🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bằng Việt Tác Phẩm Chọn Lọc - Bằng Việt full mobi pdf epub azw3 [Thơ Ca]
Ebooks
Nhóm Zalo
Thông tin
Tác phẩm chọn lọc
Tác giả: Bằng Việt
Số trang: 488
Kích thước: 13x19 cm
Phát hành: NXB Hội nhà văn
Năm xuất bản: 2010
Nguồn text: trieuxuan.info
E-book này được thực hiện trên tinh thần thiện nguyện, phi lợi nhuận và phục vụ cộng đồng người đọc chưa có điều kiện mua sách giấy. TVE-4U
CÙNG ĐỌC - CÙNG CHIA SẺ!
Người của một thời, thơ của một người
(Thay Lời tựa)
Có một điểm, có lẽ là điểm mấu chốt nhất của thế hệ văn học trưởng thành trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, đó là phạm trù Cái Tôi biết tự nguyện điều tiết thế nào trong Cái Ta, bản thể của cá nhân mình hòa nhập đến đâu với cả thế hệ mình và biết đặt mình vào mối quan hệ tương hỗ như thế nào, để sẵn sàng đóng góp trên ý thức xây dựng chung, cho tất cả cộng đồng. Không phải ngẫu nhiên mà Lưu Quang Vũ cũng đã rất trăn trở với những nhân vật của anh trong vở kịch gây tiếng vang lớn một thời “Tôi và chúng ta”, trong đó những quan điểm về cá nhân và tập thể đã được đẩy lên cao trào và đạt đến chỗ thắt nút. Cuộc hành hương “từ chân trời của một người đến với chân trời của tất cả”- như cách nói của nhà thơ cộng sản Pháp Paul Éluard - là một dấu ấn tuy cách tân nhưng lại phổ quát cho tất cả những văn nghệ sĩ đã kinh qua lý tưởng nhân văn của cả một thời đại. Và chính nó đã tạo ra sự khác biệt rõ nét nhất giữa thơ sau năm 1945 ở nước ta, điển hình là thơ hai thời kỳ Kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, so với nền thơ trước nó, kể cả đỉnh cao là thời kỳ Thơ Mới.
Tính cập nhật quyết liệt, lòng yêu nước cháy bỏng trong chiến tranh, ý thức chủ động phục vụ cho các nhiệm vụ chiến lược của đất nước, tinh thần lạc quan và hăm hở khám phá để khẳng định được cái mới trong đời sống... tất cả những điều đó, hơn bao giờ hết, được đề cao và được coi là tiêu chí phấn đấu cho sáng tác của thời chúng tôi. Ngày hôm nay, sau khi Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ, chúng ta dễ rơi vào cách suy nghĩ hạn hẹp kiểu “dậu đổ bìm leo”, đổ lỗi cho chủ nghĩa nhân văn cao đẹp đó - trong khát vọng lớn, muốn làm nên việc“vá trời” vĩ đại mà chưa trọn vẹn -, cào bằng với những mảng vôi vữa nứt vỡ ra từ chủ nghĩa xã hội bao cấp thất bại, cụ thể là từ hiện thực đời sống bị thu hẹp vào nền kinh tế kế hoạch hóa cứng nhắc, nghèo nàn, duy ý chí đến mức ấu trĩ; rồi từ đó chỉ còn có việc diễu cợt và phủ nhận cả quá khứ! Nếu thế, có lẽ hôm nay chúng ta cũng lạnh lùng quay ngoắt lưng lại với tất cả những nhà thơ nhân văn chủ nghĩa hàng đầu thế kỷ XX chăng, những bậc thày lừng lững như Yannis Ritsos, Nazim Hickmet, Pablo Néruda, Paul Éluard, Louis Aragon, Bertolt Brecht, Nicolas Guillen, Vitezslav Nezval, v.v... những nhà thơ lớn, dù đã trải qua biết bao lầm lạc, mất mát, thử thách, tù đày, nhưng đã đứng vững cùng chiến tuyến với chúng ta mãi cho đến trọn cuộc đời? Vì vậy, sẽ là không công bằng, khi chúng ta không dám tự tin nhìn lại những giá trị tinh thần đích thực một thời, đã thực sự là một phần của lịch sử.
Nhà thơ lớn của Đức thế kỷ XVIII Friedrich Schiller đã có nói một câu đại ý rằng ai dám sống hết mình cho thời đại của mình, thì người đó cũng sẽ còn có giá trị cho cả cuộc sống các thời sau đó nữa. Như thế là ông đã rất coi trọng tính chất “dấn thân” của một con người với thời mình sống. Còn nhà văn Nga hiện đại, rất nổi tiếng với các truyện ngắn nửa mơ nửa thực của mình là Cônxtantin Pauxtôpxky, thì đã thổ lộ vào cuối đời, trong một cuộc trò chuyện ở Nhà sáng tác Crimê, rằng ông
khuyên các cây bút trẻ đừng đi vào vết xe đổ của ông, vì khi đọc lại toàn bộ sáng tác của mình, ông thực sự thất vọng khi nó đều chỉ đi lướt qua bên cạnh những gì là máu thịt nhất, chân xác nhất, bản chất nhất... của cả một thế kỷ dữ dội và sôi động chưa từng có tiền lệ, là thế kỷ XX. Tất nhiên, trong một tâm trạng đang buồn bã và đau ốm cuối đời, ông có thể nói hơi quá mức bình thường, nhưng không phải là không đáng suy nghĩ. Như vậy, là dù với bút pháp và phong cách sáng tác gì, ở thời nào đi chăng nữa, các nghệ sĩ lớn đều có chút băn khoăn về tính chất “phùng thời” trong tác phẩm của mình. Chúng ta ở đây hay quen dùng từ “tính công dân” hoặc “nghĩa vụ công dân”, tuy được áp dụng vào phạm vi nhỏ hơn, cụ thể hơn, nhưng cũng không khác xa gì lắm.
Có rất nhiều hạn chế khi chúng ta tự nguyện khép mình vào những nguyên tắc, sao cho sáng tác của mình được mang “tính công dân” trong những thời kỳ nhất định của lịch sử. Có lúc, nó cũng phải mang tính tuyên truyền nhất định, mà đã tuyên truyền thì phải tránh nói đến mất mát đau thương, thậm chí không chấp nhận kiểu lả lướt, mùi mẫn quá, bị quy chung là bệnh “tiểu tư sản” không hợp thời! Lại có khi nói đến tình yêu mà thả sức “lãng mạn” cao xa, bay bổng quá, khi cả nước đánh giặc, thanh niên còn đang dám hy sinh tất cả hạnh phúc riêng tư trong phong trào “ba sẵn sàng”, thì thứ thơ kia có khi còn bị cấm in, vì nó vô bổ và còn có phần ích kỷ, bất nhẫn! Vậy là công dụng của hai thứ thơ “có ích” và “vô bổ” cũng đương nhiên được đặt lên bàn cân trong
những thời điểm ấy, và nay nhìn lại, nó cũng nằm trong mặt bằng của hạn chế lịch sử, dẫu phản bác “vuốt đuôi” phỏng có ích gì! Những bài thơ như “Nghĩ lại về Pauxtôpxky”chẳng hạn, tôi để trong sổ tay hàng chục năm, và có cả một thế hệ sinh viên chép tay lưu truyền cũng chừng ấy năm, trước khi được in. Tuy nhiên, tôi cũng chẳng lấy đó làm lý do để trách cứ gì cơ chế hạn hẹp thời ấy!
Nhà thơ Nga hiện đại, một nhà thơ trẻ đã khoác áo lính xung trận, đi qua suốt cả Đại chiến II, Semion Gudzenko, đã có một cách nhìn lại thời mình sống cùng với thơ của mình thật độc đáo và đầy khám phá:
Mỗi nhà thơ có một tỉnh lẻ trong mình
Những yếu đuối, lỗi lầm, những băn khoăn bé nhỏ Nhưng mọi điều ngẩn ngơ sẽ được dễ dàng tha thứ Nếu anh viết những câu thơ trung thực tận cùng... Số phận thế hệ tôi, khắc khổ và cay cực
Cũng mang theo một tỉnh lẻ trong mình
Tỉnh lẻ không tên trên bản đồ địa lý
Tỉnh lẻ đã xa vời: Là cả cuộc chiến tranh!
Tôi ngả mũ kính nể những câu thơ cao thượng và tử tế đó của Gudzenko.
Tuy nhiên, đã nói thì cũng phải nói cho hết. Đương nhiên, giữa hai khái niệm Tôi và Chúng Ta, nếu có lúc nào đó, chúng ta đã hiểu theo kiểu bình quân chủ nghĩa, với cách áp dụng máy móc và đơn giản hóa mọi chuyện, thì cũng có nguy cơ xóa đi rất nhiều phẩm chất cá nhân độc đáo và riêng tư của sáng tác, và dễ rơi vào một kiểu sáng tác trung bình, chỉ đạt mục đích tuyên truyền cho
tập thể nhưng không có bản sắc, rất ước lệ và tẻ nhạt. Đến mức này mới là nguy cơ thực sự cho sáng tạo, nguy cơ đồng hóa mọi tài năng thành một kiểu “thợ viết”, “thợ vẽ”,“thợ ảnh” v.v... chỉ cố chăm chăm phục vụ theo đơn đặt hàng!
Tôi nhớ, từ hồi học Phổ thông trung học, tôi đã đọc bản dịch cuốn tiểu thuyết “Cơn bão táp” của Ilya Êrenbua. Có một chi tiết bất ngờ đã làm tôi giật mình rất lâu. Đó là khi anh chàng người Nga Xecgây đang ở Paris, yêu cô Mađô người Pháp. Xecgây dắt tay Mađô đi trên một cánh đồng cỏ đang trổ hoa nhiều màu sắc, nhánh cao, nhánh thấp, và buột miệng khen đồng cỏ thiên nhiên quá đẹp, lại muốn Mađô sang thăm Nga với mình, ở bên đó cũng rất nhiều đồng cỏ đẹp. Nhưng Mađô cười buồn: “Không! Em không sang đâu! Vì ở bên đó, chắc Nhà nước anh sẽ cho xén cỏ thật đều, làm thế họ mới cho là đẹp. Nhưng anh thử nghĩ mà xem, chẳng phải đúng là chủ nghĩa tập thể bên nước anh giống y như một bãi cỏ được xén thật bằng phẳng, nhìn từ xa thì rất đẹp, nhưng ở đó còn đâu có chỗ cho thiên tài!”.
