món đó. Tao sẽ uống bia, nó sẽ làm tao hết khát và đỡ ho.
Ông ta uống hết một nửa vại bia và tiếp tục nhìn tôi từ phía bên. Bỗng nhiên ông ta đưa tay ra:
— Đưa xem bức thư nào! – Ông ta nói.
Tôi đáp lại rằng bức thư này không gửi cho ông mà gửi cho ngài Balfour.
— Thế mày nghĩ tao là ai? – Ông ta hỏi – Hãy đưa bức thư của Alexander đây!
— Ông cũng biết tên cha tôi à? – Tôi ngạc nhiên kêu lên.
— Thật là nực cười nếu tao không biết ông ấy. – Người đàn ông đáp – Vì ông ta là em ruột tao và dù mày có đánh giá thấp tao, ngôi nhà và món xúp lúa mạch của tao, thì tao cũng là bác ruột mày và mày là cháu ruột tao. Thôi, đưa bức thư đây, Davie. Rồi ngồi xuống và nhét cái gì vào bụng đi.
Nếu tôi trẻ hơn vài tuổi chắc tôi đã gào lên vì xấu hổ, mệt mỏi và thất vọng. Tôi không tìm được lời đáp lại, cả những lời tốt đẹp, lẫn những lời thô bạo mà chỉ đưa cho ông bác bức thư và ngồi xuống trước cái đĩa xúp lúa mạch một cách không hứng thú mà đúng ra một người trẻ tuổi sau một cuộc hành trình dài như vậy phải có.
Trong lúc đó, bác tôi ngồi bên lò sưởi, hơi cúi xuống và xoay đi xoay lại bức thư trên tay.
— Mày có biết trong thư viết gì không? – Bỗng nhiên ông ta hỏi. — Ông tự thấy mà, thưa ngài. Dấu niêm phong còn nguyên. — Đúng – Ông ta nói – nhưng cái gì dẫn mày tới đây? — Nhiệm vụ giao bức thư đến tay ông.
— Không phải. – Ông ta sốt ruột nói – Chắc là mày hy vọng một cái gì đó.
— Tôi công nhận, thưa ngài. Khi tôi nghe thấy có họ hàng giàu có, tôi hy vọng có lẽ người ta sẽ giúp tôi chút ít trong cuộc sống. Nhưng tôi không phái kẻ ăn xin và không cần xin ngài lòng từ thiện. Tôi cũng không cần những thứ không xuất phát từ lòng tốt, bởi vì tuy nghèo, tôi cũng có những bạn bè sẵn sàng giúp đỡ tôi.
— Ồ! chuyện nhảm nhí – Bác Ebenezer nói – Đừng có xúc động như vậy, cậu bé ạ. Chúng ta sẽ thỏa thuận được mà. Nếu mày no rồi, David ạ, tao sẽ tu nốt phần xúp còn lại.
Vừa đẩy tôi sang một bên, giật cái thìa khỏi tay tôi, ông ta nói tiếp: — Xúp lúa mạch bổ và cũng ngon nữa.
Ông lẩm bẩm cái gì đó giống như lời cầu nguyện và cúi đầu trên đĩa xúp:
— Tao có thể hiểu ra là cha mày chưa bao giờ đủ ăn cả, đúng là một người luôn luôn không no. Còn tao, ngược lại, luôn luôn phải loanh quanh với thức ăn.
Ông ấy uống một ngụm bia loãng. Có lẽ lúc đó nghĩ đến nghĩa vụ là chủ nhà, nên ông ta nói:
— Nếu mày khát, có một ca nước ở ngay cửa đấy.
Tôi không trả lời. Tôi đứng trơ ở đó và đánh giá bác mình với lòng căm giận trong tim. Ngược lại, ông ta ngồi ăn như một người không có thời gian, thỉnh thoảng lại ngó một mắt vào đôi giầy và đôi tất bẩn bằng sợi tự xe lấy của tôi. Chỉ một lần khi nhìn lên ánh mắt chúng tôi mới gặp nhau. Kế cả một tên ăn cắp bị bắt quả tang đang móc túi người ta trông cũng không có vẻ biết lỗi hơn là ông bác Ebenezer của tôi. Cái bản chất ghê sợ của ông ta có phải do cách biệt quá lâu với con người? Và ông sẽ cởi mở hơn, thành một con người hoàn toàn khác nếu tôi quan tâm đến ông? Giọng nói sắc bén của ông làm tôi giật mình trong khi đang nghĩ như trên.
— Cha mày chết lâu chưa?
— Ba tuần nay rồi, thưa ngài – Tôi trả lời.
— Ông ta là một người kín đáo, ông em Alexander của tao ấy, một con người yên lặng dễ sợ. Ngay từ khi còn là một đứa trẻ, nó đã không đòi hỏi gì. Cha mày không hay nói về tao à?
— Cho đến vừa rồi được nghe ông nói, tôi hoàn toàn không biết cha tôi có một người anh.
— Mày nói thế à? Và mày cũng không biết những người họ Shaws phải không?
— Ngay cả tên gọi cũng chưa biết, thưa Ngài.
— Như thế đấy – Ông ta nói – một con người kỳ quái, cha mày ấy!
Nói chung ông ta có vẻ hài lòng về những điều vừa nghe được. Tôi không biết ông ta chỉ hài lòng vì sự im lặng của cha tôi hay còn vì cái gì đằng sau đó nữa. Vẻ ngoài, thái độ chống đối tôi của ông ta mất đi rất nhanh. Ông ta đứng dậy, đi đến chỗ tôi và thân mật đập vào vai tôi:
— Chúng ta sẽ sống tốt với nhau mà, David. Tao rất sung sướng là mày đã đến đây. Bây giờ đi theo, tao sẽ chỉ chỗ ngủ cho mày.
Tôi rất ngạc nhiên là ông ta không đốt đèn lẫn một ngọn nến mà đi trên một con đường tối mò. Ông ta thở nặng nề, đi về phía trước, bước lên một vài bậc rồi dừng lại trước một cánh cửa và mở khóa. Tôi bám gót ông ta. Ông ta để tôi bước vào và nói rằng đây là phòng của tôi. Tôi làm theo lời ông nhưng được vài bước tôi dừng lại và xin một cây nến.
— Ồ, chuyện nhảm nhí – Ông bác nói – mặt trăng chiếu sáng đủ rồi.
— Tôi không nhìn thấy cả trăng lẫn sao, trời tối như mực và tôi cũng chẳng nhận ra đâu là giường nữa. – Tôi phản đối.
— Chuyện nhảm nhí. – Ông ta nhắc lại – Tao không muốn đốt lửa trong nhà, có có thể gây cháy Davie ạ, về việc này tao rất sợ.
Và trước khi tôi kịp nhắc lại yêu cầu của mình, ông ta đã đóng sập cửa từ phía ngoài và tôi nghe thấy tiếng khóa cửa.
Tôi thực không hiểu mình nên cười hay nên khóc nữa. Căn phòng vừa tối vừa ẩm như một cái hầm. Và cái giường, cuối cùng thì tôi cũng tìm thấy nó, ướt át như một đầm lầy. Rất may là tôi đã mang theo gói quần áo của mình và bây giờ có thể quấn mình trong cái chăn len, tôi nằm xuống nền nhà và ngủ rất nhanh.
Trời vừa sáng, tôi mở mắt ra và phát hiện là mình đã ngủ trong một phòng rất rộng, tường được dán bằng da ép. Trong phòng có những đồ gỗ đẹp. Những tấm bọc được thêu cẩn thận. Ánh bình minh tràn vào phòng qua ba cửa số lớn. Cách đây mười hoặc hai mươi năm nếu được ngủ và thức dậy ở một phòng như thế này có lẽ dễ chịu lắm. Nhưng hơi ẩm, bụi, chuột và nhện cũng như sự thiếu chăm sóc thường xuyên đã phát huy hết tác dụng. Rất nhiều kính cửa sổ bị vỡ, cũng như sự đổ vỡ khắp nơi trong ngôi nhà. Có lẽ đã có lúc ông bác tôi bị những người hàng xóm giận dữ bao vây và tấn công.
Bên ngoài mặt trời đã lên và trong cái phòng không được chăm sóc này rất lạnh nên tôi đập vào cửa và hét lên đến lúc người gác ngục của tôi tới và cho tôi ra ngoài. Ông dẫn tôi ra cái giếng sau nhà và bảo rửa mặt nếu tôi có hứng. Sau khi rửa mặt, tôi tìm cách trở về căn bếp nơi ông chủ đã nhóm lửa và nấu xúp lúa mạch. Trên bàn đã có hai cái tô, hai cái thìa bằng sừng nhưng chỉ có một vại bia loãng. Có lẽ tôi đặc biệt nhìn vào đó hoặc bác tôi nhận ra điều này, bởi vì lời nói sau đó cho thấy ông đã đọc được ý nghĩ của tôi: ông hỏi tôi có muốn uống bia không.
Tôi nói rằng tôi đã quen uống bia nhưng ông cũng chẳng cần bầy vẽ làm gì.
— Có chứ, có chứ! – ông ta nói – Tao chiều mày tất cả những gì hợp lý.
Ông ta lấy từ cái giá sát tường một cái vại nữa và, trước sự ngạc
nhiên của tôi, đáng lẽ rót bia mới vào thì ông đã xẻ đúng nửa số bia của mình sang vại của tôi. Ông ta rót một cách trịnh trọng làm tôi nín thớ. Rõ ràng ông bác tôi là người bần tiện nhưng thuộc loại đã coi cái tính đáng xấu hổ đó là phẩm hạnh của mình.
Khi chúng tôi vừa xong bữa sáng, ông Ebenezer mở ngăn bàn lấy ra cái tẩu bằng đất nung và một chút thuốc lá, cắt một núm nhỏ, đẩy phần còn lại vào ngăn bàn và khóa lại. Sau đó ông ta ngồi xuống bên một cửa sổ dưới nắng mặt trời và yên lặng hút thuốc. Thỉnh thoảng ông ta nhìn tôi và đặt những câu hỏi ngắn. Một lần ông ta muốn biết:
— Mẹ mày hiện nay ra sao?
Và khi tôi trả lời mẹ tôi cũng đã mất rồi thì ông ta nói:
— Bà ta là loại người ngoan ngoãn – Sau một lúc nghĩ khá lâu, nói tiếp – Nhưng bạn bè mà mày nói tới là loại nào vậy?
Tôi kể rằng có hai người tên là Campbell, mặc dù chỉ có ông mục sư mang tên đó quan tâm đến tôi thôi. Nhưng mà tôi cho rằng ông bác tôi nghĩ tôi bị thế giới lìa bỏ. Và bây giờ khi tôi một mình đến đây, không thể để ông ta cho rằng tôi hoàn toàn không có người giúp đỡ.
Hình như ông ta suy nghĩ về câu trả lời của tôi. Ông ta nói:
— Davie ạ, mi đã làm đúng khi tìm đến bác Ebenezer của mi. Gia đình là tất cả đối với ta và ta quyết tâm làm hết nghĩa vụ của mình. Nhưng để bây giờ ta suy nghĩ xem nghề gì thích hợp với mi: luật sư hay linh mục, cũng có thể là lính, một nghề đang được đám thanh niên yêu thích nhất, vì ta không muốn một người mang tên Balfour phải quy lụy một anh Campbell rừng núi. Vì vậy ta cần phải nói với mi là: hãy giữ mồm, giữ miệng, không thư từ, thông báo, không liên hệ với bất cứ ai, nếu không… thì đây là cánh cửa!
— Bác Ebenezer – Tôi nói – không có cơ sở để cho rằng ông không có ý định tốt với tôi, nhưng ông nên biết rằng tôi cũng có niềm tự hào của mình. Việc tìm đến ông không phải là ý muốn của tôi và nếu ông
chỉ cái cửa, tốt thôi, tôi sẽ đi.
Bây giờ trông ông ta có vẻ rất giận dữ:
— Chuyện nhảm nhí, chuyện nhảm nhí! – Ông ta hét lên – Hãy cẩn thận, cậu bé ạ. Ta không phải là phù thủy và không thể tiên đoán tương lai của mi từ một đĩa cháo bột, cũng không thế dùng ảo thuật đem lại cho mi một kho báu. Hãy để cho ta hai ngày, không nói chuyện với một người nào, chắc chắn như ta đang ngồi trước mặt mày đây, ta sẽ tìm được việc đúng đắn.
— Được, nói thế đủ rồi. Nếu ông muốn giúp tôi, tôi rất sung sướng và cảm ơn.
Lúc đó tôi có vẻ như hoàn toàn tâm đắc với bác mình, điều này thật đáng tiếc như tôi đã lập tức nhận ra. Tiếp đó tôi nói với ông ấy là giường của tôi cần được dọn dẹp, phơi khô ngoài nắng vì tôi không thế ngủ được trong một cái ổ như thế này.
— Đây là nhà ta hay nhà mi? – Ông ta hỏi thô bạo, nhưng dừng lại hoàn toàn đột ngột rồi nói tiếp – Không, không. Ta không muốn nói vậy đâu. Cái gì của ta cũng là của mi, Davie con của ta ạ, cái gì thuộc về ta cũng thuộc về mi. Một giọt máu đào hơn ao nước lã và dòng họ Balfour bây giờ chỉ trông vào bốn con mắt chúng ta.
Sau đó ông ta tiếp tục tán gẫu về gia đình chúng tôi và thời kỳ hoàng kim trước đây của nó. Ông ta kể ông nội tôi đã định mở rộng ngôi nhà ra sao và bản thân ông ta đã đình chỉ việc xây dựng và chấm dứt sự lãng phí vô tội vạ này như thế nào. Điều đó đã đưa tôi đến quyết định chuyển lời nhắn của Jennet Clouston cho ông ta.
— Con mẹ già đó – Ông ta hét lên – Nó nguyền rủa ta một ngàn hai trăm mười chín lần mỗi ngày từ hôm tao tịch biên và bán đấu giá gia sản của nó. Mày nghe chứ, David? Tao sẽ cho con mẹ đó lên chảo rán nếu nó không để tao yên. Đó là một mụ phù thủy, một mụ phù thủy hoàn hảo. Chờ đây, tao sẽ đến ngay tay thư ký tòa án.
Vừa nói xong, ông ta mở tủ lấy ra một cái áo khoác đã cũ nhưng được giữ rất cẩn thận, một áo gi-lê kèm theo và một cái mũ lông nghiêm chỉnh, tất cả trông đơn giản, không có vật trang sức nào. Ông ta mặc đồ rất nhanh, khóa tủ lại, đã định đi nhưng lại nảy ra một ý:
— Tao không thể để mày ở trong nhà một mình, – ông ta nói – tao phải nhốt mày lại và khóa cửa.
Máu dồn lên mặt tôi:
— Nếu ông đẩy tôi ra khỏi cửa thì chúng ta sẽ không gặp nhau nữa và chấm dứt sự quen biết.
Mặt ông ta tái đi, răng cắn chặt môi:
— Bằng cách đó. – Ông ta nói và nhìn trơ trơ xuống đất – Bằng cách đó mày sẽ không ở chỗ ta được, chỉ làm tiêu tan lòng tốt của ta, David ạ.
— Thưa ngài. – Tôi nói – Với tất cả sự kính trọng tuổi tác của ngài và sự lưu ý đến quan hệ họ hàng của chúng ta, còn thì, cái lòng tốt của ngài tôi xin khiếu. Tôi có lòng tự trọng và dù ngài có mười lần là ông bác độc nhất của tôi, là người máu mủ ruột thịt của tôi đi nữa, tôi cũng không mua lòng tốt của ngài với cái giá đó đâu.
Ông bác Ebenezer quay lại, đi tới cửa sổ và nhìn chăm chú ra ngoài, nhưng mà tôi nhận thấy toàn thân ông ta rung động tựa như vừa bị một đòn mạnh ấy. Khi quay lại phía tôi, ông ta mỉm cười gượng gạo:
— Thôi được, Davie, chúng ta cần chấm dứt cãi cọ, ta sẽ không đi nữa. Thôi, chấm dứt chuyện đó.
— Bác Ebenezer. – Tôi đáp lại – Tôi không hiểu tất cả chuyện này. Ngài đối xử với tôi như một kẻ ăn trộm. Cái ý nghĩa có tôi ở trong nhà làm ngài nổi giận, điều này tôi nhận ra qua mỗi lời nói và ánh mắt của ngài. Tôi cũng biết rằng ngài không chịu đựng được tôi, tôi đã nói với ngài không giống bất cứ ai. Nếu tình hình đã như vậy, tại sao ngài tìm cách giữ tôi lại? Hãy để tôi đi, hãy để tôi quay lại với bạn bè tôi,
những người quý mến tôi.
— Không, không, không. – Ông ta nhấn mạnh – Ta cũng thích mi và dần dần chúng ta sẽ hiểu nhau. Cho mi quay về sẽ tổn hại đến danh dự của ngôi nhà này. Hãy yên tâm ở lại đây, hãy chờ đợi như một cậu bé ngoan ngoãn và sẽ thấy chúng ta sẽ hiểu nhau tuyệt vời.
Sau một lúc yên lặng suy nghĩ, tôi nói:
— Thôi được, thưa ngài. Tôi sẽ ở lại đây một thời gian ngắn nữa. Một người họ hàng ruột thịt chứ không phải người dưng nước lã quan tâm đến tôi, tất nhiên là đều hợp lẽ. Tôi sẽ làm tất cả để chúng ta sống tốt với nhau. Nếu việc đó đổ vỡ chắc không phai lỗi ở tôi.
