🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bản Đồ Mây - David Mitchell full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
epub©vctvegroup 21-12-2017
Nhật ký Thái Bình Dương của Adam Ewing
Thứ Năm, ngày 7 tháng 11
Trên bãi biển vắng vẻ bên ngoài ngôi làng Anh-điêng, tôi thấy một vệt dấu chân người. Lần theo đó, băng qua đám tảo bẹ mục rữa, những rặng dừa biển và tre, dấu chân đưa tôi đến chỗ chủ nhân của chúng, một người đàn ông da trắng, vận áo khoác & quần xắn gấu, hàm râu quai nón & chiếc mũ nồi quá cỡ; ông đang dùng cái thìa bé tí đào xới lớp cát nóng rẫy, chăm chú đến nỗi tôi chỉ còn cách ông gần mười mét và cất lời chào thì ông ta mới nhận ra. Tôi đã làm quen với Henry Goose, bác sĩ của giới quý tộc London, như thế. Quốc tịch của ông ta không khiến tôi ngạc nhiên. Tôi chưa từng thấy trên bản đồ một chốn khỉ ho cò gáy hay ốc đảo xa xôi nào mà người ta không chạm trán người Anh.
Phải chăng ông bác sĩ đánh mất thứ gì trên bờ biển ảm đạm này? Liệu tôi giúp gì được chăng? Bác sĩ Goose lắc đầu, nới nút thắt chiếc khăn mùi soa & khoe thứ đựng bên trong với vẻ hãnh diện trông thấy. “Răng, thưa ông, chính là ngọc ngà châu báu mà tôi đang kiếm tìm. Thuở xưa bãi biển Arcadia này từng là nơi bày yến tiệc của những kẻ ăn thịt người, đúng thế, thời ấy kẻ mạnh ngốn thịt kẻ yếu. Chúng ăn rồi nhổ răng ra, như ông hay tôi nhả hạt quả anh đào vậy. Nhưng những chiếc răng hàm này, ông ạ, sẽ thành vàng chăng & bằng cách nào? Một nghệ nhân ở Piccadilly chuyên tạo hình răng giả cho giới quý tộc sẵn sàng chi bộn tiền cho răng người đấy. Ông có biết một lạng răng như thế giá bao nhiêu không, thưa ông?”
Tôi thú nhận mình không biết.
“Thế thì tôi cũng sẽ không nói cho ông biết đâu, vì đây là bí mật trong nghề mà!” Ông ta gõ gõ ngón tay lên mũi. “Thưa ông Ewing, chẳng hay ông có quen bà hầu tước Grace xứ Mayfair không nhỉ? Không à? Thế thì càng hay cho ông, vì mụ ta là quỷ đội lốt người đấy. Đã năm năm trôi qua kể từ khi danh dự của tôi bị mụ già ác độc ấy bôi nhọ, chính thế, sự đặt điều vu khống của mụ ấy đã khiến tôi bị khai trừ khỏi Hiệp hội.” Bác sĩ Goose đưa
mắt nhìn ra biển. “Hành trình bôn ba của tôi đã khởi đầu kể từ giờ phút đen tối ấy.”
Tôi ngỏ lời chia sẻ với cảnh ngộ của ông bác sĩ.
“Tôi cám ơn ông, thưa ông, tôi xin cám ơn, nhưng chỗ răng ngà này” – ông ta lắc lắc chiếc khăn mùi soa – “chính là thiên sứ cứu rỗi của đời tôi. Cho phép tôi có đôi lời giải thích. Bà hầu tước đeo răng giả do vị bác sĩ mà tôi kể khi nãy tạo hình. Đến mùa Giáng sinh tới, khi con lừa cái sực mùi ấy đang phát biểu tại buổi tiệc đại sứ, tôi, Henry Goose, chính thế, tôi sẽ đứng lên & tuyên bố với tất cả quan khách rằng bà chủ buổi tiệc của chúng ta đang nhai bằng răng của những kẻ ăn thịt người! Hubert sẽ vặn lại tôi, đúng như dự đoán, ‘Hãy đưa ra bằng chứng,’ gã quê mùa ấy sẽ gào lên, ‘hoặc làm sao cho tôi tin đi!’ Tôi sẽ tuyên bố, ‘Bằng chứng ư, thưa ông Hubert? Ơ hay, chính tôi là người đi nhặt từng chiếc răng cho mẹ ông từ cái ống nhổ ở Nam Thái Bình Dương kia mà! Đây này, ông xem, còn một ít răng của những người ấy đây!’ rồi tôi vung chính những chiếc răng này vào chiếc liễn đựng xúp hình mai rùa của mụ ta & đó, thưa ông, đó chính là điều làm cho tôi thỏa lòng! Đám ký giả ba xu sẽ tha hồ mà nướng chín mụ hầu tước cao ngạo ấy trên các bản nhật trình & đến mùa sau mụ ấy được mời đến tiệc của trại tế bần đã là phúc lắm rồi!”
Tôi vội vã cáo từ Henry Goose. Tôi đồ rằng lão này trốn Dưỡng trí viện.
Thứ Sáu, ngày 8 tháng 11
Trong xưởng tàu phía dưới cửa sổ phòng trọ, chiếc sào căng buồm đang được sửa chữa dưới sự chỉ đạo của ông Sykes. Walker, ông chủ của quán rượu duy nhất ở Vịnh Đại Dương, đồng thời là lái buôn gỗ chính ở đó, đang ba hoa về những năm tháng làm bậc thầy đóng tàu ở Liverpool. (Lúc này tôi đã quen với lề thói xã giao ở miền Nam Thái Bình Dương rồi nên cũng chẳng mấy để tâm đến những câu ba hoa này.) Ông Sykes bảo với tôi rằng cần hẳn một tuần để sửa chữa tàu Prophetess đâu ra đấy. Bảy ngày bó chân ở Musket có khác gì ở tù, nhưng nhớ lại cơn thịnh nộ của nữ thần báo tử & những thủy thủ đã bỏ mạng trên biển, tôi thấy vận xui của mình cũng không đến nỗi.
Tôi gặp bác sĩ Goose trên cầu thang sáng nay & chúng tôi cùng nhau dùng điểm tâm. Ông ta đã ở trọ tại Musket từ giữa tháng Mười sau khi phiêu bạt hành nghề trên một chiếc tàu buôn Brazil tên Namorados, xuất hành từ Fiji. Giờ đây ông bác sĩ đang đợi Nellie, một tàu săn hải cẩu của Úc Đại Lợi mà mãi không xuất bến cho, để đưa ông ta đến Sydney. Ở đó ông ta sẽ tìm một chỗ trên tàu khách để trở về London bổn xứ.
Nhận định của tôi về bác sĩ Goose thật là phi lý & nông cạn. Trong nghề của tôi, phải đa nghi như Tào Tháo mới mong làm giàu, song cái thói ấy có khi khiến người ta không nhận ra những chân giá trị tinh tế. Ông bác sĩ có nhiều thói lập dị & thường thích thú kể lại mỗi khi chiêu một cốc rượu brandy pisco của Bồ Đào Nha (không bao giờ quá chén), nhưng tôi đồ rằng ông ta là người tử tế duy nhất còn sót lại trong phạm vi giữa Đông Sydney & Tây Valparaiso. Thậm chí tôi có thể viết thư giới thiệu ông ta đến gia đình Partridge ở Sydney, vì bác sĩ Goose & ông bạn thân Fred của tôi có vẻ sẽ rất tâm đầu ý hợp.
Thời tiết xấu làm tôi phải hủy bỏ kế hoạch ra ngoài đi dạo. Chúng tôi nói chuyện phiếm bên bếp lửa & thời gian trôi nhanh như chớp. Tôi nói rất
nhiều về Tilda & Jackson & cả nỗi sợ của tôi về “cơn sốt vàng” ở San Francisco. Cuộc trò chuyện sau đó chuyển hướng từ quê nhà tôi sang việc công chứng viên mà tôi mới đảm nhiệm gần đây ở New South Wales, rồi lại lái sang chuyện Liệu pháp Đỉa & Đầu xe lửa, đến Gibbon, Malthus & Godwin[1]. Những cuộc đối thoại nghiêm túc là liều thuốc lành mà tôi thiếu vắng trên tàu Prophetess & ông bác sĩ thực sự là một học giả uyên bác. Đó là chưa kể ông ta sở hữu một bộ cờ vua được chạm khắc cực kỳ tinh xảo, sẽ giúp chúng tôi tiêu khiển cho tới khi Prophetess khởi hành hoặc Nellie cập bến.
Thứ Bảy, ngày 9 tháng 11
Bình minh óng ánh như đồng bạc mới. Chiếc thuyền buồm của chúng tôi vẫn neo trong Vịnh với vẻ hết sức thảm thương. Một chiếc xuồng chiến thổ dân đang được lật nghiêng để sửa chữa trên bãi biển. Henry & tôi tản bộ trên “Bãi biển Yến tiệc” với tâm trạng như trong kỳ nghỉ lễ, vô tư vẫy chào cô hầu gái của Walker. Cô nàng mặt mày sưng sỉa đang phơi quần áo lên một bụi cây & phớt lờ chúng tôi. Cô ta lai chút máu da đen & tôi hình dung mẹ cô ta hẳn chưa thoát ly xa cho lắm khỏi họ hàng chốn sơn lâm.
Khi chúng tôi băng qua ngôi làng người da đỏ, tiếng “hum hum” văng vẳng khiến chúng tôi tò mò & quyết tìm cho được nơi phát ra âm thanh này. Làng này được rào quanh bằng hàng rào cọc gỗ, nhưng đã mục nát đến nỗi ở nhiều chỗ người ngoài có thể đi vào thoải mái. Một con chó cái trụi lông ngóc đầu lên, nhưng nó chẳng còn chiếc răng nào & sắp chết & không sủa lấy một tiếng. Bao bọc vòng ngoài là một dãy ponga (trang trí bằng cành cây, tường đất & mái lợp) nép mình dưới bóng những dinh thự của “quý tộc thượng lưu”, những công trình kiến trúc bằng gỗ với các chi tiết chạm trổ trên khung cửa & cổng vòm thô sơ. Đang có một vụ trừng phạt bằng roi diễn ra giữa làng. Henry & tôi là hai người da trắng duy nhất, nhưng đám thổ dân chứng kiến vụ việc chia ra tới ba tầng lớp. Tù trưởng ngồi trên ngai, mặc áo choàng lông vũ, lớp quý tộc nhỏ xăm trổ & đàn bà con gái & trẻ con thì đứng xem, tổng cộng khoảng ba mươi người. Đám nô lệ, bẩn hơn và đen hơn & số lượng ít hơn một nửa so với những ông chủ da nâu hạt dẻ, thì ngồi xổm trên bùn đất. Giống người ngu ngốc bẩm sinh! Người ngợm đầy vết sẹo lõm & mụn mủ, những con người khốn khổ này ngồi xem buổi hành hình, không hề phản ứng mà chỉ tạo ra tiếng “hum” kì lạ như tiếng ong. Thương cảm hay lên án, chúng tôi không biết âm thanh ấy thể hiện điều gì. Người cầm roi là một gã khổng lồ với ngoại hình làm kinh sợ bất kì võ sĩ quyền anh nào. Bắp thịt gã mọi rợ xăm chằng chịt hình những con thằn lằn từ lớn đến nhỏ: - tấm da sống của gã có thể được bán với giá cao, mặc dù có cho
vàng bạc châu báu tôi cũng không muốn thành kẻ lãnh nhiệm vụ giải thoát gã khỏi tấm da ấy! Tên tù nhân đáng thương, qua nhiều năm tháng dãi dầu sương gió, đang bị trói trần truồng vào giá chữ A. Người hắn nảy lên dưới từng cú quất roi xé thịt, tấm lưng như lớp giấy thuộc chằng chịt những kí hiệu bí hiểm viết bằng máu, nhưng vẻ mặt vô cảm lại toát lên sự bình thản của một kẻ tử vì đạo đang được che chở trong vòng tay của Chúa.
Tôi thú nhận, tôi muốn ngất đi sau mỗi cú quất roi. Rồi một chuyện kì lạ xảy ra. Kẻ mọi rợ bị đánh đập ngẩng đầu lên, tìm ánh mắt tôi & nhìn tôi với vẻ kì bí mà thân thiện! Tựa như một diễn viên sân khấu nhìn thấy người bạn lâu ngày không gặp ở lô siêu sang và trao đổi ánh nhìn xác nhận ấy mà không làm khán giả phát hiện. Một “bằng hữu da đen” xăm trổ tiến đến chúng tôi & móc ra con dao găm cán đá, ngụ ý chúng tôi không được hoan nghênh. Tôi hỏi tên tù nhân đã phạm tội gì. Henry quàng tay qua người tôi. “Đi nào, Adam, người khôn không chen ngang giữa con thú & bữa ăn của nó.”
Chúa nhật, ngày 10 tháng 11
Lão Boerhaave ngồi giữa đám vô lại thân tín như con rắn chúa & bầy rắn sọc. Buổi “lễ mừng” Sabbath của họ diễn ra dưới lầu trước khi tôi thức giấc. Tôi đi tìm nước cạo râu & thấy quán rượu đang lô nhô đám thủy thủ chờ đến lượt vui vẻ với những cô gái thổ dân đáng thương mà Walker đem về và biến nhà trọ thành một nhà chứa tự phát. (Rafael không nằm trong số những kẻ trác táng này.)
Tôi không dùng bữa sáng Chúa nhật của mình trong nhà chứa. Henry cũng có cùng cảm giác ghê tởm như tôi, vì thế chúng tôi bỏ bữa sáng (cô hầu gái chắc cũng đang bị ép làm một công việc khác) & đi đến nhà thờ để cầu nguyện với cái bụng lép kẹp.
Đi được chưa đến hai trăm mét, tôi hốt hoảng nhớ ra quyển nhật kí đang nằm trên bàn trong phòng tôi ở Musket, tên thủy thủ say xỉn nào cũng có thể nhìn thấy nếu lẻn vào phòng. Lo sợ cho sự an toàn của nó (& của chính tôi, nếu lão Boerhaave sờ tới nó), tôi quay lại để tìm cách giấu nó đi. Những nụ cười nhếch mép chào đón sự trở về của tôi & tôi cứ ngỡ rằng mình là “kẻ xấu đang bị nói đến,” nhưng tôi biết được lý do thực sự khi mở cửa phòng: Bàn tọa bệ vệ của Boerhaave đang cưỡi lên con gấu cái đen trũi trên giường của tôi, ngay giữa lúc đang hành lạc! Lão già người Hà Lan khốn nạn ấy có xin lỗi tôi không? Không hề! Lão cho mình là bên bị hại & gầm lên, “Xéo đi, Gà Chọi! không ta đấm vỡ cái mũi Mỹ quốc của mi bây giờ, đ. mẹ!”
Tôi chộp lấy quyển nhật ký & chạy lập cập xuống cầu thang trong sự đắc chí & giễu cợt của những kẻ mọi rợ da trắng đang tụ tập ở dưới. Tôi phản đối với Walker rằng tôi trả tiền để thuê một phòng riêng & nghĩ rằng nó vẫn thuộc riêng tôi ngay cả khi tôi vắng mặt, nhưng tên khốn ấy chỉ đề nghị sẽ giảm giá một phần ba cho “mười lăm phút vui vẻ với em ngựa non đẹp nhất trong chuồng của tôi!” Kinh tởm, tôi nhắc lại rằng tôi đã có vợ & con! & rằng tôi thà chết cũng không đánh mất nhân phẩm & đức độ của mình với bất kì
ả gái điếm mắc bệnh giang mai nào của hắn! Walker thề sẽ “trang điểm cho mắt tôi” nếu tôi còn gọi những cô con gái cưng của hắn là “gái điếm” lần nữa. Một con rắn sọc rụng hết răng chế giễu rằng nếu có vợ & con là một đạo đức thì, “Ô hay, ông Ewing này, tôi đạo đức hơn ông gấp mười lần đấy!” & một kẻ nào đó trút cả một vại rượu lên người tôi. Tôi bỏ đi trước khi họ thay rượu bằng một vật cứng hơn.
Chuông nhà thờ đang triệu hồi những kẻ kính sợ Chúa ở Vịnh Đại Dương & tôi vội vàng đến nơi Henry đang đợi, cố gắng quên đi cảnh bẩn thỉu vừa chứng kiến ở nhà trọ. Nhà thờ ọp ẹp như một thùng gỗ cũ & người đi lễ thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nhưng ngay cả kẻ lữ hành được thỏa mãn cơn khát trên một ốc đảo sa mạc cũng không thể biết ơn hơn Henry & tôi khi cầu nguyện sáng hôm đó. Người sáng lập nhà thờ theo phái Luther đã yên nghỉ mười mùa đông qua trong nghĩa trang nhà thờ & chưa có người kế vị nào dám nhận lãnh vai trò của người chủ trì bệ thờ. Vì thế, giáo phái ở đây toàn xủng xoảng những tín điều Cơ đốc giáo. Chỉ một nửa số con chiên đi lễ biết chữ, họ đọc những đoạn Kinh thánh & chúng tôi tham gia hát một, hai bài thánh ca khi đến lượt. Người “phụng sự” đàn con chiên, một người tên là D’Arnoq, đứng dưới cây thập giá giản dị & nài nỉ Henry & tôi cũng hòa theo cách thức như họ. Nhớ lại mình đã thoát chết trong cơn bão tuần trước, tôi đề nghị đọc Phúc âm Luca chương 8: Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, Thầy! Chúng ta chết mất!” Người thức dậy, ngăn đe sóng gió, sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay.
Henry đọc Thi thiên số Tám, bằng giọng âm vang như một kịch sĩ thực thụ, Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, khiến muôn vật phục dưới chơn người: Cả loài chiên, loài bò, đến đỗi các thú rừng, chim trời & cá biển & phàm vật gì lội đi trên cáclối biển.
Chẳng có nhạc công dương cầm nào đánh bài Hồn tôi tôn dương Chúa ngoài tiếng gió rít trong ống khói, chẳng có dàn đồng ca nào hát Muôn lạy Chúa ngoài tiếng chim hải âu kêu gào, nhưng tôi nghĩ Đấng sáng tạo sẽ không phật ý. Chúng tôi gần với những tín đồ Cơ đốc giáo thời kì sơ khai
của La Mã hơn bất kì Giáo hội nào sau này được bao phủ bằng bí mật & đá quý. Tiếp theo đó là cầu nguyện chung. Các giáo dân cầu cho vụ khoai tây khỏi dịch bệnh, lòng từ cho linh hồn một trẻ sơ sinh mới chết, ban phúc cho một chiếc tàu đánh cá mới, v.v. Henry tạ ơn vì lòng hiếu khách của những người Cơ đốc giáo trên đảo Chatham dành cho những kẻ mới đến như chúng tôi. Tôi lặp lại những cảm nghĩ này & gửi lời cầu nguyện đến Tilda, Jackson & nhạc phụ của tôi trong thời gian tôi vắng mặt kéo dài.
Sau buổi lễ, “trụ cột” chính của nhà thờ, một người xưng là Evans, lịch thiệp tiếp cận bác sĩ & tôi. Ông Evans giới thiệu Henry & tôi với phu nhân của ông ta (cả hai vợ chồng đều làm bộ lãng tai bằng cách chỉ trả lời những câu hỏi mà họ tin là được hỏi & chỉ chấp nhận những câu trả lời họ tin là được đưa ra – một mưu mà nhiều thầy cãi Mỹ quốc ưa dùng) & hai người con trai song sinh của họ, Keegan & Dyfedd. Ông Evans cho hay tuần nào cũng mời ông D’Arnoq, nhà truyền đạo của chúng tôi, đến ăn tối ở nhà mình gần đó, bởi ông D’Arnoq trú tận Port Hutt, một mũi đất xa nơi này đến vài dặm. Liệu chúng tôi có muốn cùng họ dùng bữa ăn tối Chúa nhật không? Đã báo với Henry về cảnh ô uế ở Musket & nghe tiếng “Nổi dậy!” réo trong dạ dày, chúng tôi nhận lời nhà Evans với lòng biết ơn.
Trang trại của chủ nhà nằm cách Vịnh Đại Dương nửa dặm trong một thung lũng quanh co lộng gió, là một tòa nhà đơn sơ nhưng chống chọi tốt trước bão tố phong ba từng đánh tan tành không biết bao nhiêu chiếc tàu vắn số ở những bãi đá ngầm gần đó. Phòng khách được trang trí bằng một cái thủ lợn khổng lồ (buồn thảm với cái miệng mở há & cặp mắt lờ đờ), do cặp song sinh săn được vào sinh nhật thứ mười sáu, & một chiếc đồng hồ quả lắc miên hành (lệch vài giờ so với đồng hồ bỏ túi của tôi. Kì thực, một trong những món nhập khẩu quý giá từ New Zealand chính là giờ giấc chính xác). Một thổ dân làm công ở trang trại nhìn trộm mấy vị khách của ông chủ từ sau khung cửa sổ. Không còn cảnh những kẻ nổi loạn ăn mặc rách rưới, nhưng ông Evans quả quyết rằng Barnabas, anh chàng có một phần tư máu da đen này, là “chú chó chăn cừu hai chân chạy nhanh nhất.”
Keegan & Dyfedd là hai chàng trai thật thà như đếm, nói năng ngây ngô như cừu (gia đình này chăn hai trăm con), vì chưa bao giờ lên “Phố” (cách gọi của dân đảo về New Zealand) và cũng chẳng học qua trường lớp nào, ngoài những bài học Kinh thánh do cha dạy, nhờ đó mới biết đọc biết viết.
