🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bàn Về Trung Quốc Ebooks Nhóm Zalo ON CHINA Copyright © Henry A. Kissinger, 2011,2012 All rights reserved Nhà xuất bản Công an nhân dân giữ bản quyền Tiếng Việt trên toàn thế giới Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Kissinger, Henry Bàn về Trung Quốc = On China : Sách tham khảo / Henry Kissinger; Nguyễn Quang Huy dịch; Đào Tuấn h.đ.. - In lần 2. - H. : Công an nhân dân, 2016. - 568tr.; 24cm ISBN 9786047216505 1. Quan hệ ngoại giao 2. Trung Quốc 3. Sách tham khảo 327.51 – dc23 . CAM0016P-CIP LỜI GIỚI THIỆU Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Sau hơn 30 năm tiến hành cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. Đến nay, tổng sản phẩm quốc dân của Trung Quốc đã đứng thứ hai trên thế giới, dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới, Trung Quốc đã có một vị thế mới trên trường quốc tế. Chính sách và chiến lược ngoại giao của Trung Quốc có những ảnh hưởng nhất định đối với khu vực và thế giới. Vì vậy các nước trong khu vực và trên thế giới không chỉ quan tâm, theo dõi đến những thành tựu phát triển của Trung Quốc, mà còn quan tâm nghiên cứu, tham khảo chiến lược và chính sách ngoại giao của Trung Quốc. Tuy nhiên, quan hệ quốc tế châu Á - Thái Bình Dương hiện tại đang rất “nóng” với quá trình dịch chuyển quyền lực giữa một bên là Trung Quốc - cường quốc đang trỗi dậy, còn bên kia là Mỹ - cường quốc truyền thống. Và Việt Nam - với tư cách một quốc gia có vị trí chiến lược và vai trò quốc tế đang nổi lên rất nhanh - cần phải xử lý thực sự khôn khéo trong một môi trường chính trị khu vực đầy biến động như thế. Do đó, việc nghiên cứu về tình hình Trung Quốc, trong đó có chính sách ngoại giao của Trung Quốc và các nước khác rất cần thiết đối với chúng ta. Trên tinh thần và ý nghĩa đó Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản cuốn sách tham khảo Bàn về Trung Quốc (On China) của Tiến sĩ Henry A. Kissinger, nguyên cố vấn An ninh quốc gia kiêm Ngoại trưởng Hoa Kỳ dưới thời các tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford (1968-1975); thể hiện chính sách ngoại giao với nước lớn của Mỹ và Trung Quốc. Để bạn đọc dễ tiếp cận các luồng thông tin khác nhau, chúng tôi tạm để nguyên một số nhận định, đánh giá của ông Henry Kissinger có thể trái chiều với nhiều học giả khác và chúng ta. Hy vọng cuốn sách là tài liệu tham khảo cho cán bộ, chiến sĩ Công an và độc giả hiểu được những quan điểm trái chiều về cân bằng quyền lực toàn cầu trong thế kỷ XXI, về một Trung Quốc từ truyền thống đến hiện đại... từ đó góp phần nâng cao nhận thức, góp phần đấu tranh chống những quan điểm tư tưởng sai trái với quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước nhằm làm thất bại âm mưu và thủ đoạn hoạt động "diễn biến hòa bình" gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN Những Lời Khen Ngợi Ca ngợi Bàn về Trung Quốc của Henry A. Kissinger "Hấp dẫn, khôn ngoan, thông minh... Chân dung nước Trung Quốc trong [cuốn sách] được thể hiện bằng kiến thức trực tiếp và sâu sắc của ngài Kissinger về một số thế hệ các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Cuốn sách khéo léo lần theo dấu vết những nhịp điệu, khuôn mẫu trong lịch sử Trung Quốc... ngay cả khi giải thích những sự khác biệt về triết lý so với Mỹ". - Michiko Kakutani, The New York Times "Hấp dẫn... Trong Bàn về Trung Quốc, nhà chính khách Henry Kissinger gợi nhớ đến những ghi chép lịch sử và bốn mươi năm tương tác trực tiếp với bốn thế hệ nhà lãnh đạo Trung Quốc, nhằm phân tích mối liên kết giữa quá khứ xa xưa của Trung Quốc và đường lối hiện nay của họ. Khi làm thế, ông đã giúp định hình những quan hệ Đông - Tây hiện đại bằng một lời giải thích đáng lo ngại, và đôi khi tràn đầy hy vọng, luôn luôn thuyết phục về những gì chúng ta phải đương đầu". - Chicago Sun-Times "Hấp dẫn... Không một người Mỹ hiện tại nào đóng một vai trò quan trọng như thế ngoài Henry Kissinger, nguyên cố vấn an ninh quốc gia kiêm ngoại trưởng, khi mang lại thành công việc nối lại quan hệ hữu nghị giữa Mỹ và Trung Quốc... [Kissinger] với những cái nhìn thấu suốt vào cuộc chạm trán đau khổ của Trung Quốc với những cường quốc phương Tây mạnh hơn nhiều". - San Francisco Chronile "Bàn về Trung Quốc, cuốn sách thứ mười ba của Kissinger, pha trộn giữa phân tích chiến lược sắc sảo về những bước đi và biện pháp đối phó của Trung Quốc, Mỹ và Liên bang Xô Viết trước kia, với những đoạn văn gây ấn tượng mạnh về các cuộc gặp gỡ của ông với các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô... Rất thú vị". - Los Angeles Times "Henry Kissinger không chỉ là phái viên chính thức người Mỹ đầu tiên đến Trung Quốc Cộng sản, ông còn kiên trì vai trò trung gian của mình suốt hơn năm mươi chuyến đi suốt bốn thập niên, bắc nhịp cầu trong sự nghiệp của bảy nhà lãnh đạo của cả hai bên về mặt ngoại giao mà nói, ông sở hữu một quyền kinh doanh, và với Bàn về Trung Quốc, khi đã ở tuổi 88, ông phản ánh lại hành trình đáng kể của mình. Đến một mức độ mà Trung Quốc và Mỹ giờ đã hiểu về nhau, đó là một biện pháp tốt vì Kissinger đã làm người biên dịch chuyên cần cho cả hai bên". - Max Frankel, The New York Times Book Revieiv "Không còn ai có thể đặt ra một đòi hỏi có tầm ảnh hưởng đến thế về việc định hình chính sách ngoại giao hơn năm mươi năm qua như Henry Kissinger". - Financial Times "Đối với một chính khách cao tuổi xuất chúng như thế, một lời đánh giá sắc sảo về thuật ngoại giao Trung Quốc từ thời xưa cho đến "niềm tin chiến lược" đầy đủ hiện nay với Mỹ, nguyên Ngoại trưởng Kissinger đưa kiến thức học giả phong phú, chuyên môn thuần thục của mình vào trong ghi chép về sự tiến hóa phức tạp và tương lai mong manh của thuật ngoại giao giữa Trung Quốc với phương Tây... Những lời nói mang tính uyên bác, những viễn cảnh then chốt được đưa vào nhờ một nhân vật chính tham gia vào các sự kiện lịch sử". - Kirkus Revieiv PENGƯIN BOOKS PENGUIN BOOS BÀN VỀ TRUNG QUỐC Henry Kissinger là cố vấn An ninh Quốc gia sau đó là Ngoại trưởng Hoa Kỳ dưới thời các Tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford, đã từng tư vấn cho nhiều tổng thống Mỹ khác về chính sách ngoại giao. Ông được trao giải Nobel Hòa bình năm 1973, Huy chương Tổng thống về Tự do và nhiều giải thưởng khác. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách, bài viết về ngoại giao và chính sách ngoại giao, hiện ông đang là Chủ tịch Hiệp hội Kissinger Inc., một công ty tư vấn quốc tế. LỜI NÓI ĐẦU CHÍNH XÁC LÀ BỐN MƯƠI NĂM TRƯỚC, Tổng thống Richard Nixon đã cho tôi vinh dự khi cử tôi đến Bắc Kinh thiết lập lại quan hệ với một quốc gia đóng vai trò trung tâm trong lịch sử Châu Á, một quốc gia mà Mỹ đã không còn tiếp xúc cấp cao suốt hơn hai mươi năm. Động cơ của Mỹ cho sự cởi mở này chính là để người dân Mỹ thấy một viễn cảnh hòa bình, nhằm che mờ đi đau thương của cuộc Chiến tranh Việt Nam, và những bối cảnh đáng lo ngại của Chiến tranh Lạnh. Trung Quốc cho dù về mặt ngữ nghĩa là một đồng minh của Liên bang Xô Viết, vẫn đang muốn tìm kiếm một lý do khéo léo để đương đầu lại sự lấn át từ Moscow. Trong quãng thời gian đó tôi đã đến Trung Quốc hơn năm mươi lần. Giống như nhiều du khách khác suốt mấy thế kỷ, tôi đã phải ngưỡng mộ người dân Trung Quốc, sự chịu đựng, sự tinh tế của họ, ý thức gia đình của họ và nền văn hóa mà họ đại diện. Cùng với đó, trọn cuộc đời mình tôi đã phản ảnh về việc xây dựng hòa bình, chủ yếu căn cứ theo quan điểm của người Mỹ. Tôi đã có may mắn khi có thể theo đuổi hai dòng tư duy này một cách đồng thời với tư cách một quan chức cấp cao, một người truyền tải những thông điệp và một học giả. Cuốn sách này là nỗ lực một phần dựa trên những cuộc đối thoại với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, nhằm giải thích cách tư duy dựa trên khái niệm của người Trung Quốc về những vấn đề của hòa bình, chiến tranh và trật tự quốc tế, mối quan hệ với cách tiếp cận của người Mỹ là theo từng trường hợp và thực dụng hơn. Những nền văn hóa và lịch sử khác biệt tạo ra những kết luận đôi khi bất đồng. Không phải lúc nào tôi cũng đồng ý với quan điểm của người Trung Quốc, không phải độc giả nào cũng đồng ý. Nhưng cần thiết phải hiểu điều này, vì Trung Quốc sẽ đóng một vai trò to lớn trong thế giới đang trỗi dậy ở thế kỷ XXI. Kể từ chuyến thăm đầu tiên, Trung Quốc đã trở thành một siêu cường quốc về kinh tế, là một nhân tố chính trong việc định hình trật tự chính trị toàn cầu. Nước Mỹ đã thắng thế trong Chiến tranh Lạnh. Quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ đã trở thành một yếu tố trung tâm trong cuộc kiếm tìm hòa bình thế giới và sự thịnh vượng toàn cầu. Tám đời tổng thống Mỹ và bốn thế hệ các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã duy trì mối quan hệ này với sự kiên trì đáng ngạc nhiên xét đến những khác biệt trong các điểm khởi đầu. Cả hai bên đều không cho phép những di sản lịch sử, hoặc những quan niệm khác biệt về trật tự trong nước chen ngang vào mối quan hệ hợp tác then chốt của mình. Đó là một chuyến đi phức tạp, vì cả hai nước đều cho rằng họ đại diện cho những giá trị độc đáo. Chủ nghĩa khác biệt của người Mỹ đó là truyền giáo. Nó cho rằng nước Mỹ có trách nhiệm phải phủ khắp những giá trị của mình đến mọi nơi trên thế giới này. Chủ nghĩa khác biệt của Trung Quốc là văn hóa. Trung Quốc không khuyến khích người ta từ bỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình, không cho rằng những thể chế đương đại của nó trải rộng ra ngoài Trung Quốc. Nhưng đó là sự kế thừa truyền thống của Vương triều Trung Hoa, chính thức xếp loại tất cả các nước thành các nước triều cống ở nhiều mức độ khác nhau, dựa trên sự gần tương đồng của họ đối với các hình thức văn hóa và chính trị của Trung Quốc, nói cách khác là một dạng văn hóa phổ quát. Trọng tâm ban đầu của cuốn sách đó là sự tương tác giữa các nhà lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc kể từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949. Cả trong và ngoài chính phủ, tôi đã giữ lại những ghi chép tất cả các cuộc đối thoại với bốn thế hệ nhà lãnh đạo Trung Quốc, và xem họ như nguồn tư liệu đầu tiên để viết cuốn sách này. Tôi không thể viết ra cuốn sách nếu không có sự giúp sức lành nghề và tận tụy của những cộng sự, bạn bè và tôi đã tận dụng sự giúp đỡ của họ. Schuyler Schouten là người không thể thay thế. Tám năm trước, anh ta đã khiến tôi chú ý khi Giáo sư John Gaddis của Đại học Yale giới thiệu anh là một trong số những sinh viên ưu tú nhất của ông. Khi bắt đầu dự án này tôi đã đề nghị anh ta nghỉ phép hai tháng ở công ty luật của mình. Anh ta đã làm như vậy và trong quá trình đó anh ta tham gia sâu đến mức đã thể hiện nỗ lực đến tận cùng một năm sau đó. Schuyler đã tiến hành phần lớn các nghiên cứu cơ bản. Anh giúp đỡ biên dịch các văn bản tiếng Trung Quốc, thậm chí còn nghiên cứu sâu hơn đối với các gợi ý của những văn bản tinh tế hơn. Anh làm việc không biết mỏi mệt trong giai đoạn biên tập và đọc bông. Tôi chưa bao giờ có một cộng sự nghiên cứu tốt hơn và xuất sắc hiếm hoi đến thế. Thật là một may mắn tuyệt vời cho tôi khi có được Stephanie Junger Moat làm việc cùng tôi trong mười năm hoạt động. Cô ấy đúng là người mà trong bóng chày người ta gọi là một cầu thủ hữu ích then chốt. Cô ấy làm nghiên cứu và một số công tác biên tập và là đầu mối liên lạc chính với nhà xuất bản. Cô ấy đã kiểm tra tất cả những mẫu ghi chú trong cuốn sách. Cô ấy đã giúp điều phối việc đánh máy và không bao giờ ngần ngại làm việc hăng say khi những hạn chót gần kề. Sự đóng góp thiết yếu của cô ấy được củng cố với kỹ năng thu hút và ngoại giao của mình. Harry Evans đã biên tập cuốn White House Years ba mươi năm trước. Ông đã cho phép tôi tận dụng tình bạn của chúng tôi để biên tập hết toàn bộ bản thảo. Những ý kiến về biên tập và kết cấu của ông rất phong phú và thông minh. Theresa Amantea và Jody Williams đã đánh máy đi đánh máy lại bản thảo, dành ra rất nhiều buổi tối, ngày nghỉ cuối tuần để giúp đỡ hoàn thành bản thảo vào hạn chót. Sự cổ vũ tốt đẹp của họ, sự hiệu quả và con mắt sắc sảo của họ đối với từng chi tiết là rất quan trọng. Stapleton Roy, nguyên đại sứ Mỹ tại Trung Quốc và là một học giả kiệt xuất về Trung Quốc; Winton Lord, đồng nghiệp của tôi trong thời gian mở cửa với Trung Quốc và sau này là đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, và Dick Viets, người phụ trách tác phẩm chưa in của tôi, đã đọc rất nhiều chương và đưa ra những nhận xét quan trọng. Jon Vanden Heuvel nghiên cứu hữu ích trên một số chương. Xuất bản với Nhà xuất bản The Penguin Press là một trải nghiệm hạnh phúc. Ann Godoff luôn luôn có mặt, luôn luôn sâu sắc, không bao giờ khắc nghiệt và luôn vui vẻ khi ở bên. Bruce Godoff, Noirin Lucas và Tory Klose đã xem xét cuốn sách rất chuyên nghiệp trong suốt quá trình biên tập sản xuất. Fred Chase đã biên tập bản thảo một cách thận trọng và hiệu quả. Laura Stickney là nhà biên tập chính của cuốn sách. Dù cô ấy trẻ tuổi bằng cháu gái tôi, nhưng tác giả không tài nào bắt bẻ được cô ấy. Cô ấy không hề e dè trước những quan điểm chính trị của tồi một cách thích đáng, tói mức tôi luôn mong chờ những nhận xét luôn sắc sảo và đôi khi gay gắt của cô ấy bên lề bản thảo. Cô ấy làm việc không biết mỏi mệt, mẫn cán và cực kỳ hữu ích. Gửi đến tất cả mọi người lòng biết ơn to lớn của tôi. Những tài liệu của chính phủ mà tôi trích dẫn ra đều đã được tiết lộ một thời gian. Tôi muốn gửi lời cám ơn đặc biệt đến Dự án Lịch sử Chiến tranh Lạnh tại Trung tâm Học giả Quốc tế Woodrow Wilson đã cho phép tôi sử dụng những đoạn trích dẫn mở rộng của các hồ sơ về Trung Quốc và Liên Xô đã công bố từ hồ sơ lưu của họ. Thư viện Carter cũng đã giúp đỡ chuẩn bị sẵn sàng nhiều bản thảo các cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong thời gian Carter làm tổng thống, và Thư viện Reagan cũng cung cấp rất nhiều những tài liệu hữu ích từ các hồ sơ của mình. Khỏi cần phải nói, những tồn tại trong cuốn sách này đều do lỗi của tôi. Suốt hơn nửa thế kỷ, Nancy, vợ tôi đã hỗ trợ một cách thông thái và phẩm hạnh đáng tin cậy cho tôi giữa đám tác giả cô độc (hoặc ít nhất là tác giả này) luôn quẩn quanh chính họ khi sáng tác. Bà đã đọc hầu hết các chương và đưa ra những nhận xét cực kỳ quan trọng. Tôi đã dành tặng cuốn Bàn về Trung Quốc cho Annette và Oscar de la Rente. Tôi đã bắt đầu viết sách tại nhà họ ở Punta Cana và hoàn thành tại đó. Sự mến khách của họ chỉ là khía cạnh của một tình bạn đã thêm niềm vui và sự sâu sắc vào cuộc sống của tôi. Henry A. Kissinger New York, tháng 01/2011 GHI CHÚ VỀ CÁCH VIẾT CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC Thuật ngữ Trung Quốc. Những cách viết khác nổi tiếng tồn tại đối với nhiều từ tiếng Trung, dựa trên hai phương pháp được phổ biến đặc biệt khi chuyển tự các chữ tiếng Trung ra bảng chữ cái La Mã: Phương pháp Wade Giles, tồn tại ờ nhiều nước trên thế giới cho đến những năm 1980 và phương pháp phiên âm, chính thức được áp dụng tại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1979 và ngày càng phổ biến trong các ấn bản ở phương Tây và Châu Á khác sau đó. Phần lớn cuốn sách áp dụng cách viết phiên âm. Chẳng hạn, cách viết phiên âm "Deng Xiaoping" (Đặng Tiểu Bình) được sử dụng phổ biến hơn cách viết theo Wade - Giles "Teng H'siao-ping". Trong trường hợp những cách viết khác, không dùng phiên âm vẫn trở nên quen thuộc đáng kể hơn, chúng được thể hiện tạo sự thuận tiện cho người đọc. Chẳng hạn, về tên của nhà lý thuyết quân sự cổ đại "Sun Tzu" (Tôn Vũ), cách viết truyền thống vẫn được sử dụng, ngoài cách viết phiên âm mới mẻ hơn như "Sunzi". Thi thoảng, với mục đích nhằm đạt được sự thống nhất trong toàn bộ văn bản cuốn sách, những tham khảo được trích dẫn đến những cái tên được liệt kê gốc ở dạng YVade - Giles đã phải đổi sang cách viết phiên âm. Những thay đổi này được chú thích kỹ hơn trong các phần ghi chú. Trong mỗi trường hợp, từ ngữ Trung Quốc cơ bản vẫn tương tự; khác biệt nằm ở biện pháp chuyển tự trong bảng chữ cái La Mã. PHẦN MỞ ĐẦU Trong tháng 10/1962, nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Mao Trạch Đông triệu tập các tư lệnh chính trị và quân sự hàng đầu của mình đến gặp ông tại Bắc Kinh. Cách 2.000 dặm về phía Tây, trong vùng địa hình dân cư thưa thớt và hiểm trở của dãy Himalaya, quân đội Trung Quốc và Ấn Độ mắc kẹt trong thế trận cân bằng trên biên giới tranh chấp của hai bên. Tranh chấp phát sinh dựa trên các tài liệu lịch sử khác nhau: Ấn Độ khẳng định phần biên giới bị phân chia khi bị Anh chiếm đóng. Còn Trung Quốc cho là do những hạn chế của Hoàng đế Trung Hoa. Ấn Độ triển khai các tiền đồn của mình đến sát đường biên giới theo quan niệm của Trung Quốc; Trung Quốc bao vây các vị trí của Ấn Độ. Các nỗ lực đàm phán giải quyết lãnh thổ đều không đi đến đâu. Mao đã quyết định phá vỡ thế bế tắc. Ông đang dựa nhiều vào truyền thống Trung Quốc cổ điển mà ông cũng đang muốn phá bỏ. Mao nói với các tư lệnh của ông, Trung Quốc và Ấn Độ trước kia đã từng tiến hành "một nửa" cuộc chiến. Cuộc chiến đầu tiên xảy ra hơn 1.300 năm trước trong thời nhà Đường (618 - 907). Thời đó Trung Quốc triển khai quân đến hỗ trợ vương quốc Ấn Độ chống lại một kẻ nổi loạn hung hăng và bất hợp pháp. Sau khi Trung Quốc can thiệp, hai nước đã cùng chung hưởng nhiều thế kỷ giao lưu kinh tế và tôn giáo phát triển mạnh mẽ. Bài học rút ra từ một chiến dịch cổ xưa, như Mao đã mô tả, đó là Trung Quốc và Ấn Độ không bị lên án phải trở thành kẻ thù vĩnh viễn của nhau. Hai nước có thể cùng hưởng một thời kỳ hòa bình lâu dài. Nhưng để làm được điều đó, Trung Quốc muốn sử dụng vũ lực để "ép" Ấn Độ quay trở lại bàn đàm phán. "Cuộc chiến một nửa", theo tư duy của Mao diễn ra bảy trăm năm về sau khi nhà lãnh đạo đế quốc Mông cổ, Timurlane (Thiếp Mộc Nhi) đánh bại New Dehli. (Mao lý luận rằng vì Mông cổ và Trung Quốc lúc đó là một phần của cùng một thực thể chính trị, nên đây là cuộc chiến Trung - Ấn "một nửa"). Timurlane giành được một chiến thắng quan trọng, nhưng có một lần ở Ấn Độ quân đội của Timurlane đã giết hơn 100.000 tù nhân. Lần này Mao ra lệnh quân đội của ông phải "kiềm chế và có kỷ luật". Không một ai trong số khán giả của Mao - Ban Lãnh đạo Đảng Cộng sản của một "Trung Quốc mới" cách mạng tuyên bố ý định lập lại trật tự quốc tế, và hủy bỏ quá khứ phong kiến của chính Trung Quốc - có vẻ nghi ngờ sự tương đồng của những tiền lệ cổ xưa này với những mệnh lệnh chiến lược của Trung Quốc hiện tại. Việc lên kế hoạch tấn công được tiếp tục trên cơ sở các nguyên tắc Mao đã vạch ra. Nhiều tuần sau đó cuộc tấn công đã đạt được bước tiến lón như ông mô tả: Trung Quốc thực hiện một cú tấn công bất ngờ, hủy diệt nhằm vào các vị trí của Ấn Độ. Sau đó rút về phòng tuyến kiểm soát trước đó, thậm chí còn trả lại cho Ấn Độ các vũ khí hạng nặng chiến lợi phẩm. Chẳng có đất nước nào hiểu tại sao một nhà lãnh đạo hiện đại lại bắt đầu một cam kết quốc gia quan trọng, bằng cách gợi lại những nguyên tắc chiến lược từ một sự kiện cách đây đến một thiên niên kỷ - cũng như ông không thể tự tin mong các đồng nghiệp của mình hiểu được tầm quan trọng của những lời ám chỉ mình đưa ra. Nhưng Trung Quốc là một quốc gia đơn nhất. Không có quốc gia nào có thể khẳng định một nền văn minh liên tục lâu đến thế, hoặc một liên kết thân thiết đến thế với quá khứ xa xưa của mình và các nguyên tắc cổ điển về chiến lược và nghệ thuật quản lý nhà nước. Những nước khác bao gồm cả Mỹ, đã khẳng định khả năng áp đặt các giá trị và thể chế của mình lên toàn cầu. Dẫu vậy, không nước nào có thể sánh với Trung Quốc ở sự kiên trì - và thuyết phục các nước láng giềng của mình đồng ý - với khái niệm cao cả về vai trò thế giới của mình trong thời gian dài, bất chấp nhiều thăng trầm lịch sử đến vậy. Từ khi trỗi dậy như một nước duy nhất trong thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên cho đến khi nhà Thanh sụp đổ năm 1912, Trung Quốc đã đứng ở trung tâm một hệ thống quốc tế Đông Á trong khoảng thời gian lâu đáng kể. Hoàng đế Trung Hoa theo quan niệm rằng đang đứng ở đỉnh cao nhất trên thứ bậc tôn ti chính trị toàn cầu, còn tất cả các nhà cầm quyền của các nước khác về lý thuyết đều làm nước chư hầu. Ngôn ngữ, nền văn hóa và những thể chế chính trị của Trung Quốc đều là các dấu ấn của nền văn minh, đến mức những kẻ nổi loạn trong khu vực và các hoàng đế nước ngoài đều áp dụng chúng ở nhiều cấp độ, như một dấu hiệu về tính hợp pháp của riêng mình (thông thường đó là bước đi đầu tiên để nhập vào Trung Quốc). Thuyết vũ trụ học truyền thống đã tồn tại bất chấp những tàn phá và nhiều giai đoạn suy thoái chính trị kéo dài hàng thế kỷ. Ngay cả khi Trung Quốc suy yếu hoặc bị chia cắt, vị trí trung tâm của họ vẫn là tiêu chuẩn tính hợp pháp trong khu vực, mà những kẻ có tham vọng ở cả Trung Quốc và nước ngoài đều lăm le muốn thống nhất hoặc giành giật nó, sau đó ngồi chỉ huy từ thủ đô Trung Quốc mà không thách thức tiền đề cơ bản họ là trung tâm vũ trụ. Trong khi các nước khác được đặt tên theo các sắc dân hoặc dấu mốc địa lý, Trung Quốc tự gọi chính mình là zhongguo - "Vương triều Trung Hoa" hoặc "Quốc gia Trung tâm". Bất kỳ nỗ lực nào để hiểu thuật ngoại giao của Trung Quốc trong thế kỷ XX, hoặc vai trò thế giới của đất nước này trong thế kỷ XXI phải bắt đầu bằng một đánh giá cơ bản bối cảnh truyền thống của họ - thậm chí có khi phải loại bỏ một số sự đơn giản hóa tiềm tàng. Chương 1: Tính Đơn Nhất Của Trung Quốc Các nhà nước và các Quốc gia có xu hướng nghĩ bản thân mình là bất diệt. Họ cũng ấp ủ một thiên truyện về nguồn gốc của mình. Một đặc trưng đặc biệt của nền văn minh Trung Quốc đó là dường như không có sự khởi đầu. Trong lịch sử, Trung Quốc xuất hiện như một hiện tượng tự nhiên lâu dài hơn là một nhà nước - dân tộc theo quy ước. Trong truyện về Hoàng đế, vị vua được nhiều người Trung Quốc tôn kính gọi là người trị vì lập nước huyền thoại, Trung Quốc dường như có tồn tại. Khi Hoàng đế xuất hiện trong huyền thoại, nền văn minh Trung Quốc đã rơi vào hỗn loạn. Các hoàng tử cạnh tranh nhau và đối xử tàn tệ với dân chúng, thế nhưng nhà cầm quyền suy yếu không thể lập lại trật tự. Bằng cách tuyển mộ quân lính, người anh hùng mới đã lập lại hòa bình cho vương quốc và được xưng tụng là Hoàng đế. Hoàng đế trong lịch sử được ca tụng như một người