Chương 4:
TÔI MẮC VÀO MỘT NGUY CƠ LỚN TRONG NGÔI NHÀ HỌ SHAWS
Một ngày bắt đầu xấu như vậy lại kết thúc khá tốt. Bữa trưa có cháo bột mạch nguội và bữa tối có xúp nóng. Rõ ràng ông bác tôi sống bằng bột lúa mạch và bia loãng. Ông ta rất ít khi nói với tôi, và cũng như trước đây, sau một hồi lâu im lặng, lại bật ra một câu hỏi gì đó như đạn bắn khỏi súng ấy. Nhưng nếu tôi muốn bàn về tương lai của mình thì ông ấy gạt phắt đi.
Trong căn phòng cạnh bếp mà ông ấy cho phép tôi ngủ tại đó, tôi tìm thấy rất nhiều sách tiếng La-tinh và tiếng Anh và tôi đã đọc suốt buổi chiều. Trong hoàn cảnh đó, thời gian trôi nhanh và thoải mái một cách đáng ngạc nhiên và tôi hầu như đã dàn xếp được việc ở lại trong ngôi nhà họ Shaws. Chỉ khi tôi nhìn vào ông bác và ánh mắt chúng tôi nhìn nhau ngượng ngùng, nỗi e ngại mới trỗi dậy.
Một sự phát hiện khác của tôi làm tăng thêm sự nghi ngờ: đó là những chữ ghi ở tờ bìa một quyển sách của Patrik Walker. Không nghi ngờ gì đó là chữ của cha tôi. Câu ghi thế này: “Tặng Ebenezer của tôi nhân ngày sinh nhật lần thứ năm”. Điều làm tôi suy nghĩ là: vì cha tôi nhỏ tuổi hơn, hoặc cha tôi nhầm lẫn hoặc chưa đầy năm tuổi mà cha tôi đã viết được rõ ràng gần như người lớn vậy.
Tôi tìm cách không nghĩ đến điều đó. Nhưng mặc dù mở xem rất nhiều sách trên giá: sách lịch sử, thơ, truyện ngắn, những dòng chữ của cha tôi vẫn luôn hiện ra. Cuối cùng khi quay lại bếp nơi ông Ebenezer đẩy cho tôi một tô cháo bột lúa mạch và bia loãng, tôi hỏi ngay là có phải cha tôi biết đọc và viết rất sớm phải không.
— Alexander ấy à? – Không! – Câu trả lời lập tức là như vậy – Tao là đứa trẻ thông minh hơn ông ấy nhiều và cùng học với ông ấy.
Câu đó càng làm tôi rối trí. Tôi chợt nảy ra ý và hỏi có phải ông ta và cha tôi là anh em sinh đôi không.
Ông bác Ebenezer vụt đứng dậy, mạnh tới mức làm cái thìa bằng sừng rơi xuống đất:
— Tại sao mày nghĩ vậy? Mày hỏi vậy để làm gì? – Ông ta hét lên và nắm lấy cổ áo tôi, nhìn tôi chằm chằm, hai con mắt như mắt chim của ông ta ánh lên nét giận dữ.
— Ngài muốn nói gì vậy? – Tôi bình tĩnh hỏi, vì tôi to khỏe hơn ông ta nhiều và tôi cũng không dễ sợ hãi – Hãy bỏ áo tôi ra! Ông đối xử tốt quá nhỉ!
Rõ ràng ông bác tôi phải cố gắng hết sức để tự kiềm chế mình.
— Trời ơi, David! – Ông ta kêu lên – Mày không nên nói với tao về bố mày – Đó là một lỗi lầm. Ông ta là em độc nhất của tao.
Ông ta ngồi yên lặng một lúc lâu, nhìn trân trân vào cái đĩa và tôi thấy ông bác tôi đang run.
Việc ông ta nắm cổ áo tôi và bỗng nhiên lại nói là rất yêu người cha quá cố của tôi đã vượt quá khả năng tự chủ của tôi, nó làm tôi vừa sợ vừa tự tin. Một mặt tôi nghĩ có lẽ ông bác mình bị bệnh tâm thần và có thể rất nguy hiểm, mặt khác một câu chuyện hấp dẫn về một cậu bé nghèo bị người họ hàng quá độc ác cướp mất quyền thừa kế và của cải đã hình thành trong đầu tôi, mặc dù tôi không muốn và tìm cách gạt nó đi. Vì sao ông bác tôi lại diễn một vở bi hài kịch với một đứa cháu, được vào nhà gần như một kẻ ăn xin, nếu trong lòng ông không có nguyên cớ để sợ nó?
Với kết luận đó, tuy không muốn coi là thật nhưng lại luôn nghĩ trong đầu, tôi bắt đầu quan sát ông ta bằng đôi mắt bí hiểm. Chúng tôi như mèo và chuột, ngồi cùng bàn, kẻ nọ ngầm quan sát người kia. Ông ta hình như không có gì đê nói nữa, cả điều tốt lẫn điều xấu, nhưng mà ông ta suy nghĩ ngầm và chúng tôi càng ngồi lâu, càng
quan sát kỹ hơn, tôi càng thấy rõ là ông ta có cái gì đó chống lại tôi.
Sau khi dọn bát đĩa đi, cũng như buổi sáng, ông ta lấy tẩu, kéo ghế đến gần lò sưởi và ngồi quay lưng về phía tôi hút thuốc. Mãi một lúc lâu ông ta mới bắt đầu nói:
— Davie à, tao đã suy nghĩ. – Ông ta dừng lại một chút rồi nhắc lại câu vừa nói – Có một món tiền nhỏ tao hứa với bố mày là sẽ cho mày từ khi mày chưa sinh ra – Ông ta ngắt lời – Không có tính pháp lý, mày hiểu chứ? Mà chỉ là khi đàn ông ngồi uống rượu hứa với nhau. Và tao đã giữ số tiền đó cho mày. Với tao, việc này không dễ dàng gì nhưng đã hứa là phải làm. Trong những năm qua, lãi mẹ đẻ lãi con, bây giờ có tất cả là… – Ông ta dừng lại một chút rồi ấp úng tiếp – đúng bốn mươi bảng.
Khi nói những lời cuối cùng này, ông ta nhìn nghiêng qua vai tôi và giải thích gần như hét lên:
— Tất nhiên là bảng Scot.
Vì một bảng Scot bằng một Si-linh Anh nên sự khác nhau được ông ta nhấn mạnh trong câu cuối là rất lớn. Tôi hiểu ngay là toàn bộ câu chuyện bịa đặt này được tạo ra nhằm một mục đích nào đó và tôi sốt ruột muốn tìm hiểu nó. Khi trả lời tôi cũng không muốn che dấu sự khôi hài của mình.
— Ngài nghĩ lại đi, chắc đó là bảng Anh đấy.
— Tất nhiên, tao cũng nói vậy – Bác tôi tiếp – Bảng Anh, tất nhiên, và nếu mày ra ngoài cửa xem thời tiết một lát, tao sẽ tìm nó và gọi mày vào.
Trong khi nghe theo lời yêu cầu đó tôi cười mỉa mai trong đầu rằng ông ta nghĩ dễ đánh lừa tôi đến thế.
Đó là một đêm tối trời, chỉ có vài ngôi sao mãi dưới chân trời. Đứng ngoài cửa, tôi nghe ở xa gió thối ù ù qua đồi, tương như một cơn giông đang tới. Lúc đó tôi vẫn hoàn toàn chưa biết tất ca những cái
này có ý nghĩa như thế nào.
Khi ông bác Ebenezer gọi tôi vào, ông ấy đưa cho tôi ba mươi bảy đồng tiền vàng, số còn lại gồm những đồng xu vàng và bạc như hôm mà ông ta giữ trong tay. Nhưng lúc này ông ta không có gan nữa và dứt rất nhanh số xu này vào túi.
— Mày thấy không – Ông ta nói – Đó là một bài học cho mày. Tao có những đặc tính riêng rất ngại ngùng trước người lạ, nhưng tao giữ lời hứa và tao đã chứng tỏ cho mày thấy.
Vì cho bác tôi là loại bần tiện nên trước sự rộng rãi không ngờ này, tôi đã không nói lên lời, không tìm thấy lời cảm ơn ông ta.
Ông ta nói bình tĩnh:
— Đừng nghĩ đến, tao không muốn được cảm ơn đâu. Tao chỉ thực hiện trách nhiệm của mình. Tất nhiên tao không cho rằng ai cũng làm được như vậy, nhưng tao làm vì bản thân tao. Mặc dù trong chuyện tiền bạc tao rất chặt chẽ, nhưng vẫn rất sung sướng vì đã trao cho con trai của em mình chút ít, và tao cũng rất mừng là bây giờ chúng ta đã hiểu nhau như người ruột thịt cần có.
Tôi trả lời ông với sự lễ độ hết sức mình nhưng lại suy nghĩ cái gì sẽ tới tiếp theo đây và làm sao ông ta có thể rời xa đống tiền vàng này nhỉ? Cái nguyên cớ mà ông ta đưa ra thì ngay cả một đứa con nít cũng không tin được.
Bây giờ ông ta lại nhìn tôi từ phía bên và nói:
— Davie, mày cũng biết lá lành đùm lá rách mà.
Tôi sẵn sàng tuyên bố cảm ơn ông bằng mọi cách nhưng lại đang chờ đợi những phỏng đoán kỳ quái.
Cuối cùng khi ông ta bình tĩnh lại và bắt đầu nói – lúc đó tôi cảm thấy ông ta nói hoàn toàn đúng đắn, chỉ là để thông báo cho tôi biết ông đã già và lẩm cẩm, hy vọng tôi sẽ giúp ông ta trông coi nhà cửa ruộng vườn. Tôi nói tôi sẵn sàng giúp đỡ ông ta.
— Được rồi, mày có thể bắt đầu ngay bây giờ – Ông ta nói và lấy từ trong túi ra một chùm chìa khóa hoen rỉ.
— Đây là chìa khóa lên cầu thang của tháp bên kia ngôi nhà. Người ta chỉ vào được đó từ phía ngoài vì một phần ngôi nhà chưa xây xong. Hãy leo lên cầu thang và mang cái hòm ở trên đó về đây cho tao, trong đó có những tài liệu quan trọng.
— Thưa ngài, tôi có được đem theo nến không?
— Không, ông ta đáp một cách ranh mãnh – Mày đã biết tao không thắp sáng trong nhà.
— Được, thưa ngài – Tôi trả lời – Cầu thang tốt chứ?
— Cực tốt – Ông ta nói, và khi tôi định đi còn gọi theo – Đi sát vào tường vì không có lan can, còn bậc lên xuống thì chắc chắn.
Tôi đi ra ngoài đêm tối. Gió vẫn đập ở phía xa, mặc dù ở đây không có gió thổi. Hình như tôi thấy trời tối hơn trước đây. Tôi lần theo tường rào đi lối cổng lên tháp ở cánh phía bên kia ngôi nhà.
Khi tôi cho chìa khóa vào ổ và định vặn thì một tia chớp như tia lửa cháy rực làm sáng cả bầu trời mặc dù không có một cơn gió hoặc một tiếng sấm. Lần đó trời lại tối đen. Tôi phải dùng tay che mắt khi bước vào tháp vì vẫn còn bị chói bởi tia chớp. Bên trong tối đến mức phải nín thở. Tôi sờ mó bằng tay và chân, cuối cùng tìm thấy tường và bước lên bậc thang thứ nhất bằng đầu ngón chân. Tôi nhận ra tường bằng đá của tháp cũng như cầu thang khá nhỏ và dốc rất trơn và chắc chắn. Theo sự báo trước của ông bác, tôi nép sát tường và dò dẫm trong bóng tối lần lần lên phía trên trong lúc tim muốn nhảy ra ngoài.
Ngôi nhà họ Shaws có năm lầu, không kể lầu mái. Khi leo lên cao, tôi cảm thấy không khí đỡ nặng nề hơn và trời sáng ra một chút. Tôi ngạc nhiên không biết sự thay đổi này do đâu, mãi đến khi một tia chớp thứ hai lóe lên rồi lại tắt ngay.
Nếu tôi không hét lên thì chỉ vì cổ họng tôi bị tắc vì sợ mà thôi. Còn
tôi không bị rơi xuống thì công của tôi thì ít mà của trời thì nhiều. Ánh sáng chớp không chỉ xuyên qua bức tường tháp đầy lỗ thủng từ mọi phía, tựa như tôi đang trèo lên một giàn giáo, mà còn cho tôi nhận ra cái bậc thang không dài như nhau và từ chỗ tôi đang đứng chỉ cách khoảng không chừng 2 zoll2nữa mà thôi.
Thế đấy cầu thang “cực tốt” là như vậy. Tôi nghĩ lại và trong tôi xuất hiện một cái gì như là lòng dũng cảm hoặc sự tuyệt vọng. Ông bác sai tôi lên đây chắc chắn để đẩy tôi vào chỗ chết. Tôi quyết định làm rõ ràng hoàn toàn ý đồ của ông ta và ngăn chặn nó. Vì vậy tôi quỳ xuống đầu gối mà bò thận trọng, xem xét kỹ từng bước như một con ốc. Sau tia chớp mọi vật hình như tối gấp đôi. Và đó chưa phải là tất cả. Trong tai tôi bây giờ vang lên tiếng vỗ cánh của đàn dơi trên đỉnh tháp. Đàn súc vật đáng sợ này vây quanh tôi, bay sát người làm tôi vô cùng sợ hãi.
Đáng lẽ trước đây tôi phải bổ sung là cái tháp này hình vuông, ở các góc, các bậc thang làm bằng những cục đá to hơn, hình dáng hơi khác để nối tiếp với bậc sau đó. Bây giờ tôi đến một góc ngoặt như vậy. Bỗng nhiên tay tôi quờ vào khoảng không. Cầu thang chấm dứt ở đây. Bắt một người trèo lên cầu thang này trong đêm tối cũng có nghĩa là đưa anh ta đến cái chết chắc chắn. Và cả tôi nữa, may nhờ có tia chớp và sự thận trọng nên thoát chết. Nghĩ đến cái chiều cao đáng lẽ tôi đã rơi xuống, mồ hôi tôi đổ ra ướt đẫm, chân tay tôi tê cứng. Nhưng bây giờ tôi đã biết điều cần biết. Ngay sau khi bớt xúc động, tôi thận trọng quay xuống, lòng đầy căm giận.
Khi tôi xuống được khoảng nửa đường, bỗng nhiên giông tố nổi lên, gió đập vào tường ào ào. Sau một lúc yên lặng, mưa bắt đầu rơi và khi tôi đến được những bậc cuối cùng, nước đã chảy thành dòng lớn. Tôi đi qua giông tố. Cánh cửa vào bếp trước đây ít lâu tôi đã đóng lại thì bây giờ đã mở ra và tôi tin là đã nhìn thấy một thân hình ở trong mưa, không động đậy và đang nghe ngóng gì đó.
Một tia chớp đã làm tôi nhận ra ông bác ở đúng chỗ tôi đoán. Ngay sau đó là một tiếng sấm vang trời. Liệu bấy giờ ông bác tôi có cho rằng tiếng ầm vừa rồi có liên quan đến cú té của tôi hay ông ta coi đó là tiếng thét của trời vạch mặt âm mưu giết người của ông ta. Muốn thế nào cũng được. Có điều chắc chắn là ông ta hoảng sợ quá, chạy vội vào trong nhà và để cửa mở.
Tôi bám theo ông ta, chạy thật nhẹ nhàng. Ông ta không nghe thấy, tôi vào bếp và bây giờ đang quan sát ông ta.
Thời gian đủ để ông ta đi tới tủ ở góc phòng và lấy ra một chai to. Bây giờ ông ta ngồi bên bàn, quay lưng lại phía tôi. Từng lúc, từng lúc ông ta bị một chứng như là co giật, thở dài rất to và đưa chai lên môi, đổ những ngụm lớn cồn tinh khiết vào miệng.
Tôi tiến đến sát lưng ông ta, dừng lại một chút và đột ngột dùng hai tay nắm chặt vai ông ta.
— Này, ông! – Tôi hét to.
Ông bác tôi hét lên một tiếng kêu nghẹt thở như tiếng kêu của con cừu. ông ta chới với tay trong không khí và co người lại như một xác chết.
Lúc đó tôi rất sợ nhưng tôi phải tận dụng cơ hội này để khảo sát xung quanh, để mặc ông ta nằm dưới đất.
Tôi quan sát rát nhanh. Chùm chìa khóa treo ở cánh tủ. Và trước khi ông bác tôi tỉnh lại, có thể nghĩ đến những điều độc ác khác, trước hết tôi phải lấy ngay khẩu súng.
Trong tủ có một số chai, trong đó có một số chai thuốc. Hóa đơn hàng chồng và các loại giấy tờ khác nằm lộn xộn khắp nơi, nếu có thời gian chắc tôi sẽ muốn xem lắm, ngoài ra còn có một ít đồ vật cũ mà tôi không biết dùng để làm gì.
Tôi lục nhiều hòm khác nhau. Hòm thứ nhất là nơi chứa bột lúa mạch, hòm thứ hai có một số túi tiền và giấy tờ cuộn thành bó. Trong
hòm thứ ba, giữa các đồ vật linh tinh, chủ yếu là quần áo, tôi tìm thây một con dao găm hoen rỉ không rãnh trông khá nguy hiểm. Tôi giấu nó trong áo vét của mình và quay sang bác tôi.
Ông ta vẫn nằm nguyên chỗ đó, một đầu gối nhô lên, một tay duỗi ra. Mặt ông ta xanh kỳ lạ và hình như không thở nữa. Tôi tin ông ta đã chết và nỗi sợ hãi trào lên. Tôi đi lấy nước đổ vào mặt ông ta. Ông ta dần dần sống lại, môi động đậy, mi mắt chớp chớp. Cuối cùng ông ta mở mắt nhìn, khi thấy tôi mắt ông ta ánh lên vẻ sợ hãi rõ rệt.
— Tỉnh lại đi. Và đứng dậy! – Tôi nói.
