🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Báo Ứng - Philip Roth full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Báo ứng
Philip Roth
Chia sẻ ebook: http://www.downloadsach.com
Follow us on Facebook: https://www.facebook.com/caphebuoitoi
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
THÔNG TIN EBOOK
DỰ ÁN HẠNH PHÚC
MỘT KIỆT TÁC THỰC SỰ
TÁC GIẢ
LỜI BẠT
Tủ sách CÁNH CỬA MỞ RỘNG
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NHÀ TOÁN HỌC NGÔ BẢO CHÂU VÀ NHÀ VĂN PHAN VIỆT LỜI CẢM ƠN
NEWARK
INDIAN HILL
GẶP LẠI
CHÚ THÍCH
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
MỘT KIỆT TÁC THỰC SỰ
Dựng lên một biểu tượng anh hùng rồi lạnh lùng kéo sập nó ngay trước mắt độc giả chính xác là điều mà Philip Roth đã làm trong cuốn tiểu thuyết "Báo ứng" - cuốn tiểu thuyết cuối cùng trong văn nghiệp của ông, Roth muốn bạn đọc có thể chiêm nghiệm thông điệp sâu sắc: không phải thành công tạo nên giá trị con người mà chính những lựa chọn của anh ta sẽ tạo nên điều đó.
Ông đưa chúng ta quay về mùa hè oi ả năm 1944, tại thành phố Newark thuộc tiểu bang Illinois - nước Mỹ chính nơi đây ông đã khắc hoạ nên hình tượng Bucky Cantor - một giáo viên dạy thể dục, được biết đến như một siêu nhân tốt bụng, chính trực luôn sống có trách nhiệm, anh chính là tượng đài trong lòng của những cô cậu học trò bé nhỏ.
"Chạy đà cùng cây lao giơ trên cao, cánh tay cầm lao đưa sâu ra đằng sau, rồi vung mạnh ra phía trước và buông cho ngọn lao bay đi tạo nên một đòn tấn công sấm sét - trong mắt chúng tôi thầy dường như bất khả chiến bại."
Rồi "cơn ác mộng" mang tên sốt bại liệt ập đến, nó đã cướp đi khả năng vận động và sinh mạng của những đứa học trò anh yêu thương. Thế rồi tác giả đã thổi bùng lên trong anh nỗi đau thương mất mát, sự sợ hãi đến tuyệt vọng và đặt anh trước sự "đánh đổi" lớn nhất của cuộc đời. Vậy mà, đứng trước cuộc chiến thật sự của cuộc đời mình anh lại trở nên yếu đuối, anh đã không đủ mạnh mẽ để bảo vệ những điều tốt đẹp trong con người mình. Bằng những giá trị tốt đẹp mà anh được dạy để trở thành anh đã đấu tranh tư tưởng rất dữ dội, vậy mà cuối cùng anh lại thua cuộc, thua chính mình, thua thê thảm. Bucky đã từng rất thất vọng về bản thân và ghen tỵ với hai người bạn thân vì họ được ra chiến trường chiến đấu như những người hùng còn anh bị loại chỉ bởi thị lực kém, vậy mà giờ đây anh đã chọn trở thành kẻ "đào ngũ" ngay trên "chiến trường" riêng của cuộc đời mình. Anh bỏ đi vì không muốn đối mặt với những đứa trẻ anh yêu thương đang bị bại liệt tàn phá, anh sợ hãi căn bệnh sẽ huỷ hoại tương lại tươi đẹp của chính anh, nhưng Bucky đâu ngờ chính quyết định này sẽ là mồ chôn số phận con người chính trực và sống đầy trách nhiệm - con người mà anh đã từng là.
Cuộc đời luôn cho chúng ta nhiều hơn một cơ hội nhưng hết lần này đến lần khác anh đã từ chối chiến đấu để tạo dựng lại giá trị cho bản thân. Tự hỏi rằng con người ta phải tỉnh táo và mạnh mẽ đến mức nào mới có thể đứng vững trước những bóng ma cám dỗ của số phận..? Tôi thật sự cảm thấy đau lòng và tiếc nuối cho Bucky. Anh sụp đổ, anh bắt đầu đổ lỗi cho Chúa trời, cho chính mình, anh không nhận ra rằng chỉ trong những thử thách nghiệt ngã nhất của số phận, những con người thật sự cao quý và mạnh mẽ mới được sinh ra.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng phải ít nhất một lần trong đời đứng trước những khúc quanh số phận như thế. Xem ra chẳng ngẫu eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
nhiên mà GS. Ngô Bảo Châu và nhà văn Phan Việt lại chọn "Báo ứng" đưa vào tủ sách CCMR để giới thiệu đến độc giả trẻ Việt Nam - những người đang từng bước tạo dựng giá trị bản thân, tạo dựng tương lai. Họ muốn nhắc nhở chúng ta rằng hãy luôn tỉnh táo, mạnh mẽ và hãy sống chính trực có trách nhiệm. Hãy can đảm trước khó khăn của mình và tử tế khi người khác gặp hoạn nạn. Chỉ con đường đó mới hiển lộ chân giá trị đẹp đẽ trong mỗi chúng ta.
@Trangle - Happiness Project
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
TÁC GIẢ
Philip Milton Roth sinh năm 1933 tại thành phố Newark, bang New Jersey, Mỹ trong một gia đình Do Thái nhập cư. ông tốt nghiệp ngành Ngữ văn tại Đại học Bucknell, sau đó học cao học Văn chương Anh tại Đại học Chicago. Roth dạy sáng tác tại Đại học Iowa và Princeton, dạy văn học so sánh tại Đại học Pennsylvania cho tới khi về hưu vào năm 1992.
Philip Roth là nhà văn đương đại lớn của Mỹ với hai lần được tặng giải thưởng Sách Toàn Quốc (National Book Award), giải thưởng của giới phê bình sách toàn quốc (National Book Critics Circle Award) và ba lần đạt được giải thưởng PEN/Faulkner. Năm 2005, tiểu thuyết "The Plot Against America" (Âm mưu chống lại nước Mỹ) của ông nhận được giải của Hiệp hội Sử gia Hoa Kỳ
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
(Society of American Historians) vì tác phẩm này "là cuốn tiểu thuyết lịch sử xuất chúng viết về đề tài nước Mỹ trong những năm 2003 - 2004." Ông cũng giành được hai giải thưởng cao quý nhất thuộc hệ thống giải Văn học PEN (PEN Literary Award): PEN/Nabokov và PEN/Bellow. Philip Roth là tiểu thuyết gia người Mỹ duy nhất ngay từ khi còn sống đã được thư viện Hoa Kỳ (Library of America) phát hành toàn tập tác phẩm. Tập cuối cùng - tập thứ chín được lên kế hoạch phát hành trong năm 2013.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
LỜI BẠT
Một tiểu thuyết về sự đau thương và mạnh mẽ. Như cách ta phản ứng lại cuộc đời này: một là gục ngã, và một là tạo ra giá trị của chính mình.
NHẬT BÁO USA TODAY
Chiều ấy thầy thực hiện nhiều lần các màn phóng lao, lần nào cũng gọn gàng và đầy uy lực, mỗi cú phóng đều kèm theo một tiêng hét và tiếng gừ trong họng; và lần nào, điều khiến chúng tôi phấn khích là, lần ném sau đều tiếp đất xa hơn lần ném trước vài mét. Chạy đà cùng cây lao giơ trên cao, cánh tay cầm lao đưa sâu ra đằng sau, rồi vung mạnh ra phía trước và buông cho ngọn lao bay đi tạo nên một đòn tấn công sấm sét - trong mắt chúng tôi thầy dường như bất khả chiến bại.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Tủ sách CÁNH CỬA MỞ RỘNG
Tủ sách hợp tác giữa nhà toán học Ngô Bảo Châu, nhà văn Phan Việt với Nhà xuất bản Trẻ
Tủ sách CÁNH CỬA MỞ RỘNG được thực hiện nhằm mục đích giới thiệu những đầu sách có giá trị của thế giới và trong nước đến bạn đọc Việt Nam, đặc biệt là bạn đọc trẻ, góp phần thúc đẩy việc đọc sách, tinh thần hiếu học, coi trọng tri thức và những giá trị sống. Các tựa sách trong tủ do nhà toán học Ngô Bảo Châu và nhà văn Phan Việt tuyển chọn và giới thiệu.
Tủ sách được phân thành ba mảng: văn học, khoa học xã hội - kinh tế, và khoa học tự nhiên; trước mắt cấu tạo tủ sách gồm 80% các sách có khả năng tiếp cận đông đảo bạn đọc và 20% cho các sách chuyên ngành.
NEMESIS
Copyright © 2010 by Philip Roth. All rights reserved. Bản tiếng Việt ® NXB Trẻ, 2013
Báo ứng: tiểu thuyết / Philip Roth; Hà Nguyễn, Sao Mai dịch. - T.p. Hồ Chí Minh: Trẻ, 2013.
Nguyên bản: Nemesis.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NHÀ TOÁN HỌC NGÔ BẢO CHÂU VÀ NHÀ VĂN PHAN VIỆT
Bucky Cantor trong Báo ứng sống với ông bà từ nhỏ vì mẹ anh mất sớm, cha anh là kẻ trộm. Vì mắt kém, Bucky không thể gia nhập quân ngũ trong thế chiến thứ hai; trái lại anh trở thành một giáo viên dạy thể dục mà các học sinh rất yêu mến và chuẩn bị kết hôn với một đồng nghiệp. Nhưng mùa hè năm 1944, tất cả thay đổi khi những ca bại liệt lần lượt xẩy ra với học sinh của anh. Khi chính Bucky cũng bi bại liệt, anh tin rằng mình là nguồn gốc lây bệnh bại liệt và cái chết của những đứa trẻ...
Là cuốn sách thứ 31 và cuốn sách cuối cùng trong sự nghiệp cầm bút đồ sộ của Philip Roth, một trong những nhà văn đương đại lớn nhất của Mỹ, Báo ứng cũng như nhiều tiểu thuyết khác của Roth khai thác những vấn đế quan trọng nhưng không mấy vui vẻ với con người: sự bất lực, sự già nua, cái ác, cảm giác tội lỗi, sự sợ hãi, và cái chết. Báo ứng hỏi một câu hỏi có thể dễ trả lời về mặt nguyên tắc đạo đức tập thể, nhưng lại rất khó trả lời với mỗi cá nhân: làm người tốt để làm gì khi mà dù bạn tốt đến mấy, cuộc đời dường như luôn dành cho bạn toàn những đau khổ? Quan trọng hơn, rút cục thì cuộc sống này là thế nào nếu mọi thứ đến và đi một cách vô tình, gần như kì dị, như thế?
NGÔ BẢO CHÂU và PHAN VIỆT
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
LỜI CẢM ƠN
Những tư liệu gốc mà tôi dùng để tham khảo gồm có:"The Throws Manual" (Cẩm nang phóng lao) của George D. Dunn, Jr., và Kevin McGill; "The Encyclopedia of Religion" (Bách khoa toàn thư về tôn giáo), do Mircea Eliade biên soạn; "Teaching Springboard Diving" (Hướng dẫn môn nhảy cầu) của Anne Ross Fairbanks; "Camp Management and Recreational Programs for Summer Camps" (Quản lý trại hè và những chương trình giải trí dành cho trại hè) của H. w. Gibson; "Dirt and Disease" (Dơ bẩn và bệnh tật) của Naomi Rogers; "Polio's Legacy" (Di chứng bệnh bại liệt) của Edmund J. Sass; "A Paralyzing Fear" (Nỗi kinh hoàng tàn tật) của Nina Gilden Seavey, Jane s. Smith và Paul Wagner; "Polio Voices" (Các thể bại liệt) của Julie Silver và Daniel Wilson; và "A Manufactured Wilderness" (Vùng hoang dã nhân tạo) của Abigail Van Slyck. Đặc biệt hữu dụng là tác phẩm "The Book of Woodcraft" (Cẩm nang về rừng) của Ernest Thompson Seton, tôi đã thoải mái dẫn thông tin lấy từ đó, và "Manual of the Woodcraft Indians" (Sổ tay đi rừng của người da đỏ) cũng của Seton, tôi đã trích dẫn nguyên văn trong đó.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
NEWARK
CA BẠI LIỆT ĐẦU tiên của mùa hè năm đó xuất hiện vào những ngày đầu tháng Sáu, ngay sau Ngày Tưởng niệm 1, tại một khu phố nơi những người Ý nghèo khó cư ngụ, ở tận phía đầu kia của thành phố. Còn ở góc tây nam thành phố, tại khu Weequahic của người Do Thái, chúng tôi không nghe thấy ai nói gì về căn bệnh, cũng như không ghi nhận được bất cứ thông tin gì về hơn một chục ca nhiễm bệnh tiếp theo lần lượt xuất hiện rải rác khắp Newark tại tất cả các khu dân cư lân cận, ngoại trừ khu Weequahic của chúng tôi. Mãi tới ngày Bốn tháng Bảy, khi số ca mắc bệnh trong thành phố được báo cáo đã lên đến con số bốn mươi, mới có một bài báo nhan đề "Chủ tịch ủy ban Y tế báo động các bậc phụ huynh về căn bệnh bại liệt" đăng trên trang nhất tờ tin buổi chiều, trong đó dẫn lời của bác sĩ William Kittell, giám sát viên của ủy ban Y tế rằng các bậc phụ huynh cần theo dõi sát sao con cái mình và liên hệ ngay với bác sĩ trong trường hợp trẻ có các biểu hiện nhức đầu, đau họng, buồn nôn, cứng cổ, đau khớp hay sốt. Mặc dù bác sĩ Kittell thừa nhận rằng số lượng bốn mươi ca là nhiều gấp đôi số ca bệnh thường được báo cáo ở đầu mùa bại liệt hằng năm, nhưng ông muốn mọi người hiểu rõ rằng với một thành phố có số dân 429.000 người thì chưa thể coi đó là một trận dịch bại liệt. Mùa hè năm nay cũng giống như mùa hè mọi năm, thành phố có cơ sở để phải quan tâm và phòng ngừa đúng cách những vấn đề về vệ sinh, song vẫn chưa có cơ sở gì cho cái gọi là báo động mà các bậc phụ huynh đã lo lắng là "đủ chính đáng" cả, hai mươi tám năm trước, trong quãng thời gian bùng nổ dịch bại liệt lớn nhất từng được ghi nhận - nạn dịch ở vùng đồng bắc nước Mỹ vào năm 1916 - đã có hơn 27.000 ca nhiễm, với 6.000 người chết. Lúc đó ở Newark có 1.360 ca và 363 người tử vong.
Giờ đây, ngay cả trong một năm có số ca nhiễm bệnh ở mức trung bình thì khả năng mắc bệnh bại liệt đã giảm thiểu rất nhiều so với hồi năm 1916. Đây là căn bệnh liệt bại để lại cho trẻ nhỏ di chứng tàn tật, cơ thể bị biến dạng hay suốt đời phải nằm trong một thiết bị trợ thở làm bằng ống trụ kim loại mà ta thường gọi là phổi nhân tạo - hoặc có thể dẫn tới liệt các cơ hô hấp gây tử vong - đã khiến các bậc phụ huynh trong cộng đồng dân cư của chúng tôi vô cùng e ngại và làm cho lũ trẻ mất thoái mái trong những tháng hè được nghỉ học và vui chơi bên ngoài suốt ngày tới tận đêm khuya. Nỗi lo về những di chứng khủng khiếp của bại liệt càng thêm trầm trọng bởi thực tế rằng đến giờ vẫn không có thuốc đặc trị cũng như vắc-xin phòng dịch. Căn bệnh bại liệt - hay còn được gọi là chứng bệnh "liệt bại ở trẻ nhỏ" khi người ta còn tưởng nó chủ yếu gây bệnh cho trẻ ở lứa tuổi chập chững biết đi - có thể xảy ra với bất kỳ ai và không vì lý do cụ thể nào. Mặc dù bệnh nhân thường là trẻ em dưới mười sáu tuổi, nhưng người lớn cũng có thể bị lây nhiễm nặng, như trường hợp tổng thống Mỹ đương nhiệm.
Tổng thống Franklin Delano Roosevelt, nạn nhân nổi tiếng nhất của chứng bại liệt, đã mắc phải căn bệnh này khi ông ở độ tuổi eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
ba mươi chín. Đang từ một con người mạnh khỏe, cường tráng, sau khi mắc bệnh, ông phải có người đỡ mỗi khi đi lại, thậm chí về sau để có thể đứng được, ông còn phải mang thiết bị chỉnh hình nặng trịch, được chế tạo từ thép-và-da-thuộc, kéo dài từ hông xuống đến chân. Tổ chức từ thiện March of Dimes do tổng thống FDR thành lập khi ông ở Nhà Trắng, quyên góp tiền cho công tác nghiên cứu và hỗ trợ tài chính cho những gia đình người bệnh; bởi việc phục hồi một phần hoặc hoàn toàn sức khỏe là khả thi nhưng thường phải mất nhiều tháng hoặc nhiều năm áp dụng vật lý trị liệu và phục hồi chức năng rất tổn kém trong bệnh viện. Trong cuộc vận động quyên góp quỹ hằng năm, ở các trường học, trẻ nhỏ Mỹ tặng những đồng xu chúng có để trợ giúp để chống lại căn bệnh, người ta bỏ tiền của mình vào các hộp quyên góp bằng kim loại mà nhân viên hướng dẫn chỗ ngồi trong các rạp chiếu phim chuyển tới từng người, những tấm áp-phích với dòng chữ "Bạn cũng có thể giúp đỡ!" và "Hãy chung tay chống lại căn bệnh bại liệt!" xuất hiện trên tường các của hiệu, công sở và những hành lang trường học trên khắp đất nước, những tấm áp-phích in hình các đứa trẻ ngồi trên xe lăn, mang nẹp chỉnh hình ở chân - một bé gái xinh xắn đang bẽn lẽn mút ngón tay cái, một bé trai với nụ cười hy vọng đầy quả cảm trên gương mặt sáng sủa - những tấm áp-phích này gây cảm giác cho tất cả những đứa bé còn khỏe mạnh về một thực tế bị nhiễm bệnh còn đáng sợ hơn rất nhiều.
Vào mùa hè, không khí ẩm ướt tràn lan khắp vùng đất trũng Newark, do một phần thành phố bị vây quanh bởi những miền đầm lầy rộng lớn - đây cũng là nguồn cơn chủ yếu khiến bệnh sốt rét, cũng là một căn bệnh không thể tiêu diệt nổi cứ đến hè là quay trở lại - buổi tối, trong lúc ngồi trên ghế bố để ở những con ngõ và các lối đi hòng trốn khỏi những căn phòng hầm hập không có gì giúp giải bớt cái nóng thiêu đốt ngoại trừ nước lạnh để tắm và nước đá để uống, chúng tôi phải luôn tay đập và khua đuổi muỗi. Thời ấy chưa có máy lạnh gia dụng, chỉ có mỗi một cái quạt điện đen nhỏ xíu để ở trên bàn, phả thoang thoảng chút gió mát trong phòng, chỉ làm dịu được tí đỉnh cái nóng mỗi khi nhiệt độ lên tới hơn ba mươi hai độ, mà mùa hè năm ấy, mức nhiệt độ cao như vậy thường kéo dài cả tuần hay mười ngày. Ngoài trời, người ta thắp những ngọn nến hương sả và phun hàng can thuốc diệt côn trùng Flit để chống muỗi và ruồi - những vật chủ trung gian truyền bệnh sốt rét, sốt vàng da, sốt thương hàn và nhiều người còn cho là cả bại liệt nữa - trong số đó, đầu tiên phải kể đến ông Drummond, thị trưởng Newark, người đã phát động chiến dịch "Đập ruồi" trên toàn thành phố. Ngay khi một con ruồi hay muỗi chui qua được tấm lưới chắn hay bay lọt qua một cánh cửa vào nhà, nó sẽ bị lùng diệt bằng vỉ đập ruồi và thuốc Flit vì người ta lo ngại đứa trẻ đang ngủ sẽ bị lây nhiễm vi-rút bại liệt từ những cái chân đầy bệnh tật của con côn trùng. Khi không ai rõ nguồn gốc lây nhiễm, người ta trở nên nghi ngờ mọi thứ, từ lũ mèo hoang gầy trơ xương lục lọi các thùng rác phía sau nhà, lũ chó vô chủ đói khát, bơ phờ lượn lờ kiếm ăn quanh các khu nhà rồi phóng uế trên những ngõ vắng và các con phố rồi cả lũ bồ câu đậu trên mái hiên xả phân trắng xuống các bậc tam cấp trước cửa. Trong tháng đầu bùng phát dịch - trước khi ủy ban Y tế công bố dịch - phòng vệ sinh môi trường đã bắt đầu tiêu diệt một cách có hệ thống đàn mèo hoang đông đúc trong thành phố, dù chẳng ai biết chúng có thực sự liên đới đến bại liệt hơn so với lũ mèo nuôi trong nhà hay không.
Mọi người đã biết căn bệnh này rất dễ lây lan và có thể truyền sang những người khỏe mạnh chỉ qua những tiếp xúc thông thường với người đã mắc bệnh. Vì lẽ đó, khi số ca nhiễm trong thành phố tăng lên đều đặn, cộng đồng đã vô cùng lo lắng - nhiều trẻ nhỏ trong vùng đã bị bố mẹ cấm đi bể bơi công cộng ở công viên Olympic gần thị trấn Irvington, cấm đến các rạp chiếu phim có hệ
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
thống điều hòa không khí, rồi cấm đi xe buýt vào khu trung tâm hay từ Down Neck tới đại lộ Wilson để xem đội bóng hạng xoàng của thành phố - đội Các chú gấu Newark - chơi bóng chày trên sân vận động Ruppert. Chúng tôi được cảnh báo là không được dùng các nhà vệ sinh công cộng, uống nước thẳng từ vòi hay uống chung nước ngọt với người khác, cũng như chúng tôi phải tránh để bị cảm lạnh, tránh giao tiếp với người lạ hay mượn sách ở thư viện, tránh gọi điện thoại công cộng hay mua thức ăn từ hàng quán ven đường, rồi thì nào là phải rửa tay thật sạch bằng xà-phòng và rửa rau quả trước khi ăn, phải tránh xa ai đó trông có vẻ đang ốm hay có các triệu chứng của bệnh bại liệt.
Cách biệt hẳn cái nóng nực của thành phố và tới một trại hè nơi miền núi hay vùng đồng quê được coi là cách tốt nhất để bảo vệ một đứa trẻ khỏi mắc bệnh bại liệt. Chọn bờ biển Jersey cách đó chừng sáu mươi dặm để nghỉ qua mùa hè cũng là một cách hay. Một gia đình có thể thuê riêng một phòng ngủ và sử dụng bếp chung trong một căn nhà cho thuê thuộc Bradley Beach - khu nghỉ mát được dân Do Thái ở miền Bắc Jersey ưa chuộng cả mấy thập kỷ nay - nơi có một dải cát vàng, lối đi lát gỗ dọc bờ, và những mái nhà tranh chạy dài cả dặm dọc theo bờ biển. Ở đấy, mấy mẹ con có thể ra bãi hít thở không khí đại dương trong lành, mát mẻ suốt cả tuần và rồi đến cuối tuần hay kỳ nghỉ phép, ông bố sẽ ra cùng. Tất nhiên vẫn có những ca bại liệt xuất hiện ở các khu trại hè cũng như ở các thị trấn ven biển, nhưng bởi số lượng không đáng kể so với số ca được ghi nhận ở Newark, nên hầu hết mọi người đều tin rằng, khi mà thành phố còn nhan nhản các vỉa hè bẩn thỉu và không khí tù hãm là điều kiện thuận lợi cho bệnh tật lây lan thì được sống gần biển, ở nơi thôn quê hay trên vùng núi cao sẽ là một đảm bảo chắc chắn rằng không mắc bệnh.
Vậy là một số đứa may mắn được đặc ân rời khỏi thành phố vào mùa hè trong khi đám chúng tôi ở lại vi phạm tất thảy những gì không được phép, tin tưởng rằng "chơi quá sức" không phải là một nguyên nhân khả dĩ dẫn đến bệnh bại liệt: chúng tôi chơi bóng mềm hết trận này đến trận khác, chơi bóng chày hết hiệp này đến hiệp kia trên sân thể thao trải nhựa nóng giãy chốn trường học, chạy nhảy suốt ngày trong cái nóng khôn tả, uống ừng ực từ những vòi nước không đảm bảo vệ sinh; giữa các hiệp, cả đám lại ngồi chen chúc trên ghế băng, dùng những cái găng tay bắt bóng đã cũ sờn, dính đầy bụi đất lau trán không cho mồ hôi chảy vào mắt rồi lại tiếp tục cuộc chơi với những chiếc áo pô-lô ướt đẫm và những đôi giày thể thao đã nặng mùi, mà chẳng quản gì tới chuyện việc khinh suất ấy có thể đày đọa bất cứ ai trong số chúng tôi vào cảnh cả đời sẽ phải sống trong một cái máy trợ thở và sẽ hiểu rõ được thế nào là cơn ác mộng tồi tệ nhất đối một cơ thể con người.
Người ta thường xuyên thấy chỉ có chừng hơn một chục cô bé là hay có mặt trong sân chơi, phần lớn vào khoảng tám, chín tuổi, đang chơi nhảy dây ở khu vực xa trung tâm, thoai thoải dốc về phía con đường nhỏ dẫn vào trường, sát lối xe cộ đi lại tấp nập. Khi những cô bé không nhảy dây, chúng sử dụng con đường thành nơi nhảy lò cò, thi chạy, chơi trò nhặt xương cừu hoặc vui đùa tâng một quả bóng cao su màu hồng suốt cả ngày. Thỉnh thoảng, vào lúc mấy đứa con gái nhảy dây đôi, chúng quay hai sợi dây về hai hướng ngược nhau, có một thằng nhóc không biết từ đâu chạy tới, huých cô bé đang chuẩn bị nhảy sang một bên, lao vào và bắt đầu hét rống lên bài hát nhảy dây yêu thích của bọn con gái một cách giễu cợt rồi để cả người mắc vào dây nhảy. "H, tên tôi là Hà mã...!" Đám con gái sẽ nhao nhao la lớn "Dừng lại! Dừng lại!" và cầu cứu người quản lý sân chơi giúp đỡ, anh này đứng nguyên tại chỗ và
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
quát đứa trẻ phá đám (hầu như ngày nào cũng chỉ là thằng nhóc ấy), "Thôi đi, Myron! Để cho mấy bạn gái yên còn không là em phải đi về đấy!" Huyên náo nhờ vậy mà giảm bớt. Chẳng mấy chốc, mấy sợi dây lại một lần nữa quay nhanh và bài hát lại được từng bé lần lượt cất lời trầm bổng:
A, tên tôi là Agnes
Còn tên chồng tôi là Alphonse,
Chúng tôi đến từ Alabama
Và chúng tôi mang theo nhiều áo!
B, tên tôi là Bev
Còn tên chồng tôi là Bill,
Chúng tôi đến từ Bermuda
Và chúng tôi mang về những quả bòng!
C, tên tôi là...
Bằng những giọng ca non nớt, đám con gái đóng đô ở mé xa của sân chơi ứng tác lời hát theo kiểu của chúng từ A tới Z và rồi bắt đầu lại từ đầu, các danh từ cuối mỗi câu hát có âm trùng với chữ cái trong đoạn, đôi khi lời hát rất ngớ ngẩn, vô nghĩa, mỗi lần một khác. Nhảy vào giữa các sợi dây rồi phấn khích lao ra ngoài - ngoại trừ những lúc bị Myron Kopferman và mấy thằng nhóc như nó quấy phá - chúng hoạt động không biết mệt; trừ phi bị người quản lý sân chơi gọi cả bọn di chuyển vào trong bóng mát của ngôi trường để tránh nóng, đám trẻ không hề rời xa con đường từ thứ Sáu của tháng Sáu, khi học kì mùa xuân kết thúc cho đến thứ Ba sau Lễ Lao động, khi bắt đầu học kì mùa thu, còn lại thì chúng chỉ có thể chơi nhảy dây sau giờ học ở trường hay vào lúc ra chơi.
Người quản lý sân chơi năm đó là thầy Bucky Cantor, vì có thị lực kém nên phải đeo một cặp mắt kính dày cộp, là một trong số rất ít thanh niên quanh khu đó không phải nhập ngũ. Trong năm học trước, thầy Cantor là giáo viên mới dạy môn thể dục tại trường Chancellor Avenue nên thầy biết nhiều đứa trong đám trẻ chúng tôi hay tụ tập ở sân chơi. Mùa hè năm ấy thầy hai mươi ba tuổi, đã học xong trường South Side - trường trung học đa sắc tộc, đa tôn giáo ở Newark và tốt nghiệp trường Cao đẳng Panzer chuyên ngành
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Giáo dục thể chất và Vệ sinh thành phố East Orange. Thầy cao mấp mé một mét sáu mươi lăm, mặc dù là một vận động viên điền kinh siêu hạng và là một đấu thủ mạnh, song chiều cao cùng thị lực kém đã khiến thầy không được thi đấu bóng bầu dục, bóng chày hay bóng rổ ở giải các trường cao đẳng mà chỉ giới hạn ở môn ném lao và cử tạ. Trên cơ thể chắc nịch của thầy là chiếc đầu lớn với những đường nét gồ ghề, vát cạnh: gò má rộng, trán cao, quai hàm vát, một cái mũi thẳng và cao khiến thầy không khác nào một chân dung dập nổi in trên các đồng xu. Thầy Cantor có cặp môi đầy đặn, sắc cạnh hệt như cơ bắp, một nước da ngăm ngăm quanh năm. Từ thuở thiếu thời, thầy đã để đầu đinh - kiểu tóc của lính. Kiểu tóc này khiến hai tai thầy trông nổi bật, không phải vì kích cỡ, chúng không lớn - không thật sự lớn vì chúng ép sát vào đầu, mà bởi khi nhìn nghiêng, tai của thầy trông giống hình con ách bích, hay giống những đôi cánh nhỏ gắn dưới chân của những nhân vật thần thoại, với chóp tai không lượn tròn như hầu hết những đôi tai thông thường, mà gần như nhọn hoắt. Trước khi ông ngoại của thầy đặt cho thầy cái tên Bucky, đám bạn đường phố chơi chung với thầy thời thơ ấu thường gọi thầy với cái tên ngắn gọn là Ách, một biệt danh bắt nguồn không đơn thuần bởi tài năng thể thao sớm phát triển của thầy mà còn bởi hình dạng dị thường của đôi tai.
Tất cả những đường nét góc cạnh trên khuôn mặt thầy Cantor đã tạo cho cặp mắt màu khói xám sau gọng kính - đôi mắt dài và hẹp như người Á châu - một cái nhìn sâu thẳm, dù hốc mắt thầy không thật sâu. Giọng nói phát ra từ khuôn mặt cá tính ấy, thật kinh ngạc, lại hơi chói tai, nhưng điều này không hề làm giảm đi vẻ ấn tượng trong diện mạo của thầy. Đó chính là khuôn mặt cứng cỏi, cam chịu, sắc sảo của một thanh niên cường tráng, khỏe mạnh mà người ta hoàn toàn có thể trông cậy.
MỘT BUỔI CHIỀU ĐẦU THÁNG BẢY, hai ô-tô chở đầy học sinh gốc Ý tuổi từ mười lăm đến mười tám của trường East Side tới đỗ ở đầu phố phía sau trường, nơi có sân chơi. Trường East Side nằm trong khu Ironbound. Tính đến thời điểm đó, khu ổ chuột của thợ thuyền này được ghi nhận là có số ca mắc bại liệt cao nhất thành phố. Ngay khi thấy chiếc xe dừng lại, thầy Cantor tháo bỏ găng bóng chày để xuống sân - thầy đang chơi ở vị trí chốt ba trong một hiệp đấu thử của chúng tôi - rồi hối hả đi ra chỗ hơn một chục thanh niên vừa xuống xe. Dáng người thể thao, kiểu chạy gằn bước của thầy đã được lũ trẻ ở sân chơi bắt chước, cũng như cách thầy hơi rướn người khi di chuyển nhón gót và cả cái lối lắc lư đôi vai chắc nịch nữa. Vài cậu chàng còn sao lại y chang dáng đi đứng của thầy cả trong sân tập cũng như ở ngoài.
"Mấy cậu cần gì?" Thầy Cantor lên tiếng.
"Bọn này đang phát tán vi-rút bại liệt đây," một gã người Ý đáp. Gã chính là kẻ đầu tiên nghênh ngang bước ra khỏi xe. "Đúng không chúng mày?" Gã hỏi, quay người lại để tìm kiếm sự hỗ trợ của đồng bọn, cả bọn liền tiến về phía thầy Cantor tỏ rõ thái độ muốn gây sự.
"Trông cậu đang phát tán rắc rối thì có," thầy Cantor bảo gã. "Cậu rời khỏi đây đi."
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Không, không được," gã người Ý khăng khăng, "chờ tới khi bọn này phát tán ít vi-rút bại liệt đã. Đây mắc rồi mà các người lại chưa, nên bọn này lái xe tới và làm lây lan một ít ra xung quanh." Gã vừa nói vừa lắc lư người tới lui ra vẻ ta đây. Đôi ngón tay cái màu đồng thau ngoắc vào hai con đỉa nằm phía trước trên chiếc quần đi kèm với cái nhìn chằm chằm biểu lộ vẻ khinh mạn.
"Tôi là người quản lý sân chơi này," thầy Cantor nói, chỉ tay qua vai về phía lũ chúng tôi. "Tôi yêu cầu các cậu đi khỏi đây. Các cậu không có việc gì ở đây cả và tôi đang yêu cầu các cậu rời đi một cách lịch sự. Sao nào?"
"Có luật cấm phát tán bệnh bại liệt từ khi nào thế hả ông quản lý?"
"Này, bại liệt không phải chuyện đùa. Và có luật cấm gây thiệt hại cho cộng đồng. Tôi không muốn phải gọi cảnh sát. Thế nào, có chịu đi không hay để tôi gọi cảnh sát đến lôi cổ đi?"
Lúc này, tên cầm đầu, cao hơn thầy Cantor cả nửa cái đầu, tiến lên một bước và phun nước bọt xuống hè đường. Một bãi đờm tung tóe cách mũi giày thể thao của thầy chỉ vài phân.
"Thế nghĩa là sao?" thầy Cantor hỏi gã. Giọng thầy vẫn bình tĩnh, với hai tay khoanh trước ngực, thầy là hiện thân của sự vững chãi. Không có một tên du côn nào ở Ironbound có thể thắng được thầy hay tới được gần đám trẻ thầy bảo vệ.
"Tao đã bảo mày rồi đấy thôi. Chúng tao đang phát tán vi-rút bại liệt. Bọn tao không muốn để tụi mày thoát." "Này, đừng có ăn nói hỗn láo nhé," thầy Cantor bảo và giận dữ dấn tới một bước, chỉ còn cách gã người Ý có vài phân. "Tôi cho cậu mười giây để quay đầu lại và lôi cả đám khỏi đây."
Gã người Ý mím cười. Gã thực ra không ngừng cười mỉm từ lúc rời khỏi xe. "Nếu không thì sao?" Gã hỏi ngược lại. "Tôi đã nói rồi đấy. Tôi sẽ gọi cảnh sát đến lôi cổ các cậu đi và không cho quay lại nữa."
Kẻ đối diện lại nhổ nước bọt, lần này trúng vào cạnh giày thầy Cantor, thầy bèn gọi cậu bé từ nãy giờ vẫn đang chờ lần giao bóng kế tiếp và cũng như lũ chúng tôi, đang lẳng lặng dõi theo cuộc đối đầu của thầy trước cả chục tên người Ý. "Jerry, vào phòng thầy. Gọi điện cho cảnh sát. Nói là em thay thầy điện thoại mời họ đến."
"Cảnh sát sẽ làm gì, tống giam tao chắc?" Gã cầm đầu sẵng giọng. "Họ bỏ tù tao vì tội nhổ nước bọt xuống vỉa hè khu Weequahic cao quý của mày à? Mày cũng sở hữu luôn cái hè đường này chắc, hả bốn mắt?"
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Thầy Cantor không trả lời mà chỉ vững chãi đứng chắn giữa đám trẻ đang chơi bóng ở sau lưng và hai chiếc xe đầy ắp mấy gã Ý, lũ này vẫn đang đứng phì phèo thuốc lá trên đường bên rìa sân chơi như thể mỗi gã đều sắp sửa quăng điếu thuốc đang hút xuống và bất thình lình rút hung khí ra. Nhưng khi Jerry từ trong văn phòng dưới tầng hầm quay trở ra - ở đó, theo hướng dẫn của thầy, nó đã gọi điện thoại cho cảnh sát - thì hai chiếc xe cùng với đám người mang theo điềm chẳng lành ấy đã mất dạng. Chỉ vài phút sau, khi chiếc xe tuần tra đến nơi, thầy Cantor cung cấp cho cảnh sát biển số đăng ký của cả hai xe mà thầy đã ghi nhớ trong lúc đứng kề bên. Sau khi cảnh sát đi rồi, đám trẻ bên trong hàng rào mới bắt đầu chế nhạo bọn người Ý.