Bà Evans đọc lời cầu nguyện tạ ơn & tôi đã có một buổi ăn dễ chịu nhất (không đẫm muối, sâu bọ & tiếng chửi thề) kể từ buổi tiệc chia tay với Lãnh sự Bax & gia đình Partridge ở Beaumont. Ông D’Arnoq kể cho chúng tôi nghe chuyện về những con tàu mà ông ta đã cung ứng trong suốt mười năm cư ngụ trên đảo Chatham, còn Henry thì mua vui với những chuyện kể về bệnh nhân, cả sang lẫn hèn, mà ông đã chữa trị ở London và Polynesia. Về phần mình, tôi tả lại những gian truân của một công chứng viên Mỹ quốc để tìm ra người thừa kế ở Úc cho một bản di chúc lập ở California. Chúng tôi chén sạch món cừu hầm & bánh nhân táo với chút rượu do ông Evans nấu để mua bán với những tàu săn cá voi. Dùng bữa xong, Keegan & Dyfedd đi chăn bầy gia súc & bà Evans lui vào bếp. Henry hỏi bây giờ các hội truyền giáo còn hoạt động tích cực trên Chatham không, ông Evans & D’Arnoq nhìn nhau & ông Evans đáp, “Không, người Maori không thích Pakeha[2] chúng ta làm Moriori của họ hư hỏng vì lạm dụng văn minh.”
Tôi hỏi có căn bệnh gọi là “lạm dụng văn minh” hay sao? Ông D’Arnoq đáp, “Nếu phía tây của Mũi Sừng mà không có Thượng đế thì cũng chẳng có Mọi người sinh ra đều bình đẳng như hiến pháp của ông quy định đâu, ông Ewing ạ.” Những tên gọi như Maori & Pakeha thì tôi đã biết đến từ những ngày Prophetess neo đậu ở Vịnh Đa Đảo, nhưng tôi thắc mắc Moriori có nghĩa là gì. Câu hỏi của tôi đã mở ra chiếc hộp Pandora lịch sử, với đầy đủ chi tiết về sự suy tồn & diệt vong của bộ tộc thổ dân trên Chatham. Chúng tôi châm tẩu thuốc. Ba giờ sau đó, ông D’Arnoq vẫn đang kể chuyện say sưa không dứt dù đã đến lúc phải lên đường về Port Hutt trước khi không còn thấy đường về vì trời tối. Lịch sử qua lời kể của ông, theo tôi, có thể ngang tầm với văn phong của Defoe hoặc Melville[3] & tôi sẽ chép lại đây trên những trang giấy này, sau khi đánh một giấc theo ý Thần Ngủ.
Thứ Hai, ngày 11 tháng 11
Bình minh ẩm ương & mờ mịt. Từ xa xa vịnh hiện ra mờ ảo, nhưng thời tiết vẫn cho phép việc sửa chữa tiếp tục với tàu Prophetess, tôi thầm cám ơn Thần Biển. Trong lúc tôi viết nhật ký, một nóc cột buồm mới đang được kéo lên.
Không lâu sau, trong lúc Henry & tôi đang dùng điểm tâm, ông Evans hớt hải chạy đến, nài nỉ ông bạn bác sĩ của tôi đến khám cho một người hàng xóm sống một mình, bà góa Bryden, bị ngã từ lưng ngựa xuống bãi đá. Bà Evans đang có mặt ở đó và lo lắng cho mệnh hệ của bà góa. Henry cắp vali thầy thuốc & nhanh chóng lên đường. (Tôi đề nghị đi cùng, nhưng ông Evans nài nỉ tôi ở lại, vì bệnh nhân đã buộc ông phải hứa không ai ngoại trừ bác sĩ được phép nhìn thấy bà ta trong lúc hoạn nạn.) Nghe lời qua tiếng lại, Walker nói với tôi rằng chưa có một người đàn ông nào bước chân qua ngưỡng cửa nhà bà góa trong hai chục năm qua & quả quyết “mụ già lãnh cảm ấy hẳn là phải đau đớn lắm mới chịu để bác sĩ Quàng Quạc thăm khám.”
Nguồn gốc của người Moriori ở Rēkohu (từ địa phương để gọi Chatham) vẫn còn là ẩn số cho đến ngày nay. Ông Evans thì tin rằng tổ tiên của họ là những người Do Thái bị xua đuổi khỏi Tây Ban Nha, vì họ có mũi khoằm & môi vểnh. Còn giả thuyết của ông D’Arnoq, rằng người Moriori trước đây là những người Maori bị đắm tàu ở những hòn đảo xa xôi hẻo lánh nhất, thì dựa trên điểm giống nhau giữa ngôn ngữ & thần thoại & do đó có lý hơn. Chỉ biết chắc một điều là, sau nhiều thế kỉ hoặc thiên niên kỉ sống biệt lập, người Moriori có cuộc sống nguyên thủy chẳng khác gì những người anh em họ thiểu não ở xứ Van Diemen. Nghề đóng tàu (đòi hỏi nhiều kĩ thuật hơn so với những chiếc bè đan lát thô sơ dùng để băng qua kênh rạch trên các hòn đảo) & hàng hải đã trở nên vô dụng. Chuyện trên quả địa cầu này còn có những miền đất khác, in dấu chân người khác, là chuyện mà người Moriori không hề nghĩ đến. Kì thực, ngôn ngữ của họ không có từ để diễn tả
“chủng tộc” & “Moriori” đơn giản có nghĩa là “Người”. Ngành chăn nuôi không tồn tại, vì chẳng có loài động vật hữu nhũ nào sống trên quần đảo này cho đến khi những chiếc tàu đánh cá voi chủ đích bỏ lợn lại đây để nhân giống. Ở tình trạng nguyên thủy, người Moriori sống bằng săn bắt hái lượm, mò cua bắt ốc, nhặt trứng chim, săn hải cẩu, vớt tảo biển & đào ấu trùng & củ rễ.
Đến thời điểm này, người Moriori vẫn chỉ là một biến thể địa phương của những thổ dân mặc váy lá dừa, khoác áo lông vũ tại những “điểm mù” ngày càng ít đi trên đại dương mà chưa được người da trắng phát hiện. Tuy nhiên, điểm độc đáo của Cựu Rēkohu nằm ở tín ngưỡng hòa bình độc nhất vô nhị của nó. Từ những ngày khai thiên lập địa, tầng lớp cúng tế Moriori đã răn dạy kẻ nào làm cho người khác đổ máu thì cũng giết chết mana – danh dự, nhân phẩm, địa vị & linh hồn của mình. Không một người Moriori nào chứa chấp, nuôi ăn, nói chuyện với, hay thậm chí nhìn mặt kẻ bị ruồng bỏ. Nếu kẻ sát nhân bị xua đuổi sống sót qua mùa đông đầu tiên, thì nỗi tuyệt vọng vì cô độc thường sẽ đưa gã đến một hố phun nước trên Mũi Trẻ, nơi gã tự kết liễu cuộc đời mình. Hãy xem xét yếu tố này, ông D’Arnoq bảo chúng tôi. Hai nghìn người mọi rợ (con số phỏng đoán của ông Evans) tuyên thệ thành lời Không ai được giết người & thực sự làm vậy & lập một “Hiến pháp” bằng lời để tạo ra một sự hòa hợp không có ở bất kì nơi nào khác trong suốt sáu mươi thế kỉ kể từ ngày Adam nếm trái Cây Thông Thái. Chiến tranh là một khái niệm xa lạ với người Moriori, cũng như kính viễn vọng là khái niệm xa lạ với người Pygmy vậy. Hòa bình, không phải một khoảng thời gian tạm nghỉ giữa các cuộc chiến, mà là những thiên niên kỉ thái bình bất diệt, thống trị những hòn đảo xa tít này. Ai có thể phủ nhận rằng xứ Cựu Rēkohu nằm gần với xã hội không tưởng của More[4] hơn các thể chế tiến bộ do những ông hoàng con thèm khát chiến tranh cai trị ở Versailles & Vienna, Washington & Westminster? “Đây,” ông D’Arnoq tuyên bố, “và chỉ có đây, mới có những cảnh không tưởng như thế, những con người mọi rợ quý tộc thượng lưu, bằng xương bằng thịt!” (Trên đường trở về
Musket sau đó, Henry nhận xét, “Tôi không thể nào gọi một chủng tộc mọi rợ lạc hậu đến nỗi không biết ném lao thế nào cho thẳng là ‘quý tộc’ cả.”) Thủy tinh & hòa bình đều để lộ đặc tính sự mong manh khi chịu những va chạm liên tiếp. Cú đánh đầu tiên vào người Moriori chính là quốc kỳ Anh, được Đại úy Broughton của tàu Hải quân Hoàng gia Anh mang tên Chatham cắm lên Vịnh Giao Tranh nhân danh Vua George cách nay năm mươi năm. Ba năm sau đó, phát hiện của Broughton được biết đến ở những công ty hàng hải ở Sydney & London & đã có lác đác những người định cư tự do (trong số đó có cụ thân sinh của ông Evans), những thủy thủ đắm tàu & “những tên tội phạm bất đồng với Văn Phòng Thuộc Địa New South Wales về thời gian giam giữ” bắt đầu thu hoạch bí ngô, hành tây, bắp ngô & cà rốt tại nơi đây. Họ bán những món này cho thợ săn hải cẩu, một cú đánh thứ hai vào độc lập tự chủ của người Moriori, bởi họ làm tan vỡ hy vọng thịnh vượng của người dân bản xứ khi nhuộm hồng nước biển với máu hải cẩu. (Ông D’Arnoq minh họa lợi nhuận bằng công thức – một tấm da hải cẩu bán được 15 shi-linh ở Quảng Châu & những người thợ săn tiên phong đó đã thu được hơn hai nghìn bộ da mỗi chuyến!) Chỉ trong vòng vài năm, loài hải cẩu chỉ còn tìm thấy ở những rặng đá xa bờ & cả những “thợ săn hải cẩu” cũng chuyển sang trồng khoai tây, nuôi cừu & lợn trên quy mô lớn đến nỗi Chatham được đặt tên là “Khu Vườn Thái Bình Dương.” Những nông dân mới phất này khai khẩn bằng cách đốt rừng, để lại tàn lửa âm ỉ dưới lớp than bùn qua nhiều mùa, biểu hiện qua những đợt hạn hán gieo rắc thêm tai ương mới.
Cú đánh thứ ba vào người Moriori là những thợ săn cá voi, giờ tấp nập ghé vào Vịnh Đại Dương, Waitangi, Owenga & Te Whakaru với số lượng lớn để tìm việc, sửa tàu & nghỉ ngơi. Mèo & chuột trên tàu săn cá voi sinh sôi nảy nở như Dịch hạch Ai Cập & ăn hết những con chim làm tổ trong hang, trứng của loài chim này là nguồn thức ăn quý của người Moriori. Thứ tư, những dịch bệnh tạp nham tiêu diệt các chủng tộc có màu da sậm hơn mỗi khi nền văn minh Da trắng tiến đến gần, càng khiến dân số người bản xứ
suy giảm.
Những bất hạnh này người Moriori vẫn có thể gánh chịu được, thế nhưng tin tức đã truyền đến Tân Tây Lan, mô tả Chatham như một xứ Canaan[5] có thật với những đầm phá đầy ắp cá tôm & cư dân chẳng biết gì về chiến đấu hay vũ khí. Với Ngati Tama & Ngati Mutunga, hai bộ lạc Maori thuộc bộ tộc Te Ati Awa ở Taranaki (ông D’Arnoq quả quyết với chúng tôi rằng phả hệ của người Maori cũng chi chít như những cây phả hệ mà giới quý tộc châu Âu vốn tôn kính; kì thực, bất kì bé trai nào của chủng tộc mù chữ ấy đều có thể gọi đúng tên của ông cụ ông kỵ & “thứ hạng” tổ tiên trong nháy mắt), những tin đồn này hứa hẹn sẽ bù đắp cho đất đai tổ tiên của họ bị mất trong các “Cuộc Chiến Hỏa Mai”[6]trước đó. Gián điệp được cử đến để thăm dò tính khí của người Moriori bằng cách vi phạm những điều cấm kỵ & cướp bóc các thánh tích. Người Moriori đối mặt với sự khiêu khích này như Chúa của chúng ta đã dạy, bằng cách “chìa má bên kia ra”, & những kẻ vi phạm trở về Tân Tây Lan để xác nhận rằng người Moriori rất nhu nhược. Những kẻ chinh phạt Maori với hình xăm đầy mình tìm ra đội tàu của Thuyền trưởng Harewood, chỉ huy của chiếc tàu hai buồm Rodney. Vào những tháng cuối năm 1835, Harewood đã đồng ý chở chín trăm người Maori & bảy chiếc xuồng chiến trên hai chuyến tàu, để đổi lấy khoai tây giống, vũ khí, lợn, một lượng lớn sợi lanh & một súng đại bác. (Cách đây năm năm, ông D’Arnoq đã gặp Harewood, nghèo kiết xác trong một quán rượu ở Vịnh Đa Đảo. Thoạt tiên ông ta phủ nhận mình là thuyền trưởng Harewood của tàu Rodney, sau đó lại thề rằng mình đã bị dụ dỗ để làm việc đó.)
Rodney khởi hành từ cảng Nicholas vào tháng 11, nhưng kiện hàng gồm năm trăm người đàn ông, đàn bà & trẻ con, nhét chặt như cá hộp trong suốt hành trình sáu ngày, chen chúc trong mùi hôi & say sóng & thiếu thốn thứ cơ bản nhất là nước, đã thả neo tại lạch Whangatete trong tình trạng thê thảm đến nỗi, nếu muốn, người Moriori đã có thể tiêu diệt những người anh em chiến binh của họ. Những người bản xứ hào hiệp đã chọn cách chia sẻ
tài nguyên đang cạn kiệt của Rēkohu thay vì đánh mất mana bằng cách làm đổ máu & chăm sóc những người Maori ốm đau & hấp hối cho đến khi họ khỏe mạnh trở lại. “Người Maori trước đó từng đến Rēkohu rồi,” ông D’Arnoq giải thích, “nhưng sau đó lại đi, nên người Moriori cứ đinh ninh những kẻ thực dân này cũng sẽ ra đi trong hòa bình.”
Lòng quảng đại của người Moriori đã được tưởng thưởng khi thuyền trưởng Harewood trở lại từ Tân Tây Lan với thêm bốn trăm người Maori nữa. Lúc này những người lạ bắt đầu chiếm Chatham theo takahi, một tục lệ của người Maori dịch thành “Đi lên đất nào thì sở hữu đất ấy.” Và như thế Cựu Rēkohu đã bị chia năm xẻ bảy & người Moriori được thông báo từ nay họ đã trở thành chư hầu của người Maori. Vào đầu tháng 12, một số người bản xứ phản kháng đã bị trảm bằng rìu. Người Maori chứng tỏ họ là những học trò xuất sắc của người Anh trong “nghệ thuật thực dân hóa.”
Đảo Chatham bao quanh một phá nước mặn rộng lớn ở phía đông, tên là Te Whanga, gần giống như biển trong đất liền nhưng được bồi đắp bằng đại dương khi thủy triều lên thông qua “miệng” phá ở Te Awapatiki. Mười bốn năm trước, người Moriori đã tổ chức một nghị viện trên mảnh đất thiêng đó. Nghị viện kéo dài ba ngày, với mục tiêu tìm lời đáp cho câu hỏi: Liệu làm cho người Maori đổ máu có hủy hoại mana không? Các thanh niên lập luận rằng tín ngưỡng Hòa bình không bao hàm những kẻ ăn thịt người ngoại quốc mà tổ tiên họ chẳng hề biết đến. Người Moriori phải giết người nếu không muốn bị giết. Các bậc cao niên thì kêu gọi kiềm chế, vì chừng nào người Moriori còn gìn giữ mana với đất đai của họ, thì các thánh thần & tổ tiên sẽ giúp đưa chủng tộc này thoát khỏi tai ương. Các bậc cao niên dạy dỗ, “Hãy ôm kẻ thù của mình, để họ không tấn công ta.”(Henry nhạo thành, “Hãy ôm kẻ thù của mình, để thấy dao găm của hắn thọc vào thận ta.”)
Những bậc cao niên đã thắng thế ngày hôm đó, nhưng điều này chẳng có ý nghĩa gì. “Dù không giành thế thượng phong về quân số,” ông D’Arnoq nhận định, “nhưng người Maori lại tận dụng lợi thế là kẻ tấn công đầu tiên & mạnh nhất, như nhiều người Anh & Pháp vắn số có thể xác nhận từ đáy
mồ.” Bộ lạc Ngati Tama & Ngati Mutunga đã lập ra những hội đồng riêng. Trở về sau buổi họp nghị viện, người Moriori bị mai phục & trải qua một đêm tồi tệ hơn cả ác mộng, bị tàn sát, làng mạc bị đốt, cướp bóc, đàn ông & đàn bà bị đóng cọc xuyên qua người thành hàng trên bãi biển, trẻ con trốn trong hang hốc, bị chó săn đánh hơi & xé xác. Một vài tộc trưởng biết tính toán đến mai sau & chỉ sát hại vừa đủ để những người còn lại biết sợ mà phục tùng. Những tộc trưởng khác thì không kiềm chế như vậy. Trên bãi biển Waitangi, năm mươi người Moriori đã bị chặt đầu, lóc thịt, gói bằng lá cây lanh rồi nướng trong một lò nướng bằng đất khổng lồ cùng khoai sắn. Trong số những người Moriori được nhìn thấy hoàng hôn cuối cùng của Cựu Rēkohu, chưa đến một nửa còn sống để thấy bình minh đầu tiên của Maori. (“Hiện nay có chưa tới một trăm người Moriori thuần chủng còn sống,” ông D’Arnoq cảm thán, “Trên giấy tờ Vương triều Anh Quốc đã giải phóng những con người này khỏi ách nô lệ nhiều năm trước, nhưng người Maori chẳng quan tâm gì đến giấy tờ. Từ đây đến Dinh Thống đốc mất một tuần đi tàu & Nữ hoàng không cử quân đồn trú trên Chatham.”)
Tôi hỏi, tại sao người da trắng không ngăn chặn người Maori trong cuộc thảm sát đó?
Ông Evans không còn ngủ nữa & không đến nỗi nặng tai như tôi tưởng. “Ông có bao giờ thấy các chiến binh Maori trong cơn khát máu chưa, ông Ewing?”
Tôi trả lời chưa.
“Nhưng ông đã nhìn thấy cá mập trong cơn khát máu rồi, phải không?” Tôi đáp mình đã thấy.
“Gần giống như vậy. Hãy tưởng tượng một bắp chân chảy máu nhúng xuống vùng nước có nhiều cá mập. Phải làm gì – tránh xa vùng nước đó hay cố gắng ngăn chặn bầy cá mập? Đó là lựa chọn của chúng tôi. Cơ mà, chúng tôi cũng giúp một số ít những người tìm đến chúng tôi đấy chứ – gã chăn cừu Barnabas của chúng tôi là một trong số đó – nhưng nếu chúng tôi bước
ra ngoài đêm hôm đó thì giờ đây chúng tôi đâu còn ngồi đây nữa. Hãy nhớ, có chưa đến năm mươi người da trắng trên Chatham vào lúc đó. Có tổng cộng chín trăm người Maori. Người Maori phục tùng Pakeha, nhưng họ căm ghét chúng ta, ông Ewing ạ. Đừng bao giờ quên điều đó.” Chân lý rút ra là gì? Hòa bình, dù với tình yêu của Chúa, là một giá trị cốt lõi chỉ khi nào láng giềng có cùng lương tâm với ta.
Buổi tối
Cái tên D’Arnoq không được yêu mến lắm tại Musket. “Một lão Đen Trắng, lai tạp,” Walker nói với tôi. “Chẳng ai biết lão là thứ gì.” Suggs, một gã chăn cừu cụt một cánh tay lúc nào cũng có mặt ở quầy bar, nói chắc như đinh đóng cột rằng người quen của chúng tôi là một tướng quân phò Nã Phá Luân ẩn nấp ở đây sau lớp vỏ ngụy trang. Một người khác thì cam đoan ông ta là người Ba Lan. Cái tên “Moriori” cũng chẳng được yêu mến hơn. Một người Maori lai da trắng nói với tôi rằng toàn thể lịch sử của giống người thổ dân này chỉ là sản phẩm tưởng tượng của “những lão già thần kinh theo Luther giáo”, & ông D’Arnoq rao giảng về người Moriori chẳng qua là để hợp thức hóa những vụ lừa đảo giành đất của ông ta với người Maori, những người chủ thực sự của đảo Chatham, những người đã lui tới nơi này bằng xuồng từ đời nảo đời nao! James Coffee, một chủ trang trại nuôi lợn, nói người Maori đã giúp người da trắng bằng cách loại bỏ một chủng tộc mọi rợ để có chỗ cho chúng tôi, rồi nói thêm rằng người Nga huấn luyện người Cô-dắc để “làm mềm da thú Siberia” cũng nhằm mục đích tương tự.
Tôi không đồng tình, phản biện rằng sứ mệnh của chúng ta là khai hóa các chủng tộc da đen bằng cách cải đạo họ, không phải tận diệt họ, vì họ cũng được tạo ra từ bàn tay của Chúa. Mọi người trong quán rượu tấn công tôi tới tấp vì “giọng điệu ủy mị láo toét của bọn Mỹ!” “Những kẻ tốt nhất trong bọn chúng cũng sẽ chết như một con lợn!” một người hét ầm lên. “Đức tin duy nhất mà bọn da đen nằm lòng là tin vào cái roi!” Lại một người nữa: “Người Anh chúng tôi đã bãi bỏ chế độ nô lệ ở vương quốc chúng tôi rồi – có người Mỹ nào dám tuyên bố như thế không hử!”
Phản ứng của Henry khá mâu thuẫn, nói một cách đơn giản là vậy. “Sau nhiều năm làm việc với các nhà truyền đạo, tôi buộc lòng kết luận rằng những nỗ lực của họ chỉ càng kéo dài cơn quằn quại của một chủng tộc đang hấp hối thêm mười, hai mươi năm nữa mà thôi. Người thợ cày từ bi là
người bắn chết con ngựa chăm làm khi nó quá già không thể phục dịch được nữa. Là những người từ ái, phải chăng nghĩa vụ của chúng ta là xoa dịu nỗi thống khổ của những người mọi rợ bằng cách đẩy nhanh sự diệt vong của họ? Hãy nghĩ đến những người da đỏ ở quê hương của ông đi, Adam, hãy nghĩ đến những hòa ước mà người Mỹ các ông bãi bỏ & vi phạm, hết lần này đến lần khác. Nhân văn hơn, chắc chắn rồi, & chân thật hơn, là chỉ cần đập đầu những người mọi rợ & thế là xong?”