— Mày sống à? – Ông ta thì thào nghe như tiếng nấc.
— Đúng, tôi sống. Nhưng đó không phải là công của ngài đâu. Ông ta hít mạnh không khí.
— Cái chai nhỏ màu xanh – Ông ta thở hổn hển – Trong tủ… cái chai nhỏ màu xanh!
Hơi thở yếu dần.
Tôi chạy tới tủ và tìm được một chai thuốc màu xanh. Trên một băng giấy có thể đọc được cách hướng dẫn sử dụng. Nhanh đến mức có thể, tôi đã cho ông ta uống vài giọt trong đó.
— Do bị đau – Ông ta nói, đã tỉnh lại một chút – Tao bị đau tim, Davie ạ, tim mà.
Tôi dựng ông ta dậy và giúp ông ta ngồi vào một chiếc ghế. Điều kỳ lạ là tôi cảm thấy tội cho ông lão bệnh tật này, còn ngoài ra thì vô cùng căm giận ông ta.
Trước hết tôi soát lại những điểm sẽ tuyên bố.
Tại sao ông ta nói dối tôi mọi thứ? Tại sao ông ta sợ tôi đi khỏi? Tại sao câu hỏi có phải ông ta và cha tôi là anh em sinh đôi không lại làm ông ta nổi khùng như vây? Có phải đại loại vì đó là sự thật? Tại sao ông ta trao tiền cho tôi, số tiền mà tôi hoàn toàn không đòi hỏi và cuối
cùng tôi hỏi tại sao ông ta tìm cách giết tôi?
Ông ta yên lặng nghe tất cả. Nhưng bằng một giọng đứt quãng, yêu cầu cho ông được lên giường.
— Sáng sớm mai tao sẽ trả lời. Chắc chắn là như vậy.
Vì ông ta quá yếu nên tôi không còn cách gì khác hơn là đồng ý. Bây giờ tôi nhốt ông ta trong một buồng ngủ và cho chìa khóa cửa vào túi tôi. Sau đó tôi trở lại bếp, nhóm lửa trong lò cháy sáng rực như chưa bao giờ có từ nhiều năm nay. Tôi quấn vào người một vài cái chăn, nằm trên một cái rương và ngủ liền.
Chương 5:
TÔI CÙNG ÔNG BÁC ĐI RA PHÀ
Đêm hôm đó mưa to và sáng hôm sau một cơn giông kéo đến từ hướng tây bắc, đem những đám mây tới. Mặc dù vậy, trước khi tia nắng đầu tiên chiếu xuống, trước khi những ngôi sao cuối cùng lặn, tôi đi ra suối và nhảy xuống dòng nước đang chảy. Được tắm mát bằng dòng nước lạnh như băng đó và bây giờ sưởi ấm toàn thân bằng lửa nóng, tôi đốt lửa trong lò như đêm qua và suy nghĩ nghiêm túc về hoàn cảnh hiện tại của tôi.
Không còn nghi ngờ gì về sự thù hằn của bác tôi, cũng như mối đe dọa luôn luôn đối với cuộc sống của tôi ở đây, chắc chắn ông ta sẽ tìm cách loại bỏ tôi. Còn tôi, chẳng phải tôi còn trẻ và yêu đời sao? Ngoài ra, giống như những người trẻ tuổi lớn lên ở nông thôn, tôi tin tưởng nhiều ở sức mình.
Tôi đã gõ cửa nhà ông ta gần như một kẻ ăn xin, nhưng là một đứa trẻ ngây thơ và ông ta đáp lại sự tín nhiệm của tôi bằng sự phản bội và thô bạo. Thật là tuyệt vời nếu tôi giữ được quyền lực để dẫn ông ta đi bất cứ đâu như thợ săn lùa đàn cừu vậy.
Vừa suy nghĩ vừa xoa đầu gối, mỉm cười thỏa mãn với mình, tôi hình dung ra là tôi sẽ lần lượt lôi ra những bí mật của ông ta, lần lượt từng cái một và cuối cùng khống chế hoàn toàn ông ta.
Khi ở Essendean tôi được nghe câu chuyện: một nhà ảo thuật đã tạo ra được một cái gương mà người ta có thể nhìn thấy tương lai của mình trong đó. Nhưng nếu có, chắc tôi phải thật hơn cả ngọn lửa tôi đang nhìn trong lò, vì tung tất cả hình ảnh mà ngọn lửa đang tạo ra trước mắt, tôi không thấy một cái tàu thủy hoặc một thủy thủ hình nấm nào mà cũng chẳng thấy một cái gậy tìm nào có thể xắp xếp lại cái đầu lộn xộn của tôi. Không, tôi không nhìn thấy chút ánh sáng nào
từ các đồ vật quanh tôi.
Thỏa mãn với ý nghĩ đó, tôi cho kẻ bị nhốt ra ngoài. Ông ta lịch sự chào tôi. Hơi có vẻ nhìn xuống từ bên trên và mỉm cười hài lòng, tôi chào lại. Liền đó chúng tôi ngồi vào bàn ăn sáng, không khác gì hôm qua.
— Bây giờ, thưa ngài – Tôi hỏi bằng một giọng thách thức – Ngài còn có gì để nói với tôi nữa không?
Vì ông ta chỉ lẩm bẩm một cái gì đó không hiểu nổi nên tôi nói tiếp:
— Tôi cho rằng bây giờ là lúc chúng ta hiểu nhau khá tốt. Ngài đã coi tôi là một thằng nhóc nhà quê, không có chút hiểu biết và sự hóm hỉnh hơn là cái thìa bằng sừng của ngài chẳng hạn. Tôi đã tin ngài là một người tốt, hoặc ít ra, không xấu hơn những người khác. Cả hai chúng ta đều nhầm. Nguyên cớ gì làm ngài sợ tôi, tìm cách cướp cuộc đời tôi?
Ông ta ấp úng cái gì đó của một câu nói đùa, ông ta thích đùa thô bỉ. Nhưng khi nhận ra nụ cười châm biến của tôi, ông ta đổi giọng và hứa khi nào ăn sáng xong sẽ nói tất cả.
Tôi đọc thấy trên mặt ông ta là hiện tại ông ta chưa tìm được câu nói dối nào cho tôi cả và đang cố tạo một chút gì đó. Tôi vừa định nói điều đó thì có tiếng gõ cửa làm ngắt quãng câu chuyện.
Tôi lệnh cho ông bác rời chỗ, ra mở cửa. Trên thềm nhà là một chàng trai mới lớn mặc đồ thủy thủ. Vừa nhìn thấy tôi cậu ta bắt đầu trình diễn ngay điệu múa tù và mà tôi chưa thấy và cũng chưa nghe nói đến. Cậu ta bật tách tách ngón tay và thực hiện vài bước nhảy thành thạo. Trông cậu ta xanh ngắt, mặt giật giật giữa khóc và cười, gây nên ấn tượng và không hợp với sự trình diễn vui vẻ của cậu chút nào.
Và giọng ngắt quãng, cậu ta nói với tôi:
— Bạn ơi, hãy luôn vui vẻ.
Tôi hỏi cậu ta muốn gì.
— Ồ, mong muốn của tôi – Cậu ta kêu lên và bắt đầu hát:
Trong đêm sáng
Vào mùa mát mẻ này
Làm tôi vui…
— Nghe đây! – Tôi nói – Nếu mày vẫn tiếp tục không trả lời, tao sẽ đóng cửa trước mũi mày đó.
— Đứng lại, người anh em – Nó kêu lên – Cậu có hiểu câu nói đùa không? Cậu muốn tớ ăn đòn à? Tớ mang một bức thư của ông già Heasyoasy cho Ngài Balfour – Vừa nói cậu vừa chỉ cho tôi cái bì thư.
— Bạn ơi – Cậu ta nói thêm – Tôi đói như điên ấy.
— Được, vào nhà đi, cậu có thể được nhận một đĩa xúp.
Tôi kéo cậu ta vào chỗ của mình. Nó ăn ngấu nghiến hết chỗ xúp còn lại của tôi, nháy mắt vui vẻ, tạo ra tất cả vẻ mặt nhăn nhó, cái mà cậu bé đáng thương này cho là biểu hiện trưởng thành của mình.
Trong lúc đó ông bác Ebenezer đã đọc xong bức thư cậu bé đem lại và nhìn suy tư về phía trước. Rồi đột nhiên ông ta nhảy lên, kéo tôi ra một góc xa của phòng.
— Đọc đi – Ông ta nói và đưa bức thư cho tôi.
Nhà trọ bến phà Queensferry
Thưa Ngài, chúng tôi đang nhảy múa ở đây, trên bãi thả neo. Tôi cử cậu bé học việc trên tàu tới để ngài biết chắc chắn. Nếu ngài còn có ủy thác ở hải ngoại thì hôm nay là cơ hội cuối cùng, bởi vì hiện nay gió thuận để ra vịnh. Rất tiếc là tôi phải nói là tôi bực mình với ông Ranlcaillo, người đại diện của ngài. Nếu ngài không hành động nhanh sẽ có một số mất mát. Tôi gửi kèm theo cho ngài một giấy thanh toán. Chào ngài.
Người phục vụ ngoan ngoãn và tận tâm của Ngài.
Elias Hoseason
— Mày xem đấy – Ông bác nói khi thấy tôi đã đọc xong – Tao có một hợp đồng làm ăn với Hoseason, thuyền trưởng tàu Covenant of Dysart. Nếu bây giờ hai chúng ta, tao và mày, cùng thằng học việc trên tàu đến đó, có thể tao sẽ nói chuyện với thuyền trưởng trong nhà trọ hoặc trên tàu Covenant. Chắc chắn phải ký các văn bản. Để không mất thời gian, chúng ta sẽ tìm ngay luật sư Rankeillor. Ông ta có uy tín trong đại bộ phận quý tộc vùng này, ngoài ra, ông ta là một người lớn tuổi đáng kính. Ông ta còn nhớ cha mày.
Tôi đứng đó, lòng còn đang băn khoăn, suy nghĩ, cuối cùng thì ông bác Ebenezer và tôi sẽ tới một bến cảng, chắc chắn ở đó sẽ nhộn nhịp, ở đó ông ta khó mà gây áp lực với tôi. Vả lại, sự có mặt của cậu học việc cũng là một sự bảo vệ nào đó cho tôi. Nếu ông bác không nói thật, khi đến đó tôi sẽ ép phải tới nhà luật sư. Cũng có thể lúc đó trong thâm tâm tôi chỉ muốn được quan sát biển và tàu thủy gần hơn. Bạn đọc nên biết là toàn bộ cuộc đời tôi tới nay chỉ sống ở đất liền và chỉ hai ngày trước đây mới nhìn thấy vịnh mà thôi. Nó hiện lên trước mắt tôi như một tấm gương màu xanh lấp lánh, trên đó có những con tàu không lớn hơn những đồ chơi đang trượt đi trượt lại. Tất cả những cái đó thôi thúc tôi thỏa hiệp với ông bác.
— Được – Tôi nói – chúng ta đi tới cảng.
Ông bác tôi mặc áo khoác, đội mũ và đeo một thanh gươm cũ, hoen rỉ. Chúng tôi tắt lửa trong lò, khóa cửa và đi ra. Gió tây bắc thổi lạnh buốt, làm tôi cóng mặt mũi. Lúc đó là tháng sáu, trên bãi cỏ ánh lên màu trắng của những bông hoa dại và hoa của cây ăn quả đang nở rộ. Nhưng nếu đánh giá theo móng tay bị thâm tím và khớp tay đau nhói vì lạnh thì đã là mùa đông rồi và theo biển hoa trắng thì đã là cuối năm.
Ông Ebenezer đi dọc theo rìa đường và lắc lư như một ông già nông dân cày ruộng mệt mỏi trở về. Dọc đường ông ta không nói một lời
nào. Khi muốn nói chuyện tôi phải gọi cậu học nghề trên tàu. Cậu ta kể cho tôi tên cậu ta là Ransome và đã đi biển từ năm lên chín, nhưng bây giờ không biết mình bao nhiêu tuổi và đã mất cảm giác về thời gian. Sau đó, mặc dù tôi phản đối, cậu đã phanh bộ ngực trần, hóng gió lạnh như cắt để chỉ cho tôi những hình săm, tôi lo cậu ta sẽ hứng lấy cái chết. Trong khi đánh vật với những ký ức, thỉnh thoảng cậu ta nguyền rủa một cách nực cười, nhưng mà giống một đứa trẻ vô giáo dục hơn là một người lớn. Nó cũng tự hào là đã trải qua nhiều cuộc phiêu lưu điên rồ và xấu xa: ăn trộm, lừa đảo, thậm chí giết người. Tất cả những điều cậu ta nói về các chi tiết thật khó tin và được diễn tả ngây thơ đến mức cảm thấy thương hại hơn là tin cậu ta.
Tôi hỏi về chiếc tàu buồm mà cậu coi là đẹp nhất trên biển và sau đó về thuyền trưởng Hoseason, người mà cậu ta cũng khen ngợi nhiều; cậu ta luôn luôn gọi người chỉ huy tàu bằng tên Heasyoasy. Theo diễn tả của cậu thì thuyền trưởng là một người đàn ông không biết sợ một cái gì trong thế giới bao la của Thượng để hoặc trong bầu trời, một con người mà dân chúng nói rằng anh ta sẽ đến vào ngày phán quyết của cánh buồm lộng gió, một con người thô tục, tàn bạo, không biết thương xót. Nhưng cậu bé đã quen nhìn những tính cách này như là luật biển, là tính cách của đàn ông. Nó chỉ thừa nhận một lỗi lầm ở thần tượng mình “Ông ta không phải là thủy thủ thật sự. Còn ông Shuan, người lái tàu trong thực tế, là thủy thủ cựu kỳ nhất của toàn bộ hạm đội thương mại. Chỉ có điều ông ta uống quá nhiều. Tôi nói cho anh biết rằng tôi biết hát một bài trong đó”. Ransome kéo tất xuống và cho tôi xem một vết thương mở miệng, trông dễ sợ đến mức máu tôi muốn ngừng chảy trong huyết quản: “Của ông Shuan đó” – nó bổ sung có pha chút tự hào.
— Cái gì vậy? Cậu vừa lòng với sự đối xử tàn bạo như vậy à? Cậu đâu phải là nô lệ để người ta đánh đập vô nhân đạo vậy?
— Không! – Con bê con đáng thương đáp lại và bỗng chốc trở nên dữ tợn – Hắn sẽ thấy hắn được gì trong chuyện này. Hãy nhìn đây!…
– Và cậu chỉ cho tôi một con dao găm dài đã lấy trộm được ở đâu đó.
— Ồ la, – cậu nói tiếp – chỉ cần hắn định làm một lần nữa! Hắn phải cân nhắc điều này, nếu không hắn sẽ nhận một cái gì đó. Tôi sẽ giết hắn, tôi sẽ làm hắn nguội lạnh và hắn không phải là kẻ đầu tiên đâu – Cậu ta nhấn mạnh bằng một lời nguyền rủa tội nghiệp và hèn hạ.
Chưa bao giờ trong đời tôi thấy tội nghiệp với cậu bé khổn khổ, yếu thần kinh này. Tôi thấy tàu buồm dù có cái tên rất đẹp vẫn chỉ là một địa ngục biết bơi.
— Cậu không có bạn bè à? – Tôi hỏi.
Cậu ta kể là cha cậu sống ở đâu đó trong một thành phố cảng mà tôi quên mất tên. Sau đó cậu bổ sung:
— Ông ta là một người đàn ông tuyệt vời, đã chết rồi…
— Cậu không tìm được một nghề tử tế hơn trên đất liền sao? – Tôi hỏi.
— Ồ, không, – cậu ta vừa nháy mắt hài hước với tôi, làm ra vẻ láu cá lắm – lúc đó tôi sẽ phải đi học mà tôi lại biết những mưu kế có thể thu nhập gấp đôi như vậy. Đúng, cái đó tôi biết.
Tôi hỏi cậu còn có nghề nào đáng sợ hơn cuộc sống hiện tại của cậu ta, luôn luôn đặt sinh mạng vào mối hiểm nguy, không chỉ có sóng gió, thời tiết mà cả sự tàn bạo của những con người mà cậu ta phải phục tùng. Cậu thừa nhận đó là sự thật nhưng rồi lại bắt đầu ca ngợi cuộc sống trên biển của mình. Chẳng hạn cậu ta kể đã sung sướng như thế nào khi có đầy túi tiền, lang thang trên bờ đóng vai người đàn ông phong lưu, có thể mua táo ăn, gây gổ, đánh nhau và chế giễu những người mà cậu ta gọi là cái mũ đang ngủ.
— Tôi sống cũng không tồi – Cậu ta tiếp – Rất nhiều người còn khổ hơn tôi. Vâng, nếu nghĩ đến những đứa tuổi hai mươi, các anh cần phải nhìn thấy chúng xếp hàng như thế nào! Một lần tôi làm quen một người tuổi có lẽ lớn hơn anh, tôi có vẻ già dặn hơn mặc dù anh ta đã
có râu. Khi chúng tôi vừa ra khỏi cửa sông đi vào biển thì, trời ạ, anh ta đã than khóc, kêu gào. Tôi cười anh ta đến tức bụng, anh biết không? Ngoài ra còn có tụi trẻ con, so với tôi thì chúng còn nhỏ. Tôi thích giữ tụi này, anh hiểu chứ? Nếu có chúng ở trên tàu tôi sẽ có quyền riêng của mình để đánh đập chúng.
Cứ như thế, cậu ta tiếp tục ba hoa cho đến cuối cùng tôi hiểu ra cậu ta nói những đứa tuổi hai mươi kia là gì. Đó là những kẻ phạm pháp bị đày đi làm nô lệ ở Bắc Mỹ và “tuổi trẻ” đó là những con người bất hạnh hơn nhiều, hoàn toàn vô tội, bị cướp đi theo đúng nghĩa đen và đưa đi đày vì lợi nhuận hoặc thù hằn cá nhân.