Hóa ra cả một khu vực vỉa hè rộng chừng sáu mét vuông, nơi mấy gã Ý đứng tụ thành đám lúc trước, đầy đờm dãi nhớp nháp, dơ bẩn, rõ là một nơi lý tưởng để phát sinh bệnh tật. Thầy Cantor sai hai cậu bé xuống tầng hầm nhà trường tìm hai cái xô hứng đầy nước nóng pha với dung dịch a-mô-ni-ắc lấy trong phòng bảo vệ, rồi tạt mạnh hỗn hợp ấy lên vỉa hè cho tới khi nó sạch bóng. Nhìn đám trẻ đang giội rửa bãi nhầy nhụa khiến thầy Cantor nhớ lại hồi lên mười, thầy cũng đã phải làm vệ sinh sạch sẽ sau khi giết một con chuột phía sau cửa hàng tạp hóa của ông ngoại.
"Không có gì đáng lo cả," thầy Cantor bảo đám con trai. "Chúng sẽ không quay trở lại nữa đâu. Ngoài đời vẫn có những chuyện như thế đấy," thầy nói, nhắc lại một câu nói ưa thích của ông ngoại mình, "lúc nào mà chả có chuyện khôi hài," và thầy trở lại với bóng chày và hiệp đấu lại tiếp diễn. Mấy thằng con trai mục kích toàn bộ sự việc từ phía bên kia hàng rào mắt xích cao ngang hai tầng nhà, sát bên sân chơi, hết sức ấn tượng với cách thầy Cantor đối phó với mấy gã người Ý. Phong thái tự tin, thái độ kiên quyết, sức khỏe của một vận động viên cử tạ và việc thầy hằng ngày tham gia chơi bóng nhiệt tình cùng chúng tôi - tất cả những điều này khiến trong số các nhân viên chính thức nơi sân chơi, thầy là người được yêu thích ngay từ khi tới nhận nhiệm vụ quản lý; và sau vụ việc với mấy gã người Ý, thầy ngay lập tức trở thành một anh hùng, một thần tượng, một người anh lớn quả cảm, chở che, nhất là đối với những đứa có anh trai đang ở ngoài chiến trường.
Cuối tuần ấy, có hai cậu bé nằm trong số trẻ có mặt tại sân chơi lúc mấy gã người Ý xuất hiện, không đến chơi bóng. Buổi sáng hôm đầu tiên, khi tỉnh dậy, cả hai đều bị sốt cao, cứng cơ cổ, đến buổi tối ngày thứ hai - bắt đầu có triệu chứng khó thở và các chi trở nên yếu ớt phải cần đến sự trợ giúp của người khác - cả hai liền được tức tốc đưa tới bệnh viện cấp cứu. Một trong hai cậu, Herbie Steinmark, tròn trĩnh, vụng về, đáng yêu, học lớp tám, vì thiếu năng khiếu thể thao nên thường được chỉ định chơi ở vị trí cánh phải và quật cú bóng cuối cùng, còn cậu kia, Alan Michaels, cũng học lớp tám, nằm trong số hai hay ba vận động viên cừ khôi nhất sân chơi và là đứa gần gũi với thầy Cantor nhất. Herbie và Alan là hai nạn nhân mắc bệnh bại liệt đầu tiên ở cộng đồng này. Trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, có thêm mười một ca bệnh nữa và mặc dù trong số này không có đứa nào có mặt trong sân chơi ngày hôm ấy, thế nhưng lời đồn rằng căn bệnh là do mấy tên người Ý mang tới khu Weequahic được lan truyền khắp cộng đồng. Vì cho tới lúc này, khu dân cư người Ý được ghi nhận là nơi có nhiều ca mắc bệnh bại liệt nhất trong thành phố trong khi ở chỗ chúng tôi chưa có ca nào, điều ấy khiến người ta tin những lời đồn là đúng đắn, rằng đám người Ý lái xe ngang qua thành phố chiều hôm ấy có ý định lây nhiễm cho người Do Thái bệnh bại liệt và chúng đã thành công.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
MẸ CỦA BUCKY CANTOR mất khi sinh nở, và cậu bé xấu số được ông bà ngoại nuôi nấng trong một chung cư có mười hai gia đình sinh sống trên phố Barclay, phía dưới đại lộ Avon, đây là một trong những khu dân cư nghèo nhất thành phố. Cha của Bucky Cantor, người cậu thừa hưởng được thị lực kém, là nhân viên kế toán ở một cửa hàng lớn trong nội đô và rất mê cá cược ngựa. Ngay sau khi vợ chết và con trai ra đời - ông bị buộc tội ăn cắp của chủ để trả những món nợ cá cược - hóa ra ông đã bắt đầu biển thủ ngay từ những ngày đầu đi làm. Ông bị giam hai năm và sau khi được tha, không bao giờ trở lại Newark nữa. Thế chỗ cho người cha đó, cậu bé, lúc ấy được gọi là Eugene, được dạy dỗ bởi ông ngoại. Đó là một người to lớn, dáng hình như gấu, làm luôn chân luôn tay, là chủ một tiệm tạp hóa trên đại lộ Avon, nơi cậu tới làm việc sau giờ học và suốt cả những ngày thứ bảy. Khi Eugene lên năm, cha cậu tục huyền, ông thuê một luật sư để giành đứa trẻ về sống với mình và người vợ mới ở thành phố cảng Perth Amboy, nơi ông có việc làm trong một xưởng sửa chữa tàu. Ông ngoại, thay vì mướn một luật sư cho mình, đã lái thẳng xe tới Perth Amboy. Ở đó, trong cuộc xung đột, nghe nói cụ đã đe bẻ gãy cổ ông con rể một thời nếu hắn còn dám gây phiền nhiễu tới cuộc đời của Eugene. Kể từ đó, không ai còn nghe gì về cha của Eugene nữa.
Vì phải cùng ông ngoại khuân nhấc các sọt hàng trong cửa hiệu mà ngực và cơ tay Eugene bắt đầu phát triển, và cũng do phải chạy lên, chạy xuống ba tầng nhà vô số lần trong ngày mà cậu đã luyện rèn được đôi chân. Cũng từ tính gan dạ, dũng cảm của ông ngoại mà cậu học được cách chiến đấu với bất cứ trở ngại nào, kể cả việc sinh ra là con trai của kẻ mà ông ngoại đã gọi trong suốt cả đời mình là "một kẻ ám muội." Eugene muốn trở thành một chàng trai cường tráng, giống hệt như ông ngoại cậu, và không phải mang cặp kính dày cộp. Nhưng đôi mắt cậu kém quá nên buổi tối, khi bỏ kính ra để lên giường đi ngủ, cậu chỉ thấy mờ mờ hình dáng vài món đồ vật trong phòng. Ông ngoại cậu, người chả hề bận tâm đến nhược điểm này đã bảo thằng cháu đang đau khổ - lúc ấy lên tám và bắt đầu phải đeo kính - rằng mắt cậu bây giờ nhìn rõ chẳng kém ai. Sau đó, chẳng còn ai đề cập đến chuyện ấy nữa.
Bà ngoại Eugene, một người nhỏ bé và tốt bụng, xởi lởi và chu đáo, là một bậc sinh thành hoàn toàn tương xứng với ông cậu. Bà can đảm chịu đựng chuyện buồn, dù vẫn khóc mỗi khi nghe nhắc đến người con gái mới hai mươi tuổi đã chết khi sinh nở của mình. Bà được khách đến cửa hàng rất yêu mến, còn ở nhà bà vừa làm không ngơi tay vừa lắng nghe Life can be beautiful (Đời đôi khi vẫn đẹp) hay những vở kịch nhiều kỳ khác trên đài phát thanh mà bà rất thích; chúng luôn làm thính giả run bắn người, âu lo với viễn cảnh của tai họa kế tiếp. Hằng ngày, trong vài giờ rảnh rang không phải lo việc cửa hàng, bà toàn tâm toàn ý lo cho Eugene, chăm sóc thằng cháu khi nó bị sởi, khi nó dỗi hờn, và khi nó bị thủy đậu, giữ cho quần áo nó mặc luôn sạch sẽ và những chỗ rách được khâu vá, kiểm tra bài vở của nó xem đã hoàn tất chưa, ký sổ liên lạc của nó, đưa nó đến bác sĩ nha khoa để khám định kỳ (những ngày ấy, một số ít trẻ nghèo phải đến đó), nấu cho nó những bữa ăn ngon, đủ chất và đóng học phí cho nó theo học giáo lý ở Giáo đường Do Thái để chuẩn bị cho Lễ Trưởng thành. Để chống chọi với mấy căn bệnh lây nhiễm phổ biến nơi trẻ nhỏ, Eugene đã có được một nền tảng sức khỏe tốt, bộ răng khỏe đều tăm tắp và một thể chất mạnh mẽ. Chúng là kết quả của những chăm sóc mà bà ngoại dành cho cậu, bà đã làm tất cả những gì mà thuở ấy người ta có thể biết được, để giúp một đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn. Ông bà ngoại hiếm khi cãi cọ - mỗi người đều biết cần làm gì và làm cách nào là tốt nhất, mỗi người đều mong muốn làm sao để bé Eugene không quên những điều họ dạy.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Ông ngoại luôn quan tâm đến sự phát triển cơ bắp của đứa cháu, lúc nào ông cũng trong tư thế sắn sàng trừ diệt bất cứ biểu hiện yếu ớt nào mà cậu thừa hưởng - cùng với thị lực kém - từ người cha và dạy cháu rằng mọi nỗ lực quyết tâm nơi con người đều thấm đẫm tinh thần trách nhiệm. Lời dặn dò của ông ngoại không phải lúc nào cũng dễ tuân theo, nhưng mỗi khi thấy Eugene đạt được những kỳ vọng của mình, ông không bao giờ dè xẻn những lời khen ngợi. Một lần, khi mới mười tuổi, Eugene bắt gặp một con chuột lông xám to tướng trong phòng kho mờ tối phía sau cửa hàng. Lúc thấy con chuột thập thò trong đống thùng các-tông bỏ không mà cậu vừa giúp ông dỡ ra thì ngoài trời đã tối đen. Phản xạ tức thời của cậu nhóc khi ấy dĩ nhiên là bỏ chạy. Nhưng rồi, biết chắc ông ngoại đang ở đằng trước tiếp chuyện một khách hàng, cậu rón rén tới góc phòng lấy cái xẻng sâu lòng, nặng trịch vẫn dùng để học cách xúc than cho vào cái lò sưởi trong cửa hàng.
Nín thở, Eugene nhón chân tiến tới cho đến khi dồn được con chuột đang hoảng hốt vào một góc. Khi cậu nhóc giơ cao chiếc xẻng, con chuột ngóc thẳng người trên hai chân sau, hai hàm răng ghê sợ của nó nghiến chặt lại, đang chuẩn bị nhảy lên. Nhưng trước khi con vật có thể bật lên khỏi sàn, cậu đã nhanh chóng phang mặt dưới cái xẻng vào thẳng đầu con vật thuộc loài gặm nhấm, khiến đầu nó vỡ toác. Máu lẫn vụn xương và dịch não chảy xuống những kẽ ván sàn phòng kho - Eugene không sao nén nổi cơn nôn ọe chợt đến - rồi cậu lấy lưỡi xẻng xúc con chuột chết lên. Nó nặng, nặng hơn là cậu hình dung và khi nằm thượt trên xẻng trông to hơn và dài hơn lúc đứng trên hai chân sau. Lạ thay không một bộ phận cơ thể nào - kể cả cái đuôi vô tri và bốn chân bất động - lại khiến Eugene biết chắc con vật đã chết như những cọng ria mảnh như cây kim dính máu. Với vũ khí giơ cao trên đầu, cậu không hề để ý tới những cọng ria nhỏ nhoi ấy; cậu không hề để ý tới bất cứ điều gì khác ngoài hai từ "Giết nó!" như thể ông ngoại đã lập sẵn công thức ấy vào trong đầu cậu. Chờ tới khi người khách cầm túi đồ rời khỏi cửa hàng, Eugene giơ chiếc xẻng ra phía trước - với vẻ lạnh tanh để chứng tỏ mình không hề sợ sệt - cậu cứ thế đi xuyên qua cửa hàng cho ông ngoại xem rồi bước tiếp ra ngoài. Tới góc đường, cậu nhóc rung rung cho xác con vật rơi khỏi xẻng, đẩy nó qua khung lưới sắt xuống cống. Trở lại cửa hàng, cậu lấy một cái bàn chải mòn, cục xà phòng màu nâu, mớ giẻ lau và một xô nước cọ sạch bãi nôn cùng những dấu vết mà con chuột để lại trên sàn nhà rồi rửa sạch sẽ cái xẻng.
Sau thắng lợi này, ông ngoại chuyển sang gọi thằng cháu bằng biệt danh Bucky-mười-tuổi-đeo-kính - với hàm ý ghi nhớ sự việc thể hiện bản tính kiên cường và gan góc, có nghị lực, có sức chịu đựng hơn người này của cậu.
Từ một ngôi làng Do Thái ở Polish Galicia thuộc châu Âu, ông ngoại Sam Cantor đã một mình di cư tới Mỹ vào thập niên 1880 khi mới chỉ là một đứa trẻ. Ông đã học được lòng can đảm trên những con phố Newark, nơi ông đã bị vỡ mũi không chỉ một lần vì đánh nhau với những kẻ bài Do Thái. Những vụ bạo lực gây hấn như cơm bữa-chống người Do Thái ở Newark trong suốt quãng đời niên thiếu sống ở khu ổ chuột đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình thành nên quan điểm sống của ông Cantor và tiếp đó là của đứa cháu ngoại ông. Ông khuyến khích cháu biết đấu tranh bảo vệ bản thân với tư cách là một con người và là một người Do Thái, thấu hiểu rằng tranh đấu không bao giờ kết thúc, rằng cuộc sống là một chuỗi đụng độ khắc nghiệt, "một khi ta buộc phải trả giá thì ta trả." Cái mũi gãy nằm giữa mặt ông luôn là bằng chứng cho cậu bé thấy rằng cuộc đời này đã hoài công mà không sao đè bẹp ông cho
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
được. Ông lão đã qua đời vì một cơn đau tim vào tháng Bảy năm 1941. Khi mười gã người Ý lái xe tới sân chơi, và chỉ mình Bucky đơn thương độc mã buộc chúng thoái lui, nhưng điều ấy không có nghĩa là ông ngoại không có mặt ở đó, trong suốt cuộc chạm trán ấy.
Một cậu bé mất mẹ từ lúc mới chào đời và cha thì ngồi tù, một cậu bé mà trong ký ức tuổi thơ không hề có bóng dáng mẹ cha, không thể nào tốt số hơn khi có được ông bà ngoại - những người thay thế cha mẹ - đã nuôi dạy cậu trở nên mạnh mẽ về mọi mặt - cậu rất ít khi để cho ý nghĩ mồ côi cả cha lẫn mẹ dày vò mình, mặc dù điều ấy được ghi rõ trong lý lịch của cậu.
LÚC BUCKY hai mươi tuổi và đang theo học năm đầu ở trường cao đẳng thì hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ bị quân Nhật bất ngờ ném bom và gần như bị tiêu diệt hoàn toàn tại Trân Châu Cảng vào Chủ nhật, ngày 7 tháng 12 năm 1941. Thứ Hai ngày mùng tám, anh đến ban tuyển quân phía ngoài trụ sở Ủy ban thành phố để đăng lính.
Nhưng bởi mắt kém, cả lục quân, hải quân, cũng như lực lượng phòng vệ bờ biển hay thủy quân lục chiến, không đâu nhận anh cả. Anh bị xếp hạng 4-F và bị trả lại trường Panzer để tiếp tục học thành giáo viên thể dục. Ông ngoại mới vừa mất, Bucky có một ý nghĩ kỳ quặc rằng anh đã khiến ông thất vọng và đã không đạt được những kỳ vọng từ người dạy dỗ kiên định của mình. Các cơ bắp cường tráng và thể hình lực sĩ phỏng có ích gì nếu anh không dùng chúng phục vụ quân đội? Bucky tập tạ từ tuổi thiếu niên đâu để chỉ ném lao - mà để trở thành một lính thủy đánh bộ.
Sau khi Mỹ bắt đầu tham chiến, Bucky vẫn dạo bước trên các con phố trong khi tất cả những chàng trai đủ điều kiện sức khỏe cùng độ tuổi đã kết thúc khóa huấn luyện để lên đường chiến đấu với quân Nhật và quân Đức, trong số đó có cả hai người bạn thân nhất của anh ở trường Panzer, cả ba đã cùng nhau xếp hàng ở ban tuyển quân sáng ngày mùng 8 tháng Mười Hai. Anh vẫn sống cùng bà, hằng ngày đi học ở trường Panzer, và bà đã nghe thấy anh khóc trong phòng ngủ khi được tin hai cậu bạn thân Dave và Jake đã tới Fort Dix để bắt đầu khóa huấn luyện mà không có mình, bà đã nghe thấy đứa cháu khóc dù trước đây bà biết Eugene chưa bao giờ khóc cả. Anh thấy hổ thẹn vì bộ đồ dân phục, hổ thẹn khi xem tin chiến sự trong rạp, hổ thẹn khi trên chuyến xe buýt tan học từ East Orange về nhà ở Newark lại ngồi cạnh ai đó đang đọc trên nhật báo buổi chiều những bản tin chiến sự nóng hổi trong ngày:
"Bataan thất thủ", "Corregidor bại trận", "Chiến bại nơi đảo Wake". Cảm giác xấu hổ nơi anh là của một người có thể tạo nên những thay đổi cho cục diện cuộc chiến vào lúc quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương đang liên tiếp hứng chịu những thất bại to lớn.
Bởi chiến tranh và lệnh gọi nhập ngũ, các trường cần một số lượng lớn nam giáo viên thể dục nên trước khi tốt nghiệp trường Panzer vào tháng Sáu năm 1943, Bucky đã nhận một chân ở trường Chancellor Avenue dành cho trẻ mười tuổi và ký hợp đồng làm người quản lý sân chơi trong dịp hè. Mục đích của anh là được dạy thể dục và làm huấn luyện viên ở Weequahic, trường trung học có cửa mở thông ra đại lộ Chancellor. Điều thu hút Bucky là ở cả hai trường, học sinh Do Thái đều chiếm số đông và đều có thành tích
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
học tập tuyệt vời. Anh mong muốn được dạy những học trò xuất sắc trong thể thao cũng như trong học tập, biết coi trọng tinh thần thể thao cũng như những gì học được qua các cuộc thi đấu trên sân. Anh muốn dạy chúng những điều ông ngoại đã dạy mình: ngoan cường và kiên định, có một thể hình đẹp, cân đối và không bao giờ cho phép kẻ khác lăng mạ mình hay chỉ bởi vì học giỏi mà lại bị phỉ báng là đồ Do Thái yếu ớt, ẻo lả.
TIN LAN KHẮP sân chơi sau khi Herbie Steinmark và Alan Michaels được đưa lên xe cứu thương vào khoa lây của bệnh viện Beth Israel, là cả hai đều bị tê liệt hoàn toàn, không còn khả năng tự thở và đang sống lay lắt trong máy trợ thở. Cho dù không phải tất cả lũ trẻ đều đến sân chơi sáng hôm ấy, nhưng vẫn có đủ số để lập thành bốn đội bóng chày đấu 5-hiệp vòng tròn luân phiên trong suốt cả ngày. Bucky ước lượng rằng nếu tính cả Herbie và Alan thì trong số chín mươi trẻ thường tới sân chơi có khoảng mười lăm hay hai mươi em vắng mặt - anh đoán chừng chúng bị cha mẹ giữ ở nhà vì sợ mắc phải bệnh bại liệt. Nghĩ vậy vì anh rất hiểu sự bao bọc của các bậc cha mẹ người Do Thái trong cộng đồng và nỗi e ngại nơi những người mẹ đầy thận trọng, nhưng thực tế anh lại ngạc nhiên bởi số đông trẻ không vì khiếp sợ mà lánh xa sân. Có lẽ bởi những lời anh giảng giải với bọn trẻ ngày hôm trước.
"Này các em," anh nói sau khi tập hợp lũ trẻ trên sân bóng trước khi cả bọn giải tán về nhà ăn tối, "thầy không muốn các em hoảng loạn. Bại liệt là một căn bệnh xuất hiện mỗi khi hè về. Đó là một căn bệnh không thể coi thường, nó quẩn quanh chúng ta suốt cả đời. Cách tốt nhất để đối phó với mối đe dọa từ bệnh này là giữ cho mình luôn mạnh khỏe và tráng kiện. Hãy cố gắng tắm rửa kỹ lưỡng mỗi ngày, ăn đầy đủ và ngủ tám tiếng, hãy uống tám cốc nước một ngày và không được lo lắng hay hoảng sợ. Tất cả chúng ta đều muốn Herbie và Alan mau chóng khỏe lại. Tất cả chúng ta đều mong ước chuyện này đã không xảy ra với hai bạn. Đó là hai cậu bé tuyệt vời và là bạn thân của nhiều em ở đây. Tuy nhiên, trong lúc Herbie và Alan đang bình phục tại bệnh viện, chúng ta đây phải tiếp tục sống cuộc sống của mình. Nghĩa là hằng ngày đến đây, đến sân chơi này và tập thể thao giống như các em vẫn từng làm. Nếu ai trong số các em cảm thấy không khỏe, tất nhiên là phải nói ngay với cha mẹ và ở nhà để theo dõi cho tới khi được bác sĩ thăm khám và chữa trị. Nhưng nếu như các em cảm thấy sung sức thì không có lý do nào trên đời có thể khiến các em không được chạy nhảy như các em thích trong suốt cả mấy tháng hè."
Tối ấy, Bucky năm lần bảy lượt dùng điện thoại trong bếp gọi đến nhà Steinmark và Michaels để bày tỏ sự quan tâm của mình và của đám trẻ trong sân chơi cũng như hỏi thăm về tình hình của hai cậu bé bị bệnh. Nhưng cả hai nhà đều không ai trả lời điện thoại. Thật không phải là một tín hiệu tốt lành. Cả hai gia đình chắc hẳn còn đang trong bệnh viện lúc chín giờ mười lăm phút tối.
Thế rồi có tiếng chuông điện thoại. Chính là Marcia, gọi từ vùng núi Pocono. Nàng đã nghe tin về hai đứa trẻ nơi sân chơi của anh. "Em nói chuyện với người nhà. Mọi người kể cho em. Anh ổn chứ?"
"Anh ổn," vừa nói anh vừa kéo dài dây điện thoại để có thể đứng ở chỗ mát hơn, kế bên khung cửa sổ đang mở. "Tất cả những đứa khác đều khỏe. Anh đang cố gắng liên lạc với gia đình hai cậu bé phải nằm viện xem chúng thế nào." "Em nhớ anh," Marcia nói,
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"và em lo cho anh."
"Anh cũng nhớ em," anh trả lời, "nhưng không việc gì phải lo cho anh cả."
"Giờ em thấy hối hận là đã lên đây." Nàng đã là tổng phụ trách được hai mùa hè tại Indian Hill, một trại hè dành cho trẻ Do Thái ở vùng núi Pocono thuộc bang Pennsylvania, cách thành phố bảy mươi dặm; nàng là giáo viên tiểu học tại trường Chancellor - hai người đã gặp nhau trong buổi họp mặt toàn thể các giáo viên mới vào mùa thu trước. "Tình hình nghe ra tệ anh nhỉ," nàng nói.
"Thật đáng lo cho hai cậu bé và gia đình chúng," anh nói, "nhưng tình hình vẫn trong tầm kiểm soát. Em không nên suy nghĩ thế." "Mẹ em có nói gì đó về đám choai choai người Ý tới sân chơi để làm lây lan căn bệnh."
"Mấy anh chàng người Ý ấy không làm lây lan gì đâu. Lúc ấy anh ở đó. Anh biết rõ mà. Chỉ là một đám hỗn hào thôi. Chúng khạc nhổ khắp con phố và bọn anh đã cọ sạch rồi. Bại liệt là bại liệt - không một ai biết nó được lây lan như thế nào. Cứ hè tới là nó xuất hiện mà mình chả làm được gì."
"Em yêu anh, Bucky. Em luôn nghĩ tới anh."
Hạ giọng để láng giềng không nghe thấy tiếng mình bên ô cửa sổ mở, anh đáp, "anh cũng yêu em." Thật khó khăn để thốt ra những lời này bởi lẽ anh đã tự đặt cho mình nguyên tắc của - khối óc, anh nghĩ - là không được quá mong nhớ khi nàng ở xa. Nói thế này cũng còn không dễ bởi anh chưa bao giờ thổ lộ thành lời với một cô gái nào và anh vẫn thấy lúng túng khi tìm từ ngữ để diễn tả.
"Em phải gác máy đây," Marcia nói. "Có người đang đứng chờ đằng sau. Anh nhớ giữ gìn nhé."
"Ừ. Nhưng em đừng lo. Không phải sợ. Không có gì phải hoảng sợ cả."
Ngày hôm sau, khắp khu phố ai cũng bàn tán về sự kiện trong khu vực trường học tại Weequahic đã có thêm mười một ca mắc bệnh bại liệt - bằng số ca mắc bệnh theo báo cáo của ba năm trước cộng lại mà lúc này mới chỉ là tháng bảy, vẫn còn hai tháng dài nữa mùa bại liệt mới kết thúc. Mười một ca mới, và trong đêm đó, Alan Michaels, cậu bé yêu quý của Bucky, đã chết. Căn bệnh đã hủy hoại cuộc đời cậu bé trong bảy mươi hai giờ.
Ngày kế tiếp là thứ bảy, sân chơi chỉ mở cửa phục vụ các hoạt động có tổ chức đúng đến trưa, vào lúc tiếng còi báo động của hệ thống phòng không đặt trên đỉnh các cột điện trong thành phố rú lên rồi rền rĩ kéo dài trong lần thử định kỳ hằng tuần. Sau khi đóng
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
cửa sân chơi, thay vì trở về phố Barclay phụ giúp bà ngoại mua hàng tạp phẩm cho tuần tới - hàng tồn kho trong cửa hàng tạp hóa của gia đình Cantor đã bị bán tống bán tháo sau khi ông ngoại mất - Bucky tắm trong phòng thay đồ của bọn con trai và mặc một bộ đồ quần dài áo sơ-mi, chân đi một đôi giày bóng lộn mà hồi sáng anh đã bỏ vào cái túi giấy mang đến đây, Rồi anh thả bộ dọc đại lộ Chancellor, xuôi theo dốc tới phố Fabyan Place, nơi gia đình Alan Michaels cư ngụ. Bất chấp căn bệnh bại liệt đang hoành hành trong cộng đồng nơi đây, trên con phố chính san sát của hiệu vẫn đầy người mua sắm đồ tạp hóa ngày thứ bảy, đi lấy đồ gửi giặt khô, mua thuốc theo toa hoặc bất cứ thứ gì họ cần trong cửa hàng điện gia dụng, cửa hàng quần áo nữ hoặc cửa hàng mắt kính và cửa hàng dụng cụ, đồ dùng gia dụng. Trong cửa hàng cắt tóc của Frenchy, tất cả ghế đều có người ngồi, họ là những người trong khu phố đang chờ cắt tóc hoặc cạo râu; ở cửa hàng sửa chữa giày dép kế bên, ông chủ người Ý - ông chủ cửa hàng duy nhất trên phố không phải là người Do Thái, bao gồm cả Frenchy - đang loay hoay kiếm mấy đôi giày đã sửa xong cho khách trong đống giày chất lộn xộn trên quầy; còn đài truyền thanh bằng tiếng Ý thì đang nói ồn ào qua cánh cửa để ngỏ của cửa hàng. Các cửa hàng đã hạ thấp tấm bạt đằng trước để che ánh nắng chói chang xuyên qua khung cửa sổ nhìn ra phố.
Đó là một ngày quang đãng, không mây và nhiệt độ tăng từng giờ. Các cậu trai học Bucky môn thể dục và những cậu từ sân chơi trở nên phấn khích khi phát hiện ra anh ngoài đại lộ Chancellor - bởi nhà anh không gần đây mà ở tận dưới mạn phía nam nên họ đã quen chỉ thấy anh trong văn phòng với vai trò giáo viên thể dục và người quản lý sân chơi. Anh vẫy tay khi nghe cả đám gọi "Thầy Cantor!" và anh mỉm cười gật đầu với phụ huynh, anh nhận ra vài người đã gặp trong các buổi họp phụ huynh. Một ông bố dừng chân để bắt chuyện. "Tôi muốn bắt tay cậu, chàng thanh niên," ông nói với anh. "Cậu đã tống cổ lũ Ý ấy đi. Lũ chó chết. Một chọi mười. Cậu quả là chàng trai can đảm." ‘Cảm ơn ông." "Tôi là Murray Rosenfield. Bố của Joey." "Xin cảm ơn ông Rosenfield." Kế đến, một bà vừa bước ra khỏi cửa hàng cũng dừng chân nói chuyện.
Bà mỉm cười lịch thiệp và bảo "Tôi là Lewy. Tôi là mẹ của cháu Bernie. Con trai tôi tôn sùng thầy, thầy Cantor ạ. Nhưng tôi có điều muốn hỏi thầy. Với tình hình hiện nay ở thành phố chúng ta, thầy có nghĩ là lũ trẻ bắt buộc phải vận động trong cái nóng như thế này không? Bernie về đến nhà là đầm đìa mồ hôi. Liệu có nên không thầy? Hãy xem chuyện thằng bé Alan đấy. Làm sao mà một gia đình có thể khuây khỏa được sau chuyện như thế chứ? Hai anh của nó đang trong quân ngũ, và giờ lại thế này." "Dạ, tôi không để tụi nhỏ chơi đến kiệt sức đâu, thưa bà Lewy. Tôi vẫn canh chừng chúng đấy ạ." "Bernie," bà nói, "nó không biết khi nào phải dừng lại. Nó có thể chạy cả ngày và cả đêm nếu không ai bảo nó thôi." "Tôi đảm bảo sẽ bắt em Bernie ngừng chơi nếu thấy em ấy nóng bức quá, tôi sẽ trông chừng cậu bé." "Vâng, cảm ơn, cảm ơn thầy. Mọi người vui lắm vì có thầy trông nom bọn trẻ." "Vâng, tôi mong mình giúp được phần nào," Bucky đáp. Một nhóm nhỏ vây quanh khi anh nói chuyện với mẹ của Bernie, giờ thì một bà nữa lại gần và giật tay áo anh để gọi. "Mà Ủy ban Y tế làm được gì hả cậu?" "Bà hỏi tôi ạ?" Bucky đáp lời. "ừ, cậu đấy. Qua một đêm mà có tới mười một ca mắc trong khu Weequahic! Một trẻ chết! Tôi muốn biết ủy ban Y tế đang làm gì để bảo vệ lũ trẻ của chúng ta." Tôi không làm ở ủy ban Y tế," Bucky đáp. "Tôi là người quản lý sân chơi ở Chancellor." "Ai đó nói anh làm ở ủy ban Y tế mà," bà truy anh. "Không, không phải tôi. Ước gì tôi giúp được bà nhưng tôi ở bên trường học ạ." "Cậu mà điện thoại cho ủy ban Y tế," bà nói, "là thấy máy bận. Tôi đồ rằng họ cố ý bỏ ống nghe ra." "ủy ban Y tế trước vẫn làm việc mà," một bà khác xen vào "Họ treo biển cách ly lên một ngôi nhà trong phố
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
tôi." Giọng bà này buồn bã thấy rõ, bà tiếp, "Đã có ca nhiễm bại liệt ở phố tôi!" "Mà chả thấy ủy ban Y tế làm gì hết!" Ai đó giận dữ hét lên. "Thành phố đang làm gì để ngăn chặn dịch? Không hề làm gì!" "Phải làm gì đó đi chứ - mà họ có làm đâu!" "Họ phải kiểm tra sữa lũ trẻ uống chứ nhỉ - bại liệt là từ mấy con bò bẩn thỉu và nó nhiễm vào sữa." "Không," người khác lại nói "Không phải tại bò đâu - bởi chai lọ đấy. Người ta không chịu tiệt trùng cẩn thận các chai lọ đựng sữa." "Sao họ không xông khói nhỉ?" Một giọng khác cất lên. "Sao họ không dùng chất tẩy uế cơ chứ? Nó sẽ thanh trùng tất cả mọi thứ." "Sao họ không làm giống hồi trước, khi tôi còn bé? Khi ấy người ta buộc long não vào cổ bọn tôi. Các cụ hồi ấy có thứ gì mùi thảo dược kinh lắm gọi là asafetida - có khi cách đấy giờ có tác dụng cũng nên." "Sao họ không phun hóa chất gì đấy trên các con phố để diệt bệnh nhỉ?" "Hóa chất thì quên đi," người khác lại bảo. "Quan trọng nhất là bảo lũ trẻ rửa tay. Rửa tay liên tục. Sạch sẽ! Sạch sẽ là cách duy nhất!" "Còn một thứ quan trọng nữa," Bucky xen lời, "đó là mọi người phải bình tĩnh, không mất tự chủ cũng như hoảng hốt. Và đừng có khiến lũ trẻ sợ. Điều quan trọng là làm sao để bọn trẻ sinh hoạt như bình thường, còn mọi người, trong lời ăn tiếng nói với chúng, hãy cố tỏ ra vừa phải và bình tĩnh." "Liệu có nên chăng cho chúng nó ở nhà cho đến khi hết dịch?" Một bà khác hỏi anh. "Nhà chả phải là nơi an toàn nhất trong lúc này sao? Tôi là mẹ của Richie Tulin. Richie nó tôn thờ thầy, thầy Cantor ạ. Cả lũ đều thế. Nhưng chả phải Richie sẽ ổn hơn, chả phải tất cả các cậu bé sẽ ổn hơn nếu thầy đóng cửa sân chơi và chúng ở trong nhà?" "Mình tôi không quyết định được việc đóng cửa sân chơi, bà Tulin ạ. Chuyện này tùy thuộc vào thầy hiệu trưởng nhà trường." "Đừng nghĩ tôi trách cứ thầy về những chuyện đang xảy ra," bà bảo. "Không, không ạ, tôi biết bà không có ý ấy. Bà là một người mẹ. Bà lo lắng. Tôi thông cảm với nỗi lo âu của mọi người." "Bọn trẻ Do Thái là gia sản của chúng ta," ai đó nói. "Sao dịch bệnh lại nhắm vào lũ trẻ Do Thái xinh xắn cơ chứ?" "Tôi không phải là bác sĩ. Tôi cũng không phải nhà khoa học. Tôi không biết tại sao nó lại lây lan, nó tấn công ai. Tôi không tin có người tạo ra nó. Vì thế ai cũng cố tìm xem người nào hay cái gì là nguyên nhân. Mọi người cố tìm xem nguyên cớ từ đâu để có thể thanh trừ nó." "Nhưng còn lũ người Ý thì sao? Đúng là do bọn Ý rồi!" "Không, không phải thế đâu. Tôi ở đó lúc mấy cậu người Ý đến. Chúng chẳng chạm vào bọn trẻ nữa cơ. Không phải là bọn Ý đâu. Bà ơi, rõ là bà lo lắng quá rồi và bà đừng có sợ hãi quá thế. Quan trọng là đừng gieo rắc nỗi sợ hãi cho lũ nhỏ. Chúng ta sẽ vượt qua dịch bệnh này, tin tôi đi. Tất cả chúng ta hãy làm tròn bổn phận của mình, giữ bình tĩnh cũng như làm tất thảy những gì có thể để bảo vệ lũ trẻ, và tất cả chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua trận dịch này," anh nói. "ừ, cảm ơn thầy, chàng trai. Thầy là một thanh niên tuyệt vời." "Tôi phải đi, xin mọi người thứ lỗi," anh nói với tất cả bọn họ, nhìn lần cuối vào những con mắt lo âu, cầu khẩn anh như thể anh có quyền năng gì khác lớn hơn cái cương vị là một người quản lý sân chơi hai mươi ba tuổi.
