🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Báo Thù - Barry Eisler full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
BÁO THÙ
—★—
Tác giả: Barry Eisler
Người dịch: Trần Anh Ngọc Ajarbook phát hành
Nhà xuất bản Văn Học - 2014
ebook©vctvegroup
03-06-2019
Những lời khen dành cho
Báo thù
“Eisler dường như biết rõ về thế giới kín đáo của những hoạt động ngầm không thua kém gì hiểu biết của ông về tấm bản đồ chi tiết rối rắm của Tokyo... Ông đã thành công tột bực trong việc tạo nên một câu chuyện chân thực.”
Chicago Sun-Times
“Khung cảnh đen tối đầy thuyết phục.”
Entertainment Weekly
“Bối cảnh ở Nhật được miêu tả tuyệt vời với gam màu tối, Rain là một nhân vật cô độc và phức tạp.”
The Daily Oklahoma
“Không khí bí ẩn đầy hăm dọa cùng một nhân vật chính lạnh lùng nhưng khả ái.”
San Francisco Chronicle
“Con mắt nhạy bén với chi tiết. Tác giả miêu tả khung cảnh Tokyo về đêm thực rõ nét. Nhìn chung, đây là một cuốn tiểu thuyết thú vị.” Rocky Mountain News
“Rain gặp phải đủ loại nhân vật đầy thủ đoạn và nguy hiểm - từ những tên côn đồ yakuza cho đến những quan chức bất nhân và những đặc vụ CIA xảo quyệt - trong một câu chuyện hư cấu phức tạp, hồi hộp đến nghẹt thở.”
Phoenix News Times
“Cuốn hút... Cảnh Tokyo về đêm được tô vẽ bằng những tông màu tối đẹp mắt... một nhân vật hấp dẫn, gây xúc động và hoàn toàn chân thực.” Publishers Weekly
Tặng Emma
Người làm trái tim tôi ca hát
Những cánh anh đào buổi chiều tà:
Tôi bỏ nghiên mực trở vào áo kimono
một lần cuối cùng này.
- BÀI THƠ TRĂNG TRỐI CỦA
THI SĨ KAISHO, 1914
PHẦN MỘT
Giá tôi chưa biết
rằng tôi vốn
đã chết rồi
Tôi hẳn đã khóc thương
vì mất đi cuộc sống.
- NHỮNG LỜI CUỐI CỦA OTA DOKAN, NHÀ BINH PHÁP VÀ NHÀ THƠ, 1486
1
KHI ĐÃ VƯỢT QUA hết thảy sự mỉa mai của tình cảnh này, anh sẽ nhận ra rằng việc giết một người ngay giữa câu lạc bộ thể hình của hắn cũng có nhiều điểm thuận lợi.
Mục tiêu là một tên yakuza quái vật, sắt đá tên Ishihara. Ngày nào hắn cũng luyện tập trong phòng tập thể hình của mình ở Roppongi, một khu ăn chơi của Tokyo. Tatsu bảo tôi rằng vụ này phải giống một tai nạn tự nhiên, như chúng vẫn thế. Vậy nên tôi khá mừng khi được hành động tại một nơi mà việc có người tử vong vì phình động mạch do gắng sức quá độ, hoặc không may ngã vào một thanh thép, hoặc gặp phải tai nạn bi thảm nào đó trong khi sử dụng mấy cái máy tập phức tạp không phải là chuyện khó tưởng tượng.
Một trong những tình huống này biết đâu lại được ghi nhớ vĩnh viễn trong những lời cảnh báo mà các luật sư của nhà sản xuất sẽ nhất quyết đòi dán lên máy tập đời kế tiếp, cho công chúng biết rằng chiếc máy không được thiết kế cho một cách sử dụng dị thường nào đó, và nhà sản xuất sẽ không phải chịu trách nhiệm. Nhiều năm qua, công việc đã khiến tôi là tác giả vô danh của ít nhất hai cảnh báo hợp pháp như thế - một được dán trên cây cầu bắc ngang dòng nước ô nhiễm của sông Sumida, nơi một chính trị gia bị chết đuối năm 1982 (“Cảnh báo - Không được trèo lên thành cầu”); một cảnh báo khác khác vào mười năm sau, dán trên vỏ hộp máy sấy tóc, sau khi một nhân viên ngân hàng cực kì mẫn cán bị điện giật chết vì dùng máy sấy tóc trong bồn tắm (“Cảnh báo - Không được dùng trong khi tắm”).
Phòng tập thể hình còn thuận tiện ở chỗ tôi sẽ không phải lo về vụ dấu vân tay. Tại Nhật, nơi mà trang phục là thú vui mang tầm cỡ quốc gia, việc một người cử tạ sẽ không nâng tạ nếu không đeo một loại găng tay sành điệu cũng bình thường như một chính khách không ngại giấu của đút vào quần lót. Lúc đó Tokyo mới vào xuân, tiết trời ấm áp dự báo, như người ta nói, một một mùa hoa anh đào thật đẹp, vậy thì có nơi nào khác ngoài phòng tập thể hình mà một người đeo găng không bị chú ý?
Trong công việc của tôi, không bị chú ý là xong được một nửa. Mọi người biểu hiện các dấu hiệu: ngôn ngữ cơ thể, cách đi đứng, quần áo, vẻ mặt, tư thế, thái độ, lời nói, phong cách - và những thứ đó có thể cho anh biết họ đến từ đâu, họ làm gì, họ là ai. Quan trọng nhất là, họ có hợp với hoàn cảnh không. Bởi lẽ nếu trông anh không hợp với hoàn cảnh, mục tiêu sẽ để ý thấy anh, và anh sẽ không thể nào tới gần mà hành động được. Hoặc một tên cớm tử tế hiếm hoi sẽ ngửi thấy anh, và anh sẽ phải giải thích đôi điều. Hoặc một nhóm chống theo dõi sẽ nhận ra anh, và rồi - hoan hô! - anh sẽ là mục tiêu.
Nhưng nếu để ý, anh sẽ hiểu ra rằng việc xác định các dấu hiệu là một khoa học, không phải một nghệ thuật. Anh theo dõi, anh bắt chước, anh làm được. Dần dần, anh có thể bám theo các mục tiêu khác nhau trong các môi trường khác nhau, ở đâu anh cũng là một kẻ vô danh mờ nhạt.
Việc ẩn danh đối với tôi thật không dễ dàng gì tại Nhật, nơi huyết thống của tôi là cả một vấn đề trong sơ yếu lí lịch và là đề tài chế nhạo của lũ bạn cùng trường. Nhưng giờ đây, anh sẽ không thể nhận ra nét da trắng trên khuôn mặt tôi trừ khi có người chỉ cho anh thấy. Bà mẹ người Mỹ của tôi chẳng có vấn đề gì với điều đó. Bà lúc nào cũng muốn tôi hòa nhập với xã hội Nhật, và rất vui mừng khi thấy những đặc trưng Nhật Bản của cha tôi đã
thắng thế trong cuộc chiến di truyền. Và cuộc phẫu thuật chỉnh hình mà tôi đã trải qua sau khi rời Lực lượng Đặc nhiệm của quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam đã gần như hoàn tất cái công việc mà số phận và tự nhiên đã bày ra.
Những dấu hiệu của tôi sẽ gợi cho tên yakuza một câu chuyện đơn giản. Hắn mới chỉ thấy tôi đến phòng tập dạo gần đây, nhưng tôi rõ ràng là đã có thể hình khá ổn từ trước. Vì thế tôi không phải gã trung niên nào đó muốn tập tạ để cố tìm lại vóc dáng thời trung học. Cách giải thích hợp lí hơn là: tôi làm việc cho một công ty và được luân chuyển tới Tokyo, và, nếu họ bố trí cho tôi ở gần Roppongi, có thể là ở Minami-Aoyama hay Azabu, tôi nhất định phải là một người quan trọng và có lương bổng hậu hĩnh. Việc tôi tự nhiên muốn tập thể hình ở độ tuổi này có lẽ là để qua lại với gái trẻ. Đối với các cô nàng này, một vóc dáng trẻ trung có lẽ sẽ cải thiện được những cảm xúc không thể tránh khỏi khi ngủ với một gã nhiều tuổi mà mối quan hệ thực chất chỉ là sự trao đổi tình dục và ảo tưởng về sự bất tử lấy những chiếc túi xách hiệu Ferragamo hay những khoản tiền núp dưới hình thức tương tự. Tên yakuza sẽ hiểu hết những điều này, và thậm chí còn tôn trọng.
Thực ra thì việc gần đây tôi xuất hiện tại phòng thể hình của tên yakuza chẳng liên quan gì đến chuyện chuyển công tác, mà giống một chuyến công vụ ngắn ngày hơn. Dù sao thì tôi cũng chỉ tới Tokyo để thực hiện một công việc. Xong việc, tôi sẽ đi. Tôi đã từng gây thù chuốc oán khi còn sống ở đây, và một số bên vẫn còn lùng tôi khi tôi đã đi được cả năm trời. Vì thế, tôi chỉ có thể ở lại đây trong một thời gian ngắn.
Tatsu đã đưa tôi tài liệu về tên yakuza từ tháng trước, khi anh ta tìm thấy tôi và thuyết phục tôi nhận việc. Từ tài liệu, hẳn tôi sẽ kết luận mục tiêu chỉ là kẻ vai u thịt bắp, nhưng tôi biết hắn phải là gì đó hơn thế nếu Tatsu muốn
hắn phải chết. Tôi không hỏi. Tôi chỉ cần những gì giúp tôi tiếp cận mục tiêu. Phần còn lại không cần thiết.
Trong tài liệu có cả số điện thoại di động của tên yakuza. Tôi đã chuyển nó cho Harry, cậu hacker đầy đam mê, từ lâu đã thâm nhập vào các trung tâm điều khiển mạng di động của ba nhà mạng lớn tại Nhật. Hệ thống máy tính của Harry kiểm soát nhất cử nhất động chiếc điện thoại di động của tên yakuza trong mạng lưới này. Bất cứ lúc nào tín hiệu của chiếc điện thoại truyền đến ngọn tháp phủ sóng khu vực quanh câu lạc bộ thể hình của tên yakuza, Harry lại nhắn cho tôi.
Tối nay, tin nhắn đến sau 8 giờ tối một chút, lúc tôi đang đọc sách trong phòng khách sạn New Otani ở Akasaka-Mitsuke. Tôi biết câu lạc bộ đóng cửa sau 8 giờ tối. Nếu giờ này mà tên yakuza vẫn còn tập luyện ở đó thì nhiều khả năng là hắn chỉ có một mình. Đây chính là điều mà tôi chờ đợi.
Đồ tập đã ở sẵn trong túi, tôi phóng ra cửa sau vài phút. Tôi bắt một chiếc taxi ở cách khách sạn một đoạn, vì không muốn để bất cứ người gác cửa nào nghe thấy hay nhớ được tôi định đi đâu, rồi 5 phút sau xuống xe ở góc quanh giữa phố Roppongi và phố Gaienhigashi, khu Roppongi. Tôi ghét đi đường thẳng như thế này vì khó đảm bảo rằng tôi không bị bám theo, nhưng chỉ có một khoảng thời gian ngắn để làm theo kế hoạch, và tôi quyết định việc này đáng mạo hiểm.
Tôi đã theo dõi tên yakuza được hơn một tháng và biết thói quen sinh hoạt của hắn. Tôi phát hiện ra hắn thích thay đổi lịch tập, có lúc đến phòng tập từ sáng sớm, có lúc lại tối muộn. Có lẽ hắn nghĩ rằng hoạt động thất thường sẽ giúp hắn khó bị theo dõi.
Hắn đúng một nửa. Thất thường là chìa khóa quan trọng để trở thành một mục tiêu khó hạ, nhưng phải áp dụng cho cả địa điểm và thời gian. Phương
pháp nửa vời như hắn nhiều lúc có thể bảo vệ anh khỏi một số người, nhưng không tác dụng mấy khi gặp phải người như tôi.
Thật lạ là, người ta tự bảo vệ mình rất chặt, thậm chí là dùng các biện pháp an ninh chặt chẽ ở một số mặt, nhưng lại sơ hở ở những mặt khác. Ví dụ như khóa cửa trước hai lần nhưng lại để mở cửa sổ.
Đôi khi hiện tượng này là do sợ hãi mà ra. Không phải sợ vì cần tới quá nhiều biện pháp mà sợ hệ quả của cuộc sống là một mục tiêu đắt giá. Bảo vệ bản thân nghiêm ngặt sẽ giết chết mối liên hệ giữa anh với xã hội, mối liên hệ mà phần đông người ta cần như cần dưỡng khí. Anh từ bỏ bạn bè, gia đình, tình cảm. Anh đi qua thế giới như một bóng ma, tách rời khỏi sự sống xung quanh. Và nếu anh chết, vì tai nạn xe bus chẳng hạn, kết cục anh sẽ được mai táng trong một nghĩa trang thành phố khuất nẻo, chỉ là một kẻ vô gia cư nào đó, không hoa, không người đưa tang, chết tiệt, không cả lời than khóc. Đó là nhu cầu tự nhiên, thậm chí là khao khát khi sợ hãi tất cả những điều này.
Những bất cẩn khác lại bắt nguồn từ sự phủ nhận. Những con đường lòng vòng, tăng cường kiểm tra an ninh, những độc thoại nội tâm liên miên kiểu như Nếu tôi đang tìm cách hại chính tôi, tôi sẽ làm thế nào? Tất cả điều này đòi hỏi sự tiếp nhận sâu sắc cái ý niệm rằng ở ngoài kia có những người đang có cả động cơ và phương tiện để rút ngắn thời gian anh sống trên trái đất này. Ý niệm này vốn không dễ chịu đối với tâm lí con người, quá căng thẳng đến mức nó gây stress nặng cho cả lính chiến. Rất nhiều gã khi lần đầu rơi vào một cuộc nã đạn cự li gần đã bị sốc. “Sao hắn lại muốn giết mình?” họ tự hỏi. “Mình từng làm gì hắn chứ?”
Thử nghĩ đi. Đã bao giờ anh nhìn vào tủ áo hay gầm giường khi chỉ có một mình trong nhà, để chắc chắn rằng không có kẻ đột nhập trốn trong đó?
Còn nếu anh tin rằng Tên Sát Nhân Đeo Mặt Nạ Trượt Tuyết Đen đang ẩn trốn trong những chỗ đó, liệu anh có xử sự như cũ? Đương nhiên là không. Nhưng sẽ dễ chịu hơn nếu tin vào sự nguy hiểm chỉ là tưởng tượng, và đối xử với nó một cách hững hờ. Đó là sự phủ nhận.
Cuối cùng, và rõ ràng nhất, là sự lười biếng. Ai có thời gian và công sức mà đi kiểm tra xem chiếc xe gia đình có bị cài bom trước mỗi lần đi? Ai có thể đi lòng vòng mất hai tiếng đồng hồ chỉ để đến một nơi vốn có thể đi thẳng đến trong mười phút? Ai muốn bỏ qua một nhà hàng hay quán bar chỉ vì những ghế còn trống quay mặt vào tường chứ không phải ra cửa?
Đó là những câu hỏi tu từ, nhưng tôi biết Jake Khùng sẽ trả lời như thế nào. Câu trả lời sẽ là Những kẻ sống sót. Và những kẻ có ý định sống sót. Câu trả lời này dẫn tới một lập luận đơn giản mà tôi chắc chắn rằng rất quen thuộc với những kẻ từng tước đoạt sinh mạng người khác như tôi. Nếu hắn thực sự muốn sống, tôi đã không thể hạ được hắn. Hắn đã không cho phép mình có cái điểm yếu chết người đó.
Điểm yếu của tên yakuza này là hắn nghiện tạ. Ai mà biết lí do của điều đó - một quá khứ bị bắt nạt từ thời thơ ấu khiến sau này hắn muốn trông thật mạnh mẽ; một nỗ lực vượt qua cảm giác bất công khi sinh ra nhẹ cân hơn người da trắng chút ít; hay nhu cầu tình dục đồng giới quá mạnh, như thứ đã chi phối Mishima*. Cũng có thể chính một trong những nguyên nhân đó đã khiến hắn trở thành một tay anh chị.
Nỗi ám ảnh đó của tên yakuza không liên quan gì đến sức khỏe, đương nhiên. Thực ra, hắn rõ ràng là kẻ lạm dụng chất kích thích. Cần cổ hắn dày đến nỗi trông như có thể tuột ca-vát ra khỏi đầu mà không phải nới lỏng nút thắt. Hắn bị mụn trứng cá nặng đến mức hệ thống bóng đèn sợi đốt sáng rực của câu lạc bộ - được thiết kế để làm nổi bật hết mức những thớ thịt nở nang
trên cơ thể các thành viên - tạo ra những bóng đổ nho nhỏ trên cái quang cảnh lồi lõm là gương mặt hắn. Hai hạt cà của hắn chắc cỡ quả nho khô, huyết áp chạy rần rần như điên qua một trái tim phải làm việc quá sức.
Tôi cũng đã từng thấy hắn đột nhiên nổi cơn bạo lực, một triệu chứng khác của việc lạm dụng chất kích thích. Một đêm nọ, một kẻ mà trước đó tôi chưa từng gặp, chắc hẳn là một thành viên bình thường của câu lạc bộ - những người thích địa điểm này và cho rằng thân cận với những tay anh chị có tiếng tăm sẽ khiến họ “cứng” hơn nhờ ngấm chất giang hồ - bắt đầu tháo vài đĩa tạ ra khỏi thanh đòn mà tên yakuza vừa dùng để đẩy tạ nằm. Tên yakuza đã đi khỏi ghế tập, chắc để nghỉ một lúc, và gã mới đến hẳn là nhầm tưởng hắn đã tập xong. Gã này cũng khá đô con, chiếc áo ba lỗ Spandex màu mè khoe ra bộ ngực và hai cánh tay của một kẻ thường xuyên nâng tạ.
Lẽ ra ai đó phải cảnh báo hắn. Nhưng thành viên câu lạc bộ toàn là những chinpira - bọn yakuza non tuổi và mới vào nghề - không phải những người tốt bụng sẵn sàng giúp đỡ đồng loại. Nhưng cũng phải ngu cỡ vừa thì mới mó tay vào thay thanh tạ tên yakuza vừa dùng mà không nhìn quanh để xin phép trước. Chỗ đó nặng chừng một trăm năm chục kí lô. Có thể hơn.
Ai đó thúc tên yakuza và chỉ trỏ. Tên yakuza, đang ngồi xổm, nhỏm dậy và hét tướng lên “Orya!” làm rung cả tấm kính trước căn phòng hình chữ nhật. Cái mẹ gì thế!
Mọi người đều ngẩng đầu lên nhìn, giật mình như có một vụ nổ vừa xảy ra - kể cả gã mới đến vốn một giây trước đó chẳng để ý gì. Vẫn chửi rống lên, tên yakuza bước thẳng về phía máy đẩy tạ nằm, sử dụng rất tốt giọng nói của mình - không biết vô tình hay cố ý - làm nạn nhân hồn bay phách lạc.
Mọi thứ của tên yakuza - từ ngữ, giọng nói, chuyển động và tư thế - đều như đang hét lên Tấn công! Nhưng gã kia đờ ra, vừa sợ hãi vừa không tin
nổi, chẳng tránh né chút nào. Và mặc dù đang cầm một đĩa tạ nặng mười kí lô, với những cái cạnh chắc chắn là cứng hơn sọ của tên yakuza, nhưng gã mới đến không làm được gì ngoài việc há hốc mồm, có thể là quá kinh ngạc, có thể là định bắt đầu một lời xin lỗi chắc chắn là vô ích.
Tên yakuza lao vào gã mới đến như một con tê giác, vai hắn thúc vào bụng gã kia. Tôi thấy gã kia cố gắng đỡ, nhưng một lần nữa không thể tránh được và những cố gắng của hắn gần như vô tác dụng. Tên Yakuza đẩy đối thủ lùi vào tường, sau đó tung một loạt những cú đấm thô bạo vào đầu và cổ. Gã mới đến bị sốc và vô thức thả rơi đĩa tạ, gắng giơ được hai tay lên để đỡ vài đòn. Nhưng tên yakuza - vẫn đang chửi rủa - gạt tay hắn ra và tiếp tục đấm. Tôi thấy một trong những cú đánh trúng vào phía trái cổ gã kia, vào lớp da bên ngoài động mạch cảnh, và gã kia bắt đầu sụm xuống khi hệ thần kinh của hắn cố gắng làm giảm chấn động của những đòn đánh bằng cách giảm lưu lượng máu lên não. Hai chân tên yakuza giạng ra như thể hắn đang cầm rìu bổ củi, tiếp tục giáng vào đỉnh đầu và cổ nạn nhân. Gã mới đến ngã xuống sàn, nhưng vẫn còn đủ nhận thức để cuộn người lại và bảo vệ thân mình khỏi cơn mưa những cú đá tiếp sau.