Mỗi người một chân lý. Đôi lúc, tôi thoáng nhận ra một Chân lý chân thực hơn, ẩn sau ảo ảnh không hoàn hảo của chính nó, nhưng khi tôi tiến lại gần, nó cựa quậy & lún sâu hơn vào vũng lầy gai góc của những quan điểm bất đồng.
Thứ Ba, ngày 12 tháng 11
Thuyền trưởng Molyneux đáng kính của chúng tôi hôm nay đến Musket để mặc cả về năm thùng thịt muối với chủ quán trọ (vụ việc được dàn xếp bằng một trận bài cào om sòm với phần thắng thuộc về ông thuyền trưởng). Trước sự ngạc nhiên của tôi, thuyền trưởng Molyneux muốn có vài lời riêng với Henry trong phòng của ông bác sĩ trước khi trở về kiểm tra tiến độ ở xưởng tàu. Hai người vẫn đang nói chuyện trong lúc tôi viết những dòng này. Ông bạn của tôi đã được cảnh báo về thói chuyên quyền của ông thuyền trưởng, dù vậy, tôi vẫn không thích chuyện này chút nào.
Sau đó
Thì ra thuyền trưởng Molyneux mắc một chứng bệnh mà nếu không được chữa trị có thể sẽ làm suy yếu nhiều kĩ năng đòi hỏi phải có ở địa vị của ông ta. Vì vậy thuyền trưởng đã đề nghị ông bạn Henry của tôi lên tàu cùng chúng tôi đến Honolulu (ăn uống & phòng riêng miễn phí), đảm nhận trách nhiệm của một bác sĩ trên tàu & bác sĩ riêng của thuyền trưởng Molyneux đến khi tàu cập bến. Ông bạn tôi giải thích rằng bản thân đã có kế hoạch quay về London, nhưng thuyền trưởng Molyneux cứ nhất quyết. Henry hứa sẽ suy nghĩ kĩ càng về chuyện này & có quyết định vào sáng thứ Sáu, ngày Prophetess nhổ neo.
Henry không nói thuyền trưởng mắc chứng bệnh gì, mà tôi cũng không hỏi, mặc dù chẳng cần phải là Thần Y mới biết thuyền trưởng Molyneux là nô lệ của bệnh gout. Sự suy xét thận trọng của bạn tôi đã làm uy tín ông tăng đáng kể. Bất kể Henry Goose có biểu hiện quái đản, khác người ra sao khi đi sưu tầm những món chẳng ai hiểu nổi, tôi vẫn tin bác sĩ Goose là một thầy thuốc mẫu mực & tôi tràn đầy hi vọng, nếu không nói là hơi ích kỉ một chút, rằng Henry sẽ chấp nhận lời đề nghị của thuyền trưởng.
Thứ Tư, ngày 13 tháng 11
Tôi tìm đến nhật ký của mình như một tín đồ Thiên Chúa giáo tìm đến lễ xưng tội. Các vết bầm trên người chứng tỏ năm giờ kì lạ vừa qua không phải là một ảo ảnh trên giường bệnh do bệnh tình của tôi đem lại, mà là những sự kiện có thật. Tôi sẽ mô tả chuyện gì xảy ra với mình hôm nay, càng sát sự thực càng tốt.
Sáng nay, Henry đến nhà của bà góa Bryden một lần nữa để điều chỉnh thanh nẹp & bôi thêm thuốc đắp. Thay vì ngồi không rảnh rỗi, tôi quyết tâm leo lên một ngọn đồi cao nằm ở phía bắc Vịnh Đại Dương, tên là Mỏm Chóp Nón. Độ cao chót vót của nó hứa hẹn đem lại tầm nhìn tốt nhất về “vùng thôn quê” của đảo Chatham. (Henry, với tuổi đời nhiều hơn tôi, rất thận trọng trước việc lang thang trên những hòn đảo có bộ lạc ăn thịt người sinh sống.) Nhánh sông uể oải đổ nước vào Vịnh Đại Dương dẫn tôi ngược dòng qua nhiều cánh đồng cỏ lầy lội, những con dốc lổn nhổn, vào khu rừng nguyên sinh mục rữa, chằng chịt & đan xen đầy rối rắm, đến nỗi tôi phải leo trèo như đười ươi! Một trận mưa đá bất chợt trút xuống, điên cuồng nện thình thịch xuống khu rừng & đột ngột chấm dứt. Tôi rình một chú “chim oanh cổ đen” có bộ lông đen óng như màu đêm & vẻ dạn dĩ như chốn không người. Một con chim tui giấu mặt cất tiếng hót, nhưng ảo giác bất chợt của tôi khiến nó có sức mạnh ngôn từ con người: - “Ăn miếng trả miếng!” nó kêu phía trước, di chuyển nhẹ nhàng qua ma trận những chồi xanh, cành khô & gai nhọn. “Ăn miếng trả miếng!” Sau một chuyến leo bở hơi tai, tôi đã chinh phục được đỉnh cao trong tình trạng quần áo tả tơi & khắp người trầy xước vào lúc mấy giờ tôi cũng chẳng biết nữa, vì tôi đã lơ đãng quên lên dây cót đồng hồ bỏ túi tối hôm qua. Làn sương mờ ảo vây ám những hòn đảo nhỏ này (theo lời ông D’Arnoq, tên gọi “Rēkohu” trong thổ ngữ có nghĩa là “Mặt trời trong sương”) đã hạ thấp trong lúc tôi leo lên, vì vậy toàn cảnh từ đỉnh đồi mà tôi nhìn thấy chẳng có gì ngoài những ngọn cây tan biến trong làn mưa bụi. Thật là một phần thưởng keo kiệt cho nỗ lực của tôi.
“Đỉnh” của Mỏm Chóp Nón là một miệng núi lửa có đường kính rất hẹp, bao quanh một hố trũng có thành là vách đá, đáy hố nằm sâu tít bên dưới hàng trăm cây kopi. Không có dây thừng & cuốc chim, tôi chẳng mấy bận tâm tìm hiểu độ sâu của nó. Tôi đi vòng quanh miệng hố, tìm một lối dễ đi dễ hơn để quay về Vịnh Đại Dương, thì bất thình lình một tiếng vút! khiến tôi ngồi thụp xuống đất: - đầu óc con người vốn không thích có chỗ trống trong nó & có thói quen tự lấp đầy với những ảo ảnh, vì thế thoạt tiên tôi trông thấy một con lợn rừng có nanh vụt qua, sau đó là một chiến binh Maori đang giơ ngọn giáo, khuôn mặt hằn dấu hận thù của chủng tộc từ ngàn đời.
Hóa ra chỉ là một con chim hải âu, cánh vỗ phần phật trong không trung như một chiếc thuyền buồm. Tôi dõi theo đến khi nó biến mất vào làn sương mờ ảo. Tôi đứng cách miệng vực cả nửa mét, nhưng phát hoảng khi nhận ra lớp đất dưới chân rời ra như vỏ bánh – nơi tôi đứng không phải nền đất rắn mà là phần đất nhô ra! Tôi ngồi thụp xuống, tuyệt vọng túm lấy vài nhúm cỏ, nhưng chúng đứt đoạn trong tay tôi & cứ thế tôi rơi xuống, một hình nộm bị ném xuống giếng! Tôi nhớ mình đã xoay vòng vòng trong không trung, la hét & cành cây khô cào vào mắt, lộn nhào & áo khoác bị vướng, bị rách toạc; đất cát rơi lả tả; nghĩ đến đau đớn sắp tới; một lời cầu nguyện khẩn thiết không đầu không đuôi; một bụi rậm làm chậm lại, nhưng không làm dừng cú rơi của tôi & một nỗ lực vô vọng nhằm lấy lại thăng bằng – trượt dốc – cuối cùng mặt đất dâng nhanh lên trên để đón tôi. Cú va chạm làm tôi bất tỉnh nhân sự.
Tôi nằm giữa chăn nệm bùng nhùng & những chiếc gối mùa hè, trong một phòng ngủ ở San Francisco giống như phòng ngủ của tôi. Một gia nhân lùn nói, “Cậu là một đứa trẻ rất ngu ngốc, Adam ạ.” Tilda & Jackson bước vào phòng, nhưng khi tôi bày tỏ niềm vui sướng của mình thì thứ tiếng phát ra từ miệng tôi lại không phải tiếng Anh mà là những tiếng ông ổng của chủng tộc thổ dân! Vợ & con tôi quá xấu hổ về tôi & lên xe ngựa đi mất. Tôi đuổi theo, cố gắng giải thích về sự hiểu lầm này, nhưng chiếc xe ngựa cứ lao
đi xa dần cho đến khi tôi tỉnh dậy trong ánh chạng vạng, xung quanh là cây cối rậm rạp & một sự im lặng, choáng ngợp & thiên thu. Những vết bầm, trầy xước, cơ bắp & đầu cổ tôi rên rỉ như phòng xử án đầy những kẻ bất bình với bản án dành cho mình.
Một tấm đệm bằng rêu & lá cây, nằm ở đáy vực tối tăm đó chắc từ ngày thứ hai Thượng đế tạo ra muôn loài, đã cứu mạng tôi. Các thiên sứ đã bảo vệ tay chân tôi, vì chỉ cần một cánh tay hay cẳng chân bị gãy thôi, thì tôi sẽ phải nằm bất động ở đó, không thể tự giải thoát cho mình, chờ đợi cái chết đến tự nhiên hoặc từ móng vuốt các loài thú. Khi đã đứng dậy được & thấy mình trượt & ngã xa đến đâu (bằng chiều cao của một cột buồm) mà không bị thương tổn gì nặng nề, tôi tạ ơn Chúa đã cứu nguy, vì quả thực, Trong cơn gian truân nơi kêu cầu, ta bèn giải cứu ngươi, đáp lại ngươi từ nơi kín đáo của sấm sét.
Mắt tôi điều chỉnh để thích nghi với ánh chiều nhập nhoạng & nhận ra một hình ảnh hằn sâu, đáng sợ & phi thực. Thoạt tiên là một, sau đó là mười, rồi hàng trăm gương mặt hiện ra từ ánh sáng lờ mờ, được những người thờ cúng đẽo vào vỏ cây, như những linh hồn rừng thẳm bị đóng băng bất động bởi một lời nguyền hiểm độc. Không tính từ nào có thể mô tả bộ lạc tử xà đó! Chỉ những gì phi sự sống mới sống động nhường đó. Tôi lần ngón tay trên những khuôn mặt đáng sợ của họ. Tôi chắc chắn mình là người da trắng đầu tiên có mặt trong lăng mộ ấy kể từ khi nó xuất hiện từ thuở hồng hoang. Tôi đoán hình chạm khắc nhỏ nhất khoảng mười năm tuổi, nhưng những hình cũ hơn, trương phồng lên theo thời gian theo thân cây trưởng thành, hẳn được rạch khắc bởi những thổ dân mà giờ đây hồn ma của họ cũng đã thăng thiên từ lâu rồi. Sự lâu đời này rõ ràng là minh chứng cho lời kể của ông D’Arnoq về người Moriori.
Thời gian dần trôi trong chốn bùa mê đó & tôi tìm cách thoát ra, được tiếp thêm sức mạnh bởi biết rằng những nghệ nhân “điêu khắc cây” hẳn đã thường xuyên tới lui cái hố này. Một vách đá trông có vẻ ít dốc đứng hơn những vách khác & những sợi dây leo có thể được dùng làm “thang dây”. Tôi
đang sửa soạn leo lên thì chợt nghe một tiếng “hum” kì lạ. “Ai đó?” tôi hỏi (hành động bất cẩn của một kẻ da trắng tay không xâm nhập vào thánh đường của người bản xứ.) “Lộ diện đi!” Im lặng nuốt chửng lời tôi & tiếng vọng & trêu ngươi tôi. Cơn đau quặn lên trong lá lách. Tôi lần theo tiếng “hum” tìm đến một đàn ruồi đang bay quanh một cục lồi lên vắt xuyên qua một cành cây gãy. Tôi dùng một cành thông khô khều khối u & suýt nôn ọe, vì đó là một phần thịt thú vật đã thối rữa bốc mùi nồng nặc. Tôi quay lưng định bỏ chạy nhưng bụng bảo dạ phải xua tan nỗi ngờ vực rằng vật treo trên cây đó là tim người. Tôi lấy khăn mùi soa bịt mũi & miệng & dùng gậy chạm vào một bên tâm thất đã bị thương tổn. Cơ quan nội tạng ấy đập như còn sống! & một cơn bỏng rát chạy dọc sống lưng! Như trong mơ (nhưng thực tế thì không phải!) một con kỳ nhông trong suốt trồi lên từ nơi ẩn náu bên trong cái món thối rữa & phóng theo cây gậy lên thẳng tay tôi! Tôi ném cây gậy đi & không kịp thấy con kỳ nhông đã biến đi đâu mất. Máu tôi lạnh toát vì sợ & tôi vội vã tìm cách chạy thoát thân. Viết dễ hơn làm, vì nếu tôi trượt chân & rơi xuống một lần nữa từ những bức vách cao đến chóng mặt ấy, có thể vận may sẽ không làm giảm nhẹ cú rơi thứ hai của tôi nữa, nhưng nhờ những hốc đặt chân khoét vào đá & hồng ân của Chúa mà tôi đã lên đến miệng vực lành lặn.
Sau khi leo lên đến đám sương mù u ám, tôi thèm có sự hiện diện của con người xung quanh, đúng thế, ngay cả đám thủy thủ thô lậu ở Musket, & bắt đầu xuống đồi theo hướng mà tôi hi vọng là phía nam. Ý định ban đầu của tôi, kể lại hết tất cả những gì đã thấy (chắc chắn là Walker, người nắm quyền hành thực tế nếu không muốn nói là tối cao nên được thông báo về một vụ cướp tim người chứ?) ngày càng giảm dần khi tôi tiến đến Vịnh Đại Dương. Tôi vẫn còn do dự nên kể gì & với ai. Quả tim đó nhiều khả năng là của lợn, hoặc cừu, chắc chắn là vậy. Viễn cảnh Walker & đồng bọn đốn hạ những cây đó & bán những hình khắc trên cây cho các nhà sưu tập khiến lương tâm tôi bồn chồn. Có thể tôi quá nhạy cảm, nhưng tôi không muốn trở thành tác nhân cho sự xâm hại cuối cùng đến người Moriori[7].
Buổi tối
Chòm sao Thập Tự Nam đã lấp lánh trên bầu trời trước khi Henry trở về Musket, sau khi bị thêm nhiều người dân đảo giữ lại để hỏi “Thầy thuốc trị bệnh cho bà góa Bryden” về bệnh thấp khớp, mụn ghẻ & bệnh phù. “Nếu khoai tây mà là Mỹ kim,” ông bạn tôi tiếc rẻ, “thì tôi đã giàu hơn cả Nebuchadnezzar rồi!” Ông lo lắng khi nghe kể về chuyến phiêu lưu (đã được tôi chỉnh sửa nhiều) trên Mỏm Chóp Nón & nhất định đòi khám vết thương cho tôi. Trước đó tôi đã thuyết phục được cô hầu gái thổ dân đổ nước vào bồn tắm & đã khỏe khoắn hơn nhiều sau khi ngâm mình. Henry tặng tôi một lọ dầu xoa để bôi lên những chỗ viêm & không chịu nhận lại đồng nào. Lo sợ đây có thể là cơ hội cuối cùng được một bác sĩ giỏi khám (Henry định khước từ lời đề nghị của thuyền trưởng Molyneux), tôi đã trải nỗi lòng lo âu về bệnh tình của mình. Ông ta chăm chú lắng nghe & hỏi cơn đau của tôi có thường xuyên không & kéo dài bao lâu. Henry lấy làm tiếc ông không có đủ thời gian & thiết bị để chẩn đoán toàn diện, nhưng khuyến cáo rằng khi về đến San Francisco, tôi phải tìm ngay một chuyên gia về kí sinh trùng nhiệt đới ngay lập tức. (Tôi không đủ can đảm nói với ông ta rằng ở đấy chẳng có bác sĩ nào như thế cả).
Tôi đã không chợp được mắt.
Thứ Năm, ngày 14 tháng 11
Chúng tôi lên tàu theo con nước triều buổi sáng. Một lần nữa tôi lại ở trên tàu Prophetess, nhưng tôi không thể giả vờ rằng mình thấy mừng khi trở lại. Buồng ngủ chật chội của tôi giờ đây chất ba cuộn dây cáp to mà tôi phải leo qua mới đến được giường của mình, vì không thể nhìn thấy một chỗ trống nào trên sàn. Ông D’Arnoq đã bán sáu thùng lương khô cho người lo việc hậu cần & một chồng vải buồm (trước sự khinh bỉ của Walker). Ông ta lên tàu để giám sát việc giao hàng & đích thân thu tiền & chúc tôi thượng lộ bình an. Chúng tôi mà cùng ngồi trong buồng tàu thì chật cứng như cua trong lỗ, vì thế chúng tôi lên trên boong vì tiết trời tối hôm đấy rất dễ chịu. Sau khi thảo luận nhiều vấn đề, chúng tôi bắt tay & ông ta leo xuống chiếc thuyền buồm nhỏ đang đợi, có hai người hầu trẻ tuổi lai thổ dân phục vụ. Roderick chẳng hề động lòng khi tôi kiến nghị dời những cuộn dây cáp phiền phức đi chỗ khác, vì ông ta bị buộc phải dọn ra khỏi buồng riêng (vì lý do dưới đây) & chuyển đến buồng phía trước với các thủy thủ mà giờ đây số lượng đã phình lên với năm người Castile “săn trộm” từ chiếc tàu Tây Ban Nha đang thả neo tại Vịnh. Thuyền trưởng của họ mang bộ mặt của Thần Thịnh Nộ, nhưng ngoài việc tuyên chiến với tàu Prophetess – một trận chiến chắc chắn sẽ làm ông ta thảm bại, vì ông ta chỉ huy chiếc tàu ọp ẹp nhất – ông ta chẳng thể làm gì khác ngoài tạ ơn thánh thần vì thuyền trưởng Molyneux không còn cần thêm những kẻ đào ngũ từ tàu ông nữa. Bản thân từ “Đi California” đã như dát vàng & hấp dẫn mọi người như thiêu thân lao vào ánh đèn. Năm người này thế chỗ cho hai người bỏ tàu ở Vịnh Đại Dương & những người bỏ mạng trong trận bão, nhưng chúng tôi vẫn còn thiếu vài người nữa thì thủy thủ đoàn mới đầy đủ. Finbar nói với tôi rằng cánh thủy thủ kêu ca rất nhiều về sự sắp xếp mới, vì khi Roderick dọn đến ở chung, họ không thể tha hồ bù khú được nữa.
Vận mệnh đã bù đắp xứng đáng cho tôi. Sau khi thanh toán hóa đơn cắt cổ của Walker (tôi cũng chẳng boa cho tên khốn ấy một xu nào), tôi đang
khóa chiếc rương gỗ của mình thì Henry bước vào chào tôi: - “Xin chào buổi sáng, bạn cùng thuyền!” Thượng đế đã nghe thấy lời cầu nguyện của tôi! Henry đã nhận lời làm bác sĩ của tàu & tôi không còn cô đơn trên cái sân trại nổi này nữa. Đám thủy thủ thật xấu tính đến nỗi, thay vì biết ơn vì có sẵn một bác sĩ trên tàu để nẹp những đoạn xương gãy & trị vết thương nhiễm trùng cho họ, thì ai cũng có thể nghe thấy tiếng họ càm ràm, “Chúng ta là gì mà phải chở theo một ông bác sĩ vô dụng, chẳng biết đi trên thanh rầm néo buồm chứ? Có phải là thuyền rồng quý tộc gì đâu?”
Tôi phải thừa nhận có chút tự ái khi thuyền trưởng Molyneux cấp cho một quý ông thanh toán sòng phẳng như tôi đây chỉ một chiếc giường ngủ tồi tàn, trong khi còn một buồng tiện nghi hơn vẫn chưa được sử dụng. Tuy nhiên, cái được lớn hơn là lời hứa của Henry sẽ dùng tài năng siêu phàm của mình để chẩn đoán bệnh tình cho tôi ngay khi chúng tôi ra biển. Không bút mực nào tả xiết cảm giác nhẹ nhõm của tôi.
Thứ Sáu, ngày 15 tháng 11
Chúng tôi khởi hành lúc hừng đông, dù thứ Sáu là ngày kiêng kị của dân đi biển. (Thuyền trưởng Molyneux càu nhàu, “Mấy trò dị đoan, ngày của các Thánh & những lời đồn nhảm chỉ dành cho mấy mụ bán cá mê tín chứ tôi thì còn bận làm ăn sinh lời!”) Henry & tôi không lên boong tàu, vì tất cả mọi người đều bận rộn chằng đầu này buộc đầu kia, & gió nam thổi rất mạnh cùng với biển động; tối qua tàu gặp trục trặc & vẫn không khá hơn vào hôm nay. Chúng tôi dành ra nửa ngày để sắp xếp chỗ bào chế thuốc cho Henry. Ngoài một số thiết bị của bác sĩ hiện đại, ông bạn tôi còn có vài quyển sách chuyên ngành bằng tiếng Anh, Latin & Đức. Một hộp đựng nhiều loại bột trong từng chai được nút chặt, dán nhãn tiếng Hi Lạp. Ông ta trộn những loại bột này để làm thành nhiều loại thuốc viên & thuốc bôi khác nhau. Chúng tôi nhìn ra bầu trời trưa qua khe cửa & quần đảo Chatham chỉ còn là những chấm mực lấm tấm trên nền chân trời xám xịt, nhưng chiếc tàu lắc lư nghiêng ngả thật không an toàn cho những ai đã lên bờ suốt một tuần.