Chính lúc đó chúng tôi lên đến đỉnh núi, nhìn thấy vịnh Firth-Forth và hải cảng ở phía dưới chân mình.
Ở chỗ này, vịnh thu nhỏ lại bằng chiều rộng của một con sông, tạo thành một con đường thẳng lên phía Bắc, rất thích hợp cho giao thông bằng thuyền buồm.
Phía trên vịnh là một hải cảng được đất liền bao bọc ba phía, là nơi đậu cho thuyền bè các loại, các cỡ. Ở chính giữa eo biển là một hòn đảo, có thể nhìn thấy một số thành quách đổ nát trên đó. Ở bờ Nam, người ta đã xây một bến phà. Phía cuối bến phà là nhà trọ Hawes, phía sau có một mảnh vườn xinh xắn, những cây duối và những bụi táo gai.
Thị trấn Queenferry nằm ở phía Tây cũng như quanh nhà trọ lúc này trông buồn tẻ vì phà chở khách vừa tới bến chạy lên phía Bắc. Bên cạnh cầu phà có một chiếc thuyền đung đưa, một vài thủy thủ đang ngủ trên ghế băng. Theo lời Ransome, đó là thuyền kèm của tàu đang chờ thuyền trưởng, ở khoảng cách chừng nửa dặm chỉ độc nhất có chiếc tàu Covenant đang thả neo.
Trên boong, chiếc tàu buồm đã sẵn sàng ra khơi, cuộc sống đang nhộn nhịp. Các trục căng buồm đã được kéo lên cao đang đong đưa trong gió. Vì gió thổi từ phía đó lại, nên tôi có thể nghe thấy tiếng hát
của thủy thủ trong sương mù đang kéo tới. Do những chuyện Ransome kể dọc đường, tôi nhìn chiếc tàu với lòng căm ghét. Từ trong tim, tôi thấy tội nghiệp cho những con người nghèo khổ phải đi như vậy.
Ba người bộ hành chúng tôi dừng lại trên đỉnh đồi. Tôi đi tới chỗ ông bác và nói:
— Tôi cho là đúng đắn nếu bây giờ tuyên bố rằng không có tiền của nào có thể đưa tôi lên con tàu Covenant cả.
Ông ta trông như vừa tỉnh giấc mơ:
— Hê, cái gì vậy?
Tôi nhắc lại điều vừa nói.
— Được thôi – Ông ta đáp lại – Mày cần có sở thích của mày. Nhưng tại sao chúng ta lại đứng ở đây? Trời lạnh như điên và nếu tao không nhầm thì họ đã sẵn sàng nhổ neo.
Chương 6:
TÔI THẤY GÌ Ở TRONG VỊNH
Ngay khi tới nhà trọ, Ransome dẫn chúng tôi lên cầu thang, vào một phòng nhỏ có một cái giường và được sưởi ấm bằng một lò than nóng như trong buồng tắm hơi.
Bên một chiếc bàn sát lò sưởi là một người đàn ông to lớn, tóc đen, ăn vận lịch sự. Ông ta có một đống giấy tờ trước mặt và đang viết gì đó. Mặc dù trong phòng nóng kinh khủng, ông ta vẫn mặc một chiếc áo vét thủy thủ dày, cài cúc đến tận cổ, mũ lồng che kín tai.
Tôi chưa thấy một người nào, kể cả chánh án giữa phiên tòa lại gây một ấn tượng học giả hơn, lạnh lùng và tự chu hơn người thuyền trưởng này.
Khi chúng tôi bước vào, ông ta lập tức đứng dậy đi tới chỗ chúng tôi và chìa cho Ebenezer bàn tay to lớn của ông ta.
— Tôi rất sung sướng và tự hào được đón ngài, thưa ông Balfour – Ông ta nói bằng một giọng trầm rất êm. – Tôi cũng rất phấn khởi và ngài đến đúng lúc gió thuận và chính là lúc đổi mùa. Nhờ vậy ngay tối hôm nay chúng tôi sẽ nhìn thấy hải đăng trên đảo May.
— Thuyền trưởng Hoseason. – Bác tôi đáp – Ở đây, trong phòng Ngài rất ấm cúng.
— Tôi quen như vậy, thưa ngài balfour – Người thuyền trưởng nói – Có lẽ tôi có loại máu lạnh vì tôi rất dễ rét run. Không có áo lông nào, không có len dạ nào, không có giọt rượu mạnh và nóng nào có thể làm nóng máu tôi lên được, như người ta thường nói, cái này thường xảy ra với những người đã được rán kỹ ở vùng nhiệt đới.
— Vâng, thưa thuyền trưởng. Không ai trong chúng ta có thể ra khỏi lớp da bọc mình, điều này không thể thay đổi. – Ông bác tôi đáp
lại.
Điều tình cờ là cái tập quán này của thuyền trưởng đóng một vai trò cơ bản cho cái số phận hẩm hiu của tôi sau này, bởi vì mặc dù tôi đã thề sẽ không được rời mắt khỏi người họ hàng của mình, tôi đã sốt ruột được ngắm biển gần hơn và cái không khí nóng trong phòng làm tôi khó chịu điên người.
Khi ông bác bảo tôi ra ngoài “thưởng thức”, tôi đã điên rồ nghe theo.
Tôi để lại hai người với nhau. Khi tôi đi ra, họ đang uống với nhau một chai rượu nho và cúi xuống đống hồ sơ.
Ra đến ngoài trời, tôi vượt qua đường cái và đi xuống bãi biển. Khi gió nhẹ, trong vịnh chỉ có sóng nhỏ đập vào bờ, sóng không lớn hơn trong biển hồ mà tôi đã biết. Nhưng rong biển thì mới lạ với tôi, thỉnh thoảng trông nó màu lục, thỉnh thoảng màu xanh nâu. Nó kéo thành dải dài với rất nhiều bọt khí nhỏ, dẫm nhẹ vào cũng vỡ tan. Mùi nước biển bay sâu vào vịnh, không khí đầy vị muối.
Tôi quan sát thấy những cánh buồm trên tàu Covenant, trước đó còn cuộn thành từng bó, bây giờ treo rủ xuống từ những thanh căng buồm đang từ từ căng lên.
Tất cả những ấn tượng mới đó đánh thức trong lòng tôi sự tưởng tượng về những chuyến đi biển đến những miền xa xôi, lang thang ở những đất nước và thành phố xa lạ.
Tôi cũng nhìn chăm chú chiếc thuyền kèm của Covenant. Đó là những người to lớn, da cháy nâu, một số mặc sơ mi, một số mặc áo thủy thủ, một số khác quấn quanh cố những khăn sặc sỡ. Một khẩu súng lục nhô ra khỏi túi một thủy thủ, hai hoặc ba người có dùi cui và tất cả đã được trang bị dao găm.
Một phần lớn thời gian hôm đó tôi ngồi nói chuyện với một người trong số họ, một người trông không lạnh lùng như các chiến hữu của
anh ta. Anh ta nói cho tôi biết khi nào tàu ra biển và cho rằng khi thủy triều vừa lên thì họ đi. Anh ta rất sung sướng được thoát khỏi cái hải cảng không có quán nhậu, không có âm nhạc này. Anh ta chửi rủa nặng tới mức tôi phải biến đi.
Bây giờ tôi được chỉ đến chỗ Ransome. Ít ra, trong đám thủy thủ, cậu ta có vẻ là người dễ chịu nhất. Cậu ta vừa từ nhà trọ về, chạy đến tôi và yêu cầu một vại rượu pân3. Tôi nói tôi không muốn gọi rượu pân và cả cậu ta lẫn tôi đều chưa đến tuổi làm quen với thứ đó. Tôi nói thêm là cậu ta có thể nhận được một cốc bia. Cậu ta há mồm, nhăn mặt và nói với tôi bằng những câu chửi thậm tệ, nhưng sau đó lại sẵn sàng uống bia. Vài phút sau, chúng tôi ngồi bên một chiếc bàn trong phòng khách, ăn và uống ngon miệng.
Tôi chợt nghĩ ông chủ quán chắc là người địa phương và làm quen với ông ta chẳng có hại gì. Tôi mời ông ăn điểm tâm với chúng tôi, đó cũng là thói quen thông thường. Nhưng mà ông ta làm như mình cao sang lắm, không thể ngồi cùng bàn với loại khách thường như Ransome và tôi. Đúng lúc ông ta định rời phòng khách thì tôi gọi giật lại và hỏi ông ta có quen ông Rankeillor không.
— Tất nhiên là có – Ông ta nói. – Đó là một người rất đúng mực. Ngoài ra, – Ông ta tiếp – vừa rồi anh cùng tới với Ebenezer phải không?
Khi tôi xác nhận, ông ta nói chắc tôi không phải bạn bè với ngài Balfour, dân Scot nói vậy là muốn nói về quan hệ họ hàng đó.
Tôi nói:
— Không, không chút nào.
— Tôi cũng nghĩ vậy. – Ông chủ nhà trọ nói. – Mặc dù anh làm tôi nhớ đến ngài Alexander.
Tôi nói rằng ông Ebenezer không được đánh giá tốt lắm ở vùng này.
— Điều đó đúng – Ông chủ nhà trọ tiếp – Ông ta là một lão độc ác. – Và bằng lối diễn tả của dân Scot ông ta nói thêm – Có một số, thí dụ như Jennet Clouston và nhiều người khác đã bị ông ta tống ra khỏi nhà, rất muốn nhìn thấy ông ta bị treo cổ ở đây. Tuy thế, khi còn trẻ ông ta cũng là một người tử tế, đúng vậy, ông ta đã như vậy cho đến khi có tin đồn về ngài Alexander. Điều này đối với Ebenezer còn nghiêm trọng hơn là chết.
— Nhưng tin đồn gì thế? – Tôi hỏi.
— Hình như ông ta giết ngài Alexander – Anh không nghe thấy bao giờ à?
— Nhưng tại sao ông ta lại làm điều đó?
Tôi hỏi sâu hơn.
— Tại sao ấy à? Để chiếm ngôi nhà! Đó là câu trả lời.
— Ngôi nhà họ Shaws?
— Chứ còn gì nữa. – Ông chủ quán đáp.
— Điều ngài chưa nói, có phải bố… à ông Alexander là con cả không?
— Đúng như vậy. Nếu không làm sao Ebenezer lại muốn giết ông ta?
Sau những lời đó, ông chu quán rời chỗ. Trước đó ông ta đã nhấp nhỏm muốn đi.
Tất nhiên với tôi, tất cả những điều đó đã rõ ràng từ lâu. Nhưng sự phỏng đoán đơn thuần và sự thật là hai vấn đề khác nhau cơ bản. Tôi ngồi đó và như bị choáng váng về viễn cảnh tốt đẹp của mình. Không thể tưởng tượng được là vẫn cậu bé nghèo vừa lang thang qua rừng Ettrick hai ngày trước đây, bỗng nhiên thành một trong những người giàu có trên trái đất này, cậu ta có một ngôi nhà và những điền trang rộng lớn và ngày mai, nếu muốn, sẽ cưỡi trên một con ngựa đua…
Những ý nghĩ như vậy đã xâm lấn tôi trong lúc tôi ngồi đó và nhìn trân trân qua cửa sổ, không chú ý đến gì xảy ra bên ngoài.
Tôi nhớ lại là tôi nhìn thấy thuyền trưởng Hoseason đang đứng ở bờ cảng ra nghiêm lệnh cho lính tráng của mình. Đột nhiên ông ta quay lại và đi vào nhà. Ông ta không có những bước chân nặng nề của thủy thủ.
Người thuyền trưởng cao lớn, ăn mặc lịch sự này trông rất đàn ông và tự chủ. Mặt ông ta vẫn còn những nét nghiêm nghị trước đó. “Liệu những chuyện của Ransome về con người này có đúng không?” – Tôi ngạc nhiên nghĩ.
Đối với tôi những câu chuyện đó có vẻ khó tin vì chúng không hợp với bề ngoài của ông ta. Trong thực tế, Hoseason không phải con người tốt như tôi nghĩ, cũng không phai hoàn toàn xấu như Ransome mô tả, bởi vì trông ông ta có hai con người và ông ta sẽ rời bỏ con người tốt, đứng đắn ngay khi ông ta chạm vào sàn tàu của mình.
Sau đó tôi nghe thấy bác tôi gọi. Tôi gặp hai người trên con đường phía trước nhà trọ. Ông ta cư xử với một sự tin cậy đặc biệt, an ủi và gây lòng tin với tôi – một con người còn trẻ tuổi.
— Thưa ngài, – ông ta nói – Ngài Balfour đã kể cho tôi rất nhiều điều tốt đẹp về ngài và tôi rất thích diện mạo của ngài. Tôi mong sẽ ở đây lâu hơn để làm quen với ngài. Tuy thế chúng ta hãy tận dụng cơ hội hôm nay. Nửa giờ nữa, ngài hãy lên tàu buồm của tôi, đến lúc thủy triều lên chúng ta có thể uống với nhau một ly rượu.
Từ lâu, một mong muốn cháy bỏng trong lòng tôi, mạnh hơn những điều tôi có thể nói ra thành lời là được xem phía trong một con tàu thủy. Nhưng tôi không muốn chuốc lấy hiểm nguy nên đáp lại là tôi và bác tôi đã hẹn đến chỗ luật sư của ông ấy.
— Đúng, đúng. Tôi có nghe. – Ông Hoseason đáp – Nhưng sau đó chiếc thuyền kèm sẽ đưa ngài vào bờ, quan sát thành phố! Từ đó đến
nhà ông Rankeillor chỉ còn một bước nháy như con mèo. Bỗng nhiên ông ta cúi xuống tôi và thầm thì:
— Anh hãy chú ý đến con cáo già. Hắn sẽ làm một cái gì đó với anh đấy. Hãy lên tàu để tôi có thể nói cho anh nghe.
Sau đó ông luồn tay vào tay tôi dẫn đến chiếc thuyền kèm, nói thêm với giọng thật to:
— Bây giờ nói cho tôi biết, tôi có thể đem từ Carolina cho anh cái gì? Bạn bè của ngài Balfour chỉ cần phát biểu ý muốn của mình và sẽ được thỏa mãn. Anh cần gì? Một cuộn thuốc lá? Đồ trang sức bằng lông chim của người da đỏ? Một cái tẩu bằng đá? Một con chim nhại có thể kêu “meo meo”? Bộ lông của một con thú dữ hoặc một con chim giáo chủ trong bộ lông màu đỏ máu? Hãy nói nhanh lên, anh thích cái gì nhất!
Một lát sau chúng tôi đi tới thuyền và ông giúp tôi bước lên. Như trong mơ, tôi không còn nghĩ đến chuyện khước từ. Đúng tôi là một kẻ ngu muội đáng buồn. Tôi đã tin là mình tìm thấy một người bạn, một người đỡ đầu và sung sướng ngắm con tàu.
Khi tất cả đã ngồi yên chỗ, con thuyền rời bến và bơi nhanh. Niềm vui của tôi, sự ngạc nhiên về khoảng cách xa bờ cũng như sự lớn dần của con tàu lớn tới mức tôi không biết người thuyền trưởng nói gì với tôi nữa mà tôi lại trả lời thế nào đó. Khi tới ngang con tàu tôi ngạc nhiên về chiều cao của nó và tiếng rì rào của nước đang vỗ sủi bọt bên dưới. Tôi ngạc nhiên nghe những tiếng gọi của thủy thủ.
Hoseason giảng giải cho tôi là tôi và ông ta phải lên tàu đầu tiên. Ông ta ra lệnh cho một thủy thủ thả xuống một sợi đây cột từ cột buồm chính. Tôi được kéo lên sàn tàu nơi thuyền trưởng đang chờ, ông ta lập tức kéo lấy tay tôi.
Trong một khoảnh, khắc tôi như bị thôi miên, tất cả đung đưa và quay quanh tôi. Tôi hơi sợ, đồng thời cũng thấy sung sướng về tất cả
những gì đang nhìn thấy. Thuyền trưởng dùng ngón tay chỉ cho tôi những vật lạ và nói tên chúng là gì, dùng để làm gì.
— Bác tôi đâu rồi? – Đột nhiên tôi hỏi.
Hoseason nhăn mặt rồi đáp:
— Sẽ thấy ngay thôi.
Tôi lập tức hiểu ra rằng mình đã mất hết. Dùng hết sức, tôi giật tay khỏi người thuyền trưởng và chạy ra mạn tàu. Nhưng chiếc thuyền kèm đã bơi về thành phố và bác tôi ngồi trên mạn.
Tôi gào lên như điên dại:
— Cứu tôi với, cứu tôi với! Kẻ giết người! Cứu tôi với!
Hai bờ vịnh vọng lại tiếng kêu điên dại của tôi. Bác tôi quay về phía tàu và hướng bộ mặt dã thú đáng sợ vào tôi.
Đó là cảnh cuối cùng tôi còn nhìn thấy. Những cú đấm mạnh làm tôi bắn khỏi mạn tàu, sau đó thêm một cú tựa như sấm vậy. Đom đóm nổ trên mặt và tôi ngất đi.