anh hùng lập quốc; thế nhưng trong huyền thoại lập quốc, ông đã tái lập chứ không phải tái tạo một đế chế. Trước khi có ông đã có Trung Quốc, quốc gia này sải những bước dài vào sự tình thức của lịch sử như một đất nước được thành lập chỉ bằng tái tạo, không phải sáng tạo. Sự ngược đời này trong lịch sử Trung Quốc một lần nữa tái hiện với nhà hiền triết cổ đại Khổng Tử: Một lần nữa ông được xem là "người sáng lập" một nền văn hóa cho dù ông nhấn mạnh rằng mình chẳng tạo ra cái gì, rằng ông chi đơn thuần cố gắng một lần nữa tiếp thêm sinh lực cho các nguyên tắc hài hòa đã từng tồn tại trong kỷ nguyên vàng, nhưng đã mất mát trong kỷ nguyên hỗn loạn về chính trị của chính Khổng Tử. Phản ánh về nghịch lý trong nguồn gốc xuất xứ của Trung Quốc, nhà truyền giáo và du hành thế kỷ XIX, Abbé Régis-Evariste Huc, đã nhận xét: Nền văn minh Trung Quốc bắt nguồn từ thời xưa xa xôi đến mức chúng ta không hy vọng tìm ra sự khởi đầu của nó. Không còn dấu vết nào của một nhà nước từ thuở phôi thai giữa những con người này. Đây là một thực tế rất khác thường liên quan đến Trung Quốc. Chúng ta đã quá quen với lịch sử các quốc gia khi tìm kiếm một điểm khởi đầu được xác định rõ ràng, và các tài liệu lịch sử, những truyền thống, các công trình kỷ niệm còn lại nói chung cho phép chúng ta lần theo gần như từng bước một sự tiến bộ của nền văn minh, có mặt lúc nền văn minh đó ra đời, theo dõi sự phát triển của nó, bước tiến của nó về phía trước, và trong nhiều trường hợp là sự thối nát và sụp đổ của nó sau đó. Nhưng điều này không áp dụng đối với Trung Quốc. Dường như họ luôn luôn sống cùng giai đoạn tiến bộ như trong thời điểm hiện tại; và dữ liệu về thời xa xưa càng như khẳng định ý kiến đó. Khi các chữ viết tiếng Trung lần đầu tiên được phát triển trong thời nhà Đường ở thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên, Ai Cập cổ đại đang ở đỉnh cao vinh quang. Những nhà nước - thành phố vĩ đại của Hy Lạp cổ đại vẫn còn chưa thức dậy, và Rome vẫn còn cách xa hàng thiên niên kỷ. Thế nhưng thế hệ con cháu trực tiếp của hệ thống chữ viết thời nhà Thương vẫn còn được trên một tỷ người sử dụng tốt đến tận ngày nay. Người Trung Quốc ngày nay có thể hiểu được những câu chữ được viết ở thời Khổng Tử, các cuốn sách và đối thoại đương thời được làm phong phú thêm bằng những câu cách ngôn cách đây hàng thế kỷ, trích dẫn các trận đánh và âm mưu chốn cung đình. Cùng lúc đó, lịch sử Trung Quốc có đặc trưng với rất nhiều thời kỳ nội chiến, chuyển tiếp và hỗn loạn. Sau mỗi sự sụp đổ, nhà nước Trung Quốc lại tự tái tạo như thể theo một quy luật tự nhiên bất biến nào đó. Ở mỗi giai đoạn, về cơ bản là sau tiền lệ về Hoàng đế, một nhân vật đoàn kết mới lại nổi lên chinh phục những kẻ nổi loạn và tái thống nhất Trung Quốc (và đôi khi mở rộng thêm biên giới của mình). Phần mở đầu nổi tiếng của cuốn Tam Quốc Diễn Nghĩa, một tiểu thuyết sử thi viết ở thế kỷ XIV được nhiều người Trung Quốc nâng niu (trong đó có Mao, người ta nói hồi còn trẻ ông đã si mê tác phẩm này đến mức gần như bị ám ảnh), đã viện đến truyền thuyết liên tục này: "Một đế chế bị chia rẽ lâu sẽ phải thống nhất; thống nhất lâu sẽ bị chia rẽ. Như nó đã từng trải qua". Mỗi giai đoạn bị phân chia được xem như một sự tính toán sai lầm. Mỗi triều đại mới đều quay về với những nguyên tắc cai trị của triều trước nhằm 'tái tạo sự liên tục. Những quy tắc căn bản trong văn hóa Trung Quốc đều phải chịu đựng, bị thử thách trong sự căng thẳng của tai ương mang tính định kỳ. Trước khi xảy ra sự kiện thống nhất Trung Quốc có ảnh hưởng sâu xa vào năm 221 trước Công nguyên, đã có một thiên niên kỷ cai trị của các triều đại dần dần bị tan rã khi các nhánh nhỏ của chế độ phong kiến tiến hóa thành tự trị rồi đến độc lập. Đỉnh điểm là hai thế kỷ rưỡi hỗn loạn được ghi chép trong lịch sử như thời đại Chiến Quốc (475 - 221 trước Công nguyên). Sự tương đồng ở Châu Âu sẽ là thời gian chuyển tiếp giữa Hiệp định Westphalia năm 1638 và kết thúc Thế chiến II, khi sự đa dạng các quốc gia Châu Âu đang vật lộn giành vị trí dẫn đầu trong khung cán cân quyền lực. Sau năm 221 trước Công nguyên, Trung Quốc đã duy trì sự lý tưởng của đế chế và thống nhất, tiếp theo đó trải qua sự tan vỡ, rồi tái thống nhất trong các chu kỳ đôi khi kéo dài đến vài trăm năm. Khi quốc gia tan vỡ, những cuộc chiến tranh giữa rất nhiều thành phần cấu thành diễn ra rất tàn khốc. Mao đã từng cho rằng dân số Trung Quốc bị giảm sút từ năm mươi triệu đến mười triệu người trong giai đoạn được gọi là Tam Quốc (220 - 280 sau Công nguyên), và xung đột giữa các nhóm cạnh tranh nhau giữa hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX cũng cực kỳ đẫm máu. Ở mức độ cao nhất của nó, tầm ảnh hưởng về văn hóa của Trung Quốc trải dài trên một lục địa lớn hơn nhiều so với bất kỳ quốc gia Châu Âu nào, thực ra xấp xi bằng diện tích của cả lục địa già. Ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc, văn kiện chính trị của Hoàng đế được mở rộng đến từng lãnh thổ được biết đến: Từ những vùng thảo nguyên đến những cánh rừng thông ở phương Bắc tỏa bóng mát xuống Siberia, đến những khu rừng nhiệt đới và các cánh đồng lúa bậc thang ở phương Nam, từ bờ biển phía Đông với những con kênh đào, bến cảng, các làng chài đến những sa mạc khắc nghiệt vùng Trung Á và những đỉnh núi phủ băng của biên giới Himalaya. Mức độ trải dài và sự phong phú của lãnh thổ này khẳng định cảm nhận rằng Trung Quốc bản thân nó đã là một thế giới. Nó hỗ trợ một khái niệm của Hoàng đế như một nhân vật sinh ra từ vũ trụ, trị vì cả tian xia, hoặc "Thiên Hạ". Kỷ nguyên vượt trội của Trung Quốc Qua nhiều thiên niên kỷ của nền văn minh Trung Hoa, Trung Quốc chưa bao giờ bị buộc phải đối phó với các quốc gia và nền văn minh khác ngang cơ với mình về quy mô và sự tinh tế. Như Mao sau này lưu ý, người Trung Quốc đã biết đến Ấn Độ nhưng phần nhiều là do lịch sử quốc gia đó bị phân chia thành nhiều vương quốc riêng rẽ. Hai nền văn minh đã từng trao đổi hàng hóa và tầm ảnh hưởng của Đạo Phật dọc Con Đường Tơ Lụa. Nhưng ở nơi khác sự tiếp xúc thông thường lại bị ngăn cách bằng dãy núi Himalaya và Cao nguyên Tây Tạng không thể xâm nhập. Những sa mạc nguy hiểm và rộng lớn của vùng Trung Á ngăn cách Trung Quốc với các nền văn hoá Cận Đông của Ba Tư và Babylon, với Đế chế La Mã còn xa xôi hơn nữa. Những đoàn lữ hành thương mại đã tiến hành những chuyến đi liên tục bất tận, nhưng Trung Quốc là một nhà nước không gắn bó với các nhà nước khác không cùng đẳng cấp về quy mô và thành tựu. Dù Trung Quốc và Nhật cùng chia sẻ một số những thể chế văn hóa và chính trị, nhưng không nước nào chuẩn bị thừa nhận sự ưu việt của nước kia; giải pháp của họ là giảm bớt quan hệ tiếp xúc mỗi lần hàng mấy thế kỷ. Châu Âu thậm chí còn xa xôi hơn nữa ở nơi mà người Trung Quốc xem là Đại Tây Dương, về cơ bản là không thể tiếp cận với văn hóa của người Trung Quốc và sự bất lực đáng thương không thể đến được nơi ấy - như Hoàng đế đã nói với phái đoàn Anh vào năm 1793. Những cuộc xâm chiếm lãnh thổ của Đế chế Trung Hoa tạm dừng ờ mé biển. Ngay vào đầu thời nhà Tống (960 - 1279), Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới về công nghệ hàng hải; những hạm đội Trung Quốc có thể đã đưa cả đế chế vào một kỷ nguyên chinh phục và khám phá. Nhưng Trung Quốc không chiếm được thuộc địa nào ở nước ngoài, nên cho thấy sự quan tâm tương đối ít đến các quốc gia nằm ngoài bờ biển của mình. Họ không phát triển chủ yếu hòng tiến ra nước ngoài cải đạo cho những quân phiên theo các nguyên tắc của Khổng Tử, hoặc các tính túy của Đạo Phật. Khi quân Mông Cổ xâm lược chiếm đoạt hạm đội nhà Tống và những thuyền trưởng giàu kinh nghiệm, chúng đã trang bị cho hai cuộc xâm lược không thành công vào Nhật Bản. Cả hai đều bị đẩy lùi do thời tiết khắc nghiệt - lực lượng kamikaze (hay còn gọi là "Thần Phong") của giới tri thức Nhật Bản. Dù vậy khi nhà Mông cổ sụp đổ, những cuộc khám phá cho dù khả thi về mặt ngữ nghĩa, nhưng không bao giờ thành công nữa. Không một nhà lãnh đạo Trung Quốc nào từng tuyên bố muốn kiểm soát quần đảo Nhật Bản. Nhưng vào những năm đầu nhà Minh, vào khoảng giữa năm 1405 và 1433, Trung Quốc đã triển khai một trong những sự nghiệp hải quân bí hiểm và quan trọng nhất lịch sử: Đô đốc Trịnh Hòa ra khơi với các hạm đội "bảo thuyền" vô song về mặt kỹ thuật đủ sức tới các điểm như Java, Ấn Độ, Đông Bắc Châu Phi và Eo biển Hormuz. Vào thời điểm những chuyến hải trình của Trịnh Hòa, kỷ nguyên khám phá của Châu Âu vẫn còn chưa bắt đầu. Hạm đội Trung Quốc sở hữu một thứ mà sau này sẽ là một lợi thế về công nghệ không thể bắc cầu: về kích cỡ, sự tinh tế và số lượng tàu của hạm đội, biến chiến hạm Armada của Tây Ban Nha thành những chú lùn nhỏ bé (vẫn đi sau những 150 năm). Các sử gia vẫn tranh luận về mục đích thật sự của những nhiệm vụ này. Trịnh Hòa là một nhân vật đơn nhất trong kỷ nguyên khám phá: Một thái giám người Trung Hoa theo Đạo Hồi bị cưỡng bức nhập cung hầu hạ hoàng đế từ khi còn bé, rõ ràng ông ta không thích hợp với tiền lệ lịch sử. Tại mỗi điểm dừng trên các hành trình, ông ta chính thức ca tụng sự vĩ đại, uy nghi của Hoàng đế mới của Trung Quốc, tặng những món quà hậu hĩ cho những người đứng đầu đất nước mà ông gặp gỡ, và mời họ đích thân đến hoặc cử đại diện đến Trung Quốc. Đến đó họ sẽ nhận thức được chỗ của mình trong trật tự thế giới Hoa vi trung, bằng cách thực hiện nghi thức "khấu đầu" để thừa nhận sự ưu việt của Hoàng đế. Thế nhưng ngoài việc tuyên bố sự vĩ đại của Trung Quốc và đưa ra những lời mời với những nghi thức phô trương, Trịnh Hòa không biểu lộ bất kỳ tham vọng lãnh thổ nào. Ông chỉ mang về những món quà tặng hoặc "sự tôn vinh", không xâm chiếm bất kỳ thuộc địa hay tài nguyên nào cho Trung Quốc ngoài phần thưởng suông: Mở rộng những giới hạn của Thiên Hạ. Cùng lắm chỉ có thể nói là Ông đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho thương nhân Trung Quốc bằng cách thực hành sớm phần nào "quyền lực mềm" của Trung Quốc. Những chuyến khám phá của Trịnh Hòa đột ngột ngừng lại vào năm 1433, trùng thời điểm với sự tái xuất hiện những mối đe dọa dọc biên giới đất liền phía bắc Trung Quốc. Vị Hoàng đế nối ngôi ra lệnh giải tán hạm đội. Những ghi chép về các cuộc hải trình của Trịnh Hòa cũng bị phá hủy. Các chuyến khám phá không bao giờ được lặp lại. Dù các thương nhân Trung Quốc vẫn tiếp tục chạy trên các tuyến đường mà Trịnh Hòa đã từng đi, nhưng năng lực hải quân của Trung Quốc đã phai nhòa, nó yếu đến mức các vua cầm quyền thời Minh trước mối đe dọa cướp biển ngoài bờ biển Đông Nam Trung Quốc, chỉ phản ứng bằng nỗ lực sơ tán bắt buộc dân cư ven biển vào đất liền mười dặm. Lịch sử hải quân của Trung Quốc sau đó tựa như một cái bản lề không thể đung đưa nữa: về mặt ngữ nghĩa họ vẫn có khả năng thống trị. Nhưng họ đã tự nguyện rút khỏi lĩnh vực khám phá hải quân đúng vào lúc mối quan tâm của phương Tây đang bắt đầu hình thành. Sự cô lập tuyệt đối của Trung Quốc đã nuôi dưỡng sự tự nhận thức đặc biệt của họ. Những thành phần ưu tú của Trung Quốc đã quen với khái niệm cho rằng Trung Quốc là đơn nhất - không chỉ là một "nền văn minh vĩ đại" trong số những nền văn minh khác, mà bản thân nó đã là một nền văn minh. Một nhà biên dịch người Anh đã viết vào năm 1850: Một người Châu Âu thông minh đã quen phản ánh về tình hình một số quốc gia được hưởng rất nhiều lợi thế khác nhau, và mỗi quốc gia phải chịu những bất lợi đặc thù, bằng một câu hỏi rất trực tiếp và từ một dữ liệu rất ít ỏi, có thể hình thành một khái niệm khá chính xác về tình hình của người dân đến nay vẫn còn xa lạ với anh ta. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn khi cho rằng trường hợp này đúng với người Trung Quốc. Bằng cách tước đi tất cả cơ hội tiến hành so sánh, sự bài ngoại và chỉ giới hạn mình trong chính đất nước mình của họ đã hạn chế những ý tưởng của họ; do đó họ hoàn toàn không có khả năng tự giải phóng mình khỏi lãnh địa liên kết, họ phán xét mọi thứ theo những quy định thuần túy theo thông lệ của Trung Quốc. Dĩ nhiên Trung Quốc biết các nhà nước khác xung quanh phạm vi của mình như Triều Tiên; Việt Nam; Thái Lan và Burma (nay là Myanmar) nhưng theo quan niệm của họ, Trung Quốc được xem là trung tâm thế giới, "Vương triều Trung Hoa", và các nhà nước khác được đánh giá còn thấp hơn đến mấy bậc. Như người Trung Quốc đã thấy các nước nhỏ hơn hấp thụ nền văn hóa Trung Quốc, khâm phục sự vĩ đại của Trung Quốc tạo thành trật tự tự nhiên của vũ trụ. Những ranh giới giữa Trung Quốc với các dân tộc xung quanh không nằm nhiều ở những sự phân chia ranh giới chính trị và lãnh thổ, mà nằm ở những khác biệt về văn hóa. Ánh sáng chói lọi của nền văn hóa Trung Quốc hướng ra toàn bộ vùng Đông Á khiến nhà khoa học chính trị người Mỹ Lucian Pye có câu nhận xét nổi tiếng rằng, ở thời hiện đại, Trung Quốc vẫn là một "nền văn minh giả vờ là một nhà nước - dân tộc". Những kỳ vọng ẩn dưới trật tự thế giới của người Trung Quốc truyền thống tồn tại vững vàng trong kỷ nguyên hiện đại. Như cuối năm 1863, Hoàng đế Trung Quốc (bản thân ông từng là thành viên của nhà Mãn Châu "ngoại lai" đã chinh phục Trung Quốc hai thế kỷ trước), gửi một bức thư thông báo cho Abraham Lincoln về cam kết của Trung Quốc giữ các quan hệ tốt với Hoa Kỳ. Sự truyền đạt của Hoàng đế được dựa trên bảo đảm khoa trương rằng: "Với tất cả sự tôn kính, ta được mệnh Trời ủy thác cai trị vũ trụ này, cả hai chúng ta đều xem đế chế trung tâm [Trung Quốc] và các quốc gia bên ngoài là một gia đình, không có bất kỳ sự khác biệt nào". Khi thư được gửi đi, Trung Quốc đã thua trong hai cuộc chiến với các thế lực phương Tây vẫn đang dòm ngó các phạm vi lợi ích trong lãnh thổ Trung Quốc. Hoàng đế dường như đã xem những tai ương này chẳng khác gì những cuộc xâm lược khác của bọn phiên, đến cuối cùng đều bị khuất phục trước nền văn hóa ưu việt và bền bỉ của Trung Quốc. Thực ra, trong toàn bộ lịch sử chẳng có điều gì đặc biệt hão huyền về những đòi hỏi của Trung Quốc. Với mỗi thế hệ, người Trung Quốc gốc Hán đã mở rộng từ nơi cư trú ban đầu của họ trong thung lũng sông Hoàng Hà, dần dần lôi kéo các nhà nước láng giềng vào nhiều giai đoạn gần giống với những mô hình của Trung Quốc. Các thành tựu khoa học kỹ thuật của Trung Quốc tương đương, và sau đó đã vượt những thành tựu của Tây Âu, Ấn Độ và các đối tác Ả Rập. Quy mô của Trung Quốc theo truyền thống không chỉ vượt qua quy mô các nước Châu Âu về dân số và lãnh thổ, cho đến cuộc Cách mạng Công nghiệp, Trung Quốc còn giàu có hơn nhiều. Được kết hợp với một hệ thống khổng lồ các kênh đào nối liền với các con sông và trung tâm dân số lớn, Trung Quốc nhiều thế kỷ là khu thương mại đông dân nhất, nền kinh tế có năng suất nhất thế giới. Nhưng vì phần lớn là tự cung tự cấp, nên các khu vực khác chỉ nhận thức được lơ mơ về sự khổng lồ và thịnh vượng của Trung Quốc. Thực ra, Trung Quốc đã chiếm một phần lớn hơn trong tổng GDP thế giới, hơn bất kỳ nhà nước phương Tây nào vào thế kỷ XVIII cuối thế kỷ XIX. Vào cuối năm 1820, Trung Quốc đã chiếm 30% GDP thế giới - một con số vượt quá GDP của Tây Âu, Đông Âu và bao gồm cả Mỹ. Các nhà quan sát phtrong Tây lần đầu chạm ngõ Trung Quốc đều choáng váng trước sức sống và sự giàu có về nguyên liệu của Trung Quốc. Viết vào năm 1736, Giáo sư Dòng Tên người Pháp, Jean-Baptiste Du Halde, đã tóm tắt những phản ứng kinh ngạc của các vị khách phương Tây đối với Trung Quốc: Mỗi tỉnh đều giàu có, và phương tiện chuyên chỗ hàng hóa hằng những con sông ngòi và kênh đào, khiến thương mại trong nước của đế chế này luôn phát triển rực rỡ... Thương mại trên đất liền của Trung Quốc lớn đến mức thương mại của toàn Châu Âu củng không thể sánh bằng, các tinh giống như rất nhiều vương quốc, họ mang tặng nhau các sản phẩm tương ứng của mình. Ba mươi năm sau, nhà kinh tế chính trị người Pháp, Francois Quesnay thậm chí còn đi xa hơn nữa: Không ai có thể phủ nhận rằng đây là đất nước xinh đẹp nhất thế giới, đất nước đông dân nhất và là vương quốc màu mỡ nhất được biết đến. Một đế chế như Trung Quốc tương đương với những gì cả Châu Âu sẽ đạt được nếu Châu Âu cùng đoàn kết dưới một triều đại. Trung Quốc giao thương với người nước ngoài và thỉnh thoảng áp dụng những ý tưởng, phát minh của nước ngoài. Nhưng thường xuyên hơn, người Trung Quốc tin rằng những của cải có giá trị và những thành tựu trí tuệ sẽ được tìm thấy tại Trung Quốc. Buôn bán với Trung Quốc được đánh giá cao đến mức có phần cường điệu, khi thành phần ưu tú của Trung Quốc mô tả đó không chỉ là sự giao lưu kinh tế đơn thuần, mà là sự "tôn vinh" ưu thế vượt trội của Trung Quốc. Khổng giáo Gần như tất cả các đế chế được tạo ra bằng sức mạnh, nhưng không một đế chế nào có thể được duy trì bằng sức mạnh. Thống trị cả thế giới đến cuối cùng cũng cần phải biến sức mạnh thành trách nhiệm. Nếu không năng lượng của các nhà cầm quyền sẽ bị dùng hết vào duy trì sự thống trị của mình khiến họ mất đi khả năng định hình tương lai, là một nhiệm vụ cơ bản của nghệ thuật quản lý nhà nước. Các đế chế sẽ được vững bền nếu chọn sự đồng thuận thay cho đàn áp. Với Trung Quốc là thế. Các phương pháp theo đó đất nước này được thống nhất, bị lật đổ theo chu kỳ rồi lại thống nhất, đôi khi là tàn khốc. Lịch sử Trung Quốc đã chứng kiến sự góp phần của những cuộc nổi loạn đẫm máu và những tên bạo chúa của một triều đại. Nhưng sự tồn tại thiên niên kỷ của Trung Quốc không phải nhờ các hình phạt do Hoàng đế ban phát, mà là nhờ cộng đồng các giá trị được nuôi dưỡng trong dân chúng của mình, và một chính phủ với các quan lại là học giả. Một khía cạnh ít ngoại lệ nhất của nền văn hóa Trung Hoa đó là những giá trị này có bản chất về cơ bản là trường kỳ. Vào thời điểm đạo Phật xuất hiện trong nền văn hóa Ấn Độ nhấn mạnh đến sự thiền định và thanh thản trong nội tâm, thuyết một thần được người Do Thái tán tụng - và sau này là đạo Thiên Chúa và đạo Hồi - các nhà tiên tri với lời kêu gọi sự sống sau cái chết. Trung Quốc chẳng tạo ra chủ đề tín ngưỡng nào theo ý nghĩa của phương Tây. Người Trung Quốc không bao giờ tạo ra một huyền thoại khai sinh vũ trụ. Vũ trụ của họ do chính người Trung Quốc tạo ra, với những giá trị ngay cả khi tuyên bố là có khả năng được áp dụng trên toàn vũ trụ, vẫn được xem là bắt nguồn từ Trung Quốc. Các giá trị chiếm ưu thế trong xã hội Trung Quốc phát sinh từ những quy định của một triết gia cổ xưa được thế hệ sau biết tới với cái tên Khổng Phu Tử (hoặc "Khổng Tử" theo phiên âm La Tinh). Khổng Tử (551 - 479 trước Công nguyên) sống đến cuối giai đoạn được gọi với cái tên Xuân Thu (770 - 476 trước Công nguyên), một thời điểm biến động đột ngột, dẫn đến những cuộc chiến tranh tàn khốc của giai đoạn Chiến Quốc (475 - 221 trước Công nguyên). Nhà Chu suy yếu không đủ khả năng thực thi thẩm quyền của mình đối với các vương hầu nổi loạn chém giết nhau giành quyền bính. Lòng tham và bạo lực đến mức không kiểm soát được. Thiên Hạ một lần nữa roi vào hỗn loạn. Giống như Machiavelli, Khổng Tử là người rong ruổi đi khắp đất nước, hy vọng sẽ được lưu lại làm quân sư cho một trong các vương hầu hồi đó đang đấu tranh sinh tồn. Nhưng không giống như Machiavelli, Khổng Tử quan tâm nhiều hơn đến việc nuôi dưỡng sự hài hòa xã hội hơn là những cỗ máy quyền lực. Những quan điểm của ông là các nguyên tắc cai trị bằng tình thương, khắc sâu vào tim lòng hiếu thảo với cha mẹ. Có lẽ vì đưa ra cho các ông chủ giàu có của mình một con đường quá dài đến với sự thịnh vượng và quyền lực, nên Khổng Tử chết đi mà không đạt được mục đích. Ông không bao giờ tìm được một vương hầu chịu thực hiện những châm ngôn của mình, và Trung Quốc tiếp tục trượt dài đến sự sụp đổ về chính trị và chiến tranh. Tuy nhiên những lời dạy bảo của Khổng Tử được các môn sinh của ông ghi chép lại thì vẫn còn mãi. Khi sự đổ máu kết thúc và Trung Quốc một lần nữa được thống nhất, nhà Hán (206 trước Công nguyên - 220 sau Công nguyên) đã áp dụng tư tưởng của Khổng Tử làm triết lý trị nước chính thức của đất nước. Được biên soạn thành một bộ sưu tập những câu nói của Khổng Tử (Sách Văn Tuyển) và sau đó là những cuốn sách minh giải chân lý, những lời dạy của Khổng Tử sẽ phát triển thành một thứ tương tự như Kinh Thánh của Trung Quốc và Hiến pháp cộng lại. Sự tinh thông những văn bản này trở thành thước đo trình độ trọng tâm để được tuyển vào phục vụ trong bộ máy quan lại triều đình Trung Quốc - giới tăng lữ gồm các quan lại là học giả văn học được tuyển chọn qua các cuộc thi tuyển trên toàn quốc, có nhiệm vụ duy trì sự hài hòa trong rất nhiều lĩnh vực của Hoàng đế. Câu trả lời của Khổng Tử trước những sự hỗn loạn trong kỷ nguyên của ông là "Đạo" của một xã hội công bằng và hài hòa, theo lời ông giảng nó đã từng được thực hiện trước đây - trong kỷ nguyên vàng của người Trung Quốc xa xưa. Nhiệm vụ tinh thần trọng tâm của nhân loại đó là tái tạo trật tự thích hợp này đang trên bờ vực lạc lối. Sự sung mãn về tinh thần là một nhiệm vụ không giống như khải huyền hoặc tự do, mà là sự phục hồi kiên nhẫn các nguyên tắc tự kiềm chế bị lãng quên. Nhằm mục đích sửa mình hơn là tiến bộ! ! ! Học hỏi là chìa khóa của sự thăng tiến trong xã hội của Khổng Tử. Thế nên Khổng Tử đã dạy rằng: Chuộng điều nhân mà không ham học thì mối che lấp là ngu muội. Chuộng nết trí mà không ham học thì mối che lấp là phóng đãng. Chuộng chữ tín mà không ham học thì mối che lấp là tự gây hại. Chuộng sự ngay thẳng mà không ham học thì mối che lấp là nóng nảy. Chuộng sự dũng cảm mà không ham học thì mối che lấp là gây loạn. Chuộng sự cương mãnh mà không ham học thì mối che lấp là cuồng bạo. Khổng Tử giảng về tín điều xã hội phân cấp. Bổn phận cơ bản đó là "Biết mình ở đâu". Đối với các môn sinh của mình, trật tự Nho Giáo đã gợi cảm hứng phấn đấu theo đuổi sự hài hòa lớn lao hơn. Không giống như các nhà tiên tri trong các tôn giáo một thần, Khổng Tử không giảng về thuyết mục đích của lịch sử hướng nhân loại đến sự cứu rỗi cá nhân. Triết lý của ông tìm kiếm sự cứu rỗi đất nước thông qua hành vi cá nhân đúng đắn. Được định hướng theo thế giới, tư duy của ông đã khẳng định một bộ quy tắc ứng xử xã hội, không phải là một tấm bản đồ đến cuộc sống sau khi chết. Ngự trên ngôi cao nhất của tầng lớp người Trung Quốc chính là một Hoàng đế, nhân vật độc nhất vô nhị theo trải nghiệm của phương Tây. Ông ta là sự kết hợp của những đòi hỏi về mặt tinh