🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bánh Mì Cô Đơn - Judith Ryan Hendricks full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
BÁNH MÌ CÔ ĐƠN
Tác giả: Judith Ryan Hendricks Người dịch: Nguyễn Thị Cẩm Linh Nhà xuất bản Phụ Nữ 03/2017 —★—
ebook©vctvegroup
Một
LOS ANGELES, 1988
TIẾNG THIẾT BỊ BÁO CHÁY bíp bíp đánh thức tôi dậy. Gượm đã. Thiết bị báo cháy bình thường rít lên chứ có bíp bíp thế này đâu. Tôi ngồi dậy, thấy căn phòng đang chao đảo, mọi thứ méo đi như hình ảnh trong gương nhà cười. Tiếng đồng hồ báo thức chăng? Tôi quay đầu quá nhanh. Đau buốt như một kiểu tra tấn cổ xưa của người da đỏ bộ tộc Apache vậy. Những dải da mới lột còn ướt, được bó chặt lại, kệ cho khô.
Tôi thả chân xuống qua mép giường, chớp hai mí mắt sưng húp. Khoang miệng khô nghẹt như tấm lưới chắn bụi vải trong máy sấy quần áo. Tôi vẫn đang mặc chân váy lót và áo sơ-mi lụa màu ngà từ tối hôm qua. Đồng hồ đeo tay trượt đi, lằn một rãnh sâu lên cánh tay tôi: 6:45 phút sáng. Một chai Puligny Montrachet rỗng không trên bàn. Hình như chỉ có rượu rẻ tiền mới làm người uống nhức đầu thôi chứ. Tôi đã làm cái quái gì với chiếc ly nhỉ?
Tôi đứng dậy, chân bước loạng choạng. Đi xuống nhà. Từ từ nào. Bám vào tay vịn cầu thang. Vào bếp. Máy làm bánh mì. Sao cái máy bé tí mà kêu to thế? Tiếng bíp bíp phát ra cùng nhịp điệu với mạch đập của tôi. Tôi ấn nút. Cái máy ngừng kêu và nắp bật mở, tỏa ra một đám mây mùi bánh. Tôi quay vội đi và nôn vào bồn rửa. Tôi vặn nước súc miệng, đứng thở và bám vào thành đá lạnh ngắt của mặt bàn bếp. Rồi tôi nhớ ra. David.
Tôi nhấc ổ bánh còn ấm ra, đặt trên mặt tấm thớt nặng bằng gỗ phong, một ổ bánh nâu hoàn hảo.
• • •
Công ty giới thiệu việc làm là một văn phòng bận rộn trong một tòa nhà bằng kính và thép gần sân bay Los Angeles. Các cửa sổ nhìn ra quang cảnh ngoạn mục trên đường cao tốc liên bang 405, mười giờ rưỡi sáng mà xe cộ vẫn nối nhau san sát. Các ứng viên đông kín khu vực chờ - đa phần là phụ nữ trông trẻ hơn tôi chừng chục tuổi, hình như cô nào cũng tên là Heather, Fawn hoặc Tiffany. Nơi này có chút khí thế hừng hực như những căn phòng bàn chiến sự trong các bộ phim về Thế chiến II. Thiếu mỗi ông Winston Churchill là đủ bộ. Chẳng có ai thủng thẳng chuyện gẫu bên đài phun nước. Ai ai cũng lăm lăm điện thoại, bấm bấm bàn phím, hoặc đi phăm phăm ở hành lang, ánh mắt găm thẳng, tránh mọi sự phân tán mất tập trung. Giống hệt như tôi.
Ngoại lệ duy nhất là một phụ nữ trẻ ngồi ở bàn phía trước. Khi đã chuốt xong cái móng tay ương bướng bị xước, cô ấy nhìn lên và mỉm cười.
- Tôi giúp được gì không?
Tôi cố gắng vui vẻ tách mình khỏi guồng quay này. - Tôi có hẹn với chị Lauren lúc mười một giờ. Tôi biết mình đến sớm, nhưng...
- Không sao. - Cô ấy đưa tôi một bảng cứng kẹp mấy mẫu giấy tờ. - Chị điền vào cái này, rồi chúng tôi sẽ tiếp tục với phần phỏng vấn và kiểm tra chị.
Cô ấy đưa tôi cái bút chì; chỉ dãy ghế bằng sắt và da bọc kê dọc một mảng tường.
Còn kiểm tra gì nữa? Nhiêu khê quá. Tôi ngồi xuống ghế; đầu vẫn còn lùng bùng bất kể đã uống hai viên aspirin và một tách đúp cà phê espresso. Giải quyết từng thứ một nào. Tên: “Justine Wynter Franklin”. Có lẽ không nên dùng tên sau khi đã kết hôn. Tôi cố gắng xóa chữ “Franklin” đi, nhưng cục tẩy vừa cũ vừa bở, càng tẩy càng lem nhem. Tôi gạch đi, viết chữ “Morrison” đè lên. Bây giờ trông có vẻ như tôi không chắc chắn.
Địa chỉ. Số điện thoại. Tôi điền được dễ dàng. Ngày sinh. Số an sinh xã hội. Loại công việc mong muốn. Có lẽ viết “Không biết” thì không hay lắm. Tôi điền “Việc văn phòng”. Chung chung quá ư? Kỹ năng. Tôi nhìn chằm chằm vào khoảng trống trên giấy. Nó như đang doãng ra, thách tôi có dám điền vào hay không.
Thực ra tôi vẫn có thể ngâm Ballade des pendus, khúc ba-lát cho những kẻ treo cổ của François Villon. Hoặc bàn về ảnh hưởng của Cách mạng Công nghiệp đối với tiểu thuyết Anh. Để xem nào... Tôi nấu được thứ cơm hoàn hảo, không có chút nước đọng nào ở đáy nồi, từng hạt cơm tơi bông nở đều. Tôi biết cách làm hồ tiêu và hạt bách xù để lâu ngày trong tủ bếp dậy mùi trở lại như mới, hoặc đánh mượt sốt crème anglaise bị vón. Nếu cần làm mềm thịt bằng nút bấc chai rượu, hoặc tách sáp nến khỏi khăn trải bàn, cứ việc tìm đến tôi. Từ khoảng cách năm mươi bước chân, tôi có thể phân biệt được khăn quàng chính hãng Hermès với hàng Hàn Quốc nhái. Tôi có cú ve trái cắt mặt sân quần vợt rất mạnh mẽ. Cách đây lâu lẩu lầu lâu rồi, tôi biết đánh máy chữ, nhưng với một tốc độ chẳng có gì đáng khoe cả. Ai đó từng nói rằng giọng tôi trả lời điện thoại nghe rất êm tai. “Trả lời điện thoại chăng?”
- Cô Justine Franklin?
Giật mình, tôi nhìn lên.
- Chào cô, tôi là Lauren Randall.
Người phụ nữ đứng trước mặt tôi mỉm cười phô ra hàm răng hoàn hảo. Trông chị ấy có vẻ tự nhiên thoải mái như đang ở nhà mình. Tầm bốn mươi tuổi, đẹp một cách thanh lịch hơn là xinh đẹp, vẫn trên người bộ váy lụa đũi màu be. Mái tóc vàng của chị ấy vẫn gọn phía sau, chặt đến mức trông như cặp lông mày nhướn lên một vẻ ngạc nhiên.
Khi tôi đứng lên để bắt bàn tay Lauren đã chìa ra, tấm bảng cứng kẹp giấy tờ trượt rơi xuống sàn. Mặt nóng bừng, tôi vội nhặt nó lên, phớt lờ mọi ánh nhìn, đi theo Lauren dọc hành lang trong khi chị ấy bắt đầu gợi chuyện một cách hết sức bài bản.
- Tôi rất mừng được gặp người mặc áo vest. Chắc cô không hình dung nổi đủ loại trang phục tôi từng thấy đâu. Các bạn nữ
trẻ trung đến đây mà cứ như đi biển chứ chẳng có vẻ gì là đi tìm việc làm.
Thế là tôi đã nằm ngoài diện “các bạn nữ trẻ trung”... Lauren nhận bảng kẹp giấy tờ từ phía tôi, đưa tôi vào phòng làm việc của chị, một phòng nhỏ xíu với hai chiếc ghế và một bàn nhỏ chất đầy tài liệu.
- Xem chúng ta có gì nào. Cô đang tìm loại công việc gì? - Việc văn phòng nói chung chị ạ. Sắp xếp giấy tờ, trả lời điện thoại...
Có khoảng năm chục bộ phim thuộc thể loại mẹ tôi thích, trong đó cô Doris Day, một kiểu bạn nữ trẻ trẻ xinh xinh, rời nhà đi chinh phục chốn phồn hoa đô hội và kiếm được một chân thư ký - nói như vậy là đủ thấy tôi chẳng trẻ trung gì nữa rồi. ngày đầu tiên làm việc ở một công ty quảng cáo danh tiếng, cô ấy - nhã nhặn trong váy liền màu hồng với cổ cánh sen trắng - đánh đổ cà phê lên khắp người anh chàng bảnh trai ở phòng thư tín. Nàng xấu hổ không để đâu cho hết, còn chàng quá say đắm vẻ thẹn thùng ấy, và đã phải lòng nàng ngay tắp lự. Sau rất nhiều thắt mở ngớ ngẩn, đôi trẻ làm đám cưới, nàng thôi việc để làm một quý cô nhàn nhã, đại thể giống như vị trí mà tôi đang từ bồ đây. Tôi những muốn hỏi Lauren xem ở đây có áp dụng kiểu kịch bản như vậy không. Cô lễ tân với sự nghiệp trở thành một người phụ nữ được chồng nuôi và chỉ việc hưởng thụ.
- Cô từng làm lễ tân phải không?
- À...
- Cô có thể xử lý được bao nhiêu đường dây điện thoại? Cô đã dùng hệ thống Rolm bao giờ chưa? Hoặc là Honeywell? - Lauren không để ý gì đến sự im lặng của tôi. - Xin lỗi nhé, chắc tôi đã gọi phỏng vấn khi cô chưa kịp điền hết vào đơn. Tôi sẽ ghi chú vào đây, khi chúng ta xong thì cô có thể làm bài kiểm tra kỹ năng đánh máy.
- Không cần làm bài kiểm tra ấy đâu chị ạ, tôi không đánh máy gì từ năm năm nay rồi.
- Không sao. - Chị ấy khẽ phất tay. - Giống như đi xe đạp ấy mà. Phản xạ sẽ quay trở lại khi cô bắt tay vào làm. - Lauren
nhìn khoảng trống ở mục “Kinh nghiệm”. - Hiện giờ cô có đang làm việc không?
Tôi từng đọc nhiều bài báo viết chắc như đinh đóng cột rằng nội trợ và công tác tình nguyện cũng có giá trị tương xứng với bất cứ công việc được trả thù lao nào. Dám cá là Lauren không hề đọc những bài báo ấy.
- Justine này...
- Wynter ạ, tôi thường dùng tên đệm.
- Xin lỗi nhé. Wynter này, cô cho tôi biết kinh nghiệm làm việc của cô được không?
Thở sâu, tôi nói:
- Ba năm dạy tại trường trung học. Một năm kinh doanh bất động sản...
Lauren nhìn tôi với vẻ trông đợi, chờ đến đoạn tôi nói vào công việc chính.
- Và tôi đã làm việc cho các ủy ban. Bệnh viện Cedars-Sinai, dàn nhạc giao hưởng... - Tôi lục tung trí nhớ ngắn hạn của mình, cố tìm cho ra điều gì đó ấn tượng hơn.
- Thế sao cô lại muốn làm việc văn phòng tạp vụ? Chỉ cần cô gia hạn chứng chỉ sư phạm hoặc kinh doanh bất động sản trở lại thì sẽ thu nhập được khá hơn đấy.
- Tôi không quay lại bất động sản được vì tôi làm dở tệ, chưa từng bán được thứ gì.
- Vậy dạy học thì sao? Gia hạn chứng chỉ sư phạm không khó...
- Tôi ghét dạy học lắm. - Tôi nắm chặt tay ghế bằng những ngón tay dinh dính mồ hôi.
Lauren ngả người ra sau, khoanh tay lại, nhìn tôi chừng như đang suy xét điều gì. Tôi có thể đọc được suy nghĩ trong mắt chị ấy: lại một nàng bảo ngọc ở khu Hancock Park hết được nuôi ăn đây mà. Trong bụng chị ấy chắc đang cười như điên mất. Lauren bắt chéo đôi chân thon, để một bên quai giầy cao gót trật khỏi gót chân. Rồi chị ấy nói, một cách lặng lẽ:
- Tôi không muốn làm cô sợ đâu, Wynter ạ, nhưng tôi ghét công việc này. Đôi khi ta phải làm những việc mà ta ghét cay
ghét đắng.
Tôi đã đứng dậy, chẳng hiểu sao tôi đứng như vậy từ bao giờ rồi.
- Cảm ơn lời khuyên của chị.
Tôi ra khỏi văn phòng bé xíu ấy, đi qua bàn lễ tân, rời khỏi công ty. Nếu đi nhanh, trông tôi sẽ như đang vội đến một cuộc hẹn phỏng vấn.
Tôi ngồi ở bãi đỗ xe, trong chiếc Mazda RX-7 vốn là quà tặng sinh nhật tôi cách đây ba năm. Khốn thật. Mi thì biết cái gì chứ? Tại sao tôi phải bận tâm tìm việc làm? Tối nay thôi, David và tôi sẽ ngồi lại với nhau và giải quyết sự việc đâu vào đó. Anh mệt và căng thẳng cực điểm. Chắc anh sẽ về nhà với hoa hồng trên tay hay gì đó tương tự, nói rằng anh xin lỗi... Chúng tôi sẽ đi xa vài ngày. Tới Mexico. Uống rượu margaritas, yêu nhau và ngủ. Mọi chuyện sẽ ổn cả. Tôi xoay chìa khóa khởi động xe. Tôi không cần việc làm. Đặc biệt là thứ việc văn phòng phục dịch thời vụ vớ vẩn và vặt vãnh.
Xe của tôi có mùi rất dễ chịu. Không rõ thợ rửa xe đã làm gì với lớp da bọc trên ghế mà xe vẫn còn mùi như mới thế này. Một món quà rất David. Anh định sắm cho tôi một chiếc Mercedes, nhưng tôi luôn thấy dòng xe ấy có vẻ ù lì kém thời trang. Tôi muốn thứ gì đó khiến tôi vui và hào hứng, thứ gì đó có cần số. Một chiếc Porsche chẳng hạn. Biết tôi ham tốc độ, anh đã dứt khoát không thể là Porsche được. Chúng tôi không nói đến chuyện đó nữa. Rồi, sáng hôm sinh nhật, tôi vừa xuống nhà đã thấy một hộp nhỏ đặt cạnh cốc nước cam. Tôi cứ ngỡ đó là món trang sức nào đó. Cơ mà nằm giữa những nếp xa tanh trắng là một chiếc chìa khóa đen. Chiếc RX-7 của tôi đang đậu bên ngoài, ngay sát mặt đường, dù trời trông như muốn mưa. Chúng tôi chạy xe vài dặm qua những ngọn đồi, cho đến khi mây trên đầu vỡ ra và rải mưa xuống.
• • •
Đã quá trưa mà tôi vẫn chưa ăn gì. Tôi tấp xe vào quán burger In-n-Out đầu tiên bắt gặp, gọi món qua cửa sổ xe ô-tô, hầu như không thấy rõ đó là thứ gì. Trở lại đường cao tốc,
hướng bắc theo đường 405, hướng tây theo đường 10, rồi đường PCH thẳng ra bờ biển. Lần đầu tiên tôi để ý hôm nay là một ngày đẹp trời biết chừng nào. Bên trái tôi là Thái Bình Dương xanh thẳm, lấm tấm những đỉnh sóng bọt tung trắng xóa, hắt màu trời biếc điểm xuyết những cụm mây trắng. Khung cảnh mà có bị lật ngược thì ta cũng chẳng thể phát hiện ra được, như những bức tranh trong truyện thiếu nhi vậy. Bên phải tôi, những sườn dốc nâu bao lấy bãi biển Malibu chốc chốc lại rực lên những mảng màu - những giàn hoa giấy đỏ thắm, từng vạt sen cạn màu vàng tươi và da cam, hoa xuyến chi tím ngát xen lẫn với ngọc giá trắng và cây bụi khô. Một khung hình muôn thuở như kéo dài ra mãi, trừ khi ta biết đôi chỗ trên đường có những đống đá chực lở ra và trượt xuống.
Vừa lái xe vừa nhét khoai tây rán vào miệng, tôi kín đáo quan sát những người đang chạy xe khác. Sao trông ai cũng như biết rõ mình đang đi đâu và sẽ làm gì khi đến nơi thế nhỉ?
Ký ức về những ngày hè thong dong hạnh phúc thôi thúc tôi rẽ vào đường ra bãi biển Zuma. Vừa tấp xe vào bãi đỗ gần như trống, tôi thấy một chiếc Mercedes đen và hơi thở lập tức như nghẹt lại. David ư? Dòng xe khác, biển số khác. Mà liệu anh có thể làm gì ở đây cơ chứ? Chiếc xe từ từ chạy qua tôi, một phụ nữ tóc đỏ cầm lái.
Tôi nhìn đăm đăm những con sóng bạc đầu cuộn vỗ vào bờ trong khi ban nhạc The Supremes tự hỏi “Tình yêu của chúng ta đã ra đi về đâu?”, còn tôi tự hỏi: ra đi khi nào. Được rồi. Đúng là gần đây không có nhiều những khoảnh khắc ngọt lịm như quảng cáo trên ti-vi, những tiếng cười và thậm chí những mục tiêu chung. Nhưng phải chăng như thế có nghĩa là tất cả đã hết? Miếng bánh burger phô mai đầu tiên rơi xuống dạ dày tôi như hòn đá rơi xuống một bể bơi cạn nước. Tôi dúi phần còn lại vào túi cùng với khoai rán đã nguội ngắt.
Tôi ra khỏi xe, tháo bỏ giầy và tất da chân. Đi qua mặt đường nhựa ấm lên dưới nắng, tới bờ cát ẩm ướt mát lạnh, choàng áo khoác quanh mình. Những trạm cứu hộ không người, ảm đạm co ro vào nhau là dấu hiệu rõ rệt nhất cho hay mùa thu đã đến miền nam bang California. Đôi khi đó là dấu hiệu duy nhất. Dọc theo bờ biển, một chú chó Lab lông vàng nhảy nhót cùng bọt
sóng trong khi người chủ thuần thục quăng những cây gậy đi. Lác đác có vài người lướt sóng mặc bộ đồ bó đen, thoăn thoắt đứng lên nhún xuống trên ván, chờ con sl óng lớn. Một người đàn ông và một phụ nữ tóc đã muối tiêu nắm tay nhau nhịp nhàng tập các động tác khởi động. Còn lại, chỉ có tôi. Một lưỡi sóng lạnh buốt liếm qua chân, tôi cứ đứng im, nước ngập đến mắt cá. Nếu không đi tiếp, tôi sẽ mất thăng bằng mất.
Gió biển mằn mặn đánh rối tóc tôi, phả vào làm hai mắt chảy nước. Tôi đi về phía bắc, bước qua những dải rong biển, những vỏ sò vỡ, nửa con cua bị ruồi bâu kín. Tôi từng đọc thấy người ta nói rằng khi bắt đầu nhận thức được cái chết không thể trì hoãn nổi của bản thân, phản ứng đầu tiên của ta thường là, Mình không thể chết được. Mình còn vé đi nghe opera tuần sau cơ mà. Tại sao lại như vậy? Khi phải đối mặt với những gì ta không muốn chấp nhận, tại sao ta lại cố gắng bảo vệ bản thân bằng những thứ nhỏ nhặt vặt vãnh ấy? Khi mẹ đến trường đón tôi ra khỏi lớp và nói bố tôi đã mất, suy nghĩ đầu tiên của tôi trước khi rơi vào trạng thái bị xúc động mạnh là, Vậy mùa hè này nhà mình không đi Tahoe được nữa sao?
Giờ khi các ngón chân đã ngấm lạnh đến nhăn lại, tê cứng, cố gắng bám vào bờ cát, tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là mẹ tôi sẽ thất vọng biết chừng nào. Bà luôn yêu quý David.
Trong câu chuyện theo phiên bản của mẹ tôi, anh là Hoàng tử Hào hoa. Chính anh đã giải cứu tôi khỏi - không phải khỏi rồng đâu nhé, mà là điều còn tệ hơn thế - khỏi mảnh đời nhàm chán của một cô giáo trung học chẳng mấy khi hẹn hò, các kỳ nghỉ thường đi chơi cùng những chị em độc thân khác. Anh đã lắp tôi vào một tòa nhà ở khu Hancock Park, cho tôi chiếc xe thể thao đỏ, quần áo đẹp, những món trang sức đắt tiền. Tất cả những gì tôi phải làm là ăn mặc vừa mắt, tổ chức những bữa tiệc tinh tươm, kết bạn đúng người, sẵn sàng đáp ứng khi anh muốn tôi, và không làm gì để anh bị bẽ mặt. Chẳng có gì phải thắc mắc nhiều.
Được rồi, đúng là tôi ghét dạy học. Khó có thể thổi bùng lên ngọn lửa say mê văn chương với những đứa trẻ có kỹ năng đọc hiểu dậm chân tại chỗ ở trình độ lớp năm. Đa phần trong số chúng chỉ giết thời gian ở lớp của tôi trong khi chờ sóng lên để
đi lướt ván, hoặc chờ đến giờ học môn khác, hoặc đến 3:10 phút, chuông báo tan học và thế là chúng có thể vù ra tiệm Bob’s Big Boy.
Cũng đúng là đời sống xã hội của tôi phần lớn xoay quanh mấy cô bạn gái - CM, Sandy và Liz. Nếm rượu vang, ăn tại nhà hàng độc đáo, xem phim Pháp, dự triển lãm nghệ thuật, tất cả những trò vui tiêu khiển rất đặc trưng của phụ nữ độc thân. Như vậy không có nghĩa là tôi không hẹn hò. Chắc chắn rằng không phải cái gì mẹ tôi cũng biết.
Theo kinh nghiệm rộng một cách đúng mực của tôi, những phẩm chất của đàn ông - như ấm áp, chân thành, rộng lượng - thường tỉ lệ nghịch với độ hấp dẫn của vẻ bề ngoài. Điều này dẫn tôi đến kết luận rằng các chàng càng đẹp trai thì càng chẳng ra gì, vì tất cả những người nữ mà họ biết, bắt đầu từ mẹ đẻ, đã làm hư họ mất rồi.
Bất chấp thực tế này, hoặc có thể tại vì thế, tôi bị cuốn hút bởi những người đàn ông cao ráo, tóc vàng và bảnh trai, - như thiêu thân lao mình vào lửa. Điều này, như CM, cô bạn thân nhất của tôi, nhanh chóng chỉ ra, có thể là do bố tôi, người tôi hết sức ngưỡng mộ và đã qua đời khi tôi mười bảy, là người cao ráo nhất, tóc vàng đẹp nhất, và điển trai nhất trong số tất cả nam giới. Nhưng bố cũng là cuối cùng trong những đàn ông tử tế.
Đã gần mười lăm năm kể từ ngày bố mất, nhưng tôi vẫn có thể đi vào căn phòng làm việc nhỏ trong nhà mẹ mà hình dung ra bố đang ngồi trên ghế da, tờ báo đặt trong lòng, một ly Manhattan mát lạnh trên bàn bên cạnh. Bố thích thứ rượu không ngọt với một chút cốt chanh ấy. Mẹ đã cáu khi bố dạy tôi cách pha chế.