Vừa thở hổn hển vừa chửi thề, tên yakuza cúi xuống và kẹp mắt cá chân phải của gã kia vào giữa bắp tay và cẳng tay khổng lồ. Tôi tưởng hắn định ra một đòn nhu thuật khóa chân nào đó và định bẻ gẫy vài thứ. Nhưng không, hắn đứng thẳng dậy và kéo lê thân hình nằm sấp của gã mới đến về phía cửa câu lạc bộ, đi ra ngoài đường.
Lát sau hắn quay lại, một mình. Sau khi dành vài giây để thở, hắn trở lại chỗ của mình trên băng ghế đệm, không thèm nhìn ai trong phòng. Mọi người trở lại việc mình đang làm: bọn đàn em của hắn thì không quan tâm; những người bình thường thì đang sợ hãi, như thể không có gì xảy ra, dù cho
sự im lặng trong câu lạc bộ nói lên rằng thực sự đã có chuyện xảy ra. Một phần tâm trí luôn hoạt động ngầm của tôi ghi lại những thứ mà tôi xem là điểm mạnh của tên yakuza: sức mạnh hoang dại, kinh nghiệm bạo lực, quen với kiểu tấn công liên tục. Về điểm yếu, tôi bổ sung sự mất kiểm soát bản thân, chứng khó thở sau một cuộc chiến đơn phương ngắn ngủi, gây thương tích tương đối nhẹ mặc dù tấn công tàn khốc.
Trừ khi hắn là một kẻ rối loạn nhân cách - mà theo tài liệu thì gần như không thể - tôi biết giờ tên yakuza hẳn đang cảm thấy hơi khó chịu về việc mọi người nghĩ thế nào về sự bột phát của hắn. Tôi nắm lấy cơ hội, bước lại bàn đẩy tạ nằm và hỏi hắn có cần giúp không.
“Warui na,” hắn cảm ơn tôi. Tôi biết hắn cảm kích vì sự khuây khỏa mà hành động nhỏ này đem lại.
“Iya,” Tôi trả lời. Không có gì. Tôi đứng ở phía đầu hắn và giúp hắn nâng thanh tạ lên. Tôi để ý thấy hắn đang đẩy một trăm năm mươi kí lô. Hắn nâng được hai nhịp, có tôi giúp một chút trong nhịp thứ hai. Hắn vẫn còn tràn đầy adrenaline từ vụ xô xát vừa rồi, và tôi thầm ghi nhận trong đầu giới hạn thể lực của hắn trong bài tập này.
Tôi giúp hắn hạ thanh tạ trở lại giá đỡ, và khẽ huýt sáo qua kẽ răng tỏ ý nể phục sức mạnh của hắn. Tôi bước về phía chân ghế đệm trong khi hắn ngồi dậy và nói nếu hắn cần giúp thì chỉ việc nói với tôi. Hắn gật đầu cảm ơn một cách thô lỗ và tôi bắt đầu quay đi.
Tôi dừng lại như thể xem có nên nói thêm gì không, rồi quay lại nhìn hắn. "Thằng đó lẽ ra phải xem anh đã tập xong chưa,” tôi nói bằng tiếng Nhật. “Bọn không biết lễ độ. Anh đã dạy hắn một bài học.”
Hắn gật đầu lần nữa, hài lòng với nhận xét sắc sảo của tôi về cái đóng góp quan trọng của hắn cho xã hội là nghiền nát một thằng ngu vô hại. Và tôi biết
hắn sẽ vô tư gọi người bạn mới là tôi khi cần đỡ tạ.
Như tối nay. Hi vọng thế. Tôi bước nhanh xuống phố Gaienhigashi, lướt qua những người đi bộ trên vỉa hè đông đúc, phớt lờ những âm thanh hỗn tạp của xe cộ và tiếng chào hàng, nhìn hình ảnh phản chiếu từ kim loại và kính xung quanh để xem có ai theo sau không. Tôi rẽ phải ngay trước tòa nhà Roi Roppongi, rồi rẽ phải lần nữa vào con phố có câu lạc bộ. Tôi dừng lại sau một dãy xe đạp, quay lưng vào mặt tiền màu hồng vô duyên của cửa hàng cà phê Starbucks, chờ xem liệu có ai theo đuổi mình không. Vài nhóm thanh niên vừa tiệc tùng về đi qua, mải trêu đùa nhau nên chẳng để ý thấy người đang đứng âm thầm trong bóng tối. Không ai khiến tôi cảnh giác. Sau vài phút, tôi đến câu lạc bộ.
Câu lạc bộ chiếm hết tầng một của tòa nhà thương mại màu xám, bao quanh bởi các cầu thang thoát hiểm han gỉ và những bó dây điện cao thế bám vào mặt tiền như cây leo chết. Đối diện với nó là một bãi đỗ xe đầy những chiếc Mercedes kính mờ và lốp cao cấp, biểu tượng của giới thượng lưu và tội phạm, những kẻ học đòi lẫn nhau, cùng khoan khoái tận hưởng lạc thú về đêm giữa đám gái giang hồ lòe loẹt của Roppongi. Con phố chỉ được chiếu sáng bởi ánh sáng nhờ nhờ của một cột đèn lẻ loi, dưới chân cột đầy những tờ rơi quảng cáo cho vô vàn dịch vụ tình dục trong khu vực. Trong cái bóng từ ánh sáng của mình, cây cột đèn nhìn như cái cổ vươn dài của một con chim thời tiền sử đang rỉa bỏ những cái lông quăn queo bệnh tật.
Bóng tối bao trùm phía sau cửa kính câu lạc bộ. Nhưng tôi nhận ra chiếc Harley-Davidson V-Rod mạ nhôm của tên yakuza đỗ phía trước, xung quanh là những chiếc xe đạp, trông như con cá mập giữa bầy cá mồi. Ngay bên cửa sổ là cửa vào tòa nhà. Tôi thử mở cửa, nhưng nó bị khóa.
Tôi lùi vài bước về phía cửa sổ và gõ lên kính. Ngay sau đó ánh sáng bên
trong phụt tắt. Tốt, tôi nghĩ. Hắn tắt đèn để có thể quan sát qua bóng tối mà không sợ bên ngoài nhìn thấy. Tôi đợi, biết rõ hắn đang nhìn mình và quan sát đường phố.
Đèn bật lại, và một khắc sau tên yakuza xuất hiện trước cửa tòa nhà. Hắn mặc quần tập màu xám và một chiếc áo ba lỗ đen, đeo đôi găng tay cử tạ. Rõ ràng là đang tập dở.
Hắn mở cửa, dõi mắt ra đường xem có nguy hiểm gì không mà không nhận ra nó đang ở ngay trước mặt.
“Shimatterun da yo,” hắn nói. Câu lạc bộ đóng cửa rồi.
“Tôi biết,” tôi nói bằng tiếng Nhật, đưa lòng bàn tay về phía trước như một cử chỉ xoa dịu. “Tôi đang mong có người ở đây. Tôi định đến sớm hơn, nhưng cuối cùng lại bị kẹt. Vào một lúc được chứ? Chỉ trong lúc anh ở đây thôi, không lâu hơn.”
Hắn do dự, rồi nhún vai và quay vào trong. Tôi đi theo hắn. “Bao lâu nữa anh phải đi?” Tôi hỏi, thả túi đồ xuống, cởi bỏ chiếc áo sơ mi, quần kaki giản dị và chiếc áo vest màu xanh nước biển. Tôi đã đeo găng sẵn, như tôi vẫn thường làm trước khi đến câu lạc bộ. Tuy nhiên tên yakuza không để ý đến chi tiết này. “Để tôi còn tính giờ tập.”
Hắn bước lại máy tập tạ đứng. “Bốn mươi lăm phút. Có thể một tiếng.” Hắn nói, vào vị trí đứng dưới thanh tạ.
Gánh tạ. Việc hắn luôn luôn làm sau khi đẩy tạ nằm. Mẹ kiếp. Tôi mặc quần soóc và áo thun, rồi khởi động với vài nhịp hít đất và mấy động tác giãn cơ trong khi hắn làm vài hiệp gánh tạ. Tôi nhận ra việc khởi động này có thể thực sự hữu ích, tùy thuộc vào mức độ phản kháng của hắn. Một lợi thế nhỏ. Nhưng tôi không cho không cái gì cả.
Khi hắn đã xong, tôi hỏi “Đẩy tạ nằm xong rồi à?”
“Aa.Ừ.”
“Hôm nay anh đẩy bao nhiêu?”
Hắn nhún vai, nhưng tôi để ý một hơi thở phồng lên trong ngực, cho thấy sự kiêu ngạo của hắn đã được khơi lên.
“Không nhiều. Một trăm bốn chục kí. Có thể hơn, nhưng nếu thế thì tốt nhất là có ai giúp.”
Hoàn hảo. “Này, để tôi giúp anh.”
“Ha, tôi xong rồi.”
“Thôi nào, một hiệp nữa đi. Tôi thấy hứng thú. Anh đang đẩy bao nhiêu, gấp đôi khối lượng cơ thể hả?” Tôi cố ý đánh giá thấp.
“Hơn.”
“Chết tiệt, hơn gấp đôi khối lượng cơ thể anh? Tôi thậm chí còn không mon men tới mức đó được. Cho tôi xem đi. Thêm một hiệp nữa, để động viên tôi. Tôi sẽ giúp anh, được chứ?”
Hắn do dự, rồi nhún vai và bắt đầu bước tới bàn đẩy tạ.
Thanh tạ đã có một trăm bốn chục kí lô mà hắn vừa nâng. “Anh chơi được một trăm sáu chục không?” Tôi hỏi với giọng nghi ngờ. Hắn nhìn tôi, và tôi có thể nhìn trong mắt hắn rằng cái tôi của hắn đã thắng thế. “Tôi chơi được.”
“OK, tôi phải xem mới được,” tôi nói, rút hai đĩa tạ mười kí lô ra khỏi giá và lắp nó vào hai đầu thanh tạ. Tôi đứng sau ghế đệm và đưa hai tay nắm thanh tạ ở khoảng rộng bằng vai. “Ra hiệu lúc nào anh sẵn sàng.”
Hắn ngồi xuống đuôi ghế đệm, khom vai về phía trước, và xoay cổ từ bên này qua bên kia. Hắn vung tay từ trước ra sau và tôi nghe thấy một loạt tiếng
hít hơi ngắn mạnh mẽ. Rồi hắn nằm xuống và nắm lấy thanh tạ. “Tôi đếm đến ba thì nâng lên.” Hắn nói.
Tôi gật đầu.
Thêm vài tiếng hít hơi mạnh hơn.
Và rồi: “Một... hai... ba!”
Tôi giúp hắn đẩy thanh tạ lên cao hết sức và giữ yên ở trên. Hắn nhìn chằm chằm vào thanh tạ như thể bị nó kích động, cằm lún vào cần cổ khi chuẩn bị dồn sức.
Rồi hắn từ từ hạ thanh tạ xuống nhưng vẫn tạo đà đủ để đẩy nó lên khỏi lồng ngực khổng lồ. Hai phần ba quãng đường nâng lên, thanh tạ gần như đứng lại, treo lơ lửng giữa sức kéo của trọng lực và sức mạnh của những cơ bắp được bơm đầy chất kích thích; nhưng nó tiếp tục run rẩy đi lên cho tới khi hai khuỷu tay hắn duỗi thẳng ra. Hai cánh tay rung lên vì gắng sức. Không có chuyện hắn đủ sức chịu thêm một nhịp nữa.
“Một nhịp nữa, một nhịp nữa đi.” Tôi thúc giục. “Nào, anh làm được mà.” Một thoáng yên lặng, và tôi chuẩn bị hô hào thêm vài câu nữa. Nhưng thực ra hắn đang tập trung sức lực. Hắn thở nhanh ba hơi, rỗi thả thanh tạ từ từ xuống ngực. Nó nẩy lên vài xentimét sau va chạm, rồi thêm một vài xentimét nữa nhờ lực đẩy lên ngay sau đó; nhưng chỉ một giây sau nó dừng lại và bắt đầu hạ xuống không kiểm soát nổi.
“Telsudatte kure,” hắn lầm bầm. Giúp. Nhưng giọng vẫn bình tĩnh, nghĩ tôi sẽ hỗ trợ ngay lập tức.
Thanh tạ tiếp tục hạ xuống và đè vào ngực hắn. “Oi, tanomu,” hắn lặp lại, lần này nhấn giọng hơn.
Thay vì nâng lên, tôi đè xuống.
Cặp mắt hắn bật mở, tìm kiếm mắt tôi.
Với trọng lượng thanh tạ và các đĩa tạ, cộng thêm áp lực tôi đè xuống, giờ hắn đang chiến đấu với gần hai trăm kí lô.
Tôi tập trung vào thanh tạ và thân hình hắn, nhưng trong tầm nhìn của mình tôi vẫn thấy cặp mắt hắn mở to ra, bối rối rồi sợ hãi. Hắn không phát ra âm thanh nào. Tôi tiếp tục tập trung đè xuống.
Với hàm răng cắn chặt, cái cằm của hắn như bị lún hẳn vào cần cổ. Hắn dồn tất cả sức lực đẩy thanh tạ lên khỏi lồng ngực, và trong cơn cùng cực hắn đã thực sự đẩy được nó lên. Tôi móc một bàn chân vào thanh ngang chịu lực dưới gầm ghế và dùng nó như đòn bẩy để gia tăng áp lực vào thanh tạ. Thanh tạ lại đè lên ngực hắn.
Tôi cảm thấy sự chấn động ở hai đầu tạ khi cánh tay hắn bắt đầu rung lên vì gắng sức. Một lần nữa, thanh tạ nhích lên trên một chút. Đột nhiên tôi hít thấy mùi phân. Hệ thần kinh giao cảm đáng thương hại của hắn, trong cơn tuyệt vọng, đã tắt các hoạt động không cần thiết của cơ thể, kể cả việc kiểm soát cơ thắt hậu môn, để chuyển tất cả năng lượng hiện hữu vào cơ bắp.
Sự chống cự chỉ kéo dài thêm một khoảnh khắc. Sau đó hai cánh tay của hắn bắt đầu rung mạnh hơn, và tôi cảm thấy thanh tạ dần hạ xuống, lún sâu hơn vào ngực hắn. Một tiếng rít nho nhỏ vang lên khi hơi thở bị đẩy ra khỏi hai lỗ mũi và đôi môi mím chặt của hắn. Tôi cảm nhận được cặp mắt hắn đang dán chặt vào mặt mình, nhưng vẫn tập trung sự chú ý vào cơ thể hắn và thanh tạ. Hắn vẫn không phát ra tiếng kêu nào.
Vài giây trôi qua, rồi vài giây nữa. Tư thế của hắn không thay đổi. Tôi đợi. Da hắn bắt đầu xám đi. Tôi đợi lâu hơn.
Cuối cùng, tôi thả lỏng áp lực mà tôi đã đè lên thanh tạ và nhả các ngón tay.
Cặp mắt hắn vẫn dán vào tôi, nhưng không còn nhận thức gì nữa. Tôi lùi lại, bước ra khỏi phạm vi vô hồn của cặp mắt hắn, và dừng lại để quan sát cảnh tượng này. Trông gần đúng như những gì nó thể hiện: một kẻ nghiện nâng tạ, tập một mình lúc tối muộn, cố nâng nặng hơn khả năng, bị kẹt dưới thanh tạ, ngạt thở và chết tại chỗ. Một tai nạn quái gở.
Tôi thay lại bộ quần áo đi đường, nhặt túi, bước ra phía cửa. Một tràng âm thanh vang lên phía sau tôi, như tiếng nổ lép bép của bùi nhùi. Tôi quay lại nhìn lần cuối, nhận ra đó là tiếng những chiếc xương sườn của hắn gãy sụp xuống. Chắc chắn là hắn xong đời rồi. Chỉ còn những ngón tay siết quanh thanh tạ là còn co giật như thể không chịu tin vào điều mà cơ thể đã chấp nhận.
Tôi bước vào hành lang tối và chờ cho đến khi đường phố vắng người. Rồi tôi lướt lên vỉa hè, hòa vào bóng tối xung quanh.
2
TÔI RỜI KHU VỰC đó bằng cách đi bộ theo một loạt những tuyến phố phụ ở Roppongi và Akasaka, băng ngang qua những ngõ hẻm giữa các tòa nhà. Người không thạo sẽ thấy lộ trình tôi đang đi giống như một loạt những đường tắt đơn giản, nhưng thực ra nó được tính toán để bắt những kẻ bám theo phải lộ diện trong khi cố gắng theo sát tôi. Trừ vài trường hợp ngoại lệ có chủ ý, tất cả những biện pháp chống theo dõi của tôi được thực hiện dưới cái lốt của một người đi bộ bình thường. Nếu tôi đang bị theo đuôi vì một tổ chức nào đó đã chú ý nhưng vẫn chưa xác định được tôi là ai, tôi sẽ không sơ ý làm lộ bí mật bằng cách hành động khác với một người bình thường.
Sau khoảng nửa giờ, tôi đã có thể tự tin rằng mình không bị theo đuôi và bắt đầu bước chậm dần cùng lúc tâm trí cũng tĩnh lại. Tôi thấy mình đang di chuyển theo một hình bán nguyệt dài, ngược chiều kim đồng hồ mà tôi áng chừng nó đang dẫn tôi đi theo hướng Aoyama Bochi, cái nghĩa địa khổng lồ nằm như một miếng băng cứu thương hình tam giác màu xanh lá giữa các khu thượng lưu phía tây thành phố.
Ở phía bắc phố Roppongi, tôi đi qua một lãnh địa nhỏ của những cái chòi bằng bìa các-tông, nơi dừng chân của những người lang thang vô gia cư. Xét theo một nghĩa nào đó, cuộc sống của chính tôi cũng bơ vơ và vô danh như họ. Tôi đặt túi đồ tập thể hình đang mang theo xuống, biết rằng cái túi cùng bộ quần áo tập và chiếc găng tay nâng tạ trong đó sẽ nhanh chóng được chia nhau và mất hút giữa những bóng ma gầy gò, không dấu vết. Trong vòng vài ngày, có lẽ vài giờ, mọi dấu vết về nguồn gốc của những vật còn sót lại từ
công việc này sẽ bị xóa sạch; mỗi thứ chỉ là một vật vô danh, vô sắc giữa những linh hồn vô sắc, vô danh - những mảnh đời cô độc và tuyệt vọng, đôi lúc rơi vào điểm mù chung của Tokyo và từ đó rơi vào quên lãng.
Thoát được gánh nặng, tôi đi tiếp, lần này vòng về phía đông. Dưới chân một cây cầu vượt ở Nogizaka, phía bắc phố Roppongi, tôi thấy chừng sáu thằng chinpira, lòe loẹt trong những bộ áo da đua xe bóng láng, ngồi xổm thành một hình bán nguyệt kín, những chiếc mô-tô kim loại gầm thấp của chúng đỗ trên lối đi bộ chạy dài bên cạnh. Những đoạn rời rạc từ cuộc trò chuyện của chúng dội lên mặt bức tường bê tông phía bên phải tôi, từ ngữ thì khó hiểu nhưng giọng điệu hòa vào nhau kín kẽ như những ống xả đã độ trên xe của chúng. Chúng có lẽ đã dùng kakuseizai, loại ma túy “ưa thích” của Nhật Bản kể từ khi chính phủ phân phát nó cho binh lính và công nhân trong Thế chiến II, và là thứ mà bọn chinpira này chắc chắn vừa là nhà cung cấp vừa là người tiêu thụ. Chúng đang đợi những tiếng kêu vo ve do tác dụng thuốc trong các bắp thịt và não bộ lên đúng cao độ, đợi thời gian muộn đi cho phù hợp và đêm tối hơn cho hấp dẫn, trước khi ló ra khỏi cái hang ổ bê tông và đáp lại lời mời gọi của ánh đèn neon khu Roppongi.