FABYAN PLACE là con phố tận cùng Newark, kế đến là đường ray xe lửa, mấy cái kho chứa gỗ và ranh giới với thị trấn Irvington. Giống như những con phố dân cư khác ăn thông với đại lộ Chancellor, hai bên đường là những ngôi nhà bằng gỗ hai tầng có gác mái, phía trước là bậc thềm lát gạch đỏ cùng khoảnh sân nhỏ xíu được rào quanh, nhà này ngăn cách với nhà bên cạnh bằng lối chạy ô-tô hẹp tráng xi-măng dẫn vào một ga-ra nhỏ. Trên lề đường phía trước bậc thềm mỗi ngôi nhà là một cây non che bóng mát được thành phố trồng từ thập niên trước, giờ trông khô héo bởi vài tuần qua trời nóng như thiêu như đốt mà không có lấy một giọt mưa. Không có biểu hiện nào của sự đau ốm hay truyền nhiễm trên con phố sạch sẽ và yên ắng này. Mành mành cùng các bức rèm cửa sổ ở tất cả các nhà, các tầng đều được kéo xuống để ngăn hơi nóng dữ dội từ ngoài đường lọt vào. Không một bóng người, Bucky tự hỏi liệu có phải vì nóng hay vì hàng xóm, láng giềng đang giữ rịt con cái ở trong nhà do tôn trọng - hay có lẽ bởi khiếp sợ gia đình nhà Michaels.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Một bóng người ló dạng ở góc quanh đại lộ Lyons, một mình một lối, băng qua ánh nắng chói chang đang thiêu đốt Fabyan Place và làm mềm cả lớp nhựa rải đường. Bucky nhận ra người ấy từ đằng xa nhờ dáng đi đặc biệt. Horace. Tất cả mọi người, từ đàn ông, đàn bà đến con trẻ ở khu Weequahic đều nhận ra Horace, phần lớn bởi cảm giác rất bất an khi thấy ông ta đang hướng về lối đi của mình. Khi những đứa trẻ nhìn thấy ông, chúng chạy sang bên kia đường; khi người lớn nhìn thấy ông, họ cụp mắt xuống. Horace là "ông khờ" trong khu dân cư này, một người đàn ông gầy nhom trạc tuổi ba mươi mấy bốn mươi - không ai biết chắc ông ta bao nhiêu tuổi - có trí não đã ngừng phát triển từ hồi lên sáu và bác sĩ tâm lý chắc sẽ xếp vào loại đần độn hoặc thậm chí là dở hơi thay vì cái tên "ông khờ" mà đám thanh niên trong khu phố đã gán cho ông ta bấy lâu mà không hề dựa trên kết quả thăm khám nào. Horace kéo lê hai bàn chân, đầu để nhô ra đằng trước giống như đầu rùa, lẩy bẩy bước từng bước, nhìn tổng thể ông ta không phải là đang bước đi mà trong tư thế loạng choạng tiến về phía trước. Nước dãi tụ lại nơi khóe miệng mỗi dịp hiếm hoi Horace cất tiếng, còn khi lặng thinh, chốc chốc ông ta cũng chảy nước dãi. Khuôn mặt bẹt, dị dạng như thể khi chào đời đã bị mỏ kẹp đè nghiến và vặn xoắn lúc được lôi ra khỏi tử cung của người mẹ, ngoại trừ cái mũi to - làm cho khuôn mặt ông ta trở nên chật chội - có hình dạng củ hành kỳ quặc và lố bịch khiến một vài đứa trẻ hét lên "Này, mũi kèn!" để trêu chọc mỗi khi thấy Horace lê bước ngang qua nơi chúng tụ tập trước bậc thềm hay lối vào ga-ra bên hông nhà. Quanh năm suốt tháng, quần áo Horace bốc ra một thứ mùi chua loét và trên khuôn mặt lấm tấm những nốt đỏ cùng những vết cắt trên da mặt chứng tỏ dù có thể có trí não của một đứa bé thì Horace cũng mọc râu như người trưởng thành và tuy khá mạo hiểm, ông ta đã tự cạo hoặc nhờ một trong hai đấng sinh thành của mình cạo hộ trước khi ra đường mỗi ngày. Mấy phút trước, hẳn là ông ta đã rời căn phòng nhỏ phía sau cửa hàng cắt tóc ngay góc lượn của con phố, nơi đó ông sống cùng cha mẹ, là một cặp vợ chồng đứng tuổi nói với nhau bằng tiếng Do Thái cổ Yiddish còn với các khách hàng thì bằng thứ tiếng Anh rất nặng và nghe đâu họ cũng có những đứa con bình thường đã lớn và sinh sống ở nơi khác - ngạc nhiên một điều là, hai người anh của Horace nghe nói một là bác sĩ còn một là một doanh nhân thành đạt. Horace là con út và ngày nào ông ta cũng lê bước trên các con phố trong khu, ngày oi bức nhất mùa hè cũng như ngày lạnh cắt da cắt thịt mùa đông, với một áo khoác len quá khổ, cái mũ liền áo được kéo lên trùm bên ngoài mũ len che tai, chân đi đôi ủng cao su màu đen không cài móc, hai cái găng tay dành cho đôi bàn tay to bè được đính lủng lẳng vào hai ống tay áo bằng kim băng mà chẳng bao giờ dùng tới bất luận nhiệt độ thấp đến cỡ nào. Mặc bộ trang phục này khi lê bước trên đường càng khiến Horace trông kỳ quặc hơn.
Bucky tìm thấy nhà của Michaels ở cuối phố, qua các bậc thềm, vào trong gian tiền sảnh có gắn mấy hòm thư, anh nhấn chuông căn hộ của họ trên tầng hai và nghe thấy tiếng chuông reo trên gác. Có ai đó chậm chạp bước xuống các bậc thang bên trong rồi mở cánh cửa lắp kính mờ dưới chân cầu thang. Đó là một người đàn ông to lớn, trông rất vững chãi, mặc áo sơ-mi ngắn tay có hàng nút chật căng trên bụng. Bên dưới cặp mắt là hai quầng thâm sẫm, dù đã trông thấy Bucky, ông vẫn lặng thinh như thể nỗi đau buồn đã khiến cho chủ nhân trở nên quá u mê không thể thốt nên lời.
"Tôi là Bucky Cantor. Tôi là quản lý sân chơi ở trường Chancellor và là giáo viên thể dục ở đó. Alan học lớp tôi. Cậu bé cũng chơi bóng ở chỗ sân chơi. Tôi đã nghe chuyện và đến đây để xin chia buồn."
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Mãi sau người đàn ông mới trả lời. "Alan có nhắc đến thầy," cuối cùng ông cũng thốt ra.
"Alan là một vận động viên bẩm sinh. Một cậu bé chu đáo. Thật là một tin đau xót, bàng hoàng. Thật không sao hiểu nổi. Tôi đến đây vì muốn bày tỏ nỗi đau buồn của mình với gia đình ta."
Gian tiền sảnh rất nóng, và cả hai đầm đìa mồ hôi.
"Lên nhà đi," ông Michaels nói. "Chúng tôi xin được mời thầy chút nước lạnh."
"Tôi không dám phiền ông đâu," Bucky đáp. "Tôi chỉ muốn chia buồn và nói rằng ông bà đã có một cậu con trai tuyệt vời. Cậu ấy thật trưởng thành về mọi mặt."
"Nhà có trà đá. Em vợ tôi pha. Nhà đã mời bác sĩ khám cho vợ tôi. Bà ấy nằm bẹp từ lúc ấy đến giờ. Bác sĩ phải cho uống thuốc an thần. Thầy lên nhà uống trà đã." "Thật tình tôi không dám làm phiền ạ."
"Không sao đâu. Alan đã kể cho chúng tôi về thầy Cantor cùng sức khỏe của thầy. Nó yêu thích sân chơi lắm." Và rồi, giọng ông nghẹn lại, "Nó yêu đời lắm."
Bucky theo chân người đàn ông cao to, phờ phạc bởi đau buồn ấy lên gác và bước vào căn hộ. Tất cả rèm cửa đều được thả xuống và không một ngọn đèn nào được bật sáng. Trong phòng có một cái ra-đi-ô để phía sau ghế sô-pha và đối diện là hai ghế bành lớn. Bucky ngồi trên sô-pha còn ông Michaels đi vào bếp rồi quay ra cầm trên tay một cốc trà đá cho khách. Ông mời Bucky ngồi vào một chiếc ghế bành rồi với vẻ đau khổ và thở dài sườn sượt, ông ngồi xuống chiếc ghế bành còn lại, phía trước ghế này kê một cái kệ gác chân nhỏ. Sau khi ngả người trong ghế và gác chân lên cái kệ nhỏ, trông ông chắc cũng giống như bà vợ, đang nằm trong giường, vừa được cho uống thuốc và không sao gượng dậy nổi. Tin dữ đã khiến khuôn mặt người đàn ông trở nên vô cảm. Trong bóng tối nhờ nhờ, quầng thâm dưới cặp mắt ông trông thẫm đen, như thể ai đó đã đóng hai con dấu mực tang thương lên đó. Thay vì tự xé quần áo của mình khi nghe tin người thân qua đời như phong tục cổ xưa của người Do Thái - ông Michaels đã gắn trên khuôn mặt nhợt nhạt của mình hai quầng tối ấy.
"Mấy thằng con tôi đang trong quân ngũ," ông nói, vẻ yếu ớt đến mức nếu có ai đó ở ngay phòng kế bên chắc cũng không sao nghe thấy nổi, đồng thời chậm rãi như thể đã quá kiệt sức. "Từ khi chúng phải đóng quân ở nước ngoài, không có ngày nào là tôi không lo sẽ nhận được tin dữ. Cho tới giờ chúng vẫn sống sót sau những trận đánh ác liệt nhất, vậy mà chỉ vài buổi sáng trước, thằng em tỉnh dậy thấy cứng cổ và sốt cao, để rồi ba ngày sau nó chết. Chúng tôi biết kể với mấy đứa anh của nó ra sao bây giờ? Chúng tôi biết viết thư cho lũ anh đang chiến đấu của nó như thế nào bây giờ? Một đứa trẻ mới mười hai tuổi đầu, một thằng bé không thể có ai
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
ngoan hơn, vậy mà nó đã đi rồi. Tối đầu nó thảm lắm nên sáng hôm sau tôi cứ nghĩ là đỉnh điểm đã qua và con nguy kịch đã hết. Nhưng hóa ra thảm kịch mới chỉ bắt đầu. Ôi đấy là một ngày khốn khổ của thằng bé. Nó nóng như hòn than. Thầy xem nhiệt kế và sẽ không tin đâu - hơn bốn mươi mốt độ! Ngay khi bác sĩ đến nơi, ông ấy đã lập tức gọi xe cấp cứu, rồi ở bệnh viện họ mang ngay thằng bé đi mất - thế đấy. Chúng tôi không bao giờ còn thấy lại đứa con trai của mình nữa. Nó chết côi cút một mình. Không có cả lời chào từ biệt. Tất cả những gì còn lại của nó là tủ quần áo, sách vở, dụng cụ thể thao, và kia, ở đằng kia kìa, là bầy cá nó nuôi."
Lần đầu tiên, Bucky để ý thấy một bể cá lớn treo trên vách tường cuối phòng, chỗ đó không những tối bởi mấy tấm mành mà còn do rèm bị kéo xuống che phủ ô cửa sổ chắc hẳn trông xuống lối chạy xe và căn nhà kế bên. Một bóng đèn nê-ông rọi xuống bể cá, và trong đó anh thấy lũ cá bé xíu, sặc sỡ, cả thảy mười mấy con, con thì trốn vào trong một cái hang giả, được trang trí bằng những bụi cây xanh, hoặc sục sạo lớp cát dưới đáy tìm mồi, con thì đang ngoi lên mặt nước đớp đớp, hay chỉ bất động gần một ống sục khí màu bạc ở góc bể. Hẳn là công trình do Alan tự làm, Bucky thầm nghĩ, một bể cá đúng nghĩa đã được cậu bé chăm sóc kỹ lưỡng và cẩn thận.
"Sáng nay," Ông Michaels tiếp, nhún vai ra dấu về phía cái bể, "tôi mới nhớ cho chúng ăn. Tôi bật dậy và sực nhớ ra." "Đó là cậu bé tuyệt vời nhất," Bucky nói, rướn người qua ghế để ông Michaels có thể nghe rõ mà không cần nói to.
"Luôn luôn làm bài tập ở trường," ông Michaels tiếp lời. "Luôn giúp mẹ. Không hề có chút ích kỷ nào trong con người nó. Tháng chín tới đây nó sẽ bắt đầu chuẩn bị cho Lễ Trưởng thành. Lễ phép. Gọn gàng ngăn nắp. Hằng tuần đều viết cho các anh nó những bức thư, nó đọc cho chúng tôi nghe bên bàn ăn tối, thư nào cũng đầy ắp tin tức. Luôn khích lệ động viên mẹ mỗi khi bà ấy lo lắng buồn phiền về hai thằng anh. Luôn làm mẹ nó bật cười. Ngay khi nó còn bé, cả nhà cũng có những khoảng thời gian vô cùng vui vẻ với nó. Nhà chúng tôi là nơi tất cả bạn bè của chúng nó tới chơi vui vẻ, nơi lúc nào cũng nhộn nhịp lũ bạn trai. Tại sao Alan lại mắc bệnh bại liệt? Tại sao nó lại bị ốm và chết cơ chứ?"
Bucky bóp chặt cốc trà đá lạnh trong tay, không uống, anh thậm chí không biết là mình đang cầm nó nữa.
"Tất cả các bạn của nó đều kinh hãi," ông Michaels nói. "Chúng sợ đã nhiễm bệnh từ Alan và giờ đây chúng cũng sắp bị mắc bại liệt. Cha mẹ chúng hoảng loạn. Không ai biết phải làm gì. Làm gì chứ? Chúng tôi lẽ ra cần phải làm những gì? Tôi nặn óc nghĩ mãi. Có gia đình nào sạch sẽ hơn gia đình này? Có người phụ nữ nào giữ cho nhà cửa sạch sẽ tinh tươm hơn vợ tôi? Có người mẹ nào chăm chút sức khỏe cho con cái chu đáo hơn người mẹ của các con tôi nữa? Có đứa bé nào chăm nom phòng mình, quần áo và chính bản thân tốt hơn Alan? Mọi thứ nó làm, nó đều làm hoàn hảo ngay từ lần đầu tiên. Và lúc nào cũng vui tươi. Luôn luôn đùa cười. Vậy tại sao nó lại chết? Sự công bằng ở đâu?"
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Không có," Bucky đáp.
"Anh chỉ làm điều đúng đắn, điều đúng đắn, điều đúng đắn và điều đúng đắn, trước giờ đều thế. Anh cố gắng làm người chu đáo, người biết điều, người luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác, và rồi chuyện này xảy đến. Lẽ đời ở đâu?" "Dường như không có," Bucky trả lời.
"Cán cân công lý ở đâu chứ?" Người đàn ông đáng thương hỏi.
"Tôi không biết, ông Michaels ạ."
"Tại sao bi kịch luôn giáng xuống đầu những người không đáng phải nhận nhất?"
"Tôi không biết câu trả lời," Bucky đáp.
"Tại sao không phải là tôi mà lại là nó chứ?"
Bucky không có bất cứ câu trả lời nào cho một câu hỏi như thế. Anh chỉ có thể nhún vai tỏ ý lấy làm tiếc.
"Một cậu bé - bi kịch nhằm đánh vào một cậu bé. Thật tàn nhẫn!" Ông Michaels thốt lên, đập mạnh lòng bàn tay xuống thành ghế. "Vô lý quá! Căn bệnh khủng khiếp từ trên trời rơi xuống và một người bị chết chỉ sau có một đêm. Một đứa trẻ, không hơn không kém!"
Bucky ước gì mình có thể nghĩ ra được một từ để thốt lên và giúp làm dịu bớt, dù chỉ trong khoảnh khắc, nỗi thống khổ của người cha này. Nhưng tất cả những gi anh có thể làm là gật đầu mà thôi.
"Cái buổi tối hôm ấy, chúng tôi ngồi ngoài đường," Ông Michaels nói. "Alan ngồi cùng với chúng tôi. Nó đã về nhà sau khi chăm nom xong mảnh đất nhỏ của nó trong khu vườn tăng gia. Nó làm việc ấy một cách chăm chỉ. Năm ngoái, thực tình chúng tôi ăn rau Alan trồng trong suốt cả mùa hè đấy. Lúc đó một cơn gió nhẹ thổi tới. Bất thình lình trời có gió. Thầy có nhớ đêm hôm ấy không? Khoảng chừng tám giờ gì đó, trời mát hẳn."
"Vâng, có ạ," Bucky nói, nhưng không còn lắng nghe nữa. Anh đang nhìn qua căn phòng chỗ những con cá nhiệt đới bơi lội trong bể và thầm nghĩ nếu không có Alan chăm sóc, chúng sẽ bị bỏ đói đến chết hoặc bị mang đi cho, hoặc, do buồn chán mà bị ai đó lúc đang nước mắt đầm đìa đem bỏ vào bồn cầu xối nước cho trôi đi.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Nó giống như cơn gió lành sau một ngày nóng như thiêu. Anh chờ và chờ mãi một làn gió nhẹ. Anh nghĩ làn gió sẽ mang đến sự thư thái. Nhưng anh có biết tôi nghĩ nó mang đến gì không?" Ông Michaels hồi. "Tôi cho rằng làn gió ấy gieo rắc mầm bệnh bại liệt vào trong không khí, khắp nơi, khắp chốn, anh cứ nhìn lớp lá bị cuốn đi theo ngọn gió mà xem. Tôi nghĩ Alan lúc ấy ngồi kia và hít phải mầm bệnh trong cơn gió đó..." Ông không sao nói tiếp được, ông bật khóc, lúng túng, vụng về. Đó là kiểu khóc của đàn ông, những người thường thích cho rằng bản thân có thể đương đầu với bất cứ điều gì.
Lúc này, một người đàn bà bước ra khỏi phòng ngủ; đó là cô em dâu đang săn sóc cho bà Michaels. Cô bước đi gượng nhẹ trên đôi giày của mình, như thể lúc ấy ở phòng trong có một đứa trẻ hiếu động rốt cuộc cũng đã lăn ra ngủ.
Cô thì thầm, "Chị muốn biết anh đang nói chuyện với ai."
"Đây là thầy Cantor," ông Michaels vừa nói vừa lau mắt. "Thầy ấy là giáo viên của trường thằng Alan học. Chị sao rồi?" Ông hỏi em dâu.
"Không khỏe," cô hạ giọng. "Cứ nói đi nói lại. ‘Không phải con tôi, không phải con tôi.’"
"Anh sẽ vào ngay." Ông trả lời.
"Tôi cũng nên đi thôi," Bucky nói và đứng dậy, để cốc trà chưa uống xuống mép bàn. "Tôi chỉ muốn bày tỏ lòng thương tiếc của mình. Xin hỏi khi nào gia đình tổ chức tang lễ ạ?"
"Ngày mai, vào lúc mười giờ. Ở giáo đường phố Schley. Alan là học trò yêu của thầy dạy giáo lý Do Thái Slavin. Ai cũng yêu thích nó. Cha Slavin đã đến đây và ngay khi biết chuyện đã nói sẽ làm lễ cầu nguyện. Đấy là một đặc ân cho Alan. Trên đời này ai cũng yêu quý thằng bé. Nó là đứa mà cả triệu người mới gặp một."
"Thầy dạy cháu nó môn gì thế ạ?" Người em dâu hỏi Bucky.
"Thể dục ạ."
"Alan thích bất cứ thứ gì dính đến thể thao," cô bảo. "Thật là một học trò mẫu mực. Thằng bé mà ai ai cũng yêu." "Tôi biết," Bucky nói. "Tôi thấy đúng vậy. Thật không sao bày tỏ hết được lòng thương tiếc của tôi."
Dưới nhà, khi anh bước xuống bậc thềm, một phụ nữ từ trong căn hộ tầng một chạy vội ra, phẫn nộ kéo tay anh lại hỏi, "Bảng eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
hiệu cảnh báo cách ly đâu? Ở tầng trên ấy, mọi người cứ đi lên, đi xuống, vào ra, ra vào mà chả có cảnh báo cách ly gì cả? Nhà tôi có trẻ con. Tại sao không có một bảng cách ly để bảo vệ lũ trẻ nhà tôi? Anh có phải là tuần tra viên của đội vệ sinh dịch tễ không?"
"Tôi không biết gì chuyện của đội vệ sinh dịch tễ cả. Tôi làm ở sân chơi. Tôi dạy ở trường học."
"Thế ai phụ trách việc này?" Một bà da đen, người nhỏ thó, vẻ đầy lo âu, mặt bà nhăn nhó đầy kích động, trông như thể bại liệt đã hủy hoại xong cuộc đời của bà rồi chứ không phải lũ trẻ nhà bà đang chỉ tạm thời phải sống trong khu vực lây nhiễm của nó.
"Tôi cho là ủy ban Y tế chịu trách nhiệm chuyện này," Bucky đáp.
"Họ ở đang đâu?" bà căn vặn. "Mấy người có trách nhiệm đâu rồi? Mọi người sống trong khu phố thậm chí không bước đến cửa nhà chúng tôi - họ cố ý đi tránh sang bên kia đường. Thằng bé thì chết rồi," bà nói thêm, giọng đứt quãng vẻ tuyệt vọng, "mà tôi vẫn đang chờ một bảng cảnh báo cách ly!" Nói đến đây bà thét lên. Trước đây, Bucky chưa bao giờ nghe thấy một tiếng thét như thế, ngoại trừ trong phim kinh dị. Nó khác với tiếng la hét. Nó giống như được tạo ra bởi một dòng điện. Nó là một âm thanh có âm vực cao, kéo dài không giống bất kỳ âm thanh nào của con người mà anh biết, và tác động kỳ quái của nó khiến anh sởn gai ốc.
VÌ CÒN CHƯA ĂN TRƯA, nên Bucky rảo bước đến cửa hàng bán đồ ăn nhanh Syd’s để mua một cái hot-dog. Anh cẩn trọng bước trên lề đường phía có bóng mát, băng nhanh qua những chỗ không gì che chắn ánh mặt trời chói chang và những chỗ anh có thể thấy lờ mờ hơi nóng lung linh bốc lên trên hè phố. Hầu hết người đi mua sắm đã mất dạng. Đó là một trong những ngày nóng nực nhất mùa hè ấy, nhiệt kế chỉ tới vạch ba mươi tám độ, và nếu như sân chơi mở cửa, anh hẳn sẽ cắt giảm các hiệp của môn bóng mềm, khuyến khích đám trẻ chơi cờ vua, cờ đam và chơi bóng bàn trong bóng mát của ngôi trường. Rất nhiều đứa trẻ uống những viên thuốc muối mẹ chúng đưa để chống chọi với cái nóng, và muốn tiếp tục chơi bất luận nhiệt độ lên cao đến cỡ nào, thậm chí ngay cả khi mặt sân trải nhựa bắt đầu có cảm giác như mềm ra và tỏa hơi nóng bên dưới những đôi giày thể thao; và nắng nóng đến mức thay vì làm đen sạm làn da, nó có thể tẩy trắng thân người trước khi thiêu rụi người ta tại chỗ. Ký ức về những lời than khóc của bố Alan vẫn còn nguyên, Bucky phân vân không biết có buộc phải ngừng mọi hoạt động thể thao trong những ngày còn lại của mùa hè khi nhiệt độ lên tới ba mươi hai độ hay không. Như thế, ít nhất, anh cũng đã cố làm gì đó, mặc dù không rõ nó có tạo ra được tí gì khác biệt đối với sự lây lan của căn bệnh bại liệt không nữa.
Ở Syd’s vắng hoe. Ai đó đang rủa cái máy chơi đánh bi trong thứ ánh sáng lờ mờ phía sâu trong cửa hàng, hai cậu học sinh trung học anh không quen mặt đang nghịch ngợm bên cạnh máy hát đang phát bài "I’ll be seeing you" (Rồi em sẽ gặp lại anh), một trong những bài hát yêu thích của mùa hè này. Đó là bài hát mà Marcia thích nghe trên đài và được ưa thích bởi tất cả những người vợ và những cô gái ở hậu phương trong khi chồng và người yêu của họ đang hiện diện ở chiến trường. Giờ đây anh nhớ lại lúc cùng Marcia nhẩy theo điệu nhạc của bài hát này ở hàng hiên phía sau nhà nàng một tuần trước khi nàng lên đường tới Indian Hill. Dìu bước chầm
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
chậm, ôm nhau xoay vòng trong tiếng bài hát "I’ll be seeing you" khiến họ bắt đầu cảm thấy nhớ nhau ngay cả trước khi Marcia rời thành phố đi xa.
Lúc Bucky ngồi xuống ghế kế cánh cửa có lưới ngăn côn trùng và ô cửa sổ dài dùng để giao nhận trông ra đại lộ Chancellor nhằm hứng chút gió thổi từ ngoài phố thì không có ai trong các ô bàn ăn cũng như trên dãy ghế đặt quanh quầy phục vụ cả. Một cái quạt máy to tướng đang thổi gió từ đầu này đến đầu kia quầy phục vụ nhưng xem ra không có mấy tác dụng. Cửa hàng vẫn nóng và nồng nặc mùi khoai tây xắt miếng rán giòn ngập mỡ.
Anh mua một cái bánh hot-dog và một chai nước ngọt có ga làm từ rễ cây còn đọng chút sương lạnh bên ngoài, và bắt đầu nhấm nháp. Ngoài cửa sổ, đang băng ngang qua đường, chậm chạp lê bước lên dốc trong cái nóng như thiêu như đốt của thành phố vùng xích đạo Newark lại là Horace, rõ ràng đang hướng về phía sân chơi, không nhận thức được rằng hôm nay là thứ bảy và đang độ hè, sân chơi đóng cửa từ trưa thứ bảy. (Cũng không rõ liệu ông ta có hiểu được thế nào là "mùa hè" , "sân chơi" , "đóng cửa" hay "buổi trưa" không nữa, chỉ nội việc ông ta sai lầm khi đi qua lề đường bên kia là đã đủ thấy con người này không thể nhận thức được một cách sơ đẳng khái niệm bóng râm" hay thậm chí chỉ để tìm đến nó một cách bản năng, giống như bất cứ một con chó nào cũng làm trong một ngày như thế này.) Khi Horace thấy không có đứa trẻ nào ở phía sau trường học, ông ta sẽ làm gì tiếp theo? Ngồi hàng giờ trên khán đài không mái che chờ cho chúng quay trở lại, hay tiếp tục lang thang giữa các khu phố khiến ông ta trông giống như một kẻ mộng du giữa ban ngày? Phải, Alan đã chết và căn bệnh bại liệt đang là mối đe dọa đối với cuộc sống của tất cả trẻ em trong thành phố, Bucky không thể làm được gì nhưng cảm thấy ngán ngẩm khi quan sát Horace lê bước trên các con phố dưới ánh mặt trời gay gắt, đơn độc và vô tri trong một thế giới chói chang thiêu đốt.
Trong lúc bọn trẻ chơi bóng, Horace thường hoặc là ngồi lặng lẽ ở đầu băng ghế nơi đội phát bóng thường ngồi hoặc đứng lên đi vòng vòng quanh sân bóng, dùng chân cách một người chơi chừng một hay hai bước và đứng yên ở đó không nhúc nhích. Chuyện này luôn xảy ra, và ai cũng biết cách duy nhất để tống khứ Horace - và để tập trung thi đấu - là nắm lấy bàn tay vô hồn của ông khờ mà lắc rồi hỏi "Ông khỏe không, Horace?" Thế là Horace sẽ tỏ vẻ hài lòng và đi đến đứng cạnh một người chơi khác. Những gì ông ta cần từ cuộc đời chỉ có vậy - nắm tay ông và lắc. Không cậu trai nào ở sân chơi cười cợt hay chòng ghẹo ông ta - ít nhất là khi có Bucky ở đó - trừ cặp anh em hiếu động bất trị nhà Kopferman, Myron và Danny. Chúng là những cậu bé to khỏe, giỏi thể thao, Myron là đứa quá hiếu động và hiếu chiến còn Danny thì ma mãnh và ám muội. Cậu anh, Myron, mười một tuổi, có tất cả tính cách của một tay đầu gấu và cần phải được kiềm chế khi có chuyện tranh cãi giữa các cậu bé trên sân đấu hay khi cậu này quấy phá bọn con gái đang nhảy dây. Bucky đã dành không ít thời gian để cố dạy cho Myron bất trị về tinh thần thượng võ trong thi đấu cũng như cảnh cáo cậu không được trêu chọc Horace.
"Nhìn này," Myron sẽ bảo; "Nhìn này Horace. Xem cháu làm gì này." Khi Horace thấy mũi giày thể thao của Myron gõ nhịp trên các bậc khán đài, các ngón tay của ông ta sẽ bắt đầu co quắp và khuôn mặt con người ấy sẽ ửng đỏ, rồi ngay sau đó ông ta sẽ khua tay
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
trong không khí như đang chiến đấu với một đàn ong. Trong mùa hè đó, Bucky đã vài lần phải bảo Myron Kopferman dừng trò đó lại và đừng có tái diễn nữa. "Trò gì cơ ạ? Làm trò gì cơ ạ?" Myron hỏi, toét miệng cười làm ra vẻ mình không làm gì hỗn láo cả. "Em chỉ nhịp nhịp chân, thầy Cantor - em không có quyền nhịp chân à?" "Thôi ngay đi, Myron," Bucky nạt ngang. Cậu em mười tuổi nhà Kopferman, Danny, có một khẩu súng đồ chơi bằng sắt trông giống như súng lục ổ quay mà cậu vẫn thường bỏ trong túi quần, cả khi đang chơi ở vị trí chốt hai. Mỗi khi bóp cò, khẩu súng phát ra một tiếng nổ nhỏ và chút khói giống như thật. Danny thích tới sau những đứa khác và dùng súng dọa đám bạn. Bucky từng khoan thứ cho trò nghịch ngợm này chỉ bởi nó thật ra chẳng bao giờ khiến các cậu bé sợ. Nhưng một hôm Danny lấy khẩu súng đồ chơi ra và vung vẩy nó về phía Horace rồi ra lệnh cho ông ta giơ tay lên, khi Horace không chịu làm theo, Danny liền khoái chí xả liền năm viên đạn. Tiếng nổ và khói bốc ra khiến Horace kinh hãi, ông vụng về lạch bạch chạy trốn khỏi kẻ chòng ghẹo mình. Bucky đã tịch thu khẩu súng, cất vào ngăn kéo phòng làm việc, cùng với món đồ chơi còng tay mà hồi đầu hè Danny đã dùng để dọa các bé nhỏ hơn ở sân chơi. Đây không phải là lần đầu tiên anh đuổi Danny về nhà với một thông báo gửi cho bà mẹ về hành vi của cậu con trai út. Tuy nhiên anh ngờ là bà chưa bao giờ nhận được nó cả.
Yushy, anh chàng đã làm lâu năm tại cửa hàng Syd’s, mặc chiếc tạp-dề lấm lem vết mù tạt, nói với Bucky, "Quanh đây không có ma nào cả."
"Trời nóng quá," Bucky đáp. "Đang là mùa hè. Lại là cuối tuần. Ai cũng đi ra biển hoặc ở trong nhà."
"Không, không ai đến vì chuyện thằng bé đấy."
"Alan Michaels ấy hả?"
"Ừ," Yushy trả lời. "Nó đã ăn một cái bánh hot-dog ở đây, về nhà và nhiễm bại liệt rồi chết, nên giờ ai cũng sợ đến đây. Thật nhảm nhí. Anh không thể mắc bại liệt từ một cái hot-dog. Chúng tôi bán cả ngàn cái hot-dog mà chả ai mắc bại liệt cả. Rồi một đứa trẻ mắc bại liệt và ai ai cũng nói, ‘Đó là do hot-dog ở quán Syd’s, đó là do hot-dog ờ quán Syd’s!’ Một cái hot-dog đã luộc chín rồi. Làm sao mà lây bại liệt từ một cái hot-dog đã luộc chín hả?"
"Mọi người hoảng sợ ấy mà," Bucky nói. "Họ sợ chết khiếp, nên cái gì họ cũng lo."
"Chính là lũ chó người Ý mang đến đấy," Yushy khẳng định.
"Không phải đâu," Bucky bảo.
"Đúng mà, chúng nó đấy. Chúng khạc nhổ khắp nơi."
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Lúc ấy tôi ở đó mà. Bọn tôi cọ rửa sạch đờm dãi bằng a-mô-ni-ắc rồi."
"Anh cọ sạch đờm dãi nhưng không cọ được hết mầm bại liệt. Anh không thể cọ sạch mầm bệnh được. Anh có nhìn thấy đâu. Nó bay trong không khí và anh mở mồm rồi hít vào, hậu quả là anh mắc bại liệt. Chả có liên quan gì đến những cái hot-dog."
Bucky không muốn đáp lời và trong khi nghe đến đoạn cuối của bài hát quen thuộc trên máy hát tự động - bất giác nhớ đến Marcia - anh ăn nốt suất ăn của mình.
Rồi em sẽ gặp lại anh
Trong mọi ngày hè nắng đẹp
Trong khung cảnh tất cả đều tươi sáng và rực rỡ
Em luôn nghĩ về anh như thế...
"Giả sử thằng bé đã ăn một cốc kem nước quả ở cửa hàng Halem’s," Yushy nói tiếp. "Sẽ không có ai ăn kem nước quả ở cửa hàng Halem’s nữa à? Giả sử thằng bé ăn mì xào trên phố chỗ mấy tay Tàu - thì sẽ không có ai đến đó ăn mì xào nữa à?"
"Có lẽ vậy," Bucky đáp.
"Thế còn thằng nhóc cũng bị chết kia thì sao?" Yushy hỏi. "Thằng nhóc nào?"
"Thằng nhóc chết sáng nay này."
"Thằng bé nào chết? Herbie Steinmark chết rồi sao" "Ừ. Nó không ăn hot-dog ở đây."
"Cậu chắc chắn là nó chết rồi hả? Ai nói với cậu là Herbie Steinmark đã chết?"
"Có người nói. Người vừa mới đến trước anh bảo tôi thế. Hai cậu thanh niên bảo tôi."
Bucky trả tiền cho Yushy và rồi, bất kể cái nóng khủng khiếp - và thậm chí không để ý đến cái sự nóng nực nữa - từ cửa hàng Syd’s, anh chạy băng qua đại lộ Chancellor và quay trở lại sân chơi, băng qua các bậc thang tới cửa tầng hầm, mở khóa và rảo bước tới phòng làm việc của mình. Tới nơi, anh nhấc điện thoại, quay số bệnh viện Beth Israel, một trong những số điện thoại khẩn cấp được ghi trên tấm thẻ mà anh đã dùng đinh mũ đính lên tấm bảng thông báo treo phía bên trên điện thoại. Ngay phía trên tấm thẻ đó là một tấm thẻ khác, trên thẻ có một câu trích dẫn anh viết bằng bút máy lời của nhà hoạt động xã hội Joseph Lee, người khởi phát
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
nên trào lưu sân chơi, câu này anh đọc được ở trường Panzer; anh đã treo nó lên bảng ngay từ ngày đầu tiên tới nhận việc. "Vui chơi, đối với người lớn, là giải trí, là tái tạo sự sống; vui chơi, đối với trẻ em, là phát triển, là giành lấy sự sống." Đính bên cạnh tấm thẻ này là một thông báo anh mới nhận ngày hôm qua, theo đường thư tín, của trướng ban giải trí gửi quản lý các sân chơi:
Xét thấy tính chất nguy hiểm đối với trẻ em ở thành phố Newark trong tình hình bùng phát bệnh bại liệt thời gian qua, xin hãy hết sức lưu ý những vấn đề sau đây. Nếu quý vị chưa có đủ vật tư sử dụng trong nhà vệ sinh, hãy yêu cầu ngay lập tức. Khử trùng toàn bộ các bồn rửa tay, bồn cầu, sàn nhà và tường nhà vệ sinh mỗi ngày, tất cả mọi thứ đều phải sạch sẽ một cách hoàn hảo. Mọi thiết bị vệ sinh phải được cọ rửa kỹ lưỡng dưới sự giám sát của quý vị. Hãy tự mình giám sát và không ngừng lưu ý tới những vấn đề này trong lúc sự bùng phát bệnh vẫn còn đe dọa cộng đồng dân cư.
Khi nối được đường dây với bệnh viện, anh yêu cầu nhân viên trực tổng đài cung cấp thông tin về bệnh nhân và sau đó hỏi tình hình của Herbert Steinmark. Câu trả lời là bệnh nhân này không còn nằm tại bệnh viện nữa. "Nhưng cậu bé đang nằm trong máy trợ thở cơ mà," Bucky căn vặn. "Bệnh nhân đã tử vong," nhân viên trực tổng đài trả lời.