Bố dạy tôi mọi thứ. Biết yêu sách vở. Biết cưỡi ngựa kiểu Anh trong khi các bạn tôi cưỡi kiểu miền tây. Bố mua cho tôi một chiếc ô-tô với cần số trong khi các bạn tôi lái xe số tự động. Bố dạy tôi biết ngắm nhìn vòm trời Tahoe vào những đêm tháng Tám trời trong, dõi theo sao băng để nguyện cầu điều gì đó. Buộc nút thủy thủ thế nào, đánh bóng ve trái ra sao. Quẹt diêm
bằng một tay. Thở trong khi bơi. Bố dạy tôi cách không sợ hãi khi mở to mắt dưới nước. Và cả trên mặt nước.
Đa phần đàn ông mà tôi biết đều không thể sánh được với bố. Ừm, có vài người có thể tôi không chắc lắm. Như Mark, anh họ của ai đó từ Del Mar, gặp tại một tiệc cưới. Andy, anh phi công có vợ ở Dallas. Một nhiếp ảnh gia với cái tên độc đáo Rocky Rivers. Dù sao tôi luôn cho rằng anh ấy quan tâm đến CM nhiều hơn. Chẳng ai trong số họ làm thế giới của tôi rung chuyển được cả.
Cho tới đêm tiệc sinh nhật lần thứ hai mươi ba của Paula bạn tôi. Tôi vẫn nhớ mình vừa đến đã bị cô ấy túm ngay lấy. - Có người này cậu phải gặp.
Tôi móc áo khoác lên giá treo mũ cạnh phòng kho ở hành lang.
- Tại sao chứ?
- Anh ấy cao. Cao hơn cậu.
- Thế thì là Frankenstein rồi.
Tôi bắt đầu đi dọc hành lang đến nhà vệ sinh, nhưng Paula đã kéo tôi lại.
- Không phải Frankenstein mà. Nào, rồi cậu sẽ cảm ơn tớ cho coi.
Cô ấy lôi tôi đến trước một quầy bar dựng từ bàn chơi bài trong phòng khách, nơi một anh chàng không thể cao hơn, tóc vàng hoe và đẹp trai đang mở một chai bia.
- Wyn ơi, đây là anh Dave. Anh Dave, đây là Wyn. Thế nhé. Paula biến luôn vào bếp. Tôi chỉ muốn chui ngay xuống dưới thảm, nhưng Dave mỉm cười và bắt tay tôi, xin lỗi vì tay anh đang lạnh. Đôi mắt anh xanh mênh mang, màu của đại dương tháng Bảy.
Rồi anh nói:
- Mà anh là David chứ không phải Dave. Em là Lynn phải không?
- Wyn ạ, như trong Wynter*.
Hồi đó, đa phần các anh chàng sẽ thốt lên y chang nhau rằng: “Wynter ư? Chắc như thế không có nghĩa là em lạnh lùng đâu nhỉ?”. Rồi họ sẽ phá ra cười rất ngốc.
Nhưng David mỉm cười và nói:
- Tên em hay thế. Chắc ngày xưa bố đặt tên cho em phải không?
Điều đó đã khiến gót chân tôi chao đảo tí chút.
Tôi rót cho mình một ly chardonnay, hỏi David đang làm việc ở đâu. Tôi nghe thấy cái tên Jamison, Markham & Petroff - JMP - một hãng quảng cáo rất thời thượng ở Beverly Hills.
- Ô, ra anh là gã đi thuyết phục những kẻ tai tiếng mua những thứ vô bổ mà họ không cần và không trả nổi sao? Anh khiêm tốn nhìn xuống đôi giày da Ý đang đi. - Không hẳn. Anh chỉ bán dịch vụ của mình cho những công ty khác thôi. - Anh dừng lại. - Nhưng theo cách nho nhỏ của mình, anh tạo điều kiện cho những loại hình sáng tạo bán được nhiều những thứ vô bổ cho những người-tiêu-dùng-tai-tiếng được-cái-lành-như-cừu. Em làm gì?
- Em dạy văn học cho tụi nhóc không đọc nổi.
- Nghe như một nghề phải chịu bạc bẽo ấy nhỉ.
- Có những ưu điểm nhất định. Mùa hè nghỉ dài và uống cà phê cháy bao nhiêu tùy thích.
- Chắc là em tận tụy với công việc lắm.
- Em tận tụy với chế độ ăn đều đặn.
Trông anh có vẻ suy tư.
- Chà, em luôn có thể...
- Wynter! Quỷ thần ơi, không thể tin được!
Mary Beth Cole, người tôi chưa từng gặp lại kể từ hồi tốt nghiệp - và có lý do để không muốn gặp - lách mình len qua cả đám người ở hành lang. Cậu ấy lao bổ vào tôi như thể chúng tôi là cặp song sinh bị chia cắt từ thuở lọt lòng, rồi, không chút ngập ngừng bối rối, cậu ấy vuốt mớ tóc giả màu đỏ ra sau và chìa tay ra với David. Vòng xuyến lúc lắc lanh canh theo tay cậu ấy.
- Em là Mary Cole ạ, - cậu ấy nói, mỉm cười tươi rói.
Tôi để ý thấy David nhìn vào phần cổ khoét sâu trên chiếc áo yếm của Mary, trong khi cậu ấy quay sang nhìn tôi đầy kinh hãi. - Mình nghe nói cậu đi dạy ở trường phổ thông. Làm ơn hãy nói rằng chuyện đó không có thật đi. Mình không thể hình dung nổi cậu... Mình đang làm phát triển thị trường cho một công ty vi mạch nhỏ tên là Feldspar. Lương bèo bọt thôi, nhưng mình yêu công việc lắm.
Tôi không có hơi sức đâu mà biện hộ cho bản thân, biết chắc rằng cậu ấy cũng chẳng mảy may quan tâm. Rồi một giọng quen thuộc khác từ quá khứ vút lên choe chóe:
- Wyn! Mary Beth! Không thể tin được! Cứ như là tuần lễ ôn lại chuyện cũ vậy. - Susan Carmody, tóc vàng, rám nắng, một người nữa chạy khỏi đại học UCLA. - CM có ở đây không? - Susan quét cặp mắt xanh nhìn khắp phòng.
- Cậu ấy đang ở Baja, - tôi đáp.
Miệng cười của Susan phô ra hàm răng quá ư trắng sáng, tôi có cảm giác như mình đang ở trong phòng trưng bày đồ gia dụng, trước một hàng tủ lạnh vậy. Cậu ấy liến thoắng về sự nghiệp đang lên trong vai trò người tạo hình cho món ăn, làm việc tự do. Đây dường như là điểm dừng chân đầu tiên trên con đường sự nghiệp nhắm tới những hoạt động nghệ thuật sôi động trong nước. Ba người bọn họ bắt đầu trao đổi danh thiếp; ai đó tăng âm lượng dàn stereo và Boz Scaggs hát vang “Lido Shuffle”.
Đây chính là thời điểm thuận lợi để biến mất.
Tôi luôn không thích cách chị em phụ nữ quýnh quáng loạn xị như những thí sinh trong cuộc thi chó Westminster chỉ để gây ấn tượng với đàn ông.
Tối hôm đó, như rất nhiều những buổi tối khác, tôi bế mạc ở trong bếp, nhấm nháp rượu vang và buôn chuyện với ba, bốn người bạn bên cái bàn phoóc-mi-ca màu hồng của Paula. Một lúc sau, cô chủ bữa tiệc sinh nhật xuất hiện, lúc lắc mái đầu.
- Cậu làm cái quái gì ở đây thế? Sao không ra ngoài kia tận hưởng đời mình đi nhỉ? Cậu có thấy anh chàng quá được không?
- Anh ấy có vẻ tốt. - Tôi bốc một nắm bỏng ngô phô mai từ cái bát Paula đang cầm.
Cô ấy vẫn ngao ngán lắc đầu nhìn tôi.
- Cậu biết đấy, không phải lúc nào cũng vớ được một anh chàng như Dave đâu.
Tôi nhấp một ngụm chardonnay.
- Cậu biết đấy, anh ấy là David chứ không phải Dave nhé. Cô ấy thở hắt ra một tiếng rõ to, vớ lấy chai rượu mới rồi quay lại với bữa tiệc.
Khoảng mười giờ rưỡi, không còn nén nổi cơn ngáp liên miên nữa, tôi khua tay xuống gầm bàn mò cái ví rồi đi chào Paula. Ở hành lang, tôi chạm mặt David.
- Anh chưa kịp hỏi tên đầy đủ thì em đã đi mất rồi. Wyn... - Morrison ạ, - tôi đáp, không tin nổi anh vẫn nhớ tên mình. Anh nói lại với tôi rằng anh là David (không phải Dave) Franklin.
- Rất vui được gặp anh, anh David-không-phải-Dave Franklin. Nhưng thực sự em phải về rồi. - Tôi với lấy áo khoác treo trên giá.
Anh chỉ vào chiếc đồng hồ Omega trên cổ tay.
- Em biến thành bí ngô khi đồng hồ điểm mười một giờ à? - Mười một giờ mười lăm. Em luôn thích về đến nhà trước giờ đó ạ.
- Em cần người đưa về không?
- Em ở ngay tầng trên.
Một nụ cười hớp hồn:
- Anh hộ tống em về nhé?
Tôi nhìn anh, bỗng dưng bực mình.
- Đó là tại nhiễm sắc thể Y phải không ạ?
- Sao cơ?
- Nam giới chỉ quan tâm khi bị nữ giới phớt lờ.
- Anh không biết là em đã phớt lờ anh đấy.
Tôi kéo áo khoác.
- Chậc, giờ thì anh biết rồi nhé.
- Vậy như thế có phải là em không có thời gian ăn tối với anh đúng không?
- Nguyên tắc bất di bất dịch của em là không hẹn hò với những người đẹp hơn em.
Tôi quay đi và lách người qua cửa.
Tôi đi được nửa chừng cầu thang thì cơn hối hận đầu tiên cuộn lên trong lòng. Trong giây lát, tôi đứng trước của phòng mình và cân nhắc sự khó khăn khi quay lại bữa tiệc. Lấy lý do gì được nhỉ? Tôi để quên kính râm ư. Được thôi, bên ngoài tối thui mà. Tôi có thể xin lỗi vì đã có phần khiếm nhã. Không được. Không nên bắt đầu với một người đàn ông bằng một lời xin lỗi. Như thế là tự đặt ra tiền lệ nguy hiểm.
Rút cục, tôi thầm nhún vai, mở cửa, bò vào giường với cái ti vi xinh xinh.
• • •
Hôm sau, Chủ nhật, là một trong những ngày đậm chất Raymond Chandler ở Los Angeles mùa thu năm nay. Trời hanh và khô, gió Santa Ana thổi mạnh, lùa bụi qua những khe cửa sổ, tiết trời đầy bất an đối với lính cứu hỏa. Điều hòa nhiệt độ trong căn hộ của tôi như sắp không trụ nổi, ráng phì phò làm mát ba gian phòng nhỏ.
CM đang ngao du đâu đó ở Baja với bạn trai. Tôi tính đi xem phim một mình, nhưng có vẻ chẳng bỏ công ra ngoài. Tôi thấy đói nhưng không muốn nấu ăn. Thời tiết mệt mỏi nhưng tôi không thấy muốn ngủ. Và tôi vô cùng chắc chắn rằng mình không muốn chấm ba mươi bảy bài kiểm tra từ vựng đang bị đày đọa trong cặp táp.
Tôi quyết định làm bánh mì. Điều này luôn khiến tôi thấy dễ chịu hơn - hoặc chí ít là thấy mình vững chắc hơn. Tôi mở nắp nhựa cái hộp đựng chef và hít sâu mùi ngai ngái dễ chịu của thứ nấm men ấy. Chef này ban đầu là chút bột nhào tôi có được từ một hiệu bánh ở Toulouse, nơi tôi đã theo một chương trình vừa học vừa làm vào mùa hè sau năm thứ nhất ở UCLA. Đến nay, men bánh gốc từ Pháp đã cưới đi cưới lại không biết bao nhiêu bột mì Los Angeles, đến mức triều đại này
chắc đã bị bản địa hóa rồi. Nhưng tôi vẫn thích thú nghĩ rằng có phảng phất hương vị Pháp trong từng ổ bánh.
• • •
“Souvenir” - một danh từ trong tiếng Anh - một từ nghe cũng giống như bưu thiếp, áo phông, chùm chìa khóa rẻ tiền với nước sơn đã bong tróc. Trong tiếng Pháp, souvenir là một động từ. Nó có nghĩa là “nhớ lại”. Mỗi khi bắt được mùi men bánh chua chua, je souviens, tôi nhớ lại mùa hè năm ấy ở Toulouse. Tôi nhớ lại Jean-Marc, vị maître boulanger, chủ tiệm bánh với đôi mắt đen; hơi nóng phả ra từ lò nướng; nhịp điệu kéo và nhào bột bánh. Hơi thở của tôi như nghẹt lại mỗi khi Jean-Marc gọi tôi “Weentaire”* bằng chất giọng Pháp trầm ấm.
• • •
Tôi múc một thìa chef vào bát, trộn cùng một cốc nước và một cốc bột mì, rồi để đấy cho nấm men thỏa sức sinh sôi. Đến nửa đêm, thứ này sẽ thành levain, bột ủ men. Tôi vừa cất bột mì vào lại tủ bếp thì nghe thấy tiếng chuông cửa. Chắc là Paula chạy qua buôn chuyện hậu-tiệc-sinh-nhật. Tôi ra phòng khách và mở cửa.
Richard Nixon đang đứng ở đầu cầu thang, tay bưng một hộp pizza màu nâu đang tỏa ra mùi tỏi thơm lừng. Hoặc ai đó đang đeo mặt nạ Richard Nixon. Một cảm giác chờn chợn nhồn nhột bò dọc gáy tôi.
- Sát thủ hoang tưởng Pizza Shack tóm được nạn nhân thứ hai tại Westwood.
Đến đây tôi chợt nhận ra đôi giầy da Ý.
- Anh nghĩ món này giải quyết được vấn đề những-người đẹp-hơn-em, nhưng anh không thể đơn phương chiến đấu được.
Trái với ý chí của mình, tôi bật cười.
- Tỏi. Không có cá khô. Hi vọng là em đang đói bụng.
Sao anh biết hoa không có tác dụng nhỉ? Khi lùi lại nhường lối cho anh vào, tôi có thể thề rằng đã thấy cuộc đời mình văng đi như con tàu vũ trụ bị mất kiểm soát trong phim 2001 vậy.
Chúng tôi ngồi xuống xô-pha, anh đặt hộp pizza lên bàn uống cà phê, gỡ mặt nạ ra. Anh không thể ngăn một tay mình lùa qua tóc để chắc chắn rằng những nếp tóc lộn xộn một cách quyến rũ. Nhưng thậm chí khi làm vậy, nụ cười anh dành cho tôi có chút bối rối xấu hổ. Tôi chưa kịp quyết định mình nên đanh đá hay cau có, thì anh đã lên tiếng:
- Tối hôm qua chắc chúng ta đã bước nhầm chân rồi. Một nhận xét khá rộng lượng đối với sự thô lỗ của tôi. - Anh muốn xin lỗi nếu có gì không phải với em.
Ngoài sức tưởng tượng. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là mình sẽ mô tả lại khung cảnh này với CM thế nào đây. Tôi không biết nói gì hơn, đành hỏi anh có muốn uống bia không. - Loại nào?
- Em chỉ có Molson thôi.
Anh thoáng nghĩ, rồi nói:
- Em có loại rượu vang nào không?
Sau khi xem qua bồ sưu tập gồm bốn chai của tôi, anh mở một chai Zinfandel Ravenswood. Tôi lấy hai cái đĩa, chỉ cho anh chỗ để những ly pha lê chẳng ăn nhập gì với nhau. Anh hít hà không khí trong bếp.
- Đây là mùi gì nhỉ?
- Bột ủ men. Để làm bánh ạ. - Đối với một số người, tôi thường tránh đề cập và giải thích khái niệm về chef và levain. - Dễ chịu thật. Chua chua ngai ngái.
- Có lẽ vì nó đúng là như thế mà, - lẽ ra tôi định nói gì đó sắc sảo hơn.
- Em có muốn anh đi không?
Sự cục mịch của mình khiến tôi bối rối.
- Không phải vậy. Em chỉ không biết chuyện gì đang diễn ra nữa, khi không thoải mái thì em hơi... dễ mất bình tĩnh. Tới lúc đó, anh đã xác định được chỗ tôi để khăn lau và đang đánh bóng chiếc ly. Trong tích tắc tôi tự hỏi không biết anh có
phải là người đồng tính không nhỉ.
- Anh làm em không thoải mái ư?
- Ơ... vâng.
Quay trở lại xô-pha, tôi cắt pizza và đặt lên đĩa, bôi phô mai lung tung ra khắp nơi. Trông anh có vẻ như muốn dọn dẹp màn tèm lem đó, nhưng đã cố kiềm lại.
- Sao em lại không thoải mái? Ý anh là... - Anh cắn một miếng bánh, nhai như thể đang thưởng thức Caille au Citron avec Beurre Blanc. - Tối hôm qua đang nói chuyện rất vui, anh quay lại thì em đã đi mất rồi.
- Em ở trong bếp, muốn tìm em thì có khó lắm đâu. Anh phớt lờ lời trách.
- Đến khi cuối cùng cũng thấy em, thì em đi luôn và đóng ngay cửa vào mặt anh. Anh đã làm điều gì xấu xa đáng trách lắm ư?
- Không, không phải như vậy. Chỉ là... - Ngồi trong ánh sáng chan hòa từ ô cửa sổ nhìn ra hướng nam của mình, thong thả ăn pizza rất ngon và uống thứ rượu êm đậm đà, thật khó có thể diễn tả cảm giác bất an lo sợ trong lòng. Tôi nhìn nghiêng sang anh, hỏi. - Sao anh đến đây?
- Vì anh thích em.
- Tại sao? Anh có biết gì về em đâu.
- Anh biết em rất... cuốn hút.
Tôi bắn sang anh một cái nhìn cảnh cáo.
- Chà, có lẽ không theo nghĩa truyền thống, nhưng chắc chắn em có... Anh không biết nữa. Em khiến anh nghĩ đến một cô phụ trách trại hè.
- Phụ trách trại hè ư?
- Ừ, em biết đấy, kiểu người ưa ở ngoài trời. Sạch. Tôi tiếp tục nhìn anh cảnh cáo.
- Anh nói năng chả ra sao cả nhỉ?
Tôi lắc đầu.
- Em làm anh cười. Và em có chính kiến.
- Để xem em có hiểu đúng không nào. Em khiến anh nghĩ đến một cô phụ trách trại hè học sinh vui tính và có chính kiến. Điều
đó cuốn hút anh sao?
Anh gật đầu, như thể đó là điều vô cùng bình thường khi nói với phụ nữ.
- Chỉ là em rất khác với hầu hết những cô gái anh đã gặp. Anh gần như đỏ mặt, nhưng không hẳn.
Tôi ngồi nghiêng trên xô-pha để có thể nhìn anh mà không phải ngoái đầu. Khuôn mặt anh hoàn hảo. Không đẹp, nhưng là tổng hòa của những gì cần thiết, không gì thừa, không gì lãng phí. Vẻ cân đối đáng sợ của Blake*.
- Em chẳng động viên anh chút nào cả, - anh nói. - Em đang có ai khác phải không?
- Hiện tại thì không. Còn anh?
- Không, - anh đáp.
- Sao lại không? - Tôi chưa bao giờ có kiểu chất vấn người khác thế này, nhưng không tài nào ép bản thân dừng lại được. - Anh bận nhiều việc.
- Bận á?
- Anh làm việc rất nhiều. Còn em thì sao?
- Em kén chọn.
Tiếng cười của anh đầy ngẫu hứng và rất dễ lây.
- Anh nhận thấy điều đó từ ngoài cửa rồi.
- Thế giờ bỗng dưng anh không bận và muốn dành thời gian với em sao?
- Nếu anh đáp ứng được các thông số kỹ thuật chính xác của em, thì đúng là thế đấy. Vậy có gì nghiêm trọng không? - Không phải thế...
Anh ngả người về phía trước, khuỷu tay tì lên đầu gối. - Em cứ nói không phải thế. Vậy thì là cái gì?
- Em không biết nữa.
Anh nhìn thẳng vào tôi, khuôn mặt vẽ lên nụ cười quyến rũ nhất.
- Anh cũng không biết. Em nghĩ chúng ta có nên tìm ra không?
Hai
CHÚNG TÔI ĐÃ TÌM RA NHAU.
Chúng tôi phát hiện ra rằng cả hai đều thích nhạc cổ điển. Thậm chí là opera. Rằng cả hai đều thích phim kinh dị và đều nhắm tịt mắt khi đến cảnh máu me. Cả hai cùng thích món ăn Pháp, rượu ngon, đặc biệt khi có người nấu nướng, bày biện và dọn dẹp giúp.
Tôi phát hiện ra David thực sự thích mua sắm, và theo thống kê thì phải bảy triệu đàn ông mới có một người như vậy. Anh không phật lòng khi tôi đánh quần vợt thắng anh, và tỏ ra thích thú khi không phải lúc nào tôi cũng ngay ngáy lo bảo toàn lớp son phấn trang điểm hoàn hảo.
Giống tôi, anh cũng là con một, nhưng đến đây thì hết tương đồng. Bố mẹ anh, bác Martin và Estelle, đã nghỉ hưu tại Monterey. Anh nói về bố mẹ một cách rất xa xăm, kể nhiều về sự nghiệp - bố Martin là giáo sư ngành khoa học chính trị, mẹ Estelle làm tư vấn giáo dục - hơn là về chính con người họ. David kể chuyện gia đình mà nghe như đang đọc sơ yếu lý lịch. Anh nghe tôi kể những câu chuyện màu hồng về bố tôi với một chút hoài nghi và ghen tị.
Buổi tối nọ trong một nhà hàng nhỏ ở Santa Monica, tôi biết được quan điểm của anh về một vấn đề gia đình khác - và, ngạc nhiên hơn, quan điểm của chính tôi nữa. David vừa khoe vốn hiểu biết sành sỏi về rượu với người bồi bàn, thì một đôi vợ chồng trẻ đưa một bé lẫm chẫm và một bé sơ sinh vào, ngồi xuống bàn ngay cạnh chúng tôi.
David liếc nhìn họ rất nhanh, còn họ hầu như không nhận ra sự để ý của anh. Anh quay lại nhìn tôi và cả hai tiếp tục câu chuyện đang nói về một triển lãm ảnh đen trắng mới mở tại bảo
tàng nghệ thuật Los Angeles. Người bồi bàn vừa mang rượu lại cho chúng tôi thì ở bàn bên, chị vợ đưa đứa con lớn đang vặn vẹo như sâu cho chồng, rồi nhỏ vài giọt sữa trong bình lên cổ tay mình kiểm tra độ ấm. Đột nhiên David đứng dậy, cầm lấy áo khoác và chỉ một bàn ở phía bên kia căn phòng.
- Anh không chịu được mùi sữa cho trẻ con à? - Tôi hỏi khi chúng tôi lách qua các bàn ghế, anh bồi theo ngay phía sau. - Anh chỉ biết chuyện gì sắp diễn ra thôi, - anh đáp khi chúng tôi đã yên vị.
Chúng tôi chạm ly, và như chỉ chờ có thế, em bé ở phía bên kia căn phòng bắt đầu khóc toáng lên. David ghé mũi sát miệng ly, ngửi mùi rượu, nhấp một ngụm nhỏ, chủ ý giữ trong miệng chừng năm giây rồi mới nuốt xuống.
- Anh từng thử hình dung mình làm bố, - David nói. - Chẳng hiểu sao không hình dung ra nổi. Có lẽ phải một thời gian nữa. Sau khi anh đã làm hết những gì muốn làm.