thần và phàm tục của trật tự xã hội. Hoàng đế Trung Hoa vừa là nhà cai trị về chính trị vừa là một khái niệm siêu hình. Trong vai trò chính trị của mình, Hoàng đế được quan niệm là người cầm quyền tối cao của nhân loại - Hoàng đế của Nhân loại, ngự trên đỉnh cao hệ thống cấp bậc của chính trị thế giới phản ánh kết cấu xã hội Khổng Tử có tôn ti, trên dưới của Trung Quốc. Người Trung Quốc một mực khẳng định quyền uy của chúa tể thông qua nghi thức khấu đầu - hành động quy phục tuyệt đối, trán đập đất ba lần mỗi lần quỳ. Vai trò thứ hai và siêu hình của Hoàng đế đó là địa vị của ông ta như một "Thiên Tử", nhân vật trung gian mang tính biểu tượng giữa Trời, Đất và nhân loại. Vai trò này cũng ngụ ý trách nhiệm về đạo đức đối với Hoàng đế. Thông qua hành vi ứng xử nhân đạo, thực hiện các nghi lễ chính xác và đôi khi là những hình phạt nghiêm khắc, Hoàng đế được nhìn nhận như một cái trục đảm bảo sự "Đại Đồng" trong mọi việc lớn nhỏ. Nếu Hoàng đế có lỡ bị trật khỏi đường lối đúng đắn, toàn thể Thiên hạ sẽ rơi vào hỗn loạn. Ngay cả những thảm họa thiên nhiên cũng có thể mang ý nghĩa sự không hòa hợp đã bao vây toàn vũ trụ. Những khái niệm về quan hệ quốc tế: Thiên vị hay công bằng? Đúng lúc không có một nhà thờ lớn nào tại Trung Quốc, nên cũng chẳng có Cung điện Blendheim nào. Các nhân vật quan trọng về chính trị có dòng dõi quý tộc như Công tước xứ Marlborough đã xây dựng Blendheim là không tồn tại. Châu Âu bước vào thời kỳ hiện đại pha trộn hỗn loạn phong phú về chính trị - những hoàng thân độc lập, công tước và bá tước, những thành phố tự quản, Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã đòi thẩm quyền nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của nhà nước. Các nhóm theo Đạo Tin Lành thèm muốn được xây dựng các xã hội dân sự tự quản của riêng họ. Ngược lại, khi bước vào thời kỳ hiện đại, Trung Quốc đã trải qua rất tốt một nghìn năm bộ máy quan lại triều đình đầy đủ ban bệ được tuyển chọn qua kỳ thi tuyển, lan tỏa và quy định hầu hết các khía cạnh xã hội và kinh tế. Cách tiếp cận của Trung Quốc với trật tự thế giới do đó khác rất nhiều so với hệ thống được duy trì ở phương Tây. Khái niệm phương Tây hiện đại về các quan hệ quốc tế nổi lên trong các thế kỷ XVI và XIX, khi cơ cấu thời Trung cổ ở Châu Âu bị tan rã thành một nhóm các nhà nước có sức mạnh gần tương đương, Giáo hội Thiên Chúa giáo bị chia rẽ thành nhiều giáo phái khác nhau. Thuật ngoại giao theo cán cân quyền lực trở thành một điều không thể tránh khỏi hơn là một lựa chọn. Không có nước nào đủ mạnh để áp đặt ý chí của mình, không một tôn giáo nào còn đầy đủ quyền hành để duy trì tính toàn thể của nó. Khái niệm về sự toàn vẹn và công bằng về pháp lý của các nước trở nên một cơ sở cho luật pháp và ngoại giao quốc tế. Ngược lại, Trung Quốc không bao giờ tham gia tiếp xúc lâu dài với một nước nào khác trên cơ sở tương đương, với lý do đơn giản là không bao giờ chạm trán các nhà nước có nền văn hóa hoặc tầm rộng lớn có khả năng so sánh. Rằng Đế chế Trung Hoa phải đứng cao hơn quả cầu địa lý rõ ràng được xem như một quy luật tự nhiên, một biểu hiện của Thiên Tử. Đối với các Hoàng đế Trung Hoa, mệnh trời không nhất thiết ngụ ý một mối quan hệ thù địch với các dân tộc láng giềng, tốt nhất là không có. Giống như Mỹ, Trung Quốc tự nghĩ mình đang đóng một vai trò đặc biệt. Nhưng Trung Quốc không tán thành quan điểm của Mỹ về thuyết phổ biến trải rộng những giá trị của mình ra toàn thế giới. Trung Quốc tự khép mình kiểm soát các phiên ngay ngoài cửa. Họ cố gắng sao cho các nước chư hầu như Triều Tiên phải thừa nhận tình hình đặc biệt của Trung Quốc, đổi lại, họ cung cấp các mối lợi ích như quyền hạn buôn bán. Đối với những phiên ở xa như Châu Âu mà họ chi biết một ít, người Trung Quốc duy trì một thái độ xa cách thân thiện, kể cả là trịch thượng. Họ chẳng buồn quan tâm đến việc hướng các phiên tuân theo phong cách của Trung Quốc. Hoàng đế sáng lập nhà Minh đã bày tỏ quan điểm này năm 1372: "Các quốc gia trên đại dương phía tây được gọi chính xác là những khu vực xa xôi. Họ đến [với chúng tôi] phải băng qua biển. Rất khó khăn cho họ khi tính toán thời gian năm tháng [đến nơi]. Không quan tâm đến số lượng, chúng ta đối xử với họ [trên nguyên tắc] "những ai đến với sự khiêm tốn khi về sẽ được tặng quà cáp hào phóng". Các Hoàng đế Trung Hoa cảm thấy phi thực tế khi suy ngẫm về những quốc gia có ảnh hưởng vốn đã không gặp may khi nằm cách Trung Quốc quá xa như thế. Trong phiên bản chủ nghĩa khác biệt của mình, Trung Quốc không đưa ra ý kiến mà để các nước khác đến hỏi họ. Người Trung Quốc tín rằng, những dân tộc láng giềng được hưởng lợi từ quan hệ với Trung Quốc và nền văn minh, miễn là họ nhận thức được quyền bá chủ của chính phủ Trung Hoa. Họ không phải là phiên. Sự quỵ lụy trước Hoàng đế và tuân thủ những nghi thức của triều đình là cốt lõi của nền văn hóa! Khi triều đình còn mạnh mẽ, phạm vi văn hóa này được mở rộng. Thiên hạ là một thực thể đa quốc gia bao gồm đa số là người Trung Quốc gốc Hán và các nhóm dân Trung Quốc không phải gốc Hán đông đảo. Trong các ghi chép chính thức của Trung Quốc, các đại diện nước ngoài không đến triều đình nhằm tham gia các cuộc đàm phán hoặc tham gia vào những vấn đề của đất nước, họ "đến để bị biến đổi" theo sự ảnh hưởng văn minh của Hoàng đế. Hoàng đế không tổ chức "các cuộc họp cấp cao" với những người đứng đầu đất nước khác, mà thay vào đó, những cuộc tiếp kiến với ông ta đã cho thấy "tình yêu thương tinh tế của những người phương xa", những người đã bày tỏ lòng tôn kính thừa nhận cương vị chúa tể của ông ta. Khi triều đình Trung Hoa hạ cố cử các phái đoàn ra nước ngoài, họ không phải là những nhà ngoại giao mà là "Phái đoàn của Trời" được "Triều đình của Trời" gửi đến. Sự tổ chức của chính quyền Trung Quốc phản ánh cách tiếp cận phân cấp đối với trật tự thế giới. Trung Quốc đã giải quyết các mối quan hệ với những nước bày tỏ lòng tôn kính như Triều Tiên; Thái Lan... thông qua Bộ Lễ, với quan niệm rằng ngoại giao với các dân tộc này chẳng khác gì một khía cạnh trong nhiệm vụ trừu tượng lớn lao hơn là quản lý Đại Đồng. Với các bộ lạc sống trên núi ngày càng ít bị Hán hóa về phía Bắc và phía Tây, Trung Quốc đến giai đoạn dựa vào một "Triều đình các Quốc gia lệ thuộc", tương tự như một bộ thuộc địa có nhiệm vụ ban cho hoàng tử các nước chư hầu những tước hiệu và duy trì hòa bình trên biên giới. Chỉ dưới sức ép những sự tấn công của phương Tây trong thế kỷ XIX, Trung Quốc mới thành lập một bộ tương tự Bộ Ngoại giao nhằm quản lý ngoại giao như một chức năng độc lập của triều đình, vào năm 1861 sau khi thất bại trong hai cuộc chiến tranh với các thế lực phương Tây. Đây chi được xem như một sự cần thiết tạm thời, sẽ bị hủy bỏ một khi khủng hoảng trước mắt lắng dịu. Bộ mới thành lập được thận trọng bố trí trong một tòa nhà cũ kỹ, xoàng xĩnh mà trước đây Bộ Thiết Tiền Đường sử dụng, nhằm truyền tải "ý nghĩa ẩn giấu mà không hề có giá trị tương đương với ý nghĩa của các bộ truyền thống trong triều đình, qua đó bảo toàn sự khác biệt giữa Trung Quốc với nước ngoài", theo lời của người đứng đầu nhà Thanh, Hoàng đế Đạo Quang. Những ý tưởng theo phong cách Châu Âu của hoạt động chính trị và ngoại giao liên nhà nước vẫn còn xa lạ trong trải nghiệm của người Trung Hoa, đúng hơn là họ đã tồn tại theo kiểu phản truyền thống đang diễn ra ngay trong lòng Trung Quốc vào thời điểm bị chia rẽ. Thế nhưng như một luật bất thành văn, sự chia rẽ này lại kết thúc với sự tái thống nhất Thiên hạ, và tái khẳng định tính trung tâm của Trung Hoa bằng một triều đại mới. Trong vai trò đế chế của mình, Trung Quốc mang lại cho những dân tộc nước ngoài xung quanh sự thiên vị, không phải sự công bằng, họ sẽ đối xử với các dân tộc này công bằng hay thương hại tùy theo mức độ tiếp thu nền văn hóa Trung Hoa, và việc tuân thủ các nghi thức bao hàm sự quy phục Trung Quốc. Điều đáng kể nhất đối với cách tiếp cận của Trung Hoa đối với các vấn đề quốc tế đó là sự nhạy bén và lâu dài có tính chiến lược ẩn giấu, hơn là những kỳ vọng chính thức to lớn. Trong suốt lịch sử Trung Hoa, bao nhiêu dân tộc "kém cỏi" hơn dọc theo các đường biên giới dài, không ngừng biến đổi của Trung Quốc, thường xuyên được trang bị vũ khí tốt hơn và cơ động hơn quân đội Trung Hoa.về phía Bắc và phía Tây Trung Quốc là các dân tộc bán du cư - người Mãn Châu, Mông cổ, Duy Ngô Nhĩ, Tây Tạng và cuối cùng là Đế quốc Nga theo chủ nghĩa bành trướng - với đội kỵ binh sống trên núi có thể mở các cuộc tấn công băng qua các biên giới mở rộng của họ xuống vùng trung tâm nông nghiệp của Trung Quốc, mà không chịu thiệt hại quá lớn. Những cuộc viễn chinh báo thù phải đối mặt với địa hình không bằng phẳng và các đường cung cấp được mở rộng, về phía Đông Nam Trung Quốc là các dân tộc cho dù trên danh nghĩa phụ thuộc vào thuyết vũ trụ học của Trung Hoa, nhưng lại sở hữu các truyền thống quân sự và những bản sắc dân tộc đáng kể. Dân tộc ngoan cường nhất trong số này, người Việt Nam đã quyết liệt chống lại những khẳng định của Trung Quốc về sự ưu việt của mình, và có thể cho rằng họ đã đánh bại Trung Quốc trong chiến tranh. Trung Quốc đang không ở trong vị thế chinh phục được tất cả các nước láng giềng. Dân số nước này chủ yếu bao gồm nông dân gắn trọn đời mình với các mảnh đất ông cha để lại. Thành phần tinh tú quan lại của họ giành được các vị trí không phải nhờ những hành động dũng cảm trong quân sự mà bằng sự thông thạo các tác phẩm kinh điển của Khổng Tử, các môn nghệ thuật tinh tế như thư pháp và thơ phú về phương diện cá nhân, các dân tộc láng giềng có thể gây ra các mối đe dọa ghê gớm, ở bất kỳ mức độ thống nhất nào, họ cũng có thể lấn át. Sử gia Owen Lattimore đã viết: "Do đó sự xâm lược của dân tộc phiên lơ lửng trên đầu Trung Quốc như một mối đe dọa lâu dài... Bất kỳ dân tộc phiên nào có thể bảo vệ mặt sau của Trung Quốc, tấn công vào sườn các dân tộc phiên khác, cũng có thể đủ tự tin xâm lược Trung Quốc". Tính trung tâm và sự phong phú về vật chất được tán dương của Trung Quốc có thể tự nó phản chủ, biến thành một lời mời xâm lược từ mọi phía. Vạn Lý Trường Thành rất nổi bật trong sự mô tả bằng hình tượng của phương Tây về Trung Quốc, là sự phản ánh tính dễ tổn thương cơ bản của Trung Quốc, cho dù đó là một giải pháp thành công hiếm hoi đối với họ. Thay vào đó, những người đứng đầu Trung Hoa lại dựa vào một sự bố trí phong phú các công cụ kinh tế, ngoại giao lôi kéo các nước ngoại bang thù địch tiềm năng vào các mối quan hệ mà Trung Quốc có thể quản lý được. Khát vọng lớn nhất là ngăn cản sự xâm lược và ngăn ngừa sự hình thành các liên minh phiên, hơn là chinh phục (cho dù Trung Quốc thi thoảng chuẩn bị những chiếm dịch quân sự quan trọng). Cho dù có các động cơ thương mại và sử dụng thành thục sân khấu chính trị, Trung Quốc vẫn dỗ ngọt các dân tộc láng giềng tuân thủ các quy phạm về tính trung tâm của Trung Hoa, trong khi vẫn đưa ra một hình ảnh huy hoàng tráng lệ nhằm ngăn chặn những kẻ xâm lược tiềm năng muốn thử thách sức mạnh của Trung Quốc. Mục đích của Trung Quốc không phải là chinh phục và khuất phục các phiên, mà là "cai trị [họ] với dây cương buông lỏng". Đối với những nước không tuân thủ, Trung Quốc sẽ khai thác những sự bất đồng giữa họ, nổi tiếng với trò "dùng phiên kiềm chế phiên", và khi cần thiết, "dùng phiên tấn công phiên". Như một viên quan nhà Minh từng viết về các bộ tộc có nhiều khả năng đe dọa lên biên giới Đông Nam Trung Quốc. Nếu trong nội bộ các bộ tộc bị chia rẽ, họ [sẽ vẫn] yếu ớt và [sẽ thật] dễ dàng kiềm chế họ trong sự khuất phục. Nếu các bộ tộc bị chia rẽ, họ sẽ xa lánh nhau và sẵn sàng chịu tuân phục. Chúng ta thiên vị bộ tộc này hơn bộ tộc kia [những người thủ lĩnh của họ] và cho phép họ chiến đấu với nhau. Đây là một nguyên tắc của hành động chính trị được khẳng định. "Những cuộc chiến giữa các dân tộc phiên cho thấy dấu hiệu thắng lợi trong tương lai đối với Trung Quốc". Mục đích của hệ thống này là phòng thủ hiệu quả nhằm ngăn chặn sự hình thành những liên minh trên các biên giới Trung Quốc. Các nguyên tắc quản lý phiên ngày càng khắc sâu trong suy nghĩ của quan lại Trung Hoa, khi các "dân tộc phiên" Châu Âu đã đến bờ biển Trung Quốc với sức mạnh vào thế kỷ XIX. Các quan lại Trung Hoa mô tả thách thức của họ cũng với những cụm từ mà tổ tiên họ ở các triều hước đã dùng, họ sẽ "dùng phiên chống phiên" cho đến khi có thể xoa dịu. Và họ đã áp dụng một chiến lược truyền thống để đáp lại cuộc tấn công đầu tiên của Anh. Họ mời các quốc gia Châu Âu khác đến, ban đầu nhằm mục đích tái tạo và sau đó điều khiển lực lượng kỵ binh của riêng mình. Trong việc theo đuổi các mục đích này, triều đình Trung Hoa đã thực dụng đáng kể đối với các phương tiện họ sử dụng. Người Trung Hoa hối lộ các phiên, hoặc sử dụng tính vượt trội về dân số của mình nhằm áp đảo họ, khi bị đánh bại, phiên sẽ quy phục họ như sự bắt đầu của các triều đại Nguyên và Thanh, sự mở đầu để Hán hóa họ. Triều đình Trung Quốc đều đặn thực hiện một chính sách mà trong các bối cảnh khác sẽ được xem là chính sách xoa dịu. Mặc dù thông qua một sự gạn lọc nghi thức phức tạp cho phép các thành phần ưu tú Trung Hoa tuyên bố đó là sự khẳng định tính ưu việt về lòng nhân từ. Do đó một viên quan Thượng Thư đầu tiên đã mô tả "năm mồi nhử" sẽ được đề xuất nhằm quản lý các bộ tộc Hung Nô xâm chiếm biên giới Đông Nam của Trung Quốc. Ban cho họ... quần áo sặc sỡ và xe ngựa để làm mắt họ mù, ban cho họ đồ ăn ngon để làm miệng họ câm, ban cho họ âm nhạc và phụ nữ đẹp để làm tai họ điếc, cung cấp cho họ những tòa nhà uy nghi, các kho thóc và nô lệ làm dạ dày họ no nê... Và đối với những ai đến xin hàng, Hoàng đế [nên] ban ơn cho họ và mời họ dự tiệc tiếp đãi của triều đình, tại đó Hoàng đế phải đích thần mời họ rượu ngon, đồ ăn hấp dẫn để làm tâm trí họ lú lẫn. Đây là những gì có thể được gọi là "năm mồi nhử". Trong những giai đoạn mạnh mẽ, ngoại giao của Vương triều Trung Hoa là một sự hợp lý hóa lý tưởng đối với quyền lực triều đình. Trong nhúng giai đoạn suy tàn, nó được sử dụng để che giấu sự yếu đuối giúp Trung Quốc vận dụng được các lực lượng chiến đấu của mình. So sánh với các đối thủ gần đây hơn về quyền lực, Trung Quốc là một đế chế đáng hài lòng với tham vọng lãnh thổ có giới hạn. Một học giả trong thời nhà Hán (25 - 220 sau Công nguyên) đã nêu: "Hoàng đế không quản lý các phiên. Những ai đến với người sẽ không bị từ chối, và những ai bỏ đi sẽ không bị đuổi theo". Mục đích mặt ngoài là gây chia rẽ, tranh cãi hơn là một mục tiêu trực tiếp nằm dưới quyền kiểm soát của Trung Quốc. Biểu hiện đáng kể nhất của tính thực dụng cơ bản của Trung Quốc là phản ứng của họ đối với những kẻ chinh phục. Khi các vương triều nước ngoài chiếm ưu thế trong chiến đấu, giới ưu tú trong bộ máy quan lại Trung Hoa sẽ đề nghị được phục vụ, khẩn khoản xin những kẻ chinh phục với tiền đề rằng, mảnh đất rộng lớn và độc đáo họ vừa lật đổ, chỉ có thể được cai trị tốt khi sử dụng các phương pháp, ngôn ngữ và bộ máy quan lại Trung Quốc hiện có. Với mỗi thế hệ, những kẻ chinh phục sẽ thấy chính mình ngày càng bị đồng hóa vào trật tự họ đã cố gắng thống trị. Cuối cùng lãnh thổ quê nhà của chính họ - các điểm xuất phát cho sự xâm lược của họ - sẽ đến mức được xem là một phần của chính Trung Quốc. Họ sẽ thấy chính mình đang theo đuổi những lợi ích quốc gia của Trung Quốc, với kế hoạch chinh phục đã bị thay đổi hoàn toàn một cách hiệu quả. Chính sách thực dụng của người Trung Quốc và Binh pháp Tôn Tử Người Trung Quốc đã là những người đang thực hành một cách sắc sảo Chính sách thực dụng và các môn sinh của học thuyết chiến lược rõ ràng khác với chiến lược, chính sách ngoại giao được ưa chuộng ở phương Tây. Một lịch sử hỗn loạn đã dạy cho các nhà lãnh đạo Trung Hoa rằng không phải mọi vấn đề đều có giải pháp, rằng nhấn mạnh quá nhiều đến sự thuần thục hoàn toàn đối với những sự kiện cụ thể có thể lật đổ sự hài hòa của vũ trụ. Cũng có quá nhiều kẻ thù tiềm năng đối với một đế chế đã từng sống trong an toàn tuyệt đối. Nếu số phận của Trung Quốc là tương đối an toàn, nó cũng có nghĩa là sự mất an toàn tương đối - sự cần thiết phải học hỏi quy tắc của hơn một chục nước láng giềng, với những lịch sử và khát vọng khác biệt đáng kể. Hiếm hoi, các nhà cầm quyền Trung Hoa mới mạo hiểm thực hiện một cuộc xung đột trên một trận đụng độ được ăn cả ngã về không, triển khai khéo léo, tỉ mỉ những cuộc điều động trong nhiều năm theo như phong cách của họ. Trong khi truyền thống phương Tây đánh giá cao sự đụng độ quyết định của các lực lượng nhằm nhấn mạnh những chiến thắng của chủ nghĩa anh hùng, thì lý tưởng của người Trung Hoa lại nhấn mạnh đến sự kết hợp tinh tế, gián tiếp và kiên nhẫn của lợi thế tương đối. Sự tương phản này được phản ánh ương các trò chơi trí tuệ tương ứng được từng nền văn minh ưa thích. Trò chơi tồn tại lâu nhất theo thời gian của Trung Quốc là wei qi (phát âm đơn giản là "way chee", và thường được biết đến ở phương Tây như một biến thể của cái tên tiếng Nhật tương ứng, go). Wei qi dịch ra là "cờ vây"; thể hiện một khái niệm bao vây chiến lược. Bàn cờ là một tấm lưới có kích cỡ 19 X 19, ban đầu thì trống rỗng. Mỗi người chơi có 180 quân, hoặc các viên đá tùy ý sử dụng, mỗi quân đều có giá trị tương đương nhau. Những người chơi lần lượt đặt quân lên bất kỳ điểm nào trên bàn cờ, xây dựng các vị trí sức mạnh trong khi cố gắng bao vây và bắt sống quân đối phương. Rất nhiều cuộc chiến đã diễn ra đồng thời tại các khu vực khác nhau của bàn cờ. Cán cân các lực lượng thay đổi chóng mặt sau mỗi bước đi, khi những người chơi tiến hành các kế hoạch chiến lược và phản ứng với các sáng kiến của nhau. Khi chấm dứt trò chơi trí tuệ này, bàn cờ chứa đầy các khu vực sức mạnh bị chiếm một phần. Điểm biên lợi thế thường rất mỏng manh, và với con mắt nghiệp dư, bản sắc người chiến thắng không phải lúc nào cũng thấy rõ ngay. Mặt khác, cờ tướng là chiến thắng tuyệt đối. Mục đích của trò chơi là chiếu tướng, dồn vua của đối thủ vào một vị trí không thể di chuyển nếu không bị phá hủy. Rất nhiều ván kết thúc khi đạt được một chiến thắng tuyệt đối bằng chiến thuật đầy kỹ năng, kịch tính và hiếm hoi hơn. Kết quả khả dĩ duy nhất khác là hòa, nghĩa là cả hai bên cùng từ bỏ hy vọng đạt được chiến thắng. Nếu cờ tướng là một trận chiến quyết định, thì cờ vây là chiến lược mở rộng. Người chơi cờ tướng chỉ nhằm mục đích chiến thắng tuyệt đối. Người chơi cờ vây lại tìm kiếm lợi thế tương đối. Trong cờ tướng, người chơi luôn nhìn thấy khả năng của đối phương trước mắt mình, tất cả các quân cờ luôn được triển khai đầy đủ. Người chơi cờ vây luôn cần phải đánh giá không chỉ các quân trên bàn cờ, mà cả những sự củng cố mà đối phương sắp triển khai. Cờ tướng dạy các khái niệm của Clause Witz về "trung tâm trọng lực" và "điểm chiến lược" - trò chơi thường bắt đầu như một cuộc chiến giành giật trung tâm bàn cờ. Cờ vây dạy nghệ thuật bao vây chiến lược. Nếu người chơi cờ tướng có kỹ năng nhằm mục đích loại bỏ các quân cờ của đối thủ trong một loạt những cuộc đụng độ mặt đối mặt, thì một người chơi cờ vây tài năng di chuyển vào các không gian "trống" trên bàn cờ, dần dần giảm nhẹ tiềm năng chiến lược của các quân cờ của đối thủ. Cờ tướng giúp phát triển sự tập trung, cờ vây giúp phát triển sự linh hoạt chiến lược. Một sự tương phản tương tự tồn tại trong trường hợp lý thuyết quân sự đặc biệt của Trung Quốc. Những cơ sở của họ được đặt trong một giai đoạn hỗn loạn khi những cuộc chiến liên tục giữa các vương quốc kình địch giết hại vô số người dân Trung Quốc. Phản ứng với cuộc thảm sát này (và cố gắng giành lấy chiến thắng từ đó), các nhà tư duy Trung Hoa đã phát triển tư duy chiến lược lấy chiến thắng làm trọng thông qua lợi thế về tinh thần và thuyết giảng, nhằm tránh xung đột trực tiếp. Nhân vật có ảnh hưởng mạnh trong truyền thống này được biết đến trong lịch sử Trung Quốc là Tôn Tử (hoặc "Sư phụ Tôn"), tác giả chuyên luận danh tiếng, Binh Pháp. Thật ngạc nhiên, chẳng ai hoàn toàn chắc chắn ông là ai. Kể từ những thời điểm xa xưa, các học giả đã tranh luận về danh tính của tác giả Binh Pháp và ngày nó được viết ra. Cuốn sách tự cho thấy là một tuyển tập những câu nói của một người là Tôn Vũ, một vị tướng và là nhà cố vấn quân sự nay đây mai đó từ thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc (770 - 476 trước Công nguyên), như được các môn sinh của ông ghi chép lại. Một số học giả Trung Quốc và phương Tây đã thắc mắc liệu Tôn Tử có tồn tại hay không, nếu có, liệu ông có thật sự chịu trách nhiệm về các nội dung của Binh Pháp hay không. Đã hơn hai nghìn năm sau khi sáng tác, cuốn sách là những quan sát dí dỏm về chiến lược, ngoại giao và chiến tranh - được viết bằng tiếng Trung cổ, nửa là thơ nửa là văn xuôi - vẫn đóng vai trò là một văn bản trung tâm về tư duy quân sự. Những câu cách ngôn trong đó được thể hiện mạnh mẽ trong cuộc nội chiến của Trung Quốc trong thế kỷ XX trong tay học trò của Tôn Tử là Mao Trạch Đông. Trong các cuộc chiến tranh Việt Nam khi Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp áp dụng các nguyên tắc tấn công gián tiếp và chiến tranh tâm lý của Tôn Tử chống lại Pháp và Mỹ. (Tôn Tử cũng đạt được một sự nghiệp thứ hai tàm tạm tại phương Tây, với những ấn bản đặc biệt của Binh Pháp một lần nữa vinh danh ông là quân sư quản trị kinh doanh hiện đại). Ngay cả đến bây giờ văn bản của Tôn Tử được nghiên cứu một cách trực tiếp và sâu sắc, đặt ông nằm trong tầng lớp các nhà tư duy chiến lược danh tiếng nhất thế giới. Người ta có thể tranh cãi rằng sự thiếu quan tâm đến những câu châm ngôn của ông chính là nguyên nhân khiến Mỹ tức giận trước các cuộc chiến của Châu Á. Điều phân biệt Tôn Tử với các nhà văn phương Tây khác viết về chiến lược đó là sự nhấn mạnh các yếu tố chính trị và tinh thần so với quân sự đơn thuần. Các nhà lý thuyết quân sự Châu Âu vĩ đại Carl Von Clausewitz và Antoine Henri Jomini xem chiến lược như một hoạt động với lý lẽ của riêng mình, tách biệt khỏi hoạt động chính trị. Ngay cả châm ngôn nổi tiếng của Clausewitz cho rằng chiến tranh là Sự tiếp tục của hoạt động chính trị, theo các nghĩa khác thể hiện rằng với chiến tranh những nhà cầm quyền sẽ bước vào một giai đoạn mới mẻ và khác biệt. Tôn Tử pha trộn cả hai lĩnh vực này. Nếu các nhà chiến lược phương Tây phản ánh về các phương tiện tập