Tử vong? Hai chữ ấy có thể nào lại gắn với Herbie tròn trĩnh, phúng phình và luôn tươi cười? Ở sân chơi, cậu là đứa phối hợp kém nhất trong đám và là cậu bé chiếm được nhiều tình cảm nhất. Đầu giờ buổi sáng, Herbie luôn nằm trong số các bé giúp Bucky bày biện trang thiết bị ra. Trong giờ thể dục ở trường Chancellor, cậu không có chút khả năng nào ở môn nhảy ngựa, xà kép, vòng treo và leo dây, nhưng bởi luôn gắng hết sức và với bản tính bền bỉ, Bucky không bao giờ cho cậu điểm dưới B. Alan là một vận động viên thiên phú và Herbie là cậu bé không có năng khiếu trở thành vận động viên, cậu thiếu hoàn toàn sự nhanh nhạy về thể chất - cả hai đều chơi trên sân trong cái ngày mà mấy gã người Ý tới quấy nhiễu, và cả hai đều đã chết, chết vì bệnh bại liệt ở tuổi mười hai.
Bucky hối hả chạy xuống tầng hầm tới nhà vệ sinh dành cho các cậu bé trong sân chơi, lòng tràn đầy đau đớn và không biết phải làm gì với nỗi đớn đau ấy, anh chộp lấy cây lau sàn của người gác cửa, xách một xô nước và một bình hơn ba lít rưỡi thuốc khử trùng rồi lau chùi nền nhà lát gạch, mồ hôi toát ra như tắm. Kế đến, anh qua nhà vệ sinh của các bé gái, vẫn còn dư sức và trong cơn cuồng điên, lại lau sạch sàn bên đó. Rồi, với quần áo và hai tay nồng nặc mùi thuốc khử trùng, anh bắt xe buýt về nhà.
SÁNG HÔM TIẾP THEO, sau khi đã cạo râu, tắm gội, và ăn sáng, Bucky đánh bóng lại đôi giày, mặc bộ com-lê, áo sơ-mi trắng, anh chọn cái cà-vạt có màu sẫm hơn trong hai cái cà-vạt mình có, rồi đón xe buýt xuống phố Schley. Giáo đường là một ngôi nhà gạch, hình hộp có màu vàng, thấp lè tè, ảm đạm, phía đối diện bên kia phố là một lô đất lớn đã được cải tạo thành vườn tăng gia của cả khu, ở đó có lẽ Alan đã từng siêng năng chăm sóc cho luống rau của mình. Bucky thấy vài người đàn bà đội mũ rơm rộng vành để tránh nắng, đang cúi người làm cỏ trên những khoảnh đất nhỏ cạnh một tấm bảng thông cáo. Trước giáo đường đậu một dãy ô-tô, trong đó có một chiếc xe tang đen, người lái xe đứng trên hè, đang cầm khăn lau cản trước. Trong xe tang, Bucky nhìn thấy cỗ quan tài. Thật không sao tin nổi Alan đang nằm trong cái hòm gỗ thông đơn sơ xám xịt ấy chỉ bởi bị mắc một căn bệnh mùa hè. Cái hòm mà người ta
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
không thể thoát ra được. Cái hòm mà trong đó một cậu bé mười hai tuổi sẽ mãi mãi ở tuổi mười hai. Mọi người khác sống và già theo năm tháng. Nhưng cậu sẽ mãi mười hai. Một triệu năm qua đi, và cậu vẫn chỉ mười hai tuổi.
Bucky lấy cái mũ chỏm đã được gập gọn từ trong túi quần ra, chụp vội lên đầu và bước vào, anh thấy một cái ghế trống gần hàng cuối. Anh dò trong cuốn kinh cầu theo những người đang nguyện và tụng cùng họ. Giữa chừng, có một giọng phụ nữ hét lên, "Chị ấy ngất! Cứu với!" Cha Slavin tạm ngừng buổi lễ trong khi ai đó, chắc là một bác sĩ, chạy một cách vội vàng dọc theo lối đi giữa các hàng ghế và lên cầu thang ra ban công, để tới chỗ người đã bất tỉnh trong khu vực dành cho phụ nữ. Nhiệt độ trong giáo đường lúc ấy ít nhất cũng phải ba mươi hai độ, nóng nhất có lẽ ở ban công. Có người bị ngất xỉu chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên. Nếu buổi lễ không nhanh chóng kết thúc, mọi người sẽ bắt đầu đua nhau ngất. Ngay cả Bucky cũng cảm thấy chóng mặt trong bộ lễ phục của mình, một bộ com-lê len mặc cho mùa đông.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Ghế bên cạnh không ai ngồi. Bucky mãi mong Alan sẽ bước vào và ngồi xuống đó. Anh muốn Alan bước vào với đôi găng bóng chày của cậu và ngồi xuống cạnh anh, như cậu vẫn thường làm vào buổi trưa trên khán đài ở sân chơi, ngồi cạnh Bucky và ăn bánh xăng-uých trong túi đựng đồ ăn trưa cậu mang theo.
Người đảm trách bài tụng ca là bác của Alan, Isadore Michaels, chủ hiệu thuốc tây lâu năm ở góc phố Wainwright cắt Chancellor mà khách hàng nào cũng gọi là bác sĩ. Ông trông vui tính, vạm vỡ và ngăm ngăm giống bố Alan, ông cũng có quầng đen nơi cặp mắt. Chỉ một mình ông nói bởi không thành viên nào trong gia đình còn cảm thấy làm chủ được cảm xúc nữa. Có rất nhiều người sụt sùi, không chỉ ở khu vực dành cho phụ nữ.
"Chúa ban ân cho chúng ta có Alan Avram Michaels trong mười hai năm," ông bác Isadore nói, mỉm cười với vẻ can đảm. "Và Chúa đã ban ân cho tôi có một đứa cháu mà tôi yêu quý như chính con ruột mình từ ngày nó lọt lòng. Hằng ngày, trên đường đi học về, Alan thường ghé vào cửa hiệu của tôi, ngồi ở quầy và xin một cốc sữa mạch nha pha sô-cô-la. Trong ngày khai giảng hồi mới đi học, Alan là cậu bé gầy gò nhất hạng và ước mong lúc ấy của tôi là chăm cho cháu béo lên. Nếu tôi mà rảnh rỗi, tôi sẽ đi tới máy bán nước ngọt và đích thân làm một cốc mạch nha cho cháu rồi sẽ thêm nhiều mạch nha hòng giúp cháu tăng cân. Chuyện này từ đó tới giờ, diễn ra năm này qua năm khác. Thật vui biết bao những lần ghé qua sau giờ học của đứa cháu trai tuyệt vời ấy!"
Đến đây ông phải dừng lời để trấn tĩnh lại.
"Alan," ông tiếp, "là một tay lão luyện về cá miền nhiệt đới. Cháu có thể nói như một chuyên gia về mọi thứ các vị cần để chăm sóc tất cả các loại cá nhiệt đới khác nhau. Không có gì thú vị hơn là đến chơi và ngồi với Alan cạnh bể cá của cháu, nghe cháu giải thích mọi thứ về từng con cá, rằng chúng sinh sản ra sao, vân vân. Các vị có thể ngồi với cháu một giờ mà cháu vẫn còn chưa nói xong những gì cháu biết. Các vị chia tay Alan ra về với một nụ cười, tâm hồn thư thái, và đã học được điều gì đó. Làm sao cháu làm được thế? Làm sao đứa trẻ này lại làm được những điều mà cháu đã làm với những người lớn chúng ta? Điều bí mật của Alan là gì? Đó là sống hết mình, nhìn thấy được những điều kỳ diệu trong từng sự vật và yêu thích mọi thứ, dù đó là cốc sữa mạch nha sau giờ tan học, những con cá nhiệt đới, những môn thể thao mà cháu luôn nổi trội, góp sức mình vào cuộc chiến nơi vườn tăng gia, hay những điều cháu học được hôm ấy ở trường. Alan đã sở hữu niềm vui sống trong mười hai năm nhiều hơn hầu hết những người khác gom góp cả đời. Và rồi Alan mang tới niềm vui cho mọi người nhiều hơn hầu hết những người khác trao tặng trong cả một đời. Cuộc đời của Alan đã kết thúc rồi..."
Đến đây ông phải dừng lại một lần nữa và khi ông tiếp tục, giọng của ông khàn đặc và nước mắt như chực trào khỏi khóe mắt.
"Cuộc đời của Alan đã kết thúc," ông nhắc lại, "tuy nhiên, trong nỗi buồn đau, chúng ta nên nhớ rằng khoảng thời gian cháu bé eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
sống, đó là một cuộc đời không bao giờ kết thúc. Mỗi ngày, đối với Alan, không bao giờ là kết thúc bởi cháu rất ham học hỏi. Mỗi ngày, đối với Alan, không kết thúc bởi bản tính vui tươi nơi cháu. Mãi là một đứa trẻ hạnh phúc trong suốt cuộc đời và tất cả những điều cháu làm, cháu đều dâng hiến tất thảy. Trên đời này, có những số phận còn tồi tệ hơn thế rất nhiều."
Sau buổi lễ, Bucky đứng bên ngoài trên bậc tam cấp của giáo đường tỏ lòng tiếc nuối của mình với gia đình Alan và cảm ơn ông bác của Alan về tất cả những lời ông nói. Ai đã từng quan sát ông khoác trên người chiếc áo choàng màu trắng ở hiệu thuốc, lấy thuốc theo toa cho khách hàng, lại hình dung ra được nhà hùng biện Bác sĩ Michaels có thể diễn thuyết hùng hồn đến thế, nhất là khi mọi người từ khắp nơi trong giáo xứ, dù đứng ở trên hay dưới các bậc cầu thang, dưới tác động của những lời ông nói, đều sụt sùi thương xót? Bucky trông thấy bốn chú bé thường tới sân chơi đang cùng nhau bước ra khỏi giáo đường: Spector, Sobelsohn, Taback và Finkelstein. Cả đám mặc bộ lễ phục đen may vừa vặn, áo sơ-mi trắng, đeo cà-vạt và đi giày tây, mặt mũi đứa nào đứa nấy nhễ nhại mồ hôi. Cũng không phải không có khả năng rằng, nỗi khổ cực nhất hôm đó với chúng là bị giam hãm trong không khí nóng nực với cổ cồn trắng và cà-vạt hơn là lần đầu đối mặt với cái chết. Vậy mà, chúng đã mặc những trang phục thích hợp nhất để tới giáo đường bất kể thời tiết, Bucky bước lại gần chúng, đặt tay lên vai từng đứa một và rồi vỗ nhẹ vào lưng chúng an ủi. "Alan sẽ rất vui khi thấy các em ở đây," anh nói khẽ. "Các em thật chu đáo."
Rồi có ai đó chạm vào lưng anh. "Thầy sẽ đi cùng với ai?"
"Sao cơ ạ?"
"Đó -" Người này chỉ một chiếc xe ô-tô trông như xe tang. "Đó, đi cùng với nhà Beckerman," và anh bị đẩy ; về phía chiếc xe ô-tô bốn chỗ hiệu Plymouth đậu dưới lề đường.
Bucky không dự định đi ra nghĩa trang. Sau buổi lễ ở giáo đường, anh đã tính quay về giúp bà làm nốt những việc vặt cuối tuần. Nhưng rồi anh cũng chui vào xe khi có người đã mở và giữ cửa chờ mình, ngồi vào ghế sau cạnh một người phụ nữ đội mũ có mạng che màu đen, đang phất phất chiếc khăn tay trước mặt để tạo chút gió nhẹ, trên gương mặt trang điểm của bà có nhiều sọc phấn dài bởi mồ hôi toát ra. Trên ghế trước, cạnh người lái là một người đàn ông nhỏ và béo lẳn, mặc một bộ đồ com-lê sẫm màu, mũi của ông cũng bị gãy như của ông ngoại anh và có lẽ cũng cùng một lý do: tệ bài Do Thái. Ngồi cạnh ông là một cô gái trạc mười lăm hay mười sáu tuổi, không trang điểm, tóc đen, được giới thiệu là chị họ Meryl của Alan. Gia đình Beckerman là dì, dượng của Alan. Bucky tự giới thiệu mình là một trong những thầy giáo của Alan.
Họ phải ngồi trong chiếc xe nóng bức ấy chừng mười phút, chờ cho những người đi theo sau xe tang xếp thành hàng xong xuôi. Bucky cố gắng nhớ lại những lời Isadore Michaels đã nói trong bài tụng ca về cuộc đời của Alan; khi cậu bé còn sống, cuộc đời đối với cậu dường như kéo dài vô tận, nhưng rồi anh lại hình dung ra Alan đang bị nướng như miếng thịt trong quan tài của cậu.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Họ đổ dốc theo phố Schley xuống đại lộ Chancellor rồi rẽ trái và bắt đầu theo đại lộ Chancellor di chuyển một cách chậm chạp, ngang qua hiệu thuốc của ông bác Alan và hướng về trường tiểu học, trung học trên đỉnh đồi. Thảng hoặc mới thấy ai đó - hầu hết các cửa hàng đều đóng cửa, ngoại trừ cửa hàng thực phẩm Tabatchnick’s kinh doanh cá hun khói sáng chủ nhật, các cửa hàng bánh kẹo ở góc phố còn bán báo ra ngày Chủ Nhật, bánh mì, bánh vị cà-phê và bánh mì vòng phục vụ điểm tâm sáng Chủ Nhật. Trong mười hai năm của đời mình, Alan hẳn đã ra con phố này hàng nghìn lần, tới trường và về nhà, đến sân chơi, ra ngoài mua giúp cho mẹ thứ gì đó, gặp gỡ bạn bè ở cửa hàng Halem’s, dạo bước trên tất cả các con đường dốc lên, dốc xuống để tới công viên Weequahic câu cá, trượt băng và bơi thuyền trên hồ. Giờ đây cậu bé đang nằm trong áo quan trên chiếc xe tang dẫn đầu đám diễu hành, xuôi dọc theo đại lộ Chancellor lần cuối. Nếu như chiếc ô-tô là một cái lò nướng, Bucky nghĩ thầm, thử hình dung bên trong chiếc áo quan đó sẽ như thế nào.
Mọi người trên xe đã ngưng nói chuyện cho tới khi lên tới đỉnh đồi và đi ngang qua cửa hàng Syd’s bán hot-dog.
"Tại sao Alan phải ăn uống trong cái nơi tồi tàn, dơ dáy bẩn thỉu ấy?" bà Beckerman thốt lên. "Tại sao nó không thể chờ đến khi về nhà rồi lấy thứ gì đó trong tủ lạnh ra mà ăn? Tại sao họ lại cho phép một nơi như vậy mở cửa đối diện trường học thế? Lại còn đúng vào mùa hè nữa chứ." "Edith," ông Beckerman lên tiếng, "bình tĩnh đi em." "Kìa mẹ," Meryl em họ của Alan cũng góp lời, "Tất cả đám trẻ đều ăn ở đó. Đấy là nơi trẻ em thường lui tới mà." "Một nơi nhơ nhớp," bà Beckerman bảo. "Khi đang có dịch bại liệt, lại để một đứa trẻ non nớt như Alan tới một nơi như thế, trời thì nóng thế này
"Đủ rồi, Edith. Trời nóng. Chúng ta đều biết trời rất nóng."
"Trường thằng bé kìa," bà Beckerman bảo khi họ lên đến đỉnh đồi và chạy ngang qua mặt tiền lát đá xám của trường tiểu học nơi Bucky dạy. "Có được mấy đứa yêu thích ngôi trường giống như Alan? Ngay từ khi nhập học, nó đã yêu ngôi trường này."
Có lẽ lời nhận xét là dành cho Bucky, đại diện của trường. Anh đáp, "Cậu bé là một học sinh nổi trội." "Còn kia là Weequahic. Cháu nó sẽ là một học sinh ưu tú ở Weequahic. Nó đã có dự định học tiếng La-tinh. Tiếng La-tinh đấy! Tôi đã đặt biệt hiệu cho nó. Tôi gọi nó là Tài năng."
"Cậu bé là thế," Bucky nói, nghĩ tới cha Alan lúc ở nhà, bác cậu nơi giáo đường và giờ là dì cậu trên xe - tất thảy những điều họ thổ lộ đều vì cùng một lý do thích đáng: bởi Alan thực đáng khen. Họ xót xa biết dường nào vì đã mất cậu bé tuyệt vời này.
"Ở cao đẳng," bà Beckerman bảo, "cháu nó đã dự định học khoa tự nhiên. Nó muốn trở thành một nhà khoa học và chữa bệnh. Nó đọc một cuốn sách về Louis Pasteur và biết rõ Louis Pasteur đã phát hiện ra những mầm bệnh mà mắt thường không thể nhìn thấy như thế nào. Nó muốn làm một Louis Pasteur thứ hai," bà nói, vẽ nên toàn bộ viễn cảnh không bao giờ xảy ra. "Thay vào đó," bà kết
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
luận, "nó lại phải đến ăn ở chỗ nhung nhúc mầm bệnh." "Edith, đủ rồi đấy," ông Beckerman bảo. "Chúng ta không rõ vì sao cháu nó ốm và bị lây từ đâu. Bại liệt xuất hiện ở khắp nơi trong thành phố. Đã là cả một trận dịch rồi. Ở đâu em cũng nhìn thấy người mắc. Ca của cháu nó bị nặng và rồi tử vong, chúng ta chỉ biết thế thôi. Mọi thứ khác bây giờ có nói cũng chẳng để làm gì. Chúng ta cũng không rõ tương lai cháu nó sẽ trở thành người ra sao." "Chúng ta biết chứ!" bà nổi nóng vặc lại. "Thằng bé có thể làm được bất cứ thứ gì!"
"Thôi được rồi, bà đúng. Tôi sẽ không tranh cãi nữa. Cứ tới nghĩa trang và làm cho cháu nó một đám tang đàng hoàng đi. Bây giờ đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm cho nó."
"Còn hai đứa cháu trai nữa," bà Beckerman nói. "Chúa sẽ che chở chúng khỏi bất cứ tai ương nào."
"Bọn nó đã chiến đấu bấy lâu nay," ông Beckerman nói, "Chúng sẽ vượt qua quãng thời gian còn lại. Chiến tranh sẽ chóng kết thúc và Larry cùng Lenny sẽ an toàn trở về." "Rồi chúng sẽ không bao giờ còn gặp đứa em bé bỏng nữa. Alan đằng nào cũng đã ra đi," bà tiếp. "Không gì có thể mang nó trở về."
"Edith," ông bảo. "Chúng ta biết thế. Edith, bà cứ nói mãi mà bà có nói gì mới đâu cơ chứ."
"Cứ để mẹ nói, bố ạ," Meryl can.
"Nhưng mà ích lợi gì đâu," ông Beckerman than thở. "Cứ nói đi, nói lại à?"
"Thế cũng có lợi," cô gái nói. "Nó làm mẹ dễ chịu." "Cảm ơn con yêu," bà Beckerman nói.
Tất cả cửa sổ đều đã hạ xuống, nhưng Bucky cảm thấy như bị quấn kín không phải trong bộ com-lê mà là trong một cái chăn. Đoàn xe đã tới công viên và rẽ phải vào đại lộ Elizabeth rồi chạy qua Hillside và cắt ngang qua đường ray chạy trên cao vào Elizabeth, anh mong sao nhanh đến nghĩa trang. Anh hình dung nếu Alan phải nằm lâu thêm trong cái hòm nóng nực ấy, cái hòm bỗng nhiên bắt lửa và nổ tung, giống như bên trong có một quả lựu đạn bị nổ, thân thể cậu bé sẽ bắn tung tóe trong cỗ xe tang và khắp trên phố.
TẠI SAO BỆNH BẠI LIỆT chỉ tấn công người ta vào mùa hè? Đứng trong nghĩa trang, mặc dù đội mũ chỏm mà cảm thấy như đang để đầu trần, Bucky tự hỏi phải chăng căn nguyên bệnh bại liệt không chỉ bởi ánh mặt trời mùa hè? Đang giữa trưa, đâu đâu cũng nắng, nắng như đổ lửa trên đầu, nắng dường như thừa sức mạnh để gây tàn phế và giết chóc, điều này khả thi hơn là bởi một con vi trùng trong cái hot-dog.
Một huyệt mộ đã được đào sẵn. Đó là cái huyệt mở thứ hai mà Bucky trông thấy từ trước tới giờ, cái đầu tiên là của ông ngoại, eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
cách đây ba năm, ngay trước khi chiến tranh bùng nổ. Lúc ấy bà ngoại tựa vào người anh nặng trĩu còn anh thì giữ cho bà lúc nào cũng ở sát bên mình trong suốt buổi tang lễ để bà khỏi ngã quỵ. Sau đó, anh dồn hết thời gian để chăm sóc bà, ở bên cạnh bà hằng đêm và thậm chí mỗi tuần còn đưa bà ra ngoài xem phim và thưởng thức một cốc kem hoa quả, được một độ trước khi anh có thời gian để tự suy ngẫm về mọi điều mất mát. Nhưng khi áo quan của Alan được hạ xuống dưới lòng đất, khi bà Michaels lăn xả tới cái huyệt, miệng gào khóc
"Không! Không phải là con trai tôi!" thì cái chết tự để lộ cho anh thấy rằng nó có quyền năng không thua gì ngọn roi nắng mặt trời đang liên tục quất xuống chiếc mũ chỏm trên đầu anh.
Tất cả mọi người cùng hòa giọng với Cha Slavin trong bài kinh cầu, ngợi ca quyền năng tối cao của Chúa, ngợi ca một cách thái quá, quá hào phóng, với chính Đức Chúa, người đã cho phép cái chết hủy diệt mọi thứ, kể cả con trẻ. Giữa cái chết của Alan Michaels và bài kinh Kaddish ca tụng Chúa trời, gia đình Alan đã có một khoảng thời gian chừng hai mươi bốn giờ để căm ghét và ghê tởm Đức Chúa vì những gì Người đã giáng xuống đầu họ - không, đương nhiên rồi, họ đâu thể phản ứng như thế trước cái chết của Alan, bởi họ không thể không sợ hãi trước viễn cảnh phải hứng chịu cơn thịnh nộ của Chúa khi Người sẽ tước đoạt nốt Larry và Lenny Michaels từ vòng tay họ.
Nhưng những gì không thể xảy ra với gia đình Michaels lại không biến mất trong suy nghĩ của Bucky. Phải thừa nhận rằng, chính anh đã không dám quay ra đối đầu với Chúa vì đã lấy đi mất ông ngoại mình khi ông lão đã tới tuổi trời. Nhưng nếu vì giết chết Alan bằng bệnh bại liệt ở tuổi mười hai thì sao? Vì chính sự tồn tại của căn bệnh bại liệt thì sao? Làm sao có thể có lòng dung thứ - huống hồ là vinh danh Chúa - và bất chấp sự tàn nhẫn điên rồ tới chừng này? Với Bucky, anh thấy dường như còn xa mới gọi là sỉ nhục khi cả đám người mặc đồ tang tụ tập để tự nhận mình là những kẻ ca tụng quyền năng của thần mặt trời, là những con dân của một vị chúa tể hằng chiếu sáng và với cung cách nhiệt thành của nền văn minh sơ khai thời cổ đại nơi bán cầu của chúng ta, cùng đắm mình trong vũ điệu tôn vinh thần mặt trời quanh nấm mộ của một cậu bé - thà như thế, thà cứ thần thánh hóa và xoa dịu những tia chiếu của Mặt Trời Cha vĩ đại còn hơn là tôn vinh một đấng chí tôn cùng bất kể tội ác ghê rợn nào mà kẻ đó gây ra chỉ cốt để làm vừa lòng Người. Đúng vậy, thà cứ ca tụng cỗ máy phát nhiệt không thể thay thế ấy, cái nguồn năng lượng duy trì sự tồn tại của chúng ta kể từ khi loài người ra đời ấy - thà rằng trong bài nguyện của mình cứ tôn vinh cái hiển hiện ngày nào cũng gặp ấy, vật thể như con mắt bằng vàng ròng ở đâu cũng nhìn thấy ấy, con mắt duy nhất trên bầu trời cao xanh cùng nguồn năng lượng nội tại thiêu đốt trái đất - thà như thế còn tốt hơn rất nhiều so với việc cam chịu chấp nhận điều dối trá rằng Chúa trời là tốt đẹp và quy lụy trước một tên giết trẻ con máu lạnh. Vì phẩm giá con người, vì nhân tính của loài người, vì tất cả giá trị cao đẹp của con người, tốt nhất hãy đừng đề cập đến suy nghĩ thường ngày của con người về điều quái đản đang diễn ra tại nơi này.
... Y'hei sh’mei raboh m’vorakh l'olam ul'olmei ol'mayoh.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Cầu cho danh xưng vĩ đại của Người che chở chúng ta mãi mãi.
Yis'borakh v’yish’tabach v’yis’po’ar v'yis’romam v’yis’nasei
Thánh ân tôn kính tôn vinh cao quý được tụng ca, v’yis’hadar v’yis’aleh v’yis'halal sh’mei d’kud’shoh
danh xưng vĩ đại của Người là nguồn khích lệ, ngợi ca.
B’rikh hu...
Người là nguồn ân sủng.
Bốn lần trong bài nguyện nơi nấm mộ cậu bé, mọi người đều đồng thanh "Omein"
Chỉ đến lúc đoàn người đã rời khu mộ phần và đi qua cổng để vào phố McClellan, Bucky mới sực nhớ tới những lần viếng nghĩa trang của người Do Thái trên phố Grove từ khi còn là một chú bé, nơi ấy mẹ anh, giờ là ông ngoại, đã được an táng và cũng sẽ là nơi đến lượt bà ngoại và anh được chôn. Lúc nhỏ, năm nào ông bà cũng dẫn anh đến đó để tưởng nhớ mẹ nhân dịp sinh nhật bà vào tháng Năm, dù ngay từ lần viếng đầu tiên lúc còn bé tí, Bucky đã không sao tin nổi việc bà đã thực sự được mai táng ở đó. Đứng giữa ông và bà đang khóc nức nở, anh luôn cảm thấy mình đang tham dự vào một trò chơi giả vờ có mẹ không đâu hơn ở nghĩa trang anh cảm thấy việc mình có mẹ là một câu chuyện được dựng lên ngay từ đầu. Và mặc dù, nghĩ rằng những lần viếng mộ hằng năm là một trò kỳ quái phải làm, anh không bao giờ từ chối. Anh làm thế như là một phần của bổn phận làm đứa con ngoan đối với một bà mẹ được thêu dệt nên mà không hề tồn tại trong ký ức, dù rằng nó giống như một buổi trình diễn rỗng tuếch.
Bên nấm mộ, mỗi khi anh tập trung để có một ý nghĩ phù hợp với dịp đó, anh sẽ nhớ tới câu chuyện mà bà ngoại đã kể cho anh nghe về mẹ và mấy con cá. Trong tất cả các câu chuyện của bà - nguồn cảm hứng cố hữu là chuyện Doris thông minh nhường nào hồi học ở trường và giỏi phụ giúp cha mẹ ra sao lúc ở nhà, rồi hồi bé, mẹ đáng yêu đến đâu khi ngồi tính tiền nơi cửa hàng, cũng giống như anh đã làm khi còn nhỏ - đó là những ý nghĩ in dấu trong tâm trí anh. Sự kiện không thể quên là vào chiều xuân xa vời trước khi mẹ anh mất và anh chào đời, khi ấy, để chuẩn bị cho lễ Passover - Lễ quá hải của người Do Thái rời bỏ Ai Cập, bà ngoại đã đi bộ lên đại lộ Avon tới cửa hàng bán cá, chọn trong bể của người bán hai con cá chép còn sống, bỏ vào cái xô, mang về nhà, rồi thả cho chúng bơi lội trong chiếc chậu sắt tây cả nhà vẫn dùng để tắm. Bà đổ đầy nước vào chậu và để cá ở đấy cho đến tận lúc cắt đầu và đuôi, lóc vẩy, và nấu món cá kho gefilte. Lúc ấy mẹ của Bucky mới năm tuổi, cô bé từ trường mẫu giáo về, chạy lên gác, thấy lũ cá đang bơi trong chậu, và sau khi lẹ làng cởi quần áo, đã nhảy vào chậu chơi với chúng. Bà bắt gặp cô bé khi từ cửa hàng đi lên gác để đưa cho cô chút đồ ăn dặm. Cả hai mẹ con đã không kể cho ông ngoại nghe chuyện vì sợ ông sẽ bắt phạt cô. Ngay cả khi chú bé Bucky được bà kể
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
cho nghe chuyện mẹ và mấy con cá - chú cũng đang học mẫu giáo - chú cũng cẩn trọng giữ bí mật để không làm ông ngoại đau khổ; ông chú, trong những năm đầu sau khi cô con gái rượu qua đời, chỉ có thể làm dịu bớt nỗi đau bằng cách không nói bao giờ nhắc đến cô con gái.
Có vẻ kỳ quái khi Bucky nghĩ đến câu chuyện ấy lúc đứng bên mộ mẹ, nhưng liệu có còn điều đáng nhớ nào khác để mà nghĩ lúc ấy?
ĐẾN CUỐI TUẦN kế tiếp, Weequahic được ghi nhận là nơi có số ca mắc bệnh bại liệt cao nhất trong tất cả các quận có trường học ở thành phố. Riêng sân chơi, vì vị trí đặc thù của nó được cảnh báo có những ca bệnh mới. Đối diện sân chơi, bên mặt phố Hobson, cô bé mười tuổi, Lillian Sussman, đã mắc bệnh; bên mặt đại lộ Bayview là cô bé sáu tuổi, Barbara Friedman - cả hai cô bé này đều không nằm trong sổ những bé gái thường xuyên tới nhảy dây tại sân chơi cả, tuy thế lúc này chỉ còn chưa tới phân nửa đám trẻ quẩn quanh ở đó kể từ ngày căn bệnh bại liệt khiến mọi người khiếp sợ. Và xuôi theo sân chơi nơi đại lộ Vassar, hai anh em nhà Kopferman, Danny và Myron, cũng đã bị mắc bệnh. Buổi tối hôm nghe tin về hai cậu bé, anh điện thoại tới nhà Kopferman gặp mẹ của chúng. Anh giới thiệu mình là ai và lý do anh điện thoại tới.
"Thầy!" Bà Kopferman quát lớn. "Thầy có gan điện thoại cơ à?"
"Xin lỗi," Bucky ôn tồn đáp. "Tôi không hiểu ý bà ạ."
"Thầy không hiểu gì chứ? Thầy không hiểu rằng đang hè mà thầy bắt bọn trẻ chạy lòng vòng quanh trong cái nóng hầm hập à? Rằng thầy không được để chúng uống nước từ vòi nước công cộng? Rằng thầy phải trông chừng chúng khi chúng đổ mồ hôi? Thầy có biết dùng hai con mắt mà Chúa trời đã ban cho để trông chừng tụi nhỏ trong mùa bại liệt không? Không! Không có lấy đến một phút nữa!"
"Thưa bà Kopferman, tôi đảm bảo với bà, tôi rất chu đáo với các cậu bé."
"Vậy tại sao tôi có hai đứa con bị liệt bại? Cả hai thằng con tôi! Là tất cả những gì tôi có! Hãy giải thích cho tôi đi! Thầy để chúng nó chạy nhảy như những con vật ở đằng đó - và giờ thì thầy thắc mắc vì sao chúng mắc bệnh! Bởi vì thầy! Bởi vì một kẻ ngu ngốc, khinh suất, vô trách nhiệm như thầy đấy!" Và bà ngắt máy.
Bucky đã dùng điện thoại trong bếp để gọi tới nhà Kopferman sau khi đưa bà ngoại xuống dưới sân ngồi cùng với những người hàng xóm và sau khi anh dọn dẹp sạch sẽ bàn ăn tối. Cái nóng ban ngày vẫn còn rơi rớt, trong nhà thật nóng bức và ngột ngạt. Khi buông ống nghe, người anh đẫm mồ hôi, cho dù trước khi ăn tối anh đã tắm và thay đồ mới. Anh mong muốn được có ông ngoại bên
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
mình để trò chuyện biết mấy. Anh biết bà Kopferman bị kích động; anh biết bà mất tự chủ vì nỗi thống khổ mà điên cuồng chửi mắng như tát nước vào mặt anh, nhưng anh vẫn mong có ông ngoại ở đây để trấn an rằng anh không hề đáng trách như những gì bà ta nói. Đây là lần đầu tiên Bucky phải đối mặt với một lời buộc tội gớm guốc và một sự thù ghét tột độ, nó khiến tâm trạng anh chùng hẳn xuống, tệ hơn rất nhiều so với lần phải đối mặt với mười gã người Ý đầy uy hiếp nơi sân chơi.
Qua ba tầng cầu thang gỗ mòn vẹt bên ngoài tòa nhà, anh xuống sân nói chuyện với láng giềng trong chốc lát rồi bước ra ngoài đi dạo, đã bảy giờ tối rồi mà bên ngoài trời vẫn sáng. Bà ngoại đang ngồi cùng với mọi người ở trước nhà, cạnh đó có một cây nến hương sả để đuổi muỗi. Họ ngồi trên những cái ghế bố dựng thẳng lưng và đang bàn chuyện bại liệt. Những người có tuổi, giống như bà ngoại" anh, đã sống qua dịch bệnh hồi năm 1916 ở thành phố thì than thở rằng vì sao trong suốt ngần ấy năm khoa học vẫn không tìm ra được phương thuốc trị bệnh hoặc đưa ra được cách ngăn ngừa bệnh. Hãy nhìn khu Weequahic mà xem, họ nói, sạch sẽ và vệ sinh như tất cả các khu dân cư khác trong thành phố, thế mà lại là nơi mắc bệnh nhiều nhất. Nghe đồn, ai đó nói, người ta không cho những người phụ nữ da màu làm nghề tạp vụ đến làm việc trong khu dân cư vì sợ rằng họ mang mầm bệnh bại liệt từ những khu ổ chuột tới. Một người khác thì nói rằng theo suy đoán của anh ta, căn bệnh này được lan truyền bởi tiền, vì những tờ tiền giấy được truyền từ tay người này sang tay người khác. Điều quan trọng là, anh ta nói, phải luôn rửa tay sau khi cầm hay mó vào tiền, cả tiền giấy lẫn tiền xu. Thế thư từ thì sao, một giọng khác hỏi, anh có cho rằng nó được lan truyền qua thư tín không? Cô định làm gì, có người bắt bẻ, đình chỉ việc đưa thư à? Cả thành phố sẽ ngưng trệ hết.
Nếu là sáu hay bảy tuần trước, họ hẳn sẽ bàn luận về những tin chiến sự.
Bucky nghe thấy tiếng chuông điện thoại reo và nhận ra nó vang lên từ trong căn hộ của hai bà cháu, ắt là Marcia từ trại hè gọi về. Trong năm học vừa qua, ngày nào hai người cũng trông thấy nhau ít nhất là một hoặc hai lần ở ngoài hành lang trường trong giờ học, và cuối tuần lại ở bên nhau. Đây là lần đầu họ phải xa nhau lâu đến như vậy kể từ ngày gặp mặt. Anh nhớ nàng và anh nhớ gia đình Steinberg, họ, ngay từ đầu, đã vô cùng tử tế và ân cần với anh. Cha nàng là bác sĩ và mẹ nàng từng là giáo viên tiếng Anh tại một trường trung học, cả nhà - thêm hai cô em sinh đôi của Marcia, học lớp sáu tại trường Maple Avenue - sống trong một ngôi nhà rộng rãi, tiện nghi trên đại lộ Goldsmith, cách phòng mạch của bác sĩ Steinberg ở đại lộ Elizabeth chỉ một khu nhà. Sau khi bị bà Kopferman kết tội cẩu thả, Bucky đã nghĩ tới việc đến chỗ bác sĩ Steinberg để nói chuyện với ông về bệnh dịch và tìm hiểu nhiều hơn về căn bệnh. Bác sĩ Steinberg là một người có học (không giống như ông ngoại anh, chưa bao giờ đọc sách), và khi ông nói, Bucky luôn thấy tin tưởng rằng ông hiểu rõ những điều mình đang nói. Ông Steinberg không thay thế được ông ngoại anh - và dĩ nhiên cũng không thay thế được người cha của anh - nhưng lúc này, ông là người mà anh ngưỡng mộ và tin tưởng nhất. Trong buổi hẹn hò đầu tiên với Marcia, khi anh hỏi nàng về gia đình, nàng đã nói về cha mình rằng ông không những tuyệt vời đối với bệnh nhân mà còn có tài giữ cho mọi người trong nhà chung sống hòa thuận và hạnh phúc cũng như giải quyết mọi cuộc cãi nhau vặt vãnh của hai cô em nhỏ hết sức hợp lý. Ông là vị trọng tài giỏi nhất mà nàng từng biết. "Mẹ em," nàng nói, "gọi cha là ‘cái nhiệt kế hoàn hảo đo nhiệt độ cảm xúc của gia đình.’ Không có bác sĩ nào mà em biết," nàng kể với anh, "lại nhân từ hơn cha cả."