Chương 7:
TÀU COVENANT OF DYSART RA KHƠI – TÔI Ở TRÊN BOONG
Bị trói chân tay, người đau ê ẩm, xung quanh tối om và đầy tiếng động lạ… tôi dần dần tỉnh lại. Tôi nghe tiếng sóng vỗ như từ một máy nghiền lớn, nghe thấy biển động đập vào thành tàu, nghe thấy tiếng kêu kèn kẹt của buồm và những tiếng thét chói tai của thủy thủ. Tôi bị dâng lên cao rồi tụt xuống dưới. Tôi cảm thấy ốm yếu, cạn sức, tất cả xương cốt đau nhừ làm cho trí óc tê liệt và mãi một lúc sau, luôn bị nỗi đau đớn dày vò, tôi mới lại suy nghĩ được đôi chút. Mãi lúc đó tôi mới dần dần thấy mình bị trói ở đâu đó trong hầm con tàu bất hạnh và chắc là từ ngọn gió mới ở trong vịnh, một cơn bão đã hình thành. Hoàn cảnh hiện nay làm tôi thấy mình vô vọng và dao động sâu sắc, đồng thời hối hận về sự ngây thơ của mình và căm giận vô bờ bác tôi. Tôi lại ngất đi.
Khi tỉnh lại vẫn trong những tiếng ồn ào đó ở xung quanh, tôi vẫn luôn bị chao đảo, lúc lên, lúc xuống. Ngoài sự đau đớn và say sóng làm tôi nửa tỉnh nửa mê bây giờ lại thêm sự khó chịu mà nói chung người mới đi biển luôn có.
Suốt thời gian xảy ra những chuyện phiêu lưu, tôi đã chịu đựng nhiều chuyện khó chịu, nhưng không có gì tra tấn tôi, cả phần xác lẫn phần hồn và làm tôi tuyệt vọng nhiều như những giờ đầu tiên trên tàu Covenant.
Tôi nghe tiếng súng nổ và cho rằng con tàu không vượt qua được cơn bão và họ bắn súng cấp cứu. Tôi vui mừng với ý nghĩ là mình sẽ được thoát khỏi tình trạng đáng sợ này dù có chết đuối cũng được.
Nhưng sau này tôi mới biết một chuyện như vậy đã không xảy ra mà đó chỉ là thói quen của tay thuyền trưởng và tôi muốn viết ra đây
để thấy rằng kế cả những con người độc ác nhất cũng có những mặt tốt của nó. Số là chúng tôi đang đi ngang qua, chỉ cách Dysart vài dặm, là nơi con tàu này đã được đóng trước đây và là nơi cách đây vài năm mẹ tay thuyền trưởng, bà Hoseason, đã chuyển tới ở. Và dù con tàu ra đi hay trở về, Covenant không bao giờ được phép đi qua đây mà không chào cờ và bắn súng chào.
Tôi mất hết cảm giác thời gian. Trong cái hầm tàu địa ngục này, nơi tôi đang nằm trơ trọi, thì ngày và đêm như nhau và trong trạng thái bi đát của tôi, thời gian đã trôi đi bất tận. Tôi không còn biết tôi đã nằm đó bao lâu và chờ đợi con tàu đâm vào đá hoặc chìm xuống đáy biển ở những chỗ sâu nhất. Cuối cùng giấc ngủ đến làm tôi quên đi sự dày vò phải chứng kiến cái cảnh đó lúc tỉnh. Tôi không hiểu mình đã ngủ bao lâu, chỉ tỉnh lại khi có ai đó soi ngọn đèn dầu vào mặt.
Một người đàn ông nhỏ con, chừng ba mươi tuổi, mắt xanh, tóc vàng đứng trước mặt và nhìn tôi.
— Thế nào, khỏe chứ? – Anh ta hỏi.
Câu trả lời của tôi là một tiếng bật khóc. Người lạ mặt cầm tay tôi, bắt mạch, sờ thái dương, rửa và băng vết thương trên đầu tôi.
— Thế đó. – Ông ta càu nhàu – Một cú đập cuồng dại. Dũng cảm lên, cậu bé! Tất cả chưa phải đã mất hết. Khởi đầu xấu nhưng mọi việc sẽ lại tốt đẹp. Cậu phải hồi phục lại. Cậu đã ăn gì chưa, có thích chút thịt không?
Tôi nói rằng đối với tôi, ngay cả ý nghĩ ăn cái gì đó là nực cười rồi. Bằng cái bát uống trà ông ta cho tôi một ngụm rượu mạnh pha bằng nước. Sau đó ông ta đi khỏi, để tôi ở lại một mình.
Khi ông ta quay lại, tôi đang nằm nửa tỉnh nửa mê, mắt mở to nhìn vào bóng tối. Tôi không cảm thấy khó chịu nữa nhưng sự say sóng làm tôi chóng mặt, có cảm giác bị chao đảo và còn khổ sở hơn là buồn nôn. Ngoài ra, xương cốt đau nhức và sợi dây trói bằng dây căng
buồm cứa vào da thịt, làm nóng bỏng như lửa cháy. Mùi hôi thối ở cái lỗ tôi nằm trở thành một bộ phận của chính tôi. Ngoài ra trong thời gian dài từ lúc người làm phúc đi khỏi, tôi bị tra tấn bởi nỗi sợ hãi, thứ nhất là trước lũ chuột cống, đôi khi chúng trèo cả lên mặt tôi và thứ hai, trước sự mộng mị thường đến với người sốt cao.
Vì thế, khi nắp hầm mở ra, ánh đèn dầu xuất hiện tưởng như ánh sáng mặt trời thiên thần và mặc dù lúc này ở trong nhà tù của mình tôi đã nhìn rõ cái dầm lớn của hầm tàu, tôi vẫn muốn kêu thật to lên.
Người đàn ông mắt xanh là người thứ nhất leo thang xuống, tôi cảm thấy bây giờ ông bước đi không bình tĩnh lắm. Ông ta đung đưa một cách kỳ lạ. Sau ông ta là thuyền trưởng. Không một người nào trong họ nói gì cả. Người đàn ông tóc vàng lại khám cho tôi, và cũng như lần trước, các vết thương. Hoseason nhìn tôi với con mắt tối tăm đặc biệt.
— Bây giờ Ngài đã tự thấy, – Người cứu tôi nói – Anh ta sốt cao. Ở đây tối quá, anh ta không ăn được và không muốn ăn. Ngài biết rõ việc này sẽ đi tới dâu.
— Tôi không phải nhà ảo thuật, thưa ngài Riach – Tay thuyền trưởng nói.
— Thế thì bây giờ để tôi tự do hoạt động, thưa ngài. Mặc dù ngài có một cái đầu láu cá, một cái lưỡi của dân Scot, nhưng tôi không cho phép ngài thoái thác. Tôi muốn cậu bé ra khỏi cái lỗ này và lên hầm ở phía trước.
— Điều gì ngài muốn hoàn toàn là việc của ngài – Viên thuyền trưởng trả lời – Tôi chỉ nói cho ngài biết cái gì phải xảy ra: thằng bé đây và nó phải ở lại đây!
— Chấp nhận là ngài được trả tiền cho việc này. – Người tóc vàng phản đối – Tuy nhiên, với tất cả lòng khiêm tốn tôi phải lưu ý là tôi không ăn chia gì trong đó cả. Tôi phải vui lòng với tiền lương của
mình và nó quá ít đối với một sĩ quan thứ nhì trên con tàu cổ lỗ này và ngài biết rõ nhất là tôi thực hiện rất tốt nhiệm vụ của mình. Tôi được trả tiền cho việc đó và không cho một cái gì khác.
— Nếu ngài không dính đến rượu mạnh! Ngài Riach ạ, ngoài ra tôi không có gì phải phàn nàn về ngài cả. Nhưng đáng lẽ để cái trò này cho tôi, ngài nên dùng sức để làm nguội món xúp lúa mạch của mình khi nó quá nóng, nếu tôi được phép khuyên ngài như vậy. Chúng ta cần lên sàn tàu! – Ông ta nói thêm một cách thô bạo và leo lên các bậc thang.
Nhưng người đàn ông được gọi là Riach đã giữ chặt ông ta:
— Đồng ý là ngài được trả tiền cho một vụ giết người… – Ông này lại bắt đầu.
— Cái gì vậy? – Viên thuyền trưởng kêu lên – Ông nói với tôi bằng cái giọng gì vậy?
— Bằng một giọng mà chỉ riêng ngài hiểu thôi. – ông Riach nói và bình tĩnh nhìn vào mặt viên thuyền trưởng.
— Ngài Riach, chúng ta đã đi biển với nhau ba lần rồi. – Hoseason ngắt lời – Điều này đủ để Ngài hiểu tôi. Tôi là một người cứng rắn, có một ý chí gang thép. Nhưng điều Ngài vừa kết tội tôi, ma quỷ ạ, xuất phát từ một lòng độc địa và một sự hiểu biết tồi. Nếu ngài nghĩ rằng thằng bé sẽ chết ở đây…
— Vâng, tôi nghĩ như vậy. – Ông Riach lạnh lùng nói.
— Thôi đủ rồi! Hãy đưa cậu ta đến chỗ nào Ngài muốn. – Và sau những lời đó, viên thuyền trưởng leo thang lên trên.
Trong thời gian xảy ra câu chuyện đáng chú ý trên, tôi nằm bất động và bây giờ quan sát ông Riach đang nhìn theo viên thuyền trưởng cúi chào ông ta sát đất vẻ khôi hài rõ rệt.
Dù tôi có cảm thấy đáng thương, và khốn khổ thì hai việc đã rõ ràng với tôi. Người thủy thủ này tuy say, như viên thuyền trưởng đã
nói, nhưng dù tỉnh hay không, đối với tôi anh ta sẽ là một người bạn quý giá.
Năm phút sau, cái sợi dây trói bị cắt đứt. Ai đó cõng tôi trên lưng và leo thang lên phòng ở mặt trước. Tôi được đặt nằm trong một ca-bin, trên một vài tấm chăn và việc đầu tiên là tôi lại bị ngất.
Một thời gian dài sau đó, khi tôi mớ mắt chỉ cần nhìn thấy những con người bao quanh là tôi thấy khuây khỏa rồi.
Khoang phía đầu tàu khá rộng, giường ngủ đặt khắp nơi, các thủy thủ không phải phiên trực đang ngồi hút thuốc hoặc chuẩn bị đi ngủ.
Vì trời đã yên tĩnh, bão đã tan, các cửa sổ tròn được mở ra, chẳng những ánh sáng ban ngày chiếu sáng trong phòng mà đôi lúc do tàu chòng chành một tia nắng rọi vào làm tôi chói mắt và hạnh phúc. Ngay khi tôi vừa cử động được, một người đã đem cho tôi một thứ nước uống tăng lực mà ngài Riach pha cho tôi. Người thủy thủ ra lệnh cho tôi nằm yên hoàn toàn và nói rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ khỏe.
— Cậu không bị gãy cái xương nào. – Anh an ủi tôi – Cậu chỉ bị một cú đánh trúng đầu, nhưng không sao đâu. Chính tớ đánh đấy.
Tôi nằm ở đó cả ngày, bị canh phòng nghiêm ngặt như người tù. Nhưng tôi hồi phục dần dần và làm quen với những chiến hữu của mình. Họ từ nhiều nghề nghiệp khác nhau, được nhào nặn trên những mặt biển dã thú và các ông chủ của họ cũng không kém phần thô bạo và dã man hơn bản thân họ. Trong số họ có một số đã từng ở trên những tàu cướp biển và đã trải qua những việc mà chỉ nói tới người ta đã thấy xấu hổ rồi. Một số đã từng ở trong hải quân hoàng gia Anh. Họ sống với một cái thòng lọng vô hình ở cổ và không phải không biết điều đó. Tất cả họ là những con người thô bạo, như người ta thường nói, vừa mới là những người bạn tốt trong khoảnh khắc đã có thể cãi nhau gay gắt và thường gây ẩu đả.
Ở với họ còn chưa lâu, tôi đã thấy xấu hổ về những ấn tượng đầu
tiên của mình lúc ở trên bờ, lúc tôi muốn tránh xa họ như tránh những con thú dữ. Con người không bao giờ hoàn toàn tồi tệ, mỗi người đều có những tật xấu và tính tốt. Các bạn trên tàu của tôi cũng không nằm ở ngoại lệ, đúng họ là những con người thô bạo và một số trong đó thực sự là những kẻ xấu. Nhưng họ cũng có những tính tốt, khi vừa lòng họ có thể rất tốt bụng. Họ còn ngây thơ hơn cả tôi – một cậu bé nông dân ngây thơ – nhưng họ cũng bộc lộ những đặc điểm của tính chính trực.
Một người trong họ, tuổi khoảng bốn mươi, đã ngồi hàng giờ bên giường tôi, kể cho tôi nghe về vợ và con anh ta. Trước đây anh ta là dân đánh cá nhưng bị mất thuyền và phải đi ra biển. Bây giờ, đã nhiều năm trôi qua mà tôi không thể nào quên anh ta. Như anh ta kể, vợ anh ta trẻ hơn anh rất nhiều, đã chờ đợi từ không biết bao lâu rồi sự trở về của anh. Không bao giờ anh ta có thể nhóm lửa buổi sáng cho vợ hoặc chăm sóc con khi chúng ốm nữa.
Đúng vậy, rất nhiều trong những con người này trong thực tế đang đi chuyến đi biển cuối cùng của mình. Biển khơi và những con cá mập đang chờ họ và với tôi, nói về những điều xấu của người đã chết là một việc làm vô ơn.
Trong số những việc tốt họ đã làm với tôi, tôi phải kể thêm là họ đã trả lại tôi số tiền đã chia nhau trước đó. Thật ra thì thiếu mất một phần ba nhưng tôi rất sung sướng nhận lại và chờ đợi những điều kỳ diệu ở mảnh đất chúng tôi đang đi tới.
Con tàu đi Carolina và tôi nghĩ rằng mình không chỉ bị đày tới đó. Bây giờ việc buôn bán người đã bị bãi bỏ và sau những cuộc nổi dậy của các thuộc địa và sự thành lập Hợp chủng quốc, đã hoàn toàn chấm dứt. Nhưng khi đó, vào cái thời niên thiếu của tôi, cả những nô lệ da trắng cũng được bán cho các chủ đồn điền và đó là số mệnh mà ông bác đáng nguyền rủa đã giành cho tôi.
Cậu thủy thủ học nghề Ransome người đầu tiên kể cho tôi chút ít về
cái điều nhục nhã này, đôi lúc ra khỏi phòng nơi nó ngủ và hầu hạ các sĩ quan ở khoang trước. Đôi khi nó phải chăm sóc cái chân có tật trong niềm đau đớn câm lặng, lần khác thì cậu ta chửi rủa ông Shuans.
Tim tôi đau nhói khi nghe những lời kể lể đó, nhưng đám thủy thủ lại rất kính trọng tay đi biển có hạng này, gọi ông ta là thủy thủ thực sự độc nhất trong đội ăn cướp này. Và ông ta cũng không phải là kẻ tồi nhất, nếu không say.
Tôi phát hiện ra sự khác nhau kỳ lạ giữa hai sĩ quan trên tàu chúng tôi. Ngài Riach khi tỉnh thì không vui vẻ, hay buồn bực và thô bạo, còn ngài Shuans thì ruồi muỗi cũng không chịu nổi khi ông ta say. Tôi hỏi thuyền trưởng nghĩ gì về chuyện đó và họ nói với tôi là việc nhậu nhẹt chẳng là gì đối với bản chất sắt đá đó.
Trong thời gian ngắn ngủi ở đó, tôi đã cố hết sức biến cải cậu bé Ransome đáng thương thành một người đàn ông, hay đúng hơn một thanh niên đứng đắn. Nhưng trong đầu nó không phải hoàn toàn đâu vào đấy cả. Thí dụ cậu ta hoàn toàn không còn nhớ gì về quãng thời gian bắt đầu đi biển. Cậu ta chỉ nhớ bố chữa đồng hồ và trong nhà có một con sáo có thể hót bài Quê hương tôi ở miền Bắc. Những đòn tra tấn phải chịu đựng hàng năm trời và sự tàn bạo của những kè ăn hiếp nó đã làm tiêu tan mọi kỷ niệm cũ. Nó chỉ có những khái niệm kỳ lạ về đất liền do các thủy thủ kể cho nghe. Thí dụ, cậu ta tin là những thanh niên nông thôn bị ép thành một loại như nô lệ, gọi là “thủ công”, bị ném vào một nhà tù hôi thối, thường xuyên bị đánh đập, còn ở thành phố thì cứ hai người có một tên khiêu khích và cứ ba nhà thì có một cạm bẫy mà ở đó thủy thủ bị bỏ thuốc mê và giết hại.
Tất nhiên tôi kể cho cậu ta biết con người ở đất liền, vùng đất mà nó sợ, dễ thương như thế nào, bố mẹ, người thân nuôi và giáo dục tôi chu đáo như thế nào.
Mỏi lần bị đối xử tàn nhẫn, cậu ta khóc lóc thảm khốc và thề sẽ đi khỏi đây. Nhưng ngay sau khi nhận được ly rượu mạnh ở quán của sĩ
quan, nó lại sa vào tính tự mãn quá đáng hoặc nghiêm trọng hơn, lại chế giễu sự khuyên bảo của tôi.
Ngài Riach, cầu trời tha thứ cho ông ta – là người thường cho cậu bé uống rượu. Ông ta cho rằng điều đó tốt mà không tính đến việc đó sẽ chôn vùi sức khỏe của cậu ta. Thật đáng thương khi nhìn cậu bé bất hạnh, bị tất cả mọi người coi thường đi loạng choạng, chân nọ đá chân kia và nói những lời ngu ngốc. Một số thủy thủ cười cậu ta, những người khác nét mặt tối sầm – Có lẽ họ nghĩ đến thời trẻ của bản thân mình hoặc nghĩ đến con cái ở nhà – và ra nghiêm lệnh cho cậu ta chấm dứt những trò ngu ngốc và xem lại mình đang làm gì vậy. Bản thân tôi thấy xấu hổ khi nhìn cậu ta và ngay cả bây giờ thỉnh thoảng cậu ta lại xuất hiện trong những giấc chiêm bao đáng sợ của tôi.