Buổi chiều
Anh chàng thủy thủ người Thụy Điển tên là Torgny gõ cửa buồng tôi. Ngạc nhiên & tò mò trước thái độ lén lút của cậu ta, tôi cho cậu vào phòng. Cậu ngồi lên một “kim tự tháp” dây cáp & thì thầm rằng mình nắm giữ kế hoạch của một băng nhóm thủy thủ. “Hãy cho chúng tôi biết những mạch ngầm tốt nhất ở đâu, những mạch ngầm bí mật mà người địa phương các ông đang giữ kín cho riêng mình. Tôi và mấy người bạn sẽ làm công việc đào bới. Ông chỉ cần ngồi yên & chúng tôi sẽ chia cho ông một phần mười.”
Mất một lúc tôi mới hiểu Torgny đang nói đến các mỏ khoáng sản ở California[8]. Hóa ra, một vụ đào tẩu diện rộng đang được ấp ủ khi Prophetess cập bến & tôi phải thú nhận, tôi đứng về phe các thủy thủ! Tuy vậy, tôi vẫn thề với Torgny là tôi chẳng biết gì về các quặng vàng, vì đã xa nhà suốt một năm qua, nhưng tôi sẽ sẵn lòng vẽ một bản đồ minh họa vùng “Eldorados” đang được đồn thổi. Torgny đồng ý. Xé một tờ giấy từ sổ nhật ký, tôi vẽ lược đồ vùng Sausalito, Benecia, Stanislaus, Sacramento, v.v., bất chợt một giọng nói nham hiểm vang lên. “Giống nhà tiên tri quá nhỉ, Gà Chọi?”
Chúng tôi không hề nghe tiếng Boerhaave đi đến & lén mở cửa phòng tôi! Torgny kêu lên hoảng hốt, nhận tội ngay tắp lự. “Làm gì đây,” lão thuyền phó lên tiếng, “mày có việc gì mà nói chuyện với hành khách của chúng tao, đồ mụn mủ Stockholm?” Torgny đứng im như trời trồng, nhưng tôi thì không dễ dọa & bảo kẻ bắt nạt rằng tôi đang diễn tả “khung cảnh” ở quê nhà tôi, để Torgny dễ thăm thú khi lên bờ.
Boerhaave nhướng mày, “Bây giờ ông phân công cả thủy thủ lên bờ hay sao? Vụ này mới à. Đưa cho tôi tờ giấy đó nào, ông Ewing, nếu ông không phiền.” Tôi có phiền. Quà của tôi là dành cho anh chàng thủy thủ và anh ta không việc gì phải tuân theo mệnh lệnh của gã Hà Lan. “Ơ hay, xin thứ lỗi nào, ông Ewing. Torgny, lấy quà của mày đi.” Tôi không còn lựa chọn nào
khác, đành phải đưa nó cho anh chàng người Thụy Điển đang cun cút tuân lệnh. Boerhaave giục, “Torgny, đưa quà của mày cho tao ngay, nếu không mày sẽ hối tiếc ngày mày chui ra khỏi bụng mẹ mày đấy (ngòi bút tôi xiêu vẹo khi viết đến sự báng bổ này).” Anh chàng người Thụy Điển răm rắp làm theo.
“Đúng là có ăn có học,” Boerhaave nhận xét khi nhìn chữ viết tay của tôi. “Thuyền trưởng sẽ rất vui khi biết ông đã vất vả ra sao để chăm sóc cho bọn thủy thủ mạt hạng của chúng tôi, ông Ewing ạ. Torgny, đi canh cột buồm hai mươi tư giờ cho tao. Nếu phát hiện mày ăn hay uống thì tăng lên bốn mươi tám giờ. Có khát thì tự mà uống nước đ. của mày ấy.” Torgny lủi đi ngay nhưng lão thuyền phó chưa xong với tôi. “Vùng biển này nhiều cá mập lắm, Gà Chọi à. Chúng bám đuôi tàu để ăn những món hàng hóa ngon lành được vứt xuống cho nhẹ tàu, thật đấy. Có lần tôi thấy một con ăn thịt cả hành khách luôn. Ông ta, cũng giống ông vậy, quá bất cẩn về sự an toàn của chính mình, & bị ngã từ trên boong xuống nước. Chúng tôi nghe tiếng ông ta gào thét. Lũ cá mập trắng đùa giỡn với bữa tối của chúng, nhai nuốt từ từ, nhai cái chân, rỉa miếng thịt & gã đáng thương đó giãy dụa lâu hơn là ông tưởng đấy. Hãy nghĩ cho kĩ.” Lão đóng sầm cửa buồng lại. Boerhaave, như tất cả những kẻ bắt nạt & độc tài khác, rất tự hào về thái độ lỗ mãng khiến họ trở nên khét tiếng.
Thứ Bảy, ngày 16 tháng 11
Định mệnh đã giáng lên tôi bi kịch tồi tệ nhất trong hành trình từ trước đến nay! Một bóng ma Cựu Rēkohu đã ném tôi, kẻ chỉ có một mong mỏi duy nhất là được yên tĩnh & tự do làm theo ý mình, vào gông cùm của sự ngờ vực & thị phi! Nhưng tôi chẳng phạm phải tội lỗi nào, ngoài đức tin Cơ đốc giáo & vận đen không dứt! Một tháng đã trôi qua kể từ khi chúng tôi khởi hành từ New South Wales khi tôi viết dòng nhật ký đầy lạc quan này, “Tôi mong đợi một hành trình yên bình & tẻ nhạt.” Thật là một câu phũ phàng! Tôi mãi không bao giờ quên mười tám giờ vừa qua, nhưng vì tôi không tài nào chợp mắt hoặc suy nghĩ (& Henry thì đã đi ngủ rồi) nên cách duy nhất để trốn cơn mất ngủ lúc này là nguyền rủa Vận may của mình trên những trang giấy thân thương này.
Tối qua tôi về lại cái hộp quan tài của mình với tâm trạng mệt rã rời. Sau khi cầu nguyện, tôi thổi tắt đèn & đang từ từ chìm vào giấc ngủ trong vô vàn âm thanh của con tàu. Chợt một giọng khàn khàn, ở trong buồng của tôi!, khiến tôi choàng tỉnh, mở trừng trừng hai mắt & kinh hãi tột độ! “Ông Ewing,” giọng nói thì thầm cầu khẩn, “Xin đừng sợ - ông Ewing – không hại, không la, làm ơn, thưa ông.”
Tôi ngồi bật dậy & va đầu vào vách ngăn. Trong tia sáng từ ánh đèn vàng tù mù xuyên qua khung cửa tạm bợ & ánh sao qua lỗ cửa sổ, tôi thấy một cuộn dây cáp dài như con rắn mở ra & một hình hài màu đen chui ra như cương thi ở nghĩa trang! Một bàn tay chắc nịch lướt qua bóng đêm & bịt chặt miệng tôi trước khi tôi kịp thét lên! Kẻ tấn công rít lên, “Ông Ewing, không hại, ông an toàn, tôi bạn của ông D’Arnoq – ông biết ông ấy đạo Thiên Chúa – làm ơn, im lặng!”
Cuối cùng, lý lẽ đã chống lại nỗi sợ hãi của tôi. Một con người, không phải hồn ma, đã ẩn nấp trong phòng tôi. Nếu hắn muốn cắt cổ tôi để cướp mũ, giày & thùng hồ sơ giấy tờ của tôi, thì tôi đã toi mạng từ lâu. Nếu hắn
định đi tàu lậu, thì hắn chứ không phải tôi, sắp tàn đời rồi. Từ ngôn ngữ thô lậu của hắn, thân hình mảnh dẻ & mùi cơ thể hắn, tôi đoán kẻ đi tàu lậu là một thổ dân, một mình trên một chiếc tàu với năm mươi người da trắng. Tốt lắm. Tôi gật đầu, chậm rãi, để ra hiệu tôi sẽ không hét lên.
Bàn tay thận trọng rời khỏi miệng tôi. “Tên tôi là Autua,” hắn nói. “Ông biết tôi, ông đã thấy tôi, vâng – ông thương hại tôi.” Tôi hỏi hắn đang nói gì. “Người Maori đánh tôi – ông thấy.” Trí nhớ tôi vượt qua sự kì lạ của tình huống hiện thời & tôi nhớ đến người Moriori bị “Vua Thằn Lằn” đánh bằng roi. Điều này làm hắn vui lên. “Ông người tốt – ông D’Arnoq nói ông người tốt – ông ấy giấu tôi trong buồng ông tối hôm qua – tôi trốn – ông giúp, ông Ewing.” Lúc này một tiếng rên phát ra từ miệng tôi! & bàn tay hắn lại bịt chặt miệng tôi. “Nếu ông không giúp – tôi gặp nguy chết.”
Đúng là vậy đấy, tôi nghĩ, không những vậy mi sẽ lôi ta chết theo, nếu ta không thuyết phục đượcthuyền trưởng Molyneux về sự vô tộicủa ta! (Tôi giận sôi người trước hành động của D’Arnoq & lúc này đây vẫn còn sôi sục. Có giỏi thì ông ta đi mà cứu những “người tốt” & để cho những người qua đường vô tội được yên thân!) Tôi nói với kẻ đi tàu lậu rằng hắn đã “gặp nguy chết” rồi. Tàu Prophetess là một chiếc tàu chở hàng, không phải là một “đường sắt ngầm” cho những tên nô lệ được giải cứu.
“Tôi làm được thủy thủ!” gã da đen khẳng định. “Tôi từng đi biển!” Rất tốt, tôi bảo hắn (nghi ngờ trước việc hắn tự nhận là thủy thủ nhà nòi), & nói hắn nên trình báo với thuyền trưởng ngay để hưởng khoan hồng. “Không! Họ không nghe tôi!Bơi về nhà đi, thằng mọi! , họ nói, & ném tôi xuống nước! Ông luật sư phải không? Ông đi, ông nói, tôi ở lại, tôi nấp! Làm ơn. Thuyền trưởng nghe ông, ông Ewing. Làm ơn.”
Tôi tìm cách thuyết phục hắn trong tuyệt vọng, không có kẻ trung gian nào bị ghẻ lạnh trong triều đình của thuyền trưởng Molyneux hơn gã người Mỹ Adam Ewing này. Chuyến mạo hiểm của gã người Moriori là của riêng hắn & tôi chẳng muốn dự phần vào chút nào. Bàn tay hắn tìm thấy bàn tay tôi & trong sự khiếp đảm của tôi, khép các ngón tay tôi quanh cán một con
dao găm. Mệnh lệnh của hắn dứt khoát & rõ ràng. “Vậy thì giết tôi đi.” Với một sự bình tĩnh & quả quyết đáng sợ, hắn ấn mũi dao vào cổ họng mình. Tôi nói với gã thổ dân rằng hắn điên rồi. “Tôi không điên, ông không giúp tôi, ông giết tôi, cũng vậy. Đúng thế, ông biết mà.” (Tôi nài nỉ hắn kiềm chế & nói nhỏ giọng). “Vậy hãy giết tôi. Nói với người khác là tôi tấn công ông, nên ông giết tôi. Tôi không làm mồi cho cá đâu, ông Ewing. Chết ở đây tốt hơn.”
Nguyền rủa lương tâm của mình một, số mệnh của mình hai & ông D’Arnoq ba, tôi bảo hắn hãy bỏ dao xuống & vì Chúa hãy trốn đi nếu không ai đó trong thủy thủ đoàn sẽ nghe thấy và đến gõ cửa. Tôi hứa sẽ gặp thuyền trưởng vào buổi ăn sáng ngày mai, vì giờ này mà quấy rầy giấc ngủ của ông ta thì tôi chắc chắn sẽ toi mạng. Điều này vừa ý kẻ đi tàu lậu & hắn cám ơn tôi. Hắn trườn vào trong cuộn dây cáp, để lại tôi với một nhiệm vụ gần như bất khả thi, đó là dựng lên một câu chuyện cho một tên thổ dân đi lậu tàu, trên một chiếc tàu Anh, mà không làm cho người phát hiện & bạn cùng buồng với hắn bị buộc tội đồng lõa. Hơi thở của gã thổ dân cho tôi biết hắn đã ngủ. Tôi trỗi lên ý định lao ra cửa & kêu cứu, nhưng trong mắt Chúa tôi là người giữ chữ tín, ngay cả với một thổ dân.
Tiếng động chối tai của những thanh gỗ bị gãy, cột buồm nghiêng ngả, dây thừng căng ra, vải buồm phần phật, tiếng bước chân trên boong, dê kêu be be, chuột chạy táo tác, tiếng máy bơm lạch cạch, tiếng chuông đồng hồ, tiếng hò hét & cười đùa từ buồng thủy thủ, tiếng ra lệnh, bài hò kéo trục quay & những âm thanh từ vương quốc bất tận của Nữ thần biển cả; tất cả ru tôi vào giấc ngủ trong lúc tôi đang tính toán cách nào tốt nhất để thuyết phục thuyền trưởng Molyneux về sự vô tội của tôi trong âm mưu của ông D’Arnoq (bây giờ tôi phải thận trọng hơn bao giờ hết để quyển nhật ký này không bị những cặp mắt thiếu thân thiện đọc được) thì bất thình lình một giọng the thé hét lên, bắt đầu từ xa xa nhưng nhanh chóng tiến lại gần với tốc lực của đầu đạn, rồi tắt hẳn chỗ boong tàu, ở phía trên cách nơi tôi nằm chỉ vài phân.
Thật là một kết cục khủng khiếp! Tôi nằm sấp, hốt hoảng & cứng đờ, quên cả thở. Tiếng la hét vang lên khắp xa gần, tiếng chân chạy & một tiếng gào “Gọi bác sĩ Goose!”.
“Kẻ đáng thương rơi từ khoang buộc tàu, chết rồi.” Gã thổ dân thì thầm khi tôi vội vã đi ra ngoài xem chuyện lộn xộn gì ngoài đó.“Ông không thể gì hết, ông Ewing.” Tôi ra lệnh cho hắn trốn kĩ & nhanh chân đi ra. Tôi tưởng tượng kẻ đi tàu lậu cảm thấy tôi muốn dùng tai nạn này để phản bội hắn.
Thủy thủ đoàn đứng xung quanh một người đàn ông nằm sấp ở chân cột buồm. Trong ánh đèn măng sông lắc lư, tôi nhận ra đó là một người Castile. (Tôi thừa nhận tâm trạng đầu tiên của mình là nhẹ nhõm, vì không phải Rafael mà một người khác đã ngã chết.) Tôi nghe người Iceland nói người chết đã thắng khẩu phần rượu của những đồng hương trong một ván bài & uống hết trước khi đi tuần. Henry đến, vẫn đang mặc đồ ngủ và đem theo chiếc túi bác sĩ. Ông ta quỳ xuống cạnh hình hài méo mó & bắt mạch, nhưng rồi lắc đầu. “Anh bạn này không cần bác sĩ.” Roderick lấy lại đôi ủng & quần áo của người Castile để bán đấu giá & Mankin tìm được một ít vải bao tải loại ba để quấn tử thi. (Lão Boerhaave sẽ trừ tiền vải bao tải vào lợi nhuận thu được từ việc đấu giá.) Các thủy thủ trở về buồng hoặc vị trí của họ trong im lặng, ai cũng buồn bã trước lời nhắc về cuộc sống mong manh này. Henry, Roderick & tôi ở lại để xem những người Castile tiến hành nghi lễ mai táng Cơ đốc giáo của họ dành cho người đồng hương trước khi buộc bao tải lại & thả xác anh ta xuống biển trong nước mắt & những lời tiễn biệt đau thương! “Những người Mỹ Latinh trắc ẩn,” Henry nhận xét, chúc tôi ngủ ngon lần thứ hai. Tôi nóng lòng muốn tiết lộ bí mật về gã thổ dân với ông bạn, nhưng đã ngậm miệng lại để ông ta không bị liên lụy với tội đồng lõa.
Quay về từ cảnh tượng đáng buồn, tôi thấy ánh đèn măng sông le lói trong nhà bếp. Finbar ngủ ở đó “để canh những kẻ ăn cắp vặt”, nhưng ông ấy cũng bị đánh thức bởi sự huyên náo tối hôm đó. Tôi sực nghĩ rằng kẻ đi lậu tàu có thể chưa ăn gì trong một ngày rưỡi rồi, thật đáng sợ quá, vì ai mà
biết cái bụng đói có thể xui khiến một tên mọi rợ gây ra hành động ác độc gì chứ? Việc tôi làm có thể sẽ chống lại tôi vào ngày mai, nhưng tôi nói với đầu bếp rằng tôi đang đói đến không ngủ được & (ăn gấp đôi bình thường “vì vào đêm hôm khuya khoắt thế này”) tôi nhận được một đĩa dưa bắp cải, xúc xích & bánh mì cứng như đạn đại bác.
Trở lại bốn bức tường trong buồng, gã mọi rợ cám ơn lòng tốt của tôi & ăn bữa tối khiêm tốn đó như thể đó là Yến tiệc của tổng thống. Tôi không thú nhận động cơ thực sự của mình, đó là, bụng hắn no bao nhiêu thì nguy cơ hắn muốn ăn thịt tôi sẽ giảm đi bấy nhiêu, thay vào đó, tôi hỏi hắn tại sao, trong buổi hành hình bằng roi, hắn lại mỉm cười với tôi. “Nỗi đau rất mạnh, đúng – nhưng đôi mắt của bạn, còn mạnh hơn.” Tôi nói với hắn rằng hắn chẳng biết gì về tôi & tôi cũng chẳng biết gì về hắn. Hắn chĩa hai ngón tay vào mắt mình & vào mắt tôi, như thể cử chỉ đó đã giải thích tất cả.
Gió thổi mạnh hơn khi phiên trực giữa đêm tiếp tục, khiến cho những cột gỗ kêu kẽo kẹt & nước biển dâng cao & tràn vào boong tàu. Không lâu sau nước biển nhỏ vào buồng của tôi, chảy xuống dọc các bức tường & thấm vào lớp chăn. “Lẽ ra ngươi nên chọn một nơi ẩn náu khô ráo hơn chỗ của ta,” tôi thì thầm, để đo độ yếu đuối của kẻ đi tàu lậu. “An toàn tốt hơn khô, ông Ewing,” hắn thì thầm, thận trọng giống tôi. Tôi hỏi tại sao hắn lại bị đánh dã man như vậy lúc ở làng thổ dân? Một sự im lặng kéo dài. “Tôi nhìn thấy quá nhiều trên thế giới rồi, tôi không phải nô lệ tốt.” Để chống cơn buồn nôn trong những giờ phút thê thảm đó, tôi gặng hỏi chuyện đời của kẻ đi tàu lậu. (Hơn nữa, tôi không thể khước từ óc tò mò của mình.) Tiếng Anh “bồi” của hắn chỉ kể lại rời rạc những điểm chính của câu chuyện nên tôi sẽ cố gắng viết lại như sau.
Tàu thuyền của người da trắng đem theo những thăng trầm đến Cựu Rēkohu, như ông D’Arnoq đã kể, nhưng cũng đem đến những tinh hoa. Trong suốt thời niên thiếu đi tàu lậu của mình, Autua khao khát được tìm hiểu thêm về những con người có nước da trắng tái đến từ những nơi mà sự tồn tại của chúng, trong thời ông bà hắn, là cả một vương quốc bí ẩn. Autua
nói bố của hắn từng có mặt trong số những người bản địa chạm trán với binh đoàn đổ bộ của thuyền trưởng Broughton ở Vịnh Giao Tranh, & ở tuổi thành niên hắn đã nghe những câu chuyện kể đi kể lại: - về những con “Đại Hải Âu”, bơi qua làn sương mờ buổi sáng; những người hầu có bộ lông sặc sỡ, nối với nhau một cách kì lạ, chèo xuồng vào đất liền, quay lưng lại; về thứ tiếng lắp bắp (một ngôn ngữ loài chim?) của những người hầu - Hải âu này; về hơi thở ra khói của họ; về sự vi phạm nghiêm trọng điều cấm kị không cho người lạ chạm vào xuồng (làm thế sẽ khiến chiếc xuồng bị ám & xem như không dùng để đi biển được, giống như nó đã bị phá hỏng rồi); về những cuộc đấu khẩu; về những “cây gậy quát tháo” mà cơn thịnh nộ của nó có thể giết chết một người ở đầu kia bãi biển; & về tấm vải rực rỡ màu xanh biển, trắng mây & đỏ máu mà những người hầu kéo lên phía trên một chiếc cột trước khi chèo trở lại Đại Hải Âu. (Lá cờ này đã bị tháo xuống & dâng lên tù trưởng. Ông ta quấn nó trên người đầy tự hào cho đến khi bệnh tràng nhạc lấy mạng ông.)
Autua có một người chú, tên là Koche, từng đi trên một chiếc tàu săn hải cẩu Boston, vào khoảng năm 1825. (Kẻ đi tàu lậu không nhớ chính xác ông ta bao nhiêu tuổi.) Người Moriori là những thủy thủ đắt giá trên các chuyến tàu đó, vì ngoài tài võ nghệ, người Rēkohu nổi danh nhờ tài săn hải cẩu & bơi lội cừ khôi. (Thêm một ví dụ nữa, để lấy được vợ, một thanh niên phải lặn xuống đáy biển & nổi lên với mỗi tay một con tôm & con thứ ba ngậm trong miệng.) Cũng cần nói thêm là, những người Polynesia mới được phát hiện trở thành miếng mồi dễ dàng cho những tay thuyền trưởng vô lương tâm. Chú Koche của Autua quay về sau năm năm, mặc quần áo của pakeha, đeo khuyên tai, một túi nhỏ Mỹ kim & đồng réal, có những thói quen kì lạ (“thở ra khói” nằm trong số đó), những câu văng tục & những chuyện kể về các thành phố & cảnh trí quá đỗi kỳ dị không bao giờ phát ra từ miệng một người Moriori.