Tôi đã giật mình và nhớ mãi nhận định chua chát ấy của Êrenbua, ông không dám phát biểu trực tiếp mà chỉ vờ đưa vào lời nhận xét của nhân vật mình cho phải phép! Mà quả thực, cũng đã có một thời gian dài, chúng ta hiểu chủ nghĩa tập thể cào bằng ấu trĩ theo cách ấy, và đãi ngộ đồng loạt theo kiểu “nồi cơm to”, làm sao động viên khuyến khích được nhân tài! Và tai hại nhất từ cách hiểu sơ lược, máy móc này, là đã tạo ra một thị hiếu thưởng thức tự thỏa mãn ở mức trung bình và khuyến
khích các sáng tác đại trà vô thưởng vô phạt trong nhiều năm, làm trình độ dân trí bị hạ thấp đều nhau và đánh đồng như nhau chỉ ở mức phong trào; phổ cập thì tốt đấy, nhưng rất khó nâng cao lên tầm chuyên nghiệp ở mọi lĩnh vực! Điều đó cũng làm chúng ta phải trả giá lâu dài, mãi cho đến sau thời Đổi Mới...
Thị hiếu thơ nhiều năm cũng bị rơi vào tình huống tương tự. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng ta không có những thành tựu lớn, do từng người có biệt tài đã nỗ lực phi thường để vượt lên, đạt được tới bản sắc độc đáo và giá trị đích thực không thể thay thế được. Đơn cử như Quang Dũng trong thơ thời chống Pháp hoặc Phạm Tiến Duật trong thơ thời chống Mỹ.
Tài năng lớn thời nào cũng vậy. Họ vẫn có cách vươn lên, khắc phục mọi hạn chế, o ép, đội hẳn trần mà vượt lên! Và thực tế, khi đã có thực tài, thực lực, thì trước sau đều sẽ được xã hội công tâm chấp nhận.
Ngoài cái phần ai cũng có thể hiểu được, những bài thơ thực tài vẫn có một chút gì đó bí ẩn và xuất thần; tới chỗ đó, cái hay có thể không cần tính ở dạng câu chữ hay vần điệu, do lập ý hay do cấu tứ, do lý hay do tình, mà ngay lập tức nhói thẳng vào nhận thức và trái tim ta, tự dưng như có ma lực riêng, bất chợt lay động và cuốn thẳng ta vào với nó. Người viết những dòng này cũng “ngộ”ra điều đó và tin vào ma lực của thứ thơ như thế!
Có lẽ vì vậy, mà thơ vẫn được coi là phần tinh túy nhất của phương tiện thể hiện và trình diễn bằng lời. Càng cô đọng, càng hàm chứa được nhiều trong ý và lời - càng
giàu chất thơ. Càng thể hiện súc tích và sâu xa nhất bản chất và nội tâm mỗi con người - càng đặc sắc. Mỗi con người khi thành một nhân vật trong thơ là một nhân cách cá biệt không lặp lại, nên tâm hồn người đó hẳn cũng phải là một giá trị độc đắc, không thể tìm được ở đâu khác, không có phiên bản nào khác, cho dù tìm khắp mọi nơi và mọi thời. Có lẽ giác ngộ ra điều ấy, mà nhà thơ Nga Evtushenko đã từng viết:
Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời
Mỗi số phận chứa một phần lịch sử
Mỗi số phận rất riêng, dù rất nhỏ
Chắc hành tinh nào đã sánh nổi đâu!...
Vì thế, cho dù chúng ta đã từng chống chủ nghĩa cá nhân triệt để, chống thói vị kỷ, chống mọi thứ gì là biểu hiện khác thường, chơi trội, lập dị, lai căng... trong lối sống, cách sống, nhưng may thay, chúng ta vẫn chưa bao giờ chống tính cá biệt và tính đặc thù của cảm xúc thơ, cũng như tính độc đáo trong mỗi khám phá nội tâm của mỗi nhân thân - là chủ thể trong thơ. Thơ - do vậy, vẫn còn lại cá tính, phong cách, giọng điệu riêng, còn có ký thác, có vui buồn, có khát khao và hy vọng, có dồn nén và đau thương, có cảm thông và an ủi... từ một người truyền đến cho mọi người. Và mục đích cao cả của chúng ta vẫn là phấn đấu làm sao để con người luôn được quyền đứng thẳng, được hít thở hết mình, vươn cao đến hết tầm vóc thực sự của mình, để sánh bước đồng hành cùng nhân loại:
Từng ép kiệt ước mơ, từng kìm chặt nỗi buồn
Từng gọt bớt cảm quan, từng xén mòn suy tưởng...
Nhân loại đã trải qua mọi luân hồi, nghiệp chướng Để trở lại chính mình, đừng chịu bé đi hơn!
Người viết những dòng này cũng thường xuyên ao ước mình sẽ được cởi mở trọn vẹn tấm lòng với bạn đọc, cũng như thơ của mình luôn luôn là nơi giãi bày, chia sẻ. Khi tung câu thơ đi bốn hướng gió trời, như người gieo hạt vừa bước đi vừa vãi tung hạt giống, với ý thức hồn nhiên “cầu may”, may thì hạt ấy gặp người tri kỷ, không may thì hạt rơi xuống vũng lầy, dù thế nào, người gieo hạt vẫn cứ thanh thản, lòng tự nhủ lòng,“khôn ngoan chẳng lọ thật thà”, hãy tự mình chủ động đến với mọi người bằng tấm lòng thực sự thành tâm, không có gì giả dối, chắc chắn rồi bạn đọc sẽ đáp lại:
Ném một câu thơ vào gió thổi
Lời bay đi, tôi nhớ lại đời mình
Có lắm buồn vui, có nhiều lầm lỗi
Nhưng không có gì xảo trá, gian manh...
Thôi thì trước tiên hãy được như thế đã, chưa dám kỳ vọng gì nhiều!
Như vậy là trên 40 năm sáng tác và dịch thuật đã được tác giả gói gọn trong một Tuyển tập này, tuy chưa phải là tất cả, nhưng hy vọng là cũng đủ tái hiện lại từng giai đoạn đáng ghi nhớ của một đời thơ, từ lúc chập chững cho đến khi trưởng thành. Nó cũng có thể coi là chứng tích và trải nghiệm cho cả một thời đối với một người sáng tác, và cũng là lời tự bạch của một con người đặt trong mối quan hệ gắn bó tương hỗ với mọi người xung quanh. Đọc lại hơn 40 năm thơ của mình, đôi lúc,
tự tác giả cũng có tâm trạng bùi ngùi, có khi ngỡ như chối bỏ :
Thế kỷ XX đang bước xa dần
Còn day dứt phần đời cam go, nghèo khó
Trời ơi! Những câu thơ từng say mê thế
Chẳng lẽ cũng là đồ vật cũ mà thôi!...
Dẫu sao, thơ vẫn cứ là thơ, cho dù hoài nghi đấy, mặc cảm đấy, lo lắng cả sự xuống cấp của văn hóa đọc đấy, xót xa vì có thể thơ sẽ bị ghẻ lạnh trong tâm lý con người đang đổ xô vào lối sống thực dụng của kinh tế thị trường đấy, nhưng, biết làm sao được,“của tin gọi một chút này làm ghi”, tập sách này vẫn cứ ra mắt và xin được làm một chút kỷ niệm tinh thần khiêm tốn trong vòng tay bao dung của bạn đọc!
Bằng Việt
Hà Nội, cuối Thu 2009.
Trích tập thơ Hương cây - Bếp lửa In chung với Lưu Quang Vũ. NXB Văn học, 1968
Qua Trường Sa1
Hoabí hoabầu mọcởTrường Sa
Ôhay! Đấtngỡđấtquênhà,
Giócũng gió,ong cũng ongkiếm mật
Nắng cũng là màunắng tậntrong ta!
*
Cái bắttaylàbắttayđồng chí:
Tay mởrộng và miệng cườihoanhỉ,
Trường Saơi!Nhưbátnướcđầy
Mới uống ngụm đầuđãthấy mêsay!
*
Áocộcnông dânhởcúccổquêncài
Nétsởi lởi gợi nhớhoài NamBộ,
Những ba má,chúcôtrongđó
Chưa mộtlầnthấy mặt,đãđi xa...
1
96
1
Bếp lửa
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa! *
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi, Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy, Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! *
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà, Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế. *
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế, Mẹ cùng cha công tác bận không về, Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe, Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà, Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? *
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.
*
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
*
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
*
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
Kiev, 1963
Thư gửi người bạn xa đất nước
Anh hỏi tôi cảm xúc lúc về đây
Hỏi đến cả tiếng ru trầm của gió
Hỏi mảnh nắng xôn xao đường phố nhỏ Hỏi con người và những chuyện con người... Những điều thường canh cánh nhớ khôn nguôi Mà mỗi kẻ đi xa đều biết rõ.
*
Bạn thân yêu ơi! Tôi biết viết thế nào đây, Nói sao hết cả đất trời cây lá
Nơi dù chỉ một cơn mưa mùa hạ
Cũng làm tôi xao xuyến mãi không thôi, *
Mỗi hạt mưa buồn, mỗi hạt mưa vui, Đều phải tính bằng cơm bằng gạo,
Cơn hạn hán hay cơn dông bão
Cũng cần sức người đánh vật ngày đêm, Nơi biết mấy quật cường và biết mấy ấm êm... *
Anh bảo anh thèm nhìn Hà Nội quá Ừ! Hà Nội vẫn như anh nhớ đó
Chỉ có con người đã khác đi nhiều:
Con người bận rộn nhưng mà vững chãi Hiểu gian khổ nhưng hiểu rằng mình phải Hiểu việc mình làm, hiểu miếng mình ăn, Hiểu thời gian không chỉ tháng cùng năm Mà là mốc nhích lại gần hạnh phúc
Nhích gần vị ngọt bùi ngày thống nhất...