Cần phải nói thêm là suốt thời gian đó tàu Covenant phải chiến đấu với gió ngược chiều và bị sóng lớn xô qua xô lại. Các cửa sổ trên khoang trước hầu như thường xuyên đóng chặt, khoảng không gian chỉ được chiếu sáng mờ mờ bằng một ngọn đèn chao đảo, treo ở cột sàn tàu. Thủy thủ phải làm việc liên tục vì buồm phải căng ra hoặc gập lại theo từng giờ. Những lúc đó đám đàn ông này trở nên mệt mỏi và khó chịu, những cuộc cãi vã và ẩu đả từ giường nọ đến giường kia kéo dài suốt ngày, không có tận cùng. Người ta cấm tôi bước chân ra sàn tàu. Bạn đọc có thể tưởng tượng được tôi thấy cuộc sống này vô vị và nóng lòng mong ước một sự thay đổi như thế nào.
Sự thay đổi đó không phải chờ đợi lâu và bạn đọc sẽ được biết nó diễn ra như thế nào. Nhưng trước đó tôi muốn kể về một buổi nói chuyện của tôi với ngài Riach, đã giúp tôi tiếp tục chịu đựng số mệnh này.
Tôi chọn thời điểm thuận lợi khi ông ta bắt đầu say, bởi vì khi tỉnh ông ta không quan tâm đến tôi. Sau khi ông ta hứa giữ kín câu chuyện, tôi đã kể cho ông ta nghe về tôi. – Toàn bộ câu chuyện có vẻ như một chuyện cổ tích – ông ta nói và hứa sẽ làm tất cả những gì có
thể để giúp tôi. Ông ta sẽ kiếm giấy, bút và mực, còn tôi thì cần viết một vài dòng cho ông Campbell và cả ông Ramkeillor. Nếu tôi đã kể sự thật, ông ta nói, ông ta có thể cá mười lấy một là với sự hỗ trợ của hai người đàn ông kia. Tôi sẽ lấy lại tự do và quyền lợi của mình.
Trong khi chờ đợi, – ông động viên tôi – Cậu không được để mất lòng dũng cảm. Không phải chỉ có mình cậu như vậy, điều này cậu cần biết rõ. Một số người đang phải chặt thuốc lá ở hải ngoại trong khi ở nhà họ có ngựa riêng để cưỡi. Rất nhiều, rất nhiều người như vậy. Trong trường hợp thuận lợi nhất, cuộc sống của con người cũng không khác hơn trò lắc con xúc xắc. Nhìn tôi đây này: tôi là con một quan chức Scot và gần như một bác sĩ nhưng tôi phải nhảy múa theo tiếng còi của Hoseason.
Tôi nghĩ rằng sẽ là một chuyện lịch sử nếu biết về cuộc sống của ông.
Ông rít qua kẽ răng:
— Chưa bao giờ có cuộc sống cả. Tôi muốn sống qua một cái gì đó. Ngoài ra không có gì cả.
Và ông đi khỏi bằng những bước nhảy ngắn.
Chương 8:
TÔI CHUYỂN SANG PHÒNG NGỦ
Vào một buổi tối, khoảng mười một giờ, có một người trong tốp trực của ngài Riach từ boong tàu đi xuống dưới để lấy áo khoác. Liền sau đó có tiếng thì thầm ở khoang trước: “Ngài Shuan đã cho hắn phần còn lại”. Tất cả chúng tôi đều biết họ nói về ai, nhưng hầu như không có thì giờ để xem tin đồn có đúng không và hãy cẩn thận khi nói về chuyện đó, lúc đó cửa tròn mở thuyền trưởng leo thang xuống. Ông ta tìm kiếm trong ánh đèn đầu chao đảo ở các giường, sau đó đi thẳng đến chỗ tôi.
— Cậu bé, tôi muốn cậu phục vụ chúng tôi trong phòng ngủ. – Ông ta nói thân mật trước sự ngạc nhiên của tôi – Cậu sẽ đổi giường cho Ransome. Làm sao để sau tám giờ cậu có mặt.
Ngay khi ông còn đang nói, xuất hiện hai thủy thủ ở cửa tròn, mang Ransome trên tay. Khi con tàu nghiêng về một bên do biển động, ánh sáng chiếc đèn đầu chao đảo chiếu vào mặt cậu bé. Trông nó nhợt nhạt, nét mặt mang nụ cười điên dại. Máu trong người tôi muốn ngừng chảy. Tôi nín thở tưởng như vừa bị một đòn bất chợt.
— Hãy chạy đi, chạy đi, làm sao đến sau tám giờ – Hoseason gầm lên.
Tôi len qua hai thủy thủ mang Ransome. Họ đứng như trời trồng, không nói một lời. Tôi vội vã leo thang lên phía trên.
Con tàu buồm trườn lên và lăn trong một đường biển dài đầy bọt hướng nhanh về phía trước, chao đảo sang phải, sang trái. Qua chân của buồm mũi, tôi có thể nhìn thấy một mặt trời dễ thương đang lặn. Cái màn kịch của tự nhiên vào buổi chiều tà làm tôi ngạc nhiên, nhưng tôi còn quan sát non nớt để rút ra kết luận đúng đắn, cụ thể là hiện nay chúng tôi đang chạy lên phía Bắc, vòng quanh Scotland và
chúng tôi đang ở biển lớn giữa đao Orkney và Shetland sau khi đã tránh được dòng hải lưu nguy hiểm Pentland Firth.
Tôi, vì đã ngồi quá lâu trong bóng tối, không biết rằng luồng gió ngược chiều và cho rằng chúng tôi đã vượt hơn nửa dại dương. Nếu tôi có ngạc nhiên chút ít về mặt trời tà, tôi cũng không nghĩ kỹ về chuyện đó mà vội vã lên boong tàu. Để chống lại biển động, tôi bám chặt vào đầu sợi dây căng buồm, nhưng cuối cùng cũng phải bám theo một thủy thủ, người luôn tử tế với tôi, để qua boong.
Cái phòng ở mà tôi đang tới từ nay phải sống và ngủ trong đó, nhô lên khỏi boong khoảng sáu foot4, so với độ lớn của tàu buồm thì nó khá rộng. Một chiếc bàn và một chiếc ghế băng được gắn chặt vào nền, ngoài ra có hai cái giường: một cho thuyền trưởng, một cho hai sĩ quan sử dụng theo ca của họ. Sát tường là những chiếc tủ, một phần dự trữ cho tàu nằm trong đó. Bên dưới phòng có một kho khác, có lối đi qua cửa tròn giữa boong, ở đó chứa các loại thịt rượu ngon nhất và toàn bộ thuốc súng. Tất cả súng ống, không kể hai khẩu súng đồng, được đặt trên giá sát tường hậu trong phòng. Đại bộ phận gươm được để ở một chỗ khác. Những cửa sổ nhỏ đóng bằng lá sách bố trí ở hai bên và một lỗ sáng ở trần cho ánh sáng mặt trời vào phòng. Khi trời tối người ta luôn đốt một ngọn đèn trong phòng. Bây giờ, khi tôi bước vào, ngọn đèn vẫn đang cháy tuy không sáng lắm nhưng tôi có thể nhận ra ông Shuan ngồi sau bàn với một chai rượu mạnh và một cái cốc bằng thiếc. Ông ta to lớn, khỏe mạnh, tóc đen nhánh. Ông ta đang nhìn trơ trơ vào mặt bàn, hoàn toàn không quan tâm đến chuyện tôi vào phòng, cũng không cử động khi thuyền trưởng bước vào, ngồi xuống giường cạnh tôi với bộ mặt tối sầm.
Nói chung, tôi rất sợ Hoseason và có lý do về việc đó, nhưng cái gì đó nói với tôi là bây giờ tôi không phải sợ ông ta nữa. Vì vậy tôi hỏi thầm ông ta:
— Cậu ta thế nào rồi?
Ông ta lắc đầu cứ như ông ta không biết gì hoặc không muốn nhớ lại chuyện đó. Mặt ông ta rất nghiêm trang.
Ngay sau đó ngài Riach tới. Ông ta nhìn thuyền trưởng, cái nhìn cho ta thấy rõ ràng hơn là lời nói rằng cậu bé đã chết. Người sĩ quan thứ nhì tìm một chỗ và cả ba chúng tôi đứng yên lặng ở đó và nhìn chằm chằm vào ông Shuan, vẫn luôn ngồi đó không nói một lời và nhìn trân trân về phía trước.
Đột nhiên ông ta đưa tay lấy chai rượu. Cùng lúc đó ông Riach bước tới sát ông ta, giật chai rượu khỏi tay. Điều đó ông ta làm nhờ bất ngờ hơn là dùng sức, chửi một câu nặng nề và hét lên rằng đã có quá nhiều điều thối nát, chắc chắn con tàu sẽ lãnh đủ.
Trong khi nói điều đó ông Riach ném cái chai qua cửa ra biển.
Liền đó ngài Riach đứng vụt dậy, trông ông ta còn luống cuống nhưng quyết tâm đi tới một vụ giết người. Có lẽ ông ta đã làm việc đó lần thứ hai trong ngày nếu viên thuyền trưởng không xuất hiện.
— Anh hãy ngồi xuống – ông ta gào lên – Anh là một thằng say, một con lợn! Anh có biết anh vừa làm gì không? Anh đã đánh chết thằng bé!
Có lẽ ngài Shuan đã hiểu câu nói vì ông ta đã ngồi xuống và lấy tay vuốt trán:
— Vâng. – Ông ta nói – Nó đã đưa cho tôi một cái ly bẩn.
Khi nghe những lời ấy, ba chúng tôi – Viên thuyền trưởng, ngài Riach và tôi – sợ hãi nhìn nhau. Sau đó Hoseason đi tới thủy thủ số một của ông ta, hắn nắm lấy vai và đưa ông ta về giường. Hắn yêu cầu Shuan nằm xuống ngủ bằng một giọng như là người ta nói với một đứa trẻ ngang bướng. Kẻ giết người khóc một chút, nhưng rồi nghe lời, tháo ủng ra.
— Ô, – Ngài Riach kêu lên giọng đe dọa – Đáng lẽ Ngài phải can thiệp từ lâu rồi. Bây giờ thì đã muộn.
— Ngài Riach – Viên thuyền trưởng nói – Những gì xảy ra ở đây tối hôm nay không ai ở Dycart được biết, cần phải nói là thằng bé trượt chân rơi xuống biển. Và tôi sẵn sàng bỏ ra năm bảng từ túi mình để cược rằng đúng như vậy.
Sau đó ông ta quay lại bàn:
— Ngài nghĩ gì mà lãng phí chai rượu ngon như vậy? – Ông ta nói tiếp – Điều đó vô nghĩa. Này David, lấy cho tôi một chai khác bên dưới tủ ấy. – Và ông ném cho tôi một chùm chìa khóa. Quay lại Riach, ông ta nói:
— Ngài cũng nên dùng một ly. Câu chuyện này thật là dễ sợ.
Cá hai ngồi xuống và bắt đầu nói nhỏ với nhau. Trong khi đó, kẻ giết người đang nằm rên rỉ trên giường, rồi ngẩng đầu dậy, chống tay lên giường, đầu tiên nhìn tôi sau đó nhìn hai người.
Buổi tối đầu tiên với nghĩa vụ mới của tôi bắt đầu như vậy, những ngày sau đó tôi dần dần quen di. Tôi phải phục vụ bữa ăn của thuyền trưởng và các sĩ quan không phải trực vào những giờ nhất định. Từ sáng đến tối tôi phải chạy đi, chạy lại, với một cốc rượu mạnh trên tay chạy theo từng người trong ba lãnh chúa của tôi. Đêm đến, quấn trong một chiếc chăn, tôi nằm ngủ trên nền nhà giữa cửa ra vào và góc ngoài cùng của phòng, chỗ dễ tới nhất. Chỗ của tôi lạnh và cóng, tôi không thế ngủ ngon được vì luôn luôn có người ra vào để nốc một hớp rượu mạnh và khi đổi kíp trực, những kẻ hết phiên ngồi thành hai hoặc ba nhóm và nhậu. Làm sao trong cuộc sống thế này mà vẫn còn khỏe mạnh, điều này tôi không hiểu được cũng như không hiểu được chính mình.
Và tuy vậy, về một mặt khác, đó là một công việc nhẹ nhàng. Không cần trải khăn bàn, và bữa ăn chỉ là bột lúa mạch hoặc thịt cừu. Chỉ hai lần trong tuần có bánh bao và mặc dù tôi còn chưa quen, chưa có đôi chân của thủy thủ, nhiều lần phải bò trên sàn cùng với khay thức ăn, nhưng cả ngài Riach lẫn thuyền trưởng đều thông cảm với tôi. Tôi đã
nghĩ rằng lương tâm họ cắn rứt và muốn yên ổn trong lòng. Chắc chắn không khi nào họ đối xử tốt với tôi như vậy nếu trước đó họ không tra tấn Ransome tồi tệ như thế.
Còn ngài Shuan, rõ ràng rượu và tội ác đã làm tối tăm lý trí của ông ta. Tôi không thể nói đã có lần nào thấy ông ta hoàn toàn tỉnh táo chưa. Ông ta cũng không bao giờ quen với sự có mặt của tôi. Đôi lúc ông ta nhìn tôi chằm chằm và tôi thấy hình như cái nhìn đầy sợ hãi và không chỉ một lần ông ta đã sợ rúm lại khi tôi mang đồ ăn đến. Ngay từ đầu tôi đã biết rằng ông ta không rút ra được điều gì đúng đắn từ những việc đã làm. Điều phỏng đoán đó đã được xác nhận trong ngày hầu hạ thứ hai của tôi. Trong phòng chỉ có hai chúng tôi và ông ta đã nhìn tôi rất lâu. Đột nhiên ông ta nhảy lên, mặt trắng như xác chết, đi đến gần tôi trong khi tôi đang khiếp sợ. Nhưng rồi tôi nhận ra không có lý do gì để sợ cả.
— Trước đây mày không ở đây phải không? – ông ta hỏi. — Không, thưa ngài – Tôi đáp.
— Lúc đó là một cậu bé khác phải không? – ông ta tiếp tục hỏi – Ông ta lại hỏi một lần nữa và khi tôi nói rõ tất cả, ông ta nói:
— Ồ, tao cũng nghĩ đến chuyện đó.
Sau đó ông ta về lại chỗ ngồi, không nói thêm một lời mà chỉ yêu cầu rượu mạnh. Có thể bạn đọc ngạc nhiên nhưng mặc dù sợ ngài Shuan, tôi thấy thương hại ông ta. Ông ta có vợ, bà ấy sống ở Leith. Tôi không biết ông ta có con không. Hy vọng là không có. Về đại thể cuộc sống của tôi chừng nào còn như thế này thì cũng không quá tồi tệ. Tôi được ăn ngon như các sĩ quan, thậm chí được ăn cả dưa chuột và hành muối là những món được coi là cao cấp. Tôi cũng có thể liên tục uống say như ngài Shuan, nếu tôi muốn. Tôi cũng có dịp đàm thoại và cũng không đến nỗi tồi, bởi vì ngài Riach, đã được học ở trường cao hơn, luôn nói chuyện với tôi như một người bạn nếu ông không quá say. Ông đã kể cho tôi nghe nhiều điều kỳ lạ, phần lớn rất
bổ ích. Thậm chí viên thuyền trưởng, người luôn luôn tránh một sự tín nhiệm, thỉnh thoảng cũng thích nói chuyện với tôi và tả cho tôi những đất nước tươi đẹp mà ông ta có dịp tìm hiểu trong các chuyến đi đó.
Tất nhiên cả bốn chúng tôi vẫn không quên được cái bóng đen Ransome, gánh nặng đó đặc biệt đè lên ngài Shuan và tôi. Nhưng tôi còn có một nỗi buồn khác: Tôi phải thực hiện những công việc đen tối cho ba người đàn ông mà tôi căm ghét, trong đó ít nhất một người đáng treo cổ. Đó là những vấn đề tôi quan tâm, còn về tương lai? Chắc chắn tôi sẽ thành người đồng cảnh với những nô lệ da đen trên các đồn điền thuốc lá. Ngài Riach không bao giờ còn lắng nghe tôi kể về đời mình nữa, có lẽ do thận trọng. Khi tôi muốn tâm sự với viên thuyền trưởng, ông ta hét to lên và không muốn nghe dù chỉ một lời về chuyện đó. Ngày lại ngày, trái tim tôi thêm nặng nề, cho tới khi tôi thấy sung sướng được làm việc để khỏi phải nghĩ ngợi.
Chương 9:
NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ DÂY LƯNG BẰNG VÀNG
Hơn một tuần đã trôi qua và số phận hẩm hiu mà con tàu Covenant theo đuổi trong chuyến này chẳng những không kết thúc mà luôn luôn trầm trọng hơn. Vào một vài ngày, chúng tôi tiến nhanh về phía trước, ở những ngày khác, chúng tôi bị đẩy lùi lại theo đúng nghĩa đen. Cuối cùng chúng tôi bị trồi dạt về phía Nam xa đến mức cả ngày thứ chín chúng tôi phải trở buồm một cách tuyệt vọng do nguy cơ bị đẩy vào bờ biển đầy đá nhọn hai bên ở mũi Wrath và bị đẩy đi đẩy lại.
Sau đó giữa ba người sĩ quan có cuộc bàn luận và đi đến quyết định mà tôi không thế hiểu rõ mà chỉ biết kết quả của nó mà thôi: chúng tôi biến gió chướng thành gió thuận và bây giờ quay mũi về phía Nam.