Tôi thấy chúng đã để ý đến tôi, một cái bóng đơn độc tiến lại từ đầu phía nam của con đường gần như một địa đạo hẹp. Tôi tính đến chuyện băng ngang con phố, nhưng một dải phân cách kim loại khiến cho lối đó không khả thi. Đáng ra tôi chỉ cần đơn giản quay lại và đi một đường khác. Việc không làm thế khiến tôi càng khó phủ nhận rằng đúng là tôi đang đi thẳng về phía nghĩa địa.
Khi tôi còn cách ba hay bốn mét, một tên đứng dậy. Bọn còn lại tiếp tục ngồi đó, theo dõi. Hẳn là chúng định bày trò giải khuây.
Tôi đã để ý thấy rằng ở đây không có những chiếc camera an ninh, vốn cứ
mỗi năm lại nhiều thêm trên đường phố và ga tàu điện ngầm. Thỉnh thoảng tôi phải chiến đấu với cảm giác rằng những camera đó đang đặc biệt tìm kiếm tôi.
“Oi,” gã vừa đứng dậy gọi to. Này.
Tôi trộm liếc nhanh về phía sau để chắc chắn rằng ở chỗ này chỉ có chúng tôi. Không được có bất cứ ai nhìn thấy việc tôi sẽ làm nếu lũ ngu này cản đường tôi.
Không thay đổi nhịp bước hay hướng đi, tôi nhìn vào cặp mắt gã chinpira, vẻ mặt lạnh như đá. Với cái nhìn này, tôi cho hắn biết rằng tôi không sợ hãi và cũng không muốn dính vào rắc rối, rằng tôi đã từng làm chuyện kiểu này nhiều lần, rằng nếu đêm nay hắn đang tìm kiếm sự phấn khích thì nên khôn hồn tìm ở chỗ khác.
Hầu như mọi người, đặc biệt là những người có chút dính líu với bạo lực, hiểu những dấu hiệu đó, và có thể dựa vào đó mà phản ứng sao cho khả năng sống sót tăng lên. Nhưng có vẻ gã này quá ngu, hoặc đã chơi quá nhiều kakuseizai. Hoặc hắn đã nhầm tưởng cái nhìn về phía sau của tôi lúc ban đầu là dấu hiệu của sự sợ hãi. Là gì đi nữa, thì hắn cũng đã phớt lờ lời cảnh báo tôi đưa ra và bắt đầu cản đường tôi đi.
Tôi biết thừa kịch bản này: tôi sắp bị kiểm tra xem có hợp để làm nạn nhân hay không. Xem tôi có để mình bị đẩy ra giữa phố, giữa dòng xe cộ đang lao đến không? Tôi có sợ sệt và nao núng không? Nếu đúng như thế, hắn sẽ biết tôi là một mục tiêu an toàn, và có lẽ sẽ bùng phát lên thành bạo lực thực sự.
Nhưng tôi thích tấn công bất ngờ hơn. Để hắn ở bên phải, tôi bước qua hắn bằng chân trái, sau đó phóng chân phải qua cùng bên đó ngay lập tức rồi quét về phía sau để quật đổ chân hắn từ phía dưới theo thế osoto-gari, một
trong những đòn judo cơ bản và mạnh mẽ nhất. Đồng thời tôi xoay mình ngược chiều kim đồng hồ và đánh cánh tay phải vào cổ hắn, quật nửa thân trên của hắn về hướng ngược với hai chân. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi hắn bị treo lơ lửng ngang nơi hắn vừa đứng. Rỗi tôi tống hắn vào vỉa hè, giật mạnh cổ áo hắn lên trong khoảnh khắc cuối cùng để phần sau đầu hắn không bị va đập quá mạnh. Tôi không muốn hắn tử thương. Như thế sẽ quá gây chú ý.
Quá trình đó mất chưa đến hai giây. Tôi đứng thẳng người lên và tiếp tục đi đường của mình như trước đó, mắt nhìn về trước nhưng tai hướng về sau chờ nghe tiếng đuổi theo.
Không có âm thanh nào, và khi khoảng cách lớn dần tôi khẽ mỉm cười. Tôi không thích những kẻ hay bắt nạt - chúng là một phần quá lớn trong tuổi thơ của tôi ở cả hai bờ Thái Bình Dương - và tôi có cảm giác bọn chinpira này sẽ mất một thời gian khá dài mới lấy lại được cảm hứng để cản đường những người đi dọc theo vỉa hè đó.
Tôi đi tiếp, cắt qua bên trái ở phía đông nghĩa địa, rồi rẽ phải ở phố Gaiennishi, tận dụng lợi thế của khúc quanh như tôi vẫn luôn tự động làm để kiểm soát khu vực phía sau lưng trong khi vờ như dừng lại tránh xe cộ. Nghĩa địa giờ đang ở bên phải tôi, nhưng phía bên kia đường không có vỉa hè, nên tôi đi bên trái cho đến chỗ đối diện với một hàng dài các bậc đá nhô lên, một con đường mòn nằm giữa mái hiên xanh của người chết và cái thành phố đang sống bên ngoài. Tôi đứng nhìn những bậc đá đó một lúc lâu. Cuối cùng tôi quyết định rằng sự thôi thúc mà tôi đã gần như chịu thua thật là lố bịch, như tôi đã quyết định rất nhiều lần trong quá khứ. Tôi quay lại và đi chậm rãi xuống phố, ngược trở lại đường tôi vừa đến.
Như mọi lần, sau khi hoàn thành một công việc, tôi lại nhận thức được
nhu cầu được ở giữa những người khác, nhu cầu tìm kiếm chút an ủi trong cái ảo tưởng rằng tôi là một phần của cái xã hội mà tôi đi qua. Xuống phố thêm vài mét nữa, tôi bước nhanh vào nhà hàng Gió mùa, nơi tôi có thể thưởng thức ẩm thực Đông Nam Á và những âm thanh dịu lòng từ cuộc trò chuyện của những người khác.
Tôi chọn một chỗ hơi quay lưng lại với mặt tiền của nhà hàng, đối diện với đường phố và lối vào, và gọi một bữa ăn đơn giản với bún và rau. Mặc dù lúc này đã quá giờ ăn tối, nhưng các bàn hầu như đều có người ngồi. Bên trái tôi là tàn dư của một bữa tiệc văn phòng nhỏ: một vài gã trai trẻ với cravat nới lỏng và bộ vest màu xanh nước biển giống nhau, hai người cô gái đi cùng, xinh đẹp và ăn mặc hợp thời trang hơn đồng nghiệp của họ, thoải mái trong vai trò của người phụ nữ Nhật truyền thống là phục vụ đồ ăn, rót đồ uống, và đưa đẩy câu chuyện. Phía sau họ, một cặp đôi ngồi riêng, bọn trẻ trung học hoặc đại học, vươn người về phía nhau và nắm tay qua mặt bàn, đứa con trai nói bằng cặp lông mày nhướn cao như thể đề nghị gì đó, đứa con gái cười và lắc đầu rằng không. Bên kia, một nhóm đàn ông người Mỹ lớn tuổi, ăn mặc đời thường hơn những người khách khác, giọng nói nhỏ nhẹ vừa phải, làn da sáng nhẹ dưới ánh đèn bàn.
Cảm giác gần như là siêu thực khi thấy mình lại ngồi trong một nhà hàng hay quán bar sau khi hoàn thành một công việc, tâm trí tôi bắt đầu trôi dạt, đầu óc nhẹ đi khi cơn lũ kích động đã chấm dứt. Những cảm giác không mới, nhưng cái hoàn cảnh tạo ra chúng lại lạ lẫm, giống như cảm giác mặc một bộ vest đi làm để đi dự đám tang.
Tôi từng nghĩ rằng mình đã thoát khỏi tất cả những chuyện này sau khi xong xuôi mọi việc với Holtzer, trưởng chi nhánh trước đó của Phân cục CIA ở Tokyo. Vỏ bọc của tôi đã bị thổi bay, và đó là lúc tạo ra một nhân
thân mới, không phải là lần đầu tiên. Tôi đã nghĩ đến nước Mỹ, có thể bờ biển phía tây, San Francisco, một nơi nào đó có đông người châu Á. Nhưng tạo ra một nhân dạng mới ở Mỹ, mà không có những cơ sở mà tôi từ lâu đã chuẩn bị như ở Nhật, sẽ rất khó khăn. Bên cạnh đó, nếu CIA muốn trả thù cho Holtzer, truy lùng tôi ngay trên đất nước họ sẽ dễ dàng hơn. Ở lại Nhật Bản thì còn Tatsu để đối phó, đương nhiên, nhưng mối quan tâm của Tatsu dành cho tôi không liên quan gì đến trả thù, vì thế tôi đánh giá anh ta là nguy cơ nhỏ hơn.
Tôi mỉm cười trước nhận định đó. Tôi biết rằng mặc dù chắc chắn không trầm trọng bằng cái khả năng hiển hiện là bị đi đời bởi một kẻ may mắn nào đó làm thuê cho CIA, nhưng mối nguy mà Tatsu gây ra cho tôi cũng không ít nguy hiểm.
Anh ta đã tìm ra tôi ở Osaka, thành phố lớn thứ hai của Nhật Bản, nơi tôi đến sau khi biến mất ở Tokyo. Tôi đã chuyển vào một khu cao tầng tên là Belfa ở Miyakojima, phía tây bắc thành phố. Ở Belfa có khá nhiều người thuyên chuyển công tác cư trú nên có thêm một người mới đến cũng không quá gây chú ý. Sống chủ yếu ở đây là những gia đình có con nhỏ, họ luôn để ý xem hàng xóm có những ai nên khó mà theo dõi cho hiệu quả hoặc phục kích thành công.
Mới đầu tôi thấy nhớ Tokyo, nơi tôi đã sống hai mươi năm, và thất vọng khi ở một thành phố mà những người Tokyo bình thường sẽ theo phản xạ coi như một nơi tù túng về mọi mặt, ngoại trừ sự trải dài ghê gớm về mặt địa lí. Nhưng Osaka đã lớn dần trong tôi. Bầu không khí ở đây, dù người ta có thể cho rằng không phong phú và quốc tế như ở Tokyo, không có sự giả tạo. Không như Tokyo, nơi có tâm hút tài chính, văn hóa, và chính trị mạnh đến mức nhiều lúc thành phố có thể cảm thấy tự mãn, thậm chí là tự tôn tuyệt
đối, Osaka không ngừng so sánh mình với những nơi khác, trong đó có người anh em thủ lĩnh của nó ở phía đông bắc, và chiến thắng rõ rệt trên phương diện ẩm thực, sự nhạy bén về tài chính và tính nhân văn nói chung. Tôi phát hiện điều gì đó đáng mến trong cuộc đấu tự tuyên bố giành quyền tối thượng này. Osaka dường như tuyên bố với một Tokyo không thèm lắng nghe rằng, có thể chúng tôi không có phong thái tao nhã - đồng nghĩa với “yếu đuối” - hay thiết chế chính trị quyền lực nhất -đồng nghĩa với “tham nhũng”, nhưng chúng tôi có tấm lòng. Dần dần, tôi bắt đầu tự hỏi liệu có phải thành phố này có lí hay không.
Tôi phát hiện ra Tatsu theo sau mình trong một đêm trên đường tới Overseas, một câu lạc bộ nhạc jazz ở Honmachi mà lúc đó tôi bắt đầu thích. Tôi nhận ra anh ta ngay lập tức nhưng không biểu hiện gì. Tatsu béo lùn và có kiểu lắc vai từ bên này qua bên kia mỗi khi bước đi khiến anh ta khó mà lẫn vào đâu được. Nếu cái đuôi là một ai khác, tôi có thể đã quay lại và tra hỏi, nếu có thể hoặc tiêu diệt, nếu không.
Nhưng vì chính Tatsu là người theo sau, tôi biết mình không gặp nguy hiểm tức thời. Là một trưởng ban của Keisatsucho, FBI của Nhật, anh ta có thể dễ dàng cho bắt giữ tôi nếu muốn. Kệ đi, tôi quyết định. Akiko Grace, một nghệ sĩ piano trẻ từng làm cả thế giới nhạc jazz Nhật Bản giật mình với CD đầu tay Từ New York sẽ biểu diễn đêm đó, và tôi muốn xem cô chơi đàn. Nếu Tatsu định tham gia cùng tôi thì cũng được.
Anh ta đến giữa màn thứ hai. Grace đang chơi bản Sáng hôm đó, một bản nhạc u sầu trong Câu chuyện Manhattan, CD thứ hai của cô. Tôi nhìn anh ta dừng lại ngay khi bước qua lối vào, cặp mắt quét qua các bàn. Tôi đã định ra dấu cho anh ta, nhưng anh ta biết phải nhìn vào đâu.
Anh ta đi đến bàn của tôi và sà vào bên cạnh như thể việc anh ta sẽ gặp
tôi ở đây là điều tự nhiên nhất trên đời. Như mọi khi, anh ta mặc một bộ vest màu tối không hợp. Anh ta gật đầu chào. Tôi ra dấu chào lại, rồi quay ra xem Grace chơi tiếp.
Grace ngồi nghiêng với chúng tôi, mặc một chiếc váy dài phủ kim sa ánh vàng, sáng lấp lánh dưới ánh đèn sân khấu màu xanh mát, tựa như một tia sét nóng bừng trong đêm. Xem cô chơi đàn làm tôi nghĩ đến Midori, qua sự tương phản cũng như bằng liên tưởng. Dáng điệu của Grace nhút nhát hơn, đu đưa nhiều hơn, nghiêng người về sát cây đàn piano hơn, và phong cách của cô nói chung mềm mại hơn, trầm tư hơn. Nhưng khi cô chơi đến những bản nhạc như Mạch viễn tưởng và Điệu Blues phố Delancey, cô cũng có cùng cái khí sắc như bị cây đàn chiếm hữu, như thể nó là một con quỷ và cô là người gõ lại những gì nó nói.
Tôi nhớ lại lúc xem Midori chơi đàn, đứng trong bóng tối của Village Vanguard ở New York, biết rằng đó sẽ là lần cuối cùng. Sau đó tôi đã xem nhiều nghệ sĩ piano khác biểu diễn. Luôn là một khoái lạc buồn thảm, giống như ngủ với một người phụ nữ đẹp, nhưng không phải với người phụ nữ anh yêu.
Màn biểu diễn kết thúc, Grace cùng nhóm tam tấu của mình rời sân khấu. Nhưng khán giả không ngừng vỗ tay cho đến khi họ trở lại, diễn lại bản Nhịp đu Bemsha của Thelonious Monk. Tatsu chắc đang nản chí. Anh ta không tới đây để thưởng thức nhạc jazz.
Sau màn biểu diễn, Grace đi tới quầy bar. Mọi người bắt đầu đứng dậy để cảm ơn cô, có thể để xin cô kí vào những chiếc CD họ mang tới, rồi để tiếp tục với những thứ khác mà đêm đó còn dành cho họ.
Khi những người ngồi cạnh đã đi khỏi, Tatsu quay sang tôi. “Việc nghỉ hưu không hợp với anh, Rain-san*,” anh ta nói bằng cái giọng khô khan.
“Nó làm anh mềm yếu đi. Khi anh còn hoạt động, tôi không thể lần ra anh như thế này.”
Tatsu hiếm khi phí thời gian với những nghi thức lịch sự. Anh ta hiểu chuyện hơn thế, nhưng không thể tự ngăn mình được. Đó là một trong những điều tôi luôn luôn thích ở anh ta.
“Tôi tưởng anh muốn tôi nghỉ hưu,” tôi nói.
“Nghỉ mối quan hệ giữa anh với Yamaoto và tổ chức của hắn, đúng. Nhưng tôi nghĩ sau đó chúng ta có thể có cơ hội làm việc cùng nhau. Anh hiểu công việc của tôi.”
Anh ta đang nói về cuộc chiến không bao giờ kết thúc với nạn tham nhũng ở Nhật Bản, mà nhân vật chính đằng sau là kẻ tử địch của anh ta - Yamaoto Toshi, chính trị gia và bậc thầy giật dây, kẻ đã mua chuộc Holtzer, người từng một thời là “ông chủ” giấu mặt của tôi.
“Tôi xin lỗi, Tatsu. Yamaoto và có thể là cả CIA theo sau tôi, mọi việc khó khăn lắm. Tôi có muốn cũng chẳng hữu dụng nhiều cho anh đâu.” “Anh đã nói là sẽ liên lạc với tôi.”
“Tôi nghĩ đó không phải ý hay.”
Anh ta gật đầu, rồi nói, “Anh có biết là, chỉ vài ngày sau lần cuối chúng ta gặp nhau, William Holtzer đã chết vì đau tim trong nhà để xe của một khách sạn ở ngoại ô Virginia?”
Tôi nhớ lại cái cách mà Holtzer đã nói mấy lời Ta là tên gián điệp hai mang... Ta là tên gián điệp hai mang... khi hắn nghĩ rằng tôi sắp chết. Cái cách hắn sắp đặt cho tôi chống lại người anh em cắt máu ăn thề của tôi, Jake Khùng, ở Việt Nam, và về sau hả hê vì chuyện đó.
“Sao anh hỏi thế?” Tôi hỏi, giữ giọng như bình thường.
“Rõ ràng là, cái chết của hắn rất bất ngờ với những ai quen biết hắn trong ngành tình báo,” anh ta nói tiếp, phớt lờ câu hỏi của tôi, “bởi vì Holtzer mới chỉ ngoài năm mươi và cũng giữ sức khỏe rất tốt.”
Chưa đủ khỏe cho cú sốc điện ba trăm sáu mươi jun từ một chiếc máy khử rung tim đã chỉnh sửa, tôi nghĩ thầm.
“Điều đó chỉ cho thấy là, anh không thể không cẩn thận được,” tôi nói, nhấp một ngụm Dalmore mười hai năm tuổi. “Tôi uống aspirin trẻ em, một viên một ngày. Có một bài báo về nó trên tờ Asahi Shimbun vài năm trước. Được cho là giảm đáng kể nguy cơ các vấn đề tim mạch.”
Anh ta im lặng một thoáng, rồi nhún vai và nói, “Hắn không phải người tốt.”
Có phải đây là cách anh ta nói với tôi rằng anh ta biết tôi giết Holtzer nhưng không quan tâm? Nếu là thế, đổi lại anh ta muốn gì? “Sao anh biết tất cả chuyện này?” Tôi hỏi.
Anh ta nhìn xuống bàn, rồi lại nhìn tôi. “Một vài đồng nghiệp của Holtzer ở Phân cục Tokyo của CIA liên lạc với Lực lượng Cảnh sát Thủ đô. Họ quan tâm đến cách hắn qua đời như thế nào hơn là sự kiện hắn chết. Có vẻ họ tin rằng anh giết hắn.”
Tôi không nói gì.
“Họ muốn có sự hỗ trợ từ Lực lượng Cảnh sát Thủ đô để tìm ra anh,” anh ta tiếp tục. “Cấp trên bảo tôi phải hợp tác hoàn toàn.”
“Tại sao họ lại đến nhờ các anh?”
“Tôi ngờ rằng CIA đã được giao nhiệm vụ tìm cách tiêu diệt một trong số những kẻ tham nhũng đang làm tê liệt nền kinh tế Nhật Bản. Nước Mỹ lo ngại rằng nếu tình hình trở nên tồi tệ hơn, nền tài chính của Nhật sẽ sụp đổ.
Hiệu ứng gợn sóng, và chắc chắn một đợt suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ xảy ra tiếp theo.”
Tôi hiểu sự quan tâm của Chú Sam. Ai cũng biết các chính trị gia tập trung vào việc đảm bảo rằng họ có phần hối lộ từ những dự án công được sắp đặt trước và những khoản lót tay của yakuza hơn là phục hồi một nền kinh tế đang ngắc ngoải. Anh có thể ngửi thấy mùi thối nát từ tận đằng xa.
Tôi nhấp một hớp Dalmore nữa. “Tại sao anh lại cho rằng họ đang chú ý đến tôi?”