*
Tôi tìm lại nẻo đường anh vẫn nhắc Đường bây giờ cây đã mọc lên xanh Cây kín xum xuê như những khung thành Cây len lỏi giữa những hàng ngói đỏ, Chỗ ao vũng ngày xưa đem rác đổ Giờ đã xây thành một công viên,
Nhịp cầu cong, đèn điện sáng đêm đêm, Cầu như thể chiếc lược ngà xinh đẹp Chải cho mượt dòng nước hồ đóng khép Cho thuyền tình yêu chèo mấy vẫn đi vòng... - Anh có yêu em thì đi mãi không cùng! *
Anh hỏi tin đôi mắt đen ngày ấy
Má rám hồng trong gió đông nổi dậy Cô bé bây giờ đã đỗ lớp mười
Cô bé hay làm cô bé hay cười
Thấy nói đã ghi tên đi Tây Bắc.
Ôi miếng đất mùa thu thường trở giấc Có tiếng mưa phùn rủ rỉ mãi không thôi Đất sẽ xới lên từng mảnh mới tinh khôi... Tôi mê quá là cái mùi đất mới,
Cái mùi đất sao mà vui hồ hởi,
Nhưng anh viết thư đi! Cô bé sắp đi rồi! *
Anh còn hỏi nhiều nhưng kể sao hết được Cơn khát vô cùng là khát về Tổ quốc Nơi giữa chiến trường thẫm bóng áo bà ba Nơi mẹ già ta quen vị mắm vị cà
Mùi mặn chát đến đậm đà, thấm thía,
Đến lay động đến tận cùng cảm nghĩ...
*
Đấy quê hương ta, anh thấy chứ anh,
Tôi chẳng phải kể dài thêm nữa,
Cơm nửa nước nuôi chúng ta từng bữa
Để lớn lên giúp ích cả hai miền...
Anh dù chưa về, nhưng hãy cứ tin
Rằng anh vẫn chẳng hề xa đất nước,
Giải đất ta yêu gấp nghìn thuở trước
Và còn yêu gấp mấy nữa về sau!
Hà Nội, 1963
Beethoven và âm vang hai thế kỷ
1
Nghĩ chi em, bốn tiếng sấm bão bùng,
Bốn tiếng đập dập vùi số phận
Bốn cái tát trong cuộc đời gián gậm
Bốn thanh âm dựng đứng tâm hồn lên!2 *
Trái tim không bình yên, không một phút bình yên Trái tim lớn mang niềm đau khổ lớn
Trái tim trải những vòng sóng gợn
Lan truyền đi mãi mãi đến tương lai...
*
Em đừng mong khúc nhạc để vui tai
Đây là nhạc của Châu Âu gầm thét,
Tiếng kèn trận, người đi như nước xiết, Tiếng thác xô, tung tóe bọt căm thù!
*
Ai đã kêu lên dưới ánh nến tù mù:
“Từ chiến đấu sẽ sinh ra chân lý”
Tiếng trống thúc bàng hoàng hai thế kỷ Phải đâu giờ đến lúc đã nên quên?
2
Em ở giữa Châu Âu, bao bọc những bình yên Hạnh phúc thả trầm tư trong tiếng nhạc Hay như thói quen, như nụ cười biếng nhác Beethoven thành một khúc đàn ru!
*
Em ở giữa hồ thu, sâu lắng sóng thu
Nhạc lay động vầng trăng trong thổn thức3 Em chưa biết vầng trăng đi cứu nước Chưa biết trăng thành du kích phương nào!4 *
Hãy nghe em, những tiếng giận sôi trào, Của thế kỷ hai mươi đang chiến đấu Trăng du kích soi dặm đường chảy máu Trăng chẳng vô tình như góc phố nơi em! *
Egmont ư? Hãy dạo khúc đàn lên5 Em sẽ hiểu tiếng rên trong áp bức Tiếng hát lê dân ứ dồn uất ức
Tiếng gươm đao đòi chặt đứt xiềng gông! *
Sau giấc mơ xưa, giờ lại có Egmont Đứng trước cọc hành hình, hăm bốn tuổi6. “Hãy nhớ lấy lời tôi!” - Anh nói,
Phút giây đi vĩnh viễn chẳng quay đầu Anh thành người giao ước với mai sau! 3
Nghĩ chi em, nghĩ chi em, từng phút Giữa thế kỷ như lò lửa đốt
Không cho ai hờ hững bình yên.
Trận tuyến chia đôi, em đừng ở giữa, Dù chỉ ngồi nghe nhạc Beethoven! *
Bốn tiếng đập xót lòng em có phải? Nhưng ở khắp mọi miền trên thế giới
Hãy còn nguyên bao tiếng đập dày vò,
Bao vết roi lằn máu tự do
Bao họng súng, giày đinh xâm lược Mỹ!
*
“Từ chiến đấu sẽ sinh ra chân lý”
Cho vòng yêu thương mở giữa con người,
Beethoven đã từng khao khát thế
Beethoven như người đồng chí
Beethoven như người chiến sĩ
Gióng hồi chuông Giao hưởng của Niềm Vui!7
*
Ôi thế kỷ ra hoa trong lửa bỏng
Đừng để nguội, em ơi, bầu máu nóng
Đừng ngồi yên, mong cuộc sống bình yên
Khi bốn tiếng vang tàn khốc còn nguyên!
Carpates, 1964
Từ giã tuổi thơ
Ngỡ như đi suốt tuổi thơ
Tới chặng đường này nghỉ lại,
Có gì bâng khuâng mãi
Những cánh hoa bìm gợi nhớ rất xa... *
Ôi những xe trâu thủng thẳng vào cơn mơ Bắt tuổi nhỏ nóng lòng theo bước một, Ôi những nương cao màu trăng lục nhạt Gạo lốc nuôi ta mùa vơi mùa đầy... Cách đã ba ngàn ngày
Lại trở lại đất này chung thủy
Đứng rạo rực trước cuộc đời chống Mỹ Còn đèo ba lô thắng Pháp sau lưng! *
Những gì xưa làm nên chiến công Mười năm qua đã quen càng nhớ Những người bạn trong mắt xưa bé nhỏ Mười năm mà vùn vụt lớn lên
Cảnh vật in trong tâm tưởng bình yên Mười năm thở nồng nàn xao động Dung mạo còn như giống
Tầm cao đã khác rồi!
*
Đã qua bao nhiêu suy nghĩ nhất thời Qua tất cả những vui buồn bé bỏng Thời gian như ngọn sóng
Lòng ta như đất bồi.
*
Bao nhiêu cơn mơ kỳ lạ trong đời
Nay còn lại những cơn mơ hữu ích,
Bao năm tháng đã qua nhiều thử thách
Đôi mắt nhìn càng muốn hồn nhiên!
*
Hoa bìm ơi hoa bìm
Vẫn tròn trặn đơn sơ màu tím thế,
Như ước vọng mở lòng ra thủ thỉ
Có nét gì vẫn quyến rũ như xưa.
*
... Thôi từ giã tuổi thơ
Bước ra từ tám năm kháng chiến,
Lấy sự tích anh hùng làm chỗ vịn
Lại bước vào cuộc kháng chiến lần hai.
*
Thôi từ giã tuổi thơ!
Xốc hành lý lên vai
Ta tính nốt những chặng đường đánh Mỹ.
(Cái khó nhất chợt lúc này hóa dễ
Khi nhìn thấu mình tận đáy xưa sau... ).
Sơn Tây, 1965
Mừng em tròn 16 tuổi
Tháng giêng đầy trời đan mưa xuân Mái ngói quanh thôn hồng nối hồng Mái ngói, mái ngói, liền mái ngói, Từng lớp mừng vui, lớp ước mong... *
Áo hoa cà trong mưa bay lưa thưa Nụ hoa cà trong mưa đang độ nở Mưa trên áo khiến động lòng tuổi nhỏ Mười mấy năm, mưa lũ ngỡ quên rồi! *
Nay lại đi vào đường vui kháng chiến Nghe xa tắp tiếng gà trưa ẩn hiện Nhớ xóm trên đồi, vị muối chiến khu, Bữa ăn quen ngồi lắng tiếng cu gù... *
Thuở em sinh, bốn bề sương lam Bà mế đi đun từng siêu nước nhỏ Mây bay thấp chàng vàng bên cửa sổ Nghe ì ầm súng vọng phía Đông Khê. *
Biết mấy gian lao con đường em đi, Em đã lớn cùng hai lần cứu nước. Cởi chiếc khăn quàng, không sao nói được Tiếc màu khăn thật đỏ đã từng qua! *
Ôi bốn bề xuân tới bao la
Hoa leo khắp mỗi chiến hào chống Mỹ,
Vui rấtlớn màvôcùng giảndị
Làbuổi đầuem dựlớpdânquân...
*
Tháng Giêng ơi!Đầytrời mưaxuân
Hayhyvọng đantừng hàngtrước mắt,
MáybayMỹcòntới đâylàm giặc
Em hãy ghi chođượcchiếncông đầu!
1
966
Thị trấn
Những dãy phố mộc mạc và yên tĩnh
Như chiều sâu của một tâm hồn người,
Hoa gạo đỏ tươi chúm chím nụ cười
Bóng gà mái trong chuồng con ấp trứng,
Nắng buổi chiều lững thững
Trôi trong những góc tường rêu
Thị trấn khiêm nhường bao nhiêu!
*
Anh đi qua đi qua
Đâu biết hết vui buồn trong ấy...
Bỗng trở lại
Thôi rồi! Lửa cháy!
Bom đã rơi trên mỗi mái nhà
Anh lặng người, ngơ ngẩn, xót xa
Nghe đau nhói tim mình ở đấy!
*
Đâu những mùa hè giữa cơn lốc xoáy
Trẻ con reo trong đám lá bay mù
Đâu những mùa xuân, đâu những mùa thu, Những khẩu hiệu giấy điều, những đèn treo lủng lẳng, Đâu tất cả những gì anh bỏ bẵng
Qua đi như thể vô tình,
Cả cái rét đầu đông lướt thướt trên cành,
Bà cụ nhai trầu, cô em rót nước,
Anh dựng xe, ngồi châm điếu thuốc
Tất cả ơi, tất cả đâu rồi?