Thời khắc đó là một lễ Hiển linh* nho nhỏ đối với tôi. Tôi nhận ra tôi chưa từng hình dung mình làm mẹ. Không biết tại sao. Có lẽ có chút tác động từ công việc dạy học ở trường. Nhiều lần giữa các tiết dạy, tôi đứng ở ngưỡng cửa phòng giáo viên, trong sảnh của trường hay căng-tin khi tôi ăn trưa một cách nghĩa vụ; những lúc ấy tôi quan sát đám học trò náo loạn gần như không tài nào kiểm soát nổi quanh mình. Cái lũ nhất quỷ nhì ma thứ ba chúng nó này, cơ thể lớn nhanh quá, bộ não không phát triển theo kịp được, và với một số đứa, sẽ là không bao giờ kịp. Khi quan sát như vậy, tôi cố gắng xác định những giai đoạn phát triển trong cái quá trình biến hình kinh khủng từ những đứa trẻ tóc tơ mũm mĩm thành những cậu chàng lúc lầm lì, lúc bốc đồng, những cô nàng tâm tư rối như mì sợi luôn khúc kha khúc khích.
Cũng tốt khi tự nhắc mình nhớ rằng chính tôi và CM đã từng có thời tâm tư rối như mì sợi, rồi cũng đã đứng đắn chín chắn lên. Chỉ là viễn cảnh làm mẹ không phải là điều khiến tôi quan tâm, dù chỉ chút ít mơ hồ.
Tôi đặt ly của mình xuống. Câu hỏi chưa đặt ra vẫn đang treo lơ lửng đâu đây. Tôi khẽ nhún vai.
- Khá thật lòng, em chưa từng nghĩ nhiều đến chuyện này. Biểu cảm của anh gần như một kiểu thở phào.
Nhưng tôi nghĩ mấu chốt của những gì tôi muốn biết là quan điểm của anh về tính dục. Tôi chưa bao giờ cảm thấy mình bị hối thúc hay ép buộc gì. Kể từ khi rút cục cũng thu xếp được màn hết-giữ-trong-trắng với Giles, anh họ của Sylvie, chỉ vài ngày trước khi rời Pháp về Mĩ; tôi đã kết luận được rằng tính dục là một hoạch định rất hên xui - xui nhiều hơn hên. Tôi luôn thích khúc dạo đầu hơn là phút cao trào, gần như xác định rõ được rằng tất cả chỉ có thế, dù mấy cô bạn tôi tâm sự như thể đó là điều gì đặc biệt lắm.
Tôi cũng kết luận rằng tính dục có thể hoàn toàn phá hỏng một mối quan hệ. Một khi đã chung giường với bạn gái, các anh chàng mặc nhiên cho rằng mọi buổi hẹn hò tiếp theo sẽ kết thúc ở trên giường. Nếu đó không phải là nơi cô gái muốn đến, thì cô sẽ phải mất cả buổi tối vắt óc tìm cớ từ chối một cách duyên dáng. Không thể tránh được những cuộc thảo luận xem có nên làm chuyện đó hay không, kèm theo đủ thể loại lý do. Đôi khi ta muốn thử “chỉ là bạn thôi nhé” nhưng điều đó không bao giờ xảy ra một khi đã bước qua cái giới hạn kỳ diệu. Rút cục sẽ không bao giờ gặp lại anh chàng nữa, dù ta có thể rất thích sự bầu bạn của chàng.
Tôi lưỡng lự phải bắt đầu chặng đường ấy, hình như David cũng cảm nhận được. Thậm chí còn như hiểu được. Tôi cho phép bản thân nghĩ rằng anh không giống những người khác.
• • •
Cơ mà, tôi không hình dung được chuyện lại trở nên nghiêm túc. Một cảm giác là lạ - không phải là không dễ chịu - đối với tôi khi cùng đi với một người đàn ông có thể khiến mọi phụ nữ phải ngoái nhìn. Thỉnh thoảng khi nhìn nụ cười của anh, tôi có linh cảm phải quay người lại ngay, như thể đối tượng thực sự của nụ cười ấy đang đứng sau lưng tôi. Tự nhủ chuyện này rồi sẽ kết thúc, nếu không phải tuần sau thì sẽ là tuần sau nữa, tôi cố
gắng không quá bận tâm, và dù không làm được thì cũng cố không để lộ ra. Điều này trở nên ngày một khó hơn, khi thu chuyển mình sang đông.
David tiếp tục là một đấng mày râu hoàn hảo, sâu sắc và chu đáo. Mối quan hệ của chúng tôi cứ du dương như thế, dù chẳng có vẻ gì là sẽ du dương về đâu. Tôi nhớ lại tất cả từ những ngày đầu và bắt đầu lo lắng tại sao anh không tìm cách ngủ với tôi. Anh hôn rất nồng nàn, nhưng không bao giờ vượt quá giới hạn. Rồi một hôm, anh đưa tôi đi ăn tối ở Beau Rivage, một nhà hàng nhỏ lãng mạn ban sơ treo mình trên bờ đá nhìn xuống bãi biển Malibu. Chúng tôi uống champagne, ngắm mặt biển đen huyền như nhung, thi thoảng nhấp nhánh đốm sáng từ những con tàu chạy qua, và những dải sóng xa xa cuộn lên từng hồi, mềm mại như ren dưới ánh trăng. Sáu tuần qua chúng tôi chẳng khi nào thiếu chuyện nói với nhau, giây phút này bỗng trở nên yên ắng quá.
Sau đó, anh chạy chiếc T-Bird đen từ từ dọc cao tốc Pacific Coast, tắt radio và lơ đãng mở cửa sổ, dù khi ấy là đầu tháng Mười hai, gió ẩm và lạnh. Đã muộn và chỉ còn lác đác xe chạy trên đường, những con sóng lớn sát mép nước vỗ ì ầm trong không gian tĩnh lặng. Anh không nói gì trong khi lái xe, chỉ tập trung vào những khúc cua ẩn hiện trước mặt. Tôi co ro trong áo khoác, trong lòng tin chắc rằng tất cả thế là hết. Lúc trước anh đưa tôi đến cái nơi đáng yêu ấy chỉ cốt để tình thế trở nên nhẹ đi. Hẳn là anh sắp nói với tôi rằng tất cả đã kết thúc.
Chúng tôi chạy xe theo một dải đường cheo leo chết người dẫn vào ngôi nhà nhỏ của anh ở Hollywood Hills. Khi anh tắt động cơ và rút chìa khóa, tôi quay mặt ra cửa sổ, không nhúc nhích để ra khỏi xe.
- Anh cứ nói đi.
- Vào nhà đi, ngoài này lạnh lắm, - anh nói.
- Chính anh mở cái cửa sổ quái quỷ ấy ra còn gì. Anh cứ nói đi.
- Nói gì cơ...?
- Đừng ngây ngô thế, cứ nói đi. Rồi anh có thể đưa em về nhà.
- Ý em muốn nói gì thế?
- Còn chuyện gì được nữa, thế là hết.
- Hết ư?
Tôi quay ngoắt lại.
- Chỗ này là phòng giữ tiếng vọng hay sao ấy nhỉ? Anh xem, em sẽ không sướt mướt ủy mị khóc lóc lôi thôi trong cái xe sạch như lau như ly này đâu. Anh chỉ việc nói gọn rằng anh không muốn gặp em nữa, rồi có thể đưa em về nhà. Em sẽ vẫn sống thôi.
Tiếng cười của anh phá vỡ bầu im lặng.
- Em đang nghĩ thế sao?
Không đợi nghe câu trả lời, anh ra khỏi xe, đóng cửa, đi sang phía bên kia và mở cửa xe phía tôi ngồi. Tôi mặc cho anh nắm tay và nhẹ nhàng kéo tôi ra khỏi chỗ ngồi.
- Em không biết chuyện gì đang xảy ra nữa, - tôi nói. - Và khi...
- Anh biết. Khi không biết chuyện gì đang xảy ra, em rất dễ mất bình tĩnh. Thôi nào, muốn mất bình tĩnh thì cũng vào nhà cho ấm đã.
Tôi đã vào nhà anh vài lần, nhưng luôn là ban ngày. Ấn tượng của tôi là căn nhà lạnh ấy lạnh lẽo, giống chỗ ở tạm, dù trên tường treo những bức ảnh nghệ thuật đen trắng và trong phòng kê chiếc xô-pha bọc da màu caramel. Giống một nơi để chụp ảnh làm mẫu hơn là nơi thực sự có người ở. Tất cả đều ngăn nắp, không có lấy một hạt bụi. Không có những tờ báo cũ, hoặc những cuốn sách nằm úp đánh dấu chỗ đọc dở. Không có ly cốc trong bồn rửa. Không có tiền xu lẻ trên bàn ăn. Không thư tín xếp thành chồng cạnh điện thoại.
Buổi tối, ngôi nhà hoàn toàn khác. Những ngọn đèn tỏa sáng từ những vị trí rất hợp lý, khiến các căn phòng đầy hình khối và rất có chiều sâu. Lửa đã được cơi trong lò sưởi, một băng ghi âm của Oscar Peterson được bật sẵn, thêm rượu vang ướp lạnh trong xô đá. Tất cả đều được chuẩn bị đâu ra đấy. Dành cho tôi. Anh đang quyến rũ tôi. Tôi thấy phấn chấn, cảm động và lâng lâng sung sướng.
Gần ngôi nhà nhỏ của ông bà tôi bên bờ sông Russian, có một eo nước trong vắt, mát lạnh và sâu. Những chiều hè nóng nực, tôi thường ngoi lên từ mặt nước, ướt nhẹp và run run, tới nằm trên phiến đá ưa thích. Mặt trời ấm áp và làn nước mát mượt, tôi thích cảm giác mép nước êm ái ngay dưới tay mình. Cơ thể anh cũng như vậy. Sự gần gũi của anh thiếu chút ngẫu hứng, nhưng anh đền lại bằng sự nồng nàn. Từng phân trên cơ thể tôi chưa bao giờ được âu yếm đến vậy.
• • •
Chẳng rõ lúc nào, trời đổ mưa. Thoạt đầu nghe êm êm, rồi ràn rạt tầm tã, đến mức tôi ngỡ như ngọn đồi sẽ nhão ra, căn nhà có anh và tôi ở trong sẽ trôi xuống Sunset Boulevard. Rút cục tang tảng sáng, trời cũng thôi làm mưa, chúng tôi mệt nhoài ngủ thiếp đi.
Trong ánh ngày, tôi phát hiện ra đôi mắt xanh như đại dương của anh hóa ra là màu xám. Anh nhìn tôi đang chăm chú ngắm anh và mỉm cười.
- Bắt quả tang nhé, - anh nói, kéo tôi lên trên anh. Mười ngày sau, vào sinh nhật thứ hai mươi tư của tôi, anh ngỏ lời cầu hôn. Tôi đã sửng sốt và cảm thấy biết ơn, gần như bằng mẹ tôi.
• • •
Sau khi cưới, tôi đã có một năm ngoạn mục buôn bán bất động sản - tệ hại một cách ngoạn mục. Cuối cùng, công ty đồng ý không tính chi phí đã bỏ ra đào tạo chuyên môn cho tôi, với điều kiện tôi hứa không bao giờ quay lại ngành bất động sản nữa. Tôi lừng chừng tìm công việc nào đó khác, vì tôi muốn có thu nhập của mình, nhưng rồi David đã chỉ ra rằng nếu xét hết cái lợi cái hại khi đóng thuế, thì tôi không làm việc lại hơn. Và tôi sẽ có thêm thời gian làm những việc anh muốn tôi làm. Khi ấy tôi chẳng cần anh phải thuyết phục nhiều hơn.
Những gì anh muốn tôi làm cũng đủ dễ chịu. Tôi là Cô Vợ Điều Hành - nữ chủ nhà duyên dáng, biết giữ các mối quan hệ.
Anh đưa tôi các loại sách để đọc, đăng ký mua Nhật báo Wall Street, Thời báo New York số Chủ nhật, và Tạp chí Los Angeles. Anh đảm bảo chắc chắn rằng tôi có đọc các số Thời đại Quảng cáo của anh. Anh kể tỉ mỉ cho tôi nghe những gì diễn ra ở văn phòng, họ đang làm gì với khách hàng nào, và theo quan điểm của anh, họ có thể sẽ bị tuột mất đối tác này, đang nhắm đến đối tượng kia.
Ba hoặc bốn tối một tuần, chúng tôi tổ chức tiệc, đi dự tiệc, ăn tối, chiêu đãi, hòa nhạc, khai trương phòng trưng bày nghệ thuật, xem kịch. Còn có những giải đánh golf nửa chuyên nghiệp nửa nghiệp dư, những sự kiện gây quỹ mang màu sắc chính trị, những cuộc đi bộ đường dài, đấu giá rượu vang. Tôi làm việc cho các ủy ban của dàn nhạc giao hưởng, bệnh viện Cedars-Sinai, câu lạc bộ Sierra. Tôi rèn luyện thân thể nghiêm túc như hành lễ tại trung tâm thể chất Los Angeles, đánh quần vợt tại câu lạc bộ mà công ty JMP đã trả phí hội viên cho chúng tôi. Và những lúc rảnh, tôi ăn trưa với “bạn bè”, đa phần là những phụ nữ có chồng ở các vị trí chiến lược mà David muốn quen biết.
Tôi sớm nhận ra rằng trước đây anh đã không đùa khi nói anh bận đến mức không có thời gian để hẹn hò. Dường như anh hăm hở hào hứng với mọi hoạt động, nhưng tôi thì bị kiệt sức, mơ hồ cảm thấy chẳng dễ chịu gì, như thể tôi là kẻ hai mặt siêu hạng, sớm muộn cũng sẽ bị bóc mẽ. Tôi thấy có lỗi khi xây dựng tình bạn trên cơ sở họ có tiềm năng giúp đỡ chúng tôi về mặt kinh tế. Nhưng David giải thích rằng đây là công việc của tôi, tôi là cộng sự của anh. Và bất cứ công việc nào cũng có những khía cạnh kém phần thú vị, thậm chí còn gớm ghiếc, nhưng lại hết sức cần thiết. Trong những lúc quá ít ỏi và quá chóng vánh chúng tôi có thể giãn ra bên nhau, anh đều khiến mọi thứ trở nên ổn thỏa.
Một thời gian, đã là như vậy.
Sáng hôm ấy, thức dậy và thấy cổ họng đau rát, toàn thân rã rời như thể mình là tấm thảm chùi chân cho một đàn bò dậm qua, tôi nằm trên giường, vật vờ nửa tỉnh nửa mơ chừng như muốn ốm, trong đầu vơ vẩn vài suy nghĩ vụn vặt về cuộc đời mình. Tôi thoáng sững lại khi nhận ra mình đã lấy chồng được
năm năm. Rằng hàng tháng nay tôi không gặp cô bạn thân nhất, và không nhớ nổi lần cuối nói chuyện với mẹ là khi nào. Hoặc là đọc một cuốn sách chỉ để cho vui.
Hoặc là làm một ổ bánh mì. Thứ chef mà tôi đã mang theo lên máy bay từ Pháp về nhà, dùng suốt sáu năm - hay bảy năm ấy nhỉ - đã bị hỏng từ lâu vì tôi quên không cho nó ăn. Tôi đã buồn và khóc suốt mấy ngày khi nghĩ rằng đám nấm men bé bỏng trung thành của mình đã đói đến chết, chết đuối trong chính chất a-xít mà chúng tạo ra. Thấy tôi như vậy David đã phát hoảng. Anh sẵn sàng đưa tôi đến gặp bác sĩ tâm lý ở Beverly Hills để theo một phác đồ điều trị bằng thuốc Prozac, nhưng tôi không muốn đi. Từ khi bố qua đời, tôi đã nuôi lòng hoài nghi sâu sắc với thể loại bác sĩ đó.
Chắc David đã hết cách, tôi nghĩ vậy, nên một tối anh mang về nhà cái máy làm bánh mì. Thoạt đầu, anh thích món đồ gia dụng ấy, thích cả ý tưởng sản phẩm. Thích cái quy trình chỉ việc lẳng nguyên liệu vào, đặt thời gian và a lê hấp - qua một đêm đã có bánh mì mới nóng hổi. Không việc gì phải nhọc công. Không lo làm hỏng các móng tay tôi. Nhưng tôi không tài nào chịu đựng được.
Anh kiên nhẫn nghe tôi giải thích rằng làm bánh là một quá trình, chứ không chỉ là thành phẩm. Anh thật thà thừa nhận rằng anh không hiểu thế thì có gì khác nhau, và điều đó khiến cả hai chúng tôi đều không vui. Tôi không chịu dùng cái máy, thế là anh bắt đầu chơi đồ hàng với nó. Anh đều đặn làm bánh mì - nếu có thể gọi đó là làm bánh - gần như mỗi tối. Nhưng sáng ra, anh thường quá tập trung vào công việc và vội lao đến một cuộc họp nào đó, nên luôn hối hả đi mà không đợi bánh.
Khi ấy anh được cho là người sẽ kế nhiệm vị trí giám đốc marketing - ở tuổi hai mươi chín, anh có thể sẽ là giám đốc trẻ nhất trong công ty - và mọi thứ bắt đầu thay đổi rõ rệt. Bắt đầu có thêm nhiều cuộc họp hơn, gặp gỡ cuối tuần, đôi khi gồm cả gia đình. Tôi muốn ủng hộ anh, nhưng những chuyện này chán ngoài sức tưởng tượng, tôi xoay xở không được tốt cho lắm. Những lúc tôi cùng đi, David xa cách và làm bộ làm tịch. Chúng tôi bất đồng suốt trong khi chọn trang phục, ngồi trong xe hay trong phòng riêng, nếu là tiệc qua đêm. Nhưng rồi phải dự tiệc
cocktail và chiêu đãi, thế là chúng tôi giả vờ rằng mọi chuyện đều ổn.
Tôi nhìn David qua bờ vai ai đó đang nói với tôi về ca phẫu thuật xương chậu của anh ta. Có cảm giác như tôi đang nhìn một người xa lạ, hoặc một người nổi tiếng quá quen mặt qua những tấm ảnh chụp, đến mức ta có thể nhận ra được ngay tức khắc, nhưng hoàn toàn không biết gì về tính cách của họ. Vẻ hào hoa quyến rũ của David chưa bao giờ làm anh thất vọng. Một trong số những vị quan chức, giám đốc kia sẽ khoác vai anh, chắc hẳn trong lòng đang coi David là đứa con trai họ không bao giờ có, hoặc đang tự hỏi sao con họ không được như anh mà lại bỏ học đi lướt ván lông bông. David khiến mỗi người trong cánh đàn ông nghĩ rằng anh coi họ như người hùng, như cha chú, mà tôi nghĩ có khi anh muốn thế thật cũng nên. Anh không bao giờ tỏ ra quá nổi bật, quá thách thức, quá có uy.
Và các bà vợ - Chúa ơi, những bà cao tuổi nhất sẵn lòng đưa anh về nhà cho uống sữa và ăn bánh quy. Mấy cô trẻ hơn thì chỉ muốn đưa anh về tổ. Tôi chưa bao giờ nghĩ mình có máu ghen, nhưng đã vài lần tôi chỉ muốn đổ toẹt thứ đồ uống trên tay mình lên khe ngực khiêu khích của cô nàng nào đó. Nếu David không tuyệt đối giữ chừng mực, dám là tôi đã làm như vậy lắm.
Nhưng điều dễ nhận ra nhất là anh trở nên khó chịu và xấu hổ vì sự thẳng thắn của tôi, và vì tôi không mặn mà tham gia những màn đấu đá tranh giành ảnh hưởng - chính những điều anh từng nói đã khiến anh yêu tôi. Tôi cố gắng làm những gì mình nghĩ sẽ khiến anh vui, nhưng tôi bắt đầu có cảm giác như đang đi trên vỏ trứng. Cơ mà, khi mọi giao tế đã xong, được yên ổn ở nhà, thì sự dễ chịu quen thuộc quay trở lại, và chúng tôi lại đâu vào đấy ngay.
Không có gì thực sự có vấn đề. Mọi chuyện sẽ tốt đẹp dần lên. Chỉ cần buổi họp này, dự án kia, hoặc mục tiêu tiếp theo trôi qua. Đợi đến khi anh trở thành giám đốc marketing. Hai vợ chồng sẽ có thêm thời gian. Chúng tôi sẽ đi nghỉ cuối tuần dài hơn, tâm sự với nhau lâu hơn. Chúng tôi sẽ lại được như những ngày đầu.
• • •
Trong các bộ phim, khi sắp có Chuyện Xấu Xa xảy ra, nhạc nền thường chuyển tông. Khi ông chủ trang trại đã thu hoạch hết mùa màng và trữ ở trong kho, mọi người quây quần hát múa rộn ràng mừng vụ mùa bội thu, thì tiếng cello giật bùng bùng cảnh báo khán giả rằng đám lâu la của gã trùm buôn gia súc sắp xuất hiện và nã đạn vào vài người vô tội. Tôi luôn nghĩ rằng ngoài đời thật bất công khi không có thứ nhạc nền ấy. Không có nghĩa là nhạc có thể thay đổi cục diện, nhưng chí ít chút báo trước cũng vẫn hơn.
Một buổi chiều thứ Sáu, tôi về nhà sau cuộc họp với Hiệp hội Không gian Xanh Hancock Park thì thấy một chiếc Lexus vàng kim đỗ trên lối vào, ngay sau xe Mercedes đen của David. Tôi đành đỗ chiếc Mazda của mình bên vệ đường. Tôi chưa đi đến hiên thì cửa trước mở và Kelly Hamlin - một trong các nhân viên quản lý khách hàng - bước ra. Không phải chỉ quản lý những khách hàng truyền thống, mà cả công ty MVP trong hai năm vừa qua. Tôi mới vài lần nói đôi câu với cô ấy trong những sự kiện xã giao ở công ty của David, nhưng có nghe mấy chị bên quản lý nói rằng cô ấy rất xuất sắc. Tháo vát, có mục tiêu. Cũng rất xinh đẹp.
- Chào chị Wyn, - Kelly mỉm cười với tôi, vuốt mái tóc vàng ra sau vai.
David đứng ngay sau cô ấy, tay cầm một tập tài liệu. - Cảm ơn Kelly đã mang cái này qua.
Một tiếng binh mơ hồ vâng lên trong đầu tôi, khẽ đến mức tôi gần như đã bỏ qua. Tôi nhìn David, anh nhìn vào mắt tôi và mỉm cười. Nhưng không có ý trao đổi điều gì. Như nhìn một người đang đeo kính râm phản quang vậy. Tất cả những gì có thể thấy được là ảnh phản chiếu của chính mình.
Sau bữa tối lặng lẽ chừng như kéo dài vô tận, tôi ngồi đọc Tạp chí Los Angeles trong căn phòng tôi gọi là phòng làm việc nhưng David luôn gọi là “thư viện”. Anh đi vào, ngồi xuống cạnh tôi trên chiếc xô-pha bọc da đen.
Bản thân hành động ấy đã đảm bảo rằng anh muốn gây chú ý, vì gần đây vợ chồng tôi chỉ như hai người thỉnh thoảng nằm ngủ cạnh nhau trên cùng một chiếc giường. Anh ngồi bên mép ghế, mỉm cười có vẻ bối rối, như thể anh sắp bắt đầu nói chuyện gì đó ngoài việc đi lấy đồ giặt khô.
Tôi vẫn nhớ đã từng có lúc như vậy. Còn có thể tái diễn. Tôi mỉm cười lại với anh. Giảm bớt căng thẳng.
Rồi anh lên tiếng:
- Wyn à, anh không thể tiếp tục được nữa.
- Tiếp tục gì cơ ạ? - Nói ra điều không thích hợp mất rồi. Nó khơi mào ánh nhìn nửa như bị tổn thương nửa như thất vọng của anh.
- Anh không thể tiếp tục giả vờ rằng mọi chuyện đều ổn. - Em biết mọi chuyện không ổn. Anh làm việc quá nhiều và chắc chắn căng thẳng...
- Ừ, anh vẫn luôn bận bịu, và luôn phải chịu áp lực. Nhưng chuyện này không phải chỉ có thế.