hợp quyền lực vượt trội vào thời điểm quyết định, Tôn Tử vận dụng các phương tiện xây dựng một vị thế chính trị và tinh thần chiếm ưu thế, như vậy kết quả của một cuộc xung đột trở thành một kết luận tất yếu. Các nhà chiến lược phương Tây thử nghiệm những câu châm ngôn của mình bằng các chiến thắng trong những trận chiến, Tôn Tử kiểm nghiệm các chiến thắng khi những trận chiến trở nên không cần thiết. Bài viết của Tôn Tử về chiến tranh không có tính chất được đề cao như của một số tác phẩm văn học Châu Âu về nội dung, cũng như không phải lý tưởng đối với chủ nghĩa anh hùng cá nhân. Tuy nhiên tính chất u ám của nó được phản ánh trong đoạn mở đầu kỳ lạ của Binh Pháp. Chiến tranh là vấn đề hệ trọng của một đất nước; Đó là nơi chốn sinh tử Một con đường Đến sự sinh tồn và hủy diệt, Một vấn đề phải cân nhắc thận trọng Và do những hậu quả của chiến tranh đều dẫn tới nấm mồ, sự thận trọng là một giá trị được quý trọng nhất: Một nhà vua không bao giờ vì giận dữ mà dấy binh; Một vị tướng không bao giờ vì oán hờn mà gây chiến... Đã giận có thể mừng trở lại; Đã hờn có thể vui trở lại; Nhưng nước mất rồi thì khó lấy lại; Người chết rồi thì không thể sống lại. Cho nên vua sáng phải cẩn thận về việc ấy; Tướng tài phải cảnh giác về việc ấy; Đó là phép yêu nước, Giữ binh được vẹn toàn. Một nhà vua nên thận trọng về điều gì? Đối với Tôn Tử, chiến thắng không chỉ đơn giản là vinh quang của các lực lượng vũ trang. Thực ra đó là thành tựu của các mục tiêu chính trị tối cao mà đụng độ quân sự chỉ là phương pháp để đảm bảo. Thách thức quân thù trên chiến trường không hay bằng làm nhụt nhuệ khí quân thù và khéo léo điều khiển chúng rơi vào bẫy của mình, không còn đường thoát. Vì chiến tranh là một công việc liều lĩnh và phức tạp, tự biết mình là điều tối quan trọng. Chiến lược tự nó sẽ biến thành một cuộc thử thách về tinh thần. Thế nên bách chiến bách thắng cũng chưa phải cách sáng suốt trong sự sáng suốt Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt Cho nên thượng sách trong việc dùng binh Là lấy mưu lược để thắng địch; Kế đó là thắng địch bằng ngoại giao. Kế nữa là dùng binh thắng địch. Hạ sách là tấn công thành trì... Cho nên người giỏi dụng binh Thắng địch mà không phải giao chiến; Đoạt thành mà không cần tấn công; Phá quốc mà không cần đánh lâu; Lý tưởng nhất là người làm tướng đoạt được ưu thế mà tránh được cả cuộc chiến. Hoặc giả có thể huy động quân đánh một trận quyết định sau khi đã chuẩn bị đủ về mặt phân tích toàn diện, hậu cần, ngoại giao và tâm lý. Thế nên Tôn Tử khuyên rằng: Vì vậy đội quân chiến thắng Bao giờ cũng tạo điều kiện để thắng Sau mới giao tranh; Đội quân chiến bại Thường giao tranh trước Sau mới tìm chiến thắng bằng sự cầu may Vì thắng địch bằng mưu lược và ngoại giao đòi hỏi tốn nhiều tâm lý và sự am hiểu sáng suốt, nên Tôn Tử nhấn mạnh đặc biệt về việc vận dụng gian trá và đánh lạc hướng. "Khi có thể", ông khuyên. Thông thường nếu có thể tấn công Thì giả như không thể tấn công; Muốn hành động ở gần nhưng Giả như muốn hành động ở xa; Muốn hành động ở xa nhưng Giả như muốn hành động ở gần Theo quan niệm của Tôn Tử, đối với người làm tướng giành chiến thắng bằng dối trá hoặc lôi kéo, vận động thì nhân văn hơn (và chắc chắn là kinh tế hơn) việc giành chiến thắng bằng sức mạnh vượt trội. Binh Pháp khuyên người làm tướng phải dụ địch theo ý mình, hoặc ép địch lâm vào thế buộc phải hàng, hoặc bảo đảm không gây tổn hại cho đất nước. Có lẽ sự sáng suốt quan trọng nhất của Tôn Tử đó là trong giao tranh về quân sự hoặc chiến lược, mọi thứ đều liên quan và kết nối với nhau; thời tiết, địa hình, ngoại giao, các báo cáo của gián điệp và gián điệp hai mang, các nguồn cung cấp và hậu cần, cán cân lực lượng, am hiểu về lịch sử, những điều mơ hồ gây ngạc nhiên và nhuệ khí địch. Từng yếu tố đều ảnh hưởng đến nhau, làm phát sinh những biến chuyển tinh tế trong động lực và lợi thế tương đối. Không có sự kiện nào là đơn độc. Do đó nhiệm vụ của một nhà chiến lược là quyết định mối quan hệ của tình huống với bối cảnh phát sinh tình huống đó, hơn là phân tích một tình huống cụ thể. Không có chòm sao đặc biệt nào là tĩnh, bất kỳ khuôn mẫu nào cũng chỉ là tạm thời, điều cốt lõi là luôn luôn thay đổi. Nhà chiến lược phải nắm bắt được hướng phát triển đó và giữ nó đến tận cùng. Tôn Tử đã dùng chữ "shi" cho phẩm chất này, một khái niệm không có từ tương đương ở phương Tây. Trong bối cảnh quân sự, chữ shi này bao hàm xu hướng chiến lược và "năng lượng tiềm năng" của một tình huống đang phát triển, "sức mạnh vốn có trong sự bố trí đặc biệt các yếu tố và... xu hướng phát triển của tình huống đó". Trong Binh Pháp, từ này bao hàm cơ cấu không ngừng thay đổi của quân đội cũng như xu hướng dụng quân chung. Đối với Tôn Tử, nhà chiến lược vận dụng thành công chữ shi này sẽ tương tự như nước chảy xuống chân núi, tự động tìm được một quy trình nhanh nhất và đơn giản nhất. Một vị tướng thành công luôn chờ đợi trước khi lao mình vào trận chiến. Anh ta biết tránh sức mạnh của địch, biết dành thời gian tuân thủ và tạo ra những thay đổi trong bối cảnh chiến lược. Anh ta nghiên cứu những sự chuẩn bị của địch, nhuệ khí và tài nguyên của quân mình rồi xác định một cách thận trọng, lợi dụng những chỗ yếu trong tâm lý của địch - cho đến khi cuối cùng nhận thức được khoảnh khắc thích hợp tấn công địch vào chỗ yếu nhất. Sau đó anh ta triển khai các lực lượng của mình nhanh chóng và bất ngờ, tràn xuống theo con đường gặp ít kháng cự nhất, với sự khẳng định ưu thế chuẩn bị và tính toán thời gian thận trọng. Binh Pháp nêu rõ một học thuyết về giành ưu thế vượt trội về tâm lý hơn là xâm chiếm lãnh thổ, đó là cách Việt Nam đã đánh bại Đế quốc Mỹ. Nói chung, các nhà cầm quyền Trung Hoa cho thấy một xu hướng xem toàn bộ bối cảnh chiến lược như là một tổng thể đơn lẻ: Tốt và xấu, gần và xa, mạnh và yếu, quá khứ và tương lai quan hệ chặt chẽ với nhau. Trái ngược với cách tiếp cận của phương Tây với lịch sử, đó là xem lịch sử như một quá trình có tính hiện đại nhằm đạt được một loạt các chiến thắng tuyệt đối trước cái xấu và cái lạc hậu. Quan điểm Trung Hoa truyền thống về lịch sử nhấn mạnh một quy trình suy tàn và phục hồi theo chu kỳ, trong đó thiên nhiên và thế giới có thể hiểu được nhưng không thể khống chế hoàn toàn. Điều tốt nhất có thể làm đó là ngày càng hài hòa với chúng. Chiến lược và nghệ thuật lãnh đạo đất nước trở thành các phương tiện "cùng tồn tại cùng chiến đấu" với các kẻ thù. Mục đích là dụ kẻ thù đi đến chỗ suy yếu trong khi xây dựng shi, hoặc vị thế chiến lược của riêng mình. Tuy nhiên, cách tiếp cận theo kiểu "dụ địch" này là lý tưởng và không phải lúc nào cũng thực tế. Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, người Trung Hoa đã hải qua các cuộc xung đột "vụng về" và khốc liệt cả trong nước và đôi khi ở nước ngoài. Một khi xảy ra các xung đột như trong thời gian thống nhất Trung Quốc đời Thanh, những trận đụng độ trong thời kỳ Tam Quốc, cuộc đàn áp Thái Bình Thiên Quốc và cuộc nội chiến trong thế kỷ XX, Trung Quốc phải hứng chịu tổn thất to lớn về sinh mạng có thể sánh ngang với những cuộc chiến tranh thế giới của Châu Âu. Các xung đột đẫm máu diễn ra như là một hệ quả của sự sụp đổ trong hệ thống chính trị Trung Quốc từ bên trong - nói cách khác, là một khía cạnh trong những sự điều chỉnh nội bộ một đất nước, theo đó sự ổn định ở trong nước và bảo vệ phòng, chống sự xâm lăng của thế lực bên ngoài đang lớn dần được quan tâm ngang nhau. Đối với những nhà hiền triết cổ đại Trung Hoa, không bao giờ có thể chinh phục được thế giới, những nhà cầm quyền thông minh chỉ có thể tìm cách hòa hợp với những xu hướng của thế giới. Chẳng tìm đâu ra một Tân Thế Giới để mà sống, chẳng có sự cứu rỗi nào đang chờ đón nhân loại trên những bờ biển xa xôi. Vùng đất hứa chính là Trung Quốc, và người Trung Hoa đã đang ở đó rồi. Nhìn vào hình ảnh vượt trội của Trung Quốc, những sự may mắn của nền văn hóa Vương quốc Trung tâm, về mặt lý thuyết có thể được mở rộng đến các nước nằm trong phạm vi của đế chế. Nhưng sẽ chẳng có vinh quang nào khi mạo hiểm vượt biển đến sửa đổi những kẻ "ngoại đạo" đi theo đường lối của người Trung Hoa. Các phong tục tập quán của Thiên Triều đơn giản là nằm ngoài khả năng thấu hiểu của tộc phiên xa xôi. Đây có thể là lời giải thích sâu sắc hơn cho lý do Trung Quốc lãng quên truyền thống hải quân. Khi giảng dạy triết lý lịch sử của mình những năm 1820, nhà triết học người Đức Hegel đã mô tả xu hướng người Trung Quốc xem Thái Bình Dương to lớn về phía Đông của họ như một đống rác cằn cỗi. Ông lưu ý rằng nói chung Trung Quốc không dám liều lĩnh vươn ra biển cả, thay vào đó bị phụ thuộc vào diện tích đất đai rộng lớn vĩ đại của họ. Đất đai đã áp đặt một "số lượng những sự phụ thuộc đến vô tận", nhưng ngược lại, biển cả đẩy con người "ra xa khỏi những vòng tròn giới hạn của tư duy và hành động": "Sự vươn dài ra biển này nằm ngoài những giới hạn của đất liền, phải trở thành những sự khai tâm chính trị tuyệt vời của các Quốc gia Châu Á, cho dù chính bản thân họ tự giới hạn mình trên biển - chẳng hạn như Trung Quốc. Đối với họ biển chỉ là sự giới hạn, sự chấm dứt của đất liền, họ chẳng có mối liên hệ tích cực nào với nó". Phương Tây đã giong thuyền ra khơi để mở rộng thương mại và các giá trị của họ ra toàn thế giới, về vấn đề này, Hegel tranh luận rằng, một Trung Quốc bó buộc mình với đất liền - trong thực tế đã từng là một thế lực hải quân hùng mạnh nhất thế giới - đã bị "chia cắt khỏi sự phát triển lịch sử nói chung". Với những truyền thống đặc biệt và những thói quen thống trị hàng thiên niên kỷ này, Trung Quốc bước vào kỷ nguyên hiện đại như một kiểu đế chế riêng lẻ: Một đất nước tự cho rằng nền văn hóa và những thể chế của mình sánh ngang thế giới, nhưng lại có vài nỗ lực khiến người ta rời xa nó, một quốc gia giàu có nhất thế giới nhưng lại thờ ơ với ngoại thương và sự cách tân công nghệ, một nền văn hóa theo chủ nghĩa thế giới theo quan sát của một thành phần ưu tú về chính trị rõ ràng là đang bắt đầu kỷ nguyên khám phá phương Tây và là một thực thể chính trị với quy mô địa lý không gì sánh bằng. Nhưng lại không nhận thức được những dòng chảy lịch sử và công nghệ sẽ sớm đe dọa sự tồn vong của nó. Chương 2 : VẤN ĐỀ NGHI THỨC KHẤU ĐẦU VÀ CHIẾN TRANH NHA PHIẾN Vào thời điểm gần thế kỷ XX, sự vĩ đại của đế chế Trung Quốc đã đứng trên đỉnh cao. Nhà Thanh do bộ tộc Mãn Châu thành lập năm 1644 tiến vào Trung Quốc từ phía Đông Bắc, biến Trung Quốc thành một thế lực quân sự chủ chốt. Các thế lực quân sự Mông cổ và Mãn Châu hợp tác với sự thông thạo về chính quyền, văn hóa của người Hoa gốc Hán, đã triển khai một chương trình mở rộng lãnh thổ về phía Bắc và phía Tây, thành lập một phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc tiến sâu vào Mông cổ, Tây Tạng và Tân Cương ngày nay. Trung Quốc đã duy trì sự vượt trội, nổi bật tại Châu Á, ít nhất họ xứng đáng là đối thủ của bất kỳ đế chế nào khác trên hái đất này. Thế nhưng sự nổi bật của nhà Thanh lại biến thành định mệnh của họ. Sự giàu có và mở rộng của Trung Quốc thu hút sự chú ý của các đế chế phương Tây, các công ty thương mại đang hoạt động ngoài xa biên giới, cơ cấu khái niệm về trật tự thế giới của Trung Quốc truyền thống. Lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Trung Quốc đối mặt với "những quân phiên" không còn cố gắng thay thế triều đại Trung Hoa, không lên tiếng đòi Thiên Mệnh về tay mình nữa. Mà thay vào đó, họ đề xuất thay thế hệ thống Hoa vi trung bằng một hình ảnh trật tự thế giới hoàn toàn mới - với thương mại tự do hơn là các sứ thần triều cống, cư trú tại thủ đô Trung Hoa, và một hệ thống trao đổi ngoại giao không liên quan đến những người đứng đầu nhà nước không phải người Trung Quốc, "lũ phiên danh dự", đang thề thốt lòng trung thành của mình với Hoàng đế của chúng tại Bắc Kinh. Không được thành phần ưu tú Trung Hoa biết tới, các nhà nước ngoại lai này đã phát triển các phương pháp khoa học, công nghiệp của mình. Và lần đầu tiên suốt mấy thế kỷ - hoặc có lẽ đã từng - vượt qua thành tựu của chính Trung Quốc. Năng lượng hơi nước, các đường sắt, các phương pháp sản xuất mới và hình thành vốn cho phép tạo ra những bước tiến khổng lồ về năng suất ở phương Tây. Thấm đẫm trong sự thôi thúc chinh phục thúc đẩy họ tiến hành phạm vi thống trị truyền thống của Trung Quốc, các thế lực phương Tây cho rằng những tuyên bố của Trung Quốc về cương vị chúa tể toàn vũ trụ của họ là buồn cười. Họ quyết định áp đặt các tiêu chuẩn ứng xử quốc tế của riêng họ lên Trung Quốc, bằng vũ lực nếu cần thiết. Sự đối đầu phát sinh từ đó thách thức thuyết vũ trụ học cơ bản của Trung Quốc, để lại những vết thương vẫn còn mưng mủ hơn một thế kỷ sau đó trong kỷ nguyên xuất chúng được phục hồi của Trung Quốc. Đầu thế kỷ XVII, các giới quan lại Trung Quốc đã thấy rằng số lượng các nhà buôn Châu Âu đang tăng trên bờ biển Đông Nam Trung Quốc. Những người Châu Âu này trông không khác mấy so với những người nước ngoài khác đang hoạt động ngay ngoài các đế chế, có lẽ ngoại trừ sự thiếu hụt rành rành đặc biệt các kiến thức về văn hóa Trưng Hoa. Theo quan điểm chính thức do các giới chức đưa ra, "các phiên vùng Biển Tây Phương" này được xếp vào loại "các phái đoàn đến triều cống" hoặc các "thương nhân phiên". Vào những dịp hiếm hoi, một số người được phép du lịch đến Bắc Kinh - ở đây nếu được phép vào điện yết kiến Hoàng đế - họ sẽ phải thực hiện nghi thức khấu đầu, hành động quy phục trán chạm đất ba lần. Đối với các đại diện nước ngoài, các điểm nhập cảnh vào Trung Quốc và các tuyến đường vào kinh đô đều bị hạn chế. Đường vào chợ của người Trung Hoa bị giới hạn đối với thương mại theo mùa vụ được quy định chặt chẽ tại Quảng Châu (hồi ấy được gọi là Canton). Từng nhà buôn nước ngoài bán hàng mùa Đồng đều bị ép phải về nước. Họ không được phép đi sâu nữa vào Trung Quốc. Các quy định cố ý cầm chân họ ngay ngoài vịnh. Dạy tiếng Trung cho những quân phiên này, hoặc bán cho họ sách về lịch sử hoặc văn hóa Trung Quốc là trái luật. Những mà t giao tiếp của họ được thực hiện với sự trợ giúp của các thương nhân địa phương được cấp phép đặc biệt. Khái niệm về tự do thương mại, sứ thần thường trú và công bằng tối cao - vào thời điểm này, các quyền hạn tối thiểu được cấp cho những người Châu Âu gần như ở mọi ngóc ngách trên thế giới - đều không được đáp ứng tại Trung Quốc. Một ngoại lệ ngầm được đưa ra tại Nga. Sự mở rộng nhanh chóng về phía Đông của Nga (các lãnh thổ của Nga hoàng giáp ranh các lãnh thổ của nhà Thanh tại Tân Cương, Mông Cổ và Mãu Châu) đặt vùng này vào vị trí đáng chú ý đe dọa Trung Quốc. Năm 1715, nhà Thanh cho phép Moscow thiết lập một Giáo hội Chính thống Nga tại Bắc Kinh. Cuối cùng Hội này đảm nhận vai trò của một sứ thần trên thực tế, là hội truyền giáo nước ngoài duy nhất tại Trung Quốc trong hơn một thế kỷ. Những mối liên hệ mở rộng đến các nhà buôn Tây Âu, vốn đã bị hạn chế, được nhà Thanh nhìn nhận là đam mê đến kỳ lạ. Theo quan điểm của người Trung Hoa, Thiên Tử đã thể hiện sự hào hiệp của mình khi cho phép họ tham gia buôn bán với người Trung Hoa - đặc biệt là các mặt hàng trà, lụa, đồ sơn mài và cây đại hoàng, mặt hàng của các phiên ở Tây Hải đã phát triển thành một khẩu vị ngon lành. Châu Âu nằm cách Vương quốc Trung tâm quá xa để có thể bị Hán hóa cùng các dòng dõi Triều Tiên hoặc Việt Nam. Ban đầu, những người Châu Âu chấp nhận vai trò là những kẻ đi van xin theo yêu cầu cống nạp của người Trung Hoa, bị dán nhãn là "phiên bang hay chư hầu" và việc buôn bán của họ bị gọi là "cống nạp". Tuy nhiên khi các thế lực phương Tây ngày càng trở nên giàu có và nhận thức, tình cảnh này không thể kéo dài mãi. Phái đoàn Macartney Những giả định về trật tự thế giới của người Trung Hoa là phòng thủ đặc biệt đối với người Anh ("những phiên tóc đỏ" theo một số ghi chép của người Trung Hoa). Là một thế lực hải quân và thương mại hàng đầu phương Tây, nước Anh đã kiềm chế ở vai trò bị chỉ định trong thuyết vũ trụ học của Vương triều Trung Hoa, vốn có quân đội mà theo người Anh ghi chép, thì quân đội Trung Hoa vẫn chi sử dụng cung tên và hải quân thực sự không tồn tại. Các nhà buôn người Anh phẫn nộ trước số lượng hành vi "bắt chẹt" ngày càng tăng của các thương nhân Trung Quốc được chỉ đinh gây ra tại Quảng Châu. Theo đó tất cả hoạt động buôn bán với người phương Tây phải được thực hiện căn cứ theo các quy định của người Trung Hoa. Họ cố gắng tiến vào sâu hơn phần còn lại của thị trường Trung Quốc nằm ngoài bờ biển Đông Nam. Nỗ lực đáng kể đầu tiên của người Anh nhằm cải thiện tình hình chính là phái đoàn của Ngài George Macartney đến Trung Quốc năm 1793 - 1794. Đó là nỗ lực đáng quý nhất, được nhận thức rõ nhất và ít "quân phiệt" nhất của Châu Âu nhằm thay đổi tình trạng thống trị của các quan hệ Trung - Tây, và đạt được tuyên bố tự do thương mại và ngoại giao dựa trên những điều khoản công bằng. Nhưng nó đã thất bại hoàn toàn. Phái đoàn Macartney được hướng dẫn xem xét một số chi tiết. Nhật ký của phái đoàn minh họa quan niệm của người Trung Hoa về vai trò của mình được thực hiện ra sao - và hố sâu ngăn cách tồn tại giữa các quan niệm về ngoại giao của phương Tây và Trung Quốc. Macartney là một công chức được tôn trọng có nhiều năm kinh nghiệm quốc tế, có ý thức kiên nhẫn theo kiểu ngoại giao "Phương Đông". Ông là người có những thành tựu văn hóa xuất sắc, đã phục vụ ba năm làm đặc phái viên đặc sứ cho triều đình Nữ hoàng Catherine Vĩ đại ở St. Petersburg (Nga). Tại đây ông đã ký một hiệp định hữu nghị về thương mại. Khi quay về, ông đã xuất bản một cuốn sách được đón nhận tốt về những quan sát về lịch sử và văn hóa Nga. Ông được trang bị rất tốt như bất kỳ đồng nghiệp nào khi bắt đầu một hoạt động ngoại giao mới bên kia nền văn minh. Những mục đích của phái đoàn Macartney đến Trung Quốc có vẻ khiêm tốn so với một người Anh được giáo dục kỹ lưỡng vào thời đó - đặc biệt khi so sánh với sự thống trị mới được thiết lập của Anh lên người khổng lồ láng giềng là Ấn Độ. Bộ trưởng Nội vụ Henry Dundas đã điều chỉnh những hướng dẫn cho Macartney nhằm nỗ lực đạt được "sự giao tiếp tự do với một dân tộc, có lẽ là dân tộc kỳ quặc nhất trên địa cầu". Các mục tiêu chính là thiết lập các sứ thần tương hỗ lẫn nhau tại Bắc Kinh và Luân Đôn, quyền tiếp cận thương mại đến các bến cảng khác dọc bờ biển Trung Hoa.về vấn đề này, Dundas đã ép Macartney phải để ý đến hệ thống các quy định "không khuyến khích" và "độc đoán" tại Quảng Châu ngăn cản các thương nhân Anh tham gia "cạnh tranh Thị trường công bằng" (một khái niệm không có nghĩa tương đương trực tiếp ở Trung Quốc thời Khổng Tử). Dundas nhấn mạnh, Macartney sẽ phải từ chối tham vọng lãnh thổ ở Trung Quốc - một sự bảo đảm chắc chắn phía Trung Quốc sẽ xem là sự sỉ nhục, vì nó thể hiện rằng Anh xem xét những tham vọng đó". Chính phủ Anh đã đối xử với triều đình Trung Hoa trên những điều khoản công bằng, giới cầm quyền của Anh hẳn sẽ ấn tượng khi một quốc gia không phải phương Tây đang được dành cho mức độ tôn trọng hiếm thấy, trong khi ở Trung Quốc họ đang bị đối xử với thái độ khinh miệt vì không chịu phục tùng. Dundas hướng dẫn Macartney tận dụng "cơ hội sớm nhất" để gây ấn tượng với triều đình Trung Hoa rằng Vua George III đã coi phái đoàn của Macartney là một "sứ thần của một Dân tộc văn minh nhất, cổ xưa nhất và đông dân nhất trên Thế giới nhằm tuân theo những thể chế lừng danh của đất nước đó, giao tiếp và tiếp nhận những lợi ích phải phát sinh từ sự giao dịch cởi mở, thân thiện giữa Quốc gia này và quốc gia của sứ thần". Dundas hướng dẫn Macartney phải tuân thủ "tất cả các nghi thức của Triều đình đó, để không gây tổn hại đến danh dự Hoàng đế của ngài, hoặc không làm hạ phẩm giá của ngài gây nguy hiểm cho thành công của đàm phán". Dundas nhấn mạnh ông không được phép để bất kỳ sự câu nệ tiểu tiết nào cản trở con đường đến với những lợi ích quan trọng có thể được hưởng" từ sự thành công trong sứ mệnh của mình. Nhằm hỗ trợ hơn nữa các mục tiêu của mình, Macartney mang theo ông rất nhiều sản phẩm về kỹ năng công nghiệp và khoa học của Anh. Đoàn tùy tùng của Macartney bao gồm một bác sĩ phẫu thuật, một bác sĩ điều trị, một thợ máy, một nhà giả kim, một thợ sửa đồng hồ, một người sản xuất công cụ toán học và "Nảm Nhạc sĩ người Đức", chuyên biểu diễn mỗi tối. (Những cuộc trình diễn này là một trong các khía cạnh thành công nhất của sứ thần). Các món quà của ông dâng lên Hoàng đế bao gồm các sản phẩm được thiết kế, cho thấy những lợi ích lớn lao Trung Quốc có thể có khi buôn bán với Anh như: Các bộ phận pháo binh, một xe ngựa, các đồng hồ đeo tay đính kim cương, đồ sứ Anh (các quan lại nhà Thanh đồng tình cho rằng đây là sao chép mẫu nghệ thuật gốm sứ Trung Hoa), và các bức chân dung Nhà vua và Nữ hoàng do Joshua Reynolds vẽ. Macartney thậm chí còn đem theo cả một khinh khí cầu chạy bằng khí nóng đã xì hơi. Ông đã lên kế hoạch cho các thành viên trong đoàn của mình dùng khinh khí cầu bay trên vùng trời Bắc Kinh, nhưng thất bại. Phái đoàn Macartney đã không hoàn thành được bất kỳ mục tiêu nào cụ thể, hố sâu về nhận thức đơn giản là quá lớn. Macartney đã có ý định minh họa những lợi ích của công nghiệp hóa, tuy nhiên Hoàng đế lại hiểu những món quà của ông là vật triều cống. Phái đoàn Anh đã kỳ vọng chủ nhà Trung Quốc thừa nhận rằng họ đã bị tụt hậu quá xa đến vô vọng về tiến bộ văn minh công nghệ, và cố gắng đạt được mối quan hệ đặc biệt với Anh nhằm khắc phục sự tụt hậu của mình. Thực ra, người Trung Hoa xem Anh như một bộ tộc phiên kiêu căng, ngạo mạn và dốt nát đang muốn xin xỏ ân huệ đặc biệt của Thiên Tử. Trung Quốc vẫn trung thành với những con đường phát triển nông nghiệp của mình, với dân số tăng lên nhanh chóng đang tạo ra các sản phẩm thực phẩm cấp thiết hơn lúc nào hết. Bộ máy quan lại theo đạo Khổng của đất nước này vẫn làm ngơ trước những yếu tố then chốt của công nghiệp hóa: năng lượng hơi nước, tín dụng và vốn, tài sản tư nhân và giáo dục công. Câu nói khó chịu đầu tiên đến khi Macartney và đoàn tùy tùng của ông tiến đến Nhiệt Hà, kinh đô mùa hè về phía Đông Bắc Bắc Kinh, đi lên bờ biển bằng các du thuyền Trung Hoa chất đầy những món quà hào phóng, các món cao lương mỹ vị nhưng lại mang theo các biểu ngữ Trung Quốc nêu rõ: "Đại sứ Anh mang đến tiến cống Hoàng đế Trung Hoa". Macartney kiên