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Em đây rồi!" Bucky reo lên sau khi chạy vội lên gác và nhấc điện thoại, "ở đây như cái lò than. Hơn bảy giờ tối mà trời vẫn nóng như giữa trưa. Nhiệt kế như bị mắc kẹt. Em khỏe không?"
"Em có điều muốn nói với anh. Một tin hấp dẫn lắm anh ạ," Marcia nói. "Irv Schlanger nhận được lệnh nhập ngũ. Anh ấy sắp rời khỏi trại. Họ cần người thay. Đang rất cần một người quản lý bến tắm từ giờ đến hết hè. Em đã nói với ông Blomback về anh, em đã đưa ông ấy tất cả bằng cấp anh có, và ông ấy muốn thuê anh, không cần gặp trước." Ông Blomback là chủ sở hữu kiêm giám đốc Indian Hill và là bạn của gia đình Steinberg bấy lâu nay. Trước khi kinh doanh trại hè, ông là hiệu phó một trường tiểu học ở Newark và là cấp trên của bà Steinberg khi bà mới đi dạy.
"Marcia," Bucky nói với nàng, "Anh đã có việc làm rồi mà."
"Nhưng giờ anh có thể lánh xa vùng dịch đó. Em lo cho anh lắm, Bucky ạ. Ở trong thành phố nóng nực đó cùng với bầy trẻ. Lại tiếp xúc gần gũi dường ấy với lũ trẻ nữa chứ - rồi còn ngay giữa ổ dịch. Và cả cái nóng nữa, nóng liên tục hết ngày này sang ngày khác."
"Anh có khoảng chín mươi đứa nhỏ ở sân chơi này, mà cho tới giờ, mới chỉ có bốn đứa mắc bại liệt." "Vâng, và có hai ca tử vong."
"Ở sân chơi, thế vẫn không phải là dịch, Marcia ạ." "Em muốn nói là ở khu Weequahic nói chung cơ. Đấy là vùng nhiễm bệnh nặng nhất thành phố. Mà hiện thời còn chưa tới tháng Tám, tháng tệ nhất. Lúc ấy Weequahic có thể có số ca nhiễm gấp mười lần. Bucky ơi, xin anh bỏ việc đi. Anh có thể làm quản lý bến tắm ở Indian Hill. Lũ trẻ thì ngoan ngoãn, nhân viên thì giỏi, ông Blomback lại tử tế - anh sẽ yêu thích công việc ở đây. Anh có thể làm quản lý bến tắm hết năm này qua năm khác. Chúng ta có thể hè nào cũng đến đây làm việc. Chúng ta có thể ở cùng nhau như một đôi uyên ương và anh sẽ an toàn."
"ở đây anh an toàn mà, Marcia."
"Không có đâu."
"Anh không thể bỏ việc. Đây là năm đầu tiên. Làm sao anh có thể bỏ rơi đám trẻ được. Anh không thể rời bỏ chúng. Chúng đang cần anh hơn bao giờ hết. Đây chính là việc anh phải làm."
"Anh yêu, anh là một giáo viên tốt và tận tụy, nhưng điều đó không có nghĩa là không thể vắng anh trong chương trình sinh hoạt eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
hè nơi sân chơi. Em đang cần anh hơn lúc nào hết. Em yêu anh rất nhiều. Em nhớ anh lắm. Mỗi khi nghĩ có chuyện gì đang xảy đến với anh, em sợ chết đi được. Anh tự đưa mình vào vòng nguy hiểm đâu có lợi gì cho tương lai hai đứa mình?"
"Bố em thường xuyên tiếp xúc với người bệnh. Ông cũng thường xuyên ở trong vòng nguy hiểm đấy thôi. Em có lo lắng cho bố em nhiều đến thế không?"
"Hè này á? Có chứ. Tạ ơn Chúa, hai đứa em nhà em cũng ở đây trong trại hè. Vâng, em lo lắng cho bố em, mẹ em cùng tất cả những người em yêu thương."
"Và rồi em cũng trông mong bố mình sẽ cuốn gói và bỏ lại bệnh nhân của ông vì bệnh bại liệt à?"
"Bố em là một bác sĩ. Ông lựa chọn trở thành bác sĩ. Tiếp xúc với người bệnh là nghề của ông. Nó không phải là nghề của anh. Nghề của anh là làm việc với những con người khỏe mạnh, với lũ trẻ khỏe khoắn, có thể chạy nhảy và chơi thể thao cho vui. Anh sẽ là một người quản lý bến tắm giỏi giang. Mọi người nơi đây sẽ yêu mến anh. Anh là một tay bơi cừ khôi, anh là một vận động viên nhảy cầu cự phách, anh là một thầy giáo tuyệt vời. Ôi Bucky, đây là cơ hội ngàn năm mới có một. Và," nàng hạ giọng, "mình sẽ được riêng tư ở trên này. Giữa hồ có một hòn đảo. Mình sẽ bơi thuyền ra đó khi trời tối. Sẽ không phải lo lắng rằng bà anh, bố mẹ em hay các em gái em rình rập quanh nhà. Chúng mình rốt cuộc, rốt cuộc sẽ được riêng tư anh à."
Bucky có thể cởi hết quần áo trên người nàng, anh nghĩ, và hình dung cảnh nàng khỏa thân. Sẽ chỉ có một mình họ trên đảo khi trời tối và không mặc áo quần. Và rồi, sẽ không phải phập phồng vì lo ngại có người ở gần đó, anh có thể vuốt ve nàng chậm rãi hay khát khao tùy thích. Và anh sẽ được giải phóng khỏi gia đình Kopferman. Anh sẽ không còn phải nhận sự chỉ trích điên cuồng của bà Kopferman là đã khiến các con bà nhiễm bại liệt. Rồi anh có thể ngùng căm ghét Chúa bởi việc này làm xáo trộn cảm xúc và khiến anh cảm thấy vô cùng choáng váng. Trên hòn đảo của riêng hai người, anh có thể tránh xa mọi điều đang dần trở nên khó chịu và ngày càng khó chịu hơn.
"Anh không thể bỏ bà ngoại ở lại được," Bucky nói. "Làm sao bà leo được lên ba tầng cầu thang để lấy mớ đồ tạp hóa? Nếu phải khuân đồ lên gác là bà thấy tức ngực. Anh phải ở lại đây. Anh còn phải giặt giũ. Anh phải chợ búa. Anh còn phải chăm sóc bà."
"Gia đình Einneman có thể trông nom bà cho đến hết hè. Họ sẽ đi mua đồ tạp hóa hộ bà. Họ sẽ giặt hộ bà vài ba món quần áo. Họ sẽ rất sẵn lòng giúp đỡ mà anh. Bà đã trông nom họ khi còn nhỏ. Họ mê bà như điếu đổ ấy chứ." "Nhà Einneman là những người hàng xóm tuyệt vời, nhưng đó không phải là việc của họ. Đó là việc của anh. Anh không thể rời bỏ Newark."
"Thế em sẽ nói gì với ông Blomback?"
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Nói là cảm ơn ông nhưng anh không thể rời Newark, vào thời điểm như thế này lại càng không thể được."
"Em sẽ không nói gì với ông ấy đâu," Marcia đáp. "Em sẽ đợi. Em cho anh một ngày để suy nghĩ. Tối mai em sẽ gọi lại. Bucky, anh tuyệt nhiên không hề lẩn trốn trách nhiệm của người thầy. Rời bỏ Newark lúc này không phải là một việc hèn nhát. Em hiểu anh mà. Em biết anh đang nghĩ gì. Anh quả là can đảm, nhất là trong tình hình như thế này, anh yêu ạ. Em cảm thấy bủn rủn chân tay khi nghĩ về việc anh can đảm như thế nào. Nếu anh tới Indian Hill, thực ra chỉ là anh sẽ làm một công việc khác chứ không hề bớt chút tận tâm nào. Và anh sẽ thực thi một nghĩa vụ khác mà anh phải tự đáp ứng với chính mình - ấy là thấy hạnh phúc. Bucky, đây chỉ đơn thuần là một sự khôn ngoan khi đối diện với hiểm họa - ai cũng thế mà!"
"Anh sẽ không đổi ý đâu. Anh muốn ở cùng em, ngày nào anh cũng mong nhớ em, nhưng anh không thể rời bỏ nơi đây lúc này." "Nhưng anh phải nghĩ đến sức khỏe của bản thân mình chứ. Để chuyện này đến mai nhé, anh yêu, nhé, xin anh đấy."
Bà ngoại đang ngồi ngoài trời với hai gia đình nhà Einneman và nhà Fisher. Ông Fisher là thợ điện, hai vợ chồng tuổi đều đã gần năm mươi, có một cậu con trai mười tám tuổi là lính thủy đánh bộ, đang chờ tàu khởi hành từ California đến vùng Thái Bình Dương, và một cô con gái là nhân viên bán hàng trong cửa hàng bách hóa trên phố, đó cũng là cửa hàng nơi ngày xưa bố của anh thụt két - một sự thật không thể rũ bỏ luôn hiện diện trong tâm trí Bucky mỗi khi họ tình cờ gặp nhau lúc rời nhà đi làm mỗi sáng. Cặp vợ chồng trẻ nhà Einneman mới sinh em bé, sống trong căn hộ ngay phía dưới tầng nhà Bucky. Đứa nhỏ ở ngoài cùng với bố mẹ, đang ngủ trong nôi; kể từ lúc nó chào đời, bà ngoại của Bucky phụ giúp chăm bẵm thằng bé.
Mấy người họ vẫn đang bàn tán về bệnh bại liệt, giờ đang nhắc lại những chuyện hồi xưa đáng sợ về nó. Bà đang hồi tưởng những nạn nhân mắc bệnh ho gà được yêu cầu phải đeo băng tay và trước khi vắc-xin ra đời thì bệnh bạch hầu là căn bệnh kinh hoàng nhất trong thành phố ra sao. Bà nhớ lần được tiêm một trong những mũi vắc-xin đầu tiên phòng bệnh đậu mùa. Vết tiêm bị nhiễm trùng nghiêm trọng và kết quả là trên bắp tay phải của bà có một vết sẹo lớn, tròn tròn. Bà vén cao ống tay áo lửng mặc ở nhà và chìa cho mọi người xem vết sẹo ấy.
Góp mặt được một lúc, Bucky nói anh sẽ đi dạo, và rời gót. Đầu tiên, anh ghé hiệu thuốc trên đại lộ Avon mua một cây kem ốc quế tại máy bán nước ngọt. Anh chọn một chiếc ghế đẩu bên dưới cái quạt máy và ngồi đó vừa ăn kem vừa suy nghĩ. Mỗi khi có nhiệm vụ được đặt ra trước mắt anh đều thấy có trách nhiệm phải hoàn thành, và giờ đây, việc đó là trông nom những đứa trẻ đang lâm nguy nơi sân chơi. Và nhiệm vụ của anh không chỉ đơn thuần vì lũ trẻ mà còn bởi lòng trân trọng mớ ký ức về người chủ cửa hiệu tạp hóa ngoan cường, người bất chắp tính khí nóng nảy và những hạn chế của bản thân, đã vượt qua mọi khó khăn mà ông phải đối mặt. Marcia đã hoàn toàn sai lầm - với anh, sẽ chẳng có gì đáng khinh hơn việc chuồn đến vùng núi Pocono cùng với nàng để lẩn tránh trách nhiệm đối với công việc được giao phó.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Anh nghe thấy tiếng còi văng vẳng đằng xa. Giờ đây, tiếng còi chốc chốc lại vang lên bất kể ngày hay đêm. Đó không phải là những tiếng còi báo động của hệ thống phòng không - còi này chỉ cất lên mỗi tuần một lần vào trưa thứ Bảy, và chúng mang lại niềm an ủi rằng thành phố luôn sẵn sàng cho bất cứ tình huống nào nhiều hơn là tạo ra tâm lý sợ hãi. Những tiếng còi báo động kia đến từ những chiếc xe cứu thương tới đón các nạn nhân mắc bệnh bại liệt và đưa họ tới bệnh viện, những tiếng còi rú lên đinh tai nhức óc, "Tránh đường nào - có một cuộc đời đang lâm nguy đây!" Gần đây mấy bệnh viện trong thành phố đã hết nhẵn máy trợ thở, và những bệnh nhân cần dùng đến thiết bị ấy được đưa đến những bệnh viện ở các thành phố Belleville, Kearny và Elizabeth cho tới khi chuyến hàng chuyên chở các máy trợ thở mới tới được Newark. Bucky chỉ mong sao chiếc xe cứu thương kia không hướng về khu phố Weequahic để đón đi một trong những đứa trẻ của mình.
Anh đã bắt đầu nghe thấy những lời đồn thổi rằng nếu như dịch bệnh lan rộng thêm, tất cả các sân chơi trong thành phố có thể sẽ bị đóng cửa nhằm ngăn không cho trẻ em tiếp xúc thường xuyên với nhau ở đấy. Thông thường, một quyết định kiểu như thế sẽ được ban hành bởi Ủy ban Y tế, nhưng với những trường hợp gây ra sự đảo lộn quá mức cuộc sống của các cậu bé, cô bé ở Newark trong mùa hè, thị trưởng có quyền phản đối và đích thân đưa ra quyết định cuối cùng. Ông đang làm tất cả mọi việc trong khả năng của mình để trấn an các bậc cha mẹ trong thành phố và theo báo chí đưa tin, ông đã đến từng tiểu khu để thông báo với những người dân đang âu lo về tất cả các biện pháp mà thành phố đang làm nhằm đảm bảo mọi rác rưởi, bụi bặm, đồ bẩn thỉu phải được thường xuyên dọn dẹp khỏi những nơi công cộng cũng như nhà riêng. Ông nhắc nhở mọi người dứt khoát phải dùng thùng rác có nắp đậy và tham gia chiến dịch "Đập ruồi" bằng cách sửa các tấm lưới chắn côn trùng trên cửa, đập và diệt ruồi - vật trung gian truyền bệnh luôn sinh sôi nảy nở trong điều kiện mất vệ sinh - khi thấy chúng bay vào nhà qua những cánh cửa mở hay qua những ô cửa sổ không lắp lưới. Rác thải sẽ được tăng cường lấy cách nhật và để đẩy mạnh chiến dịch diệt ruồi, vỉ đập ruồi sẽ được các "thanh tra vệ sinh dịch tễ" phát miễn phí khi đến thăm các cộng đồng dân cư để chắc chắn rằng tất cả các đường phố sạch bóng rác thải. Nhằm đảm bảo cho các bậc cha mẹ rằng mọi thứ đều trong tầm kiểm soát và nói chung vẫn an toàn, ngài thị trưởng đã đặc biệt nhấn mạnh rằng: "Các sân chơi sẽ tiếp tục mở cửa. Trẻ em trong thành phố chúng ta cần có những sân chơi trong mùa hè. Cả hai công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential ở Newark và Metropolitan ở New York đều nói rằng không khí trong lành và ánh nắng mặt trời là những thứ vũ khí chủ yếu để tiêu trừ bệnh tật. Hãy cho con cái chúng ta tắm nắng và hít thở không khí trong lành ở các sân chơi và không một loại vi trùng nào có thể trụ lại được lâu dưới tác động của những thứ vũ khí ấy. Sau hết," ông nói với các thính giả của mình, "hãy giữ cho các khoảnh sân và các tầng hầm của quý vị luôn sạch sẽ, đừng mất bình tĩnh, rồi chúng ta sẽ sớm thấy mức độ lây lan của tai họa này giảm bớt. Và hãy đập chết ruồi không thương tiếc. Ta không thể đánh giá được hết hiểm họa mà lũ ruồi mang lại."
Bucky bắt đầu đi ngược đại lộ Avon lên khu trung tâm Belmont, không khí nóng hầm hập và mùi hôi thối nghẹt thở quẩn quanh anh. Trong những ngày có gió nam, từ trên phía nhà máy lọc dầu Rahway và Linden tỏa xuống mùi khét nồng, nhưng tối nay, luồng gió lại thổi về từ phía bắc, mang theo trong không khí thứ mùi hôi thối khủng khiếp, chắc chắn bốc ra từ trại nuôi lợn Secaucus nằm trên thượng lưu sông Hackensack, cách thành phố dăm cây số. Bucky không thấy có con phố nào hôi hám đến thế. Vào mỗi đợt nắng nóng, khi Newark dường như bị vắt đến cạn kiệt đến từng ngụm không khí trong lành, có những lúc, mùi hôi ấy trở nên kinh tởm đến
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
mức chỉ cần hít phải một hơi thôi sẽ khiến người ta buồn nôn và chạy vội vào nhà. Mọi người đang đổ lỗi cho trại nuôi lợn Secaucus, được gọi một cách khinh miệt là "Thủ phủ lợn thiến của hạt Hudson", vì nằm kề thành phố, và vì những đặc tính truyền nhiễm bệnh tật - tới những khu vực theo hướng gió - với thứ chướng khí bao phủ, một hỗn hợp độc hại, truyền nhiễm có mùi kinh tởm mà chỉ có Chúa mới biết là do những thành phần thối rữa, mục nát nào tạo nên. Nếu như điều mọi người nghi ngờ là đúng thì việc hô hấp luôn cần thiết cho sự sống sẽ là một hành vi nguy hiểm ở Newark - hít một hơi thật sâu là người ta có thể tiêu đời.
Mặc tất cả những điều khó chịu trong tối ấy, vẫn có một đoàn con trai vừa đạp những chiếc xe cũ mèm hết tốc lực trên mặt đường rải đá gồ ghề giữa những đường ray tàu điện trên đại lộ Avon vừa gào vỡ họng "Húuu!" Vẫn có các cậu bé chơi đuổi bắt trước các cửa hàng bánh kẹo. Vẫn có những thanh niên ngồi chơi nơi bậc thềm trước nhà, vừa hút thuốc vừa tán gẫu. Giữa phố vẫn có những cậu trai thong dong tung bóng cho nhau dưới ánh đèn đường, ở một lô đất trống nơi góc đường, trên tường của tòa nhà bỏ hoang có một vành rổ được treo lên và một vài thanh niên đang luyện cú "ném bóng dưới vai" nhờ vào ánh đèn hắt từ quán rượu bên kia đường, chỗ những người vô gia cư đang loạng choạng vào ra. Anh đi ngang qua một góc phố khác, nơi vài cậu tụ tập quanh một thùng thư, chễm chệ trên nóc thùng là một cậu bé đang hát giọng kim để mua vui cho cả đám. Có những gia đình chuyển ra sống ở các lối thoát hiểm, dây điện của những đài thu thanh cắm lòng thòng nối vào đến trong nhà, và nhiều gia đình tụ họp trên những lối đi tối tân giữa các khối nhà. Ngang qua những khu tập thể, anh thấy phụ nữ đang phe phẩy những cái quạt giấy của một hiệu giặt khô tặng khách hàng, rồi anh thấy những người công nhân, mới về nhà sau giờ tan ca, mặc áo may-ô đang ngồi nói chuyện. Từ mà anh được nghe đi nghe lại ở những cuộc trò chuyện ấy, dĩ nhiên là "bại liệt". Chỉ có đám trẻ là dường như còn có thể nghĩ về thứ nào đó khác. Chỉ có trẻ nhỏ (ôi lũ trẻ!) là sinh hoạt như thể, ít nhất bên ngoài khu Weequahic, kỳ nghỉ hè vẫn là một cuộc vui chơi vô tư lự.
Dù là ở những phố trong khu dân cư hay phía sau hiệu thuốc tây chỗ quầy bán kem, anh không gặp bất kỳ chàng thanh niên nào đã từng cùng lớn lên, cùng chơi bóng và cùng đi học với mình. Lúc này, ngoại trừ vài người cũng bị loại vì xếp hạng sức khỏe loại 4-F giống anh - họ đang làm việc tại các quân xưởng do có bệnh van tim, dãn dây chằng bàn chân hay mắt cũng kém như anh - còn tất cả đều đã nhận được lệnh gọi nhập ngũ.
Ở Belmont, Bucky băng ngang đại lộ Hawthorne, chỗ vài quầy kẹo bánh vẫn còn sáng đèn và nơi ấy anh còn nghe thấy tiếng lũ trẻ đi chơi ngoài phố gọi nhau í ới. Từ đây anh đi về hướng phố Bergen và vào khu vực những con phố phân cách Weequahic với các khu dân cư khác, nơi những người giàu có hơn cư ngụ bên triền dốc đổ xuống công viên Weequahic. Cuối cùng anh tới đại lộ Goldsmith. Chỉ khi thực sự đến đây, anh mới nhận thấy mình ra ngoài tản bộ đến cả nửa thành phố trong một tối hè oi ả không phải là vô định mà rõ ràng là anh đang hướng bước chân mình về phía nhà của Marcia. Có lẽ ý định của anh chỉ đơn giản là nhìn ngôi nhà gạch to đứng sừng sững giữa những ngôi nhà gạch to lớn khác và nghĩ về nàng rồi quay trở về nơi chốn của mình. Nhưng sau khi đi một vòng quanh dãy nhà, anh chợt nhận ra mình vừa bước qua cửa nhà ông Steinberg, anh bèn đi theo lối đi lát đá tới bấm chuông. Gian phòng phụ với cửa trượt mở ra bãi cỏ nơi Marcia và anh vẫn ngồi ôm ấp nhau khi đi xem phim về, cho đến tận khi mẹ nàng nói vọng từ tầng trên xuống nhắc khéo rằng bây giờ chẳng phải là lúc Bucky phải đi về sao.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Chính bác sĩ Steinberg ra mở của. Giờ thì anh đã hiểu vì sao mình lại lang thang xa tuốt từ khu tập thể trên phố Barclay, hít thở bầu không khí hôi hám của thành phố để đến tận nơi này.
"Bucky, anh bạn của tôi," Bác sĩ Steinberg vừa nói vừa dang đôi tay và mỉm cười. "Thật là một sự ngạc nhiên lý thú. Vào đi, vào đi cháu."
"Cháu đi mua ít kem rồi đi bộ đến đây ạ," Bucky phân bua.
"Cháu đang nhớ người yêu đấy," Bác sĩ Steinberg cười, nói. "Bác cũng thế. Bác nhớ cả ba chị em nó."
Họ đi dọc suốt ngôi nhà ra tới gian phòng phụ ở phía sau, nơi mở cửa nhìn ra khu vườn của bà Steinberg. Bà Steinberg đang ở nhà nghỉ mát của gia đình bên bờ biển, ở đó, bác sĩ nói, ông sẽ về với bà vào cuối tuần. Bucky uống chút nước lạnh nhé, bác sĩ Steinberg mời anh. Trong tủ lạnh có nước chanh tươi. Ông liền mang cho anh một cốc.
Khi còn nhỏ, sống cùng với ông bà trong căn hộ ba buồng ở tầng ba thì ngôi nhà của gia đình Steinberg là ước mơ của Bucky: một ngôi nhà lớn có những hành lang rộng rãi, một cầu thang ở giữa nhà với rất nhiều phòng ngủ, vài phòng tắm cùng hai gian phòng phụ trước và sau, rồi lớp thảm trải kín tất cả các phòng, những tấm chớp lật làm bằng gỗ che phủ các cửa sổ thay vì những bức rèm của hãng Woolworth. Phía sau nhà có cả một vườn hoa. Trước đây anh chưa bao giờ thực sự nhìn thấy một khu vườn hoa nở rộ, trừ khu vườn hồng nổi tiếng ở công viên Weequahic, chỗ bà anh đã đưa anh tới chơi hồi còn bé. Đấy là khu vườn do sở công trình đô thị quản lý; theo anh biết thì tất cả các khu vườn đều là tài sản công cộng. Một khu vườn tư nhân xum xuê hoa trái ngay sau nhà tại Newark khiến anh sững sờ. Cái sân sau tráng xi-măng của khu nhà anh ở đã nứt nẻ, và ven rìa nơi ấy vứt đầy các mẩu gỗ vụn mà nhiều thập niên qua lũ trẻ trong khu đã chẻ ra làm tên để phóng giết lũ mèo hoang hay trêu chọc những chiếc xe đi ngang qua hoặc chọc tức lẫn nhau. Ở đó, bọn con gái trong khu nhà chơi trò nhảy lò cò cho đến lúc lũ con trai đuổi cả đám đi để lấy chỗ chơi bài; có một đống lộn xộn các vỏ thùng kim loại méo mó; ngang dọc trên đầu là mớ dây phơi quần áo, một mớ bùng nhùng những dây thừng có gắn ròng rọc nối từ cửa sổ sau của mỗi căn hộ đến một trụ điện thoại đã bị phong hóa nứt nẻ ở phía xa nơi bãi hoang. Lúc còn bé tí, mỗi khi bà ngoại vịn vào cửa sổ để phơi quần áo, Bucky lại đứng kế bên đưa cho bà những cái kẹp. Đôi khi nửa đêm anh chợt hét lên và bừng tỉnh vì trong cơn ác mộng thấy bà nhoài người ra ngoài quá xa để treo một tấm vải trải giường nên bị ngã lộn khỏi cửa sổ tầng ba. Trước khi ông bà nghĩ ra thời điểm và cách thức để giải thích cho anh là mẹ anh chết trong khi sinh nở, anh đã luôn cho rằng mẹ chết vì tự ngã lộn ra ngoài. Mảnh sân sau nhà có ý nghĩa với anh như thế cho đến khi anh đủ lớn để hiểu và đối diện với thực tế - một nơi của cái chết, một ngôi mộ nhỏ, hình chữ nhật dành cho người phụ nữ đã yêu thương anh.
Nhưng lúc này, chỉ nội việc nghĩ về khu vườn của bà Steinberg thôi đã khiến Bucky ngập tràn niềm vui thích, nó nhắc nhở anh tới tất cả những gì anh coi trọng nhất về nhà Steinberg, về cách sống của họ, và về mọi thứ anh luôn luôn thầm khao khát, những thứ
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
mà ông bà không thể mang lại cho anh. Do vậy, với một kẻ học không cao như anh, là cả một sự kỳ quái khi xuất hiện trong căn nhà có nhiều phòng tắm như chuẩn mực của cuộc sống xa hoa này. Anh luôn bị ám ảnh bởi khát khao mãnh liệt được có gia đình vì bản thân không có được một gia đình như mọi người bình thường; thỉnh thoảng, khi chỉ có anh và Marcia ở nhà - những lúc như thế hiếm hoi lắm bởi sự hiện diện của hai cô em sinh đôi đầy hiếu động của nàng -anh tưởng tượng rằng anh và nàng đã kết hôn và căn nhà, khu vườn cùng nội thất trong nhà, cộng với số phòng tắm thừa mứa này là của họ. Anh thấy dễ chịu biết bao khi ở trong căn nhà ấy - mặc cho điều này quá là kỳ lạ bởi anh vẫn còn chưa tới nơi đó.
Bác sĩ Steinberg quay trở lại gian phòng phụ, cầm trong tay cốc nước chanh. Gian phòng tối thẫm, chỉ có ánh sáng phát ra từ chiếc đèn bàn bên cạnh chiếc ghế bành nơi bác sĩ Steinberg vừa ngồi đọc tờ tin buổi tối, vừa hút tẩu. Ông cầm tẩu thuốc lên, quẹt diêm, rít cho tới khi thuốc bắt lửa. Mùi thuốc lá ngọt và nồng làm dịu đi phần nào mùi hôi thối từ trại lợn Secaucus tỏa khắp thành phố.
Bác sĩ Steinberg người mảnh dẻ, nhanh nhẹn, hơi thấp. Ông rắn rỏi, mang kính - cũng dày nhưng không bằng kính của Bucky. Nét đặc biệt nhất của ông chính là cái mũi: gồ lên ở phía trên nhưng trở nên phẳng ở chóp mũi và sống mũi cao, sắc nét - nói tóm lại, là cái mũi trong câu chuyện dân gian, khá to, sống mũi phình, đầu mũi thõng, kiểu mũi đã trở thành đặc điểm trong suốt nhiều thế kỷ khiến người Do Thái phải chịu biết bao cam go, nhưng họ vẫn không ngừng tạo ra nó. Nét đặc trưng nơi mũi rõ nhất khi ông cười, mà ông lại rất hay cười. Ông luôn thân thiện và thuộc số các bác sĩ tư đắt khách, những người khi họ cầm trong tay hồ sơ bệnh án của ai đó và bước vào phòng chờ sẽ khiến cho các khuôn mặt bệnh nhân trở nên tươi tỉnh - mỗi khi ông tới gần bệnh nhân với ống nghe trong tay, họ thấy bản thân mình thư thái vì được quan tâm. Marcia thích cách cha nàng, một người đàn ông có dáng vẻ tự nhiên, không kiểu cách, nhắc tới bệnh nhân của mình một cách đùa giỡn nhưng cũng rất chân thành rằng họ chính là "những người thầy" của ông.
"Marcia nói với bác rằng có vài bé trong số trẻ cháu phụ trách bị chết. Bác rất buồn khi nghe tin ấy, Bucky ạ. Ở bệnh bại liệt, tử vong không quá phổ biến đến thế đâu."
"Cho đến lúc này, bốn đứa nhiễm bệnh và hai đứa đã chết. Hai cậu bé. Hai cậu bé đang học tiểu học. Cả hai mới mười hai tuổi bác ạ."
"Trách nhiệm của cháu nặng nề quá," bác sĩ Steinberg nói, "chăm nom tất cả các cậu bé, đặc biệt vào thời điểm như thế này. Bác đã hành nghề y hơn hai mươi lăm năm, vậy mà mỗi khi bị mất đi một bệnh nhân, dù đó là bởi tuổi già, bác vẫn bị sốc. Dịch bệnh lần này hẳn là một gánh nặng lớn đè lên vai cháu."
"Vấn đề ở chỗ cháu không biết liệu việc cháu để cho đám trẻ chơi bóng là đúng hay sai nữa."
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Có ai bảo là cháu đang làm sai à?"
"Vâng, mẹ của hai cậu bé, hai anh em, đều đã mắc bệnh bại liệt. Cháu biết bà ấy bị kích động. Cháu biết bà ấy chửi mắng cháu té tát trong khi thất vọng, song dường như biết thế cũng không ích gì."
"Bác sĩ cũng gặp trường hợp như thế thôi. Cháu nói đúng - con người trong nỗi đau đớn khôn cùng sẽ trở nên kích động và khi phải đối mặt với bất công của bệnh tật, họ sẽ chỉ trích, đổ tội cho bất cứ ai. Nhưng việc các cậu bé chơi bóng không khiến chúng bị bại liệt. Đó là do một loại vi-rút. Chúng ta có thể không biết nhiều về bệnh bại liệt nhưng chúng ta biết điều này. Trẻ con ở khắp mọi nơi đều vui chơi thỏa thích ngoài trời trong suốt mùa hè, và ngay cả trong vùng dịch, cũng chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ bị nhiễm bệnh. Và một tỷ lệ rất nhỏ trong số những đứa trẻ ấy là bị bệnh nặng. Và chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ trong số những đứa trẻ bệnh nặng ấy là tử vong - chết vì tê liệt hệ hô hấp tương đối hiếm gặp. Vì vậy đừng thổi phồng sự nguy hiểm của căn bệnh mà cần tiếp tục sinh hoạt như bình thường, việc ấy rất quan trọng. Cháu không việc gì phải cảm thấy có lỗi về chuyện ấy cả. Đôi lúc, đó là phản ứng tự nhiên, nhưng trong trường hợp của cháu, nó không thích đáng." Chỉ ống tẩu về phía anh đầy ngụ ý, ông nhắc nhở chàng trai trẻ, "chúng ta nên phán xét bản thân khắt khe khi không gì có thể biện hộ cho điều ta làm. Một ý thức trách nhiệm đặt không đúng chỗ có thể làm suy yếu chính chúng ta đấy."
"Thưa bác sĩ Steinberg, liệu bác có nghĩ tình hình sẽ còn tệ hơn không ạ?"
"Dịch bệnh luôn có khuynh hướng diễn biến không theo quy luật. Ngay lúc này có nhiều điều dồn dập xảy ra. Ngay lúc này chúng ta phải ứng phó với những diễn biến mới trong lúc chờ đợi và xem liệu chuyện này có qua nhanh hay không. Thông thường, những ca mắc bệnh chủ yếu tập trung ở các trẻ dưới năm tuổi. Đó là hồi năm 1916. Kiểu bùng nổ bệnh mà chúng ta đang chứng kiến, ít nhất là tại Newark đây, có phần hơi khác. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng ở thành phố này, căn bệnh sẽ không bao giờ được kiểm soát. Cho đến lúc này, bác có thể nói rằng vẫn chưa có gì đáng để báo động cả."
Đã nhiều tuần nay, Bucky chưa bao giờ thấy nhẹ nhõm như bây giờ, khi anh được bác sĩ Steinberg khuyên nhủ. Không ở đâu nơi thành phố Newark này, kể cả căn hộ hai bà cháu anh đang cư ngụ - thậm chí phòng tập nơi anh dạy thể dục tại trường Chancellor Avenue - anh lại có cảm giác yên lòng như khi ở trong gian phòng phụ sau nhà Steinberg, cùng trò chuyện với bác sĩ Steinberg giờ đang ngồi trong chiếc ghế bành đan bằng sợi liễu gai có nệm và rít những hơi thuốc nhồi trong chiếc tẩu đã cũ mòn.
"Sao ở Weequahic nạn dịch lại bùng phát nhanh nhất hả bác?" Bucky hỏi. "Sao lại thế ạ?"
"Bác không biết," bác sĩ Steinberg trả lời. "Không một ai biết cả. Bệnh bại liệt vẫn còn là một căn bệnh bí ẩn. Lần này nó khởi đầu chậm. Thoạt tiên xuất hiện chủ yếu ở khu Ironbound, rồi nảy sinh đây đó trong thành phố và đột ngột dừng ở khu Weequahic rồi lại
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
đi."
Bucky kể cho bác sĩ Steinberg nghe về chuyện rầy rà với đám choai choai dân Ý trường East Side lúc chúng lái xe từ Ironbound đến và khạc nhổ đầy ra vỉa hè chỗ cổng vào sân chơi.
"Cháu đã làm đúng," bác sĩ Steinberg bảo anh. "Cháu đã rửa sạch bằng nước và a-mô-ni-ắc. Đấy là cách tốt nhất rồi." "Nhưng liệu có phải cháu đã diệt được mầm bệnh bại liệt, nếu quả có mầm bệnh ở đó không ạ?"
"Chúng ta không biết cái gì diệt được mầm bệnh bại liệt," bác sĩ Steinberg nói. "Chúng ta không rõ ai hay cái gì mang tới bệnh bại liệt, và người ta vẫn còn tranh luận chuyện nó xâm nhập vào cơ thể như thế nào. Nhưng điều quan trọng là cháu đã cọ rửa sạch bãi mất vệ sinh đó và khiến lũ trẻ cháu đang trông nom an tâm trở lại. Cháu đã chứng tỏ năng lực của mình, đã thể hiện một thái độ bình tĩnh - đó là điều lũ trẻ cần được chứng kiến. Bucky, cháu chấn động vì điều đang diễn ra, nhưng ngay cả những người đàn ông mạnh mẽ cũng chấn động. Cháu phải hiểu là trong ngành y rất nhiều người già hơn và đã tiếp xúc với bệnh tật nhiều hơn cháu cũng bị chấn động vì nó. Phải làm bổn phận một bác sĩ điều trị mà không thể ra tay ngăn chặn sự lan rộng của căn bệnh khủng khiếp này là nỗi đau của cánh bác sĩ chúng tôi. Một căn bệnh tấn công chủ yếu vào lũ trẻ khiến chúng bị tàn phế và làm một số tử vong -điều này khiến bất cứ người lớn nào cũng khó có thể chấp nhận. Cháu có lương tâm, và lương tâm là một phẩm chất rất đáng quý, nhưng sẽ không còn có giá trị nữa nếu nó bắt đầu làm cháu tự trách cứ mình về một việc nằm ngoài xa phạm vi trách nhiệm của cháu."
Anh định hỏi: Chúa có lương tâm không? Trách nhiệm của Người ở đâu? Có phải trí tuệ của Người là vô hạn? Nhưng thay vào đó anh lại hỏi: "Liệu có nên đóng cửa sân chơi không hả bác?"