Một hình ảnh bùng lên. David lăn lộn cùng người khác trên giường của chúng tôi. Không nhận ra được, chỉ là dáng hình lùng bùng dưới chăn. Hình ảnh lập tức tan biến, nhưng vẫn lưu lại một khoảng trắng, như ngọn lửa ở đầu que diêm để lại bóng ma của chính nó trong mắt ta.
Chúng tôi nhìn nhau chừng một phút, rồi tôi lên tiếng: - Anh đang gặp ai phải không?
Anh nhăn trán:
- Gặp ai cơ? Ý em là gặp bác sĩ tâm lý à?
- Không, ý em là một người đàn bà. Có điều gì anh muốn nói với em không?
Anh rút tờ tạp chí ra khỏi tay tôi, ném bừa lên mặt bàn khắc nhôm.
- Tất nhiên là không. Tức là, có, anh có chuyện muốn nói với em, nhưng không liên quan gì đến phụ nữ cả.
Anh không nhìn tôi.
- Anh thực sự không thoải mái. Anh thậm chí không biết tại sao, nhưng có điều anh cảm thấy mình như đông cứng, không
tài nào nhúc nhích được. Đôi khi, trong ngày làm việc, anh ngồi ở văn phòng và có cảm giác bị ngộp thở.
Tôi chạm vào mặt David, nhưng anh gỡ tay tôi ra, đặt bàn tay trở lại lòng tôi.
- Có lẽ anh nên đến bác sĩ Geary xem sao... - tôi nói với anh. - Anh vừa khám sức khỏe tổng thể hồi tháng Giêng. Hoàn toàn không có vấn đề gì.
- Thế thì là chuyện gì?
Anh chớp mắt hai lần.
- Là toàn bộ cuộc đời bức bối của anh. Nhà cửa, công việc, - anh ngừng lại, chỉ một giây rồi tiếp tục nói - chúng ta. Mọi thứ. Một người anh quen ở câu lạc bộ tuần trước đã qua đời trong một trận quần vợt. Anh ấy mới bốn mươi lăm tuổi, trời đất quỷ thần ơi. Việc ấy khiến anh tự hỏi mình đang làm cái quái gì đây? Chúng ta đang làm gì đây.
Dạ dày tôi chợt quặn lại.
- Anh cho em biết điều gì khiến anh không hài lòng với... mọi thứ đi. Em cứ ngỡ đây là những gì anh muốn. Em tưởng... - Anh cũng tưởng như vậy. - Mắt anh không còn ánh linh hoạt mà trở nên lạnh lẽo như đá xanh. - Anh chẳng biết liệu mình có thực sự thuộc về JMP hay không. Hay là anh nên tìm một công ty lớn hơn. Hoặc thậm chí một công việc hoàn toàn khác. Anh muốn ở vào vị trí nào trong mười, hai mươi năm tiếp theo? Cũng có thể có việc gì đó, nơi nào đó mà anh chưa từng nghĩ đến.
Trong khi anh họa ra những nguyên nhân khả dĩ dẫn đến tình trạng hoang hoải của mình, thì những suy nghĩ trong đầu tôi như chạy đua với nhau. Tôi chỉ muốn hét vào mặt anh rằng anh còn quá trẻ, chưa đến lúc trải qua khủng hoảng tuổi trung niên. Tôi gắng kiềm nén không chồm lên nhìn anh thật kỹ, hàng lông mày sẫm màu, sống mũi thẳng hoàn hảo và cạnh má cân đối. Tôi nhớ lại cảm giác khuôn mặt anh sát bên tôi, mùi nước hoa Polo dậy lên tinh tế, và mái tóc anh suôn giữa những ngón tay tôi như râu ngô non vàng óng.
- David, hãy tin em, em hiểu cả rồi mà. Anh làm việc vất vả quá. Đối với em thực ra tiền không quan trọng đến mức ấy đâu.
Em muốn anh làm những gì mà anh thích. Em không cần... - Em chẳng nghe anh nói gì cả. - Trong giọng anh nghe có sự thiếu kiên nhẫn cố hữu. - Tất cả những gì anh cố gắng nói với em chỉ là anh cần một quãng nghỉ tuyệt đối, tránh xa tất cả... - Hai bàn tay anh xòe ra, rồi co lại như nắm đấm. - Anh cần có sự tự do về mặt tư tưởng để chấp nhận rủi ro, chấp nhận thất bại. Anh không muốn cảm thấy em phụ thuộc vào anh, cần anh chăm sóc.
- Em không muốn anh cảm thấy em phụ thuộc vào anh. Em thấy không sao nếu anh dựa vào em thêm chút nữa. Em sẵn sàng quay trở lại làm việc, nếu anh cần...
- Wyn, - anh hắng giọng. - Em đang bỏ qua vấn đề mấu chốt. Tất cả những gì anh cần là được hoàn toàn độc lập. Khỏi em. Một ánh chớp muộn mằn rạch ngang tâm trí tôi. Chuyện không phải về chúng tôi, mà về anh. Những gì anh muốn. Những gì anh không muốn.
David nói tiếp:
- Lâu nay anh vẫn muốn nói với em, nhưng không biết chính xác nên giải thích thế nào. Và một vấn đề khác là em xử lý không tốt những thực tế bất di bất dịch.
Nước mắt bỗng dưng dâng lên trong mắt tôi và tràn mi, rồi từng giọt xuống lòng. David đưa tôi chiếc khăn tay bằng lanh trắng mà anh tình cờ bỏ trong túi.
- David ơi, thực tế bất di bất dịch là em yêu anh. Chẳng lẽ anh không...
- Không phải là anh không yêu em. - Từng từ cắt rất ngọt vào mớ cảm xúc hỗn loạn trong lòng tôi. - Anh chỉ nghĩ có lẽ hôn nhân là một sai lầm. Như mình đã cưới nhau. Qụá vội vàng. Có lẽ cả hai chưa thực sự hiểu rõ về nhau. Và anh cần... - Anh nhặt chiếc khăn tôi làm rơi xuống sàn lên, đưa lại cho tôi. - Anh cần phải tìm hiểu xem điều gì thực sự quan trọng với anh.
Nghe có vẻ lo lắng đấy, nhưng không phấn khích. - Nếu lâu nay anh đã cảm thấy như vậy, sao anh chưa từng nói gì với em?
Trông anh có vẻ đau khổ.
- Cần gì anh phải nói với em rằng mình đang chật vật. Chẳng lẽ chính em không nhận ra rằng chúng ta không vui sao? - Em biết thời gian gần đây không phải là hạnh phúc trào dâng, nhưng mình đã có bảy năm hôn nhân tốt đẹp. Đừng ném tất cả qua cửa sổ chỉ vì...
- Wyn, nghe anh nói này. - Anh thả lòng người sát lại, cầm hai bàn tay tôi. Tôi ghét cái ánh mắt sục sôi khí thế trên mặt anh. - Anh đang bị ngạt thở, không phải tại em, - anh vắn tắt nói rõ. - Tại tất cả. Có cảm giác như mọi cơ hội của anh đều đang nhỏ lại.
Bên ngoài, còi báo động gần ở ô-tô bắt đầu rít lên. Xe nhà tôi ư? Tôi nhớ dự báo thời tiết nói đêm nay sẽ mưa, chúng tôi nên đóng cửa sổ mé hướng tây. Ngày mai cô giúp việc sẽ đến. Tôi đã viết séc cho cô ấy chưa nhỉ? Có phải tôi cần gọi cho Lisa Hathaway nói chuyện cuộc họp ban truyền thông gây quỹ cho dàn nhạc giao hưởng không?
Cuộc đời mình đang trôi vào toa-lét mà trí óc tôi lại chọn đúng lúc này để đình công.
- Anh không biết nữa. - Anh thu tay về, thận trọng, như thể anh không dám chắc tôi sẽ để yên tay mình trong tay anh. - Vậy anh sẽ nói gì? Rằng anh muốn một cuộc...
- Không. - Anh cắt lời quá nhanh, rồi nói tiếp. - Anh không biết nữa. Có lẽ cả hai chúng ta cần chút thời gian, chút không gian một mình.
- David, em không cần ở một mình thêm nữa. Ta đang nói về tất cả những gì em hiện đang có.
Dường như anh không nghe tôi nói.
- Có lẽ em nên dọn đi một thời gian. Hôm nọ anh thấy có căn hộ được lắm. Cách đây không xa lắm. Mình vẫn có thể gặp nhau.
Anh hơi lên giọng. Giống như ta thường nói khi dỗ trẻ con uống thuốc: Sao nào? Sao lại không nào? Như thế sẽ tốt hơn cho đôi bên.
Một thoáng bực mình như giật lên trong cổ họng tôi. Anh đã đi tìm căn hộ cho tôi ư?
- Nếu anh là người cần không gian một mình thì sao em lại phải dọn đi? Sao anh không tìm căn hộ cho chính mình? Anh thẳng người dậy, ánh mắt nhìn xa xăm qua đỉnh đầu tôi. - Vì đây là nhà anh, - anh nói.
Tôi nhớ có chị bạn đã bị thôi miên ở một buổi biểu diễn ảo thuật nên phải làm đủ trò nực cười. Khi trò vui đã hết, chị trở lại bình thường, nhận thấy khán giả đều đang cười mình, bạn tôi đã thấy mình rất ngốc mà không biết tại sao. Lúc này đây tôi cũng có cảm giác tương tự, không biết mình đã bỏ qua điều gì hệ trọng.
• • •
David ngủ trong phòng khách. Từ mấy tháng nay chúng tôi không gần gũi nhau lần nào, nhưng ngủ một mình trên chiếc giường đôi mà không có cả hình dáng cơ thể anh ở gần, tôi cảm thấy sự hụt hẫng quá đột ngột. Nếu có phải ngủ trong một cái hố trên mặt trăng, chắc tôi cũng chẳng thể thấy cô đơn hơn được.
Cuối tuần dài như vô tận. Hầu hết thời gian anh ở văn phòng. Hoặc chí ít là anh nói như vậy. Chiều Chủ nhật, tôi gọi đến số văn phòng của anh, nghe sáu, bảy hồi chuông liên tiếp, rồi giọng nói trong hộp thư thoại tự động. Như thế không có nghĩa là anh không ở đó. Biết đâu anh ở trong nhà vệ sinh, bếp, phòng họp, hoặc phòng trình chiếu. Biết đâu anh bận nghe một đường điện thoại khác. Tôi biết nếu có hỏi thì anh sẽ trả lời rằng, “Lúc ấy anh đang nói chuyện với Hank”. Hoặc Tom. Mà cũng có thể là Grady.
Tôi lưỡng lự một giây, rồi gọi đến tổng đài. Khi hộp thoại tự động bắt đầu hướng dẫn chọn các đường dây, tôi chuyển cuộc gọi vào số của Kelley Hamlin. Chuông đổ hai hồi trước khi tôi đặt ống nghe xuống. Tôi sẽ không kiểm tra hay theo dõi anh. Tôi tin David. Nếu anh nói đang làm việc thì tức là anh đang làm việc.
Nghe theo một bản năng muôn thuở, tôi ngâm mình rất lâu trong bồn tắm. Quá lâu. Những ngón tay nhăn lại. Tôi mặc chân váy màu đen cổ điển và sơ-mi lụa màu ngà mà anh vẫn thích.
Chăm chú nhìn khuôn mặt mộc trong gương, tôi hơi yên tâm rằng người phụ nữ này vẫn còn đẹp, không có gì tàn phai hết. Đang độ rực rỡ, tôi nói với cô ấy. Tôi với tay lấy đồ trang điểm.
Tôi thừa hưởng của mẹ đôi mắt sẫm màu và nước da sáng. Sống mũi thẳng và khuôn miệng rộng của bố. Nhưng tóc tôi là cả một vấn đề. Sao tôi không có được mái tóc của mẹ, đen và óng như bút vẽ của họa sĩ? Hay tóc bố tôi - dày, vàng kim và suôn như tóc một vị thuyền trưởng Thụy Điển vậy. Thay vào đó, tóc tôi giống bà và bác gái bên nội - nâu đỏ nhạt, dày và xoăn, tuyệt đối bất trị. Cơ mà tôi cũng đã khắc phục được, những lọn xoăn được là mượt bằng lược nóng.
Tôi ướp lạnh một chai Puligny-Montrachet anh vẫn thích. Bật nhạc anh vẫn ưa, bản “Brandenburg Concertos”. Và tôi đợi. Tôi ngồi trên giường với cuốn sách và một ly rượu, uống nhiều hơn đọc, khoảng mười một giờ rưỡi thì anh về. - Anh có đói không ạ? Nhà có súp đấy.
Anh mỉm cười lịch sự.
- Không, cảm ơn em. Mấy người ở công ty đang triển khai một dự án tiềm năng. Bọn anh gọi đồ Trung Quốc, ăn ở văn phòng rồi. Em thay váy ra treo lên đi không sẽ nhàu đấy. - Anh liếc nhìn chai rượu trên bàn có vẻ không bằng lòng. - Chẳng lẽ em nghĩ...
Anh chưa nói hết, tôi đã thêm đầy ly với sự bướng bỉnh rất trẻ con, nhưng anh vào phòng tắm mất rồi. Tôi buông cuốn sách sang một bên, uống thêm chút rượu, xem qua loa mấy trang tạp chí, lắng nghe tiếng nước chảy trong phòng tắm. Anh đi ra, kéo gối nằm. Mùi ngọt ngào sạch sẽ của anh xiết lấy trái tim tôi.
- Anh ơi...
David quay lại, nhưng không xoay hẳn người nhìn tôi. Giống như anh sắp có việc quan trọng mà tôi níu anh lại. - Wyn, thôi đi mà. Đã khó lắm rồi, đừng làm khó thêm nữa. - Mình có thể đi tư vấn tâm lý. - Tôi lùa ngón tay mình giữa những nếp chăn. - Anh có biết đã bao nhiêu lâu rồi mình không yêu nhau không?
Anh thở dài qua mũi.
- Việc ở văn phòng bận như điên. Anh làm cật lực. Trong đầu còn lùng bùng bao nhiêu thứ, chẳng biết có ngủ được không. Anh về nhà thì em kỳ vọng anh sẽ biểu diễn như một chú hải cẩu được huấn luyện thuần thục...
- Em không kỳ vọng gì cả. - Giọng tôi vỡ ra một chút cáu kỉnh. - Em chỉ nhớ những gì mình đã có. Em muốn anh ôm em. Không chỉ là chuyện chăn gối. Anh còn chẳng đụng vào em. - Tôi nuốt khan. - Anh không nhận ra điều đó ư?
- Em có nghĩ đến chuyện anh nói với em hôm thứ Sáu không?
- Mai em sẽ đi tìm việc làm.
Một nụ cười tán thành lạnh lẽo.
- Ý hay đấy.
Tôi gấp tờ tạp chí trên lòng lại.
- Nhưng em không dọn đi đâu.
Nụ cười biến mất. Anh mở miệng toan nói gì đó, rồi thôi, khuôn hàm cứng nhắc. Anh quay đi và ra khỏi phòng, gối kẹp dưới cánh tay, như một cậu bé bỏ nhà ra đi.
Tôi co chân lại, khiến tờ tạp chí tự mở ra. “Những sự nghiệp danh giá nhất cho phụ nữ trong thập kỷ tới”. Tôi cầm tờ tạp chí lên, đọc lướt qua, phấp phỏng hi vọng. “Tài chính”. Tôi không tự tính được cuốn séc của mình. “Sư phạm”. Đã qua và thấy quá đủ. “Cảnh sát”. Không đâu. “Xây dựng”. Đừng đùa chứ? “Chăm sóc trẻ”. Không đời nào.
Tôi uống thêm rượu, suy đi tính lại những viễn cảnh khi đi làm trở lại, gập cuốn tạp chí và quăng bừa qua phòng. Tôi đứng dậy định đi thay váy áo, nhưng hai đầu gối tê nhừ trụ không vững nổi. Tôi thụp xuống giường, vùi mình vào gối.
Còn phải chuẩn bị mấy thứ trước khi ngủ. Tôi muốn chọn sẵn bộ vest và giày cho buổi phỏng vấn ngày mai. Còn cả túi xách. Nữ trang. Nhưng đầu tôi nặng trịch. Váng vất. Chợp mắt chút vậy.
Chỉ một phút thôi.
Ba
BÀ NGOẠI TỪNG BẢO TÔI rằng những tình bạn khăng khít nhất thường bắt đầu bằng cãi vã, rằng phải qua kịch chiến một cách tử tế và lành mạnh, người ta mới có thể đến gần, hiểu nhau và gắn bó với nhau. Tôi nghĩ lời bà quả thật rất xác đáng. Cứ nhìn CM và tôi mà xem. Tình bạn của chúng tôi nảy sinh từ một trận đấm đá mù giời, và hai mươi năm sau đó vẫn chưa kết thúc. Ý tôi là tình bạn.
Trận chiến năm xưa là vì một cậu bạn. Bây giờ kể lại thật đúng là buồn cười và ngớ ngẩn. Ngày đó, tụi tôi là hai đứa con gái cao nhất khối lớp ba, và Michael Garrity - không xinh giai cũng chẳng tốt tính - là thằng duy nhất cao hơn tôi và CM.
Sau khi thầy giám thị áp giải hai đứa tôi đến văn phòng nhà trường, CM trong tình trạng phải rịt cái mũi bị chảy máu bằng khăn giấy ướt, hai bà mẹ vào phòng họp kín với thầy hiệu trưởng, chỉ còn chúng tôi ngồi ngoài hành lang chờ nghe phán quyết. Hai đứa không hẹn mà cùng quay sang, và tích tắc khi bốn mắt nhìn nhau, CM và tôi cùng phá lên cười. Cuối cùng hai đứa bị đình chỉ học hai ngày. Bố mẹ phạt cấm túc tụi tôi một tháng. Ngày đầu tiên được tự do trở lại, chúng tôi ra sau ga-ra nhà CM, tự cắt máu mình bằng con dao Hướng Đạo Sinh hoen rỉ của bố CM, và thế là chúng tôi thành chị em máu mủ của nhau.
Quãng hơn một năm trước, CM nhận công việc biên đạo múa cho một đoàn ba-lê ở Seattle, và từ đó đến giờ chúng tôi chưa gặp nhau. Nhưng bất cứ khi nào nói chuyện qua điện thoại, chúng tôi vẫn cảm thấy như thể đang tiếp tục những gì chỉ mới tạm dừng một, hai ngày trước đó. Bây giờ CM chính là người mà tôi muốn tâm sự, nhưng tôi chưa kịp làm gì thì tối thứ Hai cô
đã gọi điện cho tôi. Mới nghe thấy tiếng CM, những cảm xúc kiềm nén cực điểm được thể bùng ra và tôi cứ thế là bù lu bù loa lên.
- Wyn ơi?
Tôi xì mũi, liên tục quệt nước mắt cứ trào ra ràn rụa. - Khổ thân bồ, đã xảy ra chuyện gì thế?
- Tôi không biết nữa. Anh David... vợ chồng tôi... Chắc tan rồi. Tôi đương nức nở đến mức tim như muốn lao ra khỏi lồng ngực, thì chợt nhận thấy CM đang phá ra cười. Cơn ngạc nhiên đã chặn ngay được nước mắt lại trên bờ mi.
- Bồ ơi, tôi xin lỗi nhé. Tôi không cười bồ đâu. Cơ mà lúc nãy tôi gọi điện vì muốn mách với bồ rằng anh Neal đã bỏ tôi rồi. Đến lúc này, chính tôi cũng phá ra cười, dù nghe có vẻ hơi điên loạn. CM nói tiếp:
- Tôi nghĩ tụi mình cần rút quân và tập hợp lại lực lượng thôi. Sao bồ không bê cái mông của bồ lên máy bay rồi đến đây thăm tôi một chuyến vừa dài vừa dễ chịu nhỉ?
Ngày thứ Bảy tiếp theo, một trong những chiều tháng Chín xanh-ngắt-và-vàng-rượm, tôi đáp máy bay của hãng Alaska Airline hướng thẳng tới sân bay quốc tế Seattle - Tacoma. Hoàn toàn có thể đoán được phản ứng của mẹ trước chuyến đi của tôi.
- Lí trí của con để đi đâu cả rồi? Chính lúc này không nên đi xa chút nào. Con cần phải ở lại. Hãy chứng minh cho David thấy con yêu chồng. Nấu nướng cho chồng. Khiến chồng cảm nhận được sự hiện diện của con.
Thực tế rằng David chẳng về nhà ăn tối, không muốn cảm nhận tôi đang ở bên, thậm chí còn tỏ ra hơi ngạc nhiên và khó chịu khi chạm mặt tôi ở hành lang, như thể tôi là kẻ ở trọ không được chào đón, đã quá hạn mà vẫn không chịu rời đi; nhưng tất cả những điều đó không có nghĩa lý gì với mẹ tôi cả.
Phản ứng nhiệt thành đến trơ trẽn của David khiến tôi thấy nản.
- Anh nghĩ ý tưởng đó hay đấy Wyn. Anh cần yên tĩnh suy nghĩ, nên nếu được ở một mình lúc này thì thật tuyệt.
• • •
Thể thức máy bay hạ cánh hình như lấy cảm hứng từ một nghi lễ tôn giáo nào đó, kiểu như “ơn Chúa chúng ta đã bình an”. Cú chạm nảy cuối cùng, đèn nhấp nháy, còi hiệu kêu. Đám người hành hương nhất loạt đứng lên, hối hả lấp kín lối đi, tuôn ra khỏi cửa máy bay, hít sâu một hơi bầu không khí trong lành. Tôi liếc quanh nhà ga đông đúc tìm CM. Dễ nhận ra cô với mái tóc nâu đỏ bóng bềnh, thường cao chừng sáu phân hơn hẳn những mái đầu khác, nhưng CM đã nhìn thấy tôi từ trước.
- Wyn ơi! - CM chạy ào tới ôm chầm lấy tôi. - Trông bồ xinh như vầy ai dám bảo là bồ mới bị đá cơ chứ!
Thực ra CM mới là người xinh đẹp. Luôn luôn là như vậy. CM - tức Christine Mayle đối với phần còn lại của thế giới - là người phụ nữ duy nhất mà tôi biết trông vẫn tươi như hoa trong tuần trước mỗi kì đều đặn hàng tháng.
Nếu phân tích các nét thì CM không mang vẻ đẹp truyền thống. Nhưng với chiều cao gần một thước tám mươi phân, làn da trắng mịn như kem, cặp mắt xanh lá cây và sóng tóc nâu đỏ mềm mại, CM luôn nổi bật hơn nhiều phụ nữ khác. Gu thời trang của cô, nói một cách công bằng thì có chút khác người - thứ này là hàng thủ công, món kia là đồ đặc trưng của một dân tộc nào đó, những tông màu lạ lùng phối vào với nhau. Nhưng khi CM vận lên, tất cả kết hợp lại thật hài hòa, và cô luôn di chuyển như vẫn đang trên sàn diễn, sải từng bước uyển chuyển hơn là bước đi. Tôi luôn trông đợi cô sẽ thuận chân mà nhảy một bước tour jeté*.
Căn hộ của CM ở tầng năm trong một tòa nhà gạch cũ trên đỉnh đồi Queen Anne, một nơi rất CM. Hai khung cửa sổ lớn trổ nhô ra bên ngoài, bao gọn khung cảnh thành phố, rặng Rainier và đại dương - “Vịnh Elliott thôi”, CM sửa lời tôi. Trong căn hộ có tủ tường, lò sưởi, phào trang trí diềm trần, và căn bếp lát gạch màu xanh lá cây và đen. Không có cảm giác về sức nước, nhưng là một tổng hòa dễ chịu.
- Xin lỗi bồ, tôi không có phòng riêng dành cho khách. - Chúng tôi dọn chỗ trên xô-pha của CM. - Thứ này là giường-
ngủ-trá-hình đấy, tôi nghĩ cũng khá là thoải mái.