quyết tuân thủ những hướng dẫn của Dundas là "không than phiền, khi có cơ hội thích hợp sẽ để ý". Tuy nhiên, khi đến gần Bắc Kinh, các quan đầu tính phụ trách quản lý phái đoàn đã mở một cuộc đàm phán phơi bày rõ nét hố sâu ngăn cách về nhận thức, vấn đề là liệu Macartney có khấu đầu trước Hoàng đế hay không, hoặc như ông quả quyết, liệu ông có thể tuân thủ tập quán của người Anh chỉ quỳ một gối không. Phía Trung Quốc mở các phiên thảo luận loanh quanh như Macartney sau này nhớ lại trong nhật ký của mình, họ nhận xét về "những mẫu hàng phục khác nhau chiếm ưu thế giữa các dân tộc khác nhau". Đến cuối cùng, các viên quan kết luận rằng trang phục của người Trung Hoa là ưu việt vì nó cho phép người mặc cử động thoải mái hơn nhiều, "họ nói rằng, các cử chỉ quỳ gối và phủ phục là phong tục thông thường được tất cả mọi người thực hiện mỗi khi Hoàng đế xuất hiện ở chỗ công cộng". Chẳng lẽ phái đoàn Anh lại không thấy đơn giản hơn khi tự giải phóng mình khỏi đôi ủng và nịt bít tất khi diện kiến Hoàng đế uy nghi? Macartney phản bác lại khi đề nghị Hoàng đế có thể sẽ đánh giá cao khi ông dành cho Hoàng đế "sự tôn trọng tương tự những gì tôi làm với Vua của tôi". Những cuộc nói chuyện về "vấn đề khấu đầu" tiếp tục một cách rời rạc vài tuần sau đó. Các viên quan cho rằng những lựa chọn của Macartney đó là khấu đầu hoặc về nước với hai bàn tay trắng; Macartney vẫn không chịu. Cuối cùng, hai bên đạt được thỏa thuận Macartney có thể tuân thủ theo phong tục Châu Âu quỳ bằng một đầu gối. Đây được coi là chiến thắng duy nhất của Macartney (ít nhất liên quan đến cách cư xử thực tế, nhưng báo cáo chính thức của người Trung Hoa lại cho rằng vì sửng sốt trước sự uy nghi tuyệt vời của Hoàng đế, nên Macartney cuối cùng đã thực sự khấu đầu). Tất cả những chuyện này diễn ra trong khung nghi thức giao tiếp phức tạp của người Trung Hoa, khiến cho Macartney thấy đây là sự đối xử thận trọng nhất khi ngăn chặn và từ chối những đề xuất của ông. Bị trói buộc trong nghi thức là khởi đầu của mọi thứ, mà mỗi khía cạnh đều có mục đích không thể thay đổi và theo quy định của vũ trụ, Macartney thấy mình khó có thể bắt đầu các cuộc đàm phán của ông. Trong khi đó ông lưu ý sự hiệu quả của bộ máy quan lại khổng lồ của Trung Quốc với sự tôn trọng pha lẫn khó chịu, ông đánh giá "mọi hoàn cảnh liên quan đến chúng tôi, mọi lời nói thốt ra từ môi chúng tôi đều được báo cáo và ghi nhớ lại từng phút". Trước sự kinh ngạc của Macartney, những điều kỳ diệu về công nghệ của Châu Âu chẳng để lại ấn tượng gí rõ ràng đối với những người sử dụng chúng. Khi đoàn của ông minh họa những khẩu đại bác thần công của mình, "người chỉ huy của chúng tôi giả vờ đánh giá chúng thật thấp, và nói với chúng tôi như thể mấy cái thứ này chẳng xa lạ gí với Trung Quốc". Những thấu kính, xe ngựa và khinh khí cầu chạy bằng khí nóng của ông đều bị gạt sang bên bằng một thái độ hợm hĩnh. Nửa tháng sau đó, ngài đại sứ vẫn chờ được diện kiến Hoàng đế, thời gian chờ đợi bị tiêu phí vào những bữa tiệc, trò giải trí và những phiên thảo luận về nghi thức thích hợp đối với người muốn diện kiến Hoàng đế. Cuối cùng, ông được triệu tập lúc bốn giờ sáng đến một "căn lều to, khá đẹp" để đợi gặp Hoàng đế, người chẳng mấy chốc đã xuất hiện tiền hô hậu ủng, được ngồi trên kiệu có người khênh. Macartney băn khoăn trước vẻ tráng lệ trong nghi thức của người Trung Hoa, theo đó "mọi khâu của buổi lễ đều được thực hiện với sự im lặng và trang nghiêm, như một phương pháp nào đó tương tự như nghi lễ tôn giáo bí ẩn". Sau khi trao tặng các món quà cho Macartney và đoàn tùy tùng của ông, Hoàng đế tâng bốc phái đoàn của Anh bằng cách "[tặng thêm] cho chúng tôi vài đĩa đồ ăn nữa từ trên bàn của mình". Sau đó "đích thân tặng cho mỗi người chúng tôi một chén rượu ấm, ngay lập tức chúng tôi uống cạn trước mặt người". (Lưu ý rằng việc Hoàng đế đích thân mời rượu các phái đoàn nước ngoài được đề cập cụ thể trong năm miếng mồi của nhà Hán để quản lý phiên). Ngày hôm sau, Macartney và đoàn của ông dự một buổi kỷ niệm ngày sinh nhật của Hoàng đế. Cuối cùng, Hoàng đế cho gọi Macartney vào gian của mình tại một buổi biểu diễn nghệ thuật. Macartney cho rằng lúc này người có thể giao dịch làm ăn với sứ thần của mình. Nhưng thay vào đó, Hoàng đế dứt khoát từ chối ông bằng một món quà khác, một cái hộp đựng đầy đá quý. Và như Macamey ghi lại: "Người trao cho tôi một cuốn sách, được chính tay người viết và vẽ, người muốn tôi hao nó cho Đức vua, chủ nhân của tôi, như một biểu hiện của tình hữu nghị, nói rằng chiếc hộp này đã được gia đình người cất giữ trong tám trăm năm rồi". Lúc này những món quà hào hiệp của triều đình đã được trao, các quan lại Trung Hoa cho rằng vì mùa Đông lạnh lẽo đang đến gần, giờ khởi hành về nước của Macartney đã đến. Macartney phản đối rằng cả hai bên vẫn chưa "bước vào đàm phán" về các vấn đề trong những chỉ dẫn chính thức của mình, ông nói "mình vẫn chưa đưa ra thỏa hiệp". Macartney nhấn mạnh rằng mong muốn của Vua George là ông được phép tham dự tại triều đình Trung Hoa như một sứ thần Anh lâu dài. Sáng sớm ngày 03 tháng 10 năm 1793, một viên quan đánh thức Macarney và triệu ông mặc quần áo trang trọng đến Tử cấm Thành, nơi ông nhận được câu trả lời cho kiến nghị của mình. Sau vài tiếng đồng hồ chờ đợi, ông được dẫn đến một cầu thang dẫn đến bên một chiếc ghế bọc lụa, trên ghế không có Hoàng đế ngồi, mà để một lá thư của Hoàng đế gửi cho Vua George. Các quan lại Trung Hoa khấu đầu trước lá thư này, bỏ lại Macartney quỳ gối trước lá thư bằng một gối. Cuối cùng, phương thức liên lạc của triều đình được chuyển trả về gian phòng của Macartney với đầy đủ nghi thức, được chứng tỏ là một trong những phương thức liên lạc đáng sỉ nhục nhất trong kỷ lục ngoại giao của Anh. Chỉ dụ bắt đầu bằng câu nhận xét về "sự nhún nhường cung kính" của Vua George khi gửi một phái đoàn triều cống đến Trung Quốc. Hỡi Đức vua, sống lâu muôn tuổi thọ hơn nghìn vùng biển, ấy thế nhưng bị thúc đẩy trước ham muốn nhún nhường muốn cùng chung hưởng những lợi ích từ nền văn minh của chúng tôi, ngài đã cử đến đây một phái đoàn đầy sự lễ phép, kính cẩn gợi chúng tôi nhớ đến ngài. Sau đó Hoàng đế bãi bỏ hết từng đề nghị thực sự mà Macartney đã đưa ra, bao gồm đề xuất mà Macartney được phép cư trú tại Bắc Kinh như một sứ thần. Về sự van xin của ngài muốn gửi một trong số thần dân của ngài đến để được chỉ định vào Thiên Triều của chúng tôi, để kiểm soát việc buôn bán giữa đất nước của ngài với Trung Quốc, đề nghị này đi ngược lại với tất cả tục lệ, quy tắc của triều đại chúng tôi, và do đó không thể được đáp ứng... [Ông ta không thể] được phép tự do hoạt động, không thể được cấp đặc ân tương ứng ở quốc gia của ngài. Nên ngài sẽ chẳng nhận được gì nếu lưu ông ta lại giữa chúng tôi. Chỉ dụ viết tiếp rằng đề xuất Trung Quốc cử sứ thần của mình đến Luân Đôn thậm chí còn ngớ ngẩn hơn. Giả sử rằng tôi có gửi một Sứ thần đến cư trú ở đất nước của ngài, làm sao ngài có thể chuẩn bị cho ông ta những thu xếp cần thiết? Châu Âu bao gồm nhiều sắc dân khác nữa ngoài sắc dân của ngài, nếu mỗi sắc dân và toàn bộ các sắc dân đều đòi được hiện diện ở Triều đình của chúng tôi, làm sao chúng tôi cố thể cho phép được? vấn đề này cực kỳ thiếu thực tế. Hoàng đế khẳng định rằng có lẽ Vua George đã cử Macartney đến học hỏi những điều may mắn từ nền văn minh của Trung Quốc. Nhưng cả điều này nữa cũng không thể chấp nhận được. Nếu ngài quả quyết rằng sự tôn kính của ngài đối với Thiên Triều của chúng tôi khiến ngài mong muốn tiếp thu nền văn minh của chúng tôi, những nghi lễ và các bộ luật của chúng tôi sẽ khác biệt hoàn toàn với những nghi lễ và bộ luật của ngài, ngay cả nếu Phái đoàn của ngài có khả năng tiếp thu được nguyên lý cơ bản của nền văn minh của chúng tôi, ngài cũng không thể ghép các phong tục tập quán của chúng tôi vào vùng đất mới của ngài. Về đề xuất của Macartney liên quan đến các lợi ích thương mại giữa Anh và Trung Quốc, Thiên Triều đã cho thấy ân huệ lớn của người Trung Quốc khi cấp cho họ quyền "hoàn toàn tự do buôn bán tại Quảng Đông trong nhiều năm", bất kể điều gì hon thế nữa "đều không thể chấp nhận được", về những gì được xem là lợi ích buôn bán giữa Anh với Trung Quốc, Macartney đã nhầm lẫn đáng buồn: Những món hàng lạ lùng và tốn kém không khiến tôi bận tâm. Nếu tôi có ra lệnh cho ngài phải tiến cống, thì Hỡi Đức vua, ngài sẽ phải chấp nhận, đây đơn thuần chỉ là sự chiếu cố cho tinh thần của ngài đã cử họ đi xa đến thế... Như ngài Đại sứ của ngài cũng có thể tự thấy, chúng tôi chẳng thiếu thứ gì. Xét theo tình cảnh này, thương mại vượt quá những gì nó đang diễn ra là điều không thể. Nước Anh chẳng còn gì mà Trung Quốc muốn được tặng, và Trung Quốc đã cho Anh tất cả những gí được cho phép trong các quy định thiêng liêng. Vì xem ra chẳng làm được gì nữa, Macartney quyết định quay về Anh qua Quảng Châu. Khi chuẩn bị ra về, ông quan sát thấy sau sự từ chối hoàn toàn của Hoàng đế đối với những đề nghị của Anh, các quan lại có vẻ chu đáo hơn khiến Macartney cho rằng có lẽ triều đình đã nghĩ lại. Ông dò hỏi chuyện đó nhưng đó chỉ là việc người Trung Hoa hoàn tất nghi thức ngoại giao nhã nhặn. Vì người phiên đi van xin này không hiểu sự tế nhị, ông ta được đối xử bằng một chỉ dụ của triều đình giống như sự đe dọa. Hoàng đế đã bảo đảm với Vua George rằng ông ta nhận thức được "sự xa xôi đơn độc của hòn đảo của mình, cắt lìa khỏi thế giới khi ở giữa rất nhiều sa mạc biển". Nhưng kinh đô Trung Hoa là "cái trục và trung tâm xoay tròn quanh tất cả các ngóc ngách của địa cầu... Những đối tượng lệ thuộc của chúng tôi không bao giờ được phép mở các điểm kinh doanh tại Peking [Bắc Kinh]". Ông kết thúc bằng một lời khiển trách. Do đó tôi đã nêu chi tiết các thực tế cho ngài, ngài có trách nhiệm ràng buộc phải cung kính đánh giá cao những cảm xúc của tôi, tuân thủ theo những hướng dẫn của tôi mọi lúc từ nay về sau, nhờ thế ngài có hưởng thụ được những may mắn của một nền hòa bình vĩnh cửu. Hoàng đế rõ ràng xa lạ với năng lực của các nhà lãnh đạo phương Tây về khả năng sử dụng vũ lực to lớn, nên đang đùa với lửa dù ông ta không biết. Lời đánh giá Macartney để lại sau khi rời Trung Quốc đã báo điềm gờ. Một cặp tàu khu trục nhỏ của Anh sẽ đủ sức đương đầu với toàn bộ lực lượng hải quân của đế chế này... trong chưa đầy một mùa hè họ có thể hoàn toàn phá hủy lượng tàu bè qua lại trên các bờ biển, giảm bớt số dân cư sống trong các làng biển, những người chủ yếu kiếm sống bằng nghề cá và đẩy họ đến nạn đói tuyệt đối. Bây giờ hành vi của người Trung Hoa là độc đoán, nhưng hãy nhớ rằng nó đã hiệu quả suốt mấy thế kỷ đảm bảo tổ chức, duy trì một trật tự quốc tế chủ chốt. Trong kỷ nguyên của Macartney, những may mắn trong thương mại với phương Tây đã quá hiển nhiên: Vì sản lượng GDP của Trung Quốc vẫn gấp gần bảy lần sản lượng GDP của Anh, Hoàng đế có lẽ đã có thể được tha thứ khi nghĩ rằng Luân Đôn cần Bắc Kinh trợ giúp, chứ không chịu nghĩ khác. Không nghi ngờ gì nữa, triều đình tự thấy mừng khi giải quyết xong nợ nần với phái đoàn phiên này, không bao giờ còn lặp lại suốt hơn hai mươi năm. Nhưng lý do cho sự trì hoãn không phải do kỹ năng ngoại giao của Trung Hoa mà là do những cuộc Chiến tranh của Napoleon. Chúng tiêu tốn gần hết các tài nguyên của các quốc gia Châu Âu. Ngay sau khi dẹp tan Napoleon thì một phái đoàn khác của Anh xuất hiện trên các bờ biển Trung Quốc vào năm 1816, do ngài Amherst dẫn đầu. Lần này sự từ chối thực hiện nghi thức đã biến thành cuộc cãi lộn ầm ĩ giữa phái đoàn Anh với các quan lại triều đình tập hợp bên ngoài cung điện. Khi Amherst không chịu khấu đầu trước Hoàng đế, người mà dân Trung Hoa khăng khăng cho rằng là "người cai trị vũ trụ", phái đoàn của ông đã bị xua đuổi quyết liệt. Hoàng tử nước Anh, Regent, được lệnh nỗ lực hết sức "tuân thủ" nhằm "tạo một bước tiến hướng đến sự chuyển đổi về văn minh", trong lúc đó, không còn một sứ thần nào nữa cần phải "chứng minh rằng ngươi thực sự lệ thuộc vào chúng ta". Năm 1834, Bộ trưởng Ngoại giao Anh, ngài Palmeston, cử tiếp một phái đoàn nữa đến với nỗ lực đạt được một giải pháp quan trọng. Palmeston không hề có kinh nghiệm đối với các quy định của nhà Thanh, đã phái sĩ quan hải quân Scotland, Napier, với những hướng dẫn trái ngược với sự "tuân thủ theo luật pháp và tập quán của Trung Quốc", cùng lúc đó đề nghị các quan hệ ngoại giao lâu dài và xây dựng một đại sứ quán Anh thường trú tại Bắc Kinh, tiếp cận thêm các bến cảng nữa dọc theo bờ biển Trung Quốc và không chì dừng lại ở đó, đã tiến hành thương mại tự do với Nhật Bản. Khi Napier đến Quảng Châu, ông cùng viên quan địa phương đã lâm vào ngõ cụt: Mỗi bên đều không nhận thư của bên kia, tự cho rằng mình mất phẩm giá khi phải đón tiếp một người có địa vị thấp như thế. Hiện tại các giới chức địa phương đã đặt biệt danh cho Napier với một cái tên Trung Hoa nghĩa là "Cần cù Ngu xuẩn", chăng lên những tấm biểu ngữ có nội dung hằn thù quanh Quảng Châu nhờ một người phiên dịch địa phương, số phận cuối cùng cũng giải quyết vấn đề "phiên" bực mình này cho người Trung Hoa, khi cả Napier và người phiên dịch cho ông mắc bệnh sốt rét và qua đời. Tuy nhiên trước khi mất, Napier đã để ý đến sự tồn tại của Hồng Kông, một khu vực nổi toàn đá, dân cư thưa thớt mà theo ông đánh giá sẽ là một bến cảng tự nhiên tuyệt hảo. Người Trung Hoa có thể lấy làm hài lòng khi ép một nhóm phiên nổi loạn nữa phải tuân thủ. Nhưng đó là lần cuối cùng nước Anh chấp nhận sự từ chối. Mỗi năm qua đi, sự phản đối của Anh ngày càng mang tính đe dọa hơn. Sử gia người Pháp, Alain Peyrèitte đã tổng kết phản ứng của Anh sau cơn chấn động của phái đoàn Macartney. "Nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục đóng cửa, vậy thì các cánh cửa sẽ bị đánh sập". Tất cả những vận động ngoại giao của Trung Quốc, những sự từ chối đột ngột chỉ làm chậm lại những tính toán tất yếu về hệ thống quốc tế hiện đại, được thiết kế dọc theo các bờ biển Mỹ và Châu Âu. Sự tính toán này sẽ áp đặt một trong số những sức ép về xã hội, trí tuệ và đạo đức đau đớn lên nhà nước Trung Hoa trong lịch sử dài dằng dặc của mình. Đụng độ giữa hai bật tự thế giới: Chiến tranh Nha phiến Các thế lực công nghiệp phương Tây đang lên rõ ràng không còn tiếp tục lâu dài một cơ chế ngoại giao coi họ là "phiên" dâng "vật triều cống" hoặc một hoạt động thương mại theo tính mùa vụ quy định quá ngặt nghèo tại một thành phố cảng Trung Hoa.về phần mình, người Trung Hoa sẵn sàng hạn chế nhượng bộ các ham muốn của thương nhân phương Tây tìm kiếm "lợi nhuận" (một khái niệm trái đạo đức mơ hồ theo tư duy của Khổng Tử). Nhưng họ cũng khiếp hãi trước những đề nghị của các phái đoàn phương Tây rằng, Trung Quốc có thể đơn giản là một nước giữa nhiều nước. Hoặc họ nên sống và có tiếp xúc hàng ngày lâu dài với các phái đoàn "phiên" tại kinh đô Trung Hoa. Với con mắt hiện đại, không một đề xuất ban đầu nào của phái đoàn phương Tây thực sự mang tính sỉ nhục theo các tiêu chuẩn phương Tây: Các mục tiêu thương mại của họ, các tiếp xúc ngoại giao đều đặn và các đại sứ quán thường trú khiến những tình hình nhạy cảm đương thời thêm khó khăn, được xem là một cách tiến hành hoạt động ngoại giao tiêu chuẩn. Nhưng sự đối đầu cơ bản lại xảy ra ở một trong số những vấn đề đáng xấu hổ trong sự thâm nhập của phương Tây: Việc cố tình nhập khẩu thuốc phiện không hạn chế vào Trung Quốc. Giữa thế kỷ XIX, thuốc phiện được dùng tại Anh nhưng bị cấm tại Trung Quốc, cho dù con số người dân Trung Hoa tiêu thụ nó ngày càng tăng. Ấn Độ thuộc Anh là trung tâm phát triển rất nhiều cây thuốc phiện của thế giới, các thương nhân Anh và Mỹ đang cộng tác với dân buôn lậu Trung Hoa trong ngành kinh doanh mạo hiểm. Thực ra thuốc phiện là một trong số vài sản phẩm của nước ngoài tìm đường tiến vào được thị trường Trung Hoa. Nhiều mặt hàng danh tiếng của Anh đã bị hủy bỏ vì những chất liệu mới và thấp kém hơn các sản phẩm của Trung Quốc. Ý kiến lịch sự của phương Tây nhận xét buôn bán thuốc phiện thật đáng xấu hổ. Tuy nhiên các thương nhân phải miễn cưỡng hủy bỏ ngành kinh doanh sinh lời này. Triều Thanh có thể đã tranh cãi việc hợp pháp hóa thuốc phiện và quản lý việc kinh doanh thuốc phiện, về cơ bản họ đã ra quyết định đàn áp thẳng tay và xóa sổ hoàn toàn ngành thương mại này. Năm 1839, Bắc Kinh cử Lâm Tắc Từ, một viên quan có tài năng tuyệt vời đã được minh chứng nhằm chấm dứt ngành kinh doanh này tại Quảng Châu, ép các thương nhân phương Tây phải tuân thủ lệnh cấm chính thức. Là một viên quan chịu ảnh hưởng truyền thống đạo Khổng, Lâm xử lý vấn đề giống như ông sẽ làm đối với bất kỳ vấn đề "phiên" khó chơi nào: Thông qua sự pha trộn của sức mạnh và thuyết phục bằng đạo đức. Khi đến Quảng Châu, ông ra lệnh các phái đoàn thương mại phương Tây phải hủy bỏ hết các thùng thuốc phiện để tiêu hủy. Khi họ không nghe theo, ông phong tỏa tất cả những người nước ngoài - bao gồm cả những ai chẳng liên quan gí đến kinh doanh thuốc phiện - trong các nhà máy của họ, tuyên bố rằng họ sẽ chi được thả chừng nào chịu giao hàng lậu ra. Tiếp theo Lâm gửi thư đến Nữ hoàng Victoria, ca tụng và tôn kính bà trong khuôn khổ nghi thức truyền thống, về "sự lịch thiệp và phục tùng" của những người đi trước trong việc "triều cống" Trung Quốc. Điểm then chốt trong lá thư đó là yêu cầu Nữ hoàng Victoria chỉ đạo xóa sổ hồng và sản xuất thuốc phiện trên các biên giới Ấn Độ thuộc nước Anh. Tại một số nơi ở Ấn Độ nằm dưới quyền kiểm soát của người như Bengal, Madras, Bombay, Patna, Benares và Mahoa.... thuốc phiện [đã] được trồng từ đồi này sang đồi kia, các ao hồ củng được mở để sản xuất... Cái mùi ghê tởm này bốc lên khiến trời phải phẫn nộ, khiến những linh hồn phải khiếp đảm. Hỡi Nữ hoàng, đích thực là người có thể xóa sổ việc trồng thuốc phiện tại những nơi này, cuốc xới toàn bộ những cánh đồng đó; và thay vào đó là trồng ngũ cốc. Bất kỳ kẻ nào một lần nữa to gan dám trồng và sản xuất thuốc phiện phải bị trừng phạt thật nặng. Đề nghị này là hợp lý ngay cả khi được diễn tả theo giả định truyền thống của cương vị chúa tể Trung Hoa. Giả sử một người của nước khác đến Anh buôn bán, anh ta vẫn phải tuân thủ luật pháp nước Anh, còn nói gì đến luật pháp của Thiên triều ở Trung Quốc thì anh ta phải tuân thủ bao nhiêu nữa?... Các thương nhân "phiên" từ trong nước của người, nếu họ mong muốn làm ăn buôn bán trong thời gian dài, họ buộc phải tuân thủ các quy chế một cách tôn trọng, và cắt đứt lâu dài nguồn thuốc phiện... Hỡi Nữ hoàng, xỉn hãy kiểm tra và gạn lọc người dân xấu xa, ác độc trong đất nước của người trước khi họ đến Trung Quốc, nhằm bảo đảm sự an bình cho dân tộc của người, cho thấy thêm nữa lòng chân thành trong sự Lịch thiệp và cung kính của người, và để hai nước cùng nhau vui hưởng những phúc lành của hòa bình. Thật may mắn, thật sự may mắn làm sao! Sau khi nhận được lá thư này, xin người vui lòng trả lời chúng tôi ngay lập tức liên quan đến các chi tiết, hoàn cảnh việc người cắt đứt buôn lậu thuốc phiện. Hãy chắc chắn người sẽ không trì hoãn việc này. Đánh giá quá cao ảnh hưởng của Trung Hoa, tối hậu thư của Lâm đã đe đọa cắt bỏ việc xuất khẩu các sản phẩm Trung Quốc mà ông cho rằng là các sản phẩm thiết yếu sống còn đối với quân "phiên" phtrong Tây. "Nếu Trung Quốc cắt bỏ những món lợi này mà không thông cảm đối với những người chịu khổ, vậy thì quân "phiên" còn có thể trông đợi vào cái gì để giữ mình sống sót?" Trung Quốc chẳng có gì phải e sợ bị trả đũa: "Những món hàng đến từ ngoài Trung Quốc chỉ có thể được xem như đồ chơi. Có thì cũng tốt mà không có cũng chẳng sao". Lá thư của Lâm dường như không bao giờ tới tay Victoria. Vào lúc đó, ý kiến của Anh xem sự bao vây của Lâm đối với cộng đồng Anh tại Quảng Châu như một sự lăng mạ. Những người vận động hành lang cho "thương mại Trung Quốc" đã kiến nghị lên Nghị viện đòi tuyên chiến. Palmerston đã gửi một lá thư đến Bắc Kinh yêu cầu "đáp ứng và đền bù những thiệt hại do các giới chức Trung Hoa gây ra đối VÓI các công dân Anh quốc cư trú tại Trung Quốc, những sự sỉ nhục cũng do các giới chức nói trên gây ra cho Vua nước Anh", cũng như hành vi nhượng lại lâu dài "một hoặc nhiều đảo có diện tích lớn vừa đủ, nằm ở vị trí thích hợp hên bờ biển Trung Quốc" như một trạm trung chuyển cho thương mại Anh quốc. Trong lá thư của mình, Palmerston thừa nhận rằng thuốc phiện bị coi là "hàng lậu" theo luật pháp Trung Hoa, nhưng lại giảm những ràng buộc pháp lý đối với việc làm ăn này, vì tranh luận rằng theo các nguyên tắc pháp lý của phương Tây, lệnh cấm của Trung Hoa đã mất hiệu lực do có sự đồng lõa của các quan lại tham nhũng. Lý lẽ ngụy biện này không có khả năng thuyết phục được bất kỳ ai nên Palmerston không cho phép có sự chậm trễ đã hạ quyết tâm đưa vấn đề ra công lý: Liên quan đến "tầm quan trọng cấp thiết" của vấn đề và khoảng cách quá lớn ngăn cách nước Anh với Trung Quốc, chính quyền Anh đang yêu cầu một hạm đội ngay lập tức "tiến hành phong tỏa các bến cảng chính của Trưng Quốc, bao vây "tất cả các tàu Trung Quốc mà hạm đội có thể gặp" và bao vây "một số điểm có lợi trên lãnh thổ Trung Hoa" cho đến khi Luân Đôn đạt mục đích". Chiến tranh Nha Phiến đã bắt đầu. Những phản ứng ban đầu của Trung Hoa đánh giá viễn cảnh tấn công của Anh là mối đe dọa lớn nhất. Một viên quan tranh luận với Hoàng đế rằng khoảng cách giữa Trưng Quốc và Anh sẽ khiến người Anh lâm vào thế bất lợi. "Quân "phiên" Anh là một chủng tộc không đáng kể và đáng ghê tởm, cậy hoàn toàn vào tàu khỏe và súng lớn. Nhưng khoảng cách quá lớn chúng phải trải qua sẽ khiến chúng không thể vận chuyển đồ tiếp tế và quân lính. Chỉ sau một thất bại, bị cướp hết nhu yếu phẩm, chúng sẽ xuống tinh thần và bại trận". Ngay cả sau khi Anh đã phong tỏa sông Châu Giang và bao vây một vài hòn đảo nằm đối diện thành phố cảng Ninh Ba như một sự biểu dương lực lượng, Lâm vẫn gửi lá thư căm phẫn lên Nữ hoàng Victoria. "Đám "phiên" các người ở trên những vùng biển xa xôi hơn mà sao dám càn rỡ, có vẻ dám thách thức, sỉ nhục Đế chế hùng mạnh của bọn ta. Có một sự thật đó là đã đến lúc các người nên tự sỉ vả vào mặt mình, tẩy rửa cho sạch trái tim mình đi", và tu chỉnh lại những con đường đi của các người. Nếu các người nhún nhường tự nạp mình đến với Thiên triều và dâng lên lòng trung thành của các người, ta có thể chừa cho các người một cơ hội tự thanh tẩy