Anh ta nhún vai. “Có thể là trả thù. Có thể là một phần của nỗ lực chống tham nhũng nào đó. Dù sao thì, chúng tôi biết rằng Holtzer đang soạn một báo cáo tình báo, trong đó nhận diện anh là tên sát thủ “nguyên nhân tự nhiên” đằng sau cái chết của rất nhiều nhân chứng tố cáo và các nhà cải cách người Nhật. Có lẽ là cả hai.”
Đúng là Holtzer, tôi nghĩ. Được tiếng nhờ báo cáo tình báo trong khi sử dụng chính đối tượng trong báo cáo vào mục đích của mình. Tôi nhớ lại hắn trông như thế nào khi tôi bỏ lại cái xác rũ rượi đó trong chiếc xe thuê của hắn ở một nhà để xe ngoại ô Virginia, và tôi mỉm cười.
“Anh có vẻ không quá lo lắng lắm,” Tatsu nói.
Tôi nhún vai. “Dĩ nhiên tôi lo lắng. Anh đã nói gì với họ?” “Rằng, như tôi biết, anh đã chết.”
Bắt đầu rồi đây. “Anh thật tốt.”
Anh ta hơi mỉm cười, và tôi thấy một phần nhỏ của tên khốn ranh mãnh, chuyên về đảo chính mà tôi từng rất ưa ở Việt Nam, nơi chúng tôi gặp nhau khi anh ta được một chỉ huy cũ của Keisatsucho biệt phái tới đó. “Thực ra không tốt lắm đâu. Đằng nào chúng ta cũng là bạn lâu năm. Bạn
bè thỉnh thoảng nên giúp đỡ nhau, anh không đồng ý sao?” Anh ta biết tôi nợ anh ta. Tôi nợ anh ta chỉ vì đã để tôi đi sau khi tôi phục kích Holtzer ngoài căn cứ hải quân ở Yokosuka, dù anh ta đã bỏ ra bao nhiêu năm trước đó để săn tìm tôi. Giờ anh ta xóa dấu vết của tôi khỏi tay CIA, và tôi cũng nợ anh ta vì việc đó nữa.
Nợ nần chỉ là một phần của việc đó, tất nhiên. Còn có cả đe dọa ngấm ngầm. Nhưng với tôi Tatsu cũng có chút thiện cảm nên anh ta không quá rạch ròi. Nếu không, anh ta đã bỏ qua tất cả những chuyện nhảm nhí như “có lợi cho cả hai” hay “chúng ta là bạn bè lâu năm” và chỉ cần nói với tôi rằng, nếu tôi không hợp tác anh ta sẽ cho những người bạn cũ của tôi trong hội Người Công giáo Hành động* chia sẻ tên và địa chỉ hiện tại của tôi. Đó là việc mà anh ta có thể làm rất dễ dàng.
“Tôi tưởng anh muốn tôi nghỉ hưu,” tôi nhắc lại, dù biết mình đã thua cuộc.
Anh ta đưa tay vào túi áo ngực và lấy ra một chiếc phong bì tài liệu. Anh ta đặt nó lên bàn giữa chúng tôi.
“Đây là một công việc rất quan trọng, Rain-san,” anh ta nói. “Tôi sẽ không nhờ anh giúp nếu việc không quan trọng.”
Tôi biết mình sẽ thấy gì trong chiếc phong bì đó. Một cái tên. Một bức ảnh. Địa chỉ nơi làm việc và cư trú. Những điểm yếu đã biết. Yêu cầu nhất định phải có “các nguyên nhân tự nhiên” sẽ được ngầm hiểu, hoặc nói miệng.
Tôi không chạm vào chiếc phong bì. “Có một điều tôi cần ở anh trước khi tôi có thể đồng ý bất cứ việc gì.”
Anh ta gật đầu. “Anh muốn biết làm sao tôi tìm ra anh.” Chính xác.
Anh ta thở dài. “Nếu tôi chia sẻ thông tin đó với anh, điều gì sẽ ngăn anh không biến mất một lần nữa, thậm chí lần này hiệu quả hơn?” “Có lẽ là không gì cả. Nhưng nếu anh không nói với tôi, sẽ không có chuyện tôi sẵn lòng làm việc cùng anh với bất cứ việc gì anh có trong cái phong bì này. Tùy vào anh thôi.”
Anh ta suy nghĩ một lúc lâu, như thể đang cân nhắc được và mất, nhưng Tatsu luôn luôn tính trước vài bước và tôi biết anh ta đã dự tính điều này. Sự do dự chỉ là trò diễn để làm tôi tin rằng tôi đã thắng được điều gì đó có giá trị.
“Hồ sơ của Hải quan,” cuối cùng anh ta nói.
Tôi không ngạc nhiên lắm. Tôi đã biết có nguy cơ Tatsu sẽ biết về cái chết của Holtzer và đoán rằng tôi đứng đằng sau, rằng nếu thế anh ta sẽ có thể xác định được các động thái của tôi trong khoảng thời gian từ lúc anh ta nhìn thấy tôi lần cuối ở Tokyo và ngày Holtzer chết bên ngoài thủ đô Washington, cách nhau chưa đầy một tuần. Nhưng giết Holtzer là việc quan trọng đối với tôi, và tôi đã sẵn sàng trả giá cho mục tiêu này. Tatsu đơn giản là đang chìa cho tôi xem hóa đơn.
Tôi im lặng, và sau một thoáng anh ta nói tiếp. “Một người dưới cái tên và hộ chiếu của Fujiwara Junichi rời Tokyo tới San Francisco ngày 30 tháng mười vừa rồi. Không có ghi nhận nào cho thấy người đó đã trở lại Nhật Bản. Giả định hợp lí là anh ta đã ở lại nước Mỹ.”
Về một nghĩa nào đó, đúng là anh ta đã ở lại. Fujiwara Junichi là tên khai sinh ở Nhật Bản của tôi. Khi tôi biết rằng Holtzer và CIA đã khám phá ra nơi tôi sống tại Tokyo, tôi biết cái tên đó đã lộ và không còn sử dụng được nữa. Tôi đã tới Mỹ để giết Holtzer bằng hộ chiếu Fujiwara rồi hủy bỏ nó, trở lại Nhật Bản dưới một nhân dạng khác mà tôi đã tạo sẵn từ trước cho một tình
huống bất ngờ như thế này. Tôi đã hi vọng rằng bất cứ ai tìm kiếm tôi cũng sẽ bị đánh lạc hướng bởi manh mối giả này và kết luận rằng tôi đã chuyển đến Mỹ. Đa số mọi người sẽ nghĩ thế. Nhưng không phải Tatsu.
“Không biết tại sao, tôi không thể nghĩ đến việc anh sống ở Mỹ,” anh ta tiếp tục. “Anh có vẻ... thoải mái ở Nhật. Tôi không tin anh đã sẵn sàng ra đi.” “Tôi cho rằng anh đã nhận ra điều gì đó quan trọng.”
Anh ta nhún vai. “Tôi tự hỏi, nếu ông bạn cũ của tôi vẫn chưa thực sự rời Nhật, nhưng chỉ muốn tôi tin rằng anh ta đã đi, vậy anh ta làm gì? Anh ta có thể đã về nước dưới một cái tên mới. Sau đó, anh ta chuyển tới một thành phố mới, bởi đã quá nổi tiếng ở Tokyo.”
Anh ta dừng lại, và tôi nhận ra anh ta sử dụng mẹo lừa của thầy bói, vờ như cung cấp thông tin nhưng thực ra lại khéo léo moi thông tin, thăm dò dưới cái vỏ thông báo. Nãy giờ, Tatsu chỉ đưa ra những gợi ý và chi tiết chung chung, và tôi sẽ không bổ sung phần còn thiếu cho anh ta bằng cách xác nhận hay phủ nhận bất cứ điều gì.
“Có lẽ anh ta đã sử dụng cùng cái tên mới đó để tái nhập cảnh, rồi chuyển đi nơi khác trong nội địa,” anh ta nói, sau một thoáng.
Nhưng tôi đã không sử dụng cùng một tên mới khi tôi chuyển nơi ở. Làm thế sẽ vẽ ra một mối liên hệ quá rõ ràng cho một kẻ theo dõi cứng đầu lần theo. Tatsu hẳn không dám chắc về điều đó, và, như tôi nghi ngờ, anh ta hi vọng biết thêm điều gì đó bằng cách khiến tôi phản ứng lại. Nếu tôi né tránh mà xác nhận rằng tôi đã sử dụng cùng một cái tên, anh ta sẽ nói rằng bằng cách đó hắn đã tìm ra tôi, nhờ đó tránh phải tiết lộ thực sự anh ta đả làm như thế nào, và vẫn nắm được nguyên vẹn điểm yếu đó để sau này có thể khai thác lại.
Vì thế tôi không nói gì, chỉ giả vờ hơi chán nản.
Anh ta nhìn tôi, khóe miệng nhếch lên thành một dấu hiệu cơ bản nhất của một nụ cười mỉm. Đó là cách anh ta thừa nhận rằng tôi đã biết điều anh ta đang âm mưu, nghĩa là anh ta có tiếp tục cũng vô ích, thế nên giờ anh ta sẽ nói thẳng.
“Fukuoka quá nhỏ,” anh ta nói. “Sapporo, quá xa. Nagoya quá gần Tokyo. Hiroshima cũng có thể vì không khí tốt, nhưng tôi nghĩ vùng Kansai thì có khả năng hơn vì nó không quá xa Tokyo, tôi đoán anh có thể muốn duy trì mối liên hệ nào đó. Nghĩa là Kyoto, có thể Kobe. Nhưng Osaka thì đúng hơn.”
Bởi vì...
Anh ta nhún vai. “Bởi vì Osaka lớn hơn, ồn ào hơn, nên có nhiều không gian để ẩn mình hơn. Dân tạm trú ở đó cũng đông, nên một người mới đến ít gây chú ý hơn. Và tôi cũng biết anh yêu nhạc jazz, mà Osaka thì nổi tiếng có các câu lạc bộ.”
Lẽ ra tôi phải biết Tatsu sẽ tập trung vào các câu lạc bộ. Trong thời Taisho, từ 1912 đến 1926, nhạc jazz du nhập từ Thượng Hải vào Kansai, vùng phía tây của Honshu, đảo chính của Nhật Bản, Osaka nằm ở đó. Một loạt sàn khiêu vũ và nhà ở được xây dựng ở các khu giải trí Soemoncho và Dotonbori, và nhạc jazz được biểu diễn ở khắp các quán cà phê. Những di sản sống tới tận ngày nay là những chỗ như Mr. Kelly’s, Overseas, Royal Horse, và, đương nhiên, quán Osaka Blue Note. Tôi không thể phủ nhận rằng sự hiện diện của những địa điểm đó là một yếu tố khiến tôi chọn Osaka.
Với chính những lí do mà Tatsu vừa chỉ ra, tôi thậm chí còn nhận ra rằng Osaka phần nào là một lựa chọn dễ đoán. Nhưng tôi cũng thấy rằng mình đã không sẵn lòng từ bỏ những lợi thế về lối sống mà thành phố này đem lại. Nếu còn trẻ, tôi sẽ theo phản xạ từ bỏ bất cứ sự nhàn hạ nào như thế để chọn
lấy an toàn cá nhân cấp thiết. Nhưng tôi thấy thứ tự ưu tiên của mình đã thay đổi theo tuổi tác, và điều này, cũng như mọi điều khác, là dấu hiệu rõ ràng rằng đã đến lúc tôi rời khỏi cuộc chơi.
Rõ là, biết tôi như thế nên Tatsu chẳng khó khăn lắm cũng đoán ra Osaka. Nhưng như thế vẫn chưa đủ để định vị chính xác như cuối cùng anh ta đã làm được.
“Ấn tượng đấy,” tôi nói với anh ta. “Nhưng anh vẫn chưa giải thích bằng cách nào anh có thể chộp được tôi trong một thành phố gần chín triệu dân.” Anh ta hơi ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vào tôi. “Rain-san,” anh ta nói, “tôi hiểu mong muốn được biết của anh. Và tôi sẽ nói anh biết. Nhưng quan trọng là thông tin sẽ không đi xa hơn, nếu không hiệu quả chống tội phạm của Lực lượng Cảnh sát Thủ đô sẽ không còn. Tôi có thể tin tưởng anh sẽ giữ kín thông tin này chứ?”
Câu hỏi, và sự tiết lộ tiếp theo, có ý cho thấy rằng tôi cũng có thể tin tưởng vào anh ta. “Anh biết là có,” tôi nói.
Anh ta gật đầu. “Trong vòng một thập kỉ qua hay gần như thế, chính quyền các tỉnh và thành phố lớn đã độc lập lắp đặt các camera an ninh ở nhiều địa điểm công cộng, chẳng hạn như ga tàu điện ngầm và các tuyến phố đi bộ lớn. Có bằng chứng thực tế, chủ yếu là từ kinh nghiệm của Anh quốc, rằng những chiếc camera đó ngăn ngừa tội phạm.”
“Tôi nhìn thấy những chiếc camera đó rồi.”
“Anh có thể thấy một số cái thôi. Không phải tất cả. Trong bất cứ trường hợp nào, bản thân camera không thực sự quan trọng. Cái đứng sau chúng mới là vấn đề. Sau sự kiện ngày 11 tháng chín ở Mỹ, Lực lượng Cảnh sát Thủ đô đã nhận thực hiện một sáng kiến lớn là kết nối những mạng lưới camera không chính thức đó với một trung tâm dữ liệu có chạy phần mềm
nhận diện khuôn mặt tiên tiến. Phần mềm này đọc các đặc điểm khó hoặc không thể che giấu - ví dụ như khoảng cách giữa hai mắt, hoặc các góc chính xác của hình tam giác tạo thành từ hai góc của mắt và điểm giữa miệng. Khi một camera có được kết quả khớp với một bức ảnh trong cơ sở dữ liệu, báo động sẽ được tự động gửi tới nhà chức trách thích hợp. Thứ ban đầu chỉ mang tính hù dọa giờ là một công cụ điều tra và chống tội phạm có hiệu quả.”
Tất nhiên là tôi biết về sự tồn tại của phần mềm mà Tatsu đang mô tả. Nó đang được thử nghiệm ở một số sân bay và sân vận động, đặc biệt là ở Mỹ, như một cách để phát hiện và ngăn chặn trước những tên khủng bố đã biết. Nhưng từ những gì mà tôi đã đọc được, thì những cuộc thử nghiệm ban đầu rất đáng thất vọng. Hoặc có lẽ đó chỉ là thông tin đánh lạc hướng. Tôi không hề biết Nhật Bản lại đã tiến xa đến thế trong việc triển khai.
“Các camera được kết nối với Juki Net?” Tôi hỏi.
“Có thể,” anh ta trả lời một cách khô khan.
Juki Net, một chương trình rình mò và thu thập dữ liệu, đi vào hoạt động từ tháng tám năm 2002, có lẽ lấy cảm hứng từ dự án Nhận thức Thông tin Tổng lực của Bộ Quốc phòng Mỹ. Juki Net gán cho mỗi công dân Nhật Bản một dãy số nhận dạng có tám chữ số, và liên kết dãy số đó với tên, giới tính, địa chỉ và ngày sinh của người đó. Chính phủ xác nhận rằng không có thông tin nào khác được thu thập. ít người tin vào điều đó, và đã có những lời gièm pha.
Tôi cân nhắc. Như Tatsu lưu ý, nếu thông tin lọt ra ngoài, hiệu quả của mạng lưới camera sẽ bị tổn hại. Mà còn hơn thế nữa.
“Không phải đã có những cuộc biểu tình chống việc sử dụng Juki Net sao?” Tôi hỏi.
Anh ta gật đầu. “Đúng. Như anh đã biết, chính phủ cho ra mắt Juki Net mà không thông qua một đạo luật riêng đi kèm. Sau này họ mới cố gắng thực hiện việc đó nên không được thuyết phục cho lắm. Khu Suginami đang tẩy chay. Những người dân không thường trú giờ đang tìm cách lập một địa chỉ ở đó để thoát khỏi sự thống trị của hệ thống.”
Giờ tôi đã hiểu tại sao chính phủ lại phải lao tâm đến thế để duy trì bí mật về liên kết của Juki Net đến mạng lưới các camera an ninh. Bởi, ngay cả khi biết có camera ở đó, việc tránh bị theo dõi qua video là rất khó khăn, nên nguy cơ vô tình đánh động cho bọn tội phạm chỉ là một vấn đề bên lề. Vấn đề thực sự là chính phủ sợ các cuộc biểu tình chắc chắn sẽ nổ ra nếu công chúng biết mục đích được công bố của hệ thống thực ra chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Nếu các camera an ninh được liên kết với Juki Net, người dân sẽ tự nhiên nghĩ rằng họ đang lâm vào một tình huống bị theo dõi nghiêm trọng.
“Anh không thể đổ lỗi cho người dân khi không tin tưởng chính phủ về việc này,” tôi nói. “Tôi đọc được ở đâu đó rằng, mùa hè năm ngoái, Bộ Quốc phòng bị phát hiện đang tạo ra một cơ sở dữ liệu về những người đã yêu cầu các tài liệu theo luật Tự do Thông tin mới, bao gồm cả thông tin về quan điểm chính trị của họ.”
Anh ta mỉm cười buồn bã. “Khi cái tin đó vỡ lở, có người đã cố gắng hủy chứng cứ.”
“Tôi đã đọc vụ đó. Không phải đảng Dân chủ Tự do đã cố gắng thu hồi một bản báo cáo dài bốn mươi trang về việc đã xảy ra sao?” Lần này nụ cười của anh ta gượng gạo. “Các quan chức Đảng Dân chủ Tự do có dính líu tới vụ che giấu sự thật đã bị trừng phạt, tất nhiên. Họ đã bị cắt lương.”
“Giờ thì đó là cách để ngăn những sự lạm quyền trong tương lai à,” tôi nói, cười lớn. “Nhất là khi anh biết họ đã được đút lót gấp đôi số tiền bị cắt.” Anh ta nhún vai. “Là một cảnh sát, tôi hoan nghênh Juki Net và mạng lưới camera như một công cụ chống tội phạm. Là một công dân, tôi thấy nó rất đáng sợ.”
“Vậy sao lại bắt tôi hứa giữ bí mật việc này? Nghe có vẻ rò rỉ một chút cũng chẳng là gì to tát.”
Anh ta nghiêng đầu qua một bên, như thể ngạc nhiên rằng sao suy nghĩ của tôi lại có thể thô thiển đến thế. “Nếu rò rỉ không đúng lúc,” anh ta nói, “thì cũng vô dụng như một khối thuốc nổ mạnh nhưng đặt sai chỗ.”
Anh ta có ý nói với tôi rằng anh ta đang toan tính điều gì đó. Anh ta cũng có ý yêu cầu tôi đừng hỏi.
“Vậy là anh đã sử dụng mạng lưới đó để tìm ra tôi,” tôi nói. “Đúng. Tôi giữ những tấm ảnh nhận dạng chụp anh tại Trụ sở Cảnh sát Thủ đô hồi anh bị bắt sau vụ việc bên ngoài căn cứ hải quân Yokosuka. Tôi đã đưa những tấm ảnh đó vào máy tính để hệ thống có thể tìm kiếm anh. Tôi chỉ thị cho các kĩ thuật viên tập trung ngay vào Osaka. Tuy nhiên, hệ thống cho ra quá nhiều lỗi khẳng định sai, vấn đề này mất khá nhiều thời gian và nhân lực để giải quyết. Tôi đã tìm anh trong gần một năm trời, Rain-san.” Từ những gì anh ta đang nói, tôi nhận ra rằng sự tiến bộ tàn nhẫn của công nghệ đang ép tôi phải trở lại lối sống nay đây mai đó như khoảng thời gian sau khi rời Việt Nam mà chưa trở lại Nhật, lúc tôi lang thang khắp thế giới mà không có căn cước, trôi dạt qua các cuộc chiến dùng lính đánh thuê. Không một niềm vui trong tâm trí. Tôi đã tự trừng phạt mình vì Jake Khùng và tôi không mong lặp lại trải nghiệm đó.