Tôi khom lại, nghĩ đến cái lưng của mình, rồi cười đáp: - Mình từng qua cảnh còn eo hơn thế này cơ mà. Bồ có nhớ chỗ mình thuê ở Laguna mùa hè năm đó không? Tôi tuột giày khỏi chân, co đầu gối lên và gối cằm lên đó. - Kể chuyện anh Neal đi. Xấu hổ quá, lúc bồ gọi điện, tôi chỉ mải quẳng huỵch cái đống rác gớm ghiếc của tôi sang bồ mà chẳng hỏi han gì chuyện anh ta cả.
- Được mười tám tháng, ba tuần và ba ngày. Cũng là thời kì dài lâu nhất giữa bọn tôi. - CM nhún vai đầy vẻ triết lí. - Nhưng tất cả đã chùng xuống một thời gian trước khi anh ấy bỏ đi. Tôi nghĩ bắt đầu từ khi Neal để tuột mất công việc giảng dạy mà anh ấy tưởng đã nắm chắc trong tay. Khi không thể làm việc, anh ấy trượt dài theo đường xoáy trôn ốc đi xuống, thấy bất an và ỉu xìu như quả bóng xì hơi. Rồi anh ấy bắt đầu nói qua nói lại rằng tại tôi mà...
- Tại bồ ư?
- Ừ, bồ biết rồi còn gì. Kiểu như tôi ép anh ấy chuyển đến đây trong khi lẽ ra anh ấy nên ở lại Los Angeles làm việc. - Bồ cũng biết là anh Neal sẽ quay về với bồ thôi mà. Anh ấy như vậy hoài còn gì. - Đó là tất cả những gì tôi có thể thốt ra trong một nỗ lực cực đại tìm lời an ủi.
- Chắc không đâu. - CM thở dài mệt mỏi. - Những lần trước tôi và anh ấy chưa từng chung sống. Là...
CM bỏ lửng câu nói, đi vào bếp và quay ra với một chai champagne và hai li thủy tinh. Sau màn nâng li long trọng giữa các nữ chiến binh Amazon - biệt hiệu từ hồi học phổ thông của chúng tôi - CM hỏi:
- Bồ nghĩ chuyện quái gì đang xảy ra với anh David vậy? Tôi đặt li xuống, miết ngón tay lên trán, nơi khởi sinh của những cơn đau đầu.
- Thực sự tôi không biết nữa. - Cổ họng tôi khô khốc, nói năng bỗng trở nên khó khăn. - Đã không ổn từ suốt thời gian dài gần đây. Có lẽ tôi đã tìm cách né tránh, cứ cố gắng níu kéo chờ điều kì diệu xảy ra khiến tình thế trở nên tươi sáng hơn.
- Anh ấy có nói sao mình không hạnh phúc không? - David bảo anh ấy thấy như bị mắc kẹt, tất nhiên không phải tại tôi, mà là hôn nhân nói chung. Quá cứng nhắc và chật chội. Có thể anh ấy muốn thay đổi công việc. Anh ấy không muốn những lựa chọn của mình bị giới hạn. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, anh ấy đang tìm kiếm bản thể của chính mình. CM nhìn tôi.
- Nghe như anh ấy đang tìm kiếm thân thể người khác thì có. - Thưa cô Mayle, cảm ơn cô đã thẳng thắn.
- Xin lỗi nhé. Cơ mà có nói xin lỗi cũng chẳng ích gì. Thực ra tôi chưa bao giờ cho rằng có chút suy tư triết lí nào trong cái đầu đẹp của David.
- Anh ấy không ngốc đâu. - Tôi nghe tiếng của chính mình cứng đờ và ong ong trong đầu, cảm giác như khi đang bị cảm lạnh.
- Anh ta đá bồ thì thông minh sáng láng nỗi gì? - CM phẫn nộ thay tôi.
Tôi không nói gì.
- Thôi đi, cứ ghét đồ lòng dạ bội bạc ấy đi. Bồ sẽ thấy vui hơn cho coi.
Tôi uống thêm ngụm champagne, ngồi nhìn bàn chân trần của CM co lên ở mép xô-pha. Chao ôi. Đến cả bàn chân cô cũng đẹp. Mạnh mẽ nhưng vẫn mảnh mai. Những móng chân sơn màu nâu ánh đỏ.
- Bồ có biết luật sư nào không?
Bụng dạ tôi chợt nhộn nhạo.
- Vợ chồng tôi không nói đến chuyện chia tay. Chưa. Có thể sẽ không đi đến kết cục ấy. Có thể tôi chỉ cần cho anh ấy thêm chút không gian...
CM để im lặng trôi qua chừng một phút rồi mới lên tiếng: - Chậc, nếu đến nước ấy, bồ phải tự cứu mình trước đi. Hỏi mấy bà bạn cỡ bự kếch xù của bồ xem. Nữ luật sư thì hơn. Tôi nghĩ nam giới luôn vô thức đứng về phía người chồng. Nếu không tìm được ai thì gọi cho bạn tôi là Jill Trimble xem sao. Ở
Silver Lake. Chị ấy li dị Roy cách đây mấy năm. Một gã bội bạc chẳng ra gì.
- Nói chuyện khác được không?
CM nhoài sang ôm tôi.
- Xin lỗi bồ tèo nhé. Kiểu David cư xử với bồ làm tôi điên máu quá đi thôi.
• • •
Chiếc xô-pha kiêm giường này giống như mọi chiếc xô-pha kiêm giường khác trên đời - vừa lồi vừa lún. Tôi mơ những giấc mơ lạ lùng và mệt nhoài, thấy mình bơi và ngụp lặn, vật vã trở mình, lại ngủ thiếp đi và trôi vào một giấc mơ khác. Cuối cùng, tôi thức dậy lúc tám giờ sáng, mặc áo ấm, ngồi bên một trong mấy ô cửa sổ, đờ đẫn nhìn sương giăng trên mặt nước.
Tôi đã để lại số điện thoại của CM trên ba tờ giấy nhắn - trong bếp, trong phòng làm việc của David, và trong phòng ngủ. Phòng khi anh cảm thấy thôi thúc một cách không thể kiềm nén được, muốn nghe thấy giọng tôi. Ngay bây giờ tôi có thể gọi điện cho anh. Để anh biết rằng tôi đã đến nơi an toàn. Nhưng chỉ có sáng Chủ nhật anh mới được ngủ muộn. Nếu lúc này tôi đánh thức, chắc anh sẽ cáu mất.
Tôi hình dung anh đang ngồi ở sân sau nhà, với tờ Thời báo New York và tách cà phê. Chúng tôi thường làm vậy vào các Chủ nhật, khi thời tiết tốt. Vào mùa xuân, ngoài sân có hương thơm dìu dịu của hoa dành dành trắng, và chút ẩm ướt tinh khôi từ những vòi phun nước tưới cây. Vào những ngày thu hanh hao, cây tiêu dâu khô giòn dưới chân, sực vào bầu không khí chút dư vị tê tê ngai ngái. David vẫn ăn vận bảnh bao, nhưng tôi thích xỏ dép lê và mặc cái áo đội bóng trường phổ thông của anh, mà tôi đã tự cắt rời tay áo. Anh từng trêu khi tôi mặc áo ấy đi ngủ, bảo rằng anh ngỡ như đang ngủ với đồng đội. Tôi tưởng trông mình gợi cảm. Có lẽ không phải vậy.
CM ngái ngủ đi ra. Cô nhìn cái xô-pha kiêm giường xộc xệch. - Bồ không ngủ phải không?
- Hơi thao thức thôi.
- Tôi nghe thấy tiếng bồ trở mình mấy lần. Cái xô-pha có gồ ghề lắm không?
- Không đâu, tại tôi mộng mị lung tung.
- Chỉ bịa. Bồ có thể ngủ với tôi. - CM phủ quyết sự phản đối của tôi. - Giường cỡ rộng. Sẽ ổn thôi. Ờ, hồi ở Laguna mình cũng từng ngủ giường đôi. Cơ mà, vì tụi mình đều đang trong giai đoạn trục trặc với nam giới, có lẽ nên cải đạo sang làm đồng tính nữ đi thôi.
CM khăng khăng ra ngoài ăn sáng.
- Dưới chân đồi có một tiệm bánh nhỏ nhưng rất tuyệt. Có thể đi dạo lòng vòng, ngồi nhấm nháp tách cà phê và bánh, vu vơ đọc tờ báo. Chiều nay tôi phải đến phòng tập, cho nên bồ tự chơi cho đến bữa tối nhé.
- Bồ làm việc cả Chủ nhật à?
- Không thường xuyên. Hiện đang phải làm chương trình cho một chuỗi lớp học nâng cao tại mấy trường ở khu đông nên hơi bận việc.
Phải chín giờ chúng tôi mới ra khỏi nhà. Tôi cuốn kín mít trong áo thể thao, áo gió, mũ lưỡi trai, cổ quàng khăn và tay đeo găng nhung. CM chẳng màng gió biển, mặc quần bò và áo thi đấu của đội bóng chày Seattle Mariners.
Lẽ ra tôi phải hiểu được rằng ý tưởng đi dạo lòng vòng theo sườn đồi của CM chính là một cuộc duyệt binh bị cưỡng chế trong quan niệm của tôi, đặc biệt khi tôi chưa uống cà phê sáng. Chúng tôi len lỏi qua một mê cung những con phố, khu thương mại và dân cư. Những cửa hàng, quán cà phê, vài quán bar nhỏ. Những ngôi nhà kiểu Victoria, nhà một tầng xây thủ công, nhà tường đất nhám theo phong cách Tây Ban Nha hoặc Morocco, cả những ngôi nhà hộp diêm kiểu New England. Một số còn mới, một số đã cũ, ở nhiều trạng thái khác nhau trong quá trình được tu bổ hoặc bị xuống cấp. Những cành mộc lan cong vặn vươn lên, những hàng thông dày xanh thẫm như nhung, lác đác những vòm cổ thụ tuyệt đẹp. Những khu vườn bung nở đầy hoa, những thảm cỏ được cắt tỉa gọn gàng. Một căn nhà tranh có tấm biển gỗ cắm trên mặt cỏ rậm rì, đề rằng “Chúng tôi thích khung cảnh tự nhiên”.
Nửa tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đến một khu những tòa nhà gạch lô xô, trong đó có tiệm bánh Queen Street. Lúc này, mặt trời đã đánh tan sương mù. Tôi tháo khăn quàng và găng tay, buộc áo gió quanh hông, vậy mà vẫn đổ mổ hôi như một võ sĩ quyền anh. Vỉa hè đông đúc các đôi, những gia đình, trẻ con và những chú chó lăng xăng. Một anh chàng dắt theo con mèo lông đỏ, tôi nghe thấy anh ta nói với ai đó rằng đây là mèo giống Abyssinian.
CM chỉ một bàn trống gần của ra vào kiểu Pháp để ngỏ, nói với tôi:
- Bồ xí chỗ thì hơn. Tôi đi gọi đồ ăn.
Lòng đầy biết ơn, tôi thả mình xuống ghế, giải phóng từng lớp quần áo khỏi cơ thể và nhìn quanh. Nơi này bố trí thành từng gian song song nhau. Từ cửa trước, có thể nhìn suốt qua tủ quầy, tới khu vực phục vụ, tiếp theo là những lò nướng to màu đen, và cuối cùng là cửa sau. Chỗ ngồi cho khách toàn các bàn và ghế không đồng bộ, những gối tựa sáng màu, tranh ảnh trang trí đủ mọi thể loại, phù hợp với những gu thẩm mĩ khác nhau. Cây cảnh ở khắp mọi nơi - tóc tiên, cỏ tía, vạn niên thanh - rõ là được lựa chọn một cách đầy ngây thơ và ngẫu hứng. Nhưng mùi của nơi này chính là điều lập tức khiến tôi chú ý - không chỉ là mùi thức ăn, mà của chính nơi này - gạch cũ và nắng đùa trên lớp cỏ mới cắt.
Hồi tôi còn bé, cả nhà thường đi nghỉ bên hồ Tahoe, ở High Sierra, ngay nơi khuỷu tay bang Nevada huých vào giẻ sườn bang California. Năm nào nhà tôi cũng thuê cùng một ngôi nhà nhỏ đó, hai tuần vào mùa hè, một tuần dịp Giáng Sinh.
Những sáng thứ Bảy, bố lái xe đưa tôi đến Truckee, một thị trấn nhỏ, dân cư phần đông là các hộ gia đình chăn cừu gốc gác xứ Basque. Ở đó có một hiệu bánh tên là Javier. Bố con tôi luôn cố gắng đến đó ngay khi những ổ bánh tròn đầy đặn dành cho mục đồng vừa ra lò.
Chủ hiệu bánh là chú Jorge. Chú ấy và bố tôi hay trêu nhau, thêu dệt câu chuyện về một ông bác Javier trong tưởng tượng, và rằng sáng sáng ông bác ấy bận rộn những gì, ở đâu. Rồi hai người tán gẫu về thời tiết, đàn cừu và những chuyến đi câu cá,
trong khi đó tôi chơi loanh quanh, ăn bánh quy và xem những người thợ làm bánh lúi húi ở phía sau. Tôi chưa bao giờ cảm thấy mình đã hít hà đủ mùi thơm của nơi ấy - mùi bánh mới, cà phê đặc thơm lừng, sàn gỗ thi thoảng khẽ cọt kẹt - hoặc cảm nhận đủ về ổ bánh vừa ra lò, ấm sực trong lòng tôi suốt quãng đường về nhà.
Hiệu bánh Queen Street cũng khiến tôi cảm nhận được những dư vị tương tự.
CM ngồi xuống bàn với hai tách cà phê mocha và một đĩa gốm có hai chiếc bánh scone.
- Không phải cảm ơn tôi, nếu muốn bồ cứ boa hậu vào. Tôi mỉm cười khi cắn miếng bánh đầu tiên - vàng rộm và giòn ở bên ngoài, mềm như muốn tan ra ở bên trong, không quá ngọt, vừa đủ nho khô lắc rắc trong ruột bánh. Kể cũng thú vị, đôi khi sự hoàn hảo nhỏ nhoi nhất cũng để khiến ta cảm thấy mọi chuyện trên đời rồi đâu sẽ vào đó.
CM vừa ngồi xuống ghế và bắt chéo cặp chân dài thì lập tức tất cả nam giới trong độ tuổi từ mười ba đến tám mươi đều phải đưa mắt nhìn cô. Một số chỉ lén liếc, một số không giấu giếm. Luôn là như vậy, bất kể chúng tôi đến đâu. Ánh nhìn đầu tiên, rồi mắt họ cứ liên tục hướng về phía CM, như kim la bàn hướng về phương bắc vậy.
Kể cũng thú vị. Nhiều phụ nữ sẵn sàng gây án mạng để được trông giống như CM. Họ cho rằng chỉ cần mình xinh đẹp thì mọi trục trặc trong các mối quan hệ sẽ ổn thỏa cả. Có lẽ họ sẽ sửng sốt nếu biết CM cũng gặp nhiều rắc rối với đàn ông như họ - đôi khi tôi nghĩ thậm chí còn nhiều hơn. Chắc chắn họ đều nhìn cô, nhưng đa phần họ quá e dè, không làm gì nhiều hơn thế. Ánh nhìn lãnh đạm của CM khiến khối chàng tử tế phải lùi bước, và vẻ độc lập dứt khoát của cô là thông điệp rõ ràng cho những người còn lại.
Và rồi anh chàng Neal. Anh ta liên tục chia tay CM - hoặc cư xử tệ hại cho đến khi cô cắt đứt với anh - rồi lại lon ton quay lại. Như vậy phải chăng là chàng thực sự yêu nàng? Hay phải chăng chàng ưa những cú sốc tình cảm? Hay chàng khoái
phiêu lưu với trò chơi quyền lực, thích thú bắt một người phụ nữ đẹp phải khóc vì mình?
Phớt lờ những luồng testosterone* dập dờn xung quanh, CM uống một ngụm lớn cà phê, hài lòng nhắm mắt lại. Cô đặt tách xuống và khoanh tay.
- Không có anh ta, bồ sẽ còn ổn hơn đấy.
- Không đâu. - Tôi ngả đầu ra sau. - Tôi đến đây để giãn ra một chút.
- Bồ đến đây vì bồ muốn tôi nói lý với bồ.
- Không mà. Một bên mẹ càm ràm muốn tôi níu kéo cuộc sống ăn trắng mặc trơn, một bên bồ lèm bèm muốn tôi hãy dứt ra, tôi thật không biết mình đang làm gì nữa. Tôi chỉ muốn thả lỏng, buông mình tự trôi một thời gian.
- Nếu bồ hỏi, tôi sẽ trả lời rằng đó là những gì bồ đã làm trong suốt bảy năm vừa qua.
- Tôi có hỏi gì đâu.
- Wyn ơi, bồ có dám thẳng thắn nói rằng bồ luôn hạnh phúc không? Nghĩ đi, bồ lái xe thể thao chạy lòng vòng Los Angeles, dự những cuộc họp các ủy ban tẻ ngắt, trưa ăn mấy mẩu sushi bày biện màu mè, tối dự tiệc với những người bồ không ưa, rồi tiêu xài hàng đống tiền cho mớ quần áo chẳng có gì ăn nhập với gu của bồ cả. Đó thực sự là những gì bồ muốn làm cho cuộc đời mình ư?
- Thế bồ muốn tôi phải làm gì? - Tôi gắt. - Trở thành nhân viên y tế tử vì đạo ở Zimbabwe ư?
- Tôi muốn bồ làm bất cứ điều gì khiến bồ vui. Bầy giờ bồ có vui không?
- Tôi yêu anh David và...
- Tại sao?
Tôi chăm chăm nhìn CM.
- Tại sao tôi lại yêu anh ấy ư?
- Đúng thế. Có điều gì ở anh ta khiến bồ mê mệt vậy? - Chúa ơi, thưa cô Mayle, tôi yêu anh ấy vì tôi yêu anh ấy thôi. Đó là cảm xúc. Không thể phân tách từng thành phần, bộ
phận. Tôi biết bồ không chịu nổi anh ấy, nhưng... - Bỏ qua chuyện tôi nghĩ về anh ta ra sao. Thật ra, ngay lúc này cứ quên phắt anh ta đi. Cuộc đời của bồ có khiến bồ thấy vui vẻ hạnh phúc không?
- Khi cưới anh ấy, tôi đã biết cuộc đời mình sẽ đi về đâu, và tôi chấp nhận điều đó.
- Trả lời câu hỏi của tôi đi.
- Trên đời này có bao nhiêu người thực sự được hạnh phúc? -Tôi bối rối xé xé tờ khăn giấy.
CM rướn người, tay tì vào cạnh bàn.
- Trả lời câu hỏi chết dẫm ấy đi. Bồ có hạnh phúc không? - Làm sao tôi biết được? Đừng dồn ép tôi nữa.
CM ngồi lại tư thế bình thường.
- Những gì cần nói tôi đã nói rồi đấy.
- Bồ có hạnh phúc không?
- Có.
- Kể cả khi anh Neal đã ra đi.
- Tôi có buồn. Tôi nhớ anh ấy. Tôi thích nằm ườn một chỗ nhiều hơn. Nhưng trong phần lớn thời gian còn lại, tôi hạnh phúc với cuộc đời mình.
• • •
Mỗi sáng trên đường đến phòng tập, CM thả tôi ở tiệm bánh. Tôi uống cà phê, đọc báo, gọi thêm cà phê, ngồi lặng lẽ nghe những câu chuyện bâng quơ xung quanh, xem những người phụ nữ làm việc ở đây. Đa phần mọi người khoảng tầm tuổi tôi, và tôi thích thú nhận ra cuộc đời họ khác nhau thế nào, và họ đều làm việc cần mẫn ra sao. Rất nhanh sau đó, họ đều biết tôi là ai, rằng tôi đến thăm CM, và rằng tôi nhớ tên hầu hết tất cả và công việc của từng người.
Chị Ellen, đồng sở hữu hiệu bánh, đôi mắt có màu cà phê espresso, và mái tóc ngắn sẫm màu. Chị mặc váy dài, đi giày đen hiệu Doc Martens, đôi kính gọng kim loại cứ chực trượt khỏi sống mũi khi chị phục vụ khách hàng. Và hẳn là chị quen biết từng người trong phạm vi bán kính mười khối nhà quanh
tiệm bánh. Chị hỏi thăm mọi người về vợ, chồng, con cái, chó mèo, luôn nhớ từng tên cụ thể. Chị bàn chuyện chính trị địa phương với bất cứ ai hé ra chút quan tâm nhỏ nhất, và chị là trung tâm thông tin của bà con hàng xóm - của hiệu nào phải đóng cửa và tại sao lại đóng, ai sắp rời đi, ai sắp chuyển đến, ai đang có bầu hoặc đang tiến hành li hôn, chó mèo nhà ai đi lạc và đã được tìm về.
Cô Tyler trẻ trung trông rất ngầu, ít tuổi nhất hiệu bánh, phụ trách pha và tạo hình trên bọt cà phê. Cô có mái tóc xanh da trời, mũi đeo khuyên, trên cổ tay là hình xăm họa tiết những nút thắt kiểu Celtic. Cô dùng nhiều phấn kẻ mắt và mặc tuyền một màu đen. Từ những gì cô nói với những người phụ nữ khác, tôi chắp nối và luận ra được rằng cô mới tốt nghiệp phổ thông, đang trong giai đoạn chưa biết mình muốn theo đuổi sự nghiệp gì. Cô làm ở tiệm bánh các buổi sáng, chiều muộn láng cháng đến mấy lớp học hội họa và nghệ thuật, tối đi câu lạc bộ. Tôi tự hỏi không biết Tyler ngủ vào lúc nào.
Diane là thợ làm bánh ngọt sống ngay trong tiệm, và là đồng sở hữu với Ellen. Chị có mái tóc vàng như diễn viên Meg Ryan, cao và mảnh khảnh, khuỷu tay và xương quai xanh cử động với một vẻ duyên dáng đầy nhiệt huyết. Ellen hay cằn nhằn vì Diane thường ngủ nướng, thường khoảng chín giờ chị mới bắt đầu nướng bánh cho ngày hôm sau và trang trí những chiếc của hôm nay. Tôi cực thích xem chị tạo hình bánh. Chị làm duyên cho bánh cưới bằng những đóa hoa tươi. Cho bánh sinh nhật có hoa hồng bằng kem bơ, hoa cúc và trường xuân, hoa quả, những con giống hoặc đồ chơi, và dòng chúc mừng bằng nét chữ mềm mại đều tay. Hẳn là chị có tố chất của một nhà điêu khắc, nhưng khi tôi nói điều đó với Diane, chị cười lớn và bảo chị thích là thợ làm bánh hơn, như vậy luôn có thể ăn những sản phẩm bị lỗi.
Một ngày thứ Tư, sau khi uống cà phê, tôi bắt xe buýt xuống chân đồi Queen Anne, thong thả đi về phía nam theo mép nước. Làn gió nhẹ phả không khí trong lành lên mặt tôi, làm phất phơ những lá cờ đuôi nheo sặc sỡ trên các cột đèn. Tôi hình dung ra CM đang ở phòng tập, chỉ dẫn các động tác, viết đơn xin tài trợ, tự tập những động tác của chính mình. Chúng
tôi bên nhau, cả hai đều chất chứa khủng hoảng trong quan hệ tình cảm, nhưng dường như cuộc sống của cô không bị ảnh hưởng nhiều - chí ít cũng chỉ ở bề mặt.
Tôi lững thững đi trên cầu tàu bằng gỗ bắc ra vịnh. Mùi sơn chống thấm và dầu diesel quện lên trong mũi tôi, cùng với mùi mằn mặn từ biển. Trên vịnh, những cần cẩu và tàu công-ten-nơ ra vào cảng trông như một cảnh phim hoạt hình. Tôi tìm được một băng ghế gỗ tương đối sạch phân chim mòng biển, ngồi quay mặt ra phía mặt trời.