mình vì những sai lầm trong quá khứ". Hàng thế kỷ chiếm ưu thế đã làm cảm nhận thực tế của Thiên triều bị sai lệch. Thái độ tự phụ về sự ưu việt chi nhấn mạnh sự nhục nhã không tránh khỏi. Các chiến thuyền của Anh nhanh chóng đi đường vòng qua các hệ thống phòng thủ ven bờ biển Trưng Hoa, phong tỏa các bến cảng chính của Trưng Quốc. Những khẩu đại bác đã từng bị các viên quan pháo binh của Macartney vứt bỏ đã xuất trận với tác động thảm khốc. Một viên quan Trung Hoa tên là Kỳ Sơn, Tổng trấn Trực Lệ (đơn vị hành chính sau này bao quanh Bắc Kinh và các tỉnh xung quanh), đã hiểu khả năng dễ tổn thương của Trung Quốc khi ông được cử đến tiếp xúc tạm thời với một hạm đội Anh đã ra khơi về phía Bắc đến Thiên Tân. Ông nhận ra rằng người Trung Hoa không thể đương đầu với hỏa lực đường biển của Anh. "Không cần gió, cũng chẳng cần thủy triều hỗ trợ, chúng [những tàu hơi nước] lướt đi ngược dòng chảy và có khả năng đạt vận tốc tuyệt vời... Những khẩu đại pháo của họ gắn trên các khớp xoay cho phép các khẩu súng có thể xoay và nhắm vào bất kỳ hướng nào". Ngược lại, Kỳ Sơn đánh giá những khẩu súng của Trung Quốc tồn tại từ thời Minh, và "những người phụ trách vấn đề quân sự đều là các quan văn... họ chẳng biết quái gì về vũ trang hết". Kết luận rằng thành phố không thể phòng thủ trước sức mạnh hải quân Anh, Kỳ Sơn áp dụng chiến thuật xoa dịu và đánh lạc hướng họ, bằng cách bảo đảm với họ rằng tình trạng hỗn loạn tại Quảng Châu chỉ là hiểu nhầm, không phản ánh "những dự định có kiềm chế và công bằng của Hoàng đế". Các quan lại Trưng Hoa sẽ "điều toa và xử lý vấn đề một cách công bằng", nhưng trước hết "điều cấp bách là [hạm đội Anh] khởi hành về phương Nam" và đợi chờ các viên quan lo việc điều toa sẽ đến đó. Hơi ngạc nhiên khi sự vận động này lại hiệu quả. Thủy quân Anh quay đầu về các bến cảng phương Nam, để lại các thành phố phía Bắc không gí che chắn của Trung Quốc vẫn còn nguyên vẹn. Căn cứ vào thành công này, Kỳ Sơn hiện được cử đến Quảng Châu thay thế Lâm Tắc Từ một lần nữa quản lý đám "phiên". Do không nắm vững được mức độ mở rộng của lợi thế về công nghệ của Anh, nên Hoàng đế hướng dẫn Kỳ Sơn kéo các đại diện của Anh vào những cuộc thảo luận kéo dài lâu hơn dự tính trong khi Trưng Quốc lo tập hợp lực lượng. "Sau cuộc đàm phán lâu dài, quân "phiên" sẽ suy yếu và kiệt sức". Lâm Tắc Từ bị cách chức trong nhục nhã vì tội kích động "phiên" tấn công. Ông lên đường chịu cảnh đi đày trong nước tận miền viễn tây Trưng Quốc, phản ánh về sự ưu việt của vũ khí phương Tây, soạn thảo những hồi ức bí mật khuyên Trung Quốc nên phát triển vũ khí của riêng mình. Tuy nhiên, một lần tại vị trí đồn trú của mình ở miền Nam Trung Quốc, Kỳ Sơn phải chạm trán một tình huống thách thức hơn nữa. Người Anh đòi nhượng bộ về lãnh thổ và bồi thường. Họ đã đến phương Nam để được nhận phần, và sẽ không còn chấp nhận bị trì hoãn bằng các chiến thuật kéo dài thời gian. Sau khi các lực lượng quân đội Anh nổ súng vào một vài điểm trên bờ biển, Kỳ Sơn và đối tác người Anh của ông ta, Đại tá Hải quân Charles Elliot, đã đàm phán một thỏa thuận dự thảo, Hiệp ước Xuyên Tỵ cấp cho Anh các quyền đặc biệt tại Hồng Kông, hứa hẹn một khoản đền bù 6 triệu lạng bạc và cho phép các cuộc làm ăn sau này giữa quan lại Trung Hoa và Anh được thực hiện trên điều khoản công bằng (nghĩa là, người Anh sẽ được miễn các nghi thức chính thức mà tộc "phiên" phải tuân theo). Thỏa thuận này bị cả chính phủ hai bên cùng từ chối, mỗi bên đều thấy trong các điều khoản ấy có bao hàm sự sỉ nhục. Vì tội không tuân thủ những chỉ thị của mình và nhượng bộ quá nhiều trước quân "phiên", Kỳ Sơn bị Hoàng đế bắt trói triệu về sau đó bị hành hình đến chết (về sau chấp nhận bị lưu đày). Người đàm phán bên phía quân Anh, Charles Elliot, phải chịu số phận nhẹ nhàng hơn chút, cho dù Palmerston đã quở trách ông ta bằng những lời lẽ cay nghiệt nhất vì chi giành được những lợi ích quá ít ỏi: "Trong suốt thời gian đàm phán của ngươi", Palmerston phàn nàn: "Dường như ngươi đã cho rằng các chỉ thị của ta là giấy lộn". Hồng Kông chỉ là "một quần đảo trơ trọi hầu như không có nhà cửa xây trên đó"; "Elliot đã hòa giải quá kém khi không thể giành thêm lãnh thổ giá trị hơn, hoặc không thể áp đặt những điều khoản khắc nghiệt hơn". Palmerston đã chỉ định một đại diện ngoại giao mới, Ngài Henrry Pottinger, người được ông hướng dẫn tiến hành đường lối cứng rắn hơn, vì "Chính quyền của Nữ hoàng không thể cho phép thông lệ vô lý của người Trung Hoa lại có thể thay thế cho thông lệ hợp lý của toàn bộ nhân loại còn lại, trong giao dịch giữa Anh và Trung Quốc". Đến Trung Quốc, Pottinger đã nhấn mạnh về ưu thế quân sự của Anh, phong tỏa thêm nhiều bến cảng nữa và cắt đứt đường giao thông dọc Kênh Lớn và sông Dương Tử phía dưới. Với nguy cơ quân Anh sẵn sàng tấn công kinh đô xưa Nam Kinh, Trung Quốc theo đuổi giải pháp hòa bình. Thuật ngoại giao của nhà Thanh: Xoa dịu "phiên" Potttrìger giờ đây đối mặt với một nhà đàm phán Trung Hoa khác, người thứ ba được một triều đình vẫn u tối tự cho minh là trung tâm vũ trụ, cử đi thực hiện nhiệm vụ chẳng hứa hẹn gì hết, Hoàng tử nhà Thanh Kỳ Anh. Biện pháp của Kỳ Anh trong xử lý người Anh là một chiến lược truyền thống của Trung Hoa khi đương đầu với thất bại. Bằng cách cố gắng thách thức và ngoại giao, Trung Quốc tìm cách làm suy yếu quân "phiên" bằng sự tuân thủ bề ngoài. Đàm phán dưới cái bóng của hạm đội Anh, Kỳ Anh đánh giá rằng chuyện xảy ra với các quan lại triều đình là sự lặp lại những gí các thành phần ưu tú của Vương triều Trung Hoa đã từng làm thường xuyên trước kia, thông qua sự kết hợp của trì hoãn, quanh co và những ân huệ được phân chia cẩn thận, họ sẽ xoa dịu và thuần phục được quân "phiên" trong khi tiết kiệm được thời gian để Trung Quốc có khả năng tồn tại qua cuộc tấn công. Kỳ Anh quyết định tập trung thiết lập một quan hệ cá nhân với "người đứng đầu quận phiên" Pottinger. Ông cho Pottinger xem các món quà và bắt đầu xem ông ta như một người bạn đáng quý và "thân mật" (một từ được đặc biệt chuyển ngữ sang tiếng Trung với mục đích diễn tả này). Như là một biểu hiện của tình bạn sâu đậm giữa họ, Kỳ Anh đã đi xa đến mức đề xuất trao đổi các bức chân dung những người vợ của họ, thậm chí còn bày tỏ mong muốn được nhận nuôi con trai của Pottìnger (hiện vẫn đang ở Anh, nhưng sau này nổi tiếng với cái tên 'Trederick Kỳ Anh Pottinger"). Trong một bản thông điệp đặc biệt, Kỳ Anh giải thích kế hoạch tiếp cận với Thiên triều là do thấy quá trình cám dỗ rất khó thực thi. Ông mô tả những phương pháp ông đã áp dụng để nhượng bộ quân "phiên" Anh. "Với loại người đến đây từ những nơi nằm ngoài giới hạn của nền văn minh, những kẻ mù quáng, chẳng hiểu gì về cách nói chuyện và các hình thức nghi lễ... thì dù chúng ta có nói đến rát cổ bỏng họng (thúc giục chúng tuân thủ theo cách của ta), cũng không thể tránh việc chúng giả câm giả điếc". Do đó, những bữa tiệc của Kỳ Anh và sự ấm áp quá đáng của ông đối với Pottinger và gia đình ông ta phục vụ một kế hoạch chiến lược cơ bản, theo đó lối hành xử của Trung Quốc được tính toán một cách cụ thể, những phẩm chất như lòng tin, sự chân thành là những vũ khí; cho dù chúng có cho thấy sự thuyết phục hay không cũng là thứ yếu. Ông nói tiếp: Chắc chắn chúng ta phải kiềm chế chúng bằng sự chân thành, nhưng điều cần thiết là phải kiểm soát chúng bằng các phương pháp khéo léo. Có những khi có thể lái chúng theo hướng ta nhưng không được để chúng hiểu ra lý do. Đôi khi chúng ta phơi bày ra mọi thứ nhưng chúng sẽ không nghi ngờ. Và rồi chúng ta có thể làm tiêu tan đi những lo âu nổi loạn của chúng. Đôi khi chúng ta ban cho chúng những sự đón tiếp và giải trí, sau đó chúng sẽ có cảm giác mình được đánh giá cao. Vào những lúc khác chúng ta cho thấy niềm tin vào chúng một cách rộng rãi, không cần thiết phải tham gia quá sâu vào những màn đối thoại vụn vặt với chúng, sau đó chúng ta có thể được chúng giúp đỡ việc kinh doanh sắp tới. Những kết quả tác động lẫn nhau giữa lực lượng chiếm ưu thế của phương Tây và hình thức quản lý tâm lý của Trung Quốc là hai hiệp định được đàm phán giữa Kỳ Anh và Pottinger, Hiệp ước Nam Kinh và Hiệp ước Bogue bổ sung. Sự hòa giải còn nhượng bộ nhiều hơn cả Hiệp ước Xuyên Tỵ, về bản chất là một sự nhục nhã, cho dù những điều khoản bớt nghiệt ngã hơn tình hình quân sự mà Anh hẳn sẽ được phép áp đặt. Theo đó Anh được cấp khoản đền bù 6 triệu lạng của Trung Quốc, được nhượng Hồng Kông và mở rộng năm "hải cảng buôn bán với nước ngoài" để phương Tây được phép buôn bán và cư trú trên đó. Điều này đã loại bỏ hiệu quả "Hệ thống Quảng Châu (Canton)", một phương tiện để triều đình Trung Quốc quy định việc thương mại với phương Tây và giới hạn đối với các nhà buôn được cấp phép. Ninh Ba, Thượng Hải, Hạ Môn và Phúc Châu được bổ sung vào danh sách các hải cảng buôn bán với nước ngoài. Ngưởi Anh bảo đảm quyền được duy trì các phái đoàn lâu dài tại các thành phố cảng, đàm phán trực tiếp với các quan lại địa phương, bỏ qua triều đình tại Bắc Kinh. Người Anh cũng giành được quyền thực hiện thẩm quyền của mình đối với nhà buôn các nước khác đang cư trú trong các hải cảng buôn bán với nước ngoài tại Trung Quốc, về mặt hiệu lực, điều này nghĩa là các nhà buôn thuốc phiện sẽ chỉ cần tuân theo luật pháp và quy định của đất nước mình, chứ không phải luật và quy định của Trung Quốc. Nguyên tắc về "đặc quyền ngoại giao" này trong số những điều khoản gây tranh cãi ít hơn của hiệp ước vào thời điểm đó, cuối cùng sẽ được xem là sự vi phạm chính chủ quyền của Trung Quốc. Tuy nhiên, vì khái niệm của Châu Âu về chủ quyền còn chưa rõ, nên đặc quyền ngoại giao của Trung Quốc vào thời điểm đó được xem là biểu tượng, không vi phạm quá nhiều một quy phạm pháp lý liên quan đến việc xác định quyền lực triều đình. Sự giảm bớt Thiên mệnh phát sinh từ đó dẫn đến sự bùng nổ một cuộc bạo động khởi nghĩa trong nước. Người biên dịch tiếng Anh thế kỷ XIX, Thomas Meadows nhận xét rằng hầu hết người Trung Hoa ban đầu không đánh giá những hậu quả kéo dài của Chiến tranh Nha Phiến. Họ xem những sự nhượng bộ như một kiểu áp dụng phương pháp truyền thống thu phục quân "phiên" và làm chúng suy yếu. "Phần lớn đất nước", ông phỏng đoán, "chỉ có thể nhìn vào trận chiến mới đây như một sự xâm nhập nổi loạn của một bộ tộc "phiên", những kẻ với sự hỗ trợ của tàu lớn đã tấn công và chiếm một số nơi dọc bờ biển, thậm chí còn cố gắng chiếm quyền sở hữu một địa điểm quan trọng của Kênh Lớn, qua đó ép Hoàng đế tiến hành những nhượng bộ nhất định". Tuy nhiên các thế lực phương Tây không dễ dàng bị xoa dịu như thế. Mỗi một sự nhượng bộ của Trung Quốc lại nảy sinh thêm các yêu cầu bổ sung của phương Tây. Ban đầu các hiệp ước được xem như một sự nhượng bộ tạm thời, thay vào đó là sự khởi đầu một quá trình triều đình nhà Thanh mất quyền kiểm soát phần lớn chính sách thương mại và ngoại giao của mình. Theo sau hiệp ước với Anh, Tổng thống Mỹ John Tyler nhanh chóng cử một phái đoàn đến Trung Quốc đòi những nhượng bộ tương tự cho người Mỹ, dấu hiệu báo trước cho chính sách "Mở cửa" sau này. Nước Pháp cũng đàm phán hiệp ước của riêng mình với những điều khoản tương tự. Mỗi nước trong số này đến lần lượt bao gồm một điều khoản "Quốc gia được ưu đãi nhất" quy định rằng bất kỳ sự nhượng bộ nào do Trung Quốc đưa ra với các nước khác, cũng sẽ được dành cho họ. (Sau này ngoại giao Trung Quốc đã dùng điều khoản này nhằm hạn chế những đòi hỏi, bằng cách kích động sự cạnh tranh giữa rất nhiều bên đòi hỏi ưu đãi đặc biệt). Những hiệp ước này đúng là những hiệp định khét tiếng trong lịch sử Trung Hoa như sự khởi đầu cho một chuỗi "hiệp ước bất bình đẳng" được thực hiện dưới cái bóng của lực lượng quân sự nước ngoài. Vào thời điểm đó, những điều khoản gây hanh cãi cay đắng nhất là những điều khoản quy định sự công bằng về vị thế. Trung Quốc đến lúc này vẫn khăng khăng về vị thế ưu việt đã ăn sâu vào bản sắc dân tộc, và được phản ánh ở hệ thống triều cống. Giờ đây nó phải đối mặt với một thế lực ngoại bang quyết tâm xóa bỏ tên của nó khỏi danh sách "các nước phải triều cống" cho Trung Quốc, dưới sự đe dọa và chứng minh nhà cầm quyền của mình cũng bằng vai phải lứa với nhà cầm quyền của Thiên triều. Các nhà lãnh đạo ở cả hai phía đều hiểu rằng đây là một tranh chấp lớn hơn nhiều chuyện nghi thức, hoặc thuốc phiện. Triều đình nhà Thanh đang sẵn sàng nhượng bộ những người nước ngoài tham lam bằng tiền và thương mại; nhưng nếu nguyên tắc bình đẳng về chính trị của "phiên" đối với Thiên Tử được thiết lập, toàn bộ trật tự thế giới Trung Hoa sẽ bị đe dọa, vương triều sẽ gặp phải rủi ro đánh mất Thiên Mệnh. Palmerston, trong những bức thư chua cay ông thường xuyên gửi cho những người đàm phán của ông, đã xem số tiền đền bù phần nào chi mang tính biểu tượng. Nhưng ông dành sự chú ý đặc biệt đến việc nhiếc móc họ đã đồng ý với những hình thức giao tiếp của Trung Quốc, với các từ ngữ cho thấy "những giả định về sự ưu việt của Trung Quốc" hoặc ngụ ý rằng nước Anh, bên chiến thắng trong cuộc chiến, vẫn là nước phải van XIN ân huệ tối cao của Hoàng đế. Cuối cùng, quan điểm của Palmerston đã thắng thế, Hiệp ước Nam Kinh được bổ sung một điều khoản bảo đảm rõ ràng rằng các quan lại Trung Quốc và Anh từ nay về sau sẽ "giao thiệp... trên cơ sở công bằng hoàn hảo", còn tiếp tục đi xa đến mức liệt kê các chữ viết Trung Hoa cụ thể trong văn bản với những ý nghĩa bao hàm trung tính chấp nhận được. Các ghi chép của Trung Hoa (hoặc ít nhất là những gì mà người nước ngoài tiếp cận được) không còn mô tả Anh là nước đang "van xin" các giới chức Trung Hoa hoặc "đang run rẩy tuân thủ" các "mệnh lệnh" của họ nữa. Thiên triều đã hiểu được sự thấp kém về quân sự của Trung Quốc nhưng vẫn chưa có phương pháp thích hợp nào để giải quyết. Ban đầu, họ áp dụng các phương pháp truyền thống quản lý "phiên". Thất bại không phải là chưa từng xảy đến trong lịch sử dài của Trung Quốc. Những nhà cai trị Trung Hoa đã giải quyết nó bằng cách áp dụng năm miếng mồi được mô tả trong chương trước. Họ đã thấy đặc trưng chung của những kẻ xâm lược đó là khao khát muốn dính máu ăn phần nền văn hóa Trung Quốc, chúng muốn định cư trên đất Trung Hoa và chiếm lấy nền văn minh của họ. Nên chúng có thể dần dần bị thuần phục bằng một số liệu pháp tâm lý theo minh hoạ của Hoàng tử Kỳ Anh, và khi đến lúc sẽ trở thành một phần trong cuộc sống của Trung Quốc. Tuy nhiên, những kẻ xâm lược Châu Âu không có khát vọng cũng như mục đích nào là giới hạn. Tự cho mình là những nước tiên tiến hơn, mục tiêu của họ là khai thác Trung Quốc về lợi ích kinh tế, chứ không phải là hòa nhập phong cách sống. Những yêu cầu của họ do đó chi bị giới hạn căn cứ theo tài nguyên và lòng tham. Các mối quan hệ cá nhân không thể mang tính quyết định vì những người lánh đạo quân xâm lược không phải là hàng xóm, họ đã sống cách đó hàng nghìn dặm, nơi ấy họ được quản lý theo những động cơ trái ngược với sự khôn ngoan, quanh co và gian lận trong hình thức chiến lược của nhà Thanh. Trong vòng một thập niên, Vương triều Trung Hoa đã từ đỉnh cao để trở thành một đối tượng của các lực lượng thuộc địa đang cạnh tranh. Ở tư thế sẵn sàng giữa hai kỷ nguyên và hai khái niệm khác nhau về các quan hệ quốc tế, Trung Quốc nỗ lực khẳng định một bản sắc mói, và trên hết là hòa hợp các giá trị đánh dấu sự vĩ đại của mình, với công nghệ và thương mại mà sẽ trở thành cơ sở đảm bảo an ninh cho đất nước. Chương 3: TỪ ĐỈNH CAO XUỐNG VỰC SÂU KHI THẾ KỶ MƯỜI CHÍN ĐÃ ĐẾN, Trung Quốc trải qua lịch sử của chính mình. Trước Chiến tranh Nha Phiến, họ quan niệm thuật ngoại giao và thương mại quốc tế như các hình thức thừa nhận sự xuất sắc của Trung Quốc. Bây giờ ngay cả khi bước vào một thời kỳ rối loạn trong nước, họ phải đối mặt với ba thách thức từ nước ngoài. Bất kỳ mối đe dọa nào trong số này cũng có thể lật đổ một triều đại. Những mối đe dọa này đến từ mọi hướng, xưa nay vốn là những hiện thân không thể nhận thức được. Từ bên kia các đại dương ở phương Tây, các nước Châu Âu đã đến. Họ không làm dấy lên nhiều thách thức về phòng vệ lãnh thổ như đối với các khái niệm không thể hòa giải về trật tự thế giới. Phần lớn các thế lực phương Tây tự giới hạn mình ở mức khai thác thêm nhiều nhượng bộ trên bờ biển Trung Hoa, và đòi hỏi các quyền hạn tự do thương mại và hoạt động truyền giáo. Nghịch lý ở chỗ đây là mối đe dọa trong khi người Châu Âu lại không hề xem nó như một cuộc chinh phục. Họ không cố gắng thay thế triều đại hiện có - mà chỉ đơn giản là áp đặt một trật tự thế giới hoàn toàn mới, về cơ bản là không tương thích với trật tự thế giới của Trung Quốc. Từ phía Bắc và phía Tây, một nước Nga thống trị về quân sự và theo chủ nghĩa bành trướng cố gắng xoi mói vùng nội địa khổng lồ của Trung Quốc. Sự hợp tác của Nga tạm thời có thể mua được, nhưng họ đã nhận ra chẳng có rào cản nào giữa các vùng đất của riêng họ với các thuộc địa bên ngoài của Trung Quốc. Không giống các nước đi chinh phục trước đó, Nga không muốn trở thành một phần trong nền văn hóa Trung Hoa, các lãnh thổ mà Nga đã xâm nhập đơn giản là sẽ mất lâu dài về tay đế chế này. Dẫu vậy, các thế lực phương Tây cũng như Nga đều không có tham vọng thay thế nhà Thanh và đòi đoạt được Thiên Mệnh; về cơ bản họ đã đi đến kết luận rằng mình có nhiều thứ để mất trước sự sụp đổ của nhà Thanh. Ngược lại, Nhật Bản không có nhiều lợi ích trong sự tồn tại của các thể chế xưa của Trung Quốc hay trật tự thế giới Hoa vi trung. Từ phía Đông Nhật Bản bắt đầu lên đường không chi muốn xâm chiếm những miếng bánh ngon lành trong lãnh thổ Trung Quốc, mà còn muốn hất cẳng Bắc Kinh làm trung tâm của một trật tự quốc tế Đông Á mới. Những tai ương kế tiếp được nhìn nhận với sự xuống tinh thần đáng kể tại Trung Quốc đương thời, khi một phần "thế kỷ nhục nhã" khét tiếng chỉ được kết thúc nhờ sự tái thống nhất đất nước bằng một hình thức Chủ nghĩa dân tộc quyết đoán. Cùng thời điểm đó, kỷ nguyên khó khăn của Trung Quốc đứng trước rất nhiều con đường, như một sự chứng thực những khả năng đáng kể của nó vượt qua những trở ngại và có thể bẻ gẫy các nhà nước khác. Trong khi quân đội nước ngoài đang diễu qua Trung Quốc và tống tiền bằng những điều khoản nhục nhã, Thiên triều không bao giờ thôi khẳng định đòi hỏi của mình lên triều đình và cố gắng thực hiện nó trên hầu khắp lãnh thổ Trung Quốc. Các nước xâm lược được xem như những kẻ xâm lược khác đã đến từ mấy thế kỷ trước, như một sự gián đoạn khó chịu, như một sự quấy rối khó chịu đối với nhịp điệu lâu dài trong cuộc sống của người Trung Hoa. Triều đình tại Bắc Kinh có thể hành động theo cách đó vì những sự quấy phá của người nước ngoài đều nằm trong chu vi của Trung Quốc, và vì những kẻ xâm lược đến chi vì mục đích thương mại, chính xác thì trong sự quan tâm của những kẻ xâm lược, các khu vực rộng lớn ấy bao gồm hầu hết dân số, vẫn là những vùng đất tĩnh lặng, hoang vắng. Chính quyền tại Bắc Kinh do đó đã đạt được một lợi ích để điều động quân đội. Tất cả những đòi hỏi đều phải được đàm phán với triều đình, do đó họ đang ở vị thế có thể kích động những kẻ xâm lược đánh lẫn nhau. Các chính trị gia Trung Hoa dùng bàn tay ốm yếu với kỹ năng đáng kể ra tay chặn trước những gì có thể là một thảm họa to lớn hơn. Theo quan điểm về cán cân quyền lực, cơ cấu mục tiêu các lực lượng hẳn sẽ cho thấy Trung Quốc không có khả năng sống sót như một nhà nước đơn nhất, có quy mô của một lục địa. Nhưng với hình ảnh vượt trội truyền thống của người Trung Quốc thường xuyên phải trải qua thách thức về vũ lực, và quốc gia phải hứng chịu sự cướp bóc, phá phách của thuộc địa lẫn nổi dậy ở trong nước, Trung Quốc cuối cùng đã hoàn thành hết tất cả những công việc nặng nhọc bằng chính sức mình. Trải qua một quá trình đau đớn và mất uy tín, các chính trị gia Trung Hoa cuối cùng đã bảo toàn được những tuyên bố về đạo đức và lãnh thổ trong trật tự thế giới đang tan rã của họ. Có lẽ điều đáng kể nhất là họ đã làm điều đó hoàn toàn bằng các phương pháp truyền thống. Một nhánh trong tầng lớp thống trị của nhà Thanh đã viết ra những hồi ức có khả năng hùng biện, theo phong cách cổ điển, về những thách thức do phương Tây, nước Nga và một nước Nhật đang lên đặt ra, và nhu cầu phát sinh đối với Trung Quốc là phải thực hành "tự cường" và cải thiện các năng lực công nghệ của chính mình. Nhưng thành phần ưu tú theo Khổng giáo của Trung Quốc và quần chúng bảo thủ nói chung vẫn tỏ thái độ nước đôi sâu sắc đối với lời khuyên này. Nhiều người quan niệm việc nhập các văn bản tiếng nước ngoài, công nghệ phương Tây đang gây nguy hiểm cho trật tự xã hội và tinh hoa văn hóa của Trung Quốc. Sau khi trải qua những trận chiến có lúc tàn khốc, bè cánh chiếm ưu thế đã quyết định hiện đại hóa theo con đường của phương Tây đồng nghĩa với chấm dứt được làm người Trung Quốc, và rằng chẳng gì có thể biện minh được việc bỏ rơi di sản độc đáo này. Vì thế Trung Quốc phải đối mặt với một kỷ nguyên mở rộng triều đình không có những lợi ích của máy móc quân sự hiện đại nào trên quy mô quốc gia, mà chỉ là những sự áp dụng dần dần những cách tân về chính trị và tài chính. Để vượt qua bão tố, Trung Quốc không dựa vào công nghệ hay sức mạnh quân sự mà là hai nguồn lực truyền thống sâu sắc: Khả năng phân tích của các nhà ngoại giao, sự phong phú và lòng tin về văn hóa của người dân. Trung Quốc đã phát triển các chiến lược khéo léo được hình thành để kích thích các "phiên" chống lại nhau. Các quan chức phụ trách quản lý các quan hệ ngoại giao của Trung Quốc đã đưa ra những nhượng bộ tại rất nhiều thành phố - nhưng họ đã thận trọng mời các nhóm người nước ngoài cùng chia sẻ quyền lợi, nên họ có thể "dùng phiên này chống phiên kia" và tránh bị khống chế bởi bất kỳ thế lực nào. Cuối cùng họ kiên quyết tôn trọng triệt để "những hiệp ước bất bình đẳng" với phương Tây và các nguyên tắc về luật quốc tế của nước ngoài, không phải vì các quan lại Trung Quốc tin tưởng rằng chúng có giá trị, mà là vì việc này mang lại những phương tiện giúp hạn chế những tham vọng của nước ngoài. Đối mặt với hai đối thủ hùng mạnh tiềm năng đòi thống trị miền Đông Bắc Trung Quốc, và hầu như không sở hữu sức mạnh để đẩy lui quân thù, các nhà ngoại giao Trung Quốc khiến Nga và Nhật quay sang chống lại nhau. Như thế sẽ giảm nhẹ phần nào phạm vi và những sự xâm lấn lâu dài của từng nước. Dưới ánh sáng của