*
Tấtcảcứlóengời,
Mọi quênlãng khắcthànhsâuđậm
Anhkhátđượcnghìnlầnratrận
Khátđượctrút mìnhvàocăm giận
Trảthùchonơi lơđãng đi qua!
1
96
7
Về Nghệ An thăm con
Tặng Thái Nguyên Trinh
Bầy ong ngoan của con
Những cánh tơ thơ bé
Bộng ong bào mỏng thế
Vết phân trâu miết đều
Mảnh vườn khi nắng xế
Nghe ong rù rì kêu!
*
Con đường ra bến sông
Mỗi ngày bom lại thả
Vẫn tiếng súng phòng không
Nổ rền theo vách đá
Vụ chiêm mùa vất vả
Mùi cơm thơm cứ thơm!
*
Ôi nùn rơm, nùn rơm
Sợi vàng vương mái tóc
Con che rơm đi học
Vai nhấp nhô đường xa
Em chơi cùng trẻ xóm
Bầy ong coi giữ nhà.
*
Buổi chiều đi học về
Bà con đông đủ cả,
Bầy ong ơi bầy ong
Bay cần cù dưới lá,
Lâu, cha chẳng về thăm
Mật ong màu óng quá!
*
Cha về rồi đây con
Cha nhìn con bỡ ngỡ :
Con đan lá ngụy trang
Con che đèn đánh lửa
Con đưa em xuống hầm Biết xoay lưng chắn cửa Ai dạy con bao giờ
Mà quá chừng ý tứ,
Ôi con tôi, con tôi!
*
Tháng Bảy, ong bay đi
Chuồn chuồn chao trên sóng, Nhớ mùa đông rất dài
Nhớ mùa thu rất rộng,
Bao lâu cha vắng nhà
Bao lâu con đã sống
Bao đêm ngoài biển động Pháo sáng xanh vườn sau, Trăng mài mòn guốc võng Giặc rít ngang trên đầu... *
Nhưng con vẫn học đều Mỗi năm lên một lớp,
Cha vẫn đọc thư con
Chữ dần dà cứng cáp,
Cha về mà kinh ngạc
Thấy con còn bé không!
*
Chaôm con rưng rưng
Mừng vui lòng nghẹncả...
Conđường rabếnsông
Mỗi ngàybom lại thả,
Nhưng cầncùdưới lá
Bầyong bayrộnrã
Mùi cơm thơm cứthơm!
1
966
Học trò Hà Tĩnh
Tặng Nghiêm Đa Văn
Giao thông hào bên bãi tha ma
Một ngọn đèn soi, sâu hai thước,
Quầng sáng tròn ôm đôi mái đầu.
Đây là đâu?
Cả thế giới chưa từng biết!
*
Côpécních và Niutơn đã cùng các em xuống đấy, Ơcơlit và Pitago đã cùng các em xuống đấy,
Bên bãi tha ma, ngọn đèn dầu rực cháy,
Bên bãi tha ma đang bắt đầu tương lai.
Các em là ai?
Cả thế giới chưa từng biết!
*
Nhưng mai mốt, quân thù tan hết
Các em lên, đưa cơ khí vào đồng
Đưa điện vào làng, đưa đập ngăn sông...
*
Cả thế giới sẽ lặng người bên hố :
Biết lương tri mình được thắp lên ở đó!
1966
Nghe đất
Làng ở ven đường quốc lộ
Đêm nay trở dậy rời đi
Căm thù nuốt sâu tận cổ
Nghe xa đất thở rầm rì.
*
Ngày mai biết giặc ném bom Theo từng ô vuông tọa độ
Đồ đạc gánh lên lưng rồi
Mẹ mãi còn nghe đất thở!
*
Quen bùn xát trên kẽ tay
Xót cát sạn tròng con mắt
Một đời vất vả vun trồng
Mẹ hiểu nỗi lòng của đất
*
Ôi cái mùi hăng trong cây
Tháng Ba nhớ mùa gió trở
Ôi cái mùi men ải nồng
Tháng Chạp nhớ mùa đất vỡ *
Nhưng chưa gì bằng đêm nay Mẹ thấm thía tình của đất
Ngày mai, chính đất không đi Ở lại, một còn một mất!
*
Đất thở càng khuya càng sâu Kỳ lạ như lòng của mẹ,
Đấtthởcàng lâucàng khỏe
Râm rannhưsứcsóng ngầm...
*
Mẹnghetiếng dội vang trầm
Lặng lẽhiểulời củađất,
Mộtlời thủychung duynhất
Vượtquahếtthảyquânthù.
*
Đấtơi!Không thểbao giờ
Giặctới nơi nàyphánổi...
Đấtthởhơi người cứng cỏi
Tựnghìnnăm sẽcònnguyên!
1
96
7
Trở lại trái tim mình
1
Tôi trở lại những bờ đường mùa xuân Cây già trắng lá
Ôi thành phố tôi yêu kỳ lạ
Cái sống như trăn trở ngày đêm
Tôi lớn lên, lo nghĩ nhiều thêm
Thành phố cũng như tôi đang lớn Những gác xép bộn bề hy vọng
Những đầu hồi bóng nắng nhấp nhô... *
Tôi trở về những ngõ quen xưa
Mỗi ngõ nhỏ dấu một lời tâm sự
Tôi trở lại những lối mòn quá khứ Có tâm tình ta mắc nợ cha ông
(Nhịp chày sương hay tiếng trống thu không Nét son đượm trên vòm cong mái cổ) Tôi trở lại những lối mòn tình tự
Cánh bướm màu hạnh phúc cứ bay đôi Tiếng ve ran những điệp khúc mùa vui... *
... Ôi rất lâu rất lâu
Tôi mới lại đi một ngày thong thả
Thành phố như tim tôi êm ả
Sau rất nhiều gian lao.
2
Hãy nghe hãy nghe tiếng người lao xao Chỗ những căn nhà bom xô tốc mái
Nay ta về lợp lại
Che ấm cuộc đời vun vén bên trong Hãy theo những ngả đường sang sông Cầu phao cót két
Những chuyến hàng đi hoài không hết Mỗi chuyến xe mang một tấm lòng. *
Hà Nội thức bao đêm ròng
Không ai nhớ nữa
Nhưng mỗi sớm nhìn vào cửa chợ Lại thấy hoa bày trên lối đi
Hà Nội bao lần chia ly
Không ai nhớ nữa
Nhưng cách đánh quân thù phải sợ Thì không đâu biết rõ như đây Hà Nội mang tầm vóc hôm nay Cộng với tầm cao quá khứ
Tôi đi dọc những lối vào lịch sử Nghe suốt năm châu bè bạn nối gần Tôi đi ngang những cuộc đời thường Biết ở đó chia nỗi lo nhân loại.
3
Có phải bao nhiêu vui buồn thời đại Soi vào đây càng đậm sắc màu riêng? Tấm lòng Hà Nội thiêng liêng
Vẫn nguyên vẹn sau rất nhiều từng trải Con đường lóa bóng hoa vàng trẻ mãi Tiếng lanh canh trên gạch lát hồn nhiên
Âm vang bao biến thiên
Thế giới gửi nơi này ghi nhớ
Bao hạt cát hạt vàng lịch sử
Hà Nội kiên tâm gạn lọc công bằng
Nghe tiếng Bác mỉm cười đôn hậu
Nghe bước mình vững chãi tháng năm... 4
Ôi những hàng ô-rô ta vẫn xén
Làm vui mắt mỗi người đi kháng chiến Mỗi nét đơn sơ cũng đượm tình nhiều Từ ánh nê-ông pha biếc buổi chiều
Đến hơi mưa trong khóm hoa màu tím Gáy sách cũ xếp chồng như kỷ niệm Lá thiếp mừng đám cưới mát trên tay Bao điều không ai hay
Bỗng thấm thía giữa ngày chống Mỹ Hà Nội bận dẫu không hề phút nghỉ Vẫn còn nguyên phong thái hào hoa! 5
Ở đây tôi bắt gặp hôm nay, tôi bắt gặp ngày qua, Tôi bắt gặp cả những ngày chưa tới
Trong mỗi dáng người gặp vội
Đều chín muồi những dự định tương lai Trong mỗi ba-lô quàng vai
Đều cất giữ kho tàng chưa mở hết
Như Hà Nội mười năm tôi đã biết
Sớm hôm nay vẫn lạ nét ban đầu!
6
Sông Hồng ơi! Dông bão chẳng thay màu
Rùa thần thoại vẫn nhô lưng đội tháp
Chùa Một Cột đổ trên đầu giặc Pháp
Lại nở xòe trọn vẹn đóa hoa sen...
Dù nhiều điều tôi nhớ tôi quên
Nhưng Hà Nội trong tôi là vĩnh viễn
Dù mười năm, hai mươi năm kháng chiến
Hà Nội vẫn rèn sắt thép lòng tin
Dù quân thù bắn phá cuồng điên
Tim ta đỏ vẫn nguyên lành Hà Nội
... Ôi trái tim nóng hổi
Tôi về đây là thêm sức đi xa...
Hà Nội, 1967
Kỷ niệm về Chê Ghêvara
1
Kỷ niệm khi ấy rất trong
Với một giọng vang rung
Như niềm vui tháng Sáu
Lúc con chim bay cao gọi nắng mùa hè, Bạn đã kể tôi nghe
Về Xiera Maextơra hùng tráng
Về những người con Cuba quả cảm Về Phiđen và Chê Ghêvara.
*
Kỷ niệm khi ấy lan xa
Như một đường dây theo chưa tới đích “Ghêvara mất tích!”
Bạn kêu lên trước ánh sáng thần kỳ... Cơn mơ bỗng dắt tôi đi
Qua lau lách những lối mòn du kích Những nơi còn thở thách
Còn khổ đau, xiềng xích,
Ghêvara còn đi...
*
Ghêvara có tới Việt Nam?