Ừm, CM chưa kết hôn, tôi thì đã. Cô và Neal chung sống chưa đầy hai năm; tôi và anh David được bảy năm. Nhưng từng ấy không nói lên được tất cả. Trong cô CM mà tôi quen biết, dường như bẩm sinh có một chiếc la bàn, còn tôi thì không. Từ hồi còn học trung học, CM đã biết rõ rằng mình muốn trở thành vũ công.
Trong khi năm nào tôi cũng thay đổi chuyên ngành, CM từ từ học xong toàn bộ chương trình vũ đạo ở UCLA, bắt đầu làm việc gần như ngay sau tốt nghiệp, dù không kiếm được nhiều. Đôi khi tôi thấy ái ngại vì cô phải làm hai công việc một lúc, nhưng CM chưa bao giờ coi đó là chuyện gì ghê gớm, chỉ là thêm chút đường vòng trên hành trình tới một điểm đến chưa bao giờ lung lay.
Nếu không cưới David, chắc giờ này tôi vẫn dạy thứ tiếng Anh ngớ ngẩn cho đám học trò ngổ ngáo, tự hỏi không biết mình có nên đi học cao học và làm bài kiểm tra sát hạch năng lực hay không. Có lẽ sự thật là CM có định hướng còn tôi thả nổi bản thân. Nhưng điều đó chưa bao giờ tạo ra khác biệt dù là nhỏ nhất trong tình bạn của chúng tôi.
Lần thứ hai tụi tôi suýt kịch chiến xảy ra khi tôi đính hôn với David. Sự quyến rũ của anh chưa bao giờ tác động đến CM như đối với phần còn lại của giới nữ. Cô thấy anh nhạt nhẽo, gần như dưới mức chấp nhận được, và chẳng nề hà nói thẳng thừng với tôi như vậy. Cô gọi anh là chàng Mĩ Nam. Anh gọi cô là nàng trí thức rởm và bảo rằng cô chỉ ghen với tôi thôi. Anh chưa bao giờ hiểu được sao tôi thấy chuyện này hài hước đến vậy, cũng chưa bao giờ hiểu được tình bạn của chúng tôi. Suốt
nhiều năm tôi vẫn nuôi hi vọng rằng CM và David dần dà sẽ mến nhau, nhưng cả hai giỏi lắm cũng chỉ đến mức độ chịu chấp nhận nhau.
Tất nhiên, nếu phải nói ra suy nghĩ thật, tôi cũng chưa bao giờ mến Neal ra mặt. Anh dạy chúng tôi môn tâm lí học, và CM lập tức bị say nắng. Anh khá lôi cuốn một cách vừa học thức vừa gợi cảm. Cao dong dỏng và trầm tư lặng lẽ. Thậm chí anh ta còn mặc đồ in hình Van Dyck. Từ khi tôi quen biết Neal, anh vẫn luôn là nghiên cứu sinh ngành tâm lí học lâm sàng. CM cho rằng anh rất xuất sắc. Cô bảo lí do khiến Neal mãi chưa hoàn thành được chương trình nghiên cứu sinh là vì anh mải đâm đầu vào những thành tích học thuật. Đối với tôi, anh có vẻ giống một nghệ sĩ cầu toàn viển vông hơn.
Một lí do nữa khiến tôi thấy Neal rất khó chịu - bên cạnh thực tế rằng anh thường xuyên làm CM không vui - là việc anh ta luôn muốn nói đến mối quan hệ giữa tôi và bố. Như thể anh ta quá phấn khích theo đuổi giả thuyết rằng hẳn là có điều gì đó phi tự nhiên đã xảy ra.
- Có đồng lẻ nào không cô?
Một giọng khê nồng khói thuốc. Một phụ nữ dậm dậm chân ở đầu kia băng ghế, liên tục dồn trọng lượng lên từng chân một. Trông bà vẫn còn quá trẻ so với những người vô gia cư điển hình, nhưng nước da đồi mồi hẳn là do phải ở ngoài trời nhiều, và trong đôi mắt, sự đờ đẫn trống rỗng hẳn đã chiếm chỗ của hi vọng. Những lọn tóc nâu lem đất chỉa ra dưới chiếc mũ lưỡi trai đỏ.
Tôi thấy ghê cái quần jeans bẩn bẩn rách rách, cái áo bông lem nhem của bà; nhưng tôi không thể ngó lơ đi. David không tán thành việc bố thí cho những người ngửa tay xin. Câu cửa miệng của anh là “Trên đời này thiếu gì việc làm”. Anh bảo như vậy chỉ tổ khuyến khích họ tiếp tục ỷ lại vào miếng ăn xin được. Tôi biết ít nhiều gì cũng có phần đúng, nhưng luôn khó có thể từ chối khi chính tôi đang mặc áo phông hiệu Donna Karan giá một trăm năm mươi đô-la, quần jeans hiệu Calvin Klein và xỏ xăng đan Bruno Magli.
Tôi móc túi được một tờ đô-la đã nhàu, ấn vào tay bà.
- Chúa phù hộ cô. - Bà nói.
Những lời ấy khiến tôi nhớ lại ngày bé, tôi chạy theo người ta, thả mấy xu quyên góp dịp Giáng Sinh vào cái ấm của Cứu Thế Quân, chỉ bởi vì thích được nghe người kéo chuông chúc phúc cho tôi. Ngay lúc này đây, có lẽ tôi cần tất cả những lời chúc phúc có thể được ban.
Bốn
TRÊN ĐƯỜNG QUAY LẠI CĂN HỘ, tôi chợt cảm thấy một nhu cầu mãnh liệt và khẩn thiết phải làm bánh để tiêu diệt con quỷ cô đơn trong mình. Tôi không có bột ủ men, mà muốn ủ gây men từ đầu thì phải mất khoảng hai, ba ngày. Nhưng tôi vẫn có vài mẹo làm một ổ bánh bình thường mang chút dư vị độc đáo. Vì CM có sáng kiến chỉ dùng bếp lò làm điểm tựa trong khi xỏ đôi giầy Reeboks vào chân, nên tôi dừng lại ở siêu thị thực phẩm Thriftway mua những thứ cần thiết, rồi phải tha lôi tất cả lên bốn tầng cầu thang vì cái thang máy cọt kẹt của cả tòa nhà hôm nay dở chứng.
Không nhất thiết phải có công thức mới làm được bánh mì. Mấu chốt nằm ở tỉ lệ - một gói men, sáu hoặc bảy cốc bột mì, hai cốc nước, một thìa muối. Và Jean-Marc từng nói rằng bánh mì có thể không nở như dự tính của người làm bánh, nhưng nó luôn nở. Tình cảnh bây giờ thật đúng như vậy, lâu lắm rồi không làm bánh nên tôi phải theo công thức in trên túi bột mì cho chắc chắn.
Bánh mì trắng
1 thìa (1 gói) men khô
1 thìa muối
21/4 cốc nước ấm
6 đến 7 cốc bột mì trắng không tẩy
1 thìa đường
Đa phần các công thức đều cần dùng hết cả túi men. Có nghĩa là lần ủ đầu tiên chỉ mất một tiếng, và lần thứ hai từ
khoảng bốn mươi lăm phút đến một tiếng - nhất là khi ủ bột ở chỗ ấm áp, như các công thức thường nêu. Một số công thức còn khuyến khích cất bột đã nhào vào lò và giữ ấm bằng bóng đèn chiếu sáng trong lò.
Các cách trên đều ổn cả. Nếu đó là loại bánh mì ta muốn làm. Bánh mì như ở cửa hàng. Bánh mì kì diệu. Còn nhớ chứ? Thứ ta vẫn ăn hồi còn bé. Trắng - trắng sáng chừng như phi lí - cắn vào có cảm giác như đang cắn miếng bọt biển ẩm ướt. Hễ cắn một miếng là dấu răng in lại luôn, rất thuận tiện nếu cần nhận diện tử thi.
Hồi những năm bảy mươi, ai cũng háo hức nhao đến những món hữu cơ và thô, bắt đầu thả đủ thứ hạt trên đời vào bột bánh. Các công thức cứ thế là phải thêm vào rất nhiều men, dầu, trứng và sữa, vì mọi người vẫn thèm thứ bánh mềm mềm dai dai đã quen ăn từ bé.
Phải đến khi tới Pháp, tôi mới được thưởng thức bánh mì không bị ních đủ thứ phụ phẩm và không khí bên trong. Đối với tôi điều đó như một nghi lễ cải đạo. Thực ra, giống như quan hệ tính dục vậy - một trong những điều ai cũng nghĩ rằng mình am hiểu hết và nói lại rằng chuyện đó tuyệt đến mức nào, cơ mà tất cả đều chỉ nhạt nhẽo cho đến khi ta thực sự trải nghiệm nó một cách đúng nghĩa như tạo hóa đã định.
Thế nên điều đầu tiên tôi làm là chia đôi túi men. Không cần bột phải nở vọt lên siêu tốc. Điều cần làm là tạo ra quá trình lên men từ từ, chậm rãi để có được chất bánh và mùi vị khiến người khác ngỡ rằng ổ bánh được mua với cái giá năm đô-la chín mươi lăm xu tại hiệu European Gourmet hào nhoáng.
Tôi trộn men với nước trong một bát sành lớn, thêm đường và để ngấu trong vài phút. Trong khi đó tôi đong bột mì vào một bát khác. Rồi trộn bột bằng cái thìa lớn duy nhất có thể tìm được trong căn bếp vô cùng thiếu thốn dụng cụ này. Khi bột đã mịn đều, không dính vào thành bát nữa, tôi đổ khối bột ra mặt bàn bếp, nhào trong mười phút, thêm vừa đủ bột mì cho dẻo. Rồi một chút muối. Đằng nào rồi cũng chết thôi. Vì muối đánh thức gluten và khiến bột trở nên hiếu chiến với cơ thể người ăn bánh.
Khi bột đã mịn và dẻo đến mức nếu ấn thử sẽ thấy đàn hồi ngay lập tức, tôi quết dầu ăn vào lòng một cái bát lớn, dàn bột vào đó, đảm bảo rằng toàn bộ mặt bột cũng được quết dầu. Rồi tôi phủ một khăn ấm lên trên, đặt ra xa chỗ nấu nướng hết mức có thể. Tốt nhất là để ở chỗ nào đó như hầm rượu, nhưng CM không có, nên tôi đặt bát bột trên bàn ăn.
Với nửa túi men thì phải cần gấp đôi thời gian ủ bột, thế nên tôi rót cho mình một li vang trắng Sauvignon và bắt đầu dọn dẹp bột vương dính trên mặt bàn bếp.
Mùi men bánh giăng trong không khí nhắc tôi nhớ lại levain của mình và cái ngày David đeo mặt nạ Nixon và mang pizza đến căn hộ của tôi. Cảm giác khắc khoải nhức nhối đến mức khiến tôi ngạc nhiên. Có lẽ CM nói đúng. Không có anh ấy biết đâu lại tốt hơn cho tôi. Nhưng vậy tại sao tôi lại cảm thấy trống rỗng nhường này? Tại sao tôi lại thèm được chạm vào mặt anh, cảm nhận mùi của anh, cơ thể anh sát bên tôi?
Tôi thấy cần phải nói chuyện với David. Nhưng không thể gọi điện thoại trong giờ làm việc. Ở một nơi nhỏ như JMP, ai cũng biết người khác đang làm gì. Có lẽ chúng tôi đã thành đề tài buôn chuyện tán dóc của cả công ty.
Tôi sẽ gọi điện về nhà. Anh sẽ không ở nhà, nhưng tôi có thể để lại lời nhắn trong hộp thư thoại. Chỉ để anh biết rằng tôi nghĩ đến anh. Chưa biết chừng anh cũng đang thấy cô đơn, nhưng lại xấu hổ không dám gọi điện cho tôi sau tất cả những gì anh đã nói. Nếu thấy lời nhắn, anh sẽ có lí do chính đáng để gọi lại cho tôi mà không sợ thể diện đàn ông bị lung lay.
Chắc anh sẽ gọi lại ngay tối nay. Có lẽ khuya, vì anh sẽ làm việc muộn như thường lệ. Tôi sẽ ngồi trong bóng tối ở phòng khách, kể cho anh nghe những gì tôi thấy - ánh đèn thành phố, những chuyến phà đi tới đi lui trên mặt nước đen, hướng về những hòn đảo xa mờ bảng lảng. Tôi sẽ nói với anh rằng hôm nay tôi đã làm bánh. Tôi sẽ nói tôi nhớ anh. Chúng tôi có thể bắt đầu từ đó. Chỉ là “em nhớ anh lắm”. Chúng tôi có thể làm lại từ đó. Nói công bằng thì không phải chỉ có anh, mà một phần lỗi cũng từ phía tôi.
CM có một chiếc điện thoại con vịt, không đổ chuông reng reng mà kêu quạc quạc. Cô còn đặt tên cho nó là Dorian. Tôi ấn số điện thoại trên bụng vịt. Tôi đoán bốn hồi chuông sẽ đổ, rồi đến hộp thư thoại tự động, nhưng chỉ hai hồi đã có tiếng nhấc máy. Anh ở nhà.
- A lô, - một giọng nữ.
Tôi há hốc miệng nhưng không nói được gì. Trừ khi tôi cực kì nhầm, trong điện thoại là giọng Kelley Hamlin.
- Xin chào, đây là nhà Franklin...
Có tiếng lạo xạo, như thể ống nghe rơi xuống sàn. Rồi giọng David.
- A lô.
Dorian và tôi nhìn nhau đầy hàm ý.
- Xin chào? Tôi David Franklin nghe đây. - Thoáng có chút hốt hoảng trong lời chào hào hển của anh.
Tôi khẽ đặt con vịt trở lại chỗ cũ.
Năm phút sau, Dorian quàng quạc như muốn nổ tung óc, nhưng tôi để kệ điện thoại chuyển sang hộp thư tự động. “Wyn ơi, anh đây. Nếu em ở đó thì nghe máy đi”. - Im lặng. -”Trời đất quỷ thần ơi, Wyn, đừng cư xử như trẻ con thế. Anh biết em đang nghe”. - Im lặng. - “Kelley và anh đang xử lý hồ sơ khách hàng. Nhấc máy lên nghe đi”. - Im lặng. - “Khỉ ạ”. Đường dây bị ngắt.
Tôi nghĩ mình sắp khóc. Rồi tôi hình dung gương mặt David nếu anh chứng kiến cuộc gọi của mình phát ra từ cái mỏ chú vịt Dorian. Tôi cười phá lên, rồi bật khóc.
Khi CM về nhà lúc khoảng sáu giờ rưỡi, tôi đã tiêu thụ gần hết một chai Robert Mondavi một lít rưỡi. CM lẳng túi xuống xô pha, nói:
- Tối nay chúng ta kỉ niệm chuyện gì vậy?
Tôi nâng li lên cao, hướng về phía chùm đèn trên trần, híp mắt nhìn qua ánh sáng màu rượu.
- Chương hai. Cuộc điện thoại. Nữ chính ngây thơ gọi cho hoàng tử đẹp trai đang ở trong lâu đài, và nàng hầu nghe điện thoại.
- Đã hiểu. - CM hùng hổ bặm môi. - Nàng hầu nói gì? - Xin chào.
- Thế thôi à?
Tôi lấy một li trong tủ ra, rót đầy rượu cho CM, hơi sánh một chút ra mặt bàn bếp.
- Đó là tất cả những gì nàng ta kịp thốt lên trước khi hoàng tử giật điện thoại và ống nghe rơi xuống sàn.
CM nhấp một chút trước khi cởi áo khoác vứt bừa lên cái ghế gần nhất.
- Vậy chàng ta nói gì?
Một tiếng khúc khích chuếnh choáng bật ra khỏi miệng tôi. - Tôi không nói chuyện với anh ấy. Nhưng anh ấy nói với Dorian rằng họ đang xử lý đồng hồ sơ. Bồ có nghĩ chàng hoàng tử quảng cáo nên thốt ra lời nói dối bóng bẩy hơn không? CM thở dài.
- Bồ tèo à, tôi rất tiếc.
Có lẽ sự thương cảm trong lời nói của CM đã thực sự hạ gục được tôi.
• • •
Sáng thứ Năm, nước mắt đã khô queo như muốn nghèn chặt hai mí mắt. Tôi dụi mắt, thấy lưỡi mình vẫn còn tím bầm màu rượu. Rủi là tôi vẫn nhớ gần như toàn bộ buổi tối hôm trước. Khóc và cười, uống rượu vang và thứ gì đó khác cho đến khi hết sạch, đi bộ đi ăn tối vì cả CM và tôi đều say không lái xe được, ăn bánh hamburger ngấy mỡ, cãi cọ với vị khách nào đó cũng say xỉn cho đến khi cô phục vụ bảo chúng tôi hãy ra khỏi nhà hàng. Ói vào một bụi cây trên đường về nhà. Khổ thân CM sáng hôm nay vẫn phải dậy đi làm.
Ít nhất tối qua tôi vẫn còn đủ tỉnh táo cất bột nhào vào tủ lạnh để nó không bị phồng lên quá, ngấu men đến mức lại xẹp lép xuống. Tôi lấy bột ra khỏi tủ lạnh, đặt trên lò nướng để trở lại nhiệt độ trong phòng trong khi tôi tắm, thay quần áo và dọn dẹp căn hộ như một cách để trị liệu.
Đến trưa, tất cả đã đâu vào đấy. Để tôn vinh David, tôi kéo bột thành hai ổ, kiểu bánh thuôn thuôn người Pháp vẫn gọi là bâtards*. Tôi để bột nở thêm hai tiếng nữa, vẩy thêm chút nước để vỏ bánh sau khi nướng được giòn rụm, rồi cho vào lò nướng ở hai trăm hai mươi độ C trong ba mươi phút.
Tôi từng đọc ở đâu đó rằng người ta đã chứng minh được mùi bánh mới ra lò là một phương thuốc hữu hiệu chữa chứng trầm cảm. Quả thực đúng như vậy. Khi hai gã đểu cáng xinh xinh của tôi dần nguội đi trên mặt bàn bếp, tôi bắt đầu cảm thấy hồi phục. Lòng dịu lại đủ để muốn ra ngoài đi dạo. Và tôi chợt thèm thứ gì đó có sô-cô-la. Tôi biết hiệu bánh Queen Street đóng cửa lúc hai giờ chiều để tập trung vào nướng những mẻ bán buôn, nhưng tôi vẫn lấy một ổ bánh còn ấm, gói vào túi giấy, mang theo làm của hối lộ mấy chị ở hiệu bánh để họ cho tôi vào.
Ellen và Diane không bận bịu nướng bánh mà đang ngồi ở bàn, với cà phê và mấy xấp giấy. Khi tôi gõ cửa, cả hai nhìn lên và mỉm cười, nhưng Ellen chỉ vào đồng hồ đeo tay. Tôi mở túi lấy vũ khí bí mật của mình ra. Rõ là cả hai đang lung lay. Tôi nâng ổ bánh lên gần mặt, làm bộ hít hà, nhắm mắt lại và mỉm cười. Chỉ một giây sau, Ellen đã ra mở cửa.
- Ở đâu ra thế này? - Chị tấm tắc ngửi mùi bánh.
- Từ bếp nhà CM chị ạ.
Ellen khẽ chạm vào ổ bánh.
- Cô làm đấy à? Ôi, vẫn còn ấm này.
Tôi giữ ổ bánh lại.
- Không chóng vánh thế chứ. Đây không phải quà tặng chị đâu, là hàng đổi hàng nhé. Em đang cần sô-cô-la.
Diane cười ngất, ngả người tì vào lưng ghế.
- Bọn tôi có hàng ngang giá đây.
Xoẹt một cái, còn ngắn hơn thời gian cần để bật máy làm bánh mì, tôi đã ngồi vào bàn cùng họ. Hai bà chị phớt lờ đề xuất của tôi, rằng nên để bánh nguội hẳn đã, cứ thế bẻ từng miếng và phết đẫm bơ ngọt. Tôi ăn một chiếc Bánh của Patty, cái tên
thực vô tội cho thứ bánh đầy ứ sô-cô-la, được rưới đẫm sốt espresso-caramel, dư sức làm hư bất cứ thực khách nào. - Được rồi. Patty là ai và bà ấy đã làm bánh này như thế nào ạ? -Tôi liếm sốt espresso-caramel ngọt ngào dính trên dĩa. - Patty từng là chủ hiệu bánh này. - Ellen đáp. - Đây là công thức duy nhất của bà ấy mà bọn tôi nhất định phải có. Diane mỉm cười.
- Sau khi phải trả một cái giá đắt ngược mặt, bọn tôi mới phát hiện ra rằng công thức té ra cực kì đơn giản. Chỉ cần dùng thìa gỗ trộn trong xoong, thậm chí còn chẳng phải động đến phới nữa.
- Vậy thôi em sẽ không hỏi đâu, các chị đã phải mua cơ mà. Chị bẻ miếng bánh nữa.
- Tốt. Vì bọn tôi cũng không tiết lộ đâu.
- Bánh này làm bằng bột chua phải không? - Ellen hít hà ruột bánh, trìu mến thẩm định chất lượng.
- Không, làm bình thường thôi ạ.
- Vị không giống bánh bọn tôi làm. Hơn thế... - chị tìm cách diễn đạt - phức tạp hơn... Có vẻ đằm hơn... Đại khái thế. Tôi cũng không biết nữa. Bí quyết là gì vậy?
Tôi mỉm cười ngọt ngào.
- Cực kì đơn giản luôn. Nhưng phải mất một chuyến đi đến Pháp em mới học được, cho nên em sẽ không tiết lộ đâu ạ. Sau khi tràng cười ngất của cả hai lắng xuống, chúng tôi đồng ý trao đổi thông tin. Diane đi vào khu vực làm bánh, tôi có thể nghe thấy tiếng dọn dẹp vọng ra từ đó. Khuôn và bát kim loại va vào nhau, nước chảy róc rách và tiếng phụ nữ cười. Chị quay lại, đưa cho tôi một tờ giấy kẻ ngang.
- Công thức làm bánh đây. Cô chỉ việc chạy qua phố, đến chợ Dan’s sao lại một bản.
Ôi trời, tôi không thể đợi để làm bánh này cho CM. Bánh Của Patty với sốt espresso caramel
7 miếng (gần 3 lạng) sô-cô-la không đường, loại để nấu
¾ cốc bơ
1½ cốc cà phê đặc
¼ cốc rượu bourbon
2 quả trứng
1 thìa cà phê va-ni
2 cốc bột làm bánh ngọt
1½ cốc đường
1 thìa cà phê bột nở
¼ thìa cà phê muối
Phết chút bơ để chống dính và rắc bột áo vào hai khuôn chữ nhật cỡ 22x12 cm.
Cho sô-cô-la, bơ và cà phê vào một xoong dày, dung tích khoảng 4 lít. Đặt lên bếp ở nhiệt độ thấp, quấy liên tục đều tay cho đến khi sô-cô-la tan hết, rồi quấy nhanh tay cho đến khi hỗn hợp mịn đều. Nhấc khỏi bếp, để nguội trong ít nhất 10 phút. Cho bourbon, trứng và va-ni vào. Rây các nguyên liệu khô vào, trộn đều với hỗn hợp sô-cô-la. Chia hỗn hợp đã trộn vào hai khuôn, nướng trong lò ở 135 độ C từ 45 đến 55 phút. Cứ thế thử bánh chín bằng cách thăm que gỗ vào lòng bánh, nếu rút ra không dính bột là được. Để bánh nguyên khuôn nguội trong 15 phút, rồi gỡ bánh ra, để lên vỉ lưới cho nguội hoàn toàn. Bày lên đĩa cùng kem đánh bông, kem tươi hoặc sốt espresso-caramel.
Sốt espresso-caramel
1 cốc đường
1/3 cốc nước
1/2 cốc kem (đánh) đặc
3 thìa canh espresso
Hòa đường với nước, cho vào một xoong đáy dày - tốt nhất là xoong lòng trắng hoặc sáng màu, để dễ quan sát caramel đổi màu. Quấy trên lửa vừa cho đến khi đường tan
hoàn toàn, khoảng 1 phút. Tăng nhiệt độ lên cao cho đến khi sôi. Không quấy, nhưng thỉnh thoảng dùng chổi thấm nước quét quanh thành xoong.