sự tương phản giữa quân sự Trung Quốc gần như bất lực và hình ảnh tự phong về vai trò thế giới của mình, phòng thủ bằng đạo quân hậu tập nhằm duy trì một chính phủ Trung Hoa độc lập là một thành tựu đáng kể. Chẳng có lễ ăn mừng chiến thắng nào cho thành tích này, đó là một nỗ lực không hoàn chỉnh, kéo dài đến mấy thập niên được đánh dấu bằng rất nhiều những sự đảo lộn và phản đối trong nước, kéo dài và đôi khi hủy hoại những người đã đề xuất ra chúng. Cuộc chiến đấu này khiến người dân Trung Hoa phải trả giá đắt - vốn đã được thử thách về lòng kiên nhẫn và tinh thần chịu đựng, không phải lần đầu tiên cũng không phải lần cuối cùng, như một hàng phòng thủ cơ bản. Nhưng nó đã bảo tồn lý tưởng của Trung Quốc như một lục địa thực tế có thể kiểm soát được chính vận mệnh của mình. Với kỷ luật và sự tự tìn cao độ, Trung Quốc luôn mở rộng cửa cho kỷ nguyên trỗi dậy của chính nó sau này. Kế hoạch chỉ tiết của Vệ Uyên: "Dùng 'phiên' chống 'phiên'", học hỏi kỹ thuật của họ Trên con đường hứng chịu những cuộc tấn công xảo trá của Châu Âu phương Tây với công nghệ vượt trội và những tham vọng mới của Nga và Nhật Bản, Trung Quốc được bảo toàn nhờ sự liền mạch về văn hóa và kỹ năng phi thường của những nhà ngoại giao - tất cả đều đáng kể hơn bối cảnh triều đình nói chung đang rất chậm hiểu. Vào giữa thế kỷ XIX, chỉ có một số ít thành viên trong giới tinh tú của Trung Hoa bắt đầu hiểu rằng Trung Quốc không còn sống trong một hệ thống được đánh dấu bằng sự ưu việt của mình, và rằng Trung Quốc phải học ngữ pháp của một hệ thống cạnh tranh với khối thế lực. Một viên quan như thế là Vệ Uyên (1794 - 1856), là người theo đạo Khổng chức vị cao từng làm phó cho Lâm Tắc Từ, viên tổng đốc Quảng Châu đã trừng trị thẳng tay ngành kinh doanh thuốc phiện, châm ngòi cho sự can thiệp của Anh và cuối cùng bị ép phải lưu đày. Trong khi trung thành với triều Thanh, Vệ Uyên quan tâm sâu sắc đến tính tự mãn của nó. Ông đã viết ra một nghiên cứu tiên phong về địa lý nước ngoài, sử dụng các tài liệu được sưu tầm và chuyển dịch từ các nhà buôn và hội truyền giáo nước ngoài. Mục đích là nhằm cổ vũ Trung Quốc nên có tầm nhìn xa hơn các nước chư hầu trên các biên giới trung gian. Cuốn "Những Kế hoạch Phòng thủ Hàng hải" năm 1842 của Vệ Uyên về tính chất là một nghiên cứu về những thất bại của Trung Quốc trong chiến tranh Nha Phiến, nhằm áp dụng những bài học về thuật ngoại giao theo cán cân quyền lực của Châu Âu đối với những rắc rối đương thời của Trung Quốc. Nhận ra sự yếu kém nghiêm trọng của Trung Quốc có quan hệ đến những thế lực ngoại bang - một giả thuyết mà những người đương thời với ông nói chung không chấp nhận - Vệ Uyên đã đề xuất các phương pháp theo đó Trung Quốc có thể đạt được một lợi thế huy động quân đội. Vệ Uyên đã đề xuất một chiến lược theo nhiều hướng: Có hai biện pháp tấn công quân “phiên", đó là kích thích các nước không có tình hữu nghị với quân “phiên" tiến hành tấn công chúng, hai là học hỏi các kỹ năng siêu việt của quân "phiên" nhằm kiểm soát chúng. Có hai phương pháp hòa bình với quân "phiên", đó là cho phép nhiều quốc gia thương mại được tiến hành buôn bán nhằm duy trì hòa bình với quân "phiên", hai là ủng hộ hiệp ước đầu tiên của chiến tranh Nha Phiến nhằm duy trì thương mại quốc tế. Đó là sự minh họa cho kỹ năng phân tích của thuật ngoại giao Trung Quốc mà khi đối mặt với kẻ thù siêu việt và những đòi hỏi ngày càng leo thang, nên hiểu rằng nó đang tiến rất nhanh đến một hiệp ước còn nhục nhã hơn nhiều, đặt giới hạn cho những sự tống tiền tiếp theo. Trong khi đó, Vệ Uyên xem xét các quốc gia có thể tin được rằng họ sẽ đặt sức ép lên Anh, căn cứ theo các nguyên tắc về trạng thái cân bằng của Châu Âu. Trích dẫn những tiền lệ xa xưa trong đó nhà Hán, Đường và giai đoạn đầu của nhà Thanh đã kiềm chế tham vọng của các bộ tộc tàn bạo. Vệ Uyên xem quả địa cầu, xem xét "các nước kẻ thù mà quân phiên Nga rất sợ hãi". Được viết như một câu châm ngôn "để quân phiên chống quân phiên" là một hình thức tự xử. Vệ Uyên chỉ tay vào các nước "Nga, Pháp và Mỹ" ở phía Tây, và "Các chiến binh Gurkha [của Nepal], Burma và Xiêm [Thái Lan] và An Nam [Việt Nam]" ở phía Nam là những ứng cử viên có thể nhận thức được. Vệ Uyên tưởng tượng một cuộc tấn công của Nga và chiến binh Gurkha vào những lợi ích xa xôi nhất, và được phòng thủ kém nhất của Anh, đó là đế chế Ấn Độ. Sự kích thích những sự thù địch lâu dài của Pháp và Mỹ đối với Anh, khiến chúng tấn công Anh bằng đường biển là một vũ khí khác trong phân tích của Vệ Uyên. Đó là một giải pháp hết sức độc đáo nhưng bị ngăn trở trước thực tế rằng, chính phủ Trung Quốc chẳng biết tí gì về việc triển khai nó ra sao. Họ chi có được chút kiến thức giới hạn về các nước liên minh tiềm năng đang cân nhắc nhưng lại chẳng chịu đưa ra tí tiền nào. Vệ Uyên đã hiểu được những hạn chế của Trung Quốc. Ông khẳng định trong một kỷ nguyên các hoạt động chính trị toàn cầu, vấn đề không phải là "quân phiên ngoại bang không dùng được"; mà là "chúng ta cần nhân sự có khả năng đưa ra những dàn xếp với họ" và cần người biết "vị trí của họ [và] những quan hệ tương hỗ của họ là bạn hay thù". Vệ Uyên tiếp tục, vì không thể ngăn chặn bước tiến của quân Anh, Bắc Kinh giờ cần phải làm suy yếu vị thế tương đối của Luân Đôn trên thế giới và tại Trung Quốc. Ông đưa ra một ý kiến nguyên bản khác: Mời các quân "phiên" khác vào Trung Quốc thiết lập một cuộc cạnh tranh giữa lòng tham của họ và lòng tham của quân Anh. Như thế Trung Quốc có thể nổi lên như một con lắc có tác động đến sự phân chia tài sản của chính mình. Vệ Uyên viết: Ngày nay quân "phiên" Anh không chỉ chiếm Hồng Kông, tích lũy một lượng lớn của cải cũng như tự hào trước các quân phiên khác, mà họ còn mở ra các bến cảng và cắt giảm nhiều chi phí nhằm tạo thuận lợi cho các cánh quân này. Nếu để quân "phiên" Anh đối xử tốt với họ để mở rộng thêm vây cánh, thì chẳng phải sẽ tốt hơn sao khi chính chúng ta nên là người làm việc đó để kiểm soát họ như những ngón tay trên bàn tay? Nói cách khác, Trung Quốc phải đưa ra những sự nhượng bộ cho tất cả các nước tham lam, hơn là để Anh đòi hỏi các nước đó và tự kiếm lợi từ đó bằng cách chia sẻ chiến lợi phẩm VỚI các nước khác. Cơ chế đạt được mục tiêu này chính là nguyên tắc Đãi ngộ Tối Huệ Quốc - nghĩa là bất kỳ đặc quyền nào được cấp cho một thế lực này phải được tự động mở rộng cho các thế lực khác. Thời gian thì không trung lập. Lợi ích từ các cuộc vận động tinh tế của Vệ Uyên sẽ phải được đánh giá bằng khả năng Trung Quốc tự trang bị cho mình để sử dụng "những kỹ thuật siêu việt của quân phiên". Vệ Uyên khuyên Trung Quốc phải "đưa những người thợ thủ công phương Tây đến Quảng Đông" từ Pháp hoặc Mỹ "để phụ trách đóng tàu chiến và sản xuất vũ khí". Vệ Uyên tổng kết chiến lược với lời khẳng định rằng "trước khi giải quyết bằng hòa bình, nhiệm vụ của chúng ta là phải dùng quân "phiên" chống quân "phiên". Sau khi ổn định rồi, mới là thời điểm thích hợp để chúng ta học hỏi những kỹ thuật siêu việt của họ nhằm kiểm soát họ". Cho dù ban đầu kêu gọi hiện đại hóa công nghệ tùy tiện, Thiên triều cũng đã áp dụng chiến lược trung thành với nội dung các hiệp ước Chiến tranh Nha Phiến, nhằm thiết lập một mức trần cho các đòi hỏi của phương Tây. Như một viên quan hàng đầu sau này đã viết, Trung Quốc sẽ "hành động căn cứ theo các hiệp ước, không cho phép ngoại bang tiến thêm một bước nào nữa ngoài những gì ghi trong hiệp ước", qua đó các quan lại Trung Hoa phải "chân thành và thân mật, nhưng lặng lẽ khiến chúng không vượt quá giới hạn". Uy quyền xói mòn: Những cuộc nội loạn và thách thức của ngoại bang Dĩ nhiên, các thế lực trong hiệp ước ở phương Tây không có ý định tuân thủ giới hạn - và sau cơn chấn động từ các cuộc đàm phán giữa Kỳ Anh - Pottinger, một khoảng cách mới trong các kỳ vọng bắt đầu xuất hiện. Đối với triều đình Trung Hoa, các hiệp ước là một sự nhượng bộ tạm thời đối với thế lực "phiên", sẽ được tuân thủ ở mức cần thiết nhưng sẽ không bao giờ được tự nguyện mở rộng. Đối với phương Tây, các hiệp ước là sự khởi đầu của một quá trình lâu dài, theo đó Trung Quốc sẽ dần dần bị lôi kéo chắc chắn vào các quy phạm giao lưu chính trị và kinh tế của phương Tây. Nhưng điều phương Tây nhận thức được đó là quá trình khai sáng được một số người ở Trung Quốc xem là sự tấn công về tâm lý. Đây là lý do tại sao người Trung Hoa không chịu đáp ứng các yêu cầu của ngoại bang mở rộng các hiệp ước bao gồm thương mại tự do tại kinh đô Trung Hoa. Bất chấp kiến thức rất hạn chế về phương Tây - Bắc Kinh đã hiểu rằng sự kết hợp thế lực vượt trội của ngoại bang, sự giải phóng hoạt động của ngoại bang trong lòng Trung Quốc và rất nhiều hội truyền giáo của phương Tây làm sụt giảm nghiêm trọng những giả định về trật tự thế giới của người Trung Hoa một khi Trung Quốc trở thành một đất nước "bình thường", nó sẽ đánh mất đi uy quyền về đạo đức độc đáo của lịch sử, nó sẽ đơn giản trở thành một quốc gia suy yếu khác bị những kẻ xâm lược bao vây. Trong bối cảnh này, có vẻ những tranh chấp nhỏ nhoi về đặc quyền ngoại giao và kinh tế đã biến thành đụng độ lớn. Tất cả chuyện này đã diễn ra với cơ sở nổi loạn to lớn ở Trung Quốc, được các quan lại phụ trách quản lý tiếp xúc với ngoại bang che giấu rất kỹ bằng sự tự tin không nao núng - một nét tiêu biểu vẫn chưa thay đổi ở thời kỳ hiện đại. Macartney đã nhận xét vào năm 1793 về sự thỏa hiệp khó chịu giữa tầng lớp thống trị Mãn Châu của nhà Thanh, thành phần quan lại ưu tú của nhà Hán và hầu hết dân Hán nói chung. "Gần một năm hôi qua rồi", ông lưu ý, "mà ở các tỉnh chẳng có cuộc khởi nghĩa nào hết". Thiên Mệnh của triều Thanh đã bị đặt dấu hỏi, các kẻ thù trong nước đã leo thang phạm vi kháng cự của họ. Những thách thức của họ cả về tôn giáo lẫn dân tộc, tạo cơ sở cho các xung đột chứa đựng sự tàn khốc. Những tầm với ra phương Tây xa xôi của đế chế đã chứng kiến các cuộc nội loạn của đạo Hồi và tuyên bố của những vương quốc Khan ngắn ngủi theo chính sách ly khai, chi được chặn đứng với tổn thất rất lớn về tiền và sinh mạng. Ở Trung Quốc, một cuộc nổi dậy được biết đến như loạn Niệm quân lôi kéo được sự ủng hộ đáng kể của các tầng lớp lao động Trung Quốc dân tộc Hán. Và bắt đầu vào năm 1851, đã tiến hành cuộc nổi dậy kéo dài gần hai thập niên. Thách thức nghiêm trọng nhất đến từ loạn Thái Bình Thiên Quốc (1850 - 1864), được sự hỗ trợ của nhóm Thiên Chúa giáo Trung Hoa ở phía Nam. Các hội truyền giáo đã tồn tại suốt nhiều thế kỷ, cho dù bị giới hạn gay gắt. Họ bắt đầu thâm nhập vào trong nước với số lượng lớn sau chiến tranh Nha phiến. Do một nhân vật huyền bí của Trung Hoa có sức mê hoặc dân chúng tự xưng mình là em trai Chúa Jesus và một người phó khẳng định những sức mạnh ngoại cảm, cuộc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc nhằm mục đích lật đổ nhà Thanh và thay bằng "Vương quốc Thái bình của Trời", được cai trị bằng sự thể hiện kỳ lạ các văn bản truyền giáo du nhập của những người đứng đầu. Các lực lượng của Thái Bình đã thành công khi giành được quyền kiểm soát Nam Kinh, nhiều nơi ở phía Nam và miền Trung Trung Quốc từ tay nhà Thanh, cai trị dưới hình thức một triều đại mới hình thành. Cho dù ít được biết tới trong chính sử phương Tây, xung đột giữa Thái Bình và các quan lại nhà Thanh là một trong những cuộc xung đột có thiệt hại lớn nhất trong lịch sử, với con số thương vong ước tính ờ hàng chục triệu. Trong khi không có con số chính thức nào được ghi chép, trong suốt các thời kỳ diễn ra các loạn Thái Bình, Hồi giáo và Niệm quân ước tính dân số Trung Quốc sụt giảm từ gần 410 triệu người năm 1850 xuống còn 350 triệu người vào năm 1873. Hiệp ước Nam Kinh và các đối tác của Trung Quốc là Mỹ và Pháp cùng đến đàm phán vào những năm 1850, trong khi Trưng Quốc bị giằng xé qua các cuộc xung đột trong nước. Các thế lực trong hiệp ước khăng khăng cho rằng các nhà ngoại giao của họ phải được phép thường trú quanh năm tại kinh đô Trung Hoa, tuyên bố rằng họ không phải là phái đoàn triều cống, mà là các đại diện của những nước có chủ quyền tương đương. Người Trưng Hoa triển khai trên diện rộng các chiến thuật trì hoãn, được khuyến khích bổ sung từ số phận những người đàm phán trước đó, không một quan lại nhà Thanh nào có khả năng lại muốn nhận thua trong vấn đề đại diện ngoại giao lâu dài. Năm 1856, tàu của Trung Quốc đăng ký tại Anh, Arrow, bất ngờ bị người Trưng Quốc kiểm tra. Viện cớ lá cờ Anh bị xúc phạm, chuyện này đã tạo một lý do mới cho sự tái xuất hiện những hành động thù địch mới. Như trong cuộc xung đột năm 1840, biến cố khơi mào chẳng to tát gì (việc đăng ký của tàu, sau này mới phát giác ra là không có hiệu lực về mặt ngữ nghĩa); nhưng cả hai bên đều hiểu rằng mình đang chơi canh bạc với nhiều rủi ro. Với những hệ thống phòng thủ của Trung Quốc vẫn đang ở giai đoạn phát triển phôi thai, các lực lượng quân Anh đã bao vây Quảng Châu và Pháo đài Patu phía Bắc Trung Quốc, từ đây họ có thể dễ dàng hành quân đến Bắc Kinh. Trong các cuộc đàm phán sau đó, khoảng cách về nhận thức lớn hơn bao giờ hết. Quân Anh nhấn mạnh vào lời kết tội hoạt động truyền giáo, thể hiện những vị thế đàm phán như một dịch vụ công cuối cùng đã khiến cả thế giới hiện đại biết đến Trung Quốc. Qua đó trợ lý đàm phán của Luân Đôn, Horatio Lay, đã tóm tắt quan điểm phương Tây chiếm ưu thế. "Đại diện ngoại giao sẽ tốt cho cả chúng tôi lẫn cho các ngài, vì các ngài chắc chắn sẽ thấy. Thuốc đắng có thể khó chịu nhưng các phản ứng phụ của nó sẽ rất tuyệt". Các quan chức nhà Thanh hầu như không nhiệt tình đến thế. Họ thừa nhận các điều khoản hiệp ước chi sau một loạt những tiếp xúc nội bộ khó chịu giữa triều đình với nhà đàm phán, và mối đe dọa mới là quân Anh sẽ tiến đến Bắc Kinh. Vấn đề trọng tâm của Hiệp ước Thiên Tân năm 1858 phát sinh từ đó là sự nhượng bộ Luân Đôn cố gắng đạt được trong vô vọng suốt hơn sáu mươi năm - quyền được mở sứ quán lâu dài tại Bắc Kinh. Hiệp ước còn cho phép người ngoại bang du lịch trên sông Dương Tử, mở thêm các "hải cảng theo hiệp ước" để buôn bán với phương Tây và bảo vệ những người Trung Hoa và người phương Tây cải đạo theo Đạo Thiên Chúa (một khía cạnh rất khó khăn đối với nhà Thanh xét theo loạn Thái Bình Thiên Quốc). Người Pháp và người Mỹ đã ký kết các hiệp ước của riêng mình với những điều khoản tương tự theo các điều khoản Quy chế Tối Huệ Quốc. Các thế lực trong hiệp ước giờ đây đã dành sự chú ý vào việc thiết lập các sứ quán thường trú tại một kinh đô rõ ràng không chào đón họ. Vào tháng 5 năm 1859, đại diện ngoại giao mới của Anh, Frederick Bruce, đã đến Trung Quốc nhằm trao đổi những sự phê chuẩn hiệp ước sẽ cấp cho ông quyền được thường trú tại Bắc Kinh. Nhận thấy tuyến đường sông chủ đạo đến kinh đô bị chặn quá nhiều quần đảo và nhánh sông, ông đã yêu cầu tập hợp các tàu ngầm Anh lại xử lý các chướng ngại. Tuy nhiên các lực lượng Trung Hoa đã gây sốc cho đoàn của Bruce bằng cách khai hỏa từ các Pháo đài Taku (hoặc Dagu) gần đó. Trận chiến kế tiếp này khiến 519 lính Anh bị giết và 456 người bị thương. ĐÓ là chiến thắng đầu tiên của người Trung Hoa trước các lực lượng phương Tây hiện đại, và làm vỡ tan hình ảnh thiếu chuyên nghiệp của quân sự Trung Hoa, ít nhất là tạm thời. Thế nhưng điều đó chỉ có thể tạm thời làm trì hoãn việc đại sứ Anh đến Trung Quốc. Palmerston đã cử ngài Elgin dẫn đầu cuộc hành quân kết hợp cả Anh lẫn Pháp đến Bắc Kinh, mang theo những yêu cầu xâm chiếm kinh đô và "nói lý với Hoàng đế". Để trả đũa cho "Thất bại Dagu" và một sự biểu dương sức mạnh phương Tây mang tính biểu tượng, Elgin đã yêu cầu đốt cháy Cung điện Di Hòa Viên của Hoàng đế. Trong quá trình đó, phá hủy luôn các kho báu nghệ thuật vô giá - một hành động gây phẫn nộ tại Trung Quốc hơn một thế kỷ rưỡi sau đó. Chiến dịch bảy năm của Trung Quốc chống các quy tắc về những quan hệ liên tiểu bang của phương Tây giờ đây đã đến mức khủng hoảng không thể chối cãi. Những nỗ lực trì hoãn theo thuật ngoại giao được thực hiện trong suốt quá trình của họ, sức mạnh đã gặp phải sức mạnh vượt trội. Quân "phiên" đòi hỏi sự bình đẳng về chủ quyền, đã từng bị miệt thị tại Bắc Kinh như một trò cười nay biến thành những sự minh họa sức mạnh quân sự. Các quân đội nước ngoài xâm chiếm kinh đô của Trung Quốc, áp đặt cách tư duy của người phương Tây về công bằng chính trị và những đặc quyền của sứ thần. Đến lúc này, thêm một kẻ đòi hỏi di sản của Trung Quốc bước vào cuộc tranh chấp. Vào năm 1860, những người Nga đã có mặt tại Bắc Kinh hơn 150 năm - với một hội truyền giáo của Giáo hội, họ là quốc gia Châu Âu đầu tiên được phép xây nhà tại đây. Các quyền lợi của người Nga theo cách nào đó đã kéo theo quyền lợi của các thế lực Châu Âu khác, họ đã giành được tất cả những lợi ích mở rộng cho các thế lực trong hiệp ước, nhưng không hợp tác với người Anh trong các trò áp dụng sức mạnh theo định kỳ. Mặt khác, toàn bộ mục tiêu của họ đã đi xa hơn nhiều trong việc khuyên ai từ bỏ tín ngưỡng tôn giáo, hoặc thương mại dọc bờ biển. Họ đã hiểu được việc nhà Thanh từ chối một cơ hội phân chia Đế chế Trung Hoa và liên kết lại "các thuộc địa bên ngoài" của mình với Nga. Họ đã để ý đặc biệt đến những phần mở rộng được phân chia một cách mơ hồ, được quản lý lỏng lẻo của Mãn Châu (vùng trung tâm của Mãn Châu ở phía Đông Bắc Trung Quốc), Mông Cổ (vùng thảo nguyên bộ tộc bán tự trị ở thời ấy về phía Bắc Trung Quốc) và Tân Cương (vùng đất trống gồm núi non và các hoang mạc, dân cư chủ yếu là người theo đạo Hồi). Với mục đích đó, Nga đã từ từ, thận trọng tiến đến bước mở rộng sự hiện diện của mình dọc theo các biên giới trong đất liền, quyến rũ lòng trung thành của các vương hầu địa phương bằng cách đưa ra lợi ích về chức tước và vật chất, kèm theo đó là đoàn kỵ binh đầy đe dọa. Vào thời điểm nguy hiểm nhất của Trung Quốc, Nga đã nổi lên như là một thế lực thuộc địa, ngỏ ý làm trung gian hòa giải trong xung đột năm 1860 - trong thực tế, đây là một cách đe dọa can thiệp. Thuật ngoại giao tinh vi khéo léo - những người khác có thể cho là lừa lọc, dối trá - được hỗ trợ bằng mối đe dọa dùng vũ lực ngấm ngầm. Bá tước Nikolai Ignatieff, đại diện toàn quyền trẻ tuổi, xảo quyệt của Nga hoàng tại Bắc Kinh, đã cố gắng thuyết phục triều đình Trung Hoa rằng chỉ có Nga mới đảm bảo rằng các thế lực phương Tây đang xâm lược sẽ sơ tán, và thuyết phục các thế lực phương Tây rằng chỉ có Nga mới đảm bảo sự tuân thủ của Trung Quốc với các hiệp ước. Tạo điều kiện cho cuộc tiến quân của Anh và Pháp vào Bắc Kinh với những bản đồ chi tiết và sự thông minh, Ignatieff đã trở mặt và thuyết phục các lực lượng này rằng mùa Đông đang đến gần trên sông Bạch Hà, tuyến đường sông ra vào Bắc Kinh và sông sẽ bị đóng băng. Sau đó bỏ mặc họ bị các đám đông dân chúng Trung Hoa thù địch bao vây. Đối với những hoạt động này, Ignatieff đã yêu cầu một cái giá phải trả về mặt lãnh thổ gây sốc: Một dải lãnh thổ rộng ở nơi được gọi là vùng ngoài Mãn Châu dọc bờ biển Thái Bình Dương, bao gồm thành phố cảng giờ có tên là Vladivostok Bằng hành động này, Nga đã chiếm được một cơ sở hải quân quan trọng hoàn toàn mới, một địa vị chắc chắn trong vùng biển Nhật Bản và một lãnh thổ rộng 350.000 dặm vuông đã từng được xem là của Trung Hoa. Ignatieff cũng đàm phán mở cửa Ưrga (bây giờ là Ulan Bator) tại Mông cổ và thành phố viễn tây Kashgar cho Nga làm thương mại và các văn phòng lãnh sự. Nhằm làm cho sự nhục nhã tồi tệ thêm, Elgin đã bảo đảm cho Anh một sự mở rộng thuộc địa Hồng Kông vào lãnh thổ liền kề của Cửu Long. Trung Hoa đã dùng Nga để chặn trước những gì được tin là một cuộc tấn công lâu dài hơn của các thế lực theo hiệp ước đang chiếm kinh đô và bờ biển của Trung Quốc. Nhưng trong một kỷ nguyên yếu ớt của Trung Hoa, việc "dùng quân phiên chống quân phiên" không thành công nếu không có cái giá phải trả. Chống đỡ sự suy sụp Trung Quốc đã không sống sót được qua bốn nghìn năm như một nền văn minh độc đáo, và hai thiên niên kỷ như một nhà nước thống nhất bằng cách thờ ơ với những cuộc xâm lược của nước ngoài đang gần kề. Trong suốt thời kỳ đó, những nhà chinh phục đã buộc phải chấp nhận nền văn hóa Trung Hoa, hoặc sẽ dần dần bị những đối tượng của nó vùi lấp, những người ngụy trang âm mưu thực tế của họ bằng sự kiên nhẫn. Một giai đoạn thử thách nữa lại đến gần. Sau cơn chấn động của xung đột năm 1860, Hoàng đế và bè phái trong triều đình từng thúc giục chống lại hội truyền giáo Anh, đã trốn khỏi kinh đô. Hoàng tử Đạo Quang, anh trai cùng cha khác mẹ của Hoàng đế, đã đảm nhận vai trò đứng đầu chính quyền trên danh nghĩa. Trong một hồi ức gửi cho Hoàng đế năm 1861, ông đã tóm tắt lại việc đàm phán chấm dứt các hành động thù địch bằng những lựa chọn chiến lược gây choáng váng: Bây giờ loạn Niệm Quân đang nóng rừng rực ở phía Bắc và loạn Thái Bình ở phía Nam, các nguồn cung cấp quân nhu của chúng ta đã cạn kiệt, quân lính của chúng ta đã mỏi mệt. Quân "phiên" đang lợi dụng thời cơ chúng ta lâm vào thế yếu cố gắng kiểm soát chúng ta. Nếu chúng ta không kiềm chế cơn giận dữ mà tiếp tục các hoạt động thù địch, chúng ta phải chịu ừách nhiệm khi hứng chịu biến động bất ngờ. Mặt khác, nếu chúng ta không để ý đến cách chúng làm hại chúng ta, không thực hiện những chuẩn bị chống lại chúng, chúng ta sẽ phải lưu lại cho con cháu mình một di sản là cội nguồn đau khổ. Đó là thế tiến thoái lưỡng nan cổ điển của kẻ chiến bại: Liệu một nhà nước có thể duy trì sự gắn kết của mình trong khi phải thích nghi với kẻ xâm lược - và làm sao xây dựng được năng lực hòng đảo ngược một cán cân quyền lực không có lợi? Hoàng tử Đạo Quang đã viện đến một câu nói cổ của Trung Quốc: "Dùng đến hòa bình và hữu nghị khi tạm thời bị ép phải làm thế, dùng đến chiến tranh và phòng thủ làm chính sách thực tế của bạn". Vì chẳng có sẵn giải pháp hay ho nào, hồi ức của Đạo Quang đã hình thành ưu tiên giữa những nguy hiểm, thực ra là dựa trên nguyên tắc đánh bại những quân "phiên" gần với sự trợ giúp của những quân "phiên" xa. Đó là một chiến lược cổ điển của Trung Hoa sẽ còn được Mao dùng lại gần một trăm năm sau. Hồi ức của Đạo Quang đã cho thấy sự nhạy bén về địa chính trị tuyệt vời trong đánh giá của ông về kỉểu đe dọa do nhiều kẻ xâm lược đã cho thấy. Bất chấp mối đe dọa sắp xảy ra và thực tế từ Anh, hồi ức của Đạo Quang đặt Anh xếp cuối cùng trong trật tự nguy hiểm phạm vi dài đối với sự gắn kết của nhà nước