Tới những rừng Tây Nguyên
Làm hầm chông bẫy đá
Lội những vạt bùn U Minh vất vả
Chèo ghe qua Đồng Tháp Mười
Bắn khẩu súng “ngựa trời”
Ngủ trong lần lá “nóp”
Những liên tưởng rọi như làn chớp Soi lòng tôi, lòng bạn trong nhau... 2
Tất cả bỗng cắt ngang đột ngột Ghêvara mất rồi!
Kỷ niệm ngỡ xa vời
Bỗng gần trong gang tấc
Kỷ niệm mơ hồ nhất
Bỗng xát lòng diết da!
*
Chê Ghêvara! Chê Ghêvara!
Đi mở “những Việt Nam trên thế giới” Ở khắp trăm miền Anh tới
Anh muốn nơi nào cũng hóa Việt Nam! Những liên tưởng lan man
Trong lòng còn náo nức
Hôm nay bỗng tôi tin là thực:
Ghêvara đã tới Việt Nam rồi!
*
Ôi đêm nay sao quá bồi hồi
Đêm rất sâu mà không yên ổn Mở mắt thấy bầu trời thật lớn Ngôi sao nào cũng nhắc “Ghêvara”! *
Bạn ơi!
Hai bán cầu rất xa
Đêm nay bạn ở đâu
Sao bỗng chốc ta gần nhau thế nữa? ... Ôi có phải tâm hồn như ngọn lửa
Kỷ niệm không ngừng thổi gió lên?
*
Viết khi nghe tin Chê Ghêvara hy sinh ở Bolivia giữa “Năm Việt Nam anh hùng -1967”.
(Tên năm do Phiđen Caxtơrô và đất nước Cuba đặt, để suy tôn Việt Nam, năm 1967).
Tình yêu và báo động
1
Anh nắm bàn tay em khi nói đến tương lai Thành phố đang cơn mưa ướt đẫm trong tiếng hát Chúng ta đi giữa bè bạn mỉm cười.
*
Cơn báo động tan rồi
Anh muốn nói một câu gì dữ dội
Nhưng không thể tìm ra lời để nói
Chúng ta đi giữa bè bạn mỉm cười!
*
Cơn báo động tan rồi
Cảm động quá, khi mùa thu lại đến.
Anh nhớ phút ngồi bên nhau trực chiến Anh nghe thời gian trong mạch đập tay em Mạch đập bình yên...
2
Vườn vàng phơi lá thu
Ánh sáng mênh mông đối mặt quân thù Ánh sáng tinh khôi như trong mắt trẻ Soi hạnh phúc tự hào, đơn giản thế,
Ngày xưa anh chưa nghĩ ra!
*
Sông Hồng nước lên. Em đưa anh qua
Tháng Tám cầu nhô hai nhịp gẫy
Sông Hồng nước lui, khi anh trở lại
Ta nắm tay nhau trên nhịp đã liền
Hai bên bờ Long Biên
Nghìn lá sắc trổ cờ trên ngọn mía,
Hạnh phúc lớn, tự hào, đơn giản thế, Ngày xưa anh chưa nghĩ ra!
3
Không ai trở về thời đồ đá
Ta khinh bỉ nhìn kẻ thù dậm dọa8
Ba năm rồi, tự buổi đó, em ơi
Thành phố bao phen rung động hồi còi Em biết dập kho dầu khi lửa bén
Biết trồng lại đôi hàng cây cháy sém Biết bắn địch hôm nay vì đích của ngày mai... Ba năm rồi, em ơi
Ta khinh bỉ nhìn kẻ thù dậm dọa
Không ai trở về thời đồ đá
Khi tình yêu tới độ chín đang vừa! 4
Những mùa ta qua nghe dài hơn xưa Những mùa ta qua không có ngày thừa Dù phải chịu dăm lần căng thẳng nhất Chỉ nghĩ đến nhau đã là hạnh phúc! Những mùa ta qua... Chẳng thể lấy gì so... Sau ba năm, mặt đối mặt quân thù Cảm động quá, khi mùa thu lại đến! 5
Ta quen sống những giờ đột biến
Bỗng sững sờ... trước một sớm không đâu Thành phố trong mưa. Hoa rắc trên đầu: Hoa mưa nở từng bông trên mái tóc
Em tươi tắn như mùa xuân thứ nhất
Nhưng thủy chung như một sắc mai già
Đôi mắt mở to, dịu dàng thấm mát
Sau rất nhiều gian khổ đi qua...
6
Bây giờ, sau tất cả mọi điều
Anh muốn nói một câu gì dữ dội,
Nhưng vẫn không tìm ra lời để nói
Anh chỉ nhìn sắc thắm mùa thu
Thấy hết sự vô duyên và thảm hại của quân thù Trước tất cả những gì ta sống
Trước một bầu trời - gương xanh lồng lộng
Soi cơn mơ của anh và của em
Của triệu người giao kết một lòng tin!
Hà Nội, 1967
Đi chợ Tết
Bản Sán Dìu xanh hơi khói lên Sương ủ cành xuân, đất ẩm mềm Hôm nay xuống chợ như đi hội Khi chị cài hoa lên áo em!
*
Bản Sán Dìu bắn máy bay rơi Hôm nay đi chợ quên đường thôi! Chị em thắt nút dây lưng tía Ai cũng cùng em chia nỗi vui... *
Một tháng ròng, lên núi ngậm tăm, Lăn lộn xông pha, tính hướng, tầm, Công đi săn Mỹ như săn thú Chửa bắn rơi xong, bụng chửa mừng! *
Bản Sán Dìu thắng xong, trẻ quá! Vồng cải vàng hươm, tươi tắn lạ! Em xuống triền núi dốc như say Mùi cúc thơm khi nào không hay...
*
Quay lại nhìn bóng mây Tam Đảo Biết chị đang ngồi trực đổi phiên, Hôm nay đi chợ mua nhiều lắm Chị ngóng lâu về đến phát ghen! *
Nhưng vui chân quá, vui chân thế, Chị ơi, thôi chị chẳng nên hờn,
Hôm nayđi chợquênđường nhé,
ĐánhMỹrồi,em lại trẻcon!
1
96
7
Tríchtậpthơ: Nhữnggươngmặt, nhữngkhoảngtrời - 1973.
Viết cho con mùa xuân thứ nhất
Những mái ngói thẫm màu ủ một chút hồn xưa Con sinh ra - Ấm áp tự bao giờ?
Con chưa hay gì đâu... Xuân đã tràn khắp ngả... Thành phố mở òa cho con tất cả
Mọi ngả đường lên một tuổi cùng con! *
Lên một tuổi Tháp Rùa. Lên một tuổi Hồ Gươm. Một tuổi cả ráng mây vàng Rồng nổi, Bao voi đá, tượng đồng... nhìn con đều một tuổi. Thành phố của đời cha nay lại thuộc đời con. *
Sông Hồng dâng. Màu đất bãi như son Phù sa đỏ thấm trong hồn thành phố Dấu giặc tan đi, tàn theo cỏ úa,
Ngô khoai lên và lúa trỗ xanh ngời.
*
Những con đê, mòn công sức đắp bồi Bao bọc hết từng đền đài lịch sử.
Nhớ năm con sinh, hai tháng ròng lũ đổ9 Chẳng chỗ xoáy nào lở tới mình con.
*
Thành phố bao lần bão đạn mưa bom Sao con gặp mặt người âu yếm thế!
Các cô chú chẳng mấy ai còn trẻ
Ánh tinh hoa trong mắt thật không ngờ! *
Cha dẫn con qua đường đá ngoại ô
Lối cha mẹ vẫn đi về sớm tối,
Nghe tiếng búa quai rền, tiếng thoi bay giữa sợi, Dàn dáo dựng ban mai, lò bánh tỏa ban chiều.
(Những âm sắc chuyên cần của cuộc đời vất vả
Cho mỗi ngày con hạnh phúc bao nhiêu!)
*
Con hãy quen và con hãy yêu
Mỗi góc phố, mỗi căn nhà chật hẹp
Những ngăn gác, cầu thang lên cót két
Những vỉa hè gạch cũ, guốc khua vang...
Nơi thiên tài nhân dân từng lớn lên ở đó
Cho mắt con đầy ánh sáng Việt Nam!
*
Thành phố suốt đời con qua chẳng hết
Chưa phải rộng mênh mông mà sâu đến không cùng! Con đi giữa mọi sắc màu bất diệt
Mà nhẹ nhàng, thành phố cứ lâng lâng!
Con lớn lên. Đời sẽ rộng dài hơn
Sẽ sung sướng hơn thời lên một tuổi!
Nhưng có thể có gì so sánh nổi
Với mọi điều cha đang ước cho con?...
1971 - 1972
Tột cùng gian truân, tột cùng hạnh phúc. Anh choáng váng trước chân trời rộng lớn Cả cánh đồng vàng rực buổi chiều đi
Một tấm thảm dắt ta vào thần thoại.
*
Sau lưng hai ta, bờ bãi Thái Bình
Những nhà đổ in lên màu đất cháy10
Đôi mắt em soi mặt trời tận đáy
Mặt trời rung như một nốt đàn cao!
*
Em nghe hết lòng anh nôn nao
Chân ta dẫm qua tầng tầng gạch vụn
Tiếng ngói dòn khô kêu đau dưới chân
Suốt dọc Thái Bình, Phủ Lý,
Sau lưng ta có còn gì nhỉ
Những mái đỏ ngây thơ, quân địch cố san bằng... *
Anh qua con sông nước ngập buổi chiều Bỗng sửng sốt gặp cánh đồng bảy tấn,
Anh không khóc trước những gì tàn nhẫn Mà trước cái nhìn trong sạch của em!
*
Ôi cánh đồng rất mực bình yên
Đã gieo giống ngay trên nền bão tố
Thái Bình ơi, Thái Bình!
Loa hát lớn sau buổi chiều phẫn nộ
Cây cứ thế tưng bừng búp trổ
Cái chết qua đi như phút trở trời!