Trong khi đó, đun kem nhỏ lửa trong một xoong khác. Khi đường bắt đầu cô lại, chuyển thành caramel, phần đường ở thành xoong chuyển mầu vàng nâu, cẩn thận nhấc xoong lên, quấy nhẹ hỗn hợp để caramel lên đều. Đun tiếp cho đến khi hỗn hợp nâu óng như hổ phách - từ 3 đến 4 phút. Nhấc hẳn khỏi bếp, đặt xoong vào bồn. Từ từ đổ kem đã đun nóng vào, đánh đều. Hỗn hợp sẽ sủi bọt và có thể bắn ra ngoài. Nếu cần, nên đeo kính để bảo vệ mắt. Cho cà phê espresso vào và quấy đến khi mượt. Nếu sốt bắt đầu cứng lại, đặt trở lại bếp, đun nhỏ lửa và quấy cho tan. Khi sốt còn ấm, đổ qua rây lọc cho mịn. Đong được một cốc sốt.
Ellen hắng giọng.
- Còn ổ bánh...
- Bí quyết làm bánh mì đậm đà hơn là chỉ dùng một nửa lượng men nhưng tăng thời gian ủ bột lên gấp đôi, - tôi nói. Đột nhiên im phăng phắc trong năm giây khi Ellen và Diane cùng nhìn nhau.
- Có thế thôi à? - Diane thốt lên. - Một nửa men nhưng gấp đôi thời gian ủ bột? Thế à?
Tôi có cảm giác như mình vừa lừa họ vậy.
- Em đã nói với các chị là cực kì đơn giản mà.
- Trời ơi! - Chị đập tay xuống bàn. - Linda sẽ không đời nào làm vậy đâu.
- Linda là ai ạ?
Ellen thở dài.
- Thợ làm bánh của bọn tôi. Bà ấy bảo thủ đến mức hóa thạch luôn.
- Vậy các chị tìm người khác đi.
Ellen phất tay như thể đang đuổi muỗi.
- Không đơn giản như vậy đầu. Bà ấy ở đây từ ngày đầu... Tôi cũng là dạng yếu đuối lắm, không có gan sa thải ai hết. Không phải là bà ấy không chịu làm việc. Vả lại, Linda sắp đến lúc nghỉ hưu rồi. Cứ đợi đến lúc ấy thì hơn.
- Cơ mà cô học được điều này ở Pháp phải không? - Diane nhìn tôi với ánh mắt thăm dò. - Cô là thợ làm bánh à? - Ơ, em từng làm việc trong một hiệu bánh. Đại khái thế ạ. Một mùa hè hồi còn học ở trường UCLA, em theo một chương trình vừa học vừa làm ở một boulangerie tại Toulouse. Hai cặp lông mày cùng nhướn lên.
- Một trải nghiệm tuyệt vời! - Ellen thốt lên.
- Em không phải là thợ nướng bánh đúng nghĩa. Ban đầu em chỉ dọn rửa dụng cụ. Nhưng cuối cùng, anh Jean-Marc, boulanger đích thực, bắt đầu cho em nặn các ổ bánh, cán bột bánh cuộn và sừng bò. Đưa bột vào lò và lấy bánh mới ra. Các chị biết đấy, những việc anh ấy cho rằng chắc em không lóng ngóng đến mức làm hỏng được.
- Jean-Marc hả? - Diane mỉm một nụ cười đầy ý tứ. - Anh ta có đẹp giai không?
- Tất nhiên rồi, anh ta là người Pháp mà.
• • •
Sáng thứ Bảy, CM khua tôi ra khỏi giường lúc bảy giờ, lôi đi chợ Pike Place. Khi hai đứa đến nơi, chợ đã nhộn nhịp mà chẳng cần đợi chúng tôi. CM và tôi xếp hàng ở Starbucks mua cà phê latte tách béo và có thêm bọt sữa, thủng thẳng uống trong khi thả bộ qua North Arcade với những gian hàng trang sức thủ công, quần áo, tranh, đồ gốm, mật ong, ô-liu, các loại hạt, hoa và rau tươi từ vườn các nông hộ trong vùng.
Chúng tôi xem các nhân viên quầy Cá Pike Place lẳng hàng hóa qua lại trong không khí, lắng nghe hai anh chàng mặc quần jeans, áo vải flannel và đi ủng như thợ rừng tranh luận với nhau về việc nên chọn cá tuyết hay cá bơn làm nguyên liệu cho món cá và khoai tây rán.
Một phụ nữ nhìn từ phía sau to như tấm phản, nhảy lên lưng tượng con lợn bằng đồng trong khi chồng cô ta lập tức ghi lại kì tích đó bằng camera.
- Rachel đấy, - CM nói.
- Bồ quen bà ấy à?
- Tôi nói con lợn chứ không phải bà khách du lịch. Rachel là con lợn bỏ ống của cả chợ đấy. - CM làm biểu cảm ghê rợn. - Sau này nếu tôi sứt cạp đến mức ấy, bồ có sẵn lòng cho tôi một phát đạn giải thoát khỏi mọi lẽ thống khổ không?
Tôi liếm ria bọt sữa dính trên mép.
- Chắc chắn rồi, cơ mà đến nước ấy thì tôi không muốn ai biết rằng tôi quen biết bồ đầu nhé.
Một tay đặt trên vai tôi, CM lái tôi ra ngoài phố. Hơi nước bốc lên từ mặt đường rải sỏi, quện vào cùng mùi cà phê, khói xe, gió biển, hoa cỏ, mùi tỏi, thì là Ai Cập, mùi cá rán. Tôi hít sâu, cảm nhận sự dễ chịu từ những mùi vị bình yên của đời thường.
- Sang chợ Corner mua phô mai về ăn tối đi.
Tóc tôi rối tung như tóc Lindar Blair trong phim kinh dị Người trừ tà vì tôi cứ quay tới quay lui xem và ngửi những món lạ trong từng gian hàng nhỏ xíu - bánh bao, bánh baklavas, tamale, súp cioppino cay và đỏ rực, gà sa tế, xúc xích wurst và bánh crumpet.
- Này bồ, ở Los Angeles cũng có những thứ này đấy. - Tất nhiên, - CM mỉm cười ngọt ngào. - Vấn đề là phải lái xe ba ngày mới tìm ra chỗ mua.
Từ một góc, mùi thơm quen thuộc bay ra như mời gọi. Le Panier. Một hiệu boulangerie/ patisserie kiểu Pháp. Hiệu này rất hiện đại - nhiều kính, gạch lát màu xanh trắng, đèn halogen, và những lò nướng lớn bằng thép không gỉ bóng loáng. Những ô cửa sổ trưng ra từng hàng bánh palmiers hình bàn tay, pain au chocolat, bánh ngàn lớp, và bánh tart dâu.
- Bồ muốn mua gì để về ăn không? - CM hỏi.
Tôi lắc đầu, đi nhanh qua khung cửa để ngỏ, tự hỏi tại sao mùi bánh đột nhiên lại khiến mình bâng khuâng đến vậy.
Ở
Ở một hàng mĩ phẩm thiên nhiên, CM vơ cả đống sữa rửa mặt dưa chuột và sữa tắm táo xanh. Lang thang vào một con hẻm, bọn tôi giết cả tiếng đồng hồ cười cợt những tấm thiệp tục tĩu, và cuốn lên người đủ thứ váy lụa trong suốt từ Ấn Độ. CM tìm cách kéo tôi thật nhanh qua Sur la Table, nhưng không nổi. Tôi lao ngay vào trong xem vô số đồ nhà bếp bày ngút kín tường, từ sàn đến trần - giống như những cửa hàng nhỏ tại châu Âu, người bán hàng luôn biết cách sắp xếp lượng hàng đáng kinh ngạc trong không gian tối thiểu.
Đến mười một giờ mười lăm, bọn tôi bắt đầu chấm chỗ ăn trưa. Cuối cùng chọn Dujour, một quán cà phê tự phục vụ nhỏ ở First Street, nơi chúng tôi mang khay thức ăn tới một bàn bên cửa sổ lớn nhìn xuống mái khu chợ, trải tầm mắt ra tận vịnh Elliot.
- Được rồi, tôi bỏ cuộc. Có phải mọi chỗ trong thành phố đều có tầm nhìn đẹp thế này không?
CM lấy lát bánh mì làm từ bột chua, bẻ nửa cho tôi. - Bồ nên tính chuyện dọn đến đây ở đi.
Tôi không nói gì.
- Ý tôi là nếu bồ và anh David...
Tôi lắc đầu.
- Tôi là con gái California.
CM sốt ruột búng vụn bánh dính trên ngón tay.
- Chỉ vì bồ được sinh ra ở đó không có nghĩa là bồ phải chết ở đó.
- Tôi không phải là đứa thích phiêu lưu.
CM găm thẳng ánh mắt vào tôi và nói:
- Bồ đã từng như vậy.
• • •
Sáng thứ Hai, tôi đang nhấm những mẩu cuối của chiếc bánh cappucino-hạt dẻ và tách latte thứ hai thì Ellen tới. - Tôi hỏi cô một câu hơi ngốc được không? Cô có đang tìm việc làm không?
- Việc làm ư?
Chị bật cười.
- Ừ. Một việc lặp đi lặp lại và có người trả lương cho cô. Việc là thế này. Diane và tôi rất thích bánh mì cô làm. Linda sắp nghỉ hưu. Hi vọng là sang năm. Chúng tôi nghĩ nếu cô làm việc cùng Linda thì bà ấy sẽ dạy lại cô được nhiều thứ, ý tôi là làm những mẻ bánh số lượng lớn không giống như làm bánh trong bếp nhà, cô cũng biết đấy, và khi bà ấy nghỉ... Cô có quan tâm không?
Sự nhiệt thành của chị thật dễ lây.
- Nghe hay lắm ạ, - tôi khẽ đáp. - Nhưng em có sống ở đây đâu.
- Thì cô chuyển đến đây đi. - Chị hơi lên giọng, nghe như một câu hỏi.
Tôi tránh ánh mắt chăm chú của chị bằng cách lật giở mục “Đời sống” trong tạp chí, gập lại rồi đặt ngay ngắn lại trên bàn. - Em đang gỡ mấy vướng mắc với chồng, - tôi nói mà không ngẩng lên nhìn chị. - Mai em sẽ về Los Angeles.
• • •
Tối hôm trước tôi đã nhắn vào hộp thư thoại ở nhà cho David biết chuyến bay của tôi và thời gian hạ cánh. Tôi không mong anh sẽ ra sân bay đón. Nhưng biết đâu đấy, tôi vẫn nhìn lướt nhanh qua sảnh chờ ở sân bay. Thấy buồn và thương thân, tôi lẳng túi lên ghế sau chiếc taxi màu xanh lá cây và trắng.
Giữa trưa nên đường đông, không khí ấm và nằng nặng. Người lái xe, một anh chàng mặt mỏng, nước da vàng vọt, mớ tóc nâu bẩn bẩn, bắt tôi phải chịu trận nghe câu chuyện Horatio Alger phiên bản cuộc đời anh ta, rằng tuổi thơ anh bị bố mẹ bạo hành, phải lăn lộn tìm đường nuôi thân và học cao đẳng. Lẽ ra nên tỏ ra thông cảm hơn, nhưng tôi không nén được cảm giác rằng anh ta kể lể như vậy để tôi động lòng trắc ẩn boa một khoản hậu hĩnh.
Chiếc xe Mazda của tôi đậu bơ vơ trên lối đi, trông như đứa trẻ mồ côi bị hắt hủi. Hôm nay không có tiệc xử lý hồ sơ khách hàng nhỉ. Thái độ hờ hững của tôi hẳn đã khiến anh lái xe đoán
rằng tôi chẳng phải loại quý cô giàu có rủng rỉnh đầy tội lỗi gì, thế nên anh ta chẳng buồn quay lại, chỉ chìa tay ra sau, lòng bàn tay ngửa lên, nói gọn:
- Hai mươi sáu đô-la tám mươi xu.
Tôi xem ngăn để tiền mặt trong ví.
- Tôi có sẵn hai mươi đô-la thôi. Anh đợi một chút tôi vào nhà lấy nốt chỗ còn lại.
Tôi khoác túi lên vai, bước lên lối đi vào nhà, chỉ hơi hơi thấy hình như có gì đó lùm lùm trước hiên. Nhìn kĩ dưới mái gianh, tôi thấy camera của mình, điện thoại di động, một trong mấy cái ti-vi của nhà. Trời đất ơi, tôi về đúng lúc đang có trộm đột nhập. Ai đó đã lấy được đồ trong nhà ra và chuẩn bị khuân đi. Rồi tôi nhận ra những hộp sách và hàng chồng quần áo giầy dép bị lẳng lên trên. Hộp nữ trang của tôi. Kẹp uốn tóc và đồ trang điểm, một lọ Bal à Versailles đã nứt, nước hoa giá hai trăm đô la một ao-xơ tẩm đẫm đôi dép lê của tôi. Hơi thở chợt đông cứng lại như đá cứa trong cổ họng tôi.
- Không. - Và rồi rõ hơn, khẳng định chắc chắn với chính mình, - Không thể nào.
Đẩy đống thùng hộp sang một bên, tôi lao đến cửa ra vào. Chìa khóa của tôi tra lọt vào ổ, nhưng không thể nào vặn mở được. Chuyện này không thể xảy ra. Đế giày tôi giậm từng vết lên cánh cửa đen sáng bóng. Tôi đập cửa cho đến khi nắm tay nóng ran và bỏng rát. Ngốc quá, vì David không có nhà. Tôi hình dung chắc cả phố đang mở cửa sổ ra, hàng xóm láng giềng chắc đều đang chứng kiến cảnh tôi bị đuổi ra khỏi nhà. David không làm như vậy đâu. Thế là phạm luật. Không thể cứ thế mà đuổi tôi đi được.
Tiếng còi xe tắc-xi nhắc tôi nhớ rằng người tài xế vẫn đang đợi tôi trả tiền. Bây giờ biết làm thế nào đây? Tôi đặt túi xách xuống, chợt mừng đã không để túi lại trong xe. Rồi từ tốn vô tư hết mức, tôi bước về phía người lái xe đang gõ gõ ngón tay lên kính.
Tôi mỉm cười một cách duyên dáng nhất có thể.
- Hình như tôi mang nhầm chìa khóa mất rồi. Hiện giờ tôi không thể vào nhà được. Anh có nhận thanh toán bằng thẻ
không?
- Không nhận thẻ đâu, - đôi mắt sẫm của anh ta chợt sầm lại. - Đây, tôi có hai mươi đô-la tiền mặt. Tôi có thể trả số còn lại cho anh bằng séc.
Anh ta thở dài.
- Lạy Chúa.
- Xin lỗi anh, tôi không vào trong được. Anh muốn tôi làm gì bây giờ?
Anh ta dận nắm tay lên tay lái.
- Tôi có thể gọi cảnh sát đấy. Tôi dám đấy, từng gọi rồi đấy. Tôi liền đứng chống nạnh.
- Anh cứ việc gọi, nếu muốn ngồi đây và đợi họ đến. Chắc họ sẽ đá bay cửa nhà tôi để lấy sáu đô-la tám mươi xu đấy. - Đồ của nợ. Đưa hai chục đây.
Anh ta giật tờ tiền trên tay tôi. Tôi chưa kịp lấy séc ra thì anh ta đã vào số và phóng xe đi, để lại dấu lốp còn in trên vỉa hè. Tôi quay lại hiên nhà, vẫn chật vật cố tìm một cách cắt nghĩa khác cho phần cuộc đời đang chết lặng ở đây.
Cây đèn trong phòng làm việc - thứ duy nhất trong nhà tôi đã mua mà không hỏi qua ý kiến David, và dĩ nhiên là anh ghét nó -đứng chênh vênh trên bậc thềm. Cây đèn có chụp bằng lụa ở trên, sứ màu vàng vẽ hoa ở dưới. Khi thấy nó trong cửa hàng, tôi đã nghĩ ngay rằng nó sẽ đem lại chút sức sống, cảm giác ấm áp, hay chí ít là ánh sáng cho căn phòng.
Hoặc có thể chỉ là vì tôi biết anh sẽ ghét nó.
Tôi cầm cây đèn lên. Trông mỏng manh thế mà nặng khủng khiếp. Sức nặng của nó trĩu xuống trong tay tôi, thêm cảnh đồ dùng của mình ngổn ngang như rác trên thềm, trong đầu tôi chợt bùng lên cơn giận dữ không gì kiềm nén nổi. Tôi lấy đà rồi ném thẳng cây đèn vào cửa sổ mặt tiền nhà. Lớp kính vỡ rụm, rơi xuống như một thác nước đóng băng. Hệ thống báo động được kích hoạt, rít lên từng hồi chói gắt. Miệng tôi mở ra một chuỗi cười hoang mang không thành tiếng.
Trong khi tôi xếp đống đồ vào xe của mình, một anh cảnh sát tuần tra có vũ trang xuất hiện trước hè. Lại một ngày náo nhiệt
ở Hancock Park. Anh ta mở cửa xe, nhoài ra nhưng một chân vẫn đặt trên ngưỡng cửa.
- Chào chị Franklin. Chúng tôi nhận được báo động từ thiết bị an ninh nhà chị.
- Vâng, tôi biết. Không có gì đâu. Tôi lỡ va cái đèn làm vỡ cửa sổ. -Tôi mỉm cười. Anh ta nhìn tôi mấy phút. - Phiền anh giúp tôi một chút được không? - Anh ta liền nhiệt tình bê ba thùng, xếp vào chỗ ngồi phía trước trong xe. - Cảm ơn anh, chỗ sách ấy nặng quá.
Cứ ba mươi giây hệ thống lại tự động dừng, kích hoạt lại và lại rít lên inh ỏi. Ánh mắt anh ta hết nhìn tôi lại nhìn sang những mảnh thủy tinh vỡ nhọn hoắt.
- Chúng ta... ơ... có lẽ nên tắt thiết bị báo động đi. Cảnh sát có thể sẽ đến bất cứ lúc nào.
- Ý kiến rất hay. Hàng xóm xung quanh chắc phát điên mất. - Tôi vào trong xe.
Anh ta bối rối gãi gáy.
- Chị... ơ... Franklin, chị mở cửa vào nhà được không? - Tôi thực sự xin lỗi... anh Ted, - tôi đọc bảng tên anh đeo. - Hiện giờ tôi không thể mở được.
Tôi để xe chạy lùi dần ra đường trong khi anh ta đi theo. Vài người đã xuất hiện ở ngưỡng cửa và thềm nhà để xem tiếng ồn từ biệt thự Franklin là do có sự vụ gì.
Tôi đã ra đến phố, Ted giơ tay ra tỏ ý bất lực.
- Chị bảo tôi nên làm gì bây giờ?
Tôi quay lại và mỉm cười với anh ta.
- Anh làm cái quái gì tôi cũng không quan tâm.
Từ trên xuống dưới, đầy cứng va-li, thùng, hộp, túi, bọc, ti-vi, loa, đài, giày dép cọc cạch, vợt tennis, kẹp là uốn tóc, điện thoại, tôi ngẩng cao đầu nhìn thẳng ra khỏi cái xứ Beverly Hin Hít này. Chạy xe xuôi phố trong buổi chiều mùa thu ấm áp, tôi giơ tay vẫy những người hàng xóm cũ.
• • •
Chỉ một nơi tôi có thể tới - ngôi nhà ở khu Encino nơi tôi đã lớn lên, bây giờ chỉ có mình mẹ. Mới lái xe theo con phố uốn lượn trong tiểu khu này, hai bên đường những căn nhà phỏng theo kiến trúc Tây Ban Nha, các tầng cao thấp khác nhau, và những dãy nhà kiểu California đều tăm tắp như những ngôi chùa, chỉ mới thế thôi tôi đã thấy lòng mình chộn rộn. Trời không mưa từ mấy tháng nay, những ngọn đồi xung quanh xơ xác như trảng cỏ khô cho gia súc ăn, nhưng bãi cỏ trước các ngôi nhà vẫn được tưới xanh và xén gọn. Mấy nhành nhỏ giâm trồng từ bốn mươi năm trước, khi mới bắt đầu có máy xúc, nay đã vươn thành cây cao lớn - vân sam, thích, bạch dương, chanh, melaleuca, dạ lan hương, cây nhiệt đới từ Trung Quốc, cọ và xương rồng. Đó chính là miền nam California. Muốn gì chỉ cần cắm xuống đất, nó ắt sẽ mọc lên.
Tôi đỗ ở lối đi vào ngôi nhà kiểu giả thuộc địa của mẹ, vẫn ngồi trong xe với cái ví trong lòng, chìa khóa trong tay. Rồi rút cục tôi cũng ra, men theo lối đi lát gạch cũ, hai bên ken đầy hoa păng-xê tím sẫm, qua cây đèn ga giả cổ, vặn thử tay nắm cửa bằng đồng. Cửa không khóa.
- Mẹ ơi?
Có tiếng bước chân. Johanna Kohlmeyer Morrison xuất hiện ở đầu cầu thang.
- Wyn đấy à, đã xảy ra chuyện gì thế con?
Nhận xét rằng mẹ và tôi không giống nhau hẳn là một cách nói giảm khinh. Năm mươi tám tuổi, nhỏ nhắn, vẻ đẹp mảnh mai và tinh tế, nhìn bề ngoài hoàn toàn có thể nói mẹ tôi mới bốn mươi tám. Tôi giống họ nội, gia đình nhà nông toàn những người cao lớn, chân tay dài. Bất cứ khi nào đi cùng nhau, tôi luôn có cảm giác phải trói bớt một người lại cho gọn.
Mẹ là tất cả những gì tôi không có – đầu tóc trang phục hoàn hảo, làm việc hiệu quả, ngăn nắp, thấu đáo, khép kín đến mức nhẫn nhịn, và quan trọng hơn hết thảy, mẹ là một thực thể khó định nghĩa, một Quý bà, với chữ Q viết hoa. Mẹ luôn biết phục sức thế nào cho phù hợp, đối nhân xử thế đâu ra đấy, trong bất cứ trường hợp nào. Và mẹ là kiểu phụ nữ còn là ủi cả đồ lót của mình.
Bất kể những khác biệt giữa chúng tôi, mẹ chỉ cần nhìn tôi là biết ngay khi nào có chuyện gì đó không ổn. Hiện giờ mẹ đang phải cực kì kiềm nén, cứ để tôi kể lể dài dòng mà không chen ngang rằng mẹ đã nói tôi không nên đi Seattle. Khi kể xong thì chính tôi muốn phát điên luôn. Mẹ ngồi mớm trên mép chiếc ghế may vá, yên lặng, tay đặt trên lòng, trong khi tôi nóng ruột đi đi lại lại trước bàn đặt điện thoại ở hành lang, nghe chuông đổ từng hồi trong máy lẻ của David ở công ty.
- Đây là văn phòng của David Franklin. Andrea Wells nghe máy.
- Giọng cô trợ lý với vô số bằng cấp của David.
Tôi cố gắng đáp lại từ tốn và bình tĩnh.
- Chào Andrea, tôi Wyn đây. Anh David có ở đó không? - Chào chị Wyn. Anh ấy có ở đây, nhưng đang họp với Hank và Grady. Chị có nhắn lại gì không?
- Tôi có việc gấp cần nói với anh ấy.
Andrea ngập ngừng.
- Anh ấy bảo tôi không được làm phiền vì bất...
- Tôi cũng nghĩ anh ấy đã dặn cô như vậy. Andrea này, phiền cô nói anh ấy hãy vác xác đến đây và nghe điện thoại đi. Giọng cô ấy chợt trở nên xa xăm.
- Xin chị đợi một chút.