"Cháu là người quản lý cơ mà. Thế theo cháu có nên đóng cửa không nào?" Bác sĩ Steinberg hỏi ngược trở lại. "Cháu cũng không biết phải nghĩ sao nữa."
"Trẻ con sẽ làm gì nếu chúng không thể đến sân chơi nữa? Ở nhà à? Không, chúng sẽ chơi bóng ở một chỗ khác - trên đường phố, trong các khu đất trống, chúng sẽ đi xuống công viên để chơi bóng, cháu không thể cấm chúng tụ tập bằng cách đuổi chúng khỏi sân chơi được. Chúng sẽ không ở nhà - chúng sẽ lang thang tụ tập ở góc phố nơi cửa hàng bán bánh kẹo, chơi máy đánh bi, đùa nghịch xô đẩy lẫn nhau. Chúng sẽ uống nước từ các chai nhựa của nhau, mà không bận tâm đến chuyện đã bao lần cháu nói rằng không được làm như thế. Một vài đứa sẽ quá rảnh rỗi và buồn chán để rồi sẽ vượt giới hạn và dính vào rắc rối. Chúng không phải là thiên thần - chúng là lũ trẻ. Bucky, cháu không làm điều gì tệ hại khiến tình hình xấu đi. Ngược lại, cháu đang cải thiện tình hình. Cháu đang làm những việc có ích. Cháu đang góp phần giữ gìn sức khỏe của cộng đồng. Điều quan trọng là để hoạt động của sân chơi diễn ra như bình thường - nếu không, nó sẽ không chỉ là một đòn giáng vào các gia đình, mà bản thân Weequahic cũng sẽ là một nạn nhân. Ở khu
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
vui chơi, cháu khiến sự sợ hãi phải lùi xa bằng việc trông coi để lũ trẻ của cháu chơi những trò chúng thích. Giải pháp thay thế không phải là đưa bọn trẻ đi đến nơi nào khác mà ở đó chúng không được cháu trông coi. Giải pháp thay thế không phải là nhốt chúng trong nhà và khiến chúng hoảng sợ. Bác phản đối việc gây cho bọn trẻ Do Thái sợ hãi. Bác phản đối việc khiến người Do Thái hoảng sợ, đã qua thời ấy rồi. Đó là ở châu Âu, chính vì thế mà người Do Thái đã rời khỏi nơi đó. Đây là nước Mỹ. Càng ít sự sợ hãi càng tốt. Sợ hãi khiến chúng ta nhu nhược, ủng hộ việc giảm sợ hãi - đó chính là công việc của cháu và của bác."
Có tiếng còi văng vẳng từ hướng tây, phía bệnh viện. Trong khu vườn chỉ có lũ dế kêu inh ỏi và đám côn trùng lập lòe cùng vô số loài hoa thơm phức, những cánh hoa che lấp một bên gian phòng phụ và chắc hẳn, trong khi bà Steinberg vắng nhà để ra bờ biển, bác sĩ Steinberg đã tưới cho hoa sau mỗi bữa tối. Trên mặt kính của chiếc bàn cà-phê đan bằng thân liễu gai đặt trước chiếc ghế sô-pha cũng làm bằng liễu gai mà Bucky đang ngồi có một cái tô đựng hoa quả. Bác sĩ Steinberg với lấy một quả và bảo anh cùng lấy ăn.
Anh cắn một miếng đào ngon ngọt, quả đào to và đẹp giống quả bác sĩ Steinberg lấy từ tô, với sự có mặt của người đàn ông hết sức am tường này cũng như cách ông giúp xoa dịu cảm giác bất an, anh ăn chậm rãi, thưởng thức từng miếng đào ngọt ngào cho đến khi chỉ còn cái hột. Và rồi, hoàn toàn không chuẩn bị trước nhưng không sao kìm nén được bản thân, anh để cái hột đào vào gạt tàn thuốc lá, và rướn người về trước, hai tay nhớp nháp mồ hôi nắm chặt vào nhau, kẹp giữa hai đầu gối, nói, "Cháu muốn xin phép bác, thưa bác, được hỏi đính hôn với Marcia."
Bác sĩ Steinberg cười phá lên, giơ cao cái tẩu như một cái cúp, rồi ông đứng lên và khẽ nhún nhảy. "Cháu được phép!" ông nói. "Không gì làm bác xúc động hơn chuyện này. Mà bà vợ bác sẽ cảm động lắm đây. Để bác gọi cho bà ấy ngay. Còn cháu thì bắt tay vào việc ngay đi và báo với nó tin này. Ở Bucky, chuyện này thật tuyệt vời! Tất nhiên là các bác cho phép. Marcia không thể tìm đâu ra một anh chàng tốt hơn. Nhà này thật có phúc!"
Giật mình khi nghe bác sĩ Steinberg mô tả gia đình ông là một gia đình may mắn, Bucky cảm thấy tràn ngập niềm phấn kích. Anh nhảy bật lên, nồng nhiệt lắc tay bác sĩ Steinberg. Cho đến giờ phút ấy, anh vẫn chưa có kế hoạch sẽ đề cập chuyện đính hôn với bất kỳ ai ít nhất là đến sang năm, khi chuyện tiền nong của anh dư dả thêm chút nữa. Anh vẫn đang tiết kiệm tiền mua một cái bếp ga cho bà ngoại, để thay cái bếp than bà dùng để nấu nướng trong bếp, và anh đã tính toán sẽ đủ tiền vào tháng Mười Hai, nếu trước đấy anh không phải mua nhẫn đính hôn. Nhưng rồi với tất thảy những lời an ủi cảm thông mà anh nhận được từ người cha tốt bụng của nàng, kể cả việc họ cùng thưởng thức những quả đào ngon tuyệt nơi gian phòng phụ sau nhà, đã thúc đẩy anh xin phép ngay tại đó, vào thời điểm đó. Nguyên cớ là từ trong tiềm thức của anh, bác sĩ Steinberg, chỉ đơn thuần bằng sự có mặt của ông, dường như có thể trả lời cho câu hỏi mà không ai khác có thể giải đáp: chuyện tệ hại đang diễn ra là gì, làm sao họ có thể thoát khỏi nó? Và còn một điều cũng khiến anh bất an: tiếng còi xe cứu thương đang vang khắp Newark lúc đêm khuya.
SÁNG HÔM SAU là đỉnh điểm của tấn thảm kịch. Có thêm ba cậu bé nữa bị mắc bệnh bại liệt - Leo Feinswog, Paul Lippman và tôi, eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Arnie Mesnikoff. Số ca trẻ em bị nhiễm bệnh ở sân chơi nhảy từ bốn lên bảy chỉ sau một đêm. Tiếng còi hú mà thầy Cantor và bác sĩ Steinberg nghe thấy tối hôm trước rất có thể là từ những chiếc xe cứu thương mang ba đứa trẻ ấy tới bệnh viện. Thầy nghe được tin về ba ca bệnh mới từ lũ trẻ, chúng mang găng tay chơi bóng đến sân chơi vào sáng đó và vẫn sẵn sàng cho một ngày thi đấu. Thông thường vào những ngày trong tuần, thầy sẽ cho chơi hai trận, mỗi trận trên một sân bóng chày nơi góc của sân chơi, nhưng sáng nay, bọn trẻ đến sân không đủ số lượng cho bốn đội. Ngoài những đứa bị bệnh, khoảng sáu mươi đứa hình như bị các bậc phụ huynh sợ hãi giữ rịt không cho tới sân chơi. Số còn lại, thầy cho tập trung hết trên khán đài làm bằng gỗ tựa vào vách tường phía sau của trường học để trò chuyện.
"Các cậu bé, thầy rất vui khi thấy các em ở đây. Hôm nay sẽ tiếp tục là một ngày nóng như thiêu nữa - các em thấy trời đã nóng lắm rồi đấy. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta sẽ không ra sân chơi bóng mà có nghĩa là chúng ta cần phải đề phòng để không một em nào được chơi quá sức. Cứ hai hiệp rưỡi chúng ta sẽ nghỉ giải lao trong bóng mát, ngay tại đây, trên khán đài này, chừng mười lăm phút. Trong quãng thời gian ấy, không được chạy lung tung. Với tất cả mọi người đấy nhé. Từ giữa trưa cho tới hai giờ chiều, khi trời nóng nhất, không được chơi bóng. Không một ai được lai vãng trên các sàn bóng. Các em muốn chơi cờ ca-rô, cờ vua, bóng bàn, muốn ngồi nói chuyện trên khán đài, hay các em muốn mang sách, tạp chí theo để đọc trong thời gian nghỉ giải lao... Tất cả đều được cả. Đấy là thời gian biểu mới của chúng ta. Chúng ta sẽ có một mùa hè vui vẻ như mong đợi, nhưng chúng ta sẽ thực hiện mọi việc một cách vừa phải trong những ngày như thế này. Không để một ai ở đây bị say nắng ngoài kia trong cái nóng khắc nghiệt ấy hết." Thầy chèn hai chữ "say nắng" vào phút cuối, thay vì nói hai chữ "bại liệt." Không có một lời than phiền nào. Cũng không có một lời bình luận nào cả. Bọn trẻ nghiêm trang lắng nghe và gật đầu đồng ý. Đó là lần đầu tiên kể từ khi có dịch bệnh, thầy nhận thấy nỗi lo sợ của chúng. Một cách ngẫu nhiên, trong đám trẻ, đứa nào cũng quen không đứa này thì đứa khác trong ba đứa mới bị nhiễm bệnh hôm trước, và nắm được bản chất của mối đe dọa theo một cách mà bọn chúng chưa từng trải qua từ trước tới giờ, cuối cùng, chúng nhận ra nguy cơ chính mình cũng có thể bị mắc bại liệt.
Thầy Cantor chọn ra hai đội, mỗi đội mười cầu thủ và bắt đầu chơi cho trận đầu tiên. Còn lại mười đứa, thầy chia ra mỗi đội năm đứa và nói tụi nó sẽ được chơi thay sau đợt nghỉ giải lao mười lăm phút thứ nhất. Đó là cách mấy thầy trò hoạt động đến hết ngày.
"Được chưa nào?" Thầy Cantor vừa nói vừa vỗ tay một cách phấn khởi. "Sẽ là một ngày hè như bất kỳ ngày nào khác, thầy muốn các em ra ngoài sân và chơi bóng."
Thay vì cùng chơi với đám trẻ, thầy quyết định khởi đầu buổi sáng của mình bằng việc ngồi chung với mười cậu bé đang chờ tới lượt chơi và là những đứa có vẻ ít khi bị đánh bại. Quay nhìn lại về phía giữa sân, nơi đám con gái thường hay tụ tập trên con đường dẫn vào trường, thầy Cantor thấy trong số mười hai cô bé sáng nào cũng có mặt ở đó hồi đầu mùa hè, hôm nay chỉ còn ba - chỉ có ba bé hình như được bố mẹ cho phép rời khỏi nhà của mình ở khu lân cận vì e sợ chúng tiếp xúc với những đứa trẻ ở sân chơi. Những cô bé vắng mặt có thể nằm trong số những trẻ trong chính khu này, anh nghe nói là đã được gửi tới nhà bà con cách xa thành phố, ở
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
những khu vực an toàn, và một vài bé nữa nằm trong số những trẻ được lôi nhanh ra khỏi mối hiểm họa để tắm mình và để ngừa bệnh dưới bầu không khí hợp vệ sinh ở bãi biển Jersey.
Lúc này, hai đứa quay dây cho một đứa nhảy - và chả còn đứa nào vỗ nhẹ vào hai chân gầy nhom của cô bé hối nó nhảy cho xong để còn tới lượt mình nữa. Có thể nghe thấy giọng non nớt cao vút của cô bé đang nhảy sáng hôm ấy từ xa vọng đến tận khán đài, nơi mấy cậu bé vẫn thường tếu táo và đùa những câu tục tĩu, ngay cả những cậu hay nói ba hoa suốt ngày dài giờ cũng chẳng nói chẳng rằng.
K, tên tôi là Kay
Còn chồng tôi tên Karl,
Chúng tôi tới từ Kansas
Và chúng tôi mang về những cây kẹo!
Cuối cùng, thầy Cantor cũng phá vỡ sự yên lặng kéo dài. "Có em nào trong số mấy em có bạn bị ốm không?" Thầy hỏi. Bọn chúng, đứa thì gật đầu, đứa thì khẽ nói có.
"Thầy biết, với các em, điều ấy thật là nặng nề. Vô cùng nặng nề. Chúng ta phải hy vọng các bạn ấy sẽ khỏe và sẽ sớm quay trở lại sân chơi."
"Ta có thể sẽ phải nằm trong máy trợ thở mãi mãi," Bobby Finkelstein nói. Đó là một cậu bé nhút nhát, là một trong những đứa trẻ ít lời nhất trong đám, cũng là một trong mấy cậu bé mặc lễ phục mà thầy Cantor đã gặp trên bậc tam cấp giáo đường sau lễ tang của Alan Michaels.
"Ừ," thầy Cantor nói. "Nhưng đó là trường hợp đường thở bị tê liệt mà chuyện ấy thì vô cùng hiếm. Khả năng hồi phục sẽ nhiều hơn rất nhiều. Đây là một căn bệnh không thể coi thường, nó có thể gây ra nhiều tổn thương to lớn, nhưng có nhiều ca phục hồi. Có khi là phục hồi một phần, nhưng rất nhiều người phục hồi hoàn toàn. Hầu hết các ca bệnh đều khá là nhẹ." Thầy nói rất chắc chắn, dựa trên nguồn kiến thức của bác sĩ Steinberg.
"Ta có thể chết," Bobby khăng khăng, tiếp tục chủ đề theo cách mà lúc trước cậu đã truy vấn mấy đứa khác. Hầu hết mọi lần, cậu eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
có vẻ thích nhường cho những bạn hướng ngoại khác phát biểu, song lần này cậu không thể ngăn mình không tiếp tục nói về những gì đã xảy ra với các bạn. "Alan và Herbie đã chết."
"ừ, ta có thể chết," thầy Cantor thừa nhận, "nhưng khả năng ấy là không đáng kể."
"Đáng kể với Alan và Herbie," Bobby đáp.
"Ý thầy là tính trong cả cộng đồng, trong toàn thành phố thì khả năng tử vong là không đáng kể."
"Điều ấy không giúp được Alan và Herbie," Bobby vẫn khăng khăng, giọng cậu bé run run.
"Em nói đúng, Bobby. Em nói đúng. Điều ấy không giúp gì được. Chuyện xảy ra với hai bạn ấy thật là tồi tệ. Chuyện xảy ra với tất cả các cậu bé ấy thật là tồi tệ."
Giờ thì một cậu bé khác cũng đang ngồi trên khán đài lên tiếng, Kenny Blumenfeld, dù những gì cậu nói không dễ hiểu lắm bởi giọng địa phương của cậu. Cậu cao ráo, khỏe mạnh, thông minh, ăn nói lưu loát, đã mười bốn tuổi, đang học năm thứ hai ở trường trung học Weequahic và không như phần đông các cậu trai khác, cậu đã trưởng thành vì cậu có khả năng không để cảm xúc lấn lướt trong chuyện thắng thua. Cậu ta, cùng Alan, đã từng là hai thủ lĩnh ở sân chơi, người luôn được chọn làm đội trưởng của một đội, người có đôi cánh tay, đôi chân dài nhất và đánh được bóng đi xa nhất - và đó lại là Kenny, anh chàng lớn nhất, cao to nhất và trưởng thành nhất cả bọn, tinh thần cậu ta cũng vững chãi như thể lực vậy, giờ đây con người ấy đang đấm nắm tay đeo găng xuống hai đùi trong khi những dòng nước mắt chảy dài trên mặt.
Thầy Cantor đi đến bên cạnh Kenny và ngồi xuống.
Giọng khản đặc, Kenny nói qua hàng nước mắt: "Tất cả các bạn của em đang mắc bại liệt! Tất cả các bạn của em hoặc sẽ tàn tật hoặc sẽ chết!"
Đáp lại, thầy Cantor chỉ đặt tay lên vai Kenny mà không nói gì. Thầy nhìn xuống sân đấu nơi hai đội bóng đang mải mê đua tranh chẳng hề để ý đến những gì đang diễn ra ngoài đường biên. Thầy nhớ tới lời cảnh báo của bác sĩ Steinberg rằng không được phóng đại mối nguy hiểm, nhưng rồi thầy lại nghĩ: Kenny nói phải. Từng đứa trong bọn chúng. Những cậu trai ở trên sân và những cậu trai ngồi nơi khán đài. Lũ con gái đang nhảy dây. Tất cả chúng đều còn trẻ con, mà bại liệt thì đang săn đuổi bọn trẻ, nó sẽ quét qua nơi này và hủy diệt hết thảy chúng. Mỗi sáng khi đến sân, lại có một vài đứa nữa ra đi. Không có gì ngăn chặn được chuyện ấy trừ khi người ta đóng cửa sân chơi. Và ngay cả việc đóng cửa cũng không giúp ích gì - cuối cùng nó sẽ lùng bắt cho đến đứa trẻ cuối cùng. Cộng đồng
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
này đã đến ngày tận số. Cho dù có đứa nào sống sót thì cũng không còn nguyên vẹn nữa.
Và rồi, bỗng dưng, thầy Cantor nghĩ đến quả đào đã ăn nơi gian phòng phụ phía sau nhà bác sĩ Steinberg tối hôm trước. Thầy hầu như có thể cảm thấy nước đào đang nhỏ vào tay mình, và lần đầu tiên thấy lo sợ cho bản thân. Thật là đáng ngạc nhiên khi thầy đã có thể kìm nén nỗi sợ bị nhiễm bệnh được lâu đến thế.
Thầy nhìn Kenny Blumenfeld đang khóc thương cho những người bạn của cậu bị bại liệt bủa vây, và đột nhiên muốn chạy trốn chỗ làm giữa đám trẻ này - trốn khỏi nỗi lo sự không dứt về thứ nguy cơ dai dẳng này. Bỏ đi, như Marcia đã muốn thầy làm thế.
Nhưng thay vào đó thầy chỉ ngồi im lặng cạnh Kenny cho đến khi cơn nức nở qua đi, rồi nói với cậu: "Thầy sẽ quay lại - giờ phải ra chơi một lát đã." Rời khỏi khu khán đài vào sân, ở đó thầy nói với Barry Mittelman, hậu vệ chơi ở vị trí chốt ba: "Tránh nắng đi, vào chỗ mát, lấy nước uống đi," rồi lấy găng tay của Barry, thầy đứng vào vị trí thứ ba, hăng hái chỉnh găng để tạo túi bắt bóng.
Đến cuối ngày hôm ấy, thầy Cantor đã chơi ở tất cả các vị trí trên sân, tạo điều kiện để các cậu bé ở cả hai phe đều được ngồi nghỉ một hiệp trong bóng râm cho khỏi bị quá nóng. Thầy không biết làm gì khác để ngăn ngừa bại liệt lây lan. Chơi bóng ngoài chỗ nắng, thầy phải giơ găng tay lên chóp mũ để còn nhìn được dưới ánh mặt trời, lúc bốn giờ chiều mà mặt trời vẫn chói chang như giữa trưa. Thầy thật ngạc nhiên, khi nghe ngay phía sau mình, trên con đường dẫn vào trường, ba cô bé cháy nắng, vẫn đang say mê hát, vẫn gây thích thú bằng những giai điệu nhịp nhàng.
S, tên tôi là Sally
Còn chồng tôi tên Sam...
Vào khoảng năm giờ, khi các cậu bé bước vào lượt đấu cuối cùng trong ngày - các cầu thủ phe phòng ngự quăng bỏ những áo phông pô-lô ướt đẫm ra ngoài sân đấu tráng nhựa còn các chàng trai đứng trong khu phát bóng cũng cởi trần - thì thầy Cantor nghe thấy tiếng hét to từ khu giữa sân. Đó là tiếng Kenny Blumenfeld, cậu đang nổi khùng với Horace. Lúc đầu giờ chiều thầy Cantor đã thấy Horace ở phía dưới khu khán đài nhưng ngay sau đó không thấy đâu nữa. Có lẽ ông vừa đi vơ vẩn trong khu gần đó và chỉ mới quay lại sân chơi để rồi, quyết định như vẫn từng làm là đi vào trong sân và đứng yên lặng cạnh một ai đó trong số cầu thủ, lần này ông đã chọn tiến lại phía Kenny và đứng cạnh chàng trai cao to nhất trong cả hai đội. Lúc đầu buổi, Kenny, trái với bản tính của mình, đã đau khổ khóc nức nở vì mất mát những người bạn, thì giờ đây, một lần nữa trái với bản tính, lại đang la hét Horace và khua găng tay xua đuổi ông với vẻ hăm dọa. Kenny không chỉ là cậu bé cao lớn nhất, mà với tấm thân trần còn cho thấy cũng là người khỏe nhất. Ngược lại, Horace, trong bộ đồ mùa hè quen thuộc, áo sơ-mi tay lửng rộng thùng thình cùng quần dài, cạp bó nhăn nhúm và một đôi giày đục lỗ li ti như rây bột hai màu nâu-trắng mà kiểu dáng đã lỗi mốt từ lâu, trông ông ta có vẻ gầy gò thiếu ăn. Ngực ông hõm vào,
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
đôi chân khẳng khiu, còn đôi cánh tay gầy nhắng, lẳng ngoẳng yếu ớt như có thể bẻ làm đôi dễ như người ta tì que lên đầu gối để bẻ. Một cơn sợ hãi cũng có thể giết chết ông ta chứ đừng nói đến một cú đấm của anh chàng lực lưỡng như Kenny.
Ngay lập tức, thầy Cantor nhảy khỏi băng ghế đang ngồi và chạy hết tốc lực vào sân trong khi tất cả các cậu bé đang thi đấu cũng như đang ngồi trên khán đài chạy theo anh và cả ba bé gái trên con phố dẫn vào trường cũng đã ngừng nhảy dây - hình như đây là lần đầu tiên kể từ hè.
"Đưa ông ta tránh xa tôi đi!" Kenny - tấm gương về sự trưởng thành của đám trẻ, người mà thầy Cantor không bao giờ thấy có một lý do nào để trách mắng vì đánh mất tự chủ - thì cũng chính là Kenny ấy giờ đang tru tréo, "Đưa ông ta tránh xa tôi ra, không thì tôi giết ông ta đấy!" "Chuyện gì thế? Sao thế?" Thầy Cantor hỏi. Horace đứng đó đầu lắc lư và nước mắt chảy dài trên mặt, rên rỉ từ sâu trong cổ họng - một âm thanh yếu ớt, ngắt quãng.
"Ngửi người ông ta mà xem!" Kenny gào lên. "Ông ta hôi thối như phân ấy! Lôi cổ ông ta ra khỏi đây đi! Chính ông ta đó! Ông ta là kẻ mang đến bại liệt!"
"Bình tĩnh nào Ken," thầy Cantor lấy giọng ôn tồn, cố gắng giữ cậu bé cách xa Horace trong lúc cậu ta có thể dễ dàng đánh bay ông khờ. Cầu thủ của cả hai đội chơi lúc này đã vây quanh hai thầy trò, và khi có vài ba cậu bé chạy ào tới nắm chặt hai cánh tay của Kenny và kéo cậu lui về sau, cách xa khỏi nơi cậu đứng chỉ trích Horace thì Kenny quay ra vung nắm đấm về phía mấy đứa trẻ khiến tất cả chúng nhảy dạt ra xa.
"Tôi sẽ không bình tĩnh!" Kenny gào to. "Đồ lót ống ta vấy đầy phân! Hai tay ông ta cũng dính đầy phân! Ông ta không rửa ráy, ông ta dơ bẩn và rồi ông ta muốn chúng ta nắm tay ông ta, lắc tay ông ta, và đó là cách mà ông ta truyền bệnh bại liệt! Ông ta là kẻ làm tàn phế mọi người! Ông ta là kẻ giết người! Cút khỏi đây, ông kia! Cút! Cút mau!" Và một lần nữa Kenny khua loạn cái găng tay hở ngón của mình như thể đang tránh cuộc tấn công của một con chó dại."
Trong khi đó, khống chế được hai cánh tay huơ đập của Kenny, thầy Cantor liền chen vào giữa cậu bé bị kích động và sinh vật đang khiếp sợ bởi cơn giận cậu đang trút lên đầu kia.
"Ông phải về nhà đi Horace," thầy Cantor khẽ nói. "Về nhà với bố mẹ đi. Đến bữa xế rồi. Đến giờ ăn rồi đấy."
Horace đúng là bốc mùi - một mùi phát gớm. Và dù thầy Cantor lặp lại lời mình lần thứ hai nhưng Horace vẫn tiếp tục khóc ròng, quỳ dưới đất, không nói năng gì.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Đây này, Horace," thầy Cantor nói và đưa tay cho ông. Không ngẩng mặt lên, Horace đặt bàn tay yếu ớt của mình vào tay thầy, Cantor lắc nhẹ tay ông ta chân thành như lúc đã lắc tay bác sĩ Steinberg sau khi được phép đính hôn với Marcia vào đêm hôm trước.
"Ông sao rồi, Horace?" Thầy Cantor vừa thì thầm vừa lắc tay của Horace. "Cậu bé, cậu bé sao rồi?" Mất một lúc lâu hơn thường lệ, nhưng rồi, cũng như bao lần trước đây mỗi khi Horace ra ngoài la cà đến đứng bên cạnh một cầu thủ, cái lắc nhẹ tay ấy như một phép thuật, và Horace được an ủi quay đầu, rời gót, về nhà hay đến nơi nào đó khác không ai biết, có khi ngay cả Horace cũng không biết nữa. Tất cả những đứa trẻ đã nghe những lời nói khùng điên của Kenny lùi lại sau lưng Horace và quan sát ông ta đơn độc, lắc la lắc lư bước ra lối đi nóng bức sát tường nhà trên hè phố, trong khi ba đứa con gái, vừa hét the thé: "Ông ta đi theo chúng ta đấy! Ông khờ đang đuổi theo chúng ta!" vừa cầm mấy sợi dây chạy về phía đám đông trên đại lộ Chancellor chiều muộn ấy, chúng chạy hết tốc lực để khỏi phải thấy hiện thân sự tàn lụi của con người.
Để Kenny trấn tĩnh lại, khi các bạn khác đã ra về, thầy Cantor bảo cậu bé ở lại giúp mình mang các thiết bị sân chơi cất vào phòng kho dưới tầng hầm. Sau đó, khi hai thầy trò thả bộ trên đường về, thầy nhỏ nhẹ trò chuyện với Kenny đến khi cả hai tới nhà cậu, dưới chân dốc trên đại lộ Hansbury.
"Tình hình hiện thời khiến ai cũng thấy nặng nề, Ken ạ. Ở đây không phải chỉ có em," thầy bảo cậu, "chịu áp lực chuyện bại liệt. Phải chịu đựng cả bại liệt và thời tiết như thế này thì không ai mà không bị căng thẳng tới đỉnh điểm cả."
"Nhưng ông ta đang khiến bệnh lan truyền, thưa thầy. Em dám đảm bảo điều ấy. Em không nên điên khùng như thế, em biết ông ta là một kẻ khờ, nhưng ông ta bẩn thỉu và ông ta đang làm lây lan bệnh. Ông ta la cà khắp mọi chốn, nhỏ nước dãi lên đủ mọi thứ, bắt tay tất cả mọi người và đó là cách ông ta lây lan mầm bệnh ra khắp nơi."
"Trước hết, Ken ạ, chúng ta không biết thứ gì làm lây lan bệnh."
"Chúng ta biết mà thầy. Rác rưởi, bụi bẩn và phân," Kenny nói, cậu lại nổi cáu. "Và ông ta tanh tưởi, bẩn thỉu, kinh tởm, chính ông ta làm lây lan bệnh. Em biết chắc là thế."
Trên hè phố, trước của nhà Kenny, thầy Cantor nắm hai vai cậu và Kenny rùng mình khiếp sợ, không ngừng vẫy vùng và la hét. "Đừng động vào em! Thầy vừa mới động vào người ông ta!"
"Vào nhà đi!" thầy Cantor nói, giọng vẫn bình tĩnh nhưng lùi lại một bước. "Hãy tắm nước lạnh, uống một cốc nước lạnh. Hãy hạ hỏa đi Ken, và thầy mong sẽ gặp lại em vào sáng ngày mai ở sân chơi."
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Nhưng thầy đang nhắm mắt làm ngơ với kẻ đang làm lây lan bệnh chỉ bởi ông ta tàn tật và cần được giúp đỡ! Ông ta không chỉ tật nguyền - ông ta còn nguy hiểm nữa! Thầy có hiểu không, thầy Cantor? Ông ta không biết cách chùi sạch phân vì vậy ông ta làm tất cả những người khác cũng bị dính phải!"
TỐI HÔM ẤY, quan sát bà ngoại đang làm bữa tối cho mình, Bucky bỗng tự hỏi phải chăng đó là hình ảnh của mẹ mình nếu bà may mắn sống thêm năm mươi năm nữa - người yếu ớt, lưng còng xuống, xương loãng, mái tóc đã bạc từ vài thập niên trước và rụng đi nhiều giờ chỉ còn thưa thớt, khuỷu tay nhăn nhúm và cằm chảy xệ, các khớp xương đau nhức mỗi sáng, mắt cá chân căng phồng và ê ẩm khi tối trời cùng lớp da mỏng mờ đục của đôi bàn tay hằn lên vô số đường vằn vện, đôi mắt kém với cặp thủy tinh thể bị đục và đã phai màu. Trên cái cổ tàn tạ, gương mặt bà giờ là một mạng lưới chi chit các nếp nhăn và đường hằn nhỏ li ti tới mức chúng giống như một bức họa tỉ mỉ hơn là dấu ấn của tuổi tác - có lẽ là một dụng cụ điêu khắc bằng a-xít, hay một dụng cụ thêu thùa đã được một bàn tay nghệ nhân thủ công bậc thầy dùng để tạo tác mặt bà sao trông cho giống với bất kỳ người bà cao tuổi nào trên trái đất.
Hẳn khi lớn lên trông mẹ anh sẽ rất giống bà ngoại. Anh thấy vậy khi nhìn những bức ảnh, trong đó, đương nhiên, anh nhận ngay ra mình cũng rất giống mẹ, đặc biệt bức chân dung mẹ chụp ở hiệu ảnh hiện được đóng khung để trên bàn trong phòng ngủ của ông bà ngoại. Bức ảnh chụp vào năm mẹ tốt nghiệp trung học khi mẹ mười tám tuổi, trong cuốn kỷ yếu niên khóa 1919 của trường South Side mà Bucky thường lật giở từ khi còn là cậu học sinh tiểu học bắt đầu nhận ra các cậu bé khác trong lớp mình không phải là cháu sống với ông bà mà là con sống với mẹ cha, điều này đã khiến anh nghĩ rằng như thế mới là "những gia đình đúng nghĩa". Anh hiểu rõ sự hiện diện bấp bênh của mình trên thế giới này từ khi người lớn dành cho anh kiểu nhìn mà anh ghét cay ghét đắng, cái nhìn thương hại mà anh rất tỏ tường, hồi ấy anh thỉnh thoảng cũng nhận được cái nhìn ấy từ những giáo viên. Cái nhìn nói lên quá rõ rằng sự chăm nom từ bậc sinh thành đã luống tuổi của mẹ anh là tất cả những gì chặn giữa anh và tòa nhà lạnh lẽo bốn tầng bằng gạch đỏ gần đại lộ Clinton, nơi có hàng rào sắt sơn đen và những cửa sổ kính sần có khung sắt che ngoài cùng cánh cửa gỗ nặng nề được trang trí một ngôi sao Do Thái màu trắng, và khoảng trống lớn phía trên khung cửa được khắc những từ cô độc nhất mà anh từng đọc: TRẠI TRẺ MỒ CÔI DO THÁI.
Dù cho bà ngoại có nói rằng tấm ảnh tốt nghiệp trên bàn trong phòng ngủ đã nắm bắt được cái hồn thánh thiện của mẹ một cách hoàn hảo, làm cho bức ảnh vô cùng sống động thì đó cũng không phải là tấm ảnh mẹ mà anh yêu thích, bởi tấm áo choàng cử nhân sẫm màu mà mẹ mặc bên ngoài, cái dấu hiệu luôn khiến anh thấy buồn, bởi tấm áo choàng trong ảnh đó là một điềm gở, một cảnh báo về tấm vải liệm của bà. Tuy nhiên, khi ở nhà một mình, lúc ông bà làm việc nơi cửa hàng, có đôi lần anh lẻn vào phòng ông bà để sờ tay lên tấm kính trên bức ảnh, lần theo khuôn mặt mẹ như thể tấm kính đã được bỏ ra và khuôn mặt ấy bằng xương bằng thịt. Anh làm thế bất chấp điều đó khiến anh cảm thấy thêm khát khao không phải chỉ sự hiện diện của người mẹ anh đang kiếm tìm mà còn bởi sự thiếu vắng một người anh chưa bao giờ gặp, trừ ở trong ảnh, người anh chưa bao giờ được nghe gọi tên mình, người có hơi ấm mẹ mà anh chưa bao giờ được đắm chìm trong đó, một người mẹ chưa bao giờ chăm nom, cho anh ăn, bế anh lên giường, đánh thức anh dậy đi học hay nhìn anh lớn lên và trở thành người đầu tiên trong nhà học cao hơn bậc phổ thông. Thật lòng anh có thể bảo rằng
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
vẫn chưa nhận được sự chăm nom đầy đủ như vẫn dành cho một đứa trẻ? Tại sao vòng tay âu yếm thân thiết của một người bà yêu quý lại ít tạo sự mãn nguyện hơn vòng tay mẹ? Đúng ra không thế mới phải, và anh cảm thấy điều đó vẫn thật bí ẩn - cũng bí ẩn như cảm giác hổ thẹn thầm kín vì che giấu suy nghĩ ấy.
Tối đó, Bucky đột nhiên hiểu rằng lần này Chúa không chỉ đơn thuần để cho bại liệt hoành hành khắp khu Weequahic mà rằng hai mươi ba năm trước, Chúa cũng đã để cho mẹ anh, chỉ mới tốt nghiệp phổ thông được hai năm và còn trẻ hơn anh bây giờ phải chết khi sinh nở. Khi trước anh chưa bao giờ nghĩ về cái chết của mẹ theo cách này. Hồi trước, vì nhận được sự chăm sóc yêu thương của ông bà, anh luôn chỉ cảm thấy rằng việc mất mẹ ngay từ khi lọt lòng là số mệnh của mình và rằng việc ông bà chăm sóc anh chỉ là kết quả đương nhiên sau cái chết của mẹ. Cũng vậy, việc cha anh là một kẻ cờ bạc và một tên ăn cắp cũng chỉ là việc đã được định trước rồi và nó không thể khác đi được. Nhưng giờ đây khi không còn là đứa trẻ, anh đã có thể thấu hiểu rằng vì sao mọi sự không khác đi là bởi Chúa. Nếu không bởi Chúa trời, nếu không bởi bản chất cố hữu của Chúa, mọi sự chắc hẳn sẽ khác.
Anh không thể nói lại với bà loại ý nghĩ như thế, bởi cũng như ông ngoại, bà không nghĩ ngợi gì nhiều, và anh cũng không cảm thấy sẵn sàng trò chuyện về đề tài này với bác sĩ Steinberg. Mặc dù là một người rất duy lý, bác sĩ Steinberg cũng là một tín đồ Do Thái giáo và có thể sẽ phật ý với chiều hướng suy nghĩ về nạn dịch bại liệt đang túc trực trong đầu anh. Anh không muốn bất hòa với bất kỳ ai trong nhà Steinberg, chí ít là với Marcia; với nàng, mùa lễ Rosh Hashanah (hai ngày nghỉ đầu năm mới) và Yom Kippur (ngày chuộc tội) là cội nguồn của lòng sùng kính và là thời gian dành cho người cầu nguyện khi nàng thành kính dự lễ ở giáo đường cùng gia đình suốt cả ba ngày. Anh muốn tỏ rõ sự tôn trọng tất cả những gì gia đình Steinberg trân trọng, bao gồm, đương nhiên, tôn giáo mà anh cũng theo như họ, thậm chí, giống như ông ngoại - với anh bổn phận là một tín ngưỡng, chứ không phải ngược lại - anh không phải là người tích cực hành lễ. Và trước giờ với anh, thật là dễ dàng để toàn tâm thờ phụng rồi đến cái khoảnh khắc khi anh nhận thấy cơn giận của mình đang trỗi dậy bởi tất cả lũ trẻ anh bị mất vì bại liệt, kể cả cặp anh em bướng bỉnh nhà Kopferman. Cơn giận dữ nơi anh không nhắm vào đám choai choai người Ý, lũ ruồi, thư từ, bơ sữa, tiền giấy, thị trấn Secaucus hôi hám, cái nóng tàn tệ hay Horace, không nhắm vào bất kỳ nguyên nhân nào, tuy nhiên ít khi, loài người, trong cơn giận hay lúc rối trí của mình, có thể trở nên tiến bộ trong nhận thức về bệnh dịch, thậm chí không phải để kết án vi-rút bại liệt, mà là để chống lại ngọn nguồn, kẻ gây ra nó - chống lại Chúa, người tạo ra vi-rút.