*
Chưa bao giờ anh hiểu hết cuộc đời Chỉ càng lớn, anh càng thương cảm nó! Em đứng đó, thu bàn tay bé nhỏ
Vào trong im lặng của chiều
Thu hết mọi gian truân, mọi điều trắc trở, Chỉ để lại nụ cười cởi mở
Nụ cười em trao cho anh!
Nét rám hồng qua hai cuộc chiến tranh Ngỡ đâu chỉ hai mùa hè cháy nắng. *
Anh choáng váng trước chân trời rộng lớn Cái bộn bề kinh ngạc của đời ta...
Quá khứ chóng lùi xa
Như ta sống gấp hai lần thế kỷ
Những bước ta đi dài không tính xuể Tới tột cùng... Hạnh phúc sáng dần ra... *
Hạnh phúc quá bao la
Một hạnh phúc của những người thử lửa Biết làm chủ niềm vui và nỗi khổ Mỗi xúc động đi qua đều không thể nửa vời! *
Em đứng soi trong ánh mặt trời
Trái đất và em hòa một
Cây ứa nhựa yêu đời như máu rót Lúa ngả đòng, nhân mãi sức sinh sôi. *
Anh muốn kêu lên
Rạo rực mộtđiềuthôi:
Tayêulắm,khi tacàng đánh giặc
Càng thấm tộtcùng hạnhphúc
Khi quatộtcùng giantruân!
1
968
Đứng trước thế kỷ XX
Kỷ niệm 100 năm sinh V. I. Lênin
Bọt ngầu con sông Susơ11
Hơi ẩm bốc lên những đêm mùa thu
Con sông trôi như trong truyện đời xưa
Vừa buồn vừa lặng.
*
Nơi đó, Lênin12 từng lặng ngắm
Rừng cỏ trải dài. Gió lốc tầng cao.
Những đêm bão tuyết thét gào
Chân trời đầy bí ẩn.
*
Đầm Pêrôvô13 ngầu rác bẩn
Màu nâu váng lá mấy trăm năm
Sương như men chua phả lên mùa xuân
Cỏ ngấu nước, mủn dần trong nắng hạ...
*
Cuộc đời tù đọng quá
Những cây tần bì rụng lá trơ xương
Cây phong chịu rét can trường
Mỗi mùa đông cũng nứt dần lớp vỏ.
*
Con sông và rừng cỏ
Ba năm ròng thành bạn của Lênin
Giữa hẻo lánh, im lìm,
Khơi dậy bao điều chưa ai biết đến!
*
Những người dân chài nghèo nàn dễ mến
Mặt úa vàng như sắc cỏ chiều hôm
Những người thợ săn gò má xương xương Mệt mỏi ngồi trong lều cỏ
Lênin đến, nhập vào đời họ
Vào những ước ao đơn giản của con người. *
Đêm cuối năm, đánh lửa châm mồi
Đốt lá khô, chuyện trò sưởi rét,
Lửa nhỏ bùng lên, lẹt rẹt,
Rồi cả đống tranh ăn gió bốn bề
Lửa phần phật dâng cao, lửa nhảy múa như mê Kìa! Tất cả bắt đầu từ tia lửa!
Rực rỡ quá, Lênin nhìn, nín thở:
“Bắt đầu là tia lửa thế này đây!”.14
*
Lênin trở về. Bốn phía ngủ say
Sắp sửa băng tan, con sông còn vật vã, Cây cối đêm nay vặn mình kỳ lạ
Giao thừa hoang sơ trận gió khắp trời... *
Không ai biết Người ngồi
Bao nhiêu lâu đêm ấy
Những cơn lốc trong đầu Người trỗi dậy Những dự tính trải ra bao quát trước mắt Người Những ý nghĩ lớn lao, sáng rõ ra đời
Về Đảng, về Cách mạng,
Ngọn nến thâu đêm thắp sáng
Heo hút giữa vùng gió xoáy mung lung Đấy là đêm cuối cùng
Của thế kỷ mười chín đang tan vào quá khứ!
*
Bất giác Lênin đẩy tung cửa sổ:
Con sông vươn mình rừng rực rạng đông
Những đám mây đỏ chói thinh không
Bay lớp lớp rợp trên Đồi Sếu15
Đàn sếu tha phương đang trở về có hiểu
Đất cũ kỹ sắp gầm lên, sắp nứt vỡ, sinh sôi!
*
Người đứng lặng, nhìn xa, nheo mắt, mỉm cười
Nụ cười đầu tiên
Đón Thế kỷ Hai Mươi bão táp!
1970
Phút sinh ra những thần Phù Đổng Em bé ngỡ ngàng hơi thở đầu tiên
Hầm sặc vì oi khói
Cô đỡ run tay trong tối
Làm sao cắt rốn cho em?
*
Bom rơi ù tai
Tiếng nổ rát trời đêm
Xăng đặc bắt trên nhà lem lém
Người mẹ khẽ rên lên một tiếng
Hỏi bồn chồn: “Cháu gái hay trai”.
*
Cô đỡ xông lên chắn góc hào ngoài
Người mẹ duỗi nửa mình ra khoảng trống Một bầu trời lồng lộng
Máy bay thù như điên.
*
Pháo sáng bay lung liêng
Soi bàn tay cô đỡ
Soi mồ hôi rỏ giọt ròng ròng
Người mẹ nén đau nằm không day trở Cầu cho con, cuống rốn băng xong!
*
Một bầu trời mênh mông
Em bé lần đầu tiên mở mắt
Trước những giọt lân tinh và màu xăng đặc Em bé lần mở mắt đầu tiên
Trước quân thù cuồng dại bốn bên
Trước những hình thù hoang sơ quái gở...
Có gì đó trào dâng lên cổ
Cô đỡ ôm em, nôn nóng trong lòng.
*
Đất bỗng sốt lên cơn sốt bừng bừng
Những cơn chớp giật ùng oàng sáng chói
Giữa mọi âm thanh không gì hiểu nổi
Em bé nằm yên, chưa chút bận tâm
Lạ lùng, bằng giọng rất trong
Cất tiếng khóc đầu tiên, chào thế giới!
1967
Nói với em
Em dấu kín trong lòng tất cả những nguồn sông Khi xuyên núi có thể thành thác trắng
Em! Đôi mắt dịu dàng có ánh gì lạ lắm
Khi rụt rè thức dậy một tình yêu!
*
Đấy là một buổi chiều
Cơn mưa lớn ập xuống đầu hai đứa
Hàng cây lá cao vời như rộng mở
Em nhắc gì, nghe lẫn tiếng mưa rơi...
*
Cơn mưa qua. Ngày ấy cũng xa rồi
Em chỉ gửi một dòng thư rất nhỏ,
Cơn mưa có gì đâu, thành nỗi nhớ
Về những diều không nói được - là Em!
*
Em. Một cuộc đời đang lạ bỗng thành quen Một con đường cắt ngang bỗng nhập vào một lối Một màu sáng tinh mơ đủ khiến lòng bối rối Một bóng khói chiều xa tô đậm vị quê nhà... *
Em có mặt trên đường ở mọi chỗ anh qua
Những rừng rậm gai cào, những truông dài cát lún, Những trái chát không mùa, những dây leo không ngọn, Những hướng trời, gió thả bốn tầng cao...
*
Em! Một thành phố xa xưa bỗng hiện lại ngọt ngào Dáng bay múa những đường vân chạm trổ,
Những giàn dáo, những công trường vôi vữa
Chưa định hình, bỗng khởi sắc hồng tươi!
*
Em chất chứa trong lòng tất cả những nguồn vui Khi chia ly, thành mái nhà, bếp lửa,
Khi bom nổ thành bàn tay băng bó
Khi tàn phá ào qua, thành điểm chốt sau cùng.
*
Em khao khát yêu thương như khao khát vun trồng Bất chấp mọi gian lao, em tin ngày đoàn tụ
Tin ở sự thủy chung trong nghĩa tình đôi lứa
Tin ở sự hài hòa trong cuộc sống mai sau...
*
Em chất chứa trong lòng tất cả sự dài lâu
Dáng thăm thẳm những tháng năm chờ đợi
Sức kiên nhẫn với từng ngày lặp lại
Thư viết ra, đâu tới được bao giờ!
*
Kháng chiến trường kỳ, trăm nỗi âu lo,
Em đổ sức cho trăm điều gấp gáp,
Em đứng vững, không sức gì lung lạc
Như cây lớn lên giữa lớp lớp cây trồng!
*
... Em dấu kín trong lòng tất cả những nguồn sông Khi xuyên núi có thể thành thác trắng.
Em! Đôi mắt dịu dàng có ánh gì lạ lắm
Khi trong đời chín tới một tình yêu!
*
1972
Trước Cửa Tùng
Hộ tập thể16 chốt trên đồi cao Một trai ba gái
Bi đông nước và băng đạn
Súng, xẻng và dao.
*
Cỏ gianh rì rào
Cỏ gianh dày hơn, sẫm hơn ngày trước, Chất lân và diêm sinh thấm vào lá cỏ Mưa dông mùa hè dần xóa dấu bom. *
Chúng tôi đi khuất dưới lòng hào Cây trên đầu đã hai mùa trổ búp Khóm hoa vàng nhú lên bất chợt Con ong cần cù bay qua.
*
Không gian, thời gian mở đến bao la... Tôi nghe rõ nhịp tim mình mạnh quá Biển cả vừa ồn ào, vừa êm ả,
Đời vẫn xanh một sắc không cùng! *
Cửa Tùng!
Những con người da khô sắt lại Một trai, ba gái,
Luân phiên thức cùng biển khơi. *
Súng, xẻng và dao,
Bi đông nước và băng đạn.
Tập thể chưa phút nào ly tán
Suốt cuộc chiến tranh khốc liệt từng ngày. *
Những chấm đen xảo quyệt lách vào đây Mùi khét lạ thoảng hờ trên mặt sóng... Đêm sương mù, đêm biển động, Những trận bom trận pháo đỏ lừ... Chưa bao giờ họ bị bất ngờ
Chưa bao giờ họ lui một bước.
Cửa Tùng. Mãi mãi nhô ra giữa nước, Ngực trần.