Autua thề sẽ lên con tàu kế tiếp rời khỏi Vịnh Đại Dương & tận mắt nhìn ngắm những nơi kì lạ xa xôi. Chú hắn thuyết phục một thuyền phó hai trên
một chiếc tàu săn cá voi Pháp để đưa cậu bé mười tuổi (?) Autua đi cùng học việc. Trong sự nghiệp đi biển sau đó của người Moriori, hắn đã nhìn thấy dãy băng hà ở Nam Cực, những con cá voi biến thành những tiểu đảo đầy máu, rồi thành những thùng dầu cá voi; ở vùng biển Encantadas xám xịt lặng gió, hắn săn những con rùa khổng lồ; ở Sydney, hắn nhìn thấy những tòa nhà sừng sững, công viên, xe ngựa & quý bà đội mũ bê-rê & những phép màu của văn minh; hắn vận chuyển thuốc phiện từ Calcutta đến Quảng Châu; sống sót qua bệnh lị ở Batavia; mất nửa cái tai trong một trận ẩu đả với người Mễ trước đền thờ ở Santa Cruz, sống sót sau một vụ đắm tàu ở Mũi Sừng & nhìn thấy Rio de Janeiro, dù không bước chân lên bờ; & ở bất kỳ đâu hắn đều quan sát thấy sự tàn nhẫn thường nhật mà những chủng tộc có màu da sáng hơn dành cho màu da đậm hơn.
Autua trở về vào mùa hè năm 1835, một thanh niên biết nhiều hiểu rộng ở độ tuổi chừng hai mươi. Hắn định cưới một cô gái bản địa & xây một ngôi nhà & khai khẩn ít đất đai nhưng, như ông D’Arnoq đã kể, vào đông chí năm đó, toàn bộ những người Moriori nào không bị sát hại đều bị biến thành nô lệ của người Maori. Những năm tháng giữa các thủy thủ đoàn thuộc đủ mọi quốc tịch của kẻ mới trở về cũng chẳng giúp Autua được nâng giá trong con mắt những kẻ xâm lược. (Tôi nhận thấy sự trở về của con người dày dạn phong sương này thật là không đúng lúc. “Không, ông Ewing, Rēkohu gọi tôi về nhà, để tôi nhìn thấy cái chết của nó để tôi biết,” hắn gõ vào đầu, “sự thật.”)
Ông chủ của Autua là người Maori xăm hình thằn lằn, Kupaka, kẻ đã nói với những nô lệ khiếp sợ & suy sụp rằng y đến để tẩy uế họ khỏi những thánh thần giả mạo (“Thánh thần các ngươi có cứu các ngươi không?” Kupaka chế giễu); ngôn ngữ vẩn đục của họ (“Cán roi của ta sẽ dạy các ngươi tiếng Maori nguyên gốc!”); dòng máu nhiễm tạp của họ (“Quan hệ đồng huyết đã làm loãng mana nguyên gốc của các ngươi!”). Từ đó trở đi hôn nhân giữa người Moriori với nhau bị cấm đoán & bất kỳ đứa trẻ nào sinh ra từ đàn ông Maori với phụ nữ Moriori đều được tuyên bố là người Maori.
Những người vi phạm buổi ban đầu bị hành quyết rất dã man & những người sống sót thì sống trong cảnh nín lặng dưới sự nô dịch tàn nhẫn. Autua khai hoang đất đai, trồng lúa mì & nuôi lợn cho Kupaka đến khi giành được đủ sự tin cậy để bỏ trốn. (“Những nơi bí mật trên Rēkohu thưa ông Ewing, thung lũng nhỏ, hầm bẫy, hang sâu trong Rừng Motoporoporo, rất rậm rạp, không con chó nào đánh hơi ra.” Tôi tưởng tượng mình rơi xuống một nơi bí mật như thế.)
Một năm sau hắn bị bắt lại, nhưng số nô lệ người Moriori lúc bấy giờ còn lại quá ít nên không thể tùy tiện sát hại. Những người Maori giai cấp thấp cũng phải lao động cùng các nông nô dù đây là điều họ ghét cay ghét đắng. “Chúng tôi rời bỏ đất đai tổ tiên ở Aotearoa để nhận lại cái nơi sỏi đá thảm hại này hay sao?” họ than vãn.) Autua bỏ trốn một lần nữa & trong nỗ lực tìm tự do lần thứ hai, hắn được ông D’Arnoq cho lánh nạn vài tháng mà không gây rủi ro về sau. Trong thời gian lẩn trốn này Autua đã được rửa tội & trở thành con chiên của Chúa.
Người của Kupaka lùng ra kẻ đào tẩu sau một năm & sáu tháng, nhưng lần này gã tộc trưởng khôn ngoan đã tỏ thái độ tôn trọng đối với tín ngưỡng của Autua. Sau trận roi phạt thừa sống thiếu chết, Kupaka giao cho tên nô lệ nhiệm vụ đánh cá để phục vụ bữa ăn của y. Autua trải qua một năm làm việc cho Kupaka cho đến một buổi chiều, khi hắn thấy một con cá moeeka hiếm gặp giãy giụa trong lưới. Hắn nói với vợ của Kupaka rằng vua của các loài cá này chỉ dành riêng cho vua của loài người & chỉ cho bà ta cách nấu ăn cho chồng. (“Con cá moeeka này độc lắm lắm, ông Ewing ạ, cắn một miếng, ông ngủ, ông không dậy nữa.”) Trong bữa ăn tối hôm đó, Autua lẻn ra khỏi khu trại, trộm chiếc xuồng của chủ & chèo qua vùng biển động tối om đến đảo hoang Pitt, cách đảo Chatham hai hải lý về phía nam (tiếng Moriori gọi là “Rangiauria” & được tôn thờ như cái nôi sinh ra loài người.)
Vận may đã mỉm cười với kẻ đi tàu lậu, vì hắn đã cập bến an toàn lúc bình minh khi một cơn gió mạnh thổi qua & không có chiếc xuồng nào đuổi theo. Autua sống được trên Vườn địa đàng này của Polynesia nhờ ăn
cần tây dại, cải xoong, trứng, dâu dại, một con lợn rừng con tình cờ bắt được (hắn chỉ dám liều nhóm lửa khi đêm tối hoặc có sương mù) & ý nghĩ rằng ít nhất Kupaka đã bị trừng trị đích đáng. Sự cô độc có quá sức chịu đựng của hắn không? “Buổi tối, tổ tiên đến thăm. Ban ngày, tôi kể chuyện của Maui với chim chóc, & chim chóc kể chuyện biển cả với tôi.”
Kẻ đào tẩu sống như thế qua nhiều con trăng, cho đến tháng Chín năm ngoái, khi một cơn gió mùa đông đánh vỡ tàu săn cá voi Eliza từ Nantucket trên Bãi đá ngầm đảo Pitt. Mọi người đều chết đuối, ngoại trừ Walker, hăm hở trước ý nghĩ kiếm tiền dễ dàng, đã bơi qua eo biển để đi tìm thổ dân trên đảo. Khi thấy dấu hiệu có người sinh sống & thấy chiếc xuồng cũ của Kupaka (mỗi chiếc xuồng đều được trang trí bằng những hình chạm trổ riêng) gã biết đã tìm thấy kho báu mà những người hàng xóm Maori của gã sẽ quan tâm. Hai ngày sau, một nhóm tìm kiếm lớn chèo thuyền đến đảo Pitt từ đất liền. Autua ngồi trên bãi biển & nhìn thấy họ đến, chỉ ngạc nhiên khi thấy kẻ thù cũ của hắn, Kupaka, đã già nhưng vẫn còn sống & hô hào lệnh chiến.
Người bạn cùng buồng không mong đợi của tôi kết thúc chuyện kể. “Con chó háu đói của tên khốn ấy đã ăn vụng moeeka trong nhà bếp của y & chết tốt, còn gã người Maori thì không. Đúng, Kupaka đã đánh roi tôi, nhưng y đã già & ở xa nhà & manacủa y trống rỗng & bị bỏ đói. Người Maori sống bằng chiến tranh & báo thù & thù hận, nhưng hòa bình giết chết họ. Nhiều người đã quay lại Tân Tây Lan. Kupaka không thể đi, đất của y không còn nữa. Rồi tuần trước, ông Ewing ạ, tôi thấy ông & tôi biết, ông cứu tôi, tôi biết.”
Người trực ca sáng gõ bốn tiếng chuông & lỗ cửa sổ trong buồng hé lộ một buổi bình minh mưa tầm tã. Tôi chợp mắt một chút, nhưng những lời cầu nguyện của tôi rằng bình minh sẽ làm gã người Moriori biến mất đã không được đoái hoài. Tôi dặn hắn giả vờ rằng hắn chỉ mới tiết lộ về mình & không đề cập gì đến cuộc nói chuyện tối qua. Hắn tỏ dấu hiệu hiểu, nhưng tôi lo sợ điều tồi tệ nhất: trí khôn của một thổ dân không thể nào sánh với
trí khôn của Boerhaave.
Tôi bước lên cầu tàu đến phòng ăn của các chỉ huy tàu ( Prophetessđang lắc lư như một con ngựa non chưa thuần hóa), gõ cửa & bước vào. Roderick & Boerhaave đang lắng nghe thuyền trưởng Molyneux. Tôi hắng giọng & cất lời chào buổi sáng tốt lành đến mọi người, để nhận lại câu văng tục từ vị thuyền trưởng khả kính, “Ông có thể làm cho buổi sáng của tôi tốt lành hơn bằng cách cút mẹ đi, ngay lập tức!”
Tôi bình tĩnh hỏi khi nào thì thuyền trưởng có thời gian nghe tin về một gã thổ dân đi tàu lậu vừa chui ra từ đống dây cáp và hiện đang chiếm giữ “cái gọi là buồng của tôi.” Trong khoảng im lặng tiếp theo đó, làn da trắng tái như da cóc của thuyền trưởng Molyneux chuyển sang đỏ ửng như thịt bò nướng. Trước khi ông ta nổi cơn thịnh nộ, tôi nói thêm rằng kẻ đi tàu lậu tự nhận giỏi đi biển & xin được làm việc trên tàu.
Boerhaave chặn trước lời thuyền trưởng với cáo buộc như tôi dự đoán & đe dọa, “Trên tàu hàng của Hà Lan kẻ nào chứa chấp người đi lậu sẽ chịu chung số phận!” Tôi nhắc lão người Hà Lan nhớ rằng chúng tôi đang đi trên một chiếc tàu cắm cờ Anh & giải thích với lão, nếu tôi giấu kẻ đi tàu lậu trong đống dây cáp, thì việc gì tôi phải nói đi nói lại kể từ tối thứ Năm để họ dời đống dây cáp đi nơi khác, làm vậy chẳng khác nào “lạy ông tôi ở bụi này”? Mũi tên trúng đích này khiến tôi phấn chấn hơn & tôi cam đoan với thuyền trưởng Molyneux rằng kẻ đi tàu lậu từng được rửa tội đã tìm đến giải pháp cực đoan này để ông chủ người Maori, kẻ từng thề sẽ ăn gan uống máu gã nô lệ (tôi rắc thêm một chút “gia vị” trong lời kể của mình), không trả thù người đã cứu mạng hắn.
Lão Boerhaave văng tục, “Vậy thằng mọi chết giẫm này muốn bọn ta biết ơn nó hay sao?” Không, tôi đáp, gã người Moriori chỉ xin một cơ hội để chứng tỏ giá trị của hắn với tàu Prophetess. Lão Boerhaave phọt ra, “Đi lậu là đi lậu, ngay cả khi nó ỉa ra bạc đi nữa! Nó tên gì?” Tôi không biết, tôi đáp, vì tôi chưa kịp hỏi hắn mà đến thẳng đây để gặp thuyền trưởng. Cuối cùng thuyền trưởng Molyneux cũng lên tiếng. “Ông nói nó là thủy thủ hạng nhất
hả?” Cơn thịnh nộ của ông ta đã lắng dịu trước viễn cảnh có thêm một tay được việc mà không tốn một xu. “Thổ dân à? Nó từng đi biển ở đâu?” Tôi nhắc lại, hai phút là không đủ để biết về thân thế hắn, nhưng bản năng tôi mách bảo hắn là người thành thật.
Thuyền trưởng vuốt râu. “Ông Roderick, hãy đi cùng hành khách chúng ta & bản năng ông ta & đưa kẻ mọi rợ ấy đến cột buồm phía lái.” Ông ta ném một chiếc chìa khóa cho thuyền phó. “Ông Boerhaave, làm ơn đưa tôi cây súng bắn chim.”
Thuyền phó hai & tôi làm theo. “Việc này liều lĩnh đây,” Roderick cảnh báo tôi. “Pháp lệnh duy nhất trên Prophetess là Chiếc roi của thuyền trưởng.” Một pháp lệnh khác có tên gọi là “Lương tâm” được tuân theo bất cứ nơi nào Chúa nhìn thấy, tôi đáp. Autua đang đợi phiên xử của hắn, mặc chiếc quần vải bông mà tôi mua ở Cảng Jackson (khi trèo lên từ thuyền của ông D’Arnoq, hắn quấn mỗi mảnh xà rông & đeo một sợi dây chuyền xỏ nanh cá mập). Lưng hắn để trần. Tôi hi vọng những vết rách chằng chịt trên lưng hắn sẽ làm chứng cho sự kiên cường của hắn & làm người đối diện cảm thấy xót xa.
Lũ “chuột” nấp sau rèm nhanh chóng lan truyền tin tức của vụ việc & hầu hết thủy thủ đoàn đã tề tựu đông đủ trên boong. (Đồng minh Henry vẫn đang ngủ, không hay biết gì về cảnh ngộ của tôi.) Thuyền trưởng Molyneux nhìn gã người Moriori đầy dò xét như đang kiểm tra một con la & nói với hắn: “Ông Ewing đây, người không hề biết mày lên tàu của tao như thế nào, nói rằng mày tự nhận là dân đi biển.”
Autua trả lời với thái độ đĩnh đạc & tự trọng. “Vâng, thưa thuyền trưởng, hai năm trên tàu săn cá voi Mississippi của Le Havre dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Maspero, & bốn năm trên tàu Cornucopia của Philadelphia dưới quyền thuyền trưởng Caton, ba năm trên tàu Ấn Độ...”
Thuyền trưởng Molyneux ngắt lời & chỉ vào chiếc quần của Autua. “Mày trộm chiếc quần này ở dưới boong hả?” Autua ý thức được rằng bản thân tôi
cũng đang bị xét hỏi. “Quý ông Thiên chúa giáo đó cho tôi, thưa ông.” Thủy thủ đoàn nhìn theo ngón tay của kẻ đi lậu chỉ về phía tôi, & lão Boerhaave chĩa tay hỏi. “Ông ta cho à? Món quà này được tặng khi nào?” (Tôi nhớ đến câu cách ngôn của bố vợ, “Để lừa một quan tòa, hãy bịa chuyện, nhưng để bịp cả một phiên tòa, hãy làm ra vẻ phớt đời,” & tôi giả vờ dụi mắt vì bụi.) Autua trả lời với ý thức tuyệt vời. “Mười phút trước, thưa ông, tôi, không quần áo, ông ấy nói, trần truồng không tốt, mặc cái này.”
“Nếu mày là dân đi biển,” thuyền trưởng của chúng tôi chĩa ngón cái lên, “thì hãy cho chúng tao xem mày hạ buồm ở cột buồm giữa này xuống.” Khi đó, kẻ đi lậu lộ vẻ lưỡng lự & lúng túng & tôi cảm thấy món cược điên rồ mà mình đã đặt trên lời nói của gã thổ dân này đang đập lại tôi, nhưng Autua đã nhận ra cái bẫy. “Thưa ông, đây đâu phải là cột buồm giữa, đây là cột buồm lái mà, đúng không?” Thuyền trưởng Molyneux điềm tĩnh gật đầu. “Vậy thì hãy hạ buồm của cột buồm lái.”
Autua leo lên cột buồm & tôi bắt đầu hi vọng mọi việc mình làm không bỏ sông bỏ biển. Mặt trời mới nhú chiếu xuống nước & khiến chúng tôi nheo mắt. “Hãy sẵn sàng & nhắm,” thuyền trưởng ra lệnh cho Boerhaave, khi kẻ đi lậu đã trèo qua khỏi mép buồm áp lái, “bắn theo lệnh của ta!”
Lúc này tôi dùng hết sức bình sinh để phản đối, gã thổ dân đã nhận lễ ban phước thánh, nhưng thuyền trưởng ra lệnh cho tôi câm miệng, nếu không thì tự mà bơi về quần đảo Chatham. Không một thuyền trưởng người Mỹ nào lại giết người, ngay cả người da đen, một cách ghê tởm đến thế! Autua lên đến trục căng buồm cao nhất & đi trên đó khéo léo như khỉ mặc dù biển đang động mạnh. Nhìn cánh buồm mở ra, một trong những thủy thủ dày dạn kinh nghiệm trên tàu, một người Iceland nghiêm nghị & chăm chỉ, tỉnh táo & sốt sắng, thốt lên đầy nể phục. “Thằng đen này kì cựu không kém tôi đâu, hắn có ngón chân móc câu đấy!” Tôi biết ơn ông ta đến nỗi muốn quỳ xuống hôn lên ủng của ông ta. Không lâu sau Autua đã hạ được buồm xuống – một thao tác khó khăn ngay cả cho một nhóm bốn người. Thuyền trưởng Molyneux gằn giọng đồng ý & ra lệnh cho lão Boerhaave hạ
súng xuống, “Nhưng tôi sẽ đ. trả cho thằng đi lậu một xu nào đâu. Nó sẽ làm việc đến Hạ Uy Di. Nếu nó không trốn việc thì đến đó có thể kí hợp đồng như bình thường. Ông Roderick, cho nó ở phòng của thằng Tây Ban Nha mới chết.”
Tôi đã làm mòn cả một ngòi bút lông ngỗng để thuật lại niềm phấn khích ngày hôm nay. Trời tối quá rồi không còn thấy gì nữa.
Thứ Tư, ngày 20 tháng 11
Gió đông mạnh, không khí nặng hơi muối & ngột ngạt. Henry đã khám & có tin xấu, dù chưa phải là xấu nhất. Bệnh của tôi là do một loài kí sinh trùng, Gusano Coco Cervello. Loài giun này gây dịch bệnh ở cả Melanesia & Polynesia, nhưng chỉ mới được khoa học phát hiện trong mười năm trở lại đây. Nó sinh sôi trong những con kênh bốc mùi hôi thối ở Batavia, chắc chắn là nơi mà tôi bị nhiễm bệnh. Sau khi thâm nhập, nó bò qua mạch máu của vật chủ đến tiểu não trước. (Vì thế tôi bị đau nửa đầu & chóng mặt.) Sau khi chui vào não, nó chuyển sang giai đoạn đẻ trứng. “Ông là người duy thực, Adam à,” Henry nói với tôi, “vì thế thuốc dành cho ông sẽ không bọc đường. Một khi ấu trùng của loài giun này nở thì não của bệnh nhân trở thành một bông cải súp lơ đầy giun. Khí thối rữa sẽ làm cho màng nhĩ & cầu mắt phình ra đến khi nổ tung, thải ra một đám bào tử Gusano Coco.”
Bản án tử hình của tôi đã được tuyên, nhưng giờ là lúc tôi đợi thi hành án & kháng cáo. Một hỗn hợp kiềm urussium & mangan orinoco sẽ làm vôi hóa kí sinh trùng & nhựa thơm laphrydictic sẽ vô hiệu hóa nó. Các “túi bào chế” của Henry có những hỗn hợp này, nhưng một liều chính xác là rất quan trọng. Chỉ chưa đến nửa drachm đã đủ để tẩy Gusano Coco, nhưng nhiều hơn thì sẽ giết chết cả bệnh nhân. Bác sĩ cảnh báo tôi rằng khi kí sinh trùng chết, những túi độc tố của nó sẽ nứt ra & tiết chất độc, vì vậy tôi sẽ cảm thấy khó chịu hơn rồi mới bình phục hẳn.
Henry dặn tôi không nên hé môi về bệnh tình của mình, vì những kẻ độc ác như Boerhaave săn mồi trên những người yếu đuối & các thủy thủ ngu dốt có thể tỏ thái độ chống đối trước các chứng bệnh mà họ không biết. (“Tôi từng nghe nói một thủy thủ có triệu chứng bị phong cùi sau khi đến Macao một tuần trên hành trình dài trở về Lisbon,” Henry kể, “và toàn bộ thủy thủ đoàn đã ném gã khốn khổ ấy xuống biển mà chẳng cần tra hỏi lôi thôi.”) Trong thời gian tôi dưỡng bệnh, Henry sẽ báo với đám “ưa loan tin” trên tàu rằng ông Ewing bị sốt nhẹ do thời tiết & đang nằm trong buồng
nghỉ ngơi. Henry phẩy tay khi tôi hỏi phí chữa bệnh. “Phí phiếc gì? Ông có phải là kiểu trưởng giả ngã bệnh nhét đầy tiền trong gối đâu! Thượng đế đã dẫn dắt ông đến sự chăm sóc của tôi, vì tôi đồ rằng trên Thái Bình Dương này số người chữa được bệnh cho ông chỉ đếm được trên đầu ngón tay! Vậy nên đừng bận tâm gì đến chuyện tiền nong cả! Tôi chỉ có một yêu cầu thôi, ông bạn Adam thân mến, đó là ông hãy ngoan ngoãn nghe lời! Hãy uống thuốc bột của tôi & lui về buồng tịnh dưỡng. Tôi sẽ ghé thăm khi mọi người đi ngủ cả.”
Bác sĩ của tôi quả thật là một viên kim cương thô sơ chưa qua mài giũa. Ngay cả khi viết những dòng này, tôi vẫn không cầm được nước mắt vì biết ơn.