“Hệ thống không hoàn hảo,” anh ta nói tiếp. “Ví dụ như có rất nhiều lỗ hổng lớn trong việc thống kê, và, như tôi đã đề cập, quá nhiều lỗi khẳng định sai. Tuy nhiên, dần dần chúng tôi đã có thể nhận ra một số trùng lặp nhất định trong các hành động của anh. Chẳng hạn như tỉ lệ xuất hiện ở Miyakojima tương đối cao. Từ đó, kiểm tra các hồ sơ đăng kí thường trú mới tại văn phòng địa phương khá đơn giản, loại ra những đầu mối sai, và lật tẩy địa chỉ của anh. Cuối cùng, chúng tôi lần theo anh gần đến mức tôi có thể tới Osaka và đi theo anh tối nay.”
“Sao anh không tới thẳng căn hộ của tôi?”
Anh ta mỉm cười. “Nơi anh sống luôn là nơi anh dễ bị tấn công nhất vì nó là một điểm nghẹt* khả dĩ để mai phục. Và tôi không muốn gây bất ngờ cho một người như anh ở nơi anh cảm thấy dễ bị tấn công nhất. Tôi đoán rằng sẽ an toàn hơn nếu tiếp cận anh ở khu vực trung lập, nơi anh thậm chí có thể nhìn thấy tôi đi tới, đúng chứ?”
Tôi gật đầu, hiểu rõ quan điểm của anh ta. Nếu anh có khả năng là mục tiêu của một âm mưu bắt cóc hay ám sát, kẻ xấu chỉ có thể tìm đến anh tại nơi chúng biết anh sẽ có mặt. Có nghĩa là ngay bên ngoài nhà anh - nhiều khả năng nhất, hoặc nơi anh làm việc. Hoặc ở một điểm nào đó ở giữa hai nơi, nơi chúng có thể tự tin rằng anh sẽ xuất hiện - có thể là cây cầu duy nhất giữa nhà anh và văn phòng, hoặc nơi nào đó tương tự. Những điểm nghẹt đó là nơi anh cần phải nhạy cảm nhất với những dấu hiệu nguy hiểm.
“Sao?” Anh ta hỏi, khẽ nhướn mày lên. “Anh thấy tôi chứ?” Tôi nhún vai. “Có”
Anh ta lại mỉm cười. “Tôi biết anh sẽ thấy.”
“Hoặc anh có thể gọi điện.”
“Nếu thế, có thể anh sẽ lại biến mất sau khi nghe giọng nói của tôi.” “Đúng là vậy.”
“Tính đi tính lại, tôi nghĩ đây là cách tiếp cận tốt nhất.”
“Anh làm thế này,” tôi nói, “thì đã có vô số người dính vào. Người trong tổ chức của anh, có thể cả những người có liên hệ với CIA.” Đáng ra anh ta có thể nói gì đó để cho tôi biết rằng mọi nguy hiểm là lỗi của tôi, vì đã không liên lạc với anh ta như từng đề nghị. Nhưng đó không phải là phong cách của Tatsu. Anh ta có những mối quan tâm trong vấn để này, tôi cũng thế. Anh ta cho rằng đổ lỗi cho tôi vì đã biến mất chừng nào thì tôi cũng sẽ đổ lỗi cho anh ta vì đã lần ra tôi chừng ấy.
“Không hề nhắc đến tên anh,” anh ta nói. “Chỉ duy nhất một tấm ảnh. Và những kĩ thuật viên được giao nhiệm vụ kiểm tra các trường hợp trùng khớp mà hệ thống tìm ra không hề biết gì về nguồn gốc mối quan tâm của tôi. Đối với họ, anh chỉ là một trong số nhiều tên tội phạm mà Lực lượng Cảnh sát Thủ đô đang tìm kiếm. Và tôi đã làm nhiều việc khác để đảm bảo an toàn, chẳng hạn như đi một mình tối nay và không cho ai biết về các hành động của tôi.
Thừa nhận như vậy quả là một việc nguy hiểm với Tatsu. Nếu đúng như thế, tôi có thể giải quyết gần như mọi vấn đề chỉ bằng cách thanh toán duy nhất người này. Một lần nữa, anh ta cho tôi thấy rằng anh ta tin tưởng tôi và ngược lại tôi có thể tin tưởng anh ta.
“Anh đang khá mạo hiểm,” tôi nói, nhìn anh ta.
“Lúc nào chẳng thế,” anh ta nói, nhìn lại tôi.
Một khoảng yên lặng kéo dài. Rồi tôi nói, “Không phụ nữ. Không trẻ em. Phải là một người đàn ông.”
“Là như thế.”
“Anh không được cho bất cứ ai khác dính vào việc này. Anh làm việc với tôi, chỉ thế thôi.”
“Được.”
“Và mục tiêu phải là nhân vật chính. Không phải khử hắn chỉ để đánh động kẻ khác. Phải đạt được điều gì đó cụ thể.”
“Sẽ là như vậy.”
Sau khi đã lập rõ ba quy tắc, giờ là lúc cho anh ta biết về những hậu quả nếu phá vỡ chúng.
“Anh biết đấy, Tatsu, ngoài những lí do nghề nghiệp -có nghĩa là chiến đấu hoặc hợp đồng - chỉ có một thứ duy nhất từng đẩy tôi tới chỗ phải giết người.”
“Sự phản bội,” anh ta nói, để cho tôi thấy rằng anh ta hiểu rõ. “Đúng.”
“Sự phản bội không có trong bản chất của tôi.”
Tôi cười lớn, vì đây là lần đầu tiên tôi từng nghe thấy Tatsu nói một điều thật chất phác. “Nó có trong bản chất của tất cả mọi người,” tôi nói. Chúng tôi đã lập ra một hệ thống để bí mật liên lạc với nhau, có những mật mã đơn giản và quyền truy nhập vào một bảng tin điện tử bí mật mà tôi vẫn tiếp tục duy trì để dùng cho những liên lạc nhạy cảm. Tôi đã nói với anh ta rằng sau đó tôi sẽ liên lạc với anh ta, nhưng giờ tôi tự hỏi liệu việc đó có thực sự cần thiết không. Tatsu sẽ biết về tai nạn của tên yakuza từ các nguồn tin độc lập và biết rằng tôi đã hoàn thành phần việc của mình. Bên cạnh đó, càng ít liên hệ với Tatsu càng tốt. Chắc chắn rồi, chúng tôi có cả một quá khứ. Tôn trọng. Thậm chí cả yêu mến. Nhưng khó mà tin được rằng mối liên
kết giữa những lợi ích của chúng tôi sẽ tồn tại, và, cuối cùng, mối liên kết đó, hoặc sự không có nó, sẽ là tất cả những gì có ý nghĩa. Một ý nghĩ buồn, trong những phương diện nhất định. Không có nhiều người xuất hiện trong đời tôi, và, giờ đây khi mọi việc đã ổn, tôi nhận ra, ở một mức độ nào đó, tôi thấy thích thú lần chạm trán cuối cùng với người bạn và địch thủ cũ của tôi.
Buồn cũng vì nó buộc tôi phải thừa nhận một thứ mà tôi đã cố tránh né. Tôi sắp phải rời Nhật Bản. Tôi đã chuẩn bị sẵn cho một trường hợp tình cờ như thế, nhưng thật nặng nề khi biết được rằng thời điểm đó có thể đã gần kề. Nếu Tatsu biết nơi để tìm tôi, và tin rằng tôi đã trở lại cuộc chơi theo cái cách sẽ ngăn cản cuộc đời chiến đấu chống tham nhũng của anh ta ở Nhật, việc khiến tôi bị bắt là quá dễ dàng với anh ta. Ngược lại, nếu tôi đồng ý chơi bằng luật của anh ta, anh ta sẽ dễ dàng định kì lại tìm đến và nhờ “giúp đỡ”. Cả hai cách, anh ta đều nắm được tôi, và tôi đã từng sống cuộc sống đó rồi. Tôi không muốn nó lặp lại.
Máy nhắn tin của tôi kêu liên hồi. Tôi kiểm tra nó, thấy một dãy số năm chữ số cho tôi biết đó là Harry, rằng cậu ta muốn tôi gọi lại. Tôi ăn xong và ra hiệu cho người phục vụ để thanh toán. Tôi nhìn quanh nhà hàng một lần cuối. Bữa tiệc văn phòng đã tan. Những người Mỹ còn ở lại, những tiếng ồn trong trẻo từ cuộc trò chuyện của họ thật ấm áp và nhiệt tình. Đôi kia vẫn còn ở đó, tư thế của gã trai trẻ rất tha thiết, còn đứa con gái tiếp tục lảng tránh bằng những tiếng cười nhẹ.
Cảm giác thật tốt khi được trở lại Tokyo. Tôi không muốn rời đi. Tôi bước ra khỏi nhà hàng, dừng lại để thưởng thức cảm giác không khí buổi tối mát lành của Nishi-Azabu, cặp mắt tôi theo phản xạ quét qua đường phố. Một vài chiếc xe hơi phóng qua, nhưng ngoài chúng ra đường phố yên tĩnh như nghĩa địa Aoyama, trầm tư và tăm tối, đang âm thầm kêu gọi từ phía
đối diện nơi tôi đứng.
Tôi nhìn lại về phía những bậc đá và hình dung mình đang đi qua chúng. Rồi tôi quay sang trái và tiếp tục hình bán nguyệt ngược chiều kim đồng hồ mà tôi đã bắt đầu trước đó.
3
TÔI GỌI HARRY từ một trạm điện thoại công cộng trên phố Aoyama. “Đường dây an toàn chứ?” Cậu ta hỏi, nhận ra giọng nói của tôi. “An toàn vừa phải. Điện thoại công cộng. Địa điểm hẻo lánh.” Địa điểm cũng là một vấn đề, bởi chính quyền giám sát một số máy điện thoại công cộng nhất định - ví dụ như những máy đặt gần các đại sứ quán và sở cảnh sát, và những máy nằm trong hành lang của các khách sạn cao cấp, nơi một kẻ lười biếng gần đó có thể thường xuyên lui tới để thực hiện những cuộc trò chuyện “riêng tư”.
“Anh vẫn ở Tokyo,” cậu ta nói. “Gọi từ một trạm điện thoại công cộng ở Minami - Aoyama.”
“Sao cậu biết?”
“Tôi đã cài đặt để nhìn thấy được số điện thoại và địa điểm gốc của những cuộc gọi đến căn hộ của tôi. Đó là cách mà 911 sử dụng ở Mỹ. Anh không chặn được đâu.”
Harry, tôi nghĩ, và mỉm cười. Mặc cho bộ quần áo siêu mọt sách và mái tóc rối bù thường trực, mặc cho bản chất là một thằng nhóc quá khổ mà với nó hack đơn thuần là một trò video game, chỉ là phức tạp hơn thế mà thôi, Harry có thể rất nguy hiểm. Cái ân huệ tình cờ mà tôi ban cho cậu ta từ nhiều năm trước, khi tôi cứu cậu ta khỏi một đám lính thủy đánh bộ say khướt đang kiếm một nạn nhân Nhật Bản vừa tay, đã sinh một món hời.
Và ngoài ra, mặc cho những nỗ lực dạy dỗ của tôi, cậu ta vẫn có thể ngây
thơ một cách đáng kinh ngạc. Tôi sẽ không bao giờ cho ai biết những thứ cậu ta vừa nói với tôi. Anh không thể cho đi một món hời như thế. “NSA lẽ ra không bao giờ được để cậu ra đi, Harry.” Tôi nói. “Cậu là cơn ác mộng kinh hoàng nhất của vấn đề bảo mật.
Cậu ta cười lớn, nhưng có một thoáng do dự. Harry hơi chậm hiểu mỗi khi bị tôi trêu chọc. “Mất mát của họ đấy,” cậu ta nói. “Dù sao thì họ có quá nhiều quy tắc. Làm việc cho một công ty tư vấn của ngũ cường* thì vui hơn nhiều. Họ có quá nhiều vấn đề khác, họ thậm chí còn không thèm giám sát tôi đang làm gì nữa.”
Họ thông minh đấy chứ. Đằng nào họ cũng đâu thể theo kịp được cậu ta. “Chuyện gì thế?” Tôi hỏi.
“Không có gì. Chỉ muốn tìm anh trong khi tôi có thể. Tôi cảm giác rằng, nếu việc ở đây xong rồi, anh nên rời đi sớm.”
“Tôi đoán cậu đúng.”
“Đã... xong rồi?”
Harry từ lâu đã đoán ra việc tôi làm, mặc dù cậu ta cũng hiểu rằng hỏi thẳng là cấm kị. Và cậu ta hẳn cũng biết ý nghĩa của việc đó khi liên lạc với tôi lúc đầu giờ tối, về yêu cầu đặc biệt của tôi là địa điểm và thời gian chính xác tôi có thể tìm được tên yakuza.
“Xong rồi.” Tôi bảo cậu ta.
“Tức là anh sẽ không còn ở đây lâu?”
Tôi mỉm cười, cảm động vô lí vì cái giọng rụt rè của cậu ta. “Không lâu nữa đâu, không. Tôi đang định gọi cho cậu trước khi đi.”
“Vậy hả?”
“Ừ.” Tôi nhìn đồng hồ đeo tay. “Thực ra, giờ cậu đang làm gì?”
“Thực ra là đang ra khỏi giường.”
“Lạy Chúa, Harry, mười giờ tối rồi.”
“Gần đây tôi phải thay đổi giờ giấc một chút.”
“Tôi tin. Tôi nghĩ thế này, sao chúng ta không đi uống nhỉ. Mà có thể là bữa sáng cho cậu đấy.”
“Anh định đi đâu?”
“Chờ máy nhé.” Tôi rút lấy cuốn Danh bạ Tokyo từ dưới điện thoại, và lật qua khu vực nhà hàng cho đến khi tìm ra địa điểm tôi cần. Sau đó tôi đếm thêm năm mục nữa, như quy ước thông thường của chúng tôi, còn Harry sẽ đếm lùi lại năm mục từ chỗ tôi nói với cậu ta. Không phải là có người đang nghe lén - tôi không thể tưởng tượng ra ai có thể nghe lén, nếu không phải chính Harry muốn cho hắn nghe - nhưng anh không được mạo hiểm. Tôi đã dạy cậu ta luôn phòng thủ nhiều lớp. Dạy cậu ta không bao giờ giả định.
“Tip-Top ở Takamatsu thì thế nào?” Tôi hỏi.
“Chắc chắn rồi,” cậu ta nói, và tôi biết cậu ta đã hiểu. “Một nơi tuyệt vời”.
“Gặp cậu ở đó.” Tôi bảo cậu ta.
Tôi gác máy, rồi rút trong túi quần ra một chiếc khăn tay và lau sạch ống nghe cùng nút bấm. Những thói quen cũ khó mà mất đi.
Địa điểm tôi sẽ tới là These Library Lounge, người địa phương đọc là “Teize”, một quán bar nhỏ mang cảm giác như một quán rượu lậu nép mình trên tầng hai của một tòa nhà không có gì nổi bật ở Nishi-Azabu. Mặc dù nằm ở trung tâm địa lí và tinh thần của thành phố, Teize bị bao phủ bởi cảm giác tách biệt mơ hồ, như thể quán bar là một hòn đảo âm thầm thỏa mãn khi thấy mình lạc giữa đại dương rộng lớn là Tokyo xung quanh. Teize có kiểu
không khí nhanh chóng khiến cuộc nói chuyện biến thành những lời thì thầm và sự mệt mỏi biến thành nhàn tản, bóc đi những lo lắng thoáng qua trong ngày cho đến lúc anh thấy mình đang lắng nghe một bản nhạc buồn của Johny Hodges như Chỉ là một kỉ niệm như nghe lần đầu tiên, không có ý nghĩ rằng đó là thứ gì đó anh đã biết từ trước; hoặc nhấp một ngụm nước mặn và iốt của một trong những loại mạch nha* đảo Islay và nhận ra rằng đây, chính xác là đây, là hương vị mà vì nó người cất rượu đã phải thầm cầu nguyện khi kí thác thứ chất lỏng màu hổ phách cho một thùng gỗ sồi từ ba mươi năm trước; hoặc liếc qua một nhóm phụ nữ ăn mặc thanh lịch ngồi ở một góc sáng yên tĩnh của quán bar, gương mặt họ ngời sáng, vẫn chưa có nếp nhăn, âm sắc ngây thơ của tiếng cười và nhịp điệu vô tư trong cuộc nói chuyện của họ thể hiện cái niềm tin rằng những chốn nương náu thế này tồn tại như lẽ tự nhiên, và người ta sẽ nhớ lại không chút chua cay cái cảm giác khi nghĩ rằng có lẽ mình là một phần của một thế giới như thế.
Tôi mất chưa đến mười phút để đi bộ tới quán bar. Tôi dừng lại phía ngoài, trước cầu thang ngoài trời dẫn lên tầng hai, và như vẫn luôn làm trước khi bước vào một tòa nhà, tôi tưởng tượng ra nơi mình có thể đợi nếu muốn phục người nào đó đi ra. Mặt ngoài của Teize có hai vị trí hứa hẹn, mà một trong số đó là lối vào của một tòa nhà liền kề. Tôi rất thích vì nó nằm phía sau cửa vào quán bar và anh sẽ không thấy được người đang nấp ở đó cho tới khi bước xuống tận chân cầu thang, khi đó chắc đã quá muộn. Trừ khi, đương nhiên rồi, trước khi bước xuống, anh chịu khó vươn người ra ban công phía trước quán bar mà ngắm cái quang cảnh đường phố yên tĩnh bên dưới, như tôi vừa nhắc bản thân phải làm.
Hài lòng với tình trạng an ninh phía ngoài, tôi leo cầu thang lên tầng hai và bước vào. Đã lâu rồi tôi không tới đây, nhưng ơn Chúa, những người chủ
vẫn chưa thấy đáng phải thay đổi thứ gì. Ánh sáng vẫn mềm mại, chủ yếu là các giá đèn trên tường, đèn sàn và nến. Một chiếc bàn gỗ ban đầu vốn là một cánh cửa trước khi được nâng cấp lên mục đích cao hơn hẳn hiện nay. Những tấm thảm Ba Tư tiêu âm và những tấm mành tối, nặng. Quầy bar bằng đá cẩm thạch trắng, tự tin nhưng không nổi trội ở giữa gian chính, tỏa sáng lặng lẽ dưới một dàn đèn di động trên đầu. Sách có ở khắp mọi nơi: phần lớn là các tác phẩm về thiết kế, kiến trúc, và nghệ thuật, nhưng cũng có những lựa chọn có vẻ bất thường như Cuộc phiêu lưu của hai con búp bê Hà Lan và Chú Santa.
“Nanmeisama?”, người pha rượu hỏi tôi. Mấy người? Tôi giơ hai ngón tay. Anh ta nhìn quanh gian phòng, xác nhận điều mà tôi đã nhận thấy từ trước, là không còn bàn nào trống.
“Không sao,” tôi nói với anh ta bằng tiếng Nhật. “Chắc bọn tôi ngồi ở quầy thôi.” Ngoài vài lợi thế khác, ngồi ở đó sẽ có một góc nhìn chiến lược ra phía cửa.
Một giờ sau Harry đến, lúc tôi bắt đầu uống cốc whisky thứ hai trong buổi tối, một cốc Lagavulin mười sáu năm tuổi. Cậu ta nhìn thấy tôi lúc bước vào, và mỉm cười.
“John-san, hisashiburi desu ne,” cậu ta nói. Đã lâu rồi. Sau đó cậu ta chuyển qua tiếng Anh, chúng tôi sẽ được riêng tư hơn chút ít trong môi trường này “Gặp được anh tốt quá.”
Tôi đứng lên và chúng tôi bắt tay Mặc dù tình huống này chẳng trang trọng gì, tôi vẫn tặng cậu ta một cái cúi chào nhẹ. Tôi luôn luôn thích sự tôn trọng của một cái cúi chào và sự ấm áp của một cái bắt tay, và Harry đáng được hưởng cả hai.
“Ngồi đi,” tôi nói, di chuyển về chiếc ghế bên trái. “Mong cậu bỏ qua vì
đã bắt đầu mà không có cậu.”
“Nếu anh bỏ qua việc tôi không uống cùng anh mà lại gọi ít đồ ăn.” “Cứ thoải mái,” tôi nói. “Dù sao thì, Scotch cũng là đồ uống của người lớn.”
Cậu ta mỉm cười, biết tôi đang giễu, và gọi một đĩa salad rau với đậu phụ và phô mai Mozzarella và một cốc nước cam nguyên chất. Harry chưa bao giờ là bợm rượu.