*
Anh em dẫn tôi đi, chốc chốc lại dừng Trước dấu thềm cũ cửa hàng Mậu dịch Dấu đường nhựa, bom vùi chưa hết Cả dấu vườn, dấu ngõ hôm qua... Nheo mắt nhìn khơi xa
Họ nói với tôi về ngày toàn thắng Có Đài kỷ niệm và Khu nghỉ mát Ngói đỏ thông reo trên bến Cửa Tùng! *
Hết sức lạ lùng
Tôi bước xuống đồi
Dọc những bậc thang khoét vào đất dốc Nơi dấu chân in đã mòn từng bậc Mà tôi mới chỉ đến lần đầu,
Nơi con người đã nghĩ tới mai sau Còn tôi mới ngạc nhiên vì hiện tại! *
Trong lòng vừa xốn xang, vừa có gì nhuần lại... Biển và trời. Hộ tập thể trên cao.
Bi đông nước và băng đạn,
Súng, xẻng và dao.
Khu công sự Cửa Tùng, 1970
Truông nhà Hồ
“Yêu em, anh cũng muốn vô,
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
(Ca dao cổ)
Đất khô đỏ quạch ven đồi
Gió tung phóng khoáng từng hồi trên cao
Đất chiêm bao tự thuở nào
Đến nơi, hóa gặp tiếng chào dân quân!
*
Bò ai gặm cỏ Sa Lung
Chỗ xưa chỉ tiếng cọp gầm dỡn trăng
Miếu ma áo trắng Rú Trằm
Cát bay đã mấy trăm năm thành cồn,
Dăm thước đất, một hố bom,
Giữa rừng, vẫn tiếng ru con làm người...
*
(Châu Ô, Ri, thuở xa rồi
Tối tăm gió tắt, còn lời lá run,
Ba thùng thóc thuế - bán con
Đói mèm - cầm vợ trên đường đi phu!
Máu đằm trên cát, máu khô,
Cọc bêu đầu cắm lô nhô mấy đời!)
*
Cái tên ghê gớm một thời
Có gì mà sợ, em ơi, bây giờ
Yêu em, đánh Mỹ, thì vô,
Vượt truông Nhà Hồ, vượt phá Tam Giang!
Hồ Xá, 1970
Bên địa đạo Vĩnh Quang
Từ lòng địa đạo đi ra
Mỗi ánh mắt trẻ con bỗng làm tôi sáng lóa
Hồn tôi chợt nhiều nắng quá
Trên đất này Vĩnh Quang!
*
Tôi quên đi hết thảy mọi con đường
Chỉ nhớ quãng hào này
Rợp cỏ mặt trời và hoa muống biển,
Lại có những em bé lên ba,
lần đầu ngạc nhiên được nhìn biển rộng
Lần đầu ngạc nhiên được nhìn trời trong!
*
Và tôi ngạc nhiên với chính mình
Đã qua hết hai mươi tám năm trên trái đất,
Nhưng chưa hình dung hết được
Khoảng cách sống - còn, chưa đầy dăm mét
Từ hầm sâu ùa ra giữa nắng,
Khoảng cách ngắn đến mức khó tin
Giữa chiến tranh và hòa bình,
Lại dài dặc đến chừng này
Trong tấm lòng đợi chờ con trẻ!
1970
Trước cửa ngõ chiến trường
1
Ở đây, đồi sở lại đồi sim
Đất cát, thẫm màu hoa nắc nẻ.
Trăm cây số nữa là tới Huế.
Xe dừng.
*
Núi dựng bên tây, đen thẫm, trập trùng, Mặt trời xuống. Cát vàng như lửa cháy. Biển màu chi lạ vậy
Như mặt thủy ngân láng trên chân trời! *
Thế đấy, cuộc đời
Có những phút bất thần thành hạnh phúc, Tôi đứng như mê giữa lòng đất nước Một không gian hùng vĩ mở trên đầu... Tôi bước những bước dài, hít những hơi sâu, Đất thịt thẫm gan gà, sung sức lạ,
Dấu tích những ngày tàn phá
Có là gì trước sức lớn này đâu?
*
Ôi ngây thơ tiếng lục lạc bầy trâu
Dội vào núi buổi chiều nghi ngút khói Ôi hối hả tiếng búa choòng đập vội
Ánh lửa hàn, mùi hắc ín nồng thơm, Gạo mới trên đường, mạ mới trên nương Dầm cầu mới chồng lên khung sắt cũ Khuôn mặt mới cười sau ca-bin vỡ
Trước cửa ngõ chiến trường, cỏ mới mãi tươi non! 2
Hàng trăm binh trạm ngầm, ẩn hiện dọc Trường Sơn, Mười mấy năm nay không tàn ánh lửa
Những chiến sĩ không tên, chung sức nhau làm nên lịch sử Vạn chuyến xe đưa thoi, ước đã bon quanh trái đất mấy mươi vòng!
*
Sức dân ta bỏ ra đã đủ xây xong hàng chục Kim tự tháp Xây Vạn lý Trường thành, xây những kênh đào qua sa mạc Xahara,
Xây những nhà chọc trời hay đường xe điện ngầm nối từ Nam ra Bắc,
Nhưng lại phải đào hàng triệu hầm cá nhân và lấp hàng triệu hố bom lở loét,
Bạt núi, xẻ đường qua vách đá mây bay,
Dựng những dàn ngụy trang cho xe,
dài trên hai nghìn cây số!
Chiến trường - có gì đó vừa thô sơ vừa thần thoại, Dấu tích những bàn tay khổng lồ, với từng gương mặt dịu hiền kia...
*
Hai chữ “chiến trường” ta đã quen nghe
(Hai mươi mấy năm sống cùng chữ ấy!)
Nhưng đứng trước cửa ngõ này, vụt thấy
Nhịp chiến trường đổi mới tính từng giây,
Ta hôm sau khác xa ta hôm trước
Ngày càng đi, càng thấy ngắn thêm ngày.
*
Biết bao việc phải làm xong quá sức
Từng chiến thắng góp nên đều không thể giống nhau Kinh nghiệm ở nơi này, nơi kia chưa có ích,
Khó khăn sau không lặp lại khó khăn đầu!
*
Xưa tôi hiểu chiến trường là mảnh đất giao tranh Nay hiểu cả những lo toan thầm lặng
Khoảng xen kẽ giữa hai màu đen - trắng
Sức phi thường những chịu đựng không tên!
*
Tôi hiểu mạch chiến trường qua thẳng mỗi con tim Phút nhỏm dậy trước hầm ngầm phụt lửa,
Khoảnh khắc ngụp dưới lạch bùn nghẹt thở
Trận sốt rét mềm người, không một tiếng kêu rên! 3
Cửa ngõ chiến trường thắm một sắc màu riêng
Đưa tôi bước vào niềm thông cảm lớn:
Những đôi mắt tôi nhìn không vết gợn
Những bàn tay trong sạch nắm tay tôi...
*
Thế đấy, cuộc đời
Những phút gặp bất thần thành hạnh phúc!
Tôi ngợp giữa tình người cao cả nhất
Ngợp giữa tuổi thơ mình, ngợp ánh sáng đầu tiên! *
Tôi hiểu ra
Cửa ngõ chiến trường
Cửa ngõ của lòng tin!
Chiến khu Trị - Thiên, 1970
Vùng sâu
Cát bỏng lặng thinh đâu biết kể cùng ta:
Cha mẹ, anh em - kẻ thù chôn sống!
Cát bỏng lạ lùng, cát bỏng,
Đi qua rùng mình, ngỡ xác người dưới chân,
Sắc trắng phơi trụi trần
Vết đau hằn khô máu!
*
Xóm làng không còn dấu
Xe xích chà qua, xe ủi cào đi,
Một tiếng dế quen nghe
Từ thuở nhỏ, đến đây giờ cũng bặt,
Thương quá, màu xanh bụi gai, bụi móc
Duy nhất nhú lên sau trận mưa rào!
*
Đêm. Một vết chân ra vào
Dẫm sương tan nhanh trên đường tới ấp17
Đủ thành dấu cho quân giặc
Sớm mai nã pháo vây càn.
*
Trảng cát tan hoang
Tiếng cô giao liên bỗng thốt dịu dàng:
- Xã đội chúng em chốt đây nguyên vẹn!
1970
Đêm gió Trường Sơn
Tôi lại về đêm rất sâu Trường Sơn Gió dữ xung quanh cồn cào như biển Chỗ đất đồi lửa xém
Cỏ gianh mùa này lên cao
Cỏ gianh dâng phừng phừng như lao! *
Sương dăng thành che lấp bóng sao Mênh mông mùa gió
Nghe chim kêu chưa sáng mặt trời Khí núi bay ra mờ đục mắt người Đá đổ ầm ầm như sấm động
Lắm bữa thèm ăn bát cơm thật nóng Hơ lửa bàn tay thấm thía thương nhau! *
Ôi nhớ những khi xẻ núi bắc cầu Đại bác địch nổ trên đầu tóe lửa
Những đêm lấp bao hố bom dang dở Con đường vươn như sống lúc trăng lên Từng khúc đứt ra sâu hoắm lại liền Lại quẫy khúc trườn lên phía trước Nỗi vui lớn có gì đo được
Như gió ào dâng trong mắt, rưng rưng... *
Lán phong phanh trong rừng
Dăm lần cháy lại dăm lần chuyển chỗ Dao mài vẹt theo đường phát cỏ Cuốc cùn trơ vét đá hầm hào,
Chưa khi nào, chưa nơi nào
Sức người căng đến thế!
Gió nóng hanh hao, lồ ô nứt nẻ,
Xác ve khô rơi rụng mùa hè
Bão đầu thu quật nát tranh tre
Sương giá đầm đầm cỏ đông nhọn sắc...
*
Sống duy nhất chỉ để mà đánh giặc
Cái cắn răng nơi đó đã anh hùng!
*
Ở đây không khí loãng hơn đồng bằng
Hơi thở người sâu hơn
Lòng yêu đời sâu lắm!
*
Ôi Trường Sơn! Đêm nay tôi thức trắng
Những bóng hình thân thuộc mãi theo đi
Gió dữ xung quanh cồn cào như biển
Hơi thở quanh tôi thương mến, thầm thì...