Thứ Bảy, ngày 30 tháng 11
Thuốc bột của Henry quả thực rất hiệu nghiệm. Tôi hít những hạt quý giá đó vào mũi từ một chiếc thìa bằng ngà & ngay lập tức một cảm giác sảng khoái chói lọi khiến toàn thân tôi nóng bừng. Các giác quan của tôi trở nên bén nhạy hơn, nhưng tay chân lại ngày một yếu đi. Con kí sinh trùng vẫn ngọ nguậy vào buổi đêm, như ngón tay của một em bé sơ sinh, gây ra những cơn đau quằn quại & ác mộng kinh hoàng. “Một dấu hiệu chắc chắn,” Henry động viên tôi, “con giun trong người ông đang phản ứng với thuốc xổ giun của chúng ta & đang tìm chỗ nấp vào những chốn kín kẽ trong các đường ống trong não của ông, nơi thị giác sinh ra. Gusano Coco đang ẩn nấp trong tuyệt vọng, Adam ạ, vô cùng tuyệt vọng. Chúng ta sẽ lôi nó ra!”
Thứ Hai, ngày 2 tháng 12
Ban ngày, buồng của tôi nóng như lò lửa & mồ hôi làm ướt đẫm những trang nhật ký. Mặt trời miền nhiệt đới tẩm mỡ & rán chín bầu trời trưa. Các thủy thủ cởi trần & đội mũ rơm làm việc, làn da bị nắng ăn đen bóng. Ván tàu ứa ra hắc ín nóng rẫy dính vào lòng bàn chân. Những cơn gió mạnh báo chuyển mưa nổi lên từ xa xăm & biến mất nhanh như khi xuất hiện & boong tàu rít lên khô khốc. Những con sứa độc có tên “Chiến thuyền Tây Ban Nha” náo nhiệt trên mặt biển thủy ngân, những con cá bay làm mê hoặc người nhìn & những bóng cá mập đầu búa màu hoàng thổ lượn tròn quanh tàuProphetess. Trước đó, tôi giẫm lên một con mực tự nhảy lên qua thành tàu! (Cặp mắt & cái mỏ của nó khiến tôi nhớ đến ông nhạc phụ.) Nước ngọt đem theo từ đảo Chatham giờ đây đã có vị lợ &, nếu không pha thêm một chút rượu mạnh vào thì dạ dày tôi lại nổi loạn. Khi không chơi cờ trong buồng của Henry hoặc phòng ăn tập thể, tôi lại nghỉ ngơi trong buồng của mình cho đến khi Homer ru tôi vào mộng mị với những cánh buồm xứ Athen.
Autua gõ cửa buồng của tôi hôm qua để cám ơn tôi đã cứu mạng hắn. Hắn nói hắn hãy còn mắc nợ tôi (đúng là vậy) cho đến ngày hắn có dịp cứu mạng tôi (mong là ngày đó không bao giờ tới!). Tôi hỏi hắn thấy công việc mới thế nào. “Tốt hơn làm nô lệ cho Kapuka, thưa ông Ewing.” Tuy nhiên, ý thức được nỗi sợ của tôi là có ai đó sẽ nhìn thấy cuộc nói chuyện & báo với thuyền trưởng Molyneux, gã người Moriori trở về phòng chung của thủy thủ & kể từ đó không còn đến tìm tôi nữa. Như Henry đã cảnh báo, “Ném cho tên da màu khúc xương là một chuyện, nhưng duy trì mối quan hệ với hắn lại là một chuyện khác! Tình bạn giữa các chủng tộc không thể nào vượt qua được mức tình cảm giữa một con chó trung thành & chủ của nó, ông Ewing ạ.”
Hằng đêm, bác sĩ & tôi cùng tản bộ trên boong tàu trước khi nghỉ ngơi. Chỉ hít thở không khí trong lành cũng đã thật dễ chịu làm sao. Cho đôi mắt
chìm trong những dải lân tinh trên biển & hằng hà sa số sao trời. Tối hôm qua, đám thủy thủ tập hợp trên boong trước, ngả lưng lên những cuộn dây thừng dưới ánh đèn măng sông & quy định cấm “người không phân sự” lên boong trước có vẻ như không có tác dụng. (Kể từ sau “sự cố Autua”, thái độ coi thường nhắm vào “Gà Chọi” đã giảm đi, và biệt danh đó cũng được dùng ít hẳn.) Bentnail ngâm mười bài thơ về những nhà chứa trên thế giới, tục tĩu đến nỗi những gã cuồng dâm nhất cũng phải bỏ chạy. Henry xung phong đọc bài thứ mười một (về Mary O’Hairy ở Inverary) càng khiến không khí đêm hôm ấy trở nên tục tĩu hơn. Rafael là người kế tiếp bị ép phải ngâm thơ. Cậu ta ngồi vắt vẻo & xướng lên những dòng sau đây bằng một giọng chưa qua trường lớp nhưng chân thành & thật thà:
Ôi Shenandoah, tôi mong chờ gặp người,
Ới ơi, dòng sông trôi mãi.
Ôi Shenandoah, tôi sẽ không phụ người,
Mối thâm tình bền sâu ở hai bờ dòng Missouri rộng lớn.
Ôi Shenandoah, tôi yêu con gái người, tôi yêu bờ kia sông.
Thuyền giong buồm ra khơi, gió thổi muôn chiều.
Dây đã căng, buồm đã vẫy.
Missouri, nàng là dòng sông nhân từ,
Chúng tôi sẽ ôm lấy nàng đến khi những cánh buồm run rẩy.
Ôi Shenandoah, mãi không rờixa người,
Đến ngày tôichết, mãi luôn yêu người[9]
Im lặng từ những thủy thủ thô lậu là một sự tán thưởng lớn hơn bất kì lời khen tặng uyên bác nào. Tại sao Rafael, một anh chàng sinh trưởng ở Úc, lại thuộc nằm lòng một bài ca Mỹ? “Tôi không biết đó là dân ca Mỹ,” cậu trả lời lóng ngóng. “Mẹ tôi dạy tôi bài đó trước khi bà qua đời. Đó là thứ duy nhất của bà mà tôi còn nhớ. Nó nằm mãi trong tôi.” Cậu lại làm tiếp việc của mình, với vẻ cộc cằn ngượng nghịu. Henry & tôi một lần nữa cảm nhận
được thái độ kém thân thiện mà những thợ lao động tỏ ra với kẻ ăn không ngồi rồi bên cạnh & vì thế chúng tôi bỏ đi. Đọc lại những dòng nhật kí viết ngày 15 tháng 10, khi tôi lần đầu gặp Rafael.
NHỮNG LÁ THƯ TỪ ZEDELGHEM
Lâu đài Zedelghem,
Neerbeke,
Tây Vlaanderen.
29 – vi – 1931.
Sixsmith,
Mơ thấy mình đứng trong một cửa hàng sành sứ đầy chật những chiếc kệ bày đồ sứ cổ v.v từ sàn đến trần nhà tít trên cao, đến nỗi cử động một thớ thịt thôi cũng sẽ khiến vài món rơi xuống vỡ tan tành. Đó chính xác là điều đã xảy ra, nhưng thay vì tạo ra tiếng vỡ loảng xoảng thì lại ngân lên một hợp âm hào hùng, nửa như tiếng cello, nửa như tiếng celeste, cung Rê trưởng (?), ngân bốn nhịp. Cổ tay va phải một lọ hoa đời nhà Minh, khiến nó rơi khỏi bệ - cung Mi giáng, toàn bộ đàn dây vang lên nguy nga tráng lệ, thiên sứ thổn thức. Lúc này là cố ý, đánh vỡ tượng một con bò cho nốt tiếp theo, kế đến là cô gái vắt sữa, kết đến là Đứa Con Của Ngày Thứ Bảy – hoan ca mảnh vỡ ngập không gian, hòa âm thánh thần tràn não bộ. A, thế mới là âm nhạc chứ! Nhác thấy ông bô tính toán giá trị các món bị vỡ, ngoáy bút liên tục, nhưng phải để cho âm nhạc tiếp diễn. Biết mình sẽ trở thành nhà soạn nhạc lừng lẫy nhất của thế kỷ nếu tôi có thể biến thứ âm nhạc này thành của mình. Một bức Kỵ Sĩ Cười[10] khổng lồ bị ném lên tường gây ra một chuỗi tiếng động đinh tai nhức óc.
Tỉnh giấc trong phòng suite kiểu Phương Tây ở khách sạn Imperial, bọn đòi nợ của Tam Brewer suýt nện sập cửa phòng và gây náo loạn ngoài hành lang. Còn chẳng đợi đến lúc tôi cạo râu – thật là một hành vi vô liêm sỉ không thể chấp nhận của quân lưu manh vô lại. Không có lựa chọn nào khác, đành tẩu thoát qua cửa sổ phòng tắm trước khi tiếng huyên náo vời người quản lý đến để phát hiện quý ông trẻ tuổi ở phòng 237 không có cách nào thanh toán món nợ tiền phòng khổng lồ. Cú đào thoát không lành lặn
lắm, rất tiếc phải báo tin này. Ống nước bung khỏi nẹp, phát ra tiếng của một chiếc vĩ cầm bị bạo hành, rồi cứ thế rơi, rơi, rơi dúi dụi xuống đất. Mông phải bầm nặng. May phước tôi không bị gãy xương sống hay xỏ xiên qua hàng rào chắn. Hãy rút kinh nghiệm từ chuyện này nhé, Sixsmith. Khi nợ nần ngập đầu, hãy đem hành lý gọn nhẹ, đựng trong một chiếc vali thật cứng để có thể ném xuống vỉa hè London từ cửa sổ tầng một hoặc tầng hai. Hãy đòi ở phòng từ tầm cao đó trở xuống mà thôi.
Nấp trong một phòng trà lọt thỏm trong một cái hốc bụi bặm ở ga Victoria, cố gắng chép lại âm nhạc từ cửa hàng sành sứ trong mơ – mà chỉ nhớ được hai nhịp, chẳng tích sự gì. Tính đến chuyện lao đầu vào đám tay chân chực sẵn của Tam Brewer chỉ để lấy lại thứ âm nhạc đó. Những linh hồn khốn khổ. Người lao động đủ mọi thành phần vây xung quanh tôi với hàm răng xấu xí, nói năng như vẹt và lạc quan vô cớ. Tỉnh táo để suy nghĩ làm sao một đêm chơi bài baccarat xui xẻo lại có thể đảo ngược vị thế xã hội của một con người đến vậy. Những tay bán hàng, tên đánh xe ngựa và con buôn với nửa đồng curon và vài ba xu lẻ giấu dưới tấm nệm Stepney chua loét còn có nhiều hơn tôi, Con trai một Thầy Tu Nào Đó. Nhìn vào một con hẻm: những thầy ký bất đắc chí lao qua như những nốt móc ba trong một khúc allegro của Beethoven. Có sợ họ không? Không, tôi sợ trở thành họ. Giáo dục, xuất thân và tài năng có giá trị gì nếu người ta không có nổi một cái bô để tiểu?
Vẫn không thể tin nổi. Tôi, đường đường là dân Caius, mà nay lao đao bên bờ vực bần cùng. Các khách sạn tử tế bây giờ không cho tôi làm bẩn sảnh chờ của họ. Các khách sạn không tử tế thì đòi tiền trao cháo múc. Bị chặn lại bên ngoài mọi bàn chơi bài có tiếng ở sườn bên này của dãy Pyrennes. Dù sao, tôi cũng tóm gọn các phương án của mình:
(i) Dùng những món tiền nhỏ để thuê một căn phòng bẩn thỉu trong một nhà trọ nào đó, xin vài đồng từ ông chú bà cô đây đó, dạy âm giai cho các tiểu thư đỏng đảnh và kỹ thuật biểu diễn cho những bà cô không chồng. Không đời nào. Nếu tôi có thể giả bộ khách sáo với những học trò ngu dốt
thì giờ này tôi vẫn còn đang lau mông cho Giáo sư Mackerras cùng đám bạn đại học cũ. Không, trước khi anh nhắc đến, tôi không thể quay lại ông bô để mà khóc lóc xin xỏ lần nữa. Sẽ càng chứng tỏ từng lời thâm độc ông ta nói về tôi là đúng. Thà nhảy từ cầu Waterloo xuống rồi để cho Bố Già Thames vùi dập. Thật đấy.
(ii) Truy tìm các sinh viên Caius, nịnh nọt họ và tự mời mình ở lại hết mùa hè. Không ổn, vì lý do tương tự như (i). Tôi có thể giấu giếm túi tiền lép kẹp của mình được bao lâu? Tôi có thể tránh né lòng thương hại của họ đến bao giờ?
(iii) Ghé trường đua ngựa – nhưng nếu thua cá cược thì sao? Anh sẽ nhắc rằng chính tôi tự chuốc họa vào thân, phải không Sixsmith, nhưng hãy phủi mảnh vụn trung lưu trên vai đi và nán lại với tôi thêm chút nữa. Phía bên kia sân ga đông đúc, một người trưởng tàu thông báo chuyến tàu hỏa đến Dover để đón tàu đi Ostend bị hoãn ba mươi phút. Người trưởng tàu đó là người chia bài của tôi, đang mời tôi cược gấp đôi hoặc rút. Nếu chịu đứng yên, im lặng và lắng nghe – trời ơi, thế giới sẽ sàng lọc qua tâm trí của ta ngay lập tức, đặc biệt tại một ga tàu hỏa ảm đạm ở London. Nốc hết tách trà có mùi xà phòng rồi băng qua đám đông đến quầy vé. Một vé khứ hồi đến Ostend thì quá đắt – địa vị tôi đã trở nên thấp hèn đến thế đấy – thì đành một chiều thôi. Lên toa vừa đúng lúc còi tàu cất lên một bản sáo kim Nữ thần báo thù. Đoàn tàu lăn bánh lên đường.
Giờ là lúc tiết lộ kế hoạch của tôi, lấy cảm hứng từ một bài báo trên tờ Thời đại và một cơn mơ mộng ngấm dai dẳng trong căn phòng ở khách sạn Savoy. Ở vùng điền viên nước Bỉ, phía nam Bruges, có một nhà soạn nhạc người Anh sống biệt lập, tên là Vyvyan Ayrs. Anh chưa nghe nói đến ông ta vì anh chỉ là đứa trẻ con trong lĩnh vực này, chứ đó là một trong những cây đại thụ của làng âm nhạc. Người Anh duy nhất thuộc thế hệ ông ta phản đối thói xa hoa, lễ nghĩa, quê mùa và kiểu cách. Chưa có tác phẩm nào mới kể từ đầu thập niên hai mươi do đau ốm – ông ta bị lòa mắt một nửa và không cầm nổi bút – nhưng bài bình luận trên tờ Thời đại về bản Secular
Magnificat của ông ta (trình diễn tuần trước ở St Martin) có nhắc đến một ngăn kéo đầy ắp những tác phẩm dang dở. Giấc mộng ngày đưa tôi đến Bỉ, thuyết phục Vyvyan Ayrs rằng ông ta cần tuyển tôi làm thư ký, chấp nhận dạy nhạc cho tôi, để tôi tung cánh trong bầu trời âm nhạc, công thành danh toại xứng tầm tài năng, khiến cho ông bô phải thừa nhận rằng, đúng, thằng con trai ông ta từ bỏ chính là Robert Frobisher đó, là nhà soạn nhạc người Anh lừng lẫy nhất của thời đại.
Tại sao không? Chẳng có kế hoạch nào hay hơn. Anh kêu lên và lắc đầu, tôi biết mà, Sixsmith, nhưng anh cũng mỉm cười, đó là lý do mà tôi yêu anh. Hành trình yên ả đến biển Măng sơ... những vùng ngoại ô tiêu điều, đất đai héo hắt, Sussex ô nhiễm. Dover lan tràn một cơn hoảng sợ tột độ trước những gã Bôn-sê-vich, những vách đá nên thơ có sắc màu Lãng mạn như cái mông của tôi. Đổi những đồng silinh cuối cùng thành đồng franc ở cảng rồi lên tàu Kentish Queen, một con tàu gỉ sét trông già cỗi như từng được sử dụng ở Crimea. Gã phục vụ trẻ có khuôn mặt như củ khoai tây và tôi bất đồng với nhau về chuyện bộ đồng phục màu vang đỏ và bộ râu quai nón khó ưa của hắn đáng được boa. Liếc nhìn vali và tập bản thảo của tôi – “Thật thông minh khi đem đồ gọn nhẹ, thưa ông” – rồi bỏ mặc tôi tự khiêng đồ một mình. Chả sao.
Bữa ăn tối có món gà cứng như gỗ, khoai tây nghiền và một ly rượu vang đỏ chẳng ra gì. Người ngồi cùng bàn ăn với tôi là Victor Bryant, đại gia dao nĩa ở Sheffield. Chẳng có một mẩu xương âm nhạc nào trong cơ thể ông ta. Ông ta trình bày chi tiết về chủ đề những chiếc thìa suốt bữa ăn, hiểu nhầm phép lịch sự xã giao của tôi thành thái độ quan tâm và mời tôi vào một vị trí trong bộ phận kinh doanh ngay lập tức! Anh có tin nổi không? Cám ơn ông ta (giữ vẻ nghiêm trang) và thừa nhận tôi thà nuốt dao nĩa còn hơn phải đi bán thứ ấy. Còi báo hiệu trong sương mù vang rền ba hồi đinh tai, động cơ khởi động, cảm nhận được con tàu lao đi, lên boong để ngắm nhìn Albion[11]lui dần vào bùn lầy lất phất mưa. Một đi không trở lại; nhận ra hậu quả của những việc mình đã làm. R.V.W. chỉ huy bản Giao hưởng biển từ
dàn nhạc giao hưởng trong đầu tôi, Giong buồm tiến lên, Vùng nước sâu ta tìm đến, Hồn hỡi, Ngang tàng khám phá, Ta với người, người với ta. (Không quan tâm lắm đến tác phẩm này nhưng nó được soạn rất hoàn hảo.) Gió biển Bắc khiến tôi rùng mình, sóng biển liếm láp từ chân đến đầu. Mặt nước đen sóng sánh mời gọi tôi nhảy xuống. Phớt lờ nó. Về buồng sớm, lật xem quyển Đối âm của Noyes, nghe tiếng đồng thau từ xa của phòng máy và phác họa một đoạn có tiết tấu lặp lại cho kèn trombone dựa theo nhịp điệu của con tàu, nhưng khá rác rưởi, rồi đoán xem ai đến gõ cửa? Gã phục vụ mặt khoai tây, ca làm của hắn đã kết thúc. Cho hắn không chỉ tiền boa. Gầy gò, không bảnh bao, dù giai cấp không cao nhưng khá sáng tạo. Sau đó tống cổ hắn ra rồi nằm xuống ngủ như chết. Một phần trong tôi mong muốn hành trình ấy đừng bao giờ kết thúc.
Nhưng nó đã kết thúc. Kentish Queen tiến trên dòng nước sình lầy vào lòng người chị em sinh đôi răng sứt của Dover là Ostend, Nữ hoàng Tiết hạnh Khả nghi. Còn sớm, rất sớm, tiếng ngáy của châu Âu rền vang ở tông thấp hơn tiếng kèn tuba trầm. Nhìn thấy những người Bỉ bản xứ đầu tiên, kéo lê các thùng hàng, cãi cọ, và suy nghĩ bằng tiếng Flemish, Hà Lan, đại loại thế. Nhanh tay dọn đồ vào vali, sợ con tàu sẽ quay lại Anh trong khi tôi vẫn còn ở trên đó; hoặc, nói cho đúng hơn, sợ tôi để chuyện này xảy ra. Nhón một miếng trong bát trái cây trong nhà ăn hạng nhất rồi lao xuống tấm ván tàu trước khi bị nhân viên mặc đồng phục thắt nơ tóm cổ. Đặt chân lên con đường đá dăm Đại lục và hỏi một nhân viên hải quan đường đến nhà ga. Ông ta chỉ về phía một chiếc xe điện đang rền rĩ, trên xe chen chúc những người thợ ốm đói và những kẻ bần cùng. Thích cuốc bộ hơn, dù có mưa hay không. Đi theo đường ray xe điện trên những con đường như áo quan. Cái gì ở Ostend cũng mang màu xám xịt và nâu gỉ. Phải thừa nhận, tôi đã nghĩ chọn Bỉ làm nơi lưu vong thật sự là một sai lầm rất lớn. Mua một vé đến Bruges rồi lết lên chuyến tàu kế tiếp – không sân ga, anh có tin nổi không? – một chuyến tàu hom hem, trống hoác. Chuyển sang toa khác vì toa của tôi bốc mùi khó chịu, nhưng hóa ra toa nào cũng hôi hám như
nhau. Hút thuốc lá xin được từ Victor Bryant để thanh lọc không khí. Còi của trưởng ga cất lên đúng giờ, đầu tàu căng thẳng như tay luật sư bị gút ngồi bô rồi lừ đừ lăn bánh. Chẳng bao lâu sau, đoàn tàu vừa nhả khói vừa băng qua phong cảnh mịt mù sương, những hào nước bẩn thỉu, những bụi cây héo úa đã lâu không cắt tỉa.
Nếu kế hoạch của tôi đạt kết quả thì Sixsmith à, anh có thể đến Bruges sớm thôi. Khi đến, nhớ có mặt đúng sáu giờ sáng, giờ kiểu gnossiennesque nhé. Hãy lang thang lạc lối trên những con đường còi cọc, những kênh đào mù lòa, những cánh cổng bằng sắt uốn, những vuông sân vắng của thành phố - cho phép tôi kể tiếp chứ? Được ư, cám ơn nhé, những cái mai rùa Gothic ranh mãnh, những mái nhà Ararat, những tòa nhà bằng gạch hình tháp tô điểm bằng những bụi cây nhỏ, những mái hiên trung cổ, quần áo phơi trên cửa sổ, những vòng xoáy bằng sỏi lát trên đường thu hút ánh nhìn, những hoàng tử đồng hồ và những công chúa sứt mẻ cặm cụi điểm giờ, những con chim bồ câu đen như bồ hóng và những tiếng chuông cao độ ba hoặc bốn quãng tám, một số nghiêm trang, một số tươi lanh lảnh.