Trung Hoa, Nga đứng đầu bảng: Cả Thái Bình và Niệm Quân đều đang giành những thắng lợi và tạo nên một chứng bệnh hữu cơ. Nước Nga với lãnh thổ liền kề với chúng ta, đang nhăm nhăm gặm mòn lãnh thổ của chúng ta như một con tằm, có thể xem Nga như một mối đe dọa trên ngực chúng ta. Còn về Anh, mục đích của họ là thương mại nhưng hành xử bạo lực, không hề quan tâm đến cư xử giữa người với người. Nếu Anh muốn vượt qua giới hạn, chúng ta sẽ không thể đứng trưng trên chân mình. Do đó Anh có thể được so sánh với một cơn đau buốt trên chân tay ta. Vì vậy chúng ta nên chặn đứng Thái Bình và Niệm Quân trước, tiếp theo đưa Nga vào trong tầm kiểm soát và chăm sóc cho Anh cuối cùng. Để đạt được những mục đích lâu dài của mình đối với các thế lực ngoại bang, Hoàng tử Đạo Quang đã đề xuất thành lập một chính phủ mới - một Bộ Ngoại giao ở thời kỳ phôi thai - nhằm quản lý các vấn đề với các thế lực phương Tây, phân tích báo chí nước ngoài tìm thông tin về những sự phát triển ngoài biên giới Trung Quốc. Ông dự đoán đầy hy vọng rằng điều này tạm thời sẽ rất cần thiết, và sẽ được hủy bỏ "ngay sau khi các chiến dịch quân sự đã kết thúc và vấn đề của nhiều quốc gia được đơn giản hóa". Cơ quan mới này không được liệt kê trong ghi chép chính thức của các văn bản của nhà nước và thành phố cho đến năm 1890. Các quan chức của nó sẽ xếp ở vị trí thứ hai so với những người khác, các phòng ban khác quan trọng hơn như một kiểu bổ nhiệm tạm thời. Họ được luân chuyển thường xuyên. Cho dù một số thành phố của Trung Quốc đang nằm trong tay các thế lực ngoại bang, Trung Quốc xem chính sách ngoại giao là một mưu kế tạm thời hơn là một đặc tính lâu dài trong tương lai của Trung Quốc. Họ tên đầy đủ của bộ này là "Bộ Quản lý Chung các vấn đề của mọi Quốc gia", một cụm từ đầy tham vọng với lời giải thích rằng Trung Quốc không tham gia ngoại giao với bất kỳ người dân ngoại bang nào, mà là đề nghị các vấn đề của họ là một phần trong đế chế toàn cầu của mình. Việc thực hiện chính sách của Hoàng tử Đại Quang nằm trong tay của Lý Hồng Chương, một quan lại thuộc hàng nhất phẩm, người đã thành lập một lực lượng Hoài quân nổi bật trong chiến dịch nhà Thanh chống loạn Thái Bình Thiên Quốc. Tham vọng, tinh tế, không nao núng trước sự nhục nhã, cực kỳ thông thạo truyền thống cổ điển Trung Quốc nhưng lại hòa hợp một cách phi thường với mặt nguy hiểm của nó, Lý đã từng phục vụ gần bốn mươi năm khi Trung Quốc phải đối mặt với thế giới bên ngoài. Ông tự xem mình là trung gian giữa những đòi hỏi về lãnh thổ, nhượng bộ kinh tế không ngừng của các thế lực ngoại bang và những đòi hỏi mở rộng sự ưu việt về chính trị của triều đình Trung Hoa.về bản chất, các chính sách của ông không bao giờ thỏa mãn hoàn toàn được cả hai bên. Đặc biệt là tại Trung Quốc, Lý đã để lại một di sản gây tranh cãi, đặc biệt trong số này là sự thúc giục một quá trình mâu thuẫn hơn nữa. Thế nhưng những nỗ lực của ông - được thực hiện vô cùng phức tạp bởi sự thù hận của phe cánh truyền thống trong triều, định kỳ khăng khăng đòi gặp gỡ các thế lực ngoại bang trên chiến trường với sự chuẩn bị tối thiểu - đã cho thấy một khả năng phi thường trong việc điều hướng, và giảm nhẹ căng thẳng, giữa những lựa chọn hoàn toàn chẳng hấp dẫn gì của Trung Quốc cuối đời Thanh. Lý tạo được danh tiếng của mình trong khủng hoảng, ông xuất hiện như một chuyên gia về các vấn đề quân sự và "quản lý phiên" trong những cuộc nổi loạn giữa thế kỷ của Trung Quốc. Năm 1862, Lý được cử đến quản lý tỉnh phía Đông giàu có Giang Tô, nơi ông thấy các thành phố chính của tỉnh bị quân nổi loạn Thái Bình bao vây, nhưng lại được các quân đội do phương Tây dẫn đầu bảo trợ với quyết tâm bảo vệ những ưu đãi thương mại mới của mình. Áp dụng các châm ngôn trong hồi ức của Đạo Quang, Lý tự xem mình có thẩm quyền tối cao so với các lực lượng phương Tây, tự kết đồng minh với họ cùng chống lại kẻ thù chung. Trong một chiến dịch được xem là chiến dịch chống bạo loạn hợp tác Trung - Tây hiệu quả, Lý giả vờ thiết lập quan hệ công tác với Charles "Chinese" Gordon, nhà phiêu lưu người Anh nổi tiếng, sau này bị Madi giết chết trong cuộc bao vây Khartoum tại Sudan. (Lý và Gordon cuối cùng cũng rời xa nhau khi Lý ra lệnh xử tử hình các lực lượng phản loạn bị bắt, trong khi Gordon đã hứa sẽ tha cho họ). Với loạn Thái Bình được dẹp yên vào năm 1864, Lý được thăng chức xếp vào hàng những quan lại hàng đầu, làm quan Lễ bộ Thượng Thư trên danh nghĩa của Trung Quốc, là người đàm phán chủ chốt thường xuyên ở các cuộc xung đột ngoại bang. Đại diện của một nhà nước đang bị các quốc gia mạnh mẽ hơn nhiều bao vây, và các nền văn hóa khác nhau đáng kể có hai lựa chọn. Ông có thể cố gắng khép lại khoảng cách về văn hóa, áp dụng những biện pháp mạnh mẽ hơn về quân sự và qua đó giảm thiểu các sức ép phát sinh từ sự xúi giục phân biệt sự khác biệt về văn hóa. Hoặc ông có thể kiên trì với giá trị nền văn hóa của chính mình, bằng cách khoe khoang những đặc trưng đặc biệt của mình, và giành được sự tôn trọng cho sức mạnh những lời buộc tội của mình. Trong thế kỷ XDC, các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã chọn cách giải quyết đầu tiên, với sự trợ giúp thực tế rằng khi họ chạm trán với phương Tây, đất nước họ đang trên đường công nghiệp hóa tốt, minh họa sự gắn kết xã hội của Nhật Bản. Đại diện cho một quốc gia bị suy yếu do bạo loạn cần có sự trợ giúp của ngoại bang để tránh thất bại, Lý không lựa chọn theo cách đó. Cũng như ồng sẽ không bỏ rơi nguồn gốc Khổng Tử của mình, bất kể những lợi ích mang lại từ diễn biến đó là gì. Một bản miêu tả những chuyến đi của Lý Hồng Chương tại Trung Quốc được xem như bản ghi chép đáng lo ngại về sự rối loạn của Trung Quốc: Trong vòng gần hai năm đại diện 1869 - 1871, ông đã bị bắn bằng súng cao su ở giữa Tây Nam Trung Quốc, nơi các đại diện của Pháp phản đối quyết liệt những vụ bạo loạn chống lại những người theo đạo Cơ Đốc.về phía Bắc, nơi một nhóm bạo loạn mới bất ngờ nổi dậy, quay về phía Tây Nam, nơi một bộ tộc thiểu số trên biên giới Việt Nam đã nổi dậy, sau đó đến phía Tây Bắc nhằm giải quyết một vụ nổi loạn của người theo đạo Hồi nguy hiểm, từ đó sang bến cảng Thiên Tân ở phía Đông Bắc, nơi một vụ thảm sát những người theo đạo Cơ Đốc đã lôi kéo các tàu chiến Pháp và có nguy cơ can thiệp quân sự; cuối cùng về phía Đông Nam, nơi một cuộc khủng hoảng mới đang ấp ủ trên đảo Đài Loan (sau này được phương Tây biết đến với cái tên Formosa). Lý tạo cho minh một hình ảnh đặc biệt trên sân khấu ngoại giao đang chịu sự thống trị của các quy tắc ứng xử theo kiểu phương Tây. Ông khoác lên người những chiếc áo choàng buông rủ theo phong cách học trò Khổng Tử, kiêu hãnh chưng ra các kiểu trang phục chỉ cấp bậc thời xưa như "Lông Công Hai Mắt" và "Áo choàng Vàng", rằng các đối tác phương Tây chỉ có thể tuân thủ với sự hoang mang. Đầu ông cạo trọc - theo phong cách nhà Thanh – chỉ để lại tóc bím tết đuôi ngựa, đội lên đầu chiếc mũ hình chữ nhật của quan lại. Ông nói chuyện rất trào phúng bằng thứ ngôn ngữ mà chỉ một nhúm người phương Tây mới có thể hiểu. Ông tự mang theo mình sự chân thành của một thế giới khác đến mức một người Anh, với sự pha trộn giữa kinh sợ và khó hiểu, đã so sánh ông với một vị khách đến từ hành tính khác. Những hành vi của ông như muốn cho thấy rằng, các công việc khó nhọc, những sự nhượng bộ của Trung Quốc chỉ là những cản trở tạm thời trên con đường đến chiến thắng vinh quang của nền văn minh Trung Hoa. Người thầy của ông, Tăng Quốc Phiên, một học giả theo Đạo Khổng xếp hàng đầu và là một chỉ huy kỳ cựu trong các chiến dịch chống Thái Bình Thiên Quốc, đã khuyên Lý từ năm 1862 cách sử dụng giá trị cơ bản của Khổng Tử về kiềm chế như một công cụ ngoại giao: "Trong quan hệ của con với phương Tây, thái độ và cách cư xử của con không nên quá kiêu ngạo, con nên tạo cho mình một vẻ ngoài thường nhật, hơi mơ hồ. Hãy để mặc những lời sỉ nhục, sự dối trá, lừa dối và sự coi thường của chúng dù con hiểu nhưng vẫn phải làm ra vẻ không hiểu, và con phải ra vẻ ngu ngu một tí". Giống như mọi quan lại Trung Hoa cấp cao khác trong kỷ nguyên của mình, Lý tín tưởng vào sự vượt trội của những giá trị đạo đức của Trung Quốc và sự đúng đắn của những đặc quyền triều đình truyền thống. Điều làm ông không tán thành không nằm ở đánh giá của ông về sự ưu việt của Trung Quốc mà là chẩn đoán của ông rằng hiện nay Trưng Quốc đang thiếu đi cơ sở vật chất và quần sự. Đã nghiên cứu về vũ khí phương Tây trong cuộc xung đột Thái Bình, đã tìm kiếm thông tin về các xu hướng kinh tế của ngoại bang, ông nhận ra rằng Trung Quốc đang tụt hậu nguy hiểm so với phần còn lại của thế giới. Như ông đã cảnh báo Hoàng đế trong một hồi ức chính sách năm 1872, ông nói thẳng: "Sống đến ngày nay mà vẫn còn nói rằng "loại bỏ quân phiên" và "đuổi chúng ra khỏi lãnh thổ của chúng ta" chắc chắn là kiểu nói chuyện nông cạn và ngớ ngẩn... Họ đang ngày ngày sản xuất ra vũ khí để cạnh tranh sự ưu việt và vinh quang với chúng ta, lấy các công nghệ vượt trội của họ đấu với những kỹ thuật nghiệp dư của chúng ta". Lý đưa ra một kết luận tương tự kết luận của Vệ Uyên - cho dù đến giờ này vấn đề cải cách đang ngày càng trở nên khẩn thiết theo cấp số nhân hơn thời điểm của Vệ Uyên. Do đó Lý đã cảnh báo: Nhìn bề ngoài, theo tình hình hiện tại chúng ta cần phải hài hòa với quân "phiên", nhìn vào trong, chúng ta cần phải cải cách các thể chế của mình. Nếu chúng ta còn cứ mãi bảo thủ, không chịu tiến hành bất cứ thay đổi gì, đất nước sẽ mỗi ngày một tụt hậu và suy yếu... Bây giờ tất cả các nước ngoại bang đang thực hiện từ cải cách này đến cải cách khác, họ đang tiến mỗi ngày như hơi nước đang bay lên. Chi có Trung Quốc vẫn tiếp tục khư khư giữ lấy các thể chế truyền thống cũ kỹ, thận trọng đến mức ngay cả khi bị hủy hoại và diệt vong, những kẻ bảo thủ cũng chẳng cảm thấy tiếc. Trong suốt những cuộc tranh cãi chính sách của Trung Hoa về mốc ranh giới những năm 1860, Lý và Hên minh quan lại của ông đã vạch ra một quy trình hành động đặt tên là "tự cường". Trong bản ghi nhớ năm 1863, Lý đã lấy nó làm điểm khởi đầu của ông (như một cách giảm nhẹ đi cú đấm dành cho các quan lại triều đình của ông) rằng: "Mọi thứ nằm trong hệ thống quân sự và dân sự của Trung Quốc hiện thời đều ưu việt hơn ở phương Tây. Chỉ có các loại súng cầm tay mới tuyệt đối không thể nào bắt kịp được họ". Nhưng dưới ánh sáng của những tai họa mới đây, Lý đã khuyên tầng lớp ưu tú của Trung Quốc không còn có thể xem thường những tiến bộ của ngoại bang nữa, "chế nhạo những vũ khí sắc bén của các nước ngoại bang như những thứ được sản xuất bằng thứ công nghệ buồn cười và bằng nghề thủ công dối trá, thủ đoạn, nên họ cho rằng chẳng cần thiết phải học". Điều Trung Quốc cần chính là những khẩu súng cầm tay các loại, những chiếc tàu hơi nước, và máy móc nặng, cũng như tri thức và các kỹ năng sản xuất ra chúng. Nhằm tăng cường năng lực nghiên cứu các văn bản, kế hoạch chi tiết của nước ngoài và trò chuyện với người nước ngoài của Trung Quốc, thanh niên Trung Hoa trẻ tuổi cần phải được đào tạo bằng tiếng nước ngoài (một cam kết cho đến nay vẫn bị hủy bỏ vì cho rằng thấy không cần thiết, vì tất cả những người ngoại bang có lẽ đều mong muốn được làm người Trung Quốc). Lý tranh luận rằng Trung Quốc nên mở cửa các trường học tại những thành phố lớn của mình - bao gồm cả ở kinh đô mà họ đã chiến đấu rất lâu dài để bảo vệ, chống sự xâm lăng của ngoại bang - để giảng dạy các thứ tiếng nước ngoài và kỹ thuật thiết kế. Lý trình bày kế hoạch này như một lời thách thức: "Sự thông thái và thông minh của người Trung Quốc đã vượt trội hơn người khác ở phương Tây chưa? Nếu chúng ta đã thông thạo được ngôn ngữ phương Tây, rồi người này lại dạy cho người kia, thế thì tất cả những kỹ thuật thông minh của họ như các tàu hơi nước, súng cầm tay các loại dần dần có thể học được toàn bộ". Hoàng tử Đạo Quang cũng gây ấn tượng với một lưu ý tương tự trong đề xuất vào năm 1866, thúc giục Hoàng đế ủng hộ việc nghiên cứu các tiến bộ khoa học của phương Tây: Điều chúng ta cần đó là các sĩ tử của chúng ta sẽ học đến cùng những môn học này... vì chúng ta hoàn toàn tự tin rằng nếu các sĩ tử có khả năng thuần thục tính toán trong toán học, nghiên cứu vật lý, quan sát thiên văn, sản xuất động cơ, thiết kế dòng nước sông suối, thì điều này và chỉ điều này thôi sẽ đảm bảo sự phát triển ẩn định sức mạnh của đế chế. Trung Quốc cần phải mở cửa với thế giới bên ngoài - và học hỏi từ các quốc gia cho đến nay vẫn bị xem là những kẻ ghê tởm, bọn "phiên" - trước tiên là để củng cố cơ cấu truyền thống của ta, và sau đó lấy lại sự ưu việt của chúng ta. Đây hẳn sẽ là một nhiệm vụ hào hùng mà triều đình Trung Hoa đã thống nhất sau khái niệm về chính sách ngoại giao của Hoàng tử Đạo Quang, và việc thực hiện nó của Lý Hồng Chương. Trong thực tế, một hố sâu quá lớn đã chia rẽ những viên quan có tầm nhìn hướng ngoại này ngày càng xa nhóm bè cánh truyền thống có đầu óc thiển cận hơn nhiều. Nhóm này trung thành với quan điểm thủ cựu cho rằng Trung Quốc chẳng có gì phải học hỏi ở người phương Tây, theo tiếng nói của triết gia cổ đại Mạnh Tử trong kỷ nguyên Khổng Tử: "Tôi đã nghe nói về những người sử dụng các học thuyết về đất đai rộng lớn của chúng ta để làm thay đổi "phiên", nhưng chưa bao giờ nghe nói bất kỳ ai bị "phiên" làm thay đổi". Cùng chung tâm trạng, Wo ren, quan chưởng ấn của Viện Học giả Khổng Tử Hanlin uy tín đã phê phán mạnh mẽ những kế hoạch của Hoàng tử Đạo Quang muốn thuê các giảng viên nước ngoài về các trường học của Trung Hoa: Nền móng của một đế chế dựa trên sự đúng mực và đúng đắn, không phải dựa trên những kế hoạch và mưu kế. Gốc rễ của nó nằm trong trái tim con người, không nằm ở kỹ năng và ngón nghề thủ công. Giờ đây chỉ vì những mánh khóe tầm thường, vô giá trị mà chúng ta phải tôn vinh lũ "phiên" đó là sư phụ của chúng ta... Đế chế chúng ta rộng lớn, tài năng con người phong phú. Nếu thiên văn học và toán học cần phải học, số lượng người Trung Hoa từng trải về chúng sẽ rất ít. Niềm tin vào khả năng tự cung tự cấp của Trung Quốc cho thấy sự trải nghiệm tổng hợp kéo dài hàng thiên niên kỷ. Thế nhưng nó vẫn không cho thấy câu trả lời cho câu hỏi Trung Quốc làm thế nào để đương đầu với hiểm nguy trước mắt, đặc biệt là làm thế nào để bắt kịp công nghệ phương Tây. Rất nhiều quan lại chức vụ cao của Trung Quốc dường như vẫn cho rằng giải pháp cho các vấn đề ngoại bang của Trung Quốc nằm trong việc dùng hoặc lưu đày những người đàm phán của họ. Lý Hồng Chương đã ba lần bị cách chức bong nhục nhã trong khi Bắc Kinh thách thức các thế lực ngoại bang; nhưng cứ sau mỗi lần ông đều được gọi lại. Vì các đối thủ của ông không tìm ra được giải pháp thay thế tốt hơn là dựa vào các kỹ năng ngoại giao của ông, để giải quyết các khủng hoảng họ đã gây ra. Bị giằng xé giữa những sự ép buộc của một nước yếu và những đòi hỏi của một đế chế của vũ trụ, những cải cách của Trung Quốc được tiến hành trong e dè. Cuối cùng một cuộc đảo chính trong hoàng cung đã ép vị Hoàng đế muốn học hỏi cải cách phải rời ngôi, thay vào đó là một người thuộc phe thủ cựu dưới sự chi đạo của Từ Hy Thái hậu. Không có cải cách và hiện đại hóa cơ bản trong nước, thực ra mà nói, những nhà ngoại giao Trung Quốc được đề nghị hạn chế thiệt hại cho sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc, ngăn chận chủ quyền của Trung Quốc không bị xói mòn thêm mà không được cung cấp các phương tiện nhằm thay đổi sự yếu ớt của Trung Quốc. Họ phải chạy đua với thời gian mà không có một kế hoạch nào sử dụng thời gian mình có. Và chẳng ở đâu thách thức này lại khắc nghiệt hơn khi có sự trỗi dậy của một nhân tố mới tham gia vào cán cân quyền lực ở Đông Nam Á - một Nhật Bản đang công nghiệp hóa đến chóng mặt. Thách thức của Nhật Bản Không giống hầu hết các nước láng giềng của Trung Quốc, Nhật Bản suốt nhiều thế kỷ đã trung thành với trật tự thế giới Hoa vi trung. Nằm trên một quần đảo cách lục địa Châu Âu khoảng một trăm dặm ở điểm giao nhau gần nhất, Nhật Bản đã tự nuôi dưỡng và phát triển các truyền thống và nền văn hóa đặc biệt của họ. Sở hữu một sắc dân và hệ ngôn ngữ gần như thuần nhất và một ý thức hệ chính thức, nhấn mạnh tổ tiên thiêng liêng của người dân Nhật, đã hình thành một cam kết gần như chu đáo nhất đối với bản sắc độc đáo của mình. Trên đỉnh cao nhất của xã hội Nhật và trật tự thế giới của riêng họ chính là Nhật Hoàng, một nhân vật được quan niệm là người trung gian giữa người và thần thánh, tựa như Thiên Tử. Theo nghĩa đen, triết học chính trị truyền thống của Nhật thừa nhận rằng các Nhật Hoàng là những vị thần được Nữ thần Mặt Trời phái xuống, người đã sinh ra Hoàng đế đầu tiên, ông đã ban cho những kẻ hậu sinh quyền cai trị vĩnh hằng. Do đó Nhật cũng như Trung Quốc đều tự thừa nhận bản thân mình còn hơn cả một quốc gia thông thường. Bản thân cái tên "Thiên Hoàng" - không ngừng được nêu ra trong những chuyến ngoại giao của Nhật đến triều đình Trung Hoa - là một thách thức trực tiếp đối với trật tự thế giới của Trung Hoa. Trong thuyết vũ trụ học của Trung Quốc, nhân loại chỉ có một Hoàng đế, và ngai vàng của ông ta là ở Trung Quốc. Nếu chủ nghĩa khác biệt ở Trung Quốc đại diện cho những đòi hỏi của một đế chế vũ trụ, thì chủ nghĩa khác biệt của Nhật được đề ra do những sự bất ổn của một quốc đảo chủ yếu vay mượn của người láng giềng, nhưng lại sợ bị người này chiếm mất. Cảm nhận về tính độc đáo của Trung Hoa khẳng định rằng Trung Quốc là nền văn minh duy nhất, các phiên được mời đến Vương triều Trung Hoa chỉ là "đến và bị biến đổi". Thái độ của Nhật thừa nhận sự tinh khiết về văn hóa và chủng tộc Nhật độc đáo, không chịu mở rộng những lợi ích của họ. Thậm chí cũng không buồn giải thích điều này với những ai sống ngoài những ràng buộc tổ tiên linh thiêng của họ. Suốt một thời gian dài, Nhật dường như rút lui hoàn toàn khỏi những vấn đề ngoại giao, như thể ngay cả những tiếp xúc ngắt quãng của Nhật với những nước bên ngoài cũng đủ làm tổn thương bản sắc độc đáo của họ. Ở mức độ Nhật tham gia vào trật tự quốc tế, họ đã làm thế bằng hệ thống triều cống của riêng mình tại Quần đảo Ryukyu (ngày nay là Okinawa và các hòn đảo xung quanh) và nhiều vương quốc của Bán đảo Triều Tiên. Với một sự mỉa mai nhất định, các nhà lãnh đạo Nhật đã vay mượn nơi này từ một trong những thể chế của Trung Hoa nhằm khẳng định sự độc lập của mình đối với Trung Quốc. Các dân tộc Châu Á khác chấp nhận phương thức của hệ thống triều cống Trung Hoa, dán nhãn việc buôn bán của mình như một sự "triều cống" nhằm được phép tiếp cận các thị trường Trung Hoa. Nhật từ chối tiến hành buôn bán với Trung Quốc dưới dạng triều cống, khăng khăng ít nhất mình phải bình đẳng với Trung Quốc, nếu không muốn nói là trội hơn. Bất chấp những ràng buộc tự nhiên về thương mại giữa Trung Quốc và Nhật, những cuộc thảo luận từ thế kỷ XVII về thương mại song phương đã bị đình trệ hoàn toàn, vì không bên nào tôn trọng phương thức được yêu cầu từ những kỳ vọng trung tâm thế giới của bên kia. Nếu phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc tăng lên rồi xẹp xuống dọc theo các đường biên giới của họ, các nhà lãnh đạo Nhật quan niệm thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh của họ là một lựa chọn khắc nghiệt hơn. Sở hữu ý thức về sự vượt trội được tuyên bố giống như của triều đình Trung Hoa, nhưng nhận thức được giới hạn lỗi của họ nhỏ hơn nhiều, các quan lại Nhật nhìn về phương Tây với con mắt cảnh giác bởi phương Tây đã đến lục địa chịu sự thống trị của nhiều triều đại Trung Hoa liên tiếp, một số đã vươn tay đến người láng giềng gần gũi nhất của Nhật là Triều Tiên nên họ được xem như mối đe dọa hiện hữu đối với Nhật Bản. Chính sách ngoại giao của Nhật vào thời điểm bất ngờ đến giật mình. Họ luân phiên thay đổi việc giữa tách rời khỏi lục địa Châu Á, và những nỗ lực chinh phục liều lĩnh hướng đến thay thế trật tự Hoa vi trung. Nhật Bản, giống như Trung Quốc đã chạm trán các tàu chiến phương Tây áp dụng công nghệ xa lạ và có sức mạnh lấn át vào giữa thế kỷ XIX - trong trường hợp của Nhật là vụ đổ bộ năm 1853 của "hạm đội tàu đen" của Thiếu tướng Hải quân Matthew Perry. Nhưng Nhật đã rút ra kết luận khác với Trung Quốc từ thách thức này: Họ đã mở cửa tiếp nhận công nghệ của nước ngoài, đại tu các thể chế của mình trong một nỗ lực biến thành một bản sao từ sự trỗi dậy của các thế lực phương Tây (Tại Nhật Bản, kết luận này có thể đã được hỗ trợ từ thực tế rằng các ý tưởng của nước ngoài không được xem là có liên quan đến câu hỏi về nạn nghiện thuốc phiện mà Nhật đã cố tránh trên quy mô lớn). Năm 1868, Thiên Hoàng Minh Trị trong lời Hiến chương Tuyên thệ của mình năm 1868, đã tuyên bố quyết tâm của Nhật: "Sẽ tiếp thu tri thức từ khắp nơi trên thế giới, qua đó những nền móng cai trị đế chế sẽ được củng cố". Sự phục hồi của Thiên Hoàng Minh Trị và định hướng theo công nghệ của phương Tây siêu việt đã mở toang cánh cửa đến sự tiến bộ về kinh tế đáng kinh ngạc. Khi Nhật đã phát triển một nền kinh tế hiện đại và một bộ máy quân sự ghê gớm, họ bắt đầu kiên trì với những đặc quyền đủ khả năng đối đầu với những thế lực lớn của phương Tây. Thành phần ưu tú nắm quyền quản lý đất nước đã kết luận với những lời của Shimazu Nariakừa, một phiên chủ và là người đi đầu chủ trương hiện đại hóa công nghệ kỹ thuật, "nếu chúng ta giành được quyền chủ động, chúng ta có thể thống trị; nếu không, chúng ta sẽ bị trị". Ngay đầu năm 1863, Lý Hồng Chương đã kết luận rằng Nhật sẽ trở thành mối đe dọa an ninh chính của Trung Quốc. Ngay cả trước thời đại Phục hồi của Minh Trị, Lý đã viết về phản ứng của Nhật trước thách thức của phương Tây. Năm 1874, sau khi Nhật lợi dụng sự xô xát giữa các thổ dần Đài Loan và thủy thủ đoàn bị đắm tàu trên đảo Ryukyu để dấy lên một cuộc viễn chinh ác liệt, ông đã viết về Nhật như sau: Sức mạnh của họ là mở rộng hàng ngày, tham vọng của họ là không nhỏ. Do đó họ dám chứng tỏ sức mạnh của mình ở các vùng đất phương Đông, xem thường Trung Quốc và ra tay hành động bằng cách xâm chiếm Đài Loan. Cho dù nhiều thế lực phương Tây rất mạnh mẽ, họ vẫn cách chúng ta 70.000 dặm. Trong khi đó Nhật quá gần chứng ta như một cái sân sau, hay như một ngưỡng cửa và đang nhòm ngó sự trống trải và cô độc của chúng ta. Không nghi ngờ gì nữa, họ sẽ trở thành nỗi lo âu lớn và lâu dài của Trung Quốc.