"CỨ THẾ NÀY THÌ cháu phát ốm mất thôi, Eugene." Bữa tối đã xong, anh đang lau dọn còn bà ngoại thì ngồi bên bàn ăn nhấp từng ngụm nước trong bình đá. "Cháu chạy ào ào tới sân chơi," bà nói, "cháu vội vã tới thăm gia đình lũ nhỏ, Chủ Nhật cháu lại hối hả chạy tới dự lễ tang, rồi gấp rút chạy về giúp bà vào buổi tối - có lẽ cuối tuần này, trong tiết trời nóng nực thế này, cháu phải bớt công bớt việc, bắt chuyến tàu lửa xuôi xuống bờ biển và kiếm lấy một cái giường mà nghỉ cuối tuần đi cháu ạ. Nghỉ ngơi hoàn toàn. Rời bỏ nóng nực. Rời xa sân chơi. Đi bơi. Làm thế sẽ có vô khối cái tốt cho cháu đấy."
"Đấy cũng là một cách không tồi bà nhỉ."
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Vợ chồng nhà Einneman có thể phụ giúp bà mà, rồi đêm Chủ Nhật cháu sẽ trở về tươi tắn, khỏe khoắn. Dịch bệnh bại liệt nó làm cháu phát ốm mất. Cháu mà ốm thì chả có gì hay ho hết."
Trong bữa tối, anh đã kể cho bà về ba ca lây nhiễm mới ở sân chơi và rằng anh sẽ điện thoại tới nhà mấy cậu bé ấy khi gia đình họ từ bệnh viện trở về.
Trong lúc ấy, tiếng còi lại vang lên, nghe rất gần khu nhà, điều này thật khác thường, bởi cho đến lúc này chỉ có cùng lắm ba hay bốn ca bệnh trong tam giác dân cư được tạo bởi ba đại lộ Springfield, Clinton và Belmont. Số ca bệnh ở khu dân cư này là thấp nhất trong toàn thành phố. Ở đỉnh phía nam của tam giác, nơi anh sống cùng với bà ngoại và là nơi số người thuê nhà bằng một nửa so với ở khu Weequahic, mới chỉ có một ca nhiễm bệnh bại liệt - nạn nhân là một người lớn, ba mươi tuổi, một công nhân bốc vác làm việc ở cảng - trong khi ở khu Weequahic, nơi có năm trường tiểu học, chỉ tính riêng trong tuần đầu tháng Bảy đã có hơn một trăm bốn mươi ca bệnh, tất cả đều là trẻ em dưới mười bốn tuổi.
Đúng rồi, dĩ nhiên là thế - bờ biển, nơi có một vài đứa trẻ trong sân chơi của anh đã thoát ly thành phố cùng với cha mẹ đến sống những ngày hè còn lại. Anh biết một căn nhà có phòng cho thuê khá gần bãi biển trên phố Bradley, ở đó có thể kiếm được một phòng dưới hầm với giá một đô-la. Anh có thể nhảy cầu mức cao ở hồ bơi nước mặn lớn gần đó, nhảy suốt cả ngày và khi đêm tới, anh sẽ đi dạo trên lối đi lót ván dọc bờ biển tới công viên Asbury kiếm một mớ sò rán và một chai nước ngọt có ga làm từ rễ cây tại khu mái vòm, rồi anh sẽ ngồi trên băng ghế nhìn ra biển và thưởng thức bữa tiệc trong lúc ngắm những con sóng xô bờ. Có chỗ nào tránh trú khỏi dịch bệnh bại liệt ở Newark tốt hơn, có thứ gì bổ dưỡng với anh hơn là màn đêm Đại Tây Dương thăm thẳm, ầm vang tiếng sóng? Kể từ lúc chiến tranh nổ ra, đây là mùa hè đầu tiên mà sự nguy hiểm đến từ những chiếc tàu ngầm Đức xuất hiện ở những vùng biển gần đó hay lũ người nhái Đức xâm nhập vào bờ lúc đêm tối đã được coi là không còn nữa, lệnh cắt điện tạm thời đã được bãi bỏ, và - mặc dù lực lượng bảo vệ bờ biển vẫn phải đi tuần tra và những công sự bê-tông ngầm dọc bờ biển vẫn được duy trì - suốt dọc bờ biển Jersey lại sáng trưng ánh điện. Điều ấy có nghĩa rằng cả quân Đức lẫn quân Nhật đang phải hứng chịu những thất bại nặng nề và rằng sau gần ba năm kể từ ngày đầu bùng nổ, cuộc chiến của nước Mỹ đang đi tới hồi kết. Điều ấy cũng có nghĩa rằng hai người bạn học chung cao đẳng thân thiết của anh, Jake Lớn Garonzik và Dave Jacobs, sẽ trở về bình an vô sự nếu như họ có thể giữ được nguyên vẹn cơ thể trong những trận đánh còn lại trên đất châu Âu. Anh nghĩ tới bài hát mà Marcia rất thích: "Em sẽ gặp lại anh ở tất cả những nơi chốn quen thuộc ngày xưa" Sẽ tới ngày ấy, anh nghĩ, cái ngày mà anh có thể gặp Jake và Dave ở những nơi chốn quen thuộc ngày xưa!
Anh không bao giờ vượt qua được nỗi tủi hổ khi không được ra chiến trường cùng hai người bạn, tất cả chỉ vì anh không thể làm gì để thực hiện được nguyện vọng ấy của mình. Họ cùng nhau lên một chuyến bay, nhảy dù xuống và lao vào cuộc chiến - là những việc anh muốn được làm, chính xác là những việc anh đã được nuôi dưỡng để thực thi. Khoảng sáu tuần trước, vào lúc tờ mờ sáng
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
ngày D[2], họ cùng đại lực lượng lính dù đã nhảy xuống phía sau phòng tuyến quân Đức ở bán đảo Normandy. Do vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình hai người bạn, anh biết rằng trong cuộc tấn công đó, mặc dù bị thương nhiều lần, họ vẫn sống sót. Theo dõi các bản đồ đánh dấu những bước tiến của quân đồng minh, anh chắc rằng họ đã có một trận đánh ác liệt nhằm chiếm cho được thị trấn Cherbourg thuộc nước Pháp trong những ngày cuối tháng Sáu. Mục đầu tiên Cantor tìm kiếm đọc trên tờ Tin Tức Newark bà ngoại anh mang từ nhà Einneman về mỗi tối sau khi vợ chồng họ đã đọc xong, là bất cứ tin gì có liên quan đến chiến dịch của quân đội Mỹ tại Pháp mà anh có thể tìm thấy. Sau đó, anh đọc đến chuyên mục trên trang nhất của tờ Tin Tức có tiêu đề "Bản tin bại liệt hằng ngày" và nó xuất hiện ngay dưới bảng cảnh báo cách ly được in lặp đi lặp lại mỗi ngày. Bảng ghi: "Ủy ban Y tế thành phố Newark, bang New Jerse. Cấm vào. Căn nhà này có một ca bại liệt. Bất cứ người nào vi phạm những quy tắc và quy định về cách ly và kiểm dịch hoặc ai cố tình di dời, xóa chữ hay che khuất tấm biển này mà không được phép sẽ bị phạt 50 đô-la." Bảng tin bại liệt còn được đọc trên đài phát thanh địa phương, cập nhật cho người dân ở Newark con số ca bệnh và vị trí của mỗi ca bệnh trong thành phố. Trong hè này cho đến giờ, những gì người ta nghe thấy hay đọc được trong các bản tin chưa bao giờ là những điều họ trông mong - rằng dịch bệnh đang trên đà suy yếu - mà toàn những ghi nhận về ca bệnh mới lại tăng lên so với ngày hôm trước. Tác động của những con số dĩ nhiên là làm mọi người nản lòng, hoảng sợ và lo lắng. Vì những con số này không liên quan đến riêng ai, người ta đã quen với chúng qua đài phát thanh hay trên báo chí, như những con số cho biết địa chỉ một ngôi nhà, tuổi tác của một người hay giá của một đôi giày. Chúng là những con số đáng sợ được lập thành biểu đồ ghi nhận sự tiến triển của căn bệnh khủng khiếp trong mười sáu tiểu khu của Newark và có tác động không kém gì những con số tử vong, thương tật và mất tích trong cuộc chiến có thực. Bởi vì đây cũng là một cuộc chiến có thực, một cuộc chiến tàn sát, hủy hoại, thê lương và đáng nguyền rủa, cuộc chiến với những tàn phá của chiến tranh - cuộc chiến nhằm vào trẻ em ở Newark.
ĐÚNG THẾ, anh hoàn toàn có thể bỏ ra vài ngày nghỉ để ra bờ biển. Điều này, thật ra, anh đã lên kế hoạch thực hiện từ đầu hè - khi Marcia đã rời thành phố, đi ra bờ biển vào tất cả những ngày cuối tuần để chơi môn nhảy cầu cho hết ngày và rồi bước dọc những tấm ván lát đường, đến Asbury vào mỗi tối để ăn các món hải sản yêu thích. Tầng hầm chỗ cho thuê võng thật tối tăm, nước từ chiếc vòi hoa sen dùng chung thì rất nóng và trong vải trải cùng khăn mặt có đầy cát, nhưng, đó chỉ là thứ yếu so với trò ném lao, nhảy cầu là những môn thể thao anh mê thích. Hai ngày nhảy cầu sẽ giúp anh rũ bỏ, ít ra là tạm thời, mối bận tâm về lũ học trò bị mắc bệnh và tỉnh trí lại sau cơn cuồng điên của Kenny Blumenfeld và có cơ may giải tỏa khỏi tâm trí anh ý nghĩ hận thù đối với Chúa.
Rồi sau đó, khi bà ngoại đã ra ngoài gặp láng giềng và anh cũng vừa dọn dẹp xong xuôi, đang mặc áo may-ô, quần đùi, vừa ngồi xuống trước bàn chưa kịp uống thêm một cốc nước lạnh, thì Marcia gọi. Bác sĩ Steinberg đã đồng ý chờ để Bucky nói chuyện với Marcia trước khi ông hay bà Steinberg nói bất cứ điều gì với con gái về chuyện đính hôn, nên nàng điện thoại mà không hề biết gì về eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
cuộc nói chuyện ở gian phòng phụ sau nhà buổi tối trước đó. Nàng gọi để nói với anh rằng nàng yêu anh, nàng nhớ anh và để xem anh đã quyết định ra sao về việc đến khu trại để tiếp quản chân quản lý bến tắm từ Irv Schlanger.
"Em phải nói gì với ông Blomback đây anh?" Nàng hỏi. "Nói là anh đồng ý," Bucky bảo, và anh bất ngờ với chính mình về điều vừa đồng ý không kém gì với việc anh hỏi xin phép bác sĩ Steinberg được đính hôn với con gái ông. "Nói với ông ấy rằng anh sẽ đến làm," anh nói. Vậy là anh đã quyết nghe lời khuyên của bà và sẽ đi ra bờ biển vào cuối tuần, sẽ gom góp lại sức lực bản thân để tươi khỏe lại khi quay về với công việc. Nếu Jake và Dave có thể nhảy dù xuống Pháp, vùng bị bọn quốc xã chiếm đóng, vào ngày D và cùng quân đồng minh trụ vững ở vị trí bàn đạp bằng cách tiến đánh Cherbourg, đè bẹp sự chống trả ngoan cố nhất của quân Đức, thì chắc chắn là anh cũng hoàn toàn có thể đối mặt với những nỗi hiểm nguy khi điều hành sân chơi nơi trường Chancellor Avenue vào giữa trận dịch bại liệt.
"Ôi, Bucky," Marcia thổn thức, "Tuyệt trần! Biết anh quá rõ nên em đã vô cùng lo sợ rằng anh sẽ nói rằng không. Ôi, anh sẽ đến, anh sẽ đến Indian Hill!"
"Anh sẽ phải điện thoại cho O’Ga-ra để nói với ông ấy, và ông ấy sẽ phải tìm người thay anh. O’Ga-ra là người phụ trách sân chơi ở văn phòng điều hành. Chắc cũng phải mất vài ngày đấy em ạ."
"Vâng, làm nhanh nhất có thể nhé anh!"
"Anh sẽ phải đích thân nói chuyện trực tiếp với ông Blomback về lương bổng. Anh phải thuê nhà và lo cho bà ngoại." "Em tin là chuyện lương bổng không thành vấn đề đâu." "Và anh phải nói chuyện với em về chuyện đính hôn," anh nói. "Cái gì? Anh làm gì?"
"Chúng mình sẽ đính hôn, Marcia ạ. Vì thế mà anh nhận việc này. Ở nhà em tối qua, anh đã xin phép bố em rồi. Anh sẽ đến khu trại và chúng mình sẽ đính hôn." "Chúng mình á?" Nàng thốt lên, và bật cười. "Dù em có là một cô gái dễ bảo thật, nhưng đấy có phải là lời cầu hôn theo đúng lệ thường đâu anh?"
"Thế à? Anh đã làm việc này bao giờ đâu? Em có bằng lòng làm vợ anh không?"
"Tất nhiên là có chứ! Ôi lạy Chúa tôi, Bucky, em sung sướng quá!"
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Anh cũng thế," anh đáp, "vô cùng hạnh phúc," và khi ấy, bởi niềm hạnh phúc ấy, anh hầu như đã có thể quên việc phản bội lũ trẻ nơi sân chơi; anh hầu như đã có thể quên niềm oán giận của mình với Chúa về sự khủng bố giết chóc lũ trẻ vô tội ở Weequahic. Nói với Marcia về việc đính hôn của họ, anh đã gần như có thể nhìn nhận sự việc theo cách khác và để mau chóng nắm lấy sự an toàn và tính chất ổn định, vui vẻ của một cuộc đời bình thường trong một thời đại bình thường. Nhưng khi đã gác máy, anh phải đối diện với những quan niệm của bản thân - những quan niệm về sự trung thực và sự kiên cường mà ông ngoại từng khuyến khích, những quan niệm về sự can đảm và đức hy sinh mà anh đồng cảm cùng với Jake và Dave, những quan niệm ông ngoại đã ủng hộ nơi anh thuở thiếu thời để giữ bản thân anh tránh xa thiên hướng lươn lẹo của người cha chuyên gạt gẫm - những quan niệm làm người trong anh, chúng đòi hỏi anh phải lập tức quay ngược và trở về làm ở nơi mà anh đã ký hợp đồng cho đến hết mùa hè.
Sao anh có thể làm cái điều mà anh vừa mới làm chứ?
BUỔI SÁNG, anh mang các đồ dùng, dụng cụ cần thiết từ dưới kho lên và với số lượng chưa đến hai mươi đứa tới sân, anh lập nên hai đội bóng mềm. Sau đó anh quay trở lại văn phòng của mình dưới tầng hầm gọi cho O’Ga-ra, báo với ông ta rằng anh sẽ nghỉ việc kể từ cuối tuần để tới làm quản lý bãi tắm tại một khu trại ở Pocono. Sáng hôm ấy, trước khi tới sân chơi, anh đã nghe được tin trên đài phát thanh rằng có hai mươi chín ca bệnh bại liệt mới trong thành phố, trong đó mười sáu ca ở khu Weequahic.
"Cậu là người thứ hai trong sáng nay đấy," O’Ga-ra thốt lên. "Có một cậu Do Thái ở sân chơi trên đại lộ Peshine cũng vừa mới bỏ rơi tôi." O’Ga-ra là một ông già có vẻ ngoài mệt mỏi, tính thẳng ruột ngựa và trong ông có cả hai con người trái ngược, một nhà quản lý lâu năm các sân chơi trong thành phố và một cựu cầu thủ bóng chày can đảm của đội Central High hồi chiến tranh thế giới thứ nhất, lúc ông còn ở đỉnh cao của cuộc đời mình. Câu ông nói không thô lỗ cho lắm, song nó khiến Bucky áy náy và làm anh cảm thấy có gì đó lươn lẹo, nhặt nhạnh kiểu con nít trong lời lẽ bào chữa cho quyết định của mình. Tính khí cộc cằn của O’Ga-ra không hẳn là không giống như của ông anh, có lẽ bởi nó cũng được định hình trên những đường phố khắc nghiệt ở tiểu khu ba. Ông ngoại anh, đương nhiên, là người cuối cùng anh muốn nghĩ tới trong những lúc anh làm gì đó khác quá xa với con người thực của mình. Anh muốn nghĩ tới Marcia, tới gia đình nhà Steinberg và tới tương lai, nhưng thay vào đó lại là ông ngoại đang lên án anh với chất giọng có pha chút âm điệu Ireland.
"Anh chàng mà cháu tiếp quản công việc tại trại hè đã được gọi nhập ngũ," Bucky đáp. "Thế nên cháu phải tới đó vào thứ Sáu."
"Đây là những gì tôi nhận được khi giao cho cậu một công việc béo bở ngay khi mới ra trường được có một năm đấy hả? Cậu có biết rằng không thể gạt tôi bằng cái trò mèo này không? Cậu có hiểu rằng bỏ tôi trong hoạn nạn vào tháng Bảy như thế này sẽ khiến tôi cạch hẳn cái mặt cậu ra không hả cậu Cancer?"
"Cantor chứ ạ," Bucky chỉnh lại như anh vẫn thường làm mỗi khi họ nói chuyện.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Tôi không cần biết có bao nhiêu anh chàng sẽ nhập ngũ," O’Ga-ra nói. "Tôi không thích những kẻ bỏ rơi tôi giữa chừng trong hoạn nạn." Và rồi, ông nói thêm, "đặc biệt là những người không nhập ngũ."
"Cháu xin lỗi vì phải rời đi, ông O’Ga-ra. Và," anh nói giọng chói tai hơn dự tính, "cháu rất tiếc vì cháu không nhập ngũ - tiếc hơn nhiều so với ông nghĩ đấy." Để khiến sự việc trở nên tồi tệ hơn, anh nói thêm, "Cháu phải đi, cháu không còn lựa chọn nào khác."
"Cái gì?" O’Ga-ra lại nổi cáu. "Cậu không còn lựa chọn nào khác? Chắc chắn là cậu có một đấy. Cái cậu đang làm được gọi là một lựa chọn đấy. Cậu đang chọn cách chạy trốn khỏi căn bệnh bại liệt. Cậu ký hợp đồng làm việc, và rồi có dịch bại liệt, thì mặc xác công việc, mặc xác lời cam kết, cậu chạy bán sống bán chết. Tất cả những gì cậu đang làm chính là chạy cho xa, cậu Cancer ạ, một cậu chàng lực sĩ vô địch thế giới như cậu. Cậu là một kẻ cơ hội, Cancer. Tôi có thể dùng từ nặng nề hơn, nhưng thế cũng được rồi." Và rồi, đột ngột, ông nhắc lại, "một kẻ cơ hội," như thể từ này là đại diện cho tất cả bản tính hèn hạ có thể nêu bật được tính cách xấu xa nơi một con người.
"Vợ chưa cưới của cháu đang ở trên trại hè ấy," Bucky đáp, chẳng ăn nhập gì với lời của O’Ga-ra.
"Cậu cũng có vợ chưa cưới ở trại hè ấy khi cậu ký hợp đồng ở Chancellor."
"Không, không, cháu không có," anh vội vàng nói như thể với O’Ga-ra điều ấy sẽ làm nên được sự khác biệt. "Chúng cháu mới đính hôn trong tuần này."
"Được rồi, cậu đã có lý do để giải thích cho mọi chuyện. Giống như anh chàng ở Peshine. Mấy anh chàng Do Thái nhà các cậu ai cũng có lý do lý trấu. Không, cậu không ngốc - nhưng O’Ga-ra cũng không, Cancer nhé. Được rồi, được rồi, tôi sẽ cử người lên đó tiếp nhận công việc của cậu nếu như trong thị trấn này có ai đó phù hợp với vị trí ấy. Trong khi đó, cậu sẽ có dịp được nô giỡn, phơi nắng với cô bạn gái ở cái trại hè dành cho con nít ấy."
Không kém phần nhục nhã so với những gì anh đã hình dung nhưng anh đã nói và sự việc đã kết thúc. Giờ anh chỉ còn phải trải qua ba ngày nữa ở sân chơi và cố làm sao để không bị dính bại liệt.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
INDIAN HILL
ANH CHƯA BAO GIỜ đến vùng núi Pocono, hay lên những hạt đồng quê miền Tây Bắc bang New Jersey mạn phía bang Pennsylvania. Ngồi trên tàu hỏa, băng qua những ngọn đồi, các cánh rừng và trang trại rộng lớn khiến anh nghĩ mình đang trong một chuyến du ngoạn xa hơn gấp bội việc di chuyển tới một bang gần kề. Được lướt qua phong cảnh hoàn toàn lạ lẫm đã gây cho anh cảm xúc choáng ngợp - thứ cảm giác anh đã từng có vài lần trước đây khi ngồi trên tàu hỏa - cả khi đi trên tuyến đường xe lửa Jersey ra bờ biển - một tương lai mới và bí ẩn sắp mở ra trước anh. Ngắm nhìn Khe nước sâu Delaware, nơi con sông phân chia hai bang New Jersey và Pennsylvania đột ngột cắt qua ngọn núi chỉ cách điểm dừng của anh ở Stroudsburg khoảng mười lăm phút, càng làm tăng thêm xúc cảm của chuyến đi và khiến anh thêm yên tâm - mặc nhiên thừa nhận mà không cần lý do - rằng không một sự hủy diệt nào khả dĩ vượt được qua tấm lá chắn thiên nhiên vĩ đại dường này để tóm bắt được anh.
Chuyến đi đã ghi dấu lần đầu tiên từ sau cái chết của ông ngoại cách đây ba năm, anh phải để bà ngoại cho người khác săn sóc trong không chỉ mấy ngày cuối tuần, và là lần đầu tiên anh xa thành phố lâu hơn chỉ một, hai đêm. Đây cũng là lần đầu tiên từ nhiều tuần qua, những ý nghĩ về bại liệt không còn chiếm cứ tâm trí anh. Anh vẫn còn thương tiếc hai cậu bé đã chết, anh vẫn còn day dứt bởi ý nghĩ rằng tất cả những cậu bé khác của anh bị căn bệnh liệt bại tấn công, nhưng dù sao đi nữa anh không còn cảm thấy nản lòng trước tình cảnh cấp bách của mối tai ương hoặc rằng nếu là một người nào khác có thể đã làm việc của anh một cách tận tụy hơn. Anh đã hết lòng đương đầu với một thử thách khắc nghiệt bằng tất cả sức lực và trí thông minh - cho đến khi quyết định buông bỏ, rời khỏi cái thành phố nóng như thiêu đang oằn mình dưới bệnh dịch và đang rền rĩ những tiếng còi xe cấp cứu không ngừng di chuyển.
Ở ga Stroudsburg, Carl, lái xe của Indian Hill, một người to lớn có khuôn mặt ngây thơ cùng một cái đầu hói và khá rụt rè, đang đợi anh trong chiếc xe đa dụng cũ kỹ của trại. Carl đi ra thị trấn lấy hàng và rồi ghé đón chuyến tàu của Bucky. Khi bắt tay Carl, Bucky chỉ có một ý nghĩ trong đầu: Anh này không mang mầm bại liệt. Anh nhận ra nơi đây khí trời thật mát mẻ. Ngay cả trong nắng, thời tiết cũng mát!
Rời thị trấn với túi hành lý cồng kềnh của Bucky ở khoang sau, họ chạy xe dọc con phố chính xinh đẹp với những ngôi nhà gạch hai hay ba tầng - tầng mặt phố là một dãy cửa hàng còn các văn phòng nằm ở những tầng trên - sau đó rẽ về hướng bắc và bắt đầu chậm rãi bò ngược lên theo những con đường ngoằn ngoèo tiến vào vùng đồi. Họ đi ngang qua những trang trại, anh trông thấy ngựa và bò trên những cánh đồng, thỉnh thoảng anh bắt gặp một người nông dân đang ngồi trên máy kéo. Dọc đường là những tháp tròn chứa thức ăn gia súc, những chuồng nuôi gia súc, các hàng rào dây thép thấp lè tè, những hộp thư miền đồng quê đặt trên cọc gỗ và không thấy bại liệt ở đâu cả. Lên đến đỉnh một con dốc dài, họ ngoặt khỏi con đường trải nhựa, rẽ vào một đường đắt hẹp được đánh dấu bằng một cái biển gỗ với dòng chữ khắc TRẠI INDIAN HILL và bên dưới là hình một cái lều nón của người da đỏ trong một vòng
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
lửa - giống như biểu tượng bên sườn chiếc xe. Sau khi xóc nhảy tưng tưng trên các sống trâu chừng dăm cây số đường đất xuyên qua rừng - một đường mòn ngoằn ngoèo lắm ổ gà mà người ta cố tình cứ để như thế - Carl bảo anh vậy, nhằm ngăn xe cộ không phải của trại đi vào Indian Hill - họ đã có mặt tại lối vào khuôn viên trại, một bãi rộng hình ô-van xanh mướt mát. Ấn tượng nơi này rất giống với những gì anh cảm nhận khi bước vào sân vận động Ruppert cùng Jake và Dave để xem đội Các chú gấu Newark đấu lại trận đấu của Chủ Nhật đầu mùa giải và - sau khi bước ra khỏi những ngách tối lờ mờ để vào lối đi sáng sủa dẫn đến dãy ghế ngồi - nhìn ngắm cả khoảng không rộng lớn với thảm cỏ được cắt tỉa cẩn thận giấu mình ở một nơi xấu xí nhất trong thành phố. Nhưng đó là một sân bóng có tường vây quanh. Còn ở đây là những khoảng không rộng mở. Ở đây cảnh vật không bị giới hạn và là nơi nương náu thậm chí còn đẹp hơn cả sân nhà của đội Các chú gấu.
Trên đỉnh một cây cột kim loại được dựng giữa hình ô-van phấp phới lá cờ Mỹ, phía dưới, là lá cờ có biểu tượng khu trại. Gần đó cũng có một túp lều nón của người da đỏ, cao chừng ba mét rưỡi hay bốn mét rưỡi, với những cột đỡ dài thò ra qua lỗ hở trên nóc. Trên đỉnh của tấm bạt phủ màu xám được trang trí bằng hai đường gấp khúc giống như tia sét còn ở gần đấy là một đường gợn sóng chắc để tượng trưng cho một dải núi. Ở hai bên lều có hai cây cột tổ đã nứt mục.
Khoảnh đất ô-van xanh mướt đó dốc thoai thoải về phía một cái hồ sáng lấp lánh ánh kim rộng mênh mông. Một bến tắm bằng gỗ chạy dọc bờ, với ba cầu tàu hẹp, làm bằng gỗ cách nhau chừng mười lăm mét, nhô ra hồ hơn ba mươi mét; ở phía cuối là hai cầu tàu có ván nhảy. Đây hẳn là bến tắm dành cho nam mà anh sẽ quản lý. Marcia đã bảo anh rằng nước hồ là của các dòng suối tự nhiên. Suối tự nhiên - nghe cứ như tên một kỳ quan thiên nhiên - lại một cách nói "không bại liệt" khác nữa. Mặc một chiếc áo sơ mi ngắn tay màu trắng, cổ thắt cà-vạt, bước ra khỏi xe, anh cảm nhận được làn không khí mát mẻ hơn hẳn ở Stroudsburg trên đôi tay và khuôn mặt, mặc dù mặt trời khá chói chang. Khoác túi đồ gọn nhẹ của mình trên vai, anh bất chợt thấy vui sướng vì sự tái khởi đầu, cảm giác say mê sung sướng của tái sinh - cảm giác ngập tràn của "Tôi đang sống! Tôi còn sống này!"
Anh đi theo con đường đất dẫn tới một căn nhà nhỏ ghép từ những súc gỗ trông ra hồ, văn phòng của ông Blomback ở trong đó. Carl đã khăng khăng đòi mang giúp Bucky cái túi nặng trịch của anh đến lán tên là Comanche, nơi anh sẽ ở với những cậu bé lớn nhất khu trại, những cậu bé mười lăm tuổi và người phụ trách của chúng. Mỗi lán trong các khu trại của con trai và con gái đều mang tên một bộ lạc người da đỏ.
Anh gõ cửa và được đón tiếp nồng hậu bởi chủ nhân, một người cao lênh khênh, cổ dài với cục yết hầu to và mấy mớ tóc muối tiêu chải chéo trên cái hộp sọ rám nắng. Tuổi ông ta chắc phải tầm sáu mươi, song khi mặc quần soóc ka-ki và áo pô-lô trại hè, trông ông vẫn còn cứng cáp và khỏe mạnh. Marcia kể với Bucky rằng ông Blomback góa vợ khi còn trẻ vào năm 1926, ông đã bỏ một chỗ làm có nhiều triển vọng khi đó là chân hiệu phó trường phổ thông trung học West Side ở Newark và mua khu trại bằng tiền gia đình vợ, để lấy chỗ dạy hai cậu con những tri thức của người da đỏ mà ông đã đem lòng yêu thích khi đi dã ngoại vào dịp hè. Hai đứa trẻ giờ đã lớn và đều đang trong quân ngũ, do vậy điều hành khu trại, chỉ đạo nhân viên và viếng thăm các gia đình người Do Thái ở New
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Jersey và Pennsylvania để tuyển mộ bọn nhỏ cho mùa cắm trại là công việc quanh năm của ông Blomback. Văn phòng đơn sơ của ông - ghép từ những súc gỗ thô ráp giống phía ngoài căn nhà - có năm chiếc mũ thổ dân kết từ lông chim được treo trên các móc trang trí cho bức vách phía sau bàn làm việc; trên các vách còn lại chi chít những bức ảnh chụp các trại viên, ngoại trừ một vài kệ chất đầy sách, tất cả, ông Blomback nói, đều có liên quan đến đời sống và tri thức của người da đỏ.
"Đây là cẩm nang," ông nói với Bucky và đưa cho anh một cuốn sách dày có tiêu đề Cẩm nang về rừng. "Cuốn này là nguồn cảm hứng của tôi đấy. Cuốn này cũng thế," nói rồi ông đưa cho anh cuốn thứ hai mỏng hơn - Sổ tay đi rừng của người da đỏ. Vâng lời, Bucky giở qua các trang của cuốn Sổ tay đi rừng, anh thấy những bức họa vẽ bằng bút mực hình các loại nấm, các loài chim chóc và các loại lá của rất nhiều loài cây, anh không nhận ra được bất cứ loài nào. Anh chú mục vào tiêu đề một chương; "Bốn mươi loài chim mỗi cậu bé nên biết," và buộc phải thừa nhận rằng anh, một người đã trưởng thành, không biết được quá hai loài trong số đó.
"Hai cuốn sách này là nguồn cảm hứng cho tất cả các chủ trại hè," ông Blomback bảo anh. "Ernest Thompson Seton đơn thương độc mã khởi đầu trào lưu cắm trại theo kiểu người da đỏ. Một người thầy vĩ đại và có ảnh hưởng lớn. ‘Lòng can đảm,’ Seton nói, ‘là mục tiêu đầu tiên của giáo dục. Chúng ta sống hoang dã để mưu cầu điều này, nói ngắn gọn là tạo dựng lòng can đảm.’ Những cuốn sách tuyệt đối cần thiết. Chúng luôn luôn đưa ra một mẫu người anh hùng lý tưởng. Chúng ghi nhận thổ dân da đỏ là người khởi xướng vĩ đại cho cuộc sống nơi hoang dã, trong những cánh rừng và cách sử dụng những phương pháp của họ mỗi khi hữu dụng. Chúng đưa ra những bài kiểm tra vỡ lòng về sự kiên cường, theo tấm gương của người da đỏ. Chúng chỉ ra cội nguồn sức mạnh là sự tự chủ. ‘Vượt trên tất cả,’ Seton nói, ‘là đức tính anh hùng." Bucky gật đầu, đồng ý rằng đó là những vấn đề quan trọng, cho dù anh chưa từng nghe đến cái tên Seton.
"Cứ đến ngày mười bốn tháng Tám hằng năm, khu trại kỷ niệm ngày sinh của Seton bằng một đám rước theo kiểu da đỏ. Chính Ernest Thompson Seton là người khiến kiểu cắm trại trong thế kỷ hai mươi trở thành một trong những thành tựu lớn nhất của nước ta."
Bucky lại gật đầu. "Tôi mong muốn được đọc những cuốn sách này," anh vừa nói vừa đưa trả lại cho ông Blomback. "Có vẻ như chúng là những cuốn sách quan trọng, nhất là đối với việc giáo dục những cậu thiếu niên." "Ở Indian Hill, chúng tôi giáo dục các cậu trai và cả các cô gái. Tôi mong cậu sẽ đọc chúng. Ngay sau khi sắp xếp ổn thỏa, cậu có thể tới và mượn của tôi. Những cuốn sách có một không hai, được xuất bản từ đầu thế kỷ khi mà cả dân tộc dưới sự dẫn dắt của Teddy Roosevelt, đang trở về với cuộc sống ngoài trời. Cậu là người may mắn đấy, anh bạn trẻ," ông nói. "Từ tấm bé, tôi đã quen biết bác sĩ Steinberg và gia đình ông ấy. Nếu bác sĩ Steinberg đã đứng ra bảo đảm cho cậu, với tôi thế là đủ. Tôi sẽ kêu một trong những phụ trách viên đưa cậu đi một vòng quanh khu trại, rồi đích thân tôi sẽ đưa cậu tới thăm quan bến tắm và giới thiệu cậu với mọi người ở đấy. Tất cả bọn họ đã biết trước cậu sẽ tới. Tại bến tắm, chúng tôi có hai mục tiêu: dạy cho bọn trẻ của chúng ta những kỹ năng dưới nước và cách giữ an toàn khi ở dưới nước."
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Tôi đã học những nguyên tắc về hai thứ ấy trong trường Panzer, thưa ông Blomback. Tôi dạy môn thể dục ở trường Chancellor Avenue, an toàn là điều tôi quan tâm đầu tiên." "Các bậc cha mẹ để chúng ta chăm nom con cái họ trong những tháng hè," ông Blomback nói. "Việc của chúng ta là không để họ thất vọng. Mười tám năm nay, kể từ khi tôi mua khu trại, chưa từng bao giờ có một tai nạn nào tại bến tắm. Không một tai nạn nào cả."
"Ông có thể tin ở tôi, thưa ông, an toàn là trước nhất." "Không có một tai nạn nào," ông Blomback lặp lại một cách nghiêm nghị. "Quản lý bến tắm là một trong những vị trí có trách nhiệm nặng nề nhất tại khu trại. Có thể nói là vị trí có trách nhiệm nặng nhất. Một khu trại có thể bị sụp đổ bởi một tai nạn bất cẩn dưới nước. Khỏi cần phải nói, mỗi trại viên phải có một người bạn bơi cùng trình độ. Chúng phải xuống nước và lên bờ cùng nhau. Luôn phải kiểm tra cặp bạn này trước, sau và trong lúc bơi. Bơi một mình có thể dẫn tới những tai nạn chết người."
"Tôi nghĩ mình là một người có tinh thần trách nhiệm, thưa ông. Ông có thể tin cậy tôi trong việc bảo đảm sự an toàn cho mỗi trại viên. Ông cứ yên tâm đi, tôi biết tầm quan trọng của phương thức bạn cùng bơi."
"Được rồi, bữa trưa vẫn còn đang được phục vụ," ông Blomback nói. "Hôm nay có món mì ống sốt phô-mai. Bữa tối là thịt bò nướng. Tối thứ Sáu là tối thịt bò nướng ở Indian Hill, theo khẩu phần hoặc tùy thích. Hãy cùng với tôi tới nhà ăn và chúng tôi sẽ chuẩn bị thứ gì đó cho cậu. Và đây - đây là một cái áo pô-lô của trại. Tháo cà-vạt ra, kể từ giờ không phải đeo nó nữa, và chúng ta đi ăn trưa. Irv Schlanger để lại khăn trải giường, chăn và khăn tắm. Cậu có thể dùng chúng. Thứ Hai là ngày lấy đồ mang đi giặt." Cái áo đưa cho anh giống hệt cái áo ông Blomback đang mặc: trước ngực là tên trại và bên dưới là hình lều của người da đỏ trong một vòng tròn lửa.