Mùi bánh mì tươi đưa tôi đến một hiệu bánh, ở đó một người đàn bà dị dạng không có mũi bán cho tôi một chục chiếc bánh sừng trâu. Chỉ muốn ăn một chiếc, nhưng nghĩ đời bà ấy khổ lắm rồi. Một chiếc xe ngựa buôn đồng nát lóc cóc leng keng xuất hiện từ trong sương mù và lão nài ngựa rụng hết răng thân thiện bắt chuyện với tôi, nhưng tôi chỉ có thể đáp, “Excusez-moi, je ne parle pas le Flamand,” (Xin lỗi, tôi không nói tiếng Flemish) khiến lão cười hềnh hệch như Vua Goblin. Tặng lão một chiếc bánh. Bàn tay bẩn thỉu của lão như móng vuốt có vảy. Trong một khu nghèo (những con ngõ bốc mùi nước tiểu rất khắm), trẻ con giúp mẹ bơm nước, hứng đầy thứ nước ngả nâu vào những chiếc bình sứt mẻ. Cuối cùng, mọi hưng phấn cũng khiến tôi thấm mệt, ngồi lên bậc thang của một cối xay gió im lìm để thở, khoác thêm áo để chống mưa gió, ngủ gà gật.
Tiếp theo đó, một mụ phù thủy thúc tôi dậy bằng cán chổi, the thé một câu gì đó nghe giống như “Zie gie doad misschien?” (Này, bộ chết rồi hả?)
nhưng không chắc. Trời xanh, nắng ấm, chẳng có một gợn sương mù. Tôi sống lại và chớp mắt, biếu bà ta một chiếc bánh. Bà ta nhận lấy với vẻ dè chừng, nhét vào tạp dề để dành, rồi quay lại công việc quét dọn, hát ư ử một bài ca cổ. Thầm nghĩ cũng may là tôi không bị cướp. Chia sẻ một chiếc bánh nữa với năm nghìn con chim bồ câu, trước sự ganh tị của một gã ăn mày, nên tôi cũng phải cho gã một chiếc. Đi về theo hướng mà tôi có lẽ đã đến. Trong một khung cửa sổ ngũ giác kì quặc, một cô hầu gái mềm mịn như kem đang cắm hoa St Paulia trong một chiếc bát thủy tinh. Gái hấp dẫn theo những cách khác nhau. Một ngày nào đó hãy thử cặp kè với họ. Gõ lên khung kính, hỏi bằng tiếng Pháp rằng liệu cô ấy có muốn cứu vớt cuộc đời tôi bằng cách yêu tôi không. Cô ấy lắc đầu nhưng nở một nụ cười thích thú. Hỏi đồn cảnh sát ở đâu. Cô ấy chỉ về phía bên kia ngã tư.
Người ta có thể nhận ra một bằng hữu nhạc sĩ trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ngay cả giữa những cảnh sát. Người có đôi mắt điên loạn nhất, mái tóc bất trị nhất, hoặc gầy đói giơ xương hoặc béo tốt đẫy đà. Thanh tra viên nói tiếng Pháp, chơi kèn Anh, thuộc về xã hội dân vận này từng nghe nói đến Vyvyan Ayrs và nhiệt tình vẽ cho tôi một bản đồ đến Neerbeke. Trả công ông ta hai chiếc bánh cho thông tin này. Ông ta hỏi tôi có gửi xe ô tô từ Anh sang chưa – con trai ông ta chết mê chết mệt xe Austin. Nói tôi chẳng có chiếc xe nào cả. Điều này khiến ông ta lo lắng. Làm sao tôi đến Neerbeke được? Không xe buýt, không tàu hỏa, và cuốc bộ hai mươi lăm dặm thì có mà chết. Hỏi liệu tôi có thể mượn một chiếc xe đạp cảnh sát trong một khoảng thời gian không xác định không. Nói với tôi làm vậy là sai quy tắc. Trấn an ông ta rằng tôi mới là kẻ đi ngược quy tắc, và kể lại sứ mệnh của tôi đến nhà Ayrs, người con nuôi nổi tiếng nhất nước Bỉ (có quá ít người đến nỗi thậm chí điều này có thể là sự thật), để phục vụ cho âm nhạc châu Âu. Lặp lại lời đề nghị. Sự thật hoang đường có khi dễ thuyết phục hơn hư cấu đáng tin, và giờ là lúc đó. Viên hạ sĩ trung thực đưa tôi đến một khu lưu giữ những món đồ thất lạc đang nằm đợi chủ nhân vài tháng qua (trước khi được tuồn ra chợ trời) – nhưng trước tiên, ông ta muốn tôi nhận xét về
giọng nam trung của mình. Ông ta gào lên “Recitar!... Vesti la giubba!” từ I Pagliacci. (Giọng thấp, tương đối dễ nghe, nhưng cần luyện thở thêm, còn tiếng ngân thì run rẩy như tấm kim loại tạo âm sau cánh gà vậy.) Đưa ra vài nhận xét mang tính âm nhạc; được cho mượn chiếc xe đạp Enfield từ thời Victoria kèm dây để chằng vali và hồ sơ lên yên và thanh chắn bùn phía sau. Ông ta chúc tôi thuận buồm xuôi gió và trời đẹp.
Adrian sẽ không bao giờ đi trên con đường tôi đã đạp xe ra khỏi Bruges (nằm quá sâu trong lãnh thổ Hung) nhưng vẫn cảm thấy mối thâm tình với anh trai tôi khi hít thở cùng loại không khí trên cùng mảnh đất. Bình Nguyên bằng phẳng như Đầm Lầy cạn[12] nhưng hình thù thì thật xấu xí. Dọc đường, tôi nạp năng lượng với những chiếc bánh cuối cùng, và dừng lại ở những túp lều tranh tồi tàn để xin vài cốc nước. Chẳng ai nói gì nhiều, nhưng cũng chẳng ai nói “Không”. Nhờ gió ngược chiều và sợi sên cứ tuột liên tục, tôi đến làng Neerbeke của Ayrs khi trời đã nhá nhem tối. Một bác thợ rèn kiệm lời chỉ tôi đến Lâu đài Zedelghem bằng cách dùng một mẩu bút chì để vạch đường đi trên bản đồ. Một con đường làng với những cụm hoa chuông và liễu ngư mọc giữa đường dẫn tôi băng qua một ngôi nhà gỗ bỏ hoang đến một con đường có hai hàng bạch dương Ý đã qua thời vàng son.
Zedelghem to hơn cả nhà cho các mục sư xứ ta, cánh phía tây được tô điểm bằng vài ngọn tháp nhỏ mong manh chực đổ, nhưng chẳng thấm vào đâu so với dinh thự Audley End hoặc Capon-Tench. Trộm thấy một cô gái cưỡi ngựa trên sườn đồi thấp, đỉnh đồi có độc nhất một cây sồi. Đi ngang qua một thợ làm vườn đang trét bồ hóng chống ốc sên trong vườn rau. Ở sân trước, một gã người hầu cuồn cuộn cơ bắp đang vệ sinh máy cho chiếc Cowley Flatnose. Thấy tôi tiến đến, hắn đứng dậy chờ đợi. Ở góc sân, một người đàn ông ngồi trên xe lăn dưới dàn hoa tử đằng bồng bềnh, nghe đài phát thanh. Vyvyan Ayrs, tôi thầm đoán. Phần dễ dàng trong giấc mơ ngày của tôi đã kết thúc.
Dựa xe đạp vào tường, nói với người hầu rằng tôi có công việc với ông
chủ của hắn. Hắn khá lễ độ, dẫn tôi đến mái hiên nơi Ayrs đang ngồi, và báo tin tôi đến bằng tiếng Đức. Ayrs trông già sọm, trông như bệnh tật đã hút cạn dưỡng chất trong cơ thể lão, nhưng tôi đã ngăn mình không quỳ xuống lối đi trải than như Ngài Percival đã quỳ trước Vua Arthur. Phần mở đầu của chúng tôi đã diễn ra đại khái như sau.
“Xin chào ông Ayrs.”
“Cậu là ai?”
“Thật vinh dự được...”
“Tôi hỏi, “Cậu là thằng quái nào?””
“Robert Frobisher, thưa ông, từ Saffron Walden. Tôi là... Tôi từng là... sinh viên của Ngài Trevor Mackerras ở trường đại học Caius, và tôi đã lặn lội đến đây từ London để...”
“Từ tận London đến đây bằng xe đạp?”
“Không ạ. Tôi mượn xe của một cảnh sát ở Bruges.”
“Thế hử?” Dừng lại để suy nghĩ. “Chắc là mất nhiều giờ lắm nhỉ.” “Vì đam mê thôi, thưa ông. Như những người hành hương lết lên đồi bằng đầu gối.”
“Bốc phét gì đấy?”
“Tôi chỉ muốn chứng tỏ tôi là một ứng viên nghiêm túc.”
“Ứng viên nghiêm túc cho cái gì?”
“Vị trí thư ký của ông ạ.”
“Cậu có điên không đấy?”
Luôn là một câu hỏi lắt léo. “Tôi không nghĩ thế.”
“Nghe đây, tôi chẳng hề đăng quảng cáo tìm thư ký gì cả!” “Tôi biết chứ, thưa ông, nhưng ông cần một người, ngay cả khi lúc này ông chưa biết chuyện đó. Bài báo trên tờ Thời đại nói rằng ông không thể sáng tác tác phẩm mới nữa vì đau ốm. Tôi không thể để cho âm nhạc của
ông bị mai một. Nó vô cùng, vô cùng quý giá. Vì vậy tôi đến đây để đề nghị phụng sự ông.” Hay lắm, lão không vội khước từ tôi. “Cậu nói cậu tên gì ấy nhỉ?” Tôi trả lời. “Cậu trong đám ngôi sao của lão Mackerras à?” “Thưa ông, thành thật mà nói, ông ta căm ghét tôi.”
Như anh đã từng trả giá để học được điều này, tôi có thể khiến kẻ khác tò mò nếu dụng công làm thế.
“Thế hử? Tại sao nào?”
“Tôi gọi bản Concerto số 6 dành cho Sáo của ông ta,” tôi hắng giọng, ‘là nô lệ của Saint-Saens thời tiền dậy thì vào giai đoạn màu mè nhất’ trong tạp chí của trường đại học. Ông ta đã phật ý.”
“Cậu viết như thế về Mackerras ư?” Ayrs thở khò khè như thể xương sườn của lão đang bị cưa. “Chắc mười mươi ông ta sẽ phật ý.” Phần tiếp theo rất ngắn. Gã người hầu đưa tôi vào một phòng hội họa trang trí bằng màu xanh vỏ trứng, một bức tranh vẽ cừu và bó rơm nhạt nhẽo của Farquharson và một bức phong cảnh Hà Lan không đẹp lắm. Ayrs gọi vợ, bà van Outryve de Crommelynck. Bà ta giữ tên riêng, mà với một cái tên như thế thì ai có thể trách bà ta cơ chứ? Bà chủ ngôi nhà có phong cách ung dung lịch thiệp, bà hỏi thăm thân thế của tôi. Trả lời thành khẩn, dù tôi che đậy chuyện bị đuổi học ở Caius, viện cớ là bị ốm. Tôi không hé môi nửa lời về tình hình eo hẹp tài chính hiện nay của mình – gia cảnh càng tuyệt vọng thì nhà tài trợ càng đắn đo. Lấy lòng họ vừa đủ. Đồng ý với việc ít nhất tôi có thể ở lại Zedelghem đêm hôm đó. Ayrs sẽ cho tôi trình diễn thử vào sáng hôm sau, dọn đường cho một quyết định về lời đề nghị của tôi.
Tuy nhiên, Ayrs không xuất hiện vào giờ ăn tối. Sự có mặt của tôi xảy ra trùng với khởi đầu của cơn đau nửa đầu cứ hai tuần lại tái phát, buộc lão phải ở trong phòng từ một đến hai ngày. Buổi diễn thử của tôi bị hoãn đến khi lão khỏe hơn, vì vậy vận mệnh tôi vẫn còn cân bằng lắm. Ở mặt tích cực, rượu Piesporter và tôm hùm kiểu Mỹ chẳng thua kém bất kỳ món nào ở khách sạn Imperial. Khích lệ bà chủ nhà nói chuyện – nghĩ bà ấy thích thú
trước việc tôi biết rất nhiều về ông chồng nổi tiếng của bà ấy, và cảm nhận được tình yêu thật sự của tôi dành cho âm nhạc của lão. À, chúng tôi cũng ăn tối với con gái của Ayrs, cô gái trẻ cưỡi ngựa mà tôi thoáng thấy hôm trước. Tiểu thư Arys là một sinh vật giống như ngựa, mười bảy tuổi, có chiếc mũi hếch của mẹ. Không có nổi một ngôn từ tử tế phát ra từ cô nàng suốt buổi tối. Hay là nàng nhìn thấy ở tôi một gã người Anh ăn bám gặp vận đen, đến đây để dụ dỗ ông bố bệnh tật của nàng đến một mùa hè Ấn Độ rực rỡ nơi nàng không thể đi theo và không được chào đón?
Con người thật phức tạp.
Đã quá nửa đêm rồi. Lâu đài đang yên giấc, tôi cũng phải đi nằm thôi. Thân ái,
R.F.
Lâu đài Zedelghem,
3 – vii – 1931.
Một bức điện tín ư, Sixsmith?
Đểu thế. Đừng gửi nữa, tôi van anh đấy – điện tín khiến người ta chú ý mà! Đúng, tôi vẫn còn ở nước ngoài, đúng, an toàn trước những gã tay chân bặm trợn của Brewer. Hãy xé bức thư bố mẹ tôi truy tìm tung tích của tôi rồi ném xuống sông Cam. Ông bô chỉ “lo ngại” vì các chủ nợ của tôi đang rung lắc ông ta để xem có tờ tiền nào rơi xuống từ cây gia đình hay không. Tuy nhiên, những món nợ của một thằng con bị từ là chuyện của thằng con đó, chẳng phải là chuyện của ai hết – tin tôi đi, tôi đã tìm hiểu luật rồi. Bà bô không “phát điên” đâu. Bà chỉ phát điên khi bình cạn rượu mà thôi.
Bài diễn thử của tôi diễn ra ở phòng âm nhạc của Ayrs, sau bữa trưa, ngày hôm kia. Không thành công rực rỡ, ấy là nói nhẹ – không biết tôi sẽ còn ở đây bao lâu, hay mấy ngày nữa. Tự thấy rùng mình khi ngồi trên ghế đánh đàn của chính Vyvyan Ayrs từ trước rồi. Tấm thảm Phương Đông này, chiếc trường kỷ cũ kỹ, tủ búp phê Breton nhét đầy giá để bản nhạc, đàn dương cầm Bosendorfer, chuông chùm, tất cả đều đã chứng kiến sự thai nghén và ra đời của Matruschyka Doll Variations và các bài hát Society Islands của lão. Khảy chiếc đàn cello đã lần đầu tiên ngân lên bản Untergehen Violinkonzert. Nghe tiếng Hendrick đẩy ông chủ đến hướng này, tôi dừng ngó nghiêng và nhìn ra cửa. Arys phớt lờ câu hỏi thăm “Tôi hi vọng ông đã khỏe, thưa ông Ayrs,” và sai người hầu đẩy xe đến cửa sổ trông ra vườn. “Thế nào?” lão hỏi, sau khi chúng tôi còn lại hai người trong phòng được ½ phút. “Đấy. Gây ấn tượng cho tôi đi.” Hỏi lão muốn nghe gì. “Tôi cũng phải chọn chương trình nữa ư? Xem nào, cậu chắc đã thành thạo Ba con chuột mù hử?”
Thế là tôi ngồi ở chiếc đàn Bosendorfer và chơi bài Ba con chuột mù dở hơi, theo phong cách của một Prokofiev[13] chua ngoa. Ayrs chả bình luận gì.
Tiếp tục cùng một giai điệu tinh tế hơn với bản Nocturne cung Fa trưởng của Chopin. Lão cắt ngang với giọng rên rỉ, “Đang định kéo quần lót của tôi xuống mắt cá chân hay sao, hả Frobisher?” Chơi bản Digressions on a Theme of Lodovico Roncalli của chính V.A. nhưng chưa đánh đến nốt thứ hai thì lão đã văng tục, nện gậy lên sàn nhà, và nói, “Kiêu ngạo làm người ta mù lòa, họ không dạy cậu điều đó ở Caius à?” Phớt lờ lão để đàn hết bản nhạc hoàn hảo. Cho phần kết thúc của màn pháo hoa, đánh cược với bản thứ 212 của Scarlatti[14], cung La trưởng, một bete noire các hợp âm rải và nhào lộn. Bị lỡ nhịp một hoặc hai lần, nhưng tôi có phải đang thi vào vị trí đơn tấu trong dàn nhạc đâu cơ chứ. Sau khi tôi biểu diễn xong, V.A. vẫn lắc lư đầu theo giai điệu của bản sonate đã biến mất; hoặc có thể lão đang chỉ huy những cây bạch dương mờ ảo đung đưa. “Thật kinh tởm, Frobisher, cút ngay ra khỏi nhà ta!” sẽ khiến tôi vô cùng đau khổ, nhưng không quá ngạc nhiên. Thay vì vậy, lão thừa nhận, “Cậu có thể sở hữu tố chất của một nhạc sĩ. Hôm nay trời đẹp đấy. Tản bộ ra bờ hồ ngắm vịt đi. Ôi, ta cần một ít thời gian để quyết định xem có thể nhận ra ích lợi gì từ... tài năng của cậu không.”
Ra đi không nói một lời. Có vẻ như lão cáo già muốn tôi, nhưng chỉ khi nào tôi tỏ lòng biết ơn thống thiết. Nếu ví tiền cho phép thì tôi đã thuê một chiếc taxi trở về Bruges và từ bỏ toàn bộ ý tưởng điên rồ này. Lão gọi với theo, “Một lời khuyên cho cậu đây, Frobisher, miễn phí. Scarlatti là nghệ sĩ đàn clavico, không phải dương cầm. Đừng nhúng ông ta trong màu sắc như thế, và đừng dùng bàn đạp để hãm những nốt mà cậu không thể hãm bằng ngón tay.” Tôi gọi với lại rằng ôi, tôi cần một chút thời gian để quyết định xem có thể nhận ra ích lợi gì từ... tài năng của Ayrs không.
Đi qua sân nơi một thợ làm vườn có khuôn mặt như củ dền đang quét dọn đài phun nước mọc đầy cỏ dại. Giải thích với ông ta rằng tôi muốn nói chuyện với bà chủ của ông ta ngay bây giờ – ông già vô tích sự - ông ta vẫy tay mơ hồ về phía Neerbeke, làm điệu bộ vô lăng xoay xoay. Tuyệt vời. Giờ thì sao? Ngắm lũ vịt, tại sao không? Hay thử vặn cổ một cặp rồi treo chúng
trong tủ quần áo của V.A. Tâm trạng đen tối thế đấy. Thế là tôi diễn tả con vịt rồi hỏi người thợ làm vườn, “Ở đâu?” Ông ta chỉ đến cây sồi, điệu bộ như nói, đi hướng đó, ở ngay phía bên kia thôi. Tôi cất bước, nhảy qua một hàng rào thấp, nhưng trước khi đến đỉnh đồi, tiếng ngựa phi đã nện thình thịch, và tiểu thư Eva van Outryve de Crommelynck – từ nay chỉ gọi là Crommelynck, nếu không chắc tôi sẽ hết sạch mực mất – trờ đến trên con ngựa màu đen.
Tôi chào nàng. Nàng cho ngựa chạy nước kiệu quanh tôi như Nữ hoàng Boadicea, dửng dưng như không. “Hôm nay không khí ẩm quá,” tôi nói chuyện vu vơ vẻ giễu cợt. “Tôi đồ rằng chốc nữa sẽ có mưa, cô có đồng ý không?” Nàng chẳng nói gì. “Trang phục của cô lịch thiệp hơn cung cách của cô đấy,” tôi bảo. Chẳng có gì. Tiếng súng khô khốc vang lên ngoài cánh đồng, và Eva trấn an con ngựa. Nó là một con ngựa đẹp – không thể trách con ngựa. Tôi hỏi Eva con ngựa tên gì. Nàng vuốt những lọn tóc đen xoăn tít trên má. “J’ai appelé le poney Nefertiti, d’après cette reine d’Egypte qui m’est si chère,” (Tôi đặt tên con ngựa là Neferttiti, theo tên của một Nữ hoàng Ai Cập mà tôi rất ngưỡng mộ[15]) rồi quay đi. “Nó biết nói đấy!” tôi gào lên, rồi đứng nhìn nàng cưỡi ngựa phóng đi cho đến khi chỉ còn là một chấm nhỏ trên đồng cỏ của Van Dyck. Bắn những viên đạn đuổi theo nàng với những đường parabol đẹp mắt. Xoay súng về Lâu đài Zedelghem, rồi nã đạn vào dãy nhà của Ayrs cho đến khi chỉ còn là đống gạch vụn nghi ngút khói. Nhớ lại đang ở đất nước nào và ngừng tay.