“Cậu làm LPT* tốt chứ?” Tôi hỏi cậu ta trong khi chờ thức ăn được mang ra. LPT, hay Lộ trình Phát hiện Theo dõi, là một lộ trình được sắp đặt để dụ kẻ bám theo hay những kẻ bám theo ra khoảng trống nơi ta có thể nhìn thấy chúng. Tôi dạy Harry vấn đề này và cậu ta chứng tỏ mình là một học sinh có khả năng.
“Lần nào anh cũng hỏi tôi câu đó,” cậu ta trả lời với giọng hơi cáu, như một cậu thiếu niên phản ứng lại cha mẹ. “Và lần nào tôi cũng trả lời anh một câu giống nhau.”
“Vậy cậu đã làm tốt.”
Cậu ta giương mắt lên. “Đương nhiên.”
“Và cậu không bị theo đuôi chứ?”
Cậu ta nhìn tôi. “Tôi sẽ không có mặt ở đây nếu bị đeo bám. Anh biết điều đó.”
Tôi vỗ lưng cậu ta. “Không thể không hỏi. Cảm ơn lần nữa vì việc cậu làm với cái di động của tên yakuza.Dẫn tôi thẳng tới chỗ hắn.” Cậu ta tươi cười. “Này, tôi có cái này cho anh,” cậu ta nói. “Thế hả?” Harry gật đầu và đưa tay vào túi áo jacket. Cậu ta lần mò một giây, rồi lấy ra một vật bằng kim loại với kích thước cỡ một tá thẻ tín dụng xếp chồng.
“Kiểm tra thử đi,” cậu ta nói.
Tôi cầm lấy nó. Khá nặng so với kích thước. Nhất định phải có rất nhiều vi mạch bên trong. “Đúng là thứ mà tôi luôn muốn có,” tôi nói. “Một cái chặn giấy bằng bạc giả.”
Cậu ta cử động như muốn lấy vật đó lại. “Chà, nếu anh không thấy cảm kích...”
“Không, không, tôi cảm kích chứ. Tôi chỉ không biết nó là cái quỷ gì.” Thực ra tôi có một ý tưởng rõ ràng, nhưng tôi muốn bị đánh giá thấp hơn. Mặt khác, tôi không muốn chối từ Harry cái niềm vui được dạy dỗ tôi.
“Nó là một thiết bị dò sóng máy nghe trộm và máy quay,” cậu ta nói, nói từng từ thật chậm như thể sợ tôi không hiểu nổi. “Nếu anh vào trong tầm phát của tần số radio hoặc tia hồng ngoại, nó sẽ báo cho anh biết.” “Bằng một giọng nữ quyến rũ, tôi hi vọng thế?”
Cậu ta cười lớn. “Nếu có người đang cố ghi lại anh, có lẽ anh không muốn họ biết là anh biết. Nên không có giọng quyến rũ nào hết. Chỉ có chế độ rung. Đứt quãng cho ghi hình, liên tục cho ghi âm. Luân phiên nhau cho cả hai. Và chỉ trong từng loạt mười giây, để duy trì pin.”
“Nó hoạt động như thế nào?”
Cậu cười rạng rỡ. “Vi mạch tầm xa phát hiện các thiết bị phát sóng hoạt động trên tần số từ năm mươi megahertz tới ba gigahertz. Và nó có một ăng ten bên trong thu được tần số dao động ngang phát ra từ các máy quay. Tôi đã tối ưu hóa nó cho chuẩn PAL, là thứ mà anh dễ gặp phải nhất, nhưng tôi có thể thay đổi sang NTSC hay SECAM nếu anh muốn. Khả năng thu không nhiều vì nó quá bé, vì thế anh không thể biết được máy nghe trộm hoặc camera ở đâu, chỉ biết là có thôi. Và những máy quay đóng mạch an ninh lớn mà thỉnh thoảng anh thấy ở ga tàu và công viên thường nằm ngoài phạm vi
thu.”
Không thu được sóng của các máy quay CCTV*. Quá tệ. Nếu tôi có một phương tiện đáng tin cậy, di động được để phát hiện những thứ đó, tôi sẽ đạt được một chiến tích trong việc giành lại quyền riêng tư từ tay Tatsu và từ bất cứ ai khác.
“Cậu có cách nào làm cho khả năng thu tốt hơn một chút không?” Tôi hỏi.
Cậu ta trông có vẻ hơi bị tổn thương, và tôi nhận ra đáng lẽ nên ca tụng cậu ta trước khi hỏi điều đó. “Không phải với một thứ nhỏ như thế này,” cậu ta nói. “Anh cần thứ gì đó có ăng-ten lớn hơn nhiều.”
Ô được thôi. Dù có hạn chế như thế, thiết bị này cũng rất hữu ích. Tôi ước lượng cân nặng của nó trong tay. Dĩ nhiên là tôi đã quen với những sản phẩm thương mại có chức năng tương tự, nhưng tôi chưa thấy cái nào nhỏ như thế này. Đây là một tác phẩm ấn tượng.
“Pin sạc được chứ?” Tôi hỏi.
“Tất nhiên. Lithium-ion. Giống như một chiếc điện thoại di động.” Cậu ta thò tay vào túi áo jacket và lôi ra một thứ nhìn như bộ sạc điện thoại thông thường. “Tôi đã chạy hết pin để thử nghiệm, nên về nhà anh phải sạc lại. Và đừng quên sạc hằng ngày. Không có hiển thị pin yếu hay bất cứ cái gì khác đại loại thế. Tôi làm ra thứ này vì tốc độ sạc, không phải hình thức.”
Tôi cầm lấy bộ sạc và đặt nó lên bàn bên cạnh. Rồi tôi rút ví ra và ấn cái máy vào. Nó vừa khít, gọn gàng. Đương nhiên tôi sẽ kiểm tra lại nó ở khách sạn, để bảo đảm nó là một máy phát hiện nghe lén chứ không phải một loại máy nghe lén. Không phải là tôi không tin Harry. Tôi chỉ muốn chiều theo những quy tắc của mình.
Tôi nhét ví trở lại túi quần và gật đầu tán thưởng. “Giỏi lắm,” tôi nói.
“Cảm ơn cậu.”
Cậu ta mỉm cười. “Tôi biết anh là một kẻ hoang tưởng chuyên nghiệp, nên tôi đoán hoặc là thứ này hoặc là một nguồn cung cấp thuốc Valium* suốt đời.”
Tôi cười lớn. “Giờ thì, nói tôi nghe, giờ giấc của ma cà rồng là thế nào vậy?”
“Ôi, anh biết đấy,” cậu ta nói, nhìn đi chỗ khác, “chỉ là phong cách thôi.” Phong cách? Từ tất cả những gì tôi biết, Harry không có phong cách sống. Trong trí tưởng tượng của tôi, cậu ta luôn luôn chui rúc trong căn hộ của mình, luồn lách vào những mạng lưới xa xôi, tạo những cổng hậu để khai thác về sau, sắp xếp thế giới qua bức tường an toàn là màn hình máy tính. Tôi để ý thấy cậu ta đỏ mặt. Lạy Chúa, đứa trẻ này thật trong sáng. “Harry, cậu đang định nói với tôi là cậu có bạn gái hả? Tôi hỏi. Sắc đỏ đậm hơn, và tôi cười. “Chết tiệt thật,” tôi nói.“Tốt cho cậu.” Cậu ta nhìn tôi, kiểm tra xem có phải tôi đang định chế giễu cậu ta không. “Cô ấy không hẳn là bạn gái tôi.”
“Ừm, đừng bao giờ quan tâm đến việc phân loại. Sao cậu gặp được cô ta?”
Công việc.
Tôi cầm cốc lên. “Cậu sẽ kể rõ chi tiết ra, hay tôi phải ép cậu uống hai hay ba cốc này để làm lưỡi cậu mềm ra nào?”
Cậu ta tỏ vẻ hờ hững cường điệu. “Một trong những khách hàng của công ty, một trong những hãng kinh doanh, hài lòng với mấy công việc bảo mật mà tôi làm cho họ.”
“Chắc họ không biết về các cổng hậu* mà cậu để lại cho mình trong quá
trình làm việc đâu nhỉ.”
Cậu ta mỉm cười. “Họ không bao giờ biết.”
“Vậy là khách hàng hài lòng...”
“Và sếp tôi đưa tôi ra ngoài để ăn mừng, đến một câu lạc bộ chiêu đãi.” Đa số người phương Tây phải mất khá lâu để nắm bắt được khái niệm về “câu lạc bộ chiêu đãi” của người Nhật, nơi phụ nữ được trả tiền chỉ để trò chuyện. Phương Tây chấp nhận cái quan niệm rằng tình dục có thể được biến thành hàng hóa, nhưng lại phản đối ý tưởng rằng các hình thức giao tiếp khác của con người cũng có thể là đối tượng mua bán. Các nữ tiếp viên không phải là gái mại dâm, mặc dù giống như các geisha, họ cũng có thể bắt đầu một mối quan hệ sau giờ làm với một người khách thích hợp, sau một thời gian tìm hiểu thích hợp. Hơn nữa, khách quen ở những cơ sở như thế trả tiền cho niêm vui đơn giản là được bầu bạn với các cô gái, cho cái tài làm mềm đi những góc cạnh thô nhám trong các cuộc gặp gỡ công việc, cũng như cho cái hi vọng rằng, thứ gì đó hơn thế sẽ nảy nở. Nếu như thứ mà khách hàng của các nữ tiếp viên theo đuổi chỉ đơn giản là tình dục, họ có thể mua nó rẻ hơn nhiều ở nơi khác.
Câu lạc bộ nào? Tôi hỏi cậu ta.
“Một chỗ tên là Hoa hồng Damask.”
“Chưa nghe bao giờ.”
“Họ không quảng cáo.”
“Nghe cao cấp đấy.”
“Đúng vậy. Thực ra, đó là một nơi khá tinh tế. Ở Nogizaka, trên phố Gaienhigashi. Có lẽ họ sẽ không cho anh vào đâu.”
Tôi cười. Tôi thích mỗi khi Harry kẻ cả một chút. “Ok, vậy là sếp cậu đưa
cậu đến Hoa hồng Damask...”
“Vâng, và ông ta uống rất nhiều rồi nói với mọi người tôi là một thiên tài máy tính. Một nữ tiếp viên hỏi tôi vài câu về cách thiết lập tường lửa vì cô ấy vừa mua máy tính mới.”
“Đẹp chứ?”
Sắc đỏ lại xuất hiện. “Có lẽ thế. Máy tính của cô ấy là một chiếc Macintosh, nên tôi thích cô ấy ngay lập tức.”
Tôi nhướn mày. “Tôi không biết những thứ như thế lại có thể hình thành nên nền tảng của tình yêu từ cái nhìn đầu tiên đấy.”
“Thế nên tôi trả lời vài câu hỏi của cô ấy,” cậu ta nói, phớt lờ tôi. “Cuối buổi tối, cô ấy hỏi liệu tôi có thể cho số điện thoại không, phòng trường hợp cô ấy cần hỏi thêm.”
Tôi cười. “Tạ ơn Chúa vì cô ta không cho cậu số. Cô ta có thể sẽ chết già vì đợi cậu gọi điện.”
Cậu ta mỉm cười, biết điều này có lẽ là đúng.
“Vậy là cô ta gọi cho cậu...,” tôi nói.
“Và cuối cùng tôi phải qua nhà cô ấy để chỉnh toàn bộ hệ thống.” “Harry, cậu ‘chỉnh toàn bộ hệ thống của cô ta’?” Tôi hỏi, hai mắt mở to nhạo báng.
Cậu ta nhìn xuống, nhưng tôi thấy nụ cười mỉm. “Anh biết ý tôi là gì.” “Cậu sẽ không... xâm nhập hệ thống bảo mật của cô ta đấy chứ?” Tôi hỏi, không thể cưỡng lại được.
“Không, tôi sẽ không làm thế với cô ấy. Cô ấy rất tốt.”
Lạy Chúa, cậu ta đang quá si mê đến mức không thể nhận ra câu đùa bóng gió lộ liễu đó. “Chết tiệt thật,” tôi lặp lại. “Tôi mừng cho cậu, Harry.”
Cậu ta nhìn tôi, thấy biểu hiện của tôi là thành thật. “Cảm ơn,” cậu ta nói. Tôi nâng cốc lên mũi, hít một hơi sâu, giữ nó lại một khoảnh khắc, rồi thở ra. “Vậy là cô ta làm giờ giấc của cậu lung tung lên hả?” Tôi hỏi. “Ừ thì, câu lạc bộ mở cửa đến ba giờ sáng và cô ấy làm việc hằng ngày. Vì thế, lúc cô ấy về đến nhà...”
“Tôi hình dung ra rồi,” tôi nói, dù thực ra hơi khó tưởng tượng Harry cùng với thứ gì đó mà không có cáp Ethernet và chuột. Cậu ta là kẻ sống nội tâm, một gã trai kém phát triển về mặt xã hội, không có mối liên hệ gần gũi nào ngoài công việc hằng ngày và tôi. Những điều đó luôn khiến cậu ta hữu dụng.
Tôi cố vẽ ra cảnh cậu ta bên cạnh một nữ tiếp viên cao cấp, và không thể hình dung nổi. Cứ thấy thế nào.
Đừng mỉa mai vậy, tôi nghĩ. Đừng ghen tị với Harry chỉ vì ngươi không thể có ai đó trong đời.
“Tên cô ta là gì?” Tôi hỏi.
Cậu ta mỉm cười. “Yukiko.”
“Yukiko” nghĩa là “Tuyết Tử”. “Tên đẹp,” tôi nói.
Cậu ta gật đầu, thần sắc hơi mơ màng. “Tôi thích nó.”
“Cô ta biết được chừng nào về cậu?” Tôi hỏi, nhấp một ngụm Lagavulin. “Ờ thì, cô ấy biết về công việc tư vấn, đương nhiên. Nhưng không biết về... các sở thích.”
Về khuynh hướng cực đoan với việc đột nhập của cậu ta, ý cậu ta là thế. Một sở thích có thể đưa cậu ta vào tù nếu các cơ quan chức năng đánh hơi thấy nó. Và xuống lòng đất, nếu là ai đó khác đánh hơi thấy. “Khó mà giữ bí mật những việc như thế được,” tôi phát biểu, dò thử.
“Tôi không thấy lí do gì khiến điều đó xảy ra được,” cậu ta nói, nhìn tôi. Một cô phục vụ bàn xuất hiện từ sau tấm màn và đặt đồ ăn Harry đã gọi lên quầy trước mặt cậu. Cậu cảm ơn cô ta, thể hiện một lòng cảm kích sâu sắc dành cho tầng lớp mới mẻ tuyệt vời này, những người phụ nữ làm việc trong nhà hàng và quán bar, và tôi mỉm cười.
Tôi nhận ra ở một mức độ nào đó rằng nếu Harry định bắt đầu cuộc sống giống một thường dân hơn, cậu ta sẽ ít hữu dụng đi, thậm chí còn nguy hiểm, đối với tôi. Việc cậu ta đang dần lộ diện nhiều hơn với thế giới bên ngoài có thể cung cấp cho kẻ thù một cánh cửa sổ mở ngược vào sự tồn tại bí mật của tôi. Dĩ nhiên, nếu ai đó liên hệ Harry với tôi, họ có thể cũng sẽ lần theo cậu ta. Và mặc cho những gì tôi cố dạy cậu ta qua bao nhiêu năm, tôi biết rằng, khi ra ngoài, Harry không có các phương pháp để tự bảo vệ mình.
“Cô ta có phải bạn gái đầu tiên của cậu không?” Tôi hỏi, giọng nhẹ nhàng.
“Tôi bảo anh rồi, cô ấy không thực sự là bạn gái tôi,” cậu ta trả lời, né tránh câu hỏi.
“Nếu cô ta đang chiếm được đủ sự chú ý của cậu để giữ cậu trên giường cho tới tận lúc mặt trời lặn, tôi có thể dùng từ đó cho ngắn gọn.” Cậu ta nhìn tôi, bị dồn vào góc.
“Có phải không?” Tôi hỏi lại.
Cậu ta nhìn đi chỗ khác. “Chắc thế.”
Tôi không có ý làm cậu ta bối rối. “Harry, tôi chỉ hỏi vì khi cậu còn trẻ, đôi lúc cậu nghĩ cậu có thể đi cả hai đường. Nếu cậu chỉ muốn vui vẻ, cậu không cần phải nói cho cô ta bất cứ điều gì. Cậu không được nói cho cô ta bất cứ điều gì. Nhưng nếu mối liên kết trở nên sâu sắc hơn, cậu sẽ cần phải
suy nghĩ thật kĩ. Về việc cậu muốn gần gũi với cô ta đến mức nào, về việc các sở thích của cậu quan trọng như thế nào. Vì cậu không thể sống với một chân ngoài sáng và chân kia trong tối. Tin tôi về việc này đi. Nó không thể thực hiện được. Không dài lâu đâu.”
“Anh không cần phải lo,” cậu ta nói. “Tôi không ngốc, anh biết mà.” “Bất cứ ai đang yêu cũng ngu ngốc hết,” tôi bảo cậu ta. “Đó là một phần của hoàn cảnh.”
Tôi thấy cậu ta lại đỏ mặt, với cách tôi dùng từ và điều giả định đằng sau nó. Nhưng tôi không quan tâm tới việc cậu ta liên hệ tới những cảm xúc mới mẻ đó trong tâm trí cậu ta. Tôi biết sẽ như thế nào khi sống ngăn cách, bị cô lập, rồi bất ngờ đến không tin nổi, khi có được cô gái xinh đẹp hằng mong ước đáp trả cảm xúc. Điều đó thay đổi các ưu tiên của anh. Chết tiệt, nó thay đổi cả các giá trị khốn kiếp của anh.
Tôi mỉm cười cay đắng, nghĩ đến Midori.
Rồi, như thể đang đọc tâm trí tôi, cậu ta nói: “Có một điều tôi đã định nói với anh. Nhưng tôi muốn nói trực tiếp.”
“Nghe có vẻ nghiêm trọng.”
“Vài tháng trước tôi nhận được một lá thư. Từ Midori.”
Tôi uống hết cốc Lagavulin trước khi trả lời. Nếu lá thư đến từ cách đây lâu như thế, thì mất thêm vài giây để tôi hình dung ra tôi muốn phản ứng như thế nào cũng chẳng khác gì.
“Cô ấy biết phải tìm cậu ở đâu...,” tôi bắt đầu, mặc dù tôi đã đoán ra rồi. Cậu ta nhún vai. “Cô ấy biết vì chúng ta đã đưa cô ấy đến căn hộ của tôi để xử lí khía cạnh âm nhạc của bản mã hóa lưới đó.”
Tôi để ý rằng, ngay cả bây giờ, Harry vẫn cảm thấy miễn cưỡng khi phải
làm nổi bật vai trò chính xác của Midori trong vụ đó trong lúc chứng tỏ rằng cậu ta hoàn toàn đủ khả năng giải quyết chính bản mã hóa. Cậu ta rất nhạy cảm về những chuyện đó. “Đúng vậy,” tôi nói.
“Cô ấy không biết họ của tôi. Phong bì chỉ ghi gửi Haruyoshi. Tạ ơn Chúa, nếu không tôi sẽ phải chuyển nhà, và việc đó sẽ phiền phức đến thế nào chứ.”
Harry, cũng giống bất kì ai khác coi trọng sự riêng tư, phải rất khó khăn để đảm bảo rằng không có một mối liên hệ nào ở bất cứ đâu - trên hóa đơn sinh hoạt, trên hợp đồng truyền hình cáp, cả trên giấy tờ thuê nhà - giữa tên cậu ta và nơi cậu ta sống. Kiểu li khai này yêu cầu nhiều công sức, bao gồm cả việc thành lập các doanh nghiệp hợp doanh có thể hủy bỏ, các công ty trách nhiệm hữu hạn, và các thực thể hợp pháp giả hiệu khác, tất cả có thể bị thổi bay trong vòng một giây nếu một bà dì Keiko nào đó của anh tới thăm anh tại nhà, ghi lại địa chỉ của anh rồi quyết định gửi cho anh, chẳng hạn, hoa để cảm ơn. Cửa hàng hoa đưa tên và địa chỉ của anh vào cơ sở dữ liệu, để rồi sau đó bán nó cho các hãng marketing, rồi đến lượt những hãng này bán nó cho đủ loại người, và ai cũng có thể biết được nơi cư trú thật sự của anh, chỉ cần các kĩ năng đột nhập hoặc mánh khóe xã hội thô sơ. Cách duy nhất để lấy lại sự riêng tư là chuyển nhà và lặp lại bài tập.