Buổi chiều ngày thứ mười biển đục đi và một làn sương mù dày đặc bao phủ con tàu. Suốt buổi chiều, mỗi khi ra boong, tôi đều thấy các sĩ quan và thủy thủ cúi người qua lan can và nghe ngóng dưới biển “tìm kẻ phá hoại”, như họ nói, và mặc dù không hiểu chữ đó, tôi cũng cảm thấy một nguy cơ và cũng hồi hộp.
Lúc đó có lẽ khoảng mười giờ đêm, tôi vừa mang cho ngài Riach và thuyền trưởng bữa ăn tối thì có một tiếng động kinh khủng. Con tàu đâm vào một cái gì đó. Liền đó có tiếng hét ở bên ngoài và hai người nhảy bổ đứng lên.
— Chúng ta mắc cạn – Ngài Riach kêu lên.
— Không phải, thưa ngài – Thuyền trưởng nói – Chúng ta đâm vào một con thuyền.
Và họ vội vã chạy ra.
Viên thuyền trưởng có lý. Trong sương mù, chúng tôi đã đâm vào một con thuyền, đâm thẳng vào chính giữa, nhận chìm tất cả chỉ còn sót lại một người và sau này tôi biết là một hành khách trên thuyền. Lúc đó anh ta ngồi ở đuôi thuyền, còn những người khác thì chèo. Khi bị đâm, phần đuôi thuyền bị bắn lên cao và người đàn ông này tay không phải làm gì, chỉ mặc một áo khoác đến gần đầu gối, tuy cổ bị vướng chút ít, đã bám chặt vào thanh dầm giữ buồm của tàu chúng tôi. Điều đó chứng tỏ anh ta gặp may, nhưng cũng phải nói anh ta là một người khỏe mạnh nhanh nhẹn, nếu không, trong hoàn cảnh như vậy không thể hành động gì được. Ngoài ra, khi được thuyền trưởng đưa vào trong phòng, trông anh ta cũng lạnh lùng và lãnh đạm như tôi.
Anh ta nhỏ và cao nhưng đầy đặn và nhanh nhẹn như một con sơn dương, bộ mặt bắt nắng màu nâu của mùa hè với rất nhiều nốt rỗ hoa gây ấn tượng đáng mến. Đôi mắt anh ta sáng đặc biệt, ánh lên nhiệt tình hoạt động vừa lôi cuốn vừa làm người khác sợ. Khi cởi áo khoác ra, anh ta đặt vài khẩu súng lục mạ bạc lên bàn và tôi thấy anh đeo một thanh gươm dài. Cách cư xử của anh hình như tạo cho viên thuyền trưởng sự tin cậy. Và đại thể tôi có cảm giác là kết bạn với con người này chỉ có lợi mà thôi.
Viên thuyền trưởng cũng quan sát nhưng chủ yếu vào quần áo người lạ hơn là vào bản thân anh. Đúng vậy, khi cởi áo khoác ra, đứng trong ca-bin một tàu buồm, trông anh ta quá sang trọng với cái mũ lông chim, áo gi-lê đỏ, quần nhung đen, áo màu xanh có những cúc bạc lấp lánh. Đó là những quần áo đắt tiền mặc dù hình như anh ta mặc cả lúc đi ngủ và bị sương gió làm bạc màu chút ít.
— Tôi lấy làm tiếc về vụ va chạm với thuyền của ngài. – Viên thuyền trướng nói.
— Trên thuyền có một số cậu rất cừ, – Người lạ mặt nói – những người đàn ông mà tôi sẵn sàng đánh đổi bằng mười chiếc thuyền như
vậy. Khi ở trên bờ tôi đã biết rõ điều đó.
— Đó là những người bạn của ngài? – Hoseason hỏi.
— Những người bạn như thế không có ở nước ngài đâu. – Đó là câu trả lời – Mỗi người trong họ sẵn sàng chết vì tôi như một con chó trung thành.
— Bây giờ, – viên thuyền trưởng nói, vẫn luôn quan sát người lạ mặt – trên thế giới có nhiều người hơn là nhiều thuyền để đánh đổi họ.
— Đúng vậy. – Người lạ mặt nói – Ngài có vẻ rất am hiểu.
— Tôi đã ở Pháp. – Viên thuyền trưởng nói, và rõ ràng qua đó ông ta muốn nói nhiều hơn là những từ đơn thuần đó.
— Tốt đẹp thôi, thưa ngài. Nhưng ngài không phải là người độc nhất được phép nói điều đó. Một số người khác có thể tự hào về chuyện này.
— Đúng và cũng không nghi ngờ gì về quần áo sang trọng của họ.
— Ồ, – Người lạ mặt kêu lên – Té ra là như vậy. – Và anh chụp lấy súng lục của mình rất nhanh.
— Không nên vội vã như vậy, thưa ngài. – Viên thuyền trưởng nhấn mạnh – Đừng làm điều gì lộn xộn khi nào chưa cần. Ngài mang trên mình chiếc áo của người lính Pháp, nhưng trong miệng ngài là một cái lưỡi Scot, điều đó là chắc chắn. Như vậy đấy. Ngày nay những chuyện như vậy có ở thanh niên đứng đắn, cho nên người ta không nghĩ xấu về họ.
— Như vậy, ngài thuộc phe đứng đắn? – Người lạ mặt trong chiếc áo sang trọng hỏi. Qua đó anh ta ám chỉ những người Jakobit5. Trong tranh chấp chính trị mỗi phe đều đòi hỏi sự hợp pháp cho mình.
— Không, lạy trời, thưa Ngài. Tôi là một kẻ phản đối đúng màu sắc. Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy một vài lời về tôn giáo của
Hoseason, nhưng sau này tôi hiểu rằng ở trên đất liền ông ta là người chăm chỉ đi nhà thờ. Ông ta nói tiếp:
— Vì vậy, thật là đáng tiếc với tôi nếu một người đó bị đẩy vào ngõ cụt.
— Đúng vậy, phải không? – Người Jakobit hỏi – Bây giờ tôi không muốn giấu làm gì. Tôi thuộc những người lương thiện gặp khó khăn vào những năm 45-46 và nói rõ hơn thì, nếu tôi rơi vào tay bọn cầm quyền áo đỏ, chắc chắn số mệnh tôi sẽ đen tối. Thưa Ngài, tôi đang trên đường đi Pháp. Một chiếc tàu Pháp đang đi lại ở đây và sẽ đón tôi lên. Nhưng chúng tôi đã bị lạc trong sương mù. Với tất cả tấm lòng tôi hy vọng Ngài cũng làm như vậy. Tôi chỉ có thể nói là tốt nhất là Ngài thả tôi xuống đất liền ở chỗ nào tôi muốn. Tôi có đủ tiền trong người để bù đắp công lao của Ngài.
— Ngài muốn tới Pháp? Không, tôi không thể đem Ngài tới đó mà tốt hơn là đem Ngài về nơi Ngài đã ra đi. Chỉ có thể nói vậy…
Thật rủi ro ông ta phát hiện ra tôi ở một góc phòng, lập tức bảo tôi tới nhà bếp chuẩn bị cho Ngài lạ mặt bữa ăn tối. Có thể nói tôi đã đi vội vã và khi quay lại phòng tôi vừa kịp nhìn thấy người lạ mặt cởi dây lưng, trong đó anh cất tiền và ném một vài đồng tiền vàng lên bàn. Đầu tiên viên thuyền trưởng nhìn những đồng tiền vàng, sau đó nhìn cái đai lưng, rồi ngẩng lên nhìn vào mặt người khách, ông ta có vẻ xúc động:
— Trả một nửa số đó thì ngài có thể được như mong muốn.– Ông ta kêu lên.
Người kia thu lại những đồng tiền vàng và buộc đai lưng vào người, bên dưới áo gi-lê.
— Tôi đã nói với ngài rằng tôi không có một đồng cắc nào trong đó cả. Đó là tài sản của lãnh tụ Đảng tôi. Đó sẽ là một kẻ thừa hành tồi tệ nếu không biết dùng một phần trong đó để cứu phần chính của số
tiền, nhưng tôi sẽ là một tên đểu cáng, đê tiện nếu mua chuộc thân thể mình quá đắt bằng số tiền đó. Ba mươi bảng, nếu ngài cho tôi lên bờ biển và sáu mươi bảng, nếu ngài cho tôi xuống Lod Linnhe. Hãy nói đi nếu ngài đồng ý, còn không thì ngài cứ việc làm điều ngài muốn.
— Được rồi, – Hoseason nói – nhưng nếu tôi nộp ngài cho tụi Áo đỏ?
— Ngài chỉ thua thiệt mà thôi. – Người lạ mặt nói – “Xếp” của tôi tự do như chim, giống bất cứ người tử tế nào ở Scotland. Tài sản của ông ta nằm trong tay một người được gọi là vua George – Các quan chức triều đình thu tô hoặc làm như vậy. Nhưng mà, vì danh dự của những người tá điền ở Scotland tôi phải nói rằng: họ không bao giờ quên những điền chủ của họ đã bị đày đi biệt xứ. Số tiền tôi đang giữ là một phần tô mà vua George đang mòn mỏi trông đợi. Các ngài thấy đấy, các ngài có thể đếm đến năm. Nếu nộp cho chính phủ số tiền này, các ngài còn gì?
— Thôi đủ rồi – Hoseason nói và bổ sung – Nếu họ biết chút ít về chuyện này! Nhưng tôi nghĩ rằng, nếu tôi cố gắng, tôi có thể giữ mồm, giữ miệng được.
— Nhưng tôi phải nói rõ, anh bạn ạ – Người lạ mặt nói lớn – Nếu ngài chơi bài lừa với tôi, ngài sẽ nhận một cái gì đó. Hiểu rõ tôi, những người đứng đắn sẽ biết được tiền của họ đã được sử dụng vào việc gì.
— Thôi được – Hoseason nói – Ta thỏa thuận như vậy. Hãy đưa cho tôi sáu mươi bảng. Đây, xin ngài bắt tay tôi.
— Được, tôi đồng ý. – Người lạ mặt trả lời.
Sau đó viên thuyền trưởng rời phòng, có cảm giác hơi vội vã, và chỉ còn mình tôi với người lạ mặt.
Khi đó, sau năm 45, rất nhiều quý tộc Scot đang trong mối nguy hiểm chết người, từ nơi đày ải đã quay về Scotland hoặc để tìm bạn bè
hoặc để rút tiền.
Các lãnh chúa vùng cao nguyên, những người thường cho rằng mình tự do như chim, thường nói với nhau rằng tá điền của họ đang nhịn đói để có thể lấy tiền cho họ. Những người trong phe của họ chống lại đội quân thu tô và bất chấp nguy hiểm liều lĩnh luồn lách giữa các tàu của hạm đội hoàng gia để đem các món tiền thu được ra nước ngoài.
Tất nhiên những chuyện đó tôi chỉ được nghe, còn bây giờ một người như vậy đang ở trước mặt tôi, và lý do đó cuộc sống của anh coi như đã thất bại vì anh là một người nổi loạn, một kẻ buôn lậu đã mang địa tô ra nước ngoài. Chưa đủ, anh ta còn phục vụ vua Ludwing của Pháp. Và hơn nữa, anh ta còn mang trong người một đai lưng khâu đầy những đồng tiền vàng. Dù quan điểm chính trị của mình như thế nào, tôi cũng không thể dửng dưng nhìn người đó.
— Ngài là một người Jakobit? – Tôi hỏi trong lúc đặt món ăn có thịt trước mặt anh ta.
— Đúng. – Anh ta nói và bắt đầu ăn. – Còn cậu, theo cái cách cậu kéo dài bộ mặt, cậu thuộc Đảng Whig phải không?
— Nửa nọ, nửa kia. – Tôi đáp, không phải chỉ để kích thích anh ta. Không. Thực tế là ngài Campbell đã tìm cách biến tôi thành một thành viên của Đảng Whig.
— Tiếc là không phải cá, không phải thịt. – Người lạ mặt nói khôi hài – Nhưng hãy nghe đây, thưa Ngài “nửa nọ nửa kia”. Chai này đã cạn rồi. Thật là quá nếu khi phải nhả ra sáu mươi bảng mà phải ngồi khô héo ở đây.
— Để tôi đi lấy chìa khóa. – Tôi nói và bước ra boong.
Sương mù vẫn dày đặc nhưng sóng đã dịu đi. Con tàu đã quay mũi vì không ai biết lúc đó chúng tôi đang ở đâu. Và gió – nếu có thổi chút nào – cũng không thể đưa chúng tôi về đúng hải trình. Một số thủy
thủ vẫn còn đứng ở lan can và nghe ngóng xem có sóng ngầm không, ở giữa boong, viên thuyền trưởng và hai sĩ quan đang chụm đầu bàn luận. Tôi không biết vì sao, nhưng có cảm giác là họ đang định làm một cái gì xấu xa. Khi tôi lẻn đến gần, những lời đầu tiên nghe được đã xác nhận điều dự đoán.
Theo một ý nghĩ bất chợt nào dó, ngài Riach vừa nói to lên một chút:
— Liệu ta có thể nhử hắn ra khỏi phòng?
— Tốt nhất là để hắn yên ở chỗ hiện nay – Hoseason nhắc – Trong một phòng nhỏ, thanh kiếm không giúp gì cho hắn.
— Đúng như vậy. – Riach nói – Nhưng khó mà đến gần hắn.
— Ồ, vô nghĩa! – Hoseason nói – Chúng ta sẽ kéo hắn vào một câu chuyện, lặng lẽ đến gần và ôm chặt lấy hắn, hoặc tốt hơn nữa, chúng ta vào từ hai cửa đi thẳng vào hắn. Trước khi hắn có thể bắn vào chúng ta, chúng ta đã trói hắn rồi.
Khí nghe được điều này, tôi vừa sợ vừa căm giận những tên dã thú, phản bội và khát máu mà tôi phải cùng đi biển này. Ý nghĩ đầu tiên đã biến mất, ý nghĩ sau đỡ hèn nhát hơn.
— Thuyền trưởng! – Tôi nói – Ông khách lạ muốn uống rượu nhiều hơn nữa nhưng chai đã cạn rồi. Liệu tôi có thể lấy chìa khóa không?
Cả ba đều giật mình lo sợ.
— Tuyệt vời! – Ngài Riach, người đầu tiên bình tĩnh trở lại kêu to – Bây giờ chúng ta có một khả năng đến gần chỗ để súng đạn. David, nghe đây! Cậu biết súng lục để ở chỗ nào chứ?
— Đúng, đúng. – Hoseason chen vào – David biết mà, cậu ta là một chú bé tuyệt vời. David, cậu thấy không, tên cao nguyên này là một hiểm họa cho con tàu, ngoài ra hắn là kẻ thù của nhà vua, người mà Thượng đế muốn phù hộ.
Kể từ khi tôi ở trên tàu, chưa bao giờ họ gọi tôi bằng tên thân mật “David” cả. Nhưng tôi làm như tất cả những gì họ nói đều đúng tất.
— Điều ngu xuẩn là – Hoseason nói tiếp – Tất cả súng đạn đều ở phòng trong, ngay trước mũi tên lạ mặt này và cả thuốc súng cũng được cất ở đó. Nếu tôi hoặc một sĩ quan nào vào lấy những thứ đó sẽ lộ mất. Nhưng nếu một cậu bé như cậu, David ạ, thì có thể lấy một gói thuốc súng hoặc hai khẩu súng lục mà không làm hắn để ý. Nếu cậu làm việc này trôi chảy, David, tôi sẽ không quên cậu. Nếu sau này, ở Carolina, cần một người bạn thì…
Ngài Riach ngắt lời Hoseason, nói thầm gì đó với ông ta.
— Ngài có lý, thưa Ngài. – Viên thuyền trưởng nói, sau đó quay về phía tôi:
— David, cậu thấy đó. Người đàn ông có một đai lưng đầy tiền vàng – Tôi hứa với cậu là cậu không ra đi tay không.
Tôi hứa sẽ làm đúng điều ông ta muốn. Lúc đó cổ tôi như bị nghẹn, nói không ra lời. Ông ta trao chìa khóa cho tôi để mở tủ rượu và tôi bước chậm chạp về phòng. Tôi phải làm gì đây? Bọn họ là lũ trộm cướp. Họ đã lôi tôi biệt xứ sở, bọn họ đã giết cậu bé Ransome tội nghiệp, và bây giờ muốn tôi giúp vào một vụ giết người khác. Mặt khác, tôi sợ như chết. Liệu một cậu bé còn chưa trưởng thành và một người đàn ông, ngay cả khi họ có lòng dũng cảm của sư tử, có thể làm gì đó để chống lại toàn đội trên tàu không?
Tôi vẫn đang nghĩ đi nghĩ lại khi bước vào phòng và nhìn thấy người đàn ông ngồi bên bàn, dưới ngọn đèn, đang ăn bữa tối một cách bình yên. Lúc đó quyết định của tôi bỗng nhiên chắc chắn. Không suy nghĩ, tôi đi đến chỗ anh ta, đặt tay lên vai anh ta và hỏi thẳng:
— Anh có muốn bị giết không?
Anh ta vụt đứng dậy, một câu hỏi hiện lên trong mắt anh ta rõ ràng
và cụ thể như được nói bằng lời.
— Ồ, – Tôi kêu lên – tất cả bọn trên tàu là tụi giết người, trên tàu đầy bọn chúng. Chúng vừa giết một cậu bé học việc, bây giờ đến lượt anh.
— Có thể như vậy, – Anh nói – nhưng chúng chưa làm gì tôi. Sau đó anh nhìn tôi bằng con mắt dò hỏi, kỳ lạ:
— Cậu đứng bên tôi chứ?
— Tôi muốn vậy. Tôi không phải là một tên ăn trộm hay giết người. Tôi sẽ cùng với anh.
— Được rồi. Cậu tên gì?