Đi qua cây sồi trơ trọi, đồng cỏ trôi xuống một hồ nước để trang trí, ộp oạp tiếng ếch kêu. Tâm trạng không được tốt lắm. Một chiếc cầu bấp bênh nối cù lao với bờ và những bông hoa hồng môn nở rộ. Thi thoảng vài chú cá vàng lại quẫy nước óng ánh như những đồng tiền xu đánh rơi xuống nước. Những con vịt uyên ương có râu quang quác xin ăn, những kẻ ăn mày chải chuốt cầu kỳ - cũng khá giống mình. Chim nhạn làm tổ trong một ngôi nhà thuyền làm từ ván quét nhựa. Dưới một hàng cây lê – một thời từng là vườn cây xum xuê? – tôi nằm xuống hưởng nhàn rỗi, một nghệ thuật tôi đã điêu
luyện từ đợt dưỡng bệnh dài ngày. Một kẻ nhàn rỗi với một kẻ lười nhác khác nhau như người thích ăn ngon so với với đứa phàm ăn vậy. Ngắm niềm thỏa thích trên cao của những con chuồn chuồn có đôi có bạn. Nghe cả tiếng đập cánh của chúng, một âm thanh ngây ngất như tiếng giấy phần phật trong nan hoa xe đạp. Ngắm nghía một con sâu lười khám phá khu rừng Amazon tí hon quanh rễ cây nơi tôi nằm. Im lặng? Không hẳn vậy. Bị đánh thức lâu sau đó bởi những hạt mưa đầu tiên. Mây dông đang vần vũ. Ba chân bốn cẳng chạy về Zedelghem, nghe tiếng sấm gầm hối hả trong ống tai và cảm nhận những giọt mưa béo múp đầu tiên quất lên mặt như những gõ đàn xylophone. Chỉ kịp thay chiếc áo sạch duy nhất còn lại trước khi tiếng cồng ăn tối vang lên. Phu nhân Crommelynck xin lỗi, khẩu vị của chồng vẫn chưa khá hơn, còn tiểu thư thì thích ăn một mình. Chẳng còn gì hợp ý tôi hơn. Lươn hầm, sốt rau mùi, mưa tí tách trên mái hiên. Không như nhà Frobisher hay phần lớn những gia đình Anh mà tôi biết, các bữa ăn ở lâu đài không diễn ra trong im lặng, phu nhân C. kể một chút với tôi về gia cảnh của mình. Gia tộc Crommelynck đã sống ở Zedelghem kể từ những ngày xa xưa khi mà Bruges còn là cảng biển thịnh vượng bậc nhất châu Âu (bà ấy bảo thế, cũng khó mà kiểm chứng) khiến Eva trở thành niềm hãnh diện của dòng họ trong sáu thế kỷ qua. Tôi phải thừa nhận là mình có thiện cảm với bà ấy chút đỉnh. Bà ấy kể chuyện như đàn ông và hút thuốc lá nhựa thơm qua ống tẩu bằng sừng tê giác. Tuy nhiên bà ấy cũng sẽ tinh ý nhận ra nếu bất kỳ món đồ quý giá nào biến mất. Họ từng bị người hầu nẫng đồ đạc trong nhà, bà ấy tình cờ nhắc đến chuyện này, thậm chí một, hai vị khách nghèo cũng làm thế, nếu tôi tin nổi rằng con người có thể xử sự một cách hèn hạ như thế. Trấn an bà ấy rằng bố mẹ tôi từng gặp hoàn cảnh tương tự, và dò hỏi về bài biểu diễn của tôi. “Ông nhà tôi mô tả phần trình diễn Scarlatti của anh là ‘còn cải thiện được’. Vyvyan khước từ sự tán thưởng, cả lúc cho lẫn lúc nhận. Ông ấy bảo, ‘Nếu người ta tán thưởng anh, thì anh sẽ không còn đi trên con đường của riêng mình nữa.’” Hỏi thẳng bà ấy có nghĩ rằng lão sẽ đồng ý nhận tôi hay không. “Tôi cũng hi vọng như vậy, Robert ạ.”
(Nói cách khác, hãy đợi xem sao.) “Anh phải hiểu, ông ấy đã tuyên bố sẽ không bao giờ sáng tác một nốt nhạc nào nữa. Làm thế khiến ông ấy đau đớn khôn tả. Làm sống lại hi vọng rằng ông ấy có thể sáng tác trở lại – nói thật, đó không phải là một trò mạo hiểm dễ chấp nhận.” Chủ đề khép lại. Tôi kể chuyện gặp Eva chiều hôm đó, và phu nhân C. tuyên bố, “Con gái tôi thật bất lịch sự.”
“Khép kín,” là câu trả lời hoàn hảo của tôi.
Chủ nhà rót thêm rượu vào ly tôi. “Eva có tính khí khó dung hòa. Chồng tôi rất ít quan tâm đến việc dạy dỗ con bé trở thành thục nữ. Ông ấy vốn không muốn có con. Cha và con gái thường lúc nào cũng quấn quýt với nhau, phải không nào? Ở đây thì không. Các giáo viên nói Eva rất chăm học, nhưng kín tiếng, và nó chưa bao giờ thử phát triển bản thân trong lĩnh vực âm nhạc. Tôi thường cảm thấy mình chẳng biết gì về con bé cả.” Tôi rót rượu vào ly của phu nhân C. và bà có vẻ vui lên. “Nghe tôi than vãn mới chán chứ. Tôi chắc chắn những cô em gái của anh là những đóa hồng Anh quốc đoan trang mẫu mực, đúng không, quý ông?” Khá nghi ngờ mối quan tâm dành cho nhà Frobisher của quý bà đây là thành thật, nhưng bà ta thích nhìn tôi nói chuyện, vì thế tôi đã tô vẽ những bức biếm họa dí dỏm về dòng họ đã cách ly của mình để mua vui cho bà chủ nhà. Làm cho tất cả mọi người nghe có vẻ thật vui tươi, suýt nữa thì cảm thấy nhớ nhà.
Sáng nay, thứ Hai, Eva chiếu cố cùng dùng bữa sáng – thịt xông khói Bradenham, trứng, bánh mì, thứ gì cũng có – nhưng cô nàng liên tục kêu ca những chuyện vặt vãnh với mẹ và gạt phăng mọi câu đưa chuyện của tôi với một tiếng “oui” (vâng) thờ ơ hoặc một tiếng “non” (không) cụt lủn. Ayrs đã cảm thấy khỏe hơn nên cũng ăn cùng chúng tôi. Sau đó Hendrick chở cô con gái đến Bruges để bắt đầu một tuần học mới – Eva ở trong thành phố với một gia đình có con gái học cùng trường, gia đình Van Eel hay đại loại thế. Cả lâu đài thở phào một tiếng nhẹ nhõm khi chiếc Cowley biến mất khỏi con đường bạch dương (còn có tên Con đường Tu sĩ). Eva quả thật đầu độc không khí nơi này. Lúc chín giờ, Ayrs và tôi gặp nhau trong phòng âm
nhạc. “Trong đầu tôi cứ văng vẳng một giai điệu đàn viola, Frobisher ạ. Để xem cậu có ghi lại được không.” Rất vui khi nghe điều này, vì tôi đã chuẩn bị tinh thần bắt đầu làm những công việc hời hợt hơn – chẳng hạn như sắp xếp những bản thảo nguệch ngoạc thành những tập hoàn chỉnh, đại loại như thế. Nếu tôi chứng tỏ giá trị của mình là ngòi bút tinh tế của V.A. trong ngày đầu tiên thì chuyện tôi được tá túc ở đây là gần như chắc chắn. Ngồi vào bàn của lão, bút chì 2B đã chuốt sẵn, giấy viết bản thảo mới tinh, chờ đợi lão gọi tên nốt nhạc, từng nốt một. Bất thình lình, lão già rống lên: “Tar, tar! Tar-tar-tar tattytattytatty, tar!” Ghi chưa? “Tar! Tatty-tar! Quãng lặng – tar-tar-tar-tttt-TAR! TARTARTAR!!!” Ghi chưa? Lão già rõ ràng nghĩ là chuyện này rất vui – chẳng ai ghi kịp tiếng la hét của lão, làm được chuyện này cũng giỏi như ghi lại tiếng be be của hàng chục con lừa vậy – nhưng sau thêm ba mươi giây nữa, tôi nhận ra đây không phải là trò đùa. Cố cắt ngang, nhưng lão quá chìm đắm vào việc sáng tác nhạc đến nỗi chẳng màng đến gì khác. Chìm vào bất hạnh sâu sắc trong khi Arys cứ tiếp tục, tiếp tục, tiếp tục... Kế hoạch của tôi thật vô vọng. Tôi đã nghĩ gì ở ga Victoria vậy nhỉ? Nản chí, tôi để lão rống hết bản nhạc với hi vọng mong manh rằng đợi nó kết thúc trong đầu lão thì sau đó sẽ dễ chép lại hơn. “Đấy, xong rồi!” lão tuyên bố. “Được chưa? Ngâm lại xem, Frobisher, để nghe xem thế nào.”
Hỏi đấy là cung gì. “Si giáng, tất nhiên rồi! ” Nhịp? Ayrs bóp sống mũi. “Ý cậu là cậu đã làm mất giai điệu của tôi đấy à?”
Đấu tranh tư tưởng để nhắc bản thân rằng lão già này hoàn toàn phi lý. Tôi đề nghị lão lặp lại giai điệu, chậm hơn nhiều, và gọi tên các nốt, từng nốt một. Có cảm giác như khoảnh khắc im lặng kéo dài ba giờ đồng hồ trong khi Ayrs quyết định liệu có nên nổi khùng lên hay không. Cuối cùng, lão buông tiếng thở dài ai oán. “Bốn- tám, đổi sang tám-tám sau vạch thứ mười hai, nếu cậu nhớ được xa đến đó.” Dừng lại. Nhớ đến những khó khăn tài chính của bản thân và cắn môi. “Bắt đầu lại từ đầu xem nào.” Khoảng lặng bề trên. “Bây giờ sẵn sàng chưa? Chậm rãi... Tar! Đấy là nốt gì?” Trải qua nửa giờ đọa đày đoán từng nốt nhạc, từng nốt một. Ayrs xác nhận hoặc phủ
nhận phỏng đoán của tôi với một cái gật đầu hoặc lắc đầu uể oải. Phu nhân C. đem vào một lọ hoa và tôi làm vẻ mặt cầu cứu, nhưng chính V.A. tuyên bố ngày hôm ấy thế là đủ. Trong lúc chạy tháo thân, tôi nghe Ayrs tuyên bố (vì lợi ích của tôi?), “Nản thật, Jocasta ạ, thằng bé không thể ghi lại một điệu nhạc đơn giản. Không chừng tôi phải gia nhập trường phái Tiên phong rồi ném phi tiêu lên mấy tờ giấy có nốt nhạc kẻ sẵn mà thôi.”
Ở lối đi, bà quản gia Willems càm ràm về thời tiết ẩm ương, gió máy và quần áo phơi mãi không khô của bà với một bộ hạ nào đấy không thấy rõ mặt. Bà còn đỡ hơn tôi. Tôi đã thao túng người khác để được tiến thân, hưởng sắc dục hoặc tiền vay mượn, nhưng chưa bao giờ để có mái nhà che mưa nắng trên đầu. Tòa lâu đài mục nát này bốc mùi nấm mốc. Lẽ ra tôi đã không bao giờ nên đặt chân đến đây.
Thân mến,
R.F.
Tái bút: “Nỗi hổ thẹn” tài chính, thật là một từ thích hợp. Anh xem, phải hỏi vay tiền anh rồi. Đế chế ở Zedelghem là chế độ lỏng lẻo nhất mà tôi từng thấy (cũng may! Tủ quần áo quản gia của bố tôi còn đầy đủ hơn của tôi vào lúc này) nhưng mỗi người đều cần đặt ra một số quy tắc chuẩn mực. Thậm chí không boa nổi cho những người hầu. Nếu tôi còn bạn bè giàu có, tôi sẽ hỏi mượn họ, nhưng sự thật là tôi không có. Không biết anh sẽ chuyển tiền hay gửi điện tín hay gửi trong gói hàng hay gì gì, nhưng anh là nhà khoa học mà, anh sẽ tìm ra cách thôi. Nếu Ayrs buộc tôi phải đi, thì tôi sẽ toi đời. Tin tức sẽ thẩm thấu về Cambridge rằng Robert Frobisher phải xin tiền từ những chủ nhà cũ khi họ tống cổ hắn đi vì không làm được việc. Sự hổ thẹn sẽ giết chết tôi, Sixsmith ạ, thực sự đấy. Vì Chúa hãy gửi bất cứ thứ gì anh có thể ngay đi.
Lâu đài Zedelghem,
14 – vii – 1931.
Sixsmith,
Mọi ngợi ca dành cho Rufus Thiêng Liêng, Vị Thánh Bảo Hộ của Những Nhạc Sĩ Cơ Hàn, Ngợi ca Tối cao, Amen. Lệnh chuyển tiền của anh đã đến nơi an toàn sáng nay – tôi kể với chủ nhà anh là ông chú lẩm cẩm lỡ quên ngày sinh nhật tôi. Phu nhân Crommelynck xác nhận rằng một ngân hàng ở Bruges sẽ đổi tiền. Sẽ viết một bài thánh ca ngắn vinh danh anh và trả tiền lại cho anh ngay khi có thể. Có khi sớm hơn anh tưởng đấy. Băng giá về triển vọng cuộc đời tôi đang tan chảy. Sau nỗ lực hợp tác đầy nhục nhã với Ayrs lần đầu, tôi quay về phòng trong tâm trạng khốn khổ thảm hại. Chiều hôm đó tôi đã viết thư than nghèo kể khổ với anh – nhân tiện, hãy đốt lá thư ấy đi, nếu anh chưa làm vậy – cảm thấy r. lo lắng về tương lai. Đội mưa cuốc bộ đến bưu điện của làng trong chiếc áo choàng và ủng cao su, tự hỏi, thực sự, mình sẽ ở đâu giờ này tháng sau. Bà Willems gõ cồng báo ăn tối không lâu sau khi tôi quay về, nhưng khi tôi đi xuống phòng ăn, Ayrs đã đợi sẵn, một mình. “Là cậu đấy à, Frobisher?” lão hỏi, với giọng cộc cằn quen thuộc ở những lão già đang cố tỏ vẻ nhẹ nhàng. “A, Frobisher, thật mừng vì chúng ta có thể nói chuyện riêng với nhau. Nghe đây, tôi đã khó khăn với cậu sáng nay. Bệnh tình của tôi khiến tôi trở nên... thẳng tính hơn thường lệ, và đôi khi thật không phải. Tôi xin lỗi. Hãy cho lão già khó tính này một cơ hội khác vào ngày mai, cậu nghĩ thế nào?”
Phải chăng vợ lão đã nói với lão bà ta nhận thấy tôi trong tình cảnh thế nào? Phải chăng Lucille đã nhắc đến chiếc vali soạn được một nửa của tôi? Tôi chờ đến khi chắc chắn giọng của mình không còn mùi nhẹ nhõm nữa, rồi nói với lão, một cách hào hiệp, rằng chẳng có gì sai khi lão nói lên quan điểm của mình.
“Tôi đã quá cực đoan về lời đề nghị của cậu, Frobisher ạ. Thật chẳng dễ dàng gì để trích ra âm nhạc từ cái đầu của tôi, nhưng sự hợp tác của chúng ta có cơ hội tốt chẳng kém bất kì thứ gì. Tố chất nhạc sĩ và tính cách của cậu dường như vượt quá những gì mà công việc này yêu cầu. Bà nhà nói với tôi rằng cậu còn thử sáng tác nữa phải không? Rõ ràng, âm nhạc là khí oxy cho cả hai chúng ta. Với một quyết tâm đúng đắn, chúng ta sẽ xoay xở cùng nhau cho đến khi tìm được phương pháp phù hợp.” Đúng lúc này, phu nhân Crommelynck gõ cửa, hé nhìn vào, cảm nhận không khí của căn phòng trong nháy mắt, theo kiểu mà một số phụ nữ thường làm, rồi hỏi có phải sắp có tiệc uống mừng hay không. Ayrs quay sang tôi. “Điều đó còn tùy thuộc vào Frobisher đây. Cậu nói sao? Cậu sẽ ở lại đây trong vài tuần, với tương lai kéo dài thành vài tháng, nếu mọi việc tốt đẹp chứ? Có thể lâu hơn, ai mà biết được? Nhưng cậu phải chấp nhận một khoản lương nhỏ.”
Để cho sự nhẹ nhõm của tôi thể hiện ra thành sự mãn nguyện, nói với ông ta rằng tôi rất lấy làm vinh hạnh, và chấp nhận ngay lời đề nghị về lương.
“Thế thì, Jocasta, hãy bảo bà Willems tìm chai Pinot Roughe 1908 nào!” Chúng tôi nâng ly vì Thần rượu Bacchus và Nàng thơ, rồi uống cạn thứ rượu vang đậm đặc như máu kỳ lân. Hầm rượu của Ayrs, có đâu chừng sáu trăm chai, là một trong những hầm rượu hoàn mỹ nhất ở Bỉ, và xứng đáng để nói lạc đề về nó một chút. Nó đã sống sót qua chiến tranh mà không rơi vào tay các tướng Phổ dùng Zedelghem làm chốt chỉ huy, tất cả là nhờ một bức tường giả mà ông thân sinh của Hendrick đã xây trên lối vào trước khi cả gia đình bỏ trốn đến Gothenburg. Thư viện, và nhiều gia sản cồng kềnh khác, cũng đã trải qua cuộc chiến ở dưới chiếc hầm ấy (trước đây là hầm mộ của một tu viện), được niêm phong trong nhiều thùng. Người Phổ lục soát tòa nhà trước khi đình chiến, nhưng không hề phát hiện ra hầm rượu.
Một thói quen thường nhật đang dần hình thành. Trước chín giờ mỗi buổi sáng, Ayrs và tôi đã có mặt trong phòng âm nhạc, những hôm mà các chứng bệnh và cơn đau cho phép lão đến. Tôi ngồi bên đàn dương cầm, Ayrs
trên trường kỷ, hút thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ rẻ tiền, và chúng tôi chọn một trong ba cách làm việc. “Duyệt lại” – lão bảo tôi chơi lại tác phẩm của buổi sáng hôm trước. Tôi ngâm, hát hoặc đàn, tùy vào loại nhạc cụ, còn Ayrs điều chỉnh bản ký âm. “Tái tạo” là khi tôi phải xem lại những bản ký âm, sổ ghi chép và các bản soạn nhạc cũ, một số được viết trước khi tôi ra đời, để xác định một đoạn văn hoặc đoạn độc tấu mà Ayrs nhớ mang máng và muốn làm sống lại. “Sáng tác” là cách đòi hỏi nhiều công sức nhất. Tôi ngồi bên đàn dương cầm và cố gắng đuổi kịp dòng chảy của “Móc đôi, Si-Sol; nốt tròn, La giáng – giữ bốn nhịp, không, sáu – đan móc! Fa thăng – rồi... Si! Tar tatty-tatty-tarrr!” (Ít ra bây giờ sư phụ đã chịu gọi tên các nốt nhạc rồi.) Hoặc, nếu lão cảm thấy bay bổng hơn, thì có thể là, “Thế này nhé, Frobisher, kèn clarinet là ái thiếp, đàn viola là cây thủy tùng ở nghĩa trang, đàn clavico là mặt trăng, thế... hãy để gió đông thổi hợp âm La thứ đó, từ trường canh thứ 16 trở đi.”
Như một người hầu tận tụy (dù anh có thể đảm bảo, tôi giỏi hơn mong đợi), công việc của tôi đạt được 9/10 kỳ vọng. Đôi khi Ayrs lại bảo tôi đưa ra một nhận định nghệ thuật, chẳng hạn như, “Cậu nghĩ hợp âm này có được không, Frobisher?” hoặc “Đoạn này có hài hòa với tổng thể không?” Nếu tôi nói không, Ayrs hỏi tôi đề nghị thay thế bằng cái gì, và một hoặc hai lần lão thậm chí sử dụng những thay đổi của tôi. Khá tỉnh táo. Hậu thế sẽ nghiên cứu thứ âm nhạc này.
Đến một giờ trưa, Ayrs đã đuối sức. Hendrick đưa lão xuống phòng ăn, nơi phu nhân Crommelynck ăn trưa cùng chúng tôi, và E. đáng sợ, nếu nàng về nhà vào dịp cuối tuần hoặc giữa kỳ nghỉ lễ. Ayrs ngủ trưa trong cái nóng buổi chiều. Tôi tiếp tục lục lọi thư viện để tìm kiếm những thứ hay ho, sáng tác trong phòng âm nhạc, đọc bản thảo trong vườn (huệ tây, vương miện hoàng đế, mãn đình hồng, tất cả nở bung rực rỡ), len lỏi qua những con ngõ nhỏ ở Neerbeke bằng xe đạp, hay rong chơi trên những cánh đồng. Giờ đây tôi là bạn thân với những chú chó trong làng. Chúng phi theo sau tôi như lũ chuột chạy theo anh chàng thổi sáo Pied Piper. Người địa phương chào đáp
lại khi tôi nói “Goede morgen” (Chào buổi sáng) và “Goede middag” (Chào buổi chiều) – giờ đây ai cũng biết tôi là khách ở dài hạn tại “kasteel” (lâu đài). Sau buổi ăn tối, ba người chúng tôi có thể nghe đài nếu có một chương trình phát sóng vào giờ đó, còn không thì nghe những đoạn ghi âm bằng máy hát (hiệu His Master’s Voice, đặt trong hộp bằng gỗ sồi), thường là những tác phẩm lớn của Ayrs do Sir Thomas Beecham chỉ huy dàn nhạc. Khi có khách, chúng tôi sẽ trò chuyện hoặc thưởng thức nhạc trong căn phòng nhỏ. Những đêm còn lại, Ayrs thích tôi đọc thơ cho lão nghe, đặc biệt là của Keats[16], nhà thơ lão yêu thích.
Lão thì thầm những câu thơ trong lúc tôi ngâm, như giọng của lão đang dựa vào giọng của tôi. Vào giờ ăn sáng, lão nhờ tôi đọc báo Thời đại. Dù Ayrs đã già nua ốm yếu, mắt mũi kèm nhèm, nhưng lão có thể tham gia vào những buổi tranh luận xã hội ở trường đại học, dù tôi nhận thấy lão hiếm khi đưa ra được giải pháp nào cho những chế độ mà lão chê bai. “Tư tưởng tự do à? Sự khúm núm của nhà giàu thì có!”; “Chủ nghĩa xã hội ư? Em trai của chế độ chuyên quyền sắp đổ nát mà nó muốn kế thừa”; “Người bảo thủ? Những kẻ nói dối liều mạng, lấy học thuyết tư tưởng tự do làm trò dối lừa hay ho nhất.” Thế lão ta muốn hình thái nhà nước nào? “Chẳng có cái nào cả! Nhà nước càng tổ chức