Nếu thứ được gửi cho anh chỉ là một lá thư bình thường, dĩ nhiên, người duy nhất có thể đặt ra mối liên hệ là người đưa thư. Tùy thuộc vào từng cá nhân mà quyết định liệu việc đó có phải một nguy cơ chấp nhận được hay không. Đối với tôi, thì là không. Có lẽ đối với Harry cũng không. Nhưng nếu chỉ có tên cậu ta xuất hiện trên phong bì, cậu ta sẽ ổn thôi.
“Lá thư gửi từ đâu?” Tôi hỏi hắn.
“New York. Cô ấy đang sống ở đó, tôi đoán thế.”
New York. Nơi Tatsu gửi nàng đến, sau khi nói rằng tôi đã chết, để bảo vệ Midori khỏi bị nghi ngờ rằng nàng có thể vẫn giữ chiếc đĩa máy tính mà cha nàng trộm từ tay Yamaoto, chiếc đĩa chứa bằng chứng về mạng lưới tham nhũng rộng lớn của Nhật Bản đủ để hạ bệ cả chính phủ. Động thái đó nàng có thể hiểu được, tôi tin thế. Sự nghiệp của nàng ở Mỹ đang khởi sắc. Tôi biết vì tôi có theo dõi.
Harry đưa tay vào túi quần sau và rút ra một tờ giấy được gập lại. “Đây,” cậu ta nói, đưa nó cho tôi.
Tôi đón lấy nó và ngập ngừng một giây trước khi mở ra, không quan tâm cậu ta sẽ nghĩ gì về sự do dự của tôi. Khi tôi nhìn lá thư, tôi thấy nó được viết bằng tiếng Nhật với lối chữ thảo duyên dáng, tự tin, có lẽ là sự thừa hưởng của những bài học thư pháp thời con gái, và một hình ảnh phản chiếu nhân cách phía sau ngòi bút.
Haruyoshi-san,
Ở New York trời vẫn lạnh, và tôi đang đếm từng ngày chờ đến mùa xuân. Tôi tưởng tượng rằng sớm thôi, hoa anh đào sẽ nở rộ ở Tokyo và chắc sẽ rất đẹp.
Tôi tin cậu cũng đã nghe tin buồn rằng người bạn chung của chúng ta, Fujiwara-san đã qua đời. Tôi được giải thích rằng thi hài của Fujiwara-san đã được đưa trở vẻ Mỹ để an táng. Tôi hi vọng được thăm mộ để thể hiện tấm lòng với linh hồn anh ấy, nhưng, thật đáng tiếc, tôi không thể tìm ra nơi anh ấy yên nghỉ. Nếu cậu có bất cứ thông tin gì có thể giúp ích cho tôi trong việc này, tôi sẽ thành thật biết ơn sự giúp đỡ của cậu. Cậu có thể liên hệ với tôi theo địa chỉ phía trên.
Tôi khiêm nhường cầu chúc cho cậu được khỏe mạnh và thịnh vượng.
Cảm ơn vì sự lo lắng của cậu.
Bạn của cậu,
Kawamura Midori
Tôi đọc lại nó một lần nữa, chậm rãi, rồi đọc lần thứ ba. Sau đó tôi gập trở lại và đưa cho Harry.
“Không, không,” cậu ta nói, hai tay đưa lên, lòng bàn tay đẩy tới trước. “Anh cầm đi.”
Tôi không muốn cậu ta thấy được rằng tôi muốn giữ nó. Nhưng tôi gật đầu và nhét nó vào túi trong chiếc áo khoác đang mặc.
Tôi ra dấu cho người pha rượu rằng đã đến lúc thêm một cốc Lagavulin nữa. “Cậu có trả lời thư không?” Tôi hỏi.
“Có. Tôi viết thư trả lời, và nói với cô ấy rằng tôi đã nghe được chính xác những gì cô ấy biết, rằng tôi không có bất cứ thông tin gì khác.” “Sau đó cậu có nhận được thông tin gì từ cô ấy không?”
“Chỉ là một lời cảm ơn. Cô ấy nhờ tôi cho cô ấy biết nếu tôi nghe ngóng được bất cứ điều gì, và nói cô ấy cũng sẽ làm như vậy.”
“Thế thôi?”
“Vâng.”
Tôi tự hỏi không biết Midori có tin câu chuyện không. Nếu nàng không cảm ơn Harry vì bức thư hồi âm của cậu ta thì tôi có thể biết là nàng không tin, bởi nàng lịch thiệp và việc không trả lời thư không giống với cách xử sự của nàng. Nhưng lời cảm ơn có thể chỉ là tự động, được gửi đi ngay cả khi mối nghi ngờ vẫn tiếp diễn. Thậm chí nó còn có thể có hai mặt, với ý định ru cho Harry tin rằng nàng đã hài lòng trong khi thực ra là ngược lại.
Chết tiệt, một phần nào đó trong tôi cất tiếng nói.Nàng không như thế. Rồi một nụ cười cay đắng: Không như mày, đồ hèn hạ.
Không có gì về Midori là hai mặt cả, và việc biết rõ điều đó khơi ra một chút nhức nhối. Môi trường mà tôi sống quá lâu đã quy định tôi phải giả định điều tồi tệ nhất. ít nhất tôi thỉnh thoảng vẫn còn nhớ ra mà kháng lại sự thôi thúc này.
Điều đó không thành vấn đề. Đã có quá nhiều điều kì lạ xung quanh số phận của chiếc đĩa và sự biến mất của tôi, và nàng thừa thông minh để không bỏ qua những thứ đó. Tôi đã dành rất nhiều thời gian nghĩ về việc đó trong suốt cả năm qua hoặc gần như thế, và tôi biết cách mà nàng sẽ nhìn nhận sự việc.
Sau những gì đã xảy ra giữa chúng tôi, những mối nghi ngờ nhỏ nhoi hẳn đã nảy sinh. Nhưng không có gì để ngăn cản sự lớn mạnh của chúng. Sau tất cả,nàng sẽ nghĩ, những nội dung có trong chiếc đĩa đã không bao giờ được công khai. Đó là việc Tatsu đã làm, không phải tôi, nhưng nàng sẽ không có cách nào biết được điều đó. Tất cả những gì nàng biết là ước nguyện cuối cùng của cha nàng đã không bao giờ được thực hiện, rằng cái chết của ông cuối cùng là vô ích. Nàng sẽ lại tự hỏi bằng cách nào mà tôi biết được phải tìm chiếc đĩa đó ở đâu trong Shibuya, xem xét lại những lời giải thích trước đây của tôi, và thấy chúng không có sức nặng. Việc đó sẽ đưa nàng tới chỗ bắt đầu nghĩ về thời điểm tôi xuất hiện, ngay sau khi cha nàng chết.
Và nàng biết tôi là một phần của thứ gì đó bí mật, dù nàng không bao giờ biết chính xác nó là gì. CIA? Một trong các phe phái chính trị của Nhật Bản? Bất kể là gì, đó là một tổ chức có các phương cách để ngụy tạo một cái chết và chống đỡ nó hiệu quả một cách hợp lí.
Vâng, với sự thiếu minh bạch này, và vì không có tôi ở đó để trấn an
Midori rằng những gì đã xảy ra giữa chúng tôi là thật, tôi biết, cuối cùng, nàng sẽ kết luận rằng nàng đã bị lợi dụng. Đó là cách tôi sẽ nhìn nhận việc đó, khi ở vào vị trí của nàng. Có thể tình dục chỉ là tiện dịp với gã, nàng sẽ nghĩ vậy. Chắc chắn rồi, tại sao không chứ, cũng nên vui vẻ một chút trong khi mình sử dụng cô ta để lấy được chiếc đĩa. Và rồi mình sẽ biến mất ngay sau khi mình lừa cô ta hợp tác. Nàng không muốn tin hoàn toàn vào điều này, nhưng sẽ không thể lay chuyển được cảm giác đó. Và nàng cũng sẽ không muốn tin rằng tôi có thể dính líu theo một cách nào đó tới cái chết của cha nàng, nhưng lại không thể từ bỏ mối nghi ngờ ấy.
“Tôi đã xử lí đúng chứ?” Harry hỏi.
Tôi nhún vai. “Cậu không thể xử lí việc đó tốt hơn cậu đã làm đâu. Nhưng cô ấy vẫn sẽ không tin.”
“Anh nghĩ cô ấy sẽ từ bỏ?”
Đó là câu hỏi còn luôn bỏ ngỏ với tôi. Tôi vẫn chưa thể trả lời được nó. “Tôi không biết,” tôi bảo cậu ta.
Và còn có một điều khác mà tôi không rõ, điều mà tôi sẽ không chia sẻ với Harry. Tôi không biết liệu tôi có muốn nàng từ bỏ hay không. Tôi vừa nói gì với cậu ta nhỉ? Anh không thể sống với một chân ngoài sáng và chân kia trong tối. Tôi cần phải nhận lấy lời khuyên khốn kiếp của chính mình.
4
TÔI TIỄN HARRY về lúc khoảng một giờ sáng. Ga tàu điện ngầm đã đóng cửa và cậu ta bắt một chiếc taxi. Cậu ta nói sẽ về nhà để đợi Yukiko. Tôi cố hình dung ra một nữ tiếp viên trẻ xinh đẹp, kiếm được số tiền tip bằng yên Nhật tương đương cả ngàn đô-la một đêm ở một trong những cơ sở độc quyền của Tokyo, có thể chọn các doanh nhân và chính trị gia giàu có làm nhân tình, lại vội vàng trở về căn hộ của Harry sau giờ làm việc. Tôi vẫn không thể hiểu nổi.
Đừng quá đa nghi, tôi nghĩ.
Nhưng linh tính của tôi không tin điều đó, và tôi từ lâu đã biết tin vào linh tính của mình.
Vẫn còn sớm. Chỉ xem thử thôi. Chỗ đó thực ra nằm trên đường về khách sạn.
Tuy nhiên, nếu Harry đã thay đổi ý định về nhà và thay vào đó đến Hoa hồng Damask, cậu ta sẽ biết tôi đang lén kiểm tra cậu ta. Cậu ta có thể không ngạc nhiên, nhưng cũng sẽ không thích việc đó.
Nhưng khả năng Harry sẽ qua đó bằng tiền của cậu ta, trong khi đằng nào Yukiko cũng sẽ đến chỗ cậu ta chỉ trong vòng vài giờ nữa, là rất nhỏ. Đáng để mạo hiểm.
Và Nogizaka chỉ cách có vài kilômét. Chết tiệt thật.
Tôi thử hỏi tổng đài từ một trạm điện thoại công cộng, nhưng không có tên Hoa hồng Damask trong danh sách. Ừm, Harry đã nói là họ không quảng
cáo.
Tuy nhiên, tôi có thể chỉ việc đến và xem qua.
Tôi đi bộ một quãng ngắn tới Nogizaka, rồi đi qua đi lại dọc theo phố Gaien-higashi cho đến khi tìm ra câu lạc bộ đó. Mất một lúc, nhưng cuối cùng cũng thấy nó. Không có biển hiệu, chỉ có một bông hồng đỏ nhỏ trên tấm bạt đen.
Lối vào được hai gã da đen canh giữ, cả hai đều to lớn đến mức hẳn là từ lò sumo mà ra. Bộ vest của họ được may khá đẹp và, theo như kích thước của những người đang mặc chúng, nhất định là được đặt làm riêng. Người Nigeria, tôi đoán vậy, những người mà thân hình, sự nhạy bén về quản lí, và sự trôi chảy tương đối với ngôn ngữ đã khiến họ trở thành câu chuyện thành công nước ngoài hiếm hoi, trong trường hợp này họ thích hợp để làm người quản lí bậc trung lẫn sức mạnh cơ bắp cho rất nhiều cơ sở giải trí trong khu vực. Mizu shobai, hay khu “thủy thương mại”* của tiêu khiển và khoái lạc, là một trong những lĩnh vực ít ỏi mà ở đó Nhật Bản có thể tự nhận một cách hợp pháp là có trình độ quốc tế hóa.
Họ cúi chào và mở cánh cửa hai lớp kính của câu lạc bộ cho tôi, mỗi người phát ra một câu irasshaimase giọng nam trung khi mở cửa. Xin chào mừng. Một người trong số họ thì thầm điều gì đó vào chiếc microphone đặt kín đáo trên ve áo.
Tôi bước xuống một cầu thang ngắn. Một người đàn ông Nhật Bản mặt hồng hào, dáng vẻ phát đạt ước chừng bốn mươi tuổi chào đón tôi trong một sảnh chờ nhỏ. Từ căn phòng phía trên đang phát ra thứ nhạc techno J-Pop pha trộn.
“Nanmeisama desho ka?” Ngài Mặt Đỏ hỏi. Bao nhiêu người? “Một thôi,” tôi nói bằng tiếng Anh, giơ một ngón tay.
“Kashikomarimashita.” Đương nhiên rồi. Ông ta ra hiệu bảo tôi đi theo sau.
Căn phòng có hình chữ nhật, hai đầu được chặn bằng sàn nhảy. Các sàn nhảy rất đơn giản, chỉ phân biệt bằng bức tường phủ gương phía sau chúng và những cây cột đổng giống nhau đặt chính giữa. Một sàn được chiếm hữu bởi một cô gái cao, tóc hoe dài mang độc giày cao gót cùng một chiếc quần lót G-string và không gì khác. Cô ta đang nhảy hơi lung tung, tôi nghĩ, nhưng như thế lại có vẻ thu hút được sự chú ý của phần đông khán giả câu lạc bộ. Người Nga, tôi đoán. Xương to và ngực to. Sự ưa thích tại Nhật.
Harry không nhắc tới vụ sàn diễn này. Có lẽ cậu ta xấu hổ. Cảm giác có gì đó không ổn của tôi lại tăng thêm.
Trên sàn bên kia tôi thấy một cô gái nhìn giống như lai giữa Nhật Bản và thứ gì đó như Địa Trung Hải hay Latin. Một sự pha trộn khá tốt. Cô ta có mái tóc đen như lụa, gần như đang tỏa sáng lung linh mà rất nhiều phụ nữ Nhật Bản muốn hủy hoại bằng nhuộm chapatsu,* ngắn và chải lệch sang một bên. Hình dáng cặp mắt cũng là của người Nhật, và cô ta thuộc diện nhỏ nhắn. Nhưng làn da cô ta, nước da vàng mịn màng như caramel nóng chảy, dường như là gì đó khác, có thể là châu Phi hoặc lai giữa da trắng và da đen. Ngực và hông của cô ta nữa, đẩy căng và hơi không tương xứng trên thân hình kích thước Nhật Bản, có vẻ là để gợi ra một nguồn gốc nước ngoài nào đó. Cô ta đang sử dụng cây cột một cách khéo léo, nắm lấy nó trên cao, tạo tư thế giữ thân mình thẳng song song với sàn nhà, rồi hạ xuống dần dần khớp theo nhạc. Có sức sống thực sự trong những bước nhảy của cô ta và cô ta dường như không để ý rằng phần lớn khách đang tập trung vào cô gái tóc hoe.
Ngài Mặt Đỏ đem ra cho tôi một chiếc ghế tại một bàn trống ở chính giữa căn phòng. Sau một cái liếc nhìn như thường lệ để đảm bảo rằng chỗ ngồi
cung cấp một góc nhìn thích hợp về phía lối vào, tôi ngồi xuống. Tôi không thấy phiền gì khi đó cũng là một góc nhìn tốt về phía sân khấu nơi cô gái tóc đen đang nhảy.
“Wow”, tôi nói bằng tiếng Anh, nhìn về phía cô ta.
“Vâng, cô ấy rất đẹp,” ông ta trả lời, cũng bằng tiếng Anh. “Ngài có muốn gặp cô ấy không?”
Tôi nhìn cô ta thêm giây lát trước khi trả lời. Tôi không muốn dính líu với một cô gái người Nhật ở đây. Tôi sẽ có cơ hội cao hơn để tạo được một mối quan hệ, và nhờ đó moi thông tin, bằng cách nói chuyện với một người nước ngoài trong khi đóng vai một người nước ngoài.
Tôi gật đầu.
“Tôi sẽ cho cô ấy biết.” Ông ta đưa cho tôi thực đơn đồ uống, cúi chào, và rời khỏi bàn.
Thực đơn được viết trên một tờ giấy da dày màu kem, với hai cột chữ Nhật trang nhã, biểu tượng hoa hồng của câu lạc bộ đặt một cách kín đáo phía dưới cùng. Tôi ngạc nhiên khi thấy nó có cả một sự lựa chọn đầy sáng tạo các loại whisky Single Malt. Một cốc Springbank hai mươi lăm năm tuổi, thứ tôi đang tìm kiếm. Và một cốc Talisker cũng tuổi đó. Tôi có lẽ sẽ phải ở lại đây một lúc.
Một nữ phục vụ bàn đi tới và tôi gọi Springbank. Giá mười ngàn yên. Nhưng đời là mấy.
Có chừng một tá các cô gái đang tiếp khách. Khoảng một nửa là người Nhật; những người còn lại trông có vẻ là châu Âu. Tất cả đều hấp dẫn và ăn mặc trang nhã. Đa số đang nói chuyện với khách, nhưng có một số người rảnh rỗi. Không ai đến bàn của tôi. Ngài Mặt Đỏ hẳn đã truyền lời rằng tôi đã yêu cầu riêng ai đó. Điều hành hiệu quả.
Ở bàn kế bên tôi là một người đàn ông Nhật Bản vây quanh bởi ba nữ tiếp viên xun xoe. Hắn trông trẻ trung ở vẻ bề ngoài, với hàm răng trắng lóa và mái tóc đen chải ngược trên khuôn mặt rám nắng không một nếp nhăn. Nhưng tôi nhìn gần hơn và thấy rằng vẻ ngoài đó chỉ là hàng thứ phẩm. Mái tóc là nhuộm, vẻ ngoài nhã nhặn rám nắng do đèn mặt trời, khuôn mặt trơn nhẵn chỉ có lẽ là sản phẩm của chất Botox và phẫu thuật, hàm răng bọc sứ. Hóa chất và dao mổ, thậm chí cả đoàn tùy tùng những cô gái trẻ hấp dẫn với nụ cười say đắm được-trả-tiền, tất cả chỉ đơn giản là những công cụ để dựng nên một bức tường lung lay nhằm phủ nhận những hổ thẹn không thể tránh khỏi của tuổi tác và cái chết.
Nhịp nhạc techno nhỏ dần và cô gái tóc đen xoay chầm chậm xuống sàn, hai chân cắt qua cây cột, lưng uốn cong, đầu cô ta nghiêng ra sau căn phòng. Cô gái tóc hoe cũng kết thúc màn diễn, dù rằng trong kiểu dáng ít ngoạn mục hơn. Khán giả vỗ tay.
Người nữ phục vụ bàn đem Springbank đến cho tôi, màu hổ phách sáng lấp lánh trong một cốc pha lê. Tôi nâng chiếc cốc lên ngang mũi, nhắm mắt lại giây lát, và hít vào một làn không khí biển trong sạch, đậm hương sherry*. Tôi nhấp một ngụm. Muối và nước biển, đúng, nhưng đâu đó còn gợi đến dấu vết của trái cây nữa. Dư vị thật dài và nặng. Tôi mỉm cười. Không tồi đối với một li rượu hai mươi lăm năm tuổi.
Tôi nhấp một ngụm nữa và nhìn quanh. Tôi không nhận thấy cảm giác nguy hiểm nào. Địa điểm có thể hợp pháp, tôi nghĩ. Không còn nghi ngờ gì về việc nó được liên kết với tội phạm có tổ chức, nhưng đó là chuyện bình thường cho hướng phát triển trong khu mizu shobai, không chỉ riêng với Nhật Bản mà là cả thế giới. Có thể Harry chỉ gặp may thôi.
Có thể.
Một vài phút sau, cô gái tóc đen xuất hiện từ phía sau sân khấu. Cô ta bước xuống một hàng bậc thang ngắn và tiến lại bàn tôi.