Nhưng chẳng cần đến một chút, David đã lên tiếng ngay. - David Franklin nghe đây. - vẻ như anh không biết ai gọi. - David, anh nghĩ mình đang làm cái quái gì vậy? - Wyn, vì Chúa, anh đang họp với Hank và...
- Anh có đang khỏa thân trong chén trà với Hank em cũng không quan tâm. Anh nghĩ gì mà lại thay khóa không cho em vào nhà của em?
- Một là, đó không phải là nhà em. - Giọng anh lạnh ngắt như băng. - Hai là, em đã bỏ anh, nên anh có đủ mọi quyền để... - Bỏ anh? - Tôi rít lên. - Em đã bỏ anh ư?
- Em chuyển đi. Có trả lời điện thoại của anh đâu. - Em đi thăm cô bạn thân nhất. Em đi đúng mười ngày.
- Anh không trông đợi em sẽ quay về. - Giọng anh nghe cứng đờ như gã Darth Vader*.
- Anh quá biết rằng em sẽ quay về. Chính em đã nói như vậy với anh trước khi em đi. Tối hôm qua em còn vừa gọi về nhà, để lại lời nhắn trong hộp thư thoại.
- Anh có nhận được lời nhắn nào đâu.
- Vô lý. Những điều anh làm là bất hợp pháp.
- Anh bảo đảm với em, không có gì bất hợp pháp cả. Em đã có những thứ của em. Nhà là của anh.
- Nếu anh đã quên, California là bang áp dụng luật tài sản chung trong hôn nhân.
- Nếu em đã quên, anh mua nhà trước khi cưới.
Nước mắt phẫn nộ và bấn loạn bắt đầu làm tôi nghẹn lại. - Anh mua để chúng ta dọn về ở. Lúc đó anh đã nói như vậy. - Đúng, anh đã nói vậy. - Từng lời của anh nôn nóng bục ra. -
Nhưng chúng ta chưa từng điền tên em vào mục chủ sở hữu. Do đó, theo một cách hợp pháp, ngôi nhà là của anh. Em nghe đây, anh đang họp bàn công việc quan trọng. Chúng ta sẽ nói về chuyện này sau. Cụp.
Ống nghe vẫn còn nặng trịch trong tay tôi. Tôi trân trân nhìn cái bàn nhỏ để điện thoại. Gỗ gụ, tôi nghĩ thế, với mặt bàn cẩm thạch trắng. Một tập giấy nhỏ để ghi lời nhắn, hình hoa păng-xê vẽ bằng màu nước in chìm ở góc trên bên trái trang giấy. Trang đầu tiên ghi dở danh mục những thứ cần mua. Một bình pha lê cao cổ ngày trước của bà ngoại, trong bình cắm ba bông cẩm chướng màu hồng cắt từ vườn nhà. Mùi hoa ngọt ngọt cay cay là sợi chỉ duy nhất vít tôi trở lại thực tại.
Tiếng “tuuu” dài trong điện thoại nhắc tôi phải đặt ống nghe xuống. Tôi đi vào phòng làm việc và ánh mắt mẹ nhìn tôi đăm đăm. Tôi không thể chịu được cách mẹ khổ sở bặm môi, nhưng rõ là trông tôi cũng rất ngu ngốc, vì mẹ rời ánh mắt đi trước.
- Con ơi, ôi, Wyn ơi, mẹ thương con quá.
Năm
SAU BỮA TỐI, rút cục tôi đã liên lạc với Jill Trimble, bạn CM, xin số điện thoại của Elizabeth Gooden, luật sư của chị. Sáng thứ Tư tôi gọi điện đến văn phòng luật sư, cô thư ký lập tức nối máy.
- Jill dặn tôi đón điện thoại của chị. Vui lòng cho tôi biết đến thời điểm này mọi chuyện xảy ra thế nào rồi.
Giọng Elizabeth nghe trầm trầm, có chút khách khí nên tôi đoán có lẽ chị từng học ở New England.
Tôi kể sơ sơ mấy nét chính, tự nhận thức sâu sắc rằng nghe cũng na ná như kịch bản những bộ phim truyền hình nhiều tập. Elizabeth nói:
- Tôi có thể kiểm tra xem có đúng chủ sở hữu ngôi nhà là mình anh ấy hay không. Nếu đúng thì những điều anh ấy nói là chính xác đấy, có lẽ chị không thể quay lại đó sống được. Tuy nhiên chúng tôi có thể xin lệnh yêu cầu anh ấy phải cho chị vào nhà để dọn đồ đi. Và anh ấy cũng sẽ phải thu xếp một khoản tiền cấp dưỡng cho chị.
- Tôi đã có những gì tôi cần từ ngôi nhà đó.
- Chị có mang theo giấy tờ tài chính nào không? Chi tiết tài khoản ngân hàng, các khoản đầu tư, bất động sản chẳng hạn? - Tất nhiên là không. Tôi chỉ đi thăm một người bạn thôi mà. - Tôi ghét cái cách mình bị rơi vào tình cảnh này, cứ như thể tôi là một cô nàng giàu có chảnh chọe, nhưng có vẻ Elizabeth không bận tâm.
- Tôi nghĩ chồng chị muốn chơi rắn đấy. Nếu là người duy nhất giữ các giấy tờ về tài sản chung trong hôn nhân, anh ấy có
thể gây khó khăn khi chúng ta muốn xác định chính xác phần chính đáng của chị trong khối tài sản...
Tài sản ư? Nghe như ai đó vừa qua đời vậy.
-... cần ngồi lại và lập danh mục tất cả những thứ chị nghĩ là của chung hai vợ chồng.
- Ôi trời... chuyện này thật điên rồ. - Tôi lẩm bẩm với bản thân, gần như không nghe rõ.
- Chị Franklin này, kết hôn là ái tình. Còn li hôn là tiền. Chúng ta không biết liệu chồng chị, David phải không nhỉ, đã tiến hành thủ tục li hôn hay chưa, nhưng tôi khuyên chị hãy sẵn sàng đệ đơn càng sớm càng tốt. Trong trường hợp anh ấy đã làm rồi, chị sẽ phải trả lời tòa trong vòng ba mươi ngày sau đó. Cho nên càng có thời gian chuẩn bị thì chị càng có khả năng được sung túc hơn.
- Chỉ là... tất cả chuyện này thật kì quặc quá. Tôi chẳng nghĩ được gì cả.
- Hẳn là thế rồi. Anh ấy đã tính trước cả, tôi đoán vậy. - Tôi không thể tin được anh ấy lại... chắc lúc nào chị cũng phải nghe những chuyện tương tự.
- Rủi là đúng như vậy đấy.
Tôi thở dài.
- Chị cho tôi biết mức thù lao của chị được không? - Một trăm bảy mươi lăm đô-la một giờ. Tôi có thể gửi cho chị bản thỏa thuận thanh toán, trong đó nêu rõ mức thù lao của tôi. Tôi thường yêu cầu tạm ứng từ một ngàn hai trăm đến một ngàn năm trăm đô-la, nhưng nếu chị đang gặp khó khăn tài chính, tôi có thể bắt đầu với năm trăm. Tôi thường cố gắng lái khoản thanh toán cho tôi sang phía bên kia càng nhiều càng tốt. Và tất nhiên, tôi không tính cuộc gọi này đâu.
Tôi biết mình nên cảm thấy biết ơn. Tôi bặm môi suy nghĩ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi thuê vị luật sư này và rồi David nhận ra anh thật là ngốc? Có lẽ anh đã buồn bực chuyện gì đó ở công ty. Có lẽ họ đã để tuột mất một khách hàng lớn. Hoặc động cơ chính trị nào đó - Grady Polhurst luôn tị nạnh so bì với David, mà hôm trước Andrea nói rằng họ đang họp với nhau. David hẳn đã phải chịu áp lực kinh khủng. Có thể anh đã bị suy nhược
thần kinh. Đàn ông vốn không giỏi đương đầu với căng thẳng. Đúng lúc ấy tôi lại gọi điện to tiếng, chẳng trách mà anh đã giận dữ...
- Chị Franklin?
- Vâng, tôi xin lỗi. Chị Elizabeth này, tôi cảm ơn chị đã dành thời gian, nhưng tôi không thể, tôi cần phải cân nhắc. Xin lỗi chị. - Tôi hiểu. Tôi sẽ kiểm tra về chủ sở hữu ngôi nhà và mai sẽ báo lại với chị. Trong khi đó, chị hãy cân nhắc những điều tôi vừa nói. Thời gian là mấu chốt hệ trọng. À, mà tốt hơn hết chị đừng nói chuyện nhiều với chồng. Chị cần quen với việc coi anh ta như kẻ thù.
• • •
Mẹ tôi được sinh ra tại San Francisco, ông bà ngoại là người gốc Đức. Ta vẫn biết rằng hai yếu tố đó khi kết hợp với nhau sẽ tạo ra một phức cảm thượng đẳng đầy phóng khoáng, và thiên hướng bẩm sinh về gu thẩm mĩ. Cuộc sống hơn ba mươi năm tại Los Angeles chỉ càng củng cố thêm ý niệm rằng mẹ tôi không phục sức quá đáng, mà trái lại, chẳng qua những người khác ăn vận úi xùi quá thôi.
Sau khi bố tôi qua đời, mẹ làm thư ký tại trường trung học Hubble, cách nhà tôi mười lăm phút đi đường. Nhưng từng ngày trong suốt mười lăm năm công tác, hễ ra khỏi cửa là mẹ mặc như một cố vấn tài chính, trong những bộ vest cổ điển hay váy và áo khoác tiệp nhau. Từ phụ huynh, các thành viên hội đổng nhà trường, đến đủ mọi vị khách ghé vào văn phòng đều nhầm tưởng mẹ là cô hiệu trưởng Elsie Howe, người thường chỉ đóng khung trong gu thời trang kẻ ca-rô.
Thế nên sáng thứ Năm khi xuống nhà, tôi không ngạc nhiên khi thấy mẹ mặc bộ lanh đen, áo khoác phỏng theo thiết kế của Chanel, cổ áo sơ-mi đính đá, và còn đeo cả trang sức ngọc trai. Mẹ lấy cái đĩa từ trong lò giữ ấm ra - trứng tráng phô mai, hai dải thịt lợn muối, Chúa ơi, những thứ tôi đã không ăn từ năm năm nay, và hai lát bánh quế nướng giòn.
- Trông ngon lắm mẹ ạ, nhưng con không ăn mấy món này. Cứ ăn thế này thì đến thứ Sáu tuần sau con sẽ nặng cả tạ luôn.
Buổi sáng con ăn ít sữa chua với trái cây. Một chút ngũ cốc cũng được. Cà phê nữa.
- Wyn ơi, con cần ăn để lấy sức chứ. Căng thẳng làm người ta mệt cả thân lẫn tâm. Đang lúc thế này không thể cho phép mình ốm được. Ngồi vào bàn đi con.
Mẹ chỉ góc bàn nơi bữa sáng của tôi đang đợi, còn có cả bông hồng cắm trong bình, khăn ăn xếp nếp như đôi cánh thiên nga, và tờ Thời báo Los Angeles.
- Mười rưỡi mẹ có cuộc phỏng vấn xin việc, nhưng mẹ muốn con có một buổi sáng yên tĩnh dễ chịu, ăn hết bữa sáng không sót miếng nào.
- Phỏng vấn xin việc ạ? - Mẹ tôi nghỉ hưu công việc thư ký trường Hubble mới được non một năm.
- Mẹ không chịu lâu hơn được. Con có thể dọn dẹp nhà cửa bao nhiêu lần nào? Mẹ không muốn mình rồi lại giống cô Doreen Whitaker đâu. - Mẹ nhướn lông mày và tròn mắt. - Cô ấy làm sao ạ?
- Thế giới của Doreen như đóng lại khi cô ấy hết nhiệm kỳ chủ tịch câu lạc bộ làm vườn. Cô ấy luôn tìm cách chen vào các cuộc họp hội đồng để cảm thấy mình có chút quan trọng. Mẹ đã bảo Doreen nên tìm việc làm đi, nhưng chắc cô ấy sẽ vặn vẹo nhân viên mới, làm họ sợ chết khiếp mất.
Tôi kéo ghế ra và ngồi xuống.
- Vậy mẹ đi phỏng vấn xin việc gì thế ạ?
- Quản lý văn phòng.
- Trường nào ạ?
Mẹ mỉm cười bí hiểm.
- Không phải trường học. Mà là một công ty kiến trúc lớn ở Santa Monica, văn phòng rất đẹp và bận rộn liên tục. Sẽ có nhiều việc phải quán xuyến đấy.
- Sao mẹ biết ạ?
- Hôm qua mẹ đã thăm thú qua một chút rồi. Ở đó có rất nhiều các cô trẻ trẻ xinh xinh đi tới đi lui, hết vuốt tóc lại đến sửa móng tay trong khi điện thoại réo liên hồi và khách phải đứng đợi. Họ cần người điều phối và nhận trách nhiệm.
Tôi ăn một miếng trứng tráng hoàn hảo vừa chín tới. - Họ sẽ không biết điều gì sắp đến với mình đâu. Ba mươi phút sau, mẹ ra khỏi cửa, trông như một công ty
được nhân cách hóa trong dáng vóc con người. Tại sao tôi không thể nhìn đời như mẹ - hoặc theo cách tôi nghĩ rằng mẹ đang nhìn đời như vậy - như một bài toán hóc búa, chỉ cần lô gíc và công phu để giải và đặt vào trật tự.
Cả buổi sáng, tôi đi đi lại lại suông trong nhà, ngồi xuống lướt qua cuốn sách về li hôn mẹ đã mượn từ thư viện, rồi lại đứng lên đi đi lại lại. Không biết mẹ lấy đâu ra thời gian nướng bánh quy sô-cô-la chip bạc hà, thế mà mẹ vẫn xoay xở được, và mỗi lần đi ngang qua bếp, tôi lại nhón một chiếc bỏ vào mồm. Chẳng mấy nữa, rất nhanh thôi, tôi sẽ béo ú cho coi. Hay là đến phòng tập thể thao để xả bớt năng lượng nhỉ? Nhưng như thế sẽ gặp rất nhiều các bà các cô mà tôi quen và không muốn nói chuyện.
Như một phương thuốc để thôi không nghĩ đến béo nữa, tôi xỏ giày thể thao, toan ra khỏi nhà. Đúng lúc ấy điện thoại reo. - Chào Wyn, chị Lisa đây.
- Chào chị Lisa, em xin lỗi đã không gọi điện cho chị về công ty quảng...
- Ôi, không sao đâu mà. Em ổn cả không?
- Ổn cả chị ạ. Em chỉ...
- Mẹ em thế nào?
- Ổn ạ.
Sự im lặng trong chừng nửa giây dường như quá dài. - Chị tưởng... Tối hôm qua chị gọi điện hỏi hai đứa thứ Bảy có đến nhà chị ăn tối không. Thì cả mấy tuần nay không gặp hai vợ chồng em rồi. David bảo mẹ em bị ốm nên em ở nhà mẹ. Không có gì đáng ngại chứ?
Bộ não tôi vọt lên tốc độ cực đại.
- Không có gì đâu chị, mẹ em... khá hơn nhiều rồi. Em cảm ơn chị.
- Vậy là mừng rồi. - Lại im lặng. - Wyn ơi, mọi chuyện ổn cả chứ em ?
Tom Hathaway, chồng Lisa, là một trong những khách hàng lớn nhất của David. Trong tất cả phụ nữ tôi quen biết ở thành phố này, có lẽ chị gần nhất với khái niệm một người bạn thực sự. Nhưng tôi chưa sẵn sàng tầm sự với chị.
- Tất nhiên rồi ạ. Sao thế chị?
- Chị không có ý nhiều chuyện đâu, nhưng khi chị hỏi David chuyện thứ Bảy... - Giọng chị nghe bợt đi. - Cậu ấy bảo là em không muốn để mẹ ở một mình.
- À, em...
- Nhưng cậu ấy bảo sẽ đến. Còn hỏi nếu đưa một người cùng văn phòng đến có được không. Một người quản lý khách hàng mà cậu ấy muốn giới thiệu với anh Tom.
Thung lũng Grand Canyon hùng vĩ như sụt xuống dạ dày tôi. - Wyn ơi?
- Em gọi lại sau được không chị Lisa? Mẹ em đang gọi, em phải chạy đi xem mẹ em cần gì. Hay hôm nào đó tuần sau mình đi ăn trưa được không chị?
- Ừ, được chứ. - Chị đang chờ. Xem có thêm manh mối gì không. Hoặc có thể chỉ là tôi đang hoang tưởng. - Gọi lại cho chị nhé Wyn, nếu em cần bất cứ điều gì, hoặc nếu em muốn nói chuyện.
Sau khi chị gác máy, tôi gọi vào số của David.
- A lô, - anh nhấc máy. Giọng anh nghe ấm áp, gần như là thân thương. - Anh xin lỗi hôm trước em gọi đúng lúc anh không nói chuyện được. Anh không muốn nhắc đến những điều đó trước mặt Andrea và những người khác.
Hình như anh không nhận ra sự bối rối của tôi.
- Anh David, nói em nghe chuyện gì đang xảy ra đi. Sao anh thay khóa không để em vào nhà?
- Wyn à, lúc này anh không nói chuyện được. Đang giờ làm việc và...
- Vậy anh đóng cửa văn phòng lại. Em cần câu trả lời. - Em nghe này, anh... quan tâm đến em. Rất nhiều. - Chọn từ ngữ quá ư tỉ mỉ.
- Thế thì để em về nhà.
Thở dài.
- Anh không nghĩ đó là một ý hay.
- Ý kiến hay ư? Chúng ta đang nói về hôn nhân giữa anh và em. Nếu anh vẫn... nếu anh vẫn còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này, đến em, thì chúng ta cần nói chuyện...
- Mọi chuyện phải khác đi trong một thời gian. - Anh chen ngang êm ái. - Cho đến khi anh nhận... cho đến khi anh biết mình phải làm gì. Anh không thể sống dưới cùng một mái nhà với em. Nếu em không dọn đi, anh sẽ phải can thiệp.
Giọng điệu anh nghe như muốn nói rằng đẩy tôi ra khỏi nhà là điều hoàn toàn chính đáng và hợp lẽ.
- Em mới nói chuyện với chị Lisa.
Anh đợi tôi nói tiếp.
- Thì sao?
- Anh sẽ dẫn ai đến bữa tối thứ Bảy ở nhà chị ấy? - Kelley Hamlin. - Nghe có vẻ người-trong-cuộc gớm. - Thế là chính thức, chúng-tôi-đang-hẹn-hò.
- Không phải là hẹn hò. Anh muốn giới thiệu cô ấy với Tom... - Anh ta không tự tìm được một nàng tóc vàng hoe à? - Thôi đi. Em tự biến mình thành lố bịch rồi đấy. Kelley sẽ tiếp
quản công việc với khách hàng. Anh đang cố gắng phân một số khách hàng của chính anh cho những người quản lý khác. Như thế anh sẽ có thêm thời gian đi sâu vào mảng marketing. - Giọng anh chợt thay đổi. - Anh đang cố gắng hạ nhịp một chút. Chúng ta từng nói với nhau về chuyện này rồi. Anh tưởng em sẽ vui chứ.
- Em đã nói chuyện với luật sư. - Tôi là một ả vô ơn mà. - Ổ, Wyn! - Sững sờ và đau đớn. - Em đang muốn ly dị ư? Mấy từ đó lùng bùng trong không trung. Anh thốt ra thật dễ
dàng, còn tôi không thể. Cổ họng luôn tắc lại mỏi khi tôi toan nói đến li hôn.
Thêm một tiếng thở dài thất vọng.
- Anh biết không thể mong em sẽ kiên nhẫn mãi được. Như thế là bất công với em. Nếu em cảm thấy cần một sự chia tay rõ ràng và dứt khoát, thì anh hiểu được.
Thế quái nào lại thành ra tôi đang bỏ anh vậy?
- David, chúng ta cần nói chuyện. Chúng ta cần ngồi lại mặt đối mặt và...
- Hôm nào đó chúng ta uống với nhau một ly nhé, nếu em muốn.
- Hôm nào là hôm nào?
- Anh phải xem lịch làm việc thế nào đã. Anh sẽ gọi điện cho em.
- Khi nào anh sẽ gọi?
- Sớm thôi. Một vài ngày tới. Anh hứa. Được chưa? - Em không nghĩ...
- Ối, anh có cuộc gọi đang chờ. Anh sẽ gọi lại cho em sau nhé.
• • •
Trước khi mẹ thông báo, tôi biết công việc ấy đã là của mẹ. Trông mẹ hài lòng, tự tin, nhưng không dương dương tự đắc. “Phụ nữ không vội cho đi mọi thứ, Wyn ạ. Giữ lại một chút bí ẩn về bản thân. Hãy cứ chơi đùa với mọi việc”, bài cảnh tỉnh ưa thích của mẹ mỗi khi tôi bấn loạn làm mọi thứ càng trở nên rối hơn.
- Con thấy rõ là phải nhiệt liệt chúc mừng rồi. Công ty nào có được diễm phúc đấy ạ?
- Hãng thiết kế kiến trúc Prentiss Culver. Thứ Tư tuần sau mẹ bắt đầu đi làm.
Mẹ cởi áo khoác, treo vào tủ ở hành lang chứ không lẳng xuống ghế như tôi sẽ làm. Rồi mẹ cầm lấy xấp thư báo trên bàn ngoài lang, xem qua một lượt, chia ra mấy loại. Những cuốn ca ta-lô giới thiệu, hóa đơn, quảng cáo vặt.
- Chúng ta gọi đồ về ăn tối mẹ nhé. Mừng công việc mới của mẹ. Có khi mẹ vẫn còn chai champagne nào đó để quên trong tủ bếp cũng nên.
Mẹ ngước mắt khỏi chồng hóa đơn, nhíu mày nói: - Ôi, giá mà được thì tốt quá, nhưng tối nay mẹ đi ăn cùng với ban điều hành câu lạc bộ làm vườn rồi. Mẹ xin lỗi nhé, sát nút
thế này không đổi lịch hẹn được. Nếu không mẹ... - Không sao đâu mẹ, để tối mai cũng được ạ.
Mẹ hơi nhăn mặt.
- Tối mai mẹ có hẹn rồi.
- Hẹn hò ạ?
- Ừ. - Nét mặt mẹ tươi trở lại. - Thực ra có lẽ con nên uống với mẹ và bác ấy một ly trước bữa tối. Chắc con sẽ thích bác Ed, và mẹ biết bác ấy rất quý con.
- Mẹ ơi, sao con có thể đến cuộc hẹn của mẹ được, như vậy kỳ lắm.
- Uống một ly trước bữa tối không có nghĩa là con đến cuộc hẹn hò của mẹ.
- Bác Ed là ai ạ?
- Bác ấy là thám tử.
- Kiểu như con mắt bí mật phải không ạ?
Mẹ tươi cười đáp:
- Con đừng ngốc thế chứ. Bác ấy là thám tử cảnh sát. Làm ở sở cảnh sát Encino.
- Trời xui đất khiến thế nào mà mẹ lại gặp cảnh sát vậy ạ? - Bác ấy giúp mọi người thực hiện chương trình An ninh Khu phố năm ngoái. Bác ấy rất tốt và rất... sâu lắng. - Rõ ràng đó chính là yếu tố quyết định.
Tôi nheo mắt hỏi:
- Mẹ có chắc chắn rằng bác ấy độc thân không?
- Tất nhiên, vợ bác ấy mất rồi.
- Bác ấy có cho mẹ thấy cái xác bà vợ không ạ?
Mẹ chẳng buồn trả lời tôi mà mở cuốn ca-ta-lô Williams Sonoma ra xem.
• • •
Mẹ về nhà sau bữa tối với ban điều hành câu lạc bộ làm vườn cùng tên của hai bác sĩ trị liệu và một luật sư. - Mọi người bàn chuyện cây lưu niên chán quá nên quay sang giải phẫu cuộc đời con ạ?