Nhà ăn, một căn nhà gỗ lớn không có tường bao, chỉ cách lối đi lát gỗ từ văn phòng làm việc bên hồ của ông Blomback vài bước chân, đang đông kín trại viên, các cô bé và những người phụ trách của mình ngồi tại những chiếc bàn tròn ở một phía của lối đi chính giữa nhà ăn, còn các cậu bé cùng những người trông nom mình ngồi ở bên kia. Ngoài trời đang nắng ấm - mặt trời nơi đây dường như hiền lành và mến khách chứ không gay gắt, một Mặt Trời Cha chăm bẵm, thần ánh sáng của Đất Mẹ phì nhiêu - mặt hồ lung linh sáng lấp lánh và màu xanh ngút ngàn của vạn vật sinh sôi nảy nở của mùa hè mà kiến thức của anh về chúng cũng chẳng hơn gì đối với các loài chim. Trong nhà ăn tiếng la hét của bọn trẻ vang đi khắp chốn, vẻ huyên náo khiến anh nhớ lại cảm giác hứng thú biết bao khi được ở bên lũ nhỏ và vì thế mà anh yêu thích công việc lúc trước của mình. Anh hầu như đã quên mất niềm vui sướng ấy trong những tuần gian khó khi phải đứng nhìn mối đe dọa trước những gì mà anh không cách nào bảo vệ nổi. Ở đây có những đứa trẻ hạnh phúc, tràn đầy sức sống, không bị một cái ác hay kẻ thù vô hình nào đe dọa - chúng thực ra được che chở khỏi bất hạnh bằng một mối quan tâm kỹ lưỡng của người lớn. Nói một cách độ lượng thì anh đã chấm dứt việc phải chứng kiến một cách bất lực nỗi kinh hoàng đi cùng cái chết và giờ quay trở lại với bầy trẻ vô tư lự tràn trề sức sống. Anh thừa sức hoàn thành công việc ở nơi đây.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Ông Blomback để anh ăn trưa một mình, nói rằng họ sẽ gặp lại khi Bucky ăn xong, ở nhà ăn, chưa ai biết hay để ý xem anh là ai - lũ nhỏ cũng như những người phụ trách đều mải mê vui vẻ trò chuyện trong khi ăn, bạn cùng lán chuyện trò và cười đùa, ở vài bàn say sưa hát, mặc dù mới ăn sáng cách đó có vài giờ nhưng giống như đã nhiều năm chúng không được gặp nhau vậy. Anh tìm bàn có Marcia, nàng có lẽ vẫn chưa biết anh đã đến. Tối hôm trước trong điện thoại, cả hai đều nghĩ rằng khi anh nhận lán của mình xong xuôi và trên đường ra được bến tắm thì bữa trưa đã kết thúc từ lâu và rằng anh sẽ chỉ đến nhà ăn vào giờ ăn tối.
Khi tìm thấy bàn của nàng, anh vui mừng khôn xiết đến độ phải kiềm chế để không đứng đó và gọi to tên nàng. Sự thật là trong ba ngày cuối ở sân chơi anh đã nghĩ rằng anh sẽ không bao giờ được gặp lại nàng. Từ lúc đồng ý nhận công việc ở Indian Hill, anh đã chắc mẩm rằng mình sẽ gục ngã bởi bại liệt và mất tất cả. Nhưng giờ thì nàng kia, cô gái với đôi mắt đen ấn tượng cùng mái tóc dày, quăn, đen nhánh đã cắt ngắn trong mùa hè - chi có ít người có mái tóc đen tự nhiên, và Marcia là một trong số đó. Lúc họ gặp nhau lần đầu nơi tập hợp giáo viên trong khoa lại để giới thiệu những người mới vào mùa thu năm trước, tóc nàng khi ấy xõa xuống bờ vai đầy quyến rũ. Nàng lôi cuốn anh đến độ trong buổi chiều đầu tiên cách lần ấy không lâu, đứng đối diện với nàng, anh mới có thể nhìn thẳng vào đôi mắt và đủ tự chủ để không bị nàng hút hồn từ xa. Rồi anh nhìn nàng bước đĩnh đạc dẫn đầu đám học sinh ngoan ngoãn của mình đi qua những hành lang tới khu hội trường và anh lại ngất ngây lần nữa. Cả khi bọn nhỏ gọi nàng là Cô Steinberg cũng khiến anh rung động.
Giờ thì trông nàng cháy nắng và chiếc áo pô-lô trắng của trại nàng đang mặc, như áo anh, càng làm nổi rõ nước da đen giòn, và nhất là đôi mắt hút hồn anh không chỉ bởi màu đen nhánh mà còn bởi chúng tròn hơn bất cứ đôi mắt nào của ai khác, hai điểm hồng tâm của ước ao với những vòng tròn đồng tâm màu nâu đen. Anh chưa bao giờ thấy nàng xinh đến thế, ngay cả khi nàng giống một trại viên hơn là một cô phụ trách, chỉ cách ăn mặc trang nhã là có chút giống một cô giáo tiểu học, người con gái hai mươi hai tuổi ấy, có vẻ ngoài điềm đạm của một giáo viên đầy kinh nghiệm. Anh để ý thấy cái mũi nhỏ thanh tú của nàng có bôi chút thuốc mỡ màu trắng và băn khoăn không hiểu nàng đang chữa gì, bị cháy nắng hay bị nhiễm độc cây thường xuân. Và rồi anh có ý nghĩ vui vẻ nhất: Đấy là thứ mà mình lo ngại ở nơi đây, đó là điều mà mình sẽ cảnh báo lũ trẻ - độc cây thường xuân!
Không cách gì gọi được Marcia ở giữa cái nhà ăn huyên náo nhường này. Vài lần anh giơ một tay lên, nhưng dù đã giơ cao và vẫy vẫy nhưng nàng vẫn không thấy. Rồi anh nhìn ra mấy cô em gái của Marcia, hai chị em sinh đôi nhà Steinberg, Sheila và Phyllis, đang ngồi cạnh nhau ở cách Marcia vài bàn. Cả hai được mười một tuổi và trông khác hoàn toàn người chị cả, hai khuôn mặt lấm tấm tàn nhang với mái tóc hung đỏ dài và quăn búp, chân gầy giơ xương và mũi to giống cha, cả hai đều đã cao gần bằng Marcia. Anh vẫy hai bé, nhưng cả hai đang mải nói chuyện sôi nổi với những cô bé cùng bàn và đều không nhìn thấy anh. Từ lần đầu gặp mặt, anh đã hoàn toàn bị Sheila và Phyllis chinh phục bởi vẻ sôi nổi, sự thông minh, xúc cảm mãnh liệt của chúng, thậm chí bởi cả dáng điệu vụng về lóng ngóng của tuổi mới lớn đã bắt đầu hiện hữu ở hai chị em. Mình sẽ gắn bó với hai cô bé trong suốt quãng đời còn lại, anh thầm nghĩ, và viễn cảnh ấy khiến anh ngập tràn niềm vui sướng lớn lao. Chúng ta sẽ là thành viên của cùng một gia đình. Cùng lúc, anh nghĩ về Herbie và Alan, những cậu bé đã chết vì nghỉ hè ở Newark, về Sheila và Phyllis, những đứa trẻ hầu như cùng tuổi nhưng tràn trề
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
sinh lực bởi chúng trải qua mùa hè nơi trại Indian Hill. Và rồi, anh nghĩ về Jake và Dave đang chiến đấu với quân Đức ở đâu đó tại Pháp trong khi anh thì thu mình nơi căn nhà ồn ào vui vẻ trong một trại nghỉ hè với tất thảy những đứa trẻ tràn trề nhựa sống này. Anh bị day dứt bởi ý nghĩ vì sao những ngả đường đời phân ly đến thế và vì sao mỗi người chúng ta bất lực đến thế khi phải đối mặt với hoàn cảnh. Vai trò của Chúa ở đâu trong chuyện này? Tại sao người ném một người xuống châu Âu nơi lũ phát-xít chiếm đóng với súng trường trong tay và ấn người khác vào nhà ăn của Indian Hill với một đĩa mì ống sốt phô-mai trước mặt? Tại sao Người lại đặt một đứa trẻ Weequahic vào Newark đầy bại liệt trong mùa hè còn một đứa khác thì ở nơi trú ẩn nguy nga Pocono? Với một người trước kia cho rằng sự chuyên cần và chăm chỉ là lời giải cho mọi khó khăn của mình, giờ thì không thể cắt nghĩa được lý do vì sao những chuyện ấy đã xảy ra và lại xảy ra theo cách đó.
"Anh Bucky!" Hai chị em sinh đôi đã nhìn thấy anh, hét gọi át cả tiếng ồn ào. Chúng đứng cạnh bàn và vẫy tay. "Anh Bucky! Anh đã đến! Hoan hô!"
Anh vẫy tay đáp lại và cặp sinh đôi bắt đầu chỉ trỏ về phía người chị đang ngồi với vẻ phấn kích.
Anh mỉm cười và nói to: "Anh thấy, anh thấy rồi" khi cặp sinh đôi gọi Marcia: "Anh Bucky ở đây này!"
Marcia đứng lên nhìn quanh, nên anh cũng đứng lên, ; cuối cùng nàng thấy anh, và với cả hai bàn tay nàng gửi anh một nụ hôn gió. Anh đã an toàn. Bại liệt đã không quật ngã được anh.
NGUYÊN BUỔI CHIỀU, anh ở bến tắm, quan sát những người phụ trách - những cậu học sinh trung học ở độ tuổi mười bảy, những anh chàng chưa tới tuổi nhập ngũ - giám sát các trại viên thực hiện trọn vẹn những lần bơi thử và các bài luyện tập. Chẳng có bài tập nào mà không giống với những gì anh đã học trong khóa dạy bơi và nhảy cầu tại trường Panzer. Anh đã từng trông đợi để có một chương trình hoạt động thú vị cũng như một môi trường lý tưởng để làm việc - cả bến tắm không có một chút biểu hiện mảy may sao nhãng, bến lên xuống, các cầu tàu, những sàn lát ván, và những cầu nhảy đều ở điều kiện tuyệt hảo, còn nước hồ thì trong vắt đến kinh ngạc. Những triền đồi cây cối mọc ken dày chạy dọc suốt bờ hồ. Các lán gỗ dành cho trại viên được dựng trên những ngọn đồi thấp phía kề với hồ, nếu hình dung nhà ăn là thân chim thì một bên cánh của nó là khu trại dành cho nữ và cánh bên kia là khu trại dành cho nam. Cách bờ gần trăm mét là một đảo nhỏ được bao phủ bởi những thân cây mọc nghiêng, vỏ màu trắng. Đây hẳn là hòn đảo mà Marcia đã đề cập với anh rằng hai người họ có thể ra đó để được riêng tư một cách an toàn.
Cô đã tìm được cách gửi lại lời nhắn cho anh tại chỗ cô thư ký văn phòng ông Blomback: "Em không tin nổi vào mắt mình khi thấy chồng tương lai của mình ở đây. Em có thể lẻn ra lúc 9:30. Gặp anh ở bên ngoài nhà ăn nhé. Như bọn trẻ hay nói, "Tớ thích ấy nhiều. M."
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Khi các lớp học bơi sau cùng kết thúc và các trại viên trở về lán của mình để chuẩn bị cho bữa tối ngày thứ Sáu và buổi chiếu phim tiếp sau đó, Bucky vẫn một mình ở lại bến tắm, anh hài lòng bởi những giờ làm việc đầu tiên của mình đã trôi qua tốt đẹp và anh hứng khởi khi được bầu bạn với tất cả những đứa trẻ không âu lo, năng động tuyệt vời này. Anh đã ngâm mình dưới nước để quen với những phụ trách và cách họ cùng làm việc, giúp đỡ bọn trẻ học cách bơi và cách thở, do vậy anh không có thời gian để làm một cú nhảy từ bên cầu nhảy mức cao. Nhưng suốt buổi chiều anh đã nghĩ tới chuyện đó, như thể chỉ đến khi anh nhảy cú đầu tiên ấy, anh mới thực sự là ở đây.
Anh bước ra ngoài, dọc theo cái cầu gỗ hẹp dẫn đến tầng cầu nhảy cao, tháo cặp kính và để nó dưới chân các bậc thang. Rồi, anh mò mẫm trèo lên cầu nhảy. Căng mắt nhìn, anh có thể trông thấy lối đi dẫn mình ra đến mép cầu nhưng ngoài xa hơn, anh gần như không phân biệt được gì nữa. Những triền đồi, rừng cây, hòn đảo màu trắng, ngay cả hồ nước, tất thảy đều biến mất. Anh chỉ có một mình trên cầu nhảy phía bên trên mặt nước và hầu như không nhìn thấy gì. Không khí ấm áp, cơ thể anh ấm áp, anh chỉ nghe thấy tiếng quật bóng tennis pốc pốc và thỉnh thoảng là tiếng lách cách của kim loại va phải nhau vọng từ đằng xa nơi mấy trại viên đang chơi trò ném móng ngựa. Khi anh hít vào, không có mùi hôi thối của khu trại lợn Secaucus ở New Jersey. Anh hít căng hai lá phổi làn khí trời trong lành, vô trùng của vùng núi Pocono, rồi chạy lấy đà ba bước, bật nhảy, kiểm soát đến từng ly cả cơ thể trong suốt quãng đường bay mù mịt ấy, nhào xuống nước theo kiểu chim nhạn, mắt chỉ chợt thấy ngay trước khi hai cánh tay xuyên ngọt qua mặt hồ, anh lao thẳng đứng vào sâu trong làn nước tinh khiết và lạnh ngắt.
VÀO 5:45 CHIỀU, khi anh và đám con trai cùng lán đang gần tới cửa nhà ăn, thì có hai trại viên tách ra khỏi đám con gái cùng với những phụ trách đang tiến lại và bắt đầu gọi tên anh. Đó là những cô bé nhà Steinberg, cặp sinh đôi giống hệt nhau, kể cả khi đứng sát nhau, anh cũng khó có thể gọi đúng tên từng đứa. "Đây là Sheila! Đây là Phyllis!" Anh la lên khi cả hai lao vào vòng tay anh. "Hai đứa trông tuyệt lắm," anh bảo. "Nhìn xem đen không này. Mà còn lớn nữa. Chết thật, hai đứa cao bằng anh rồi." "Cao hơn chứ!" Chúng hét lên, quấn chặt lấy anh. "Ô, đừng nói thế," Bucky cười phá lên, "xin các cô, chưa cao hơn đâu!" "Anh sắp biểu diễn nhảy cầu hả?" Một cô bé hỏi. "Tới giờ chưa có ai đề nghị anh cả," anh đáp. "Thì chúng em đang đề nghị anh đây! Một buổi biểu diễn nhảy cầu cho cả trại xem! Tất cả những động tác vặn xoắn và nhảy ngược anh làm trên không trung ấy."
Hai cô bé đã thấy anh nhảy cầu vài tháng trước, khi anh được mời đến nhà nghỉ mát mùa hè bên bờ biển của gia đình Steinberg nhân dịp nghỉ lễ Ngày Tưởng niệm, và cả nhà đã cùng đến câu lạc bộ bơi lặn nơi gia đình Steinberg là hội viên ở ngoài bãi biển. Đó là lần đầu tiên anh đóng vai một người khách qua đêm của gia đình, và cũng là lần đầu anh gạt bỏ sang bên những mặc cảm về việc một người có xuất thân như mình được trò chuyện với những con người có học như vậy, anh thấy cha mẹ của Marcia hết sức tốt bụng và dễ gần. Anh còn nhớ niềm vui khi dạy hai cô bé sinh đôi những kỹ thuật cơ bản trên cầu nhảy mức thấp, cách giữ thăng bằng và lao đầu xuống. Hai bé lúc đầu còn sợ sệt, nhưng vào cuối buổi chiều hôm ấy, cả hai đã có thể lao xuống từ cầu nhảy. Cũng từ đấy, anh là ngôi sao trong mắt hai chị em, và cả hai lúc nào cũng tìm cách giành giật anh với chị cả. Anh bị cả hai, hai cô con gái mà bác sĩ Steinberg khen ngợi gọi là "đôi giọt nước tỏa sáng", chiếm hữu.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Anh rất nhớ hai đứa," anh bảo chúng. "Anh có ở lại đây đến hết hè không?" Chúng hỏi. "Chắc chắn rồi." "Vì thầy Schlanger đã lên đường nhập ngũ phải không ạ?" "ừ, đúng thế." "Chị Marcia nói thế, nhưng lúc đầu chúng em tưởng chị đang nằm mơ." "Anh cũng tưởng mình đang mơ, chuyện anh đang ở đây ấy," Bucky đáp lời. "Anh sẽ gặp các em sau nhé," anh nói và để khoe với chúng bạn cùng lán, hai chị em từng đứa rướn cổ để hôn anh vào môi một cách khoa trương. Rồi, khi chạy vào lối nhà ăn, chúng kêu lên, cũng không kém phần khoa trương, "Chúng em yêu anh, Bucky!"
Anh ngồi ăn kế cậu phụ trách của lán Comanche, Donald Kaplow, một chàng trai mười bảy tuổi, hồi học trung học rất mê điền kinh và môn ném đĩa. Khi Bucky nói anh chơi môn ném lao, Donald bảo rằng cậu ta đã mang các thiết bị thể thao của mình đến trại, và khi nào có thời gian rỗi cậu lại tập luyện kỹ năng ném đĩa của mình ở bãi cỏ sau khu trại dành cho nữ, là nơi tổ chức đám rước theo kiểu da đỏ vào mỗi tháng Tám. Cậu hỏi Bucky có muốn lúc nào đó cùng đi xem và góp ý cho cậu không. "Nhất định, nhất định rồi," Bucky nói.
"Em đã nhìn thấy thầy chiều nay," Donald nói. "Từ hàng hiên căn lán em ở có thể nhìn ra được hồ. Em đã quan sát thầy nhảy cầu. Thầy là vận động viên nhảy cầu à?" "Tôi có thể thực hiện được những động tác nhảy cầu căn bản, nhưng không, tôi không phải là vận động viên." "Em chẳng bao giờ làm chủ được kỹ thuật nhảy của mình. Em cứ mắc đi mắc lại những lỗi ngớ ngẩn."
"Tôi có thể giúp cậu được," Bucky nói.
"Thầy giúp em chứ?"
"Nếu có thời gian tôi nhất định sẽ chỉ."
"Ôi hay quá. Cảm ơn thầy."
"Mình sẽ đi từng động tác một. Cậu giờ có lẽ chỉ cần được sửa vài lỗi là sẽ làm tốt."
"Em sẽ không làm phiền thầy đấy chứ?"
"Không sao. Nếu và khi nào rảnh, tôi sẽ giúp."
"Một lần nữa, cảm ơn thầy, thầy Cantor."
Khi nhìn sang bên dãy bàn ăn của con gái để kiếm Marcia, anh trông thấy một trong hai cô bé nhà Steinberg đang điên cuồng khua eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
tay về phía anh. Anh mỉm cười, vẫy trả rồi nhận ra chưa đến một ngày mà mình đã rũ sạch những ưu tư về bại liệt, chỉ trừ vài phút trước, khi Donald gợi anh nhớ đến Alan Michaels. Mặc dù Donald hơn năm tuổi và đã cao một mét tám mươi, cả hai đều là những chàng trai ưa nhìn có vai rộng, dáng gầy cao, đôi chân khỏe, cùng mong mỏi tìm được một huấn luyện viên giúp họ phát triển kỹ năng thể thao. Những chàng trai như Alan và Donald, hình như cảm thấy ngay tức khắc lòng nhiệt thành hướng dẫn và khả năng truyền thụ những gì họ đang cần từ Buckỵ, nên đã nhanh chóng gia nhập vào hàng ngũ học trò của anh. Nếu Alan còn sống, cậu bé chắc sẽ khôn lớn trở nên một thanh niên giống Donald Kaplow. Nếu Alan còn sống, nếu Herbie Steinmark vẫn sống, Bucky chắc sẽ không có mặt ở đây và cái điều quái gở ấy sẽ không xảy ra nơi quê nhà.
ANH VÀ MARCIA bơi thuyền ngang qua hồ - anh chưa từng chèo thuyền bao giờ, nhưng Marcia chỉ cho anh, và sau khi quan sát nàng khua chèo vài cái, anh đã cầm chèo. Họ chầm chậm chìm dần vào màn đêm, khi tới hòn đảo hẹp - xa hơn so với anh hình dung lúc đứng ở bến tắm dành cho nam - họ chèo thuyền vòng sang phía bên kia, ở đó họ kéo chiếc thuyền lên bờ và lôi nó vào phía sau một lùm cây nhỏ. Cả hai hầu như không nói gì với nhau kể từ lúc nắm tay nhau bên ngoài nhà ăn rồi vội vã đi tới bến tắm dành cho các bé gái và lặng lẽ nâng một chiếc thuyền ra khỏi giá.
Trời không trăng, không sao, chỉ có ánh sáng le lói lọt ra từ những căn lán trên sườn đồi phía sau bờ. Bữa tối có món thịt bò nướng - Donald Kaplow với tính háu ăn của một cậu trai mới lớn đã ngấu nghiến hết lát thịt đỏ sẫm này tới lát thịt đỏ sẫm khác - đã kết thúc, và lúc này, trong sảnh giải trí đang chiếu phim cho những đứa trẻ lớn hơn, do vậy thứ âm thanh duy nhất vọng ra từ khu trại là tiếng loáng thoáng từ các cảnh phim. Ở sát bên nhau, họ nghe thấy bản giao hưởng đơn điệu của lũ ếch, và cứ chừng vài phút, lại nghe thấy một tiếng sấm rền từ phía xa vọi.
Bản nhạc kịch của sấm chẳng hề khiến việc được ở riêng cùng nhau trên đảo đầy cây trong bộ đồ soóc ka-ki và áo pô-lô của trại bớt đi chút ý nghĩa hay tính kích thích vì mớ quần áo ít vải của họ mang lại chút nào. Tay chân để trần, họ đứng trên một khoảnh đất trống nhỏ xíu ở giữa những thân cây, hai người ở gần sát bên nhau đến mức anh có thể trông thấy nàng một cách rõ ràng bất chấp bóng tối. Marcia, cách đây mấy đêm, đã bơi thuyền ra đảo, dùng tay dọn sạch đống lá rụng từ mùa thu trước, chuẩn bị sẵn sàng một chỗ trống cho chốn hò hẹn của hai người.
Trên đảo, bao quanh họ, là cây cối ken dày đặc, thân chúng không phải chỉ một màu trắng như anh đã thấy lúc anh đứng từ bến tắm nhìn qua mà có những vết khía màu đen chạy vòng quanh bên ngoài vỏ giống như những vết sẹo do bị roi quất. Bị tàn phá bởi thời tiết hoặc bởi bệnh thực vật, nhiều cây cong vòng hoặc đổ rạp, một số mọc cao vượt lên gần gấp đôi, vài cây thân bị xé làm hai nửa lởm chởm sát xuống tận gốc, một số khác bị gãy lìa. Những cây vẫn còn nguyên vẹn thì khẳng khiu đến mức anh có thể dùng bàn tay nắm quanh thân chúng khá dễ dàng giống như khi anh đùa giỡn siết chặt bắp đùi của Marcia bằng hai bàn tay của anh vậy. Các cành trên cao và những nhánh nhỏ của các cây còn nguyên vẹn rủ xuống khoảng đất trống làm thành một mái vòm kết bằng những chiếc lá mỏng có răng cưa. Đó là một nơi ẩn náu hoàn hảo, một nơi biệt lập, mà họ chỉ dám mơ tưởng trong khi âu yếm điên cuồng
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
trong căn phòng phụ phía trước ở nhà Steinberg, họ đã phải cố kìm nén những âm thanh dễ nhận biết thể hiện sự hưng phấn, lạc thú và khoái cảm.
"Em gọi những cây này là gì?" Anh hỏi, giơ tay sờ vào một thân cây. Bỗng nhiên anh trở nên ngượng nghịu, cứ như hồi họ được giới thiệu với nhau trong buổi đầu tập trung giữa các giáo viên trong khoa và anh thấy mình di chuyển cứng dơ, vụng về còn nét mặt thì thiếu tự nhiên đến kỳ cục. Nàng đã khiến anh sững sờ khi đưa bàn tay nhỏ nhắn của mình ra bắt tay anh, và anh ngớ ngẩn biết bao vì không biết phải làm gì với nó - sức quyến rũ tỏa ra từ hình hài nhỏ nhắn của nàng làm anh thậm chí không thể nghĩ đến chuyện làm sao để tán tỉnh nàng. Cuộc gặp mặt gây lúng túng đến cùng cực ấy đã khiến chàng trai đã được ông ngoại nuôi dưỡng niềm tin rằng không gì không thể làm với sức mạnh bản thân, chỉ có thể lí nhí câu chào trước một cô gái có cân nặng có lẽ chưa tới bốn mươi lăm cân.
"Cây phong," nàng đáp. "Chúng là phong trắng - phong bạc."
"Một vài chỗ bị tróc vỏ." Anh dễ dàng bóc một lớp vỏ mỏng màu bạc ra khỏi gốc cây và đưa cho nàng xem, trong bóng tối, như thể họ là những đứa trẻ trong chuyến đi dã ngoại.
"Người da đồ dùng vỏ cây phong để làm thuyền," nàng nói với anh.
"Tất nhiên rồi. Thuyền vỏ phong. Anh không bao giờ nghĩ đó là tên của một loài cây."
Hai người không nói thêm một tiếng nào nữa trong khi ngồi nghe tiếng được, tiếng mất của bộ phim lan trên mặt nước, tiếng sấm xa vời cùng tiếng ếch gần bên và tiếng thịch thịch của một thứ gì đó bên kia hồ đập vào bến tắm hay cầu tàu. Nhịp tim của anh trở nên gấp gáp khi anh chợt nghĩ tới khả năng đó là ông Blomback đang tới chỗ họ bằng một chiếc thuyền khác.
"Sao ở đây không có chim chóc gì hết nhỉ?" Cuối cùng anh cũng lên tiếng.
"Có đấy. Ban đêm chim không hót."
"Không hót hay hót?"
"Ôi, Bucky," nàng thì thầm giọng khẩn cầu, "chúng ta nhất thiết phải tiếp tục như thế này sao? cởi đồ em ra, đi anh. Cởi quần áo em ngay nào."
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
Sau nhiều tuần xa cách, anh cần nàng bảo anh làm thế.
Anh cần cô gái thông minh này nói mọi điều với anh, thật thế, về cuộc đời bên ngoài sân chơi, bãi tập điền kinh và phòng thể dục. Anh cần mọi người trong gia đình nàng chỉ cho anh biết cách sống của một người đàn ông trưởng thành, điều không ai dạy cho anh, kể cả ông ngoại.
Anh lập tức cởi thắt lưng và hàng khuy chiếc quần soóc của nàng rồi tuột nó rơi xuống đất. Cùng lúc, nàng giơ hai tay lên như một đứa trẻ, anh lấy đi cái đèn pin nàng đang mang trên tay rồi nhẹ nhàng tuột chiếc áo pô-lô của nàng qua đầu. Nàng vòng tay cởi áo ngực trong khi anh đã quỳ gối, và lúc ấy với cảm giác kỳ lạ, có phần xấu hổ, anh kéo quần lót nàng xuống và tuột nó qua hai chân.
"Tất em nữa," nàng nói, lúc ấy đã lấy chân lột bỏ đôi giày thể thao của mình. Anh kéo đôi tất ra và nhét chúng vào giày nàng. Đôi tất nàng rất sạch, trắng và cũng như tất cả trang phục nàng đang mặc, thoang thoảng mùi thuốc tẩy của phòng giặt trong trại.
Không mặc quần áo, trông nàng nhỏ nhắn và mảnh dẻ, dáng người xinh đẹp, đôi chân gọn, đôi cánh tay thanh mảnh, cổ mảnh mai và cặp vú bé, nằm cao trên ngực nàng, với hai núm vú mềm, nhạt màu, không nhô ra. Cơ thể phụ nữ mảnh mai thanh tú trông mong manh như của con trẻ. Nàng rõ ràng trông không giống một người quen chuyện chăn gối, và cũng không quá xa lạ với điều này. Trong một ngày nghỉ hồi cuối thu khi cả nhà nàng đi nghỉ, khoảng bốn giờ chiều thứ Bảy, lúc những tấm rèm cựa trong buồng ngủ của nàng ở đại lộ Goldsmith được kéo xuống, anh đã lấy đi Sự trong trắng của nàng - và làm mất của chính mình - rồi nàng đã thì thầm: "Bucky, dạy em làm tình đi," như thể trong hai người nàng ít kinh nghiệm hơn. Họ nằm cạnh nhau trên giường rất lâu sau đó - giường của nàng đây, anh thầm nghĩ, có bốn cọc giường được chạm trổ, một tấm ri-đô vải hoa sặc sỡ và một cái váy xếp nếp mà nàng thường mặc đi ngủ từ khi còn bé - trong khi đó, nàng, với giọng nhỏ nhẹ, cứ như thể còn có ai đó cũng đang ở trong căn nhà trống vắng, nói tới sự may mắn khôn tả của mình là không chỉ có một gia đình tuyệt vời mà còn có Bucky để yêu thương nữa. Rồi anh kể với nàng nhiều chuyện hơn bất cứ lần nào trước đấy về thời thơ ấu của anh, anh nói về bản thân với nàng dễ dàng hơn với bất cứ cô gái nào anh từng quen biết, hơn bất kỳ ai anh từng biết, tiết lộ mọi chuyện - những chuyện anh thường chỉ giữ cho riêng mình - về điều làm anh hạnh phúc và điều khiến anh buồn. "Anh là con trai của một kẻ ăn cắp," anh tự nhận và thấy mình có thể nói những lời ấy với nàng mà không hề mảy may xấu hổ. "Ông ấy phải đi tù vì ăn cắp tiền. Ông ấy có tiền án. Anh chưa bao giờ gặp ông. Không biết giờ ông ấy sống ở đâu, thậm chí còn sống hay đã chết. Nếu lúc trước ông ấy nuôi anh, cũng không rõ anh có trở thành một tên trộm không nữa? về phần mình, nếu không có ông bà ngoại như thế, không được sống với những hàng xóm láng giềng như thế," anh bảo nàng, "chắc là trước sau gì anh cũng trở nên một kẻ vô tích sự."
Nằm quay mặt vào nhau trên chiếc giường có bốn cọc màn, họ cùng nhau chuyện trò tới khi trời chạng vạng, rồi tối hẳn, đến khi cả hai đã nói về tất cả mọi thứ và thổ lộ tất thảy những gì họ có khả năng mô tả về bản thân với người kia. Và rồi, cứ như thể mình còn làm anh mê muội chưa đủ, Marcia thì thầm vào tai anh điều mà nàng vừa mới học. "Thế chỉ có mỗi cách tình tự như vừa rồi thôi
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
à?"
"ANH," MARCIA THÌ THẦM sau khi anh đã cởi hết quần áo nàng. "Giờ thì đến lượt anh."
Anh nhanh chóng cởi bỏ các thứ trên người và để xuống cạnh nàng chỗ rìa khoảng trống của hai người.
"Để em ngắm anh nào. Ôi, tạ ơn Chúa," nàng bảo và òa khóc. Anh vội kéo nàng vào lòng, nhưng vô ích. Nàng vẫn nức nở không sao kìm nén nổi.
"Sao thế em?" Anh hỏi. "Có chuyện gì thế?"
"Em đã nghĩ là anh sắp chết!" Nàng kêu lên. ‘Em đã cho là anh sẽ bị liệt và chết! Em không sao ngủ nổi, em sợ quá. Em thường ra đây mỗi khi rảnh rỗi và cầu nguyện Chúa phù hộ để anh luôn khỏe mạnh. Em chưa bao giờ nhiệt thành cầu nguyện cho ai đến thế. ‘Xin hãy bảo vệ Bucky!’ Em khóc vì hạnh phúc, anh yêu ạ! Hạnh phúc, quá hạnh phúc! Anh đã ở đây rồi! Anh không mắc bệnh! Ôi Bucky, ôm em chặt vào, ôm em chặt hết cỡ vào! Anh đã an toàn rồi."
KHI HAI NGƯỜI quần áo đã tề chỉnh và sẵn sàng quay về trại, thay vì cho rằng những lời đó là do nàng cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng và quên chúng đi thì anh lại không thể ngăn được mình nói ra những điều không nên nói về lời cầu nguyện của nàng với Chúa mà anh đã chối bỏ. Anh biết chẳng có lý do gì để khép ngày trọng đại này bằng việc quay trở lại một đề tài quá ư nhạy cảm, nhất là khi anh chưa từng bao giờ nghe thấy nàng nói như thế trước đây và có lẽ sau này cũng không lặp lại. Đó là một đề tài cực kỳ nguy hiểm vào khoảnh khắc này, và không thích hợp, thực tế là giờ này, lúc này anh đang ở đây rồi. Song anh không thể kiềm chế được bản thân. Anh đã phải vứt bỏ quá nhiều thứ ở Newark để có thể đè nén những cảm xúc của mình - và anh chỉ mới rời Newark và nạn dịch nơi đó có mười hai tiếng đồng hồ.
"Em có thực lòng cho rằng Chúa đáp lại những lời nguyện cầu của em không?" Anh hỏi nàng.
"Em thực sự không thể nào biết được. Nhưng, chẳng phải anh đang ở đây rồi sao? Chẳng phải anh khỏe mạnh đấy sao?"
"Điều ấy chẳng chứng minh được gì cả," anh nói. "Tại sao Chúa không đáp lại lời cầu nguyện của cha mẹ Alan Michaels? Chắc chắn họ đã cầu nguyện. Cha mẹ Herbie Steinmark chắc chắn cũng đã có cầu nguyện. Họ là những con người tốt. Họ là những người Do Thái tử tế. Tại sao Chúa không can thiệp cho họ chứ? Tại sao Người không cứu giúp những đứa con trai của họ chứ?"
"Thật lòng là em không biết," Marcia tuyệt vọng trả lời.
eBook by Đào Tiểu Vũ
Tải eBook tại: www.dtv-ebook.com
"Anh cũng không biết. Anh không biết tại sao Chúa lại sinh ra căn bệnh bại liệt. Người muốn chứng tỏ điều gì? Rằng chúng ta cần những con người tàn tật trên trái đất ư?" "Chúa không tạo ra bệnh bại liệt," nàng phản đối. "Em nghĩ là không sao?"
"Vâng," nàng cao giọng, "em nghĩ là không."
"Nhưng chẳng phải Chúa tạo ra mọi thứ đấy sao?" "Hai điều này không giống nhau mà."
"Tại sao lại không chứ?"
"Tại sao anh lại tranh cãi với em hả Bucky? Mà chúng mình tranh cãi chuyện gì thế này? Em chỉ có nói rằng em cầu nguyện Chúa bởi vì em lo sợ cho anh. Và bây giờ anh đang ở đây và em ngập tràn hạnh phúc. Vì chuyện ấy mà anh biến nó thành một cuộc tranh cãi. Tại sao anh lại muốn cãi nhau với em khi mà cả bao nhiêu tuần nay chúng mình không gặp nhau chứ?"
"Anh không muốn cãi cọ" anh nói.
"Thế thì đừng cãi nữa" nàng đáp, giọng hoang mang hơn là giận dữ.
Lúc này tiếng sấm đã ì ầm đều đặn còn ánh chớp thì lóe lên ngay gần đó.
"Chúng ta phải đi thôi," nàng nói. "Chúng ta phải về trong lúc cơn dông vẫn còn chưa tới."
"Nhưng làm sao một người Do Thái có thể cầu nguyện vị chúa mang đến tai ương nhường ấy cho một cộng đồng hàng nghìn hàng vạn người Do Thái?"
"Em không biết! Chính xác là anh đang muốn đưa chuyện này tới đâu?"
Đột nhiên anh thấy sợ phải nói với nàng - sợ rằng nếu anh cứ khăng khăng ép nàng phải hiểu những gì anh đã hiểu, anh sẽ mất nàng và cái gia đình nhỏ trong tương lai của họ. Trước đây họ chưa bao giờ cãi nhau hay mâu thuẫn bất cứ chuyện gì. Chưa bao giờ, dù chỉ một lần, anh cảm thấy chút đối nghịch mảy may nào trong tình yêu với Marcia - hay trong tình yêu nàng dành cho anh về chuyện này - cho nên, đúng ngay lúc ấy, trước khi anh bắt đầu hủy hoại mọi thứ, Bucky đã kịp kiềm chế bản thân.
Họ cùng nhau kéo chiếc thuyền xuống mép hồ, rồi trong một lúc, không nói với nhau lời nào, cả hai cật lực chèo về khu trại và tới nơi trước khi cơn mưa nặng hạt bắt đầu trút xuống.
eBook by Đào Tiểu Vũ