Cô ta đã thay một chiếc váy sang trọng màu đen không vai. Một chiếc vòng kim cương mỏng bao quanh cổ tay trái. Món quà từ một người hâm mộ, tôi nghĩ. Tôi đoán cô ta phải có rất nhiều.
“Em ngồi cùng anh được chứ?” Cô ta hỏi. Tiếng Nhật của cô ta mang hơi hướng một nơi nào đó ấm áp, có thể là tiếng Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha. “Xin mời,” tôi nói bằng tiếng Anh, đứng dậy và kéo lui một chiếc ghế cho cô. “Tiếng Anh được không?”
“Đương nhiên,” cô nói, chuyển qua dùng tiếng Anh. “Có lẽ... anh là người Mỹ?”
Tôi gật đầu. “Cha mẹ tôi là người Nhật, nhưng tôi lớn lên tại Mỹ. Tôi thoải mái hơn khi dùng tiếng Anh.”
Tôi đẩy nhẹ chiếc ghế vào từ phía sau cô ta. Chiếc váy sang trọng buộc dây sau lưng. Làn da mịn màng tỏa sáng qua các kẽ hở.
Tôi ngồi xuống cạnh cô ta. “Tôi rất thích khi được xem em nhảy,” tôi nói. Tôi biết cô ta đã nghe câu đó hàng ngàn lần trước đó, và nụ cười mỉm của cô xác nhận điều đó. Nụ cười nói lên rằng Tất nhiên là anh thích. Tốt thôi. Tôi muốn cô ta cảm thấy được nắm quyền điều khiển, để lơ là phòng bị. Chúng tôi sẽ uống vài cốc, thư giãn, có thể biết về nhau trước khi tôi bắt đầu thăm dò điều thực sự làm tôi quan tâm.
“Điều gì đưa anh tới Tokyo?” Cô ta hỏi.
“Công việc. Tôi là một nhân viên kế toán. Mỗi năm một lần tôi phải tới Nhật để gặp một số khách hàng địa phương của công ty.” Đó là một câu chuyện vỏ bọc tốt. Không bao giờ có ai hỏi tiếp khi anh đã nói anh là nhân
viên kế toán. Họ sợ anh sẽ trả lời.
“Nhân tiện, tôi là John,” tôi nói thêm.
Cô ta đưa tay ra. “Naomi.”
Những ngón tay của Naomi nhỏ nhắn trong bàn tay tôi nhưng cái nắm tay của cô rất chắc chắn. Tôi cố đánh giá tuổi của cô. Cuối độ tuổi hai mươi, có thể ba mươi. Cô ta nhìn khá trẻ, nhưng trang phục và kiểu cách lại thạo đời. “Tôi có thể mời em uống gì đó không, Naomi?”
“Anh đang dùng gì?”
“Một thứ đặc biệt, nếu em thích rượu whisky Single Malt.” “Em thích Single Malt. Đặc biệt là loại whisky Islay lâu năm. Người ta nói để càng lâu nó càng bớt cay nhưng lại ấm áp. Em thích điều đó.” Cô giỏi đấy, tôi nghĩ, nhìn Naomi. Miệng cô ta rất đẹp: cặp môi đầy đặn; lợi hồng gần như tỏa sáng; hàm răng trắng, đều đặn. Cặp mắt cô ta màu xanh lá. Một đám tàn nhang nhỏ trải trên và xung quanh mũi cô, vừa đủ để nhìn thấy được trên nền da màu nâu nhạt.
“Thứ tôi đang uống không phải từ Islay,” tôi nói, “nhưng nó cũng có vài đặc điểm của một hòn đảo. Khói và than. Loại Springbank.” Cô ta nhướn mày. “Loại hai mươi lăm?”
“Em biết thực đơn rồi,” tôi nói, gật đầu. “Em dùng một cốc chứ?” “Sau một đêm tưới đầy Suntory? Tất nhiên em muốn một cốc.” Đương nhiên cô ta muốn một cốc. Lương của cô ta bao gồm cả một phần
số tiền các vị khách chi ra. Một vài phiếu thanh toán mười ngàn yên và cô ta có thể xong một tối làm việc.
Tôi gọi thêm một cốc Springbank. Cô ta hỏi tôi những câu hỏi: sao tôi biết nhiều đến thế về các loại whisky Single Malt, nơi tôi sống ở Mỹ, tôi đã
tới Tokyo bao nhiêu lần. Cô ta thấy thoải mái với vai trò của mình và tôi để cô ta nhập vai.
Khi cốc của chúng tôi đã cạn, tôi hỏi cô ta có muốn dùng thêm đồ uống khác không.
Cô mỉm cười. “Anh đang nghĩ đến loại Talisker.”
“Em là một kẻ đọc được suy nghĩ.”
“Em chỉ thuộc thực đơn thôi. Và khiếu thưởng thức tốt. Em muốn một cốc nữa.”
Tôi gọi hai cốc Talisker. Chúng thật thượng hạng: đồ sộ và cay xè, với một dư vị kéo dài vô tận. Chúng tôi uống và nói thêm những chuyện khác. Khi vòng thứ hai đã gần xong, tôi bắt đầu đổi chiến thuật.
“Em từ đâu tới?” Tôi hỏi cô ta. “Em không phải người Nhật Bản.” Câu sau cùng này tôi nói với một chút ngập ngừng, như thể thiếu kinh nghiệm trong những vấn đề như thế và do đó không chắc chắn.
“Mẹ em là người Nhật. Em đến từ Brazil.”
Ngạc nhiên thật, tôi nghĩ. Tôi đang lên kế hoạch một chuyên đi tới Brazil. Một chuyến đi dài.
“Brazil, chỗ nào?”
“Bahia.”
Bahia là một trong những bang ven biển của Brazil. “Salvador à?” Tôi hỏi, để xác định thành phố.
“Vâng!” Cô ta thốt lên, với nụ cười thành thật đầu tiên trong buổi tối. “Sao anh biết Brazil rõ thế?”
“Tôi đã đến đó vài lần. Công ty của tôi có khách hàng trên khắp thế giới, Um pae brasileiro e uma mae Japonêsaé uma combinacão bonita,” tôi nói
bằng tiếng Bồ Đào Nha mà tôi đang học bằng cassette. Một người cha Brazil và một người mẹ Nhật Bản - đó là một sự kết hợp đẹp.
Mắt Naomi sáng lên và miệng mở ra thành một chữ O hoàn hảo. “Obrigado!” Cô ta thốt lên. Cảm ơn anh! Và rồi: “ Você fala português?” Anh nói tiếng Bồ Đào Nha?
Như thể con người thực sự đã đột ngột quyết định chiếm lại thân xác của người nữ tiếp viên. Cặp mắt của cô, vẻ mặt của cô, tư thế của cô tất cả đều sống lại, và một lần nữa tôi cảm nhận được nguồn năng lượng sống đã đem lại sinh khí cho bước nhảy của cô.
“Chỉ một chút thôi,” tôi nói, chuyển trở lại tiếng Anh. “Tôi học tiếng khá tốt và luôn cố thu nhặt một ít từ bất cứ nơi đâu tôi đi đến.” Cô ta đang lắc đầu chầm chậm và nhìn tôi như thế đó là lần đầu tiên cô ta nhìn thấy tôi. Cô nuốt một ngụm rượu, uống hết cốc của mình. “Một cốc nữa chứ?” Tôi hỏi.
“Sim!” Cô ta trả lời ngay bằng tiếng Bồ Đào Nha. Vâng!
Tôi gọi thêm hai cốc Talisker nữa, rồi quay sang Naomi. “Kể cho tôi nghe về Brazil đi,” tôi nói.
“Anh muốn nghe chuyện gì?”
“Về gia đình em.”
Cô ta ngả người về phía sau và bắt tréo chân. “Cha em là một người dòng dõi quý tộc Brazil, thuộc một gia tộc cổ. Mẹ em là người Nhật Bản thế hệ thứ hai.”
Dân số hỗn tạp của Brazil bao gồm chừng hai triệu người Nhật Bản chính gốc*, kết quả của quá trình nhập cư bắt đầu năm 1908, khi Brazil cần thêm lao động và Đế quốc Nhật Bản đang tìm cách đưa người dân của mình tới
những phần khác nhau trên thế giới.
“Vậy là em học tiếng Nhật từ mẹ?”
Cô ta gật đầu. “Tiếng Nhật từ mẹ em, tiếng Bồ Đào Nha từ cha em. Mẹ em mất khi em còn là một đứa trẻ, và cha em thuê một bảo mẫu người Anh để em có thể học cả tiếng Anh nữa.”
“Em ở Nhật được bao lâu rồi?”
“Ba năm.”
“Và ở câu lạc bộ này suốt thời gian đó à?”
Cô ta lắc đầu. “Chỉ một năm ở câu lạc bộ. Trước đó em dạy tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha ở Tokyo này qua chương trình JET.”
JET, hay Trao đổi và Giảng dạy Nhật Bản, là một chương trình được chính phủ tài trợ nhằm đưa những người nước ngoài tới Nhật Bản chủ yếu để dạy ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Xét từ khả năng của người Nhật bình thường khi dùng tiếng Anh, chương trình này có thể cũng hữu ích.
“Em đã học nhảy như vậy trong khi dạy các lớp ngoại ngữ?” Tôi hỏi. Cô ta cười lớn. “Em học nhảy bằng cách nhảy. Lúc mới đến đây một năm trước em xấu hổ đến mức gần như không thể đi lại trên sân khấu được.” Tôi mỉm cười. “Khó mà tưởng tượng được.”
“Đúng vậy. Em được nuôi dạy trong một gia đình rất nền nếp. Em không bao giờ có thể hình dung được chuyện như thế này lại xảy ra.” Người nữ phục vụ bàn bước lại và đặt xuống hai cốc pha lê, trong mỗi cốc là một lượng Talisker, và hai cốc nước. Naomi rót một chút nước vào whisky một cách thành thạo, lắc một lần, và nâng cốc lên mũi. Nếu vẫn còn giữ cung cách tiếp viên thì cô ta hẳn đã chờ đợi, khi nào khách ra hiệu mới uống. Chúng tôi đang có tiến triển.
“Mmmm,” cô ta kêu lên nho nhỏ.
Chúng tôi chạm cốc và uống.
Cô ta nhắm mắt lại. “Ôi,” cô nói. “Thật ngon quá.”
Tôi mỉm cười. “Làm thế nào mà cuối cùng em lại ở Hoa hồng Damask nổi tiếng thế giới này?”
Cô nhún vai. “Trong hai năm đầu ở Nhật, lương của em được khoảng ba triệu yên. Em dạy học buổi tối để kiếm thêm chút ít. Một học sinh bảo em rằng anh ta biết có người đang mở một câu lạc bộ, ở đó em có thể kiếm khá hơn rất nhiều. Em đến xem thử. Và giờ thì em ở đây.”
Ba triệu yên một năm - có lẽ chừng hai mươi lăm ngàn đô-la. “Việc này đúng là một sự cải thiện,” tôi nói, nhìn ra xung quanh.
“Đây là một chỗ làm tốt. Chúng em kiếm tiền phần lớn bằng các điệu múa ghế* riêng tư. Chỉ nhảy thôi, không đụng chạm. Nếu anh thích, em có thể nhảy cho anh xem. Nhưng không bắt buộc.”
Múa ghế chắc là nghề kiếm cơm của cô ta. Việc cô ta coi nó như một ý tưởng phụ cũng là một dấu hiệu tốt.
Tôi nhìn Naomi. Cô ta thực sự đáng yêu. Nhưng tôi ở đây vì mục đích khác.
“Chắc để lần sau,” tôi nói. “Tôi thích nói chuyện với em.”
Cô ta mỉm cười, có lẽ cảm thấy hãnh diện. Theo vẻ mặt của cô ta, sự từ chối của tôi hẳn là rất mới mẻ. Tốt.
Tôi mỉm cười trả lại. “Kể cho tôi nghe thêm về gia đình em đi.” Cô nhấp thêm một ngụm Talisker. “Em có hai người anh trai. Họ đều đã kết hồn và hoạt động trong việc kinh doanh của gia đình.”
“Kinh doanh gì?”
“Nông nghiệp. Truyền thống gia đình là đàn ông đi vào con đường kinh doanh.”
Việc nhắc đến nông nghiệp gây cảm giác mơ hồ một cách có chủ ý. Từ những gì tôi biết về Brazil, nó có thể là cà phê, thuốc lá, đường, hoặc sự kết hợp nào đó. Cũng có thể là bất động sản. Tôi hiểu rằng gia đình Naomi rất giàu có nhưng cô ta rất kín đáo về việc đó.
“Còn phụ nữ làm gì?” Tôi hỏi.
Cô cười. “Phụ nữ học thứ gì đó vô giá trị ở đại học, để có một vốn kiến thức đúng đắn và có thể là những người nói chuyện giỏi ở các bữa tiệc, sau đó họ được gả vào những gia đình phù hợp.”
“Tôi kết luận là em đã quyết định làm gì đó khác.”
“Em đã thực hiện phần đại học - lịch sử nghệ thuật. Nhưng sau đó cha và anh trai em dự định cho em kết hôn và em đơn giản là chưa sẵn sàng.” “Vậy sao em lại đến Nhật Bản?”
Cô ta liếc nhìn lên và mím môi. “Nghe thì ngớ ngẩn, nhưng mỗi khi nghe tiếng Nhật em lại cảm giác như mẹ em đang nói vậy. Và em thì đang mất đi thứ tiếng Nhật em nhận được từ mẹ lúc còn là một đứa trẻ, như đang mất đi một phần của mẹ.”
Trong một thoáng tôi nhìn thấy hình ảnh gương mặt mẹ tôi. Mẹ đã mất tại nhà trong khi tôi đang ở Việt Nam.
“Việc đó không ngớ ngẩn chút nào cả,” tôi nói.
Chúng tôi đều yên lặng. Đến lúc rồi, tôi nghĩ.
“Vậy, em thấy công việc ở đây thế nào?” Tôi hỏi.
Cô ta nhún vai. “Ổn. Giờ giấc điên khùng, nhưng tiền thì tốt.” “Quản lí đối xử với em tốt chứ?”
Cô ta lại nhún vai. “Họ cũng ổn. Không ai cố bắt chúng em làm bất cứ thứ gì chúng em không muốn.”
“Ý em là sao?”
“Anh biết đấy. Khi múa ghế, một số khách muốn hơn nữa. Nếu khách vui vẻ, họ sẽ quay lại và chi nhiều tiền hơn. Thế nên trong những chỗ như thế này, nhiều khi quản lí có thể ép các cô gái phải làm khách vui. Và phải làm những việc khác.”
Vẻ mặt của tôi lo ngại một cách thích đáng. “Những việc khác?” Cô ta phẩy tay. “Không có gì đâu,” cô nói.
Thay đổi chiến thuật. “Những cô khác thì thế nào?” Tôi hỏi, nhìn quanh. “Họ đến từ đâu?”
“Ồ, từ khắp nơi trên thế giới.” Cô chỉ vào một cô gái đẹp cao ráo, mái tóc màu nâu vàng mặc một bộ váy đính kim sa đỏ đang quyến rũ Nhóc Botox. “Đó là Elsa. Cô ấy là người Thụy Điển. Và Julie cạnh cô ấy người Canada. Cô nhảy đối diện em là Valentina, người Nga.”
“Thế còn những cô người Nhật Bản?”
“Đó là Mariko và Taeka,” cô ta nói, chỉ vào một cặp nhỏ nhắn ở một bàn trong góc vừa mới nói hoặc làm gì đó để khơi ra những tràng cười từ hai người khách có vẻ Mỹ rõ ràng là đang mê mẩn. Cô quay đầu qua một hướng, rồi hướng kia, rồi quay lại tôi. “Không thấy Emi hay Yukiko. Chắc họ đang chuẩn bị nhảy.”
“Có vẻ là một sự kết hợp tốt,” tôi nói. “Các em hòa thuận chứ?” Cô ta nhún vai. “Cũng như bất cứ nơi nào khác thôi. Một số đồng nghiệp là bạn anh. Số khác anh không thích lắm.”
Tôi mỉm cười như thể đang chuẩn bị thưởng thức một câu chuyện phiếm.
“Em thích ai, và không thích ai?”
“Ồ, hầu như với ai em cũng ổn.” Đó là câu trả lời an toàn cho một câu hỏi hơi khác. Tôi phục sự tự chủ của cô ta.
Nhạc House nhỏ dần và được thay thế bởi một lượt J-Pop techno khác. Đồng thời, hai cô gái Nhật Bản ngực trần và đi giày cao gót xuất hiện trên hai sàn nhảy.
“A, đó là Emi.” Naomi nói, chỉ cô gái xinh xắn, mũm mĩm lôi cuốn ở sàn nhảy phía xa. Cô quay lại và hất đầu về sàn nhảy gần chúng tôi hơn. “Còn đó là Yukiko.”
Yukiko. Cuối cùng chúng ta cũng gặp nhau.
Tôi nhìn cô ta, một cô gái cao ráo với mái tóc dài đen tới mức dưới ánh đèn sân khấu nó sáng lấp lánh như một chất lỏng được ánh trăng chiếu sáng. Nó rủ xuống như những làn sóng quanh bờ vai trơn mượt của cô ta, vờn qua những đường lượn mềm mại trên eo lưng, bao quanh cái hông cong vút lên. Cô ta cao và dáng rất đẹp, với làn da trắng mỏng manh, gò má cao, khuôn ngực cao và nhỏ. Vấn tóc lên, thêm một chút thời trang cao cấp, và anh sẽ có một cô điếm hạng sang ưu tú nhất thế giới.
Cô gái này và Harry ư? Tôi nghĩ. Không thể.
“Cô ta rất đẹp,” tôi nói, cảm thấy rằng vẻ ngoài nổi bật của cô ta đòi hỏi phải có vài lời bình luận.
“Rất nhiều người nói vậy,” Naomi trả lời.
Có điều gì đó ẩn trong câu trả lời không rõ ràng một cách cố tình ấy. “Em không nghĩ vậy à?” Tôi hỏi.
Cô ta nhún vai. “Không phải kiểu của em.”
“Tôi có cảm giác em không quan tâm đến cô ta.”
“Nói thẳng ra là cô ta thấy thoải mái khi làm những việc mà em không thích.”
Với Harry? “Sẽ là nói dối nếu tôi nói rằng mình không tò mò. Cô ta lắc đầu, và tôi biết lại gặp phải một ngõ cụt, ngay cả là sau ba cốc whisky.
Tuyết Tử, quả thực là vậy. Có gì đó lạnh lùng, thậm chí là có tính toán trong vẻ đẹp của cô gái này Có chuyện gì đó không ổn, nhưng tôi nói với Harry thế nào được đây? Tôi tưởng tượng ra câu chuyện: Harry, tôi đã tới Hoa hồng Damask để kiểm tra cậu. Tin tôi đi, bạn tôi, cô gái này nằm ngoài tầm với của cậu. Thêm nữa, nói chung tôi có một cảm giác xấu về cô ta. Tránh xa ra.
Tôi biết ngay cậu ta sẽ nghĩ thế nào: cô ta giống như thứ tốt đẹp nhất từng xảy đến với cậu ta, và bất cứ thứ gì hay bất cứ ai đe dọa cảm giác thoải mái đó sẽ bị lập luận bác đi hoặc bị phớt lờ. Lời cảnh báo từ một người bạn sẽ là vô dụng. Có khi còn tệ hơn.
Tôi sẽ không khai thác gì nữa từ Naomi. Tôi sẽ tìm hiểu thêm một chút khi trở lại Osaka. Harry là một người bạn và tôi nợ cậu ta điều đó. Nhưng tìm ra điều cô gái này đang toan tính không thực sự là vấn đề. Làm cho Harry hiểu được điều đó, tôi biết, mới là vấn đề.
“Anh có muốn xem cô ấy không?” Naomi hỏi.
Tôi lắc đầu. “Xin lỗi. Tôi đang nghĩ đến việc khác.”
Chúng tôi nói chuyện thêm về Brazil. Cô nói về sự đa dạng dân tộc và văn hóa của đất nước này, một sự pha trộn giữa người châu Âu, người Ấn Độ, người Nhật Bản và Tây Phi; không khí cởi mở, âm nhạc và thể thao; những thái cực giàu và nghèo; và nhiều nhất, là về vẻ đẹp của nó, với hàng