*
Qua gian khổ thấy mình dày dạn lớn
Thương nhau nhiều, thấm thía sức nhau hơn
Ngày mai, trở giấc nơi đâu nữa
Hẳn suốt đời, khát vọng vẫn Trường Sơn...
1969
Mẹ
Con bị thương, nằm lại một mùa mưa Nhớ dáng mẹ ân cần mà lặng lẽ
Nhà yên ắng, tiếng chân đi rất nhẹ, Gió từng hồi trên mái lá ùa qua.
*
Nhớ vườn cây che bóng kín sau nhà Trái chín rụng suốt mùa thu lộp độp Những dãy bưởi sai, những hàng khế ngọt, Nhãn đầu mùa, chim đến bói lao xao... *
Con xót lòng, mẹ hái trái bưởi đào Con nhạt miệng, có canh tôm nấu khế Khoai nướng, ngô bung, ngọt lòng đến thế Mỗi ban mai tỏa khói ấm trong nhà. *
Ba con đầu đi chiến đấu nơi xa
Tình máu mủ mẹ dồn con hết cả,
Con nói mớ những núi rừng xa lạ
Tỉnh ra rồi, có mẹ, hóa thành quê! *
“Ông mất lâu rồi... ” - Mẹ kể con nghe Những chuyện làm ăn, những phen luân lạc, Mắt nhòa đục và mái đầu tóc bạc
Cả cuộc đời chèo chống bấy nhiêu năm... *
Những lúc hiếm hoi, mưa tạnh, trời trăng, Mẹ hể hả ngắm con hồng sắc mặt
Con ra ngõ, núi chập chùng xanh ngắt
Lại tần ngần nói với mẹ ngày đi.
*
Mẹ cười xòa, nước mắt ứa trên mi:
- “Đi đánh Mỹ, khi nào tau có giữ!
Súng đạn đó, ba lô còn treo đó,
Bộ mi chừ đeo đã vững hay chăng?”
*
... Ôi mẹ già trên bản vắng xa xăm
Con đã đi rồi, mấy khi trở lại?
Dằng dặc Trường Sơn những mùa gió trái
Những mùa mưa bạc trắng cả cây rừng!
*
Con qua đâu thấy mái lá, cây vườn,
Cũng đất nước, phơ phơ đầu tóc mẹ...
Từng giọt máu trong người con đập khẽ,
Máu bây giờ đâu có của riêng con?
1972
Những gương mặt, những khoảng trời. Chiến trường quen, mới đó lại xa rồi,
Gió thổi theo tôi dọc những vùng trời
Những chiến sĩ trẻ măng hẹn ngày gặp lại Những gương mặt bình thường như lẽ phải Mỗi gương mặt sinh ra để đón một vòm trời! *
Dẫu ở nơi đâu cũng mắc nợ cuộc đời,
Những binh trạm tiền tiêu thổi cơm trong lòng đất Những em bé Vân Kiều, đôi mắt tươi như hát Quen nhìn xuyên trăm đám lửa mù đen Bỗng mở xanh lạ lùng trước một khoảng trời yên! *
Nhớ bà mẹ Trường Sơn, thăm thẳm trước rừng đêm Nấu bát canh dong tây, nhường con ăn khỏi đói, Nhớ em gái Thừa Thiên, hy sinh rồi chẳng nói Mãi mãi để dành ta một khoảng thắm bầu trời Ta vuốt mắt cho em, đôi mắt vẫn trong ngời! *
Im lặng trước cơn đau và khóc trước niềm vui Ôi tôi nhớ đêm công đồn Quảng Trị
Một vạn quả pháo ta bay lên trời kỳ dị18 Rực thác lửa vàng xanh, tuôn xuống mặt quân thù, Phút đứng dậy xung phong, mắt rớm lệ không ngờ. *
Sống cảm động suốt đời, đất nước chiến trường ơi! Mỗi gương mặt tôi quen, một lần nhìn, thương mãi... Bao em bé ngây thơ, bao mẹ già từng trải,
Những chiến sĩ băng qua khắp đất nước hầm hào, Mỗi gương mặt bình thường, sau nghìn lần sống chết Rọi ánh sáng vào tôi, cùng những khoảng trời cao! 1970
Ghi từ một vùng đất lửa
Đất trụi trần những vết thương
Mặt trời lóa, nhà tôn nhìn nhức mắt, Gió nóng đi qua hầm hập như rang. *
Bọ già ngoài sáu mươi
Chiếc quần đùi, dây thép gai xé rách Đứng giạng trên sân chà từng lượm lúa Bằng hai bàn chân sần chai
Hạt lúa đầu mùa nóng hổi, vàng tươi, Giành giật với B.52 và pháo kích.
*
Những ngày thẳng căng đánh địch Không phút nào đầu óc nghỉ ngơi. Suốt buổi, lũ O. V. 10
Rền rĩ tiếng kêu ruồi nhặng
Dò dẫm thả hỏa mù
Cho bầy F. bầy B. nhắm đó trút bom Rồi pháo hạm câu từng dàn tăng tốc Tai ù đặc, liên hồi ùng ục
Vách hầm rung đất lở đêm ngày.
*
Khói mù lên cay cay
Không khí dập vào, vỡ ra như sóng Hơi thở từng người nóng bỏng
Giọng nói khào khào khản đặc như rang Đã hơn trăm ngày đêm
Quân và dân đứng vững.
*
Những con người vừa rời khu tập trung Bỡ ngỡ trở về bãi hoang làng cũ Đứng trên cái nền đen khô khốc Không gỗ lá, không tre pheo,
Chỉ những thùng đạn, những tấm tôn, Lại bắt đầu dựng xây
Nuôi lợn nuôi gà gieo mạ đào hầm Vào đoàn thể, lập dân quân,
Buổi chiều, đã nghe tiếng trẻ con ríu rít Khói thổi cơm xanh từng gian nhà... *
Bọ già chà xong gié lúa cuối cùng Đứng nhổ bọt, nhìn ra biển
Chửi giặc một câu thật tục
Rồi quay lại tôi, vừa nói vừa cười: “Kệ nó, mần chi cha nó,
Đất miềng, miềng ở, chú à!”
*
Bà mẹ rót mời tôi bát nước
Nước còn thoảng mùi tanh sắt thép Tôi không nói được lời nào!
*
Đất trụi trần, ngang dọc hầm hào Hơi thở con người chắc nặng
Đất cay cực, giành đi giật lại,
Tôi biết đất này từ nay của tôi! *
Tôi đi thẳng vào lòng đất mở
Đấtkhai sinh,cạnhđấtđãchônvùi.
Quảng
Trị,
1
9
72
Huế, tấm lòng em...
Câu chuyện kể của cô giao liên người Huế N.K.K.B.
“Cơn mưa mùa hạ hiền hòa,
Sau cơn mưa, ánh sao xa lạ lùng,
Con sông róc rách nước trong
Cỏ may quen, cánh phượng hồng tuổi thơ...
Xóm nghèo Đập Đá từ xưa
Ngẩn ngơ qua, lại ngẩn ngơ dạ sầu,
Nhạt nhùng tâm sự mưa mau,
Áo dài chi, nón che đầu mà chi,
Mặt quân thù xám như chì
Lối lao Thừa Phủ ngay kề trường em,
Cửa trường Đồng Khánh đâu yên
Xót xa tiếng xích khua bên giảng đường!
*
“Biết yêu cuộc sống lạ thường
Mà sao phải lúc chán chường thế anh!
Nhà em - ngày ấy còn lành
Mẹ em - ngày ấy còn xanh nửa đầu,
Lo toan chất ngất theo nhau
Khi ba mất, mẹ cũng mau về già!
*
“Năm năm em biệt cửa nhà
Bàn chân mưa nắng chai ra nhiều rồi,
Cực thì có cực, mà vui,
Chiến khu ta, củ sắn lùi, cũng ngon!
Ba lần ép dưới mưa bom
Đội hầm lên, chỉ thấy còn tro than!
Hai mùa bão lụt tan hoang,
Từng lon cháo nếp, chia san từng người!
Giản đơn khóe mắt, nụ cười,
Giản đơn, là lúc cuộc đời thẳm sâu!
*
“Thương sao con nước Ô Lâu
Ngàn đêm lặn lội, bọt ngầu xanh đen,
Đôi bờ cát lở, triều lên,
Ánh đèn pha chợt quét trên đầu mình,
Thương sao động cát Phong Điền
Chói chang, chỉ lá cây niên che đầu,
Địch càn trước, địch càn sau,
Mấy lần ẩn náu, vùi sâu trong lầy,
Gian nan mảnh đất quê này,
Sống dồn, nghĩ cứ mỗi ngày thương thêm!
*
“Anh đừng lo lắng cho em,
Em qua tuổi trẻ, đã quen vui buồn,
Thủy chung chất Huế trong hồn,
Thì xa xôi mấy, vẫn còn thủy chung,
Chiến tranh qua, chỉ lạ lùng,
Làm tim em đập, khôn cầm yêu thương!”...
1970
A tô pơ19
Thị trấn hoa vàng. Hoa đại ngủ lim dim,
Đôi ngả đường đá dăm. Một ngã ba cũ kỹ.
*
Những căn nhà gỗ hai tầng đơn sơ
Trổ lan can ô vuông, vẩy rào thưa trước ngõ
Các cửa hàng lành hiền bé nhỏ
Cô du kích tuần tra, súng lê dài hơn người!
*
Sư già ngực trần cháy nắng cuối hè
Áo đỏ khoác vai đến trường dạy học
Em bé lớp hai ê a tập đọc
Nhịp thước gõ bàn lách cách nửa chiều.
*
Thị trấn hòa cùng cuộc chiến gieo neo
Chi chít hào giao thông dưới cỏ,
Xe vận tải, súng phòng không... dấu sau vườn chùa cổ, Nhưng cuộc sống im lìm như vẫn thế từ xưa!
*
Thị trấn đang chờ trận tập kích cam go
Tôi đi qua, vẫn thâm trầm vậy đó
Cô du kích cười xòa, nụ cười sao dễ nhớ
Với những vòng chỉ cườm lấp lánh mãi từ xa...
1972