Tôi trả lời:
— David Balfour. – Sau đó nói thêm – Từ ngôi nhà của họ Shaws. Vì tôi cho rằng một người ăn mặc sang trọng như anh phải có cái gì đó của người sang trọng.
Anh có vẻ không nghi ngờ gì lời nói của tôi, bởi vì người cao nguyên thường gặp gỡ những quý tộc thất thế. Nhưng vì bản thân anh ta không có tài sản nên câu nói của tôi chỉ gợi trong anh ta một sự kêu ngạo ngây thơ.
— Tên tôi là Stuart, – Anh nói và nhìn tôi – được gọi là Alan Breck. Tên của Vua là đủ cho tôi rồi.
Sau khi chấn chỉnh tôi bằng cách đó, có lẽ thời cơ không thể trì hoãn nữa, anh nghiên cứu ngay khả năng tự vệ của chúng tôi.
Căn phòng được lắp khá chắc chắn để chống lại sóng gió. Trong năm lỗ hở chỉ có lỗ chiếu sáng trên đầu và hai cửa ra vào đủ rộng đế cho người đi qua cửa có thể đóng lại, cánh cửa làm bằng những tấm gỗ sồi dày, trượt trên ray và có móc sắt để khi cần có thể đóng lại hoặc giữ cửa mở. Một cửa đã được đóng và tôi chốt chặt lại bằng cách nói trên. Khi tôi muốn làm tiếp cửa kia, Alan Brock đã giữ tôi lại:
— David, – Anh ta bắt đầu nói, rồi ngừng lại – Tớ không nhớ được họ cậu, vì vậy sẽ gọi cậu là David thôi. Cánh cửa, nếu để ngỏ, sẽ cho chúng ta khả năng tự vệ tốt nhất.
Tôi phản đối:
— Đóng lại chẳng tốt hơn à?
— Không, không, David. Cậu nhìn xem. Tớ chỉ có một cái mặt. Chừng nào cửa còn mở và tớ có thể nhìn ra ngoài, thì tớ có thể để bọn tấn công ở chỗ nào tớ muốn.
Anh lấy từ giá súng ra một thanh đoản kiếm, quan sát kỹ càng nhưng đã lắc đầu chán ngán. Anh ta nói rằng chưa bao giờ nhìn thấy những vũ khí đáng thương hơn. Sau đó anh đưa nó cho tôi, báo tôi ngồi xuống bên bàn với một gói thuốc súng, một túi đầy bi chì và những khẩu súng lục để nạp đạn.
— Với tớ, việc này tốt hơn cho một người quý tộc Scot hơn là rửa chén đĩa cũng như mang rượu cho tụi thủy thủ hôi mùi hắc ín.
Anh bố trí mình ở giữa phòng sao cho luôn nhìn vào cửa để ngỏ, rút gươm ra và thử xem cần một khoảng bao nhiêu để vung được gươm.
— Tớ không được ra khỏi đây, – Anh nói – tức thật. Bởi vì nếu không thì năng khiếu đặc biệt về đấu gươm của tớ sẽ phát huy hết tác dụng. Còn cậu thì làm sao để tất cả súng lục luôn được nạp đạn nhé – Anh nói tiếp – Chú ý thật kỹ những gì tớ gọi nhé!
Tôi hứa với anh ta sẽ chú ý, nhưng ngực tôi như bị nén, cổ như khô cứng và trước mắt tôi mọi thứ như đang bơi bơi. Cái ý nghĩ chẳng bao lâu nữa bọn tấn công rất đông sẽ nhào vào chỗ chúng tôi làm tim tôi đập liên hồi. Tôi nghe thấy sóng biển đập vào con tàu buồm và phải nghĩ là có lẽ trước khi trời sáng người ta sẽ vứt xác tôi xuống đó và chuyện đó làm tôi toát mồ hôi.
— Và bây giờ điều quan trọng nhất, – Alan nói – Chúng ta có bao nhiêu đối thủ?
Tôi đếm nhưng hồi hộp tới mức phải đếm lại lần thứ hai. — Mười lăm – Tôi đáp.
Alan huýt sáo qua kẽ răng.
— Hừm. – Anh nói – Chuyện đó thì không thể thay đổi – Bây giờ hãy làm cái gì tôi bảo nhé. Tôi sẽ phụ trách cửa ra vào, nơi diễn ra cuộc chiến chính. Cậu không phải làm gì ở đó. Hãy chú ý, đừng bắn về phía này ngay cả khi chúng ăn thịt tớ. Mười kẻ thù ở trước mặt tớ không ngán bằng một ông bạn bắn lung tung sau lưng.
Tôi tự thú rằng tôi là một xạ thủ tồi.
— Tuyệt vời là cậu đã tự nhận vậy – Anh ta kêu lên đầy phấn khởi trước sự thật thà của tôi. – Một số ngài quý phái không bao giờ tự nhận như vậy.
— Ngài, – Tôi nhắc – đừng có quên cánh cửa đằng sau mà tụi nó có thể ập vào.
— Không lo. – Anh kêu lên – Đó là nhiệm vụ của cậu. Khi nào nạp đạn xong súng lục, cậu phải trèo lên giường phía sau để có thể ngó qua cửa sổ. Khi tụi nó đến gần cửa thứ hai này, cậu sẽ bắn. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Chúng ta muốn biến cậu thành một người như là lính ấy. Ngoài ra cậu cần chú ý vào đâu nữa?
— À, lỗ phía trên đầu. – Tôi kêu lên – Nhưng mà, ngài Stuart, muốn quan sát cả hai phía chắc tôi phải có thêm một đôi mắt ở gáy, bởi vì nếu tôi nhìn về một phía thì phía kia ở sau lưng.
— Hoàn toàn đúng. – Alan nói – Nhưng chẳng lẽ cậu không có tai ở trên đầu?
— Tất nhiên rồi. – Tôi công nhận – Nếu cửa kính vỡ, tôi sẽ nghe thấy.
— Cậu cũng có chút hiểu biết đây. – Alan giận dữ nói.
Chương 10:
PHÒNG TRÊN TÀU BỊ BAO VÂY
Bây giờ sự bình yên của chúng tôi đã chấm dứt. Trên boong, ba người này chờ đợi tôi quay lại đã quá lâu cho đến lúc họ không còn kiên nhẫn nữa. Alan chưa nói hết câu thì bộ mặt của viên thuyền trưởng hiện ra trên khung cửa.
— Đứng lại! – Alan hét lên và dùng gươm đe dọa ông ta.
Viên thuyền trưởng cũng đứng lại thật sự nhưng không chớp mắt và không lùi lại bước nào.
— Một thanh gươm bóng lộn – ông ta hét lên – Một cách cảm ơn kỳ lạ cho lòng hiếu khách.
— Hãy nhìn tôi đây! – Alan nói to – Tôi xuất thân từ hoàng cung và mang tên của vua. Tôi đã mang biểu tượng cây sồi. Và hãy nhìn thanh gươm này, nó đã làm lìa đầu tụi theo Đảng Whig nhiều hơn số ngón chân ngài đang có. Hãy gọi bọn trộm cướp đến đây và hãy lánh đi! Cuộc nhảy múa càng sớm chừng nào, ngài còn sớm nhận được mùi gươm ở mạng sườn chừng ấy.
Alan không nhận được câu trả lời của thuyền trưởng nhưng ông ta ném vào tôi một cái nhìn giận dữ:
— David, cái đó mày cần nhận thay cho tao.
Khoảnh khắc sau đó ông ta biến mất.
— Còn bây giờ, David ạ – Alan nói – Chuẩn bị sẵn sàng đi và sẽ bắt đầu ngay đấy.
Anh vung con dao của người cao nguyên đang cầm ở tay trái cho trường hợp một kẻ tấn công nào đó xông vào được gần hơn tầm gươm. Với một tay đầy súng lục đã nạp đạn và một trái tim nặng nề tôi leo lên góc phòng ngủ và mở cửa sổ, nơi tôi cần quan sát. Từ đây
tôi chỉ bao quát được một phần boong thôi nhưng đủ cho mục đích của chúng tôi.
Sóng đã giảm và gió đã nhẹ đến mức buồm không căng ra lần nào và không gây ra một tiếng ồn ào. ở trên tàu yên tĩnh tới mức tôi nghe được những tiếng thì thầm. Ngay sau đó lóe lên một ánh chớp và tôi cảm thấy dao găm đã phóng đi, một người nào đó đã ngã xuống. Sau đó lại là yên lặng.
Tôi không còn biết mình có sợ thật không, nhưng tim tôi đập như một con chim rất nhỏ và rất nhanh. Trước mắt tôi có một cái gì đó như màng che, tôi luôn cố xua nó đi nhưng rồi nó lại xuất hiện. Tôi không có một chút hy vọng mỏng manh, ngược lại, một sự tuyệt vọng xám xịt ngự trị trong tôi và một cơn thịnh nộ với toàn thế giới đã đánh thức trong tôi lòng mong muốn đánh đổi cuộc sống của tôi càng đắt càng tốt. Tôi cũng nhớ lại là đã tìm cách cầu Chúa nhưng không tìm được ý nào rõ ràng cả. Tôi như một kẻ chạy trốn vội vã, không muốn nói một lời nào. Tôi chỉ muốn một điều, hãy bắt đầu ngay đi và qua nhanh lên!
Và bỗng nhiên nó bắt đầu thật với rất nhiều tiếng chân và tiếng gào thét chói tai. Tôi nghe tiếng Alan, nghe thấy những tiếng vung gươm và người nào đó kêu lên đau đớn. Nhìn qua vai, tôi thấy ngài Shuan và Alan đang đọ gươm ở gần cửa.
— Thằng này đã giết cậu bé học việc trên tàu – Tôi nói to cho Alan biết.
— Chú ý cửa sổ của cậu! – Alan hét lại.
Tôi nghe lời, trong lúc quay lại còn kịp nhìn thấy thanh gươm của Alan đâm thủng viên sĩ quan thứ nhất như thế nào.
Lúc này là cao điểm tôi cần tập trung vào nhiệm vụ của mình, vì quay lại chưa được bao lâu tôi đã thấy năm người dùng một cột căng buồm làm cột tống chạy qua cửa sổ với ý đồ phá tung cửa ra vào. Cho
tới lúc đó, chưa lần nào trong đời tôi bắn súng lục, chỉ thỉnh thoảng bắn một khẩu cạc-bin, chưa bao giờ tôi bắn một đồng loại, nhưng bây giờ tôi phải bắn. Khi họ giơ cao cột căng buồm để tống vào cửa, tôi bắn vào cả nhóm và hét lên:
— Đấy! Hãy nhận lấy!
Chắc tôi đã bắn trúng một người, anh ta hét lên và ngã bất tỉnh. Những người khác bị bất ngờ ngoài dự kiến đã nhốn nháo lên. Trước khi họ có thì giờ để lấy lại tinh thần, viên đạn thứ hai của tôi đã bay trên đầu họ, rồi viên thứ ba, cũng bắn trật như viên trước, cả bọn họ lại cột căng buồm và chạy tán loạn.
Bây giờ tôi nhìn lại phía sau. Vì tôi nhả đạn nên trong phòng đầy khói, trong tai tôi còn vang tiếng súng, màng tai tưởng như vỡ. Nhưng Alan vẫn đứng thẳng như trước, chỉ có gươm của anh, từ mũi đến cán, đầy máu. Anh đứng ở một tư thế tuyệt vời, tôi cảm thấy anh là người không thể đánh bại. Ngay trước anh, ngài Shuan ngồi chồm chổm, máu chảy từ mồm, mặt tái mét. ông ta ngã xuống và ngay lúc tôi đang nhìn, một kẻ nào đó bên ngoài đã kéo ông ta ra khỏi phòng. Ông ta đã chết lúc dó..!
— Một tên của Đảng Whig! – Alan hét lên. Rồi anh quay lại tôi muốn biết tôi đã giết được bao nhiêu.
Tôi nói với anh là có một tên bị trúng đạn, hình như là tay thuyền trưởng.
— Và tớ đã cho hai đứa câm miệng. – Anh nói – Nhưng mà máu vẫn chưa chảy đủ đâu, tụi nó sẽ quay lại đây ngay đấy. Bắt đầu di, về vị trí của cậu, David, đó mới là chơi dọn bài thôi.
Tôi lại ngồi vào chỗ, nạp đạn ba khẩu súng lục mà tôi đã nhả đạn, ngóng mắt và vểnh tai lên.
Đối thủ của chúng tôi đang cãi nhau trên boong không xa đây và to tới mức tôi nghe được vài lời trong tiếng biển rì rào “Shuan là kẻ làm
hỏng việc” rồi sau đó “Hãy im lặng, tụi bay! Chúng nó đã chộp được ông ta”. Sau đó lại là tiếng thì thầm như trước. Bây giờ chỉ có một người nói, hình như anh ta đang phát biểu một kế hoạch đánh mới. Bắt đầu một người trả lời, sau đó đến người khác, giống như nhận lệnh. Từ đó tôi rút ra là tụi nó sẽ quay lại ngay.
Khi tôi nói với Alan điều đó, anh ta kêu lên:
— Có trời chứng giám. Nếu chúng ta không cho chúng một bài học nhớ đời, thì đêm nay không ai trong chúng ta ngủ được đâu. Hãy chú ý, Cavid! Lần này thì nghiêm trọng đấy.
Trong thời gian đó tôi đã nạp đạn xong, bây giờ chỉ cần chờ và nghe ngóng.
Trong lúc đánh nhau tôi không có thời gian xem mình có sợ không. Còn bây giờ khi tất cả yên lặng tôi không nghĩ đến gì khác ngoài nỗi sợ. Ngay sau đó, khi nghe thấy tiếng chân bước và nhận ra tiếng sột soạt của quần áo cọ vào tường phòng ngủ, thì tôi biết ở bên ngoài tụi nó đã chiếm lĩnh vị trí trong bóng tối và tôi đã muốn hét to lên.
Tất cả chuyện đó xảy ra phía Alan đang ẩn mình và tôi đã muốn tin là phần của tôi trong cuộc chiến đã hết, thì tôi nghe thấy tiếng đang bò nhẹ nhàng trên nóc phòng.
Một tiếng huýt sáo ngắn bằng còi của thủy thủ là tín hiệu tấn công. Một nhóm vũ trang bằng dao găm nhào vào cửa chiếu sáng, ngay lúc đó làm vỡ tan kính cửa sổ thành hàng ngàn mảnh. Một người nhảy qua lỗ vào phòng và rơi xuống nền nhà. Trước khi hắn đứng dậy được, tôi đã dí nòng súng lục vào lưng, và đáng lẽ tôi đã bắn ngay hắn, nhưng khi chạm vào cái cơ thể sống này, trong tôi xuất hiện ý chí mềm yếu làm tôi ấn cò mà cũng không chạy được. Khi nhảy xuống hắn đã đánh rơi mất dao găm. Khi hắn cảm nhận được đầu súng đang ở lưng, hắn bật ra một tiếng chửi và ôm chặt tôi. Việc đó hoặc đã làm bừng lên lại lòng dũng cảm của tôi hoặc là tôi quá sợ . – Kết quả như nhau thôi – Tôi bắn viên đạn xuyên qua giữa người hắn. Hắn rống lên
thảm thiết rồi ngã xuống. Vài giây sau đó một tên thứ hai nhảy vào đầu tôi, chân hắn tụt qua lỗ chiếu sáng. Tôi chộp lấy khẩu súng lục thứ hai và bắn vào mông tên này. Hắn trượt và rơi như một cái bị xuống tên bạn nằm dưới đất. Bây giờ tôi bất cần, không có thì giờ ngắm nữa, chĩa súng vào sườn hắn và nổ súng.
Chắc tôi sẽ còn đứng đó lâu ngắm nhìn hai tên này nếu Alan không kêu cứu. Tiếng kêu làm tôi tỉnh táo trở lại.
Alan bảo vệ thường trực cửa ra vào. Nhưng trong lúc anh cản một tên thì một tên khác đã lẻn vào phía sau và ôm chặt anh. Alan dùng tay trái đập tên này nhưng hắn bám dai như đỉa. Một tên khác xông vào vung dao găm. Ở cửa cùng lúc xuất hiện mấy cái mặt. Lúc đó tôi nghĩ chúng tôi sẽ thua nhưng nắm chặt hơn dao găm và tấn công vào phía sườn.
Tuy vậy tôi không kịp giúp Alan nữa vì cuối cùng tên bám sau đã phải buông anh ra. Alan nhảy một bước dài lùi lại, lấy đà và như một con bò tót điên khùng gầm lên và nhào vào tấn công. Bọn chúng bị bắn tung như nước trong cú va chạm này, lăn tròn như bi và chạy bán sống bán chết, tên nọ đạp lên tên kia, trong lúc thanh gươm trong tay Alan chớp lên như thủy ngân, lúc chỗ này, lúc chỗ khác chém vào cái đống kẻ thù đang bỏ chạy. Một lần thanh gươm loáng lên trong không khí là một tên bị chém hét lên. Tôi vẫn còn nghĩ mình sẽ thua. Nhưng mà trông kìa, tất cả bọn chúng đã chạy hết, Alan đuổi chúng ra boong như con chó săn lùa đàn cừu.
Anh quay lại rất nhanh giống như lúc anh xông ra, vì sự thận trọng của anh cũng lớn như lòng dũng cảm vậy. Tụi thủy thủ tiếp tục chạy, chúng tưởng như Alan còn đuổi theo. Chúng tôi nghe thấy chúng ào vào khoang mũi tàu và cánh cửa đóng sập lại phía sau tên cuối cùng.
Phòng ngủ bây giờ như trong một lò mổ. Ba xác chết ở đó và một tên hấp hối ở cửa. Còn Alan và tôi thì chiến thắng và nguyên vẹn. Với hai cánh tay mở rộng, Alan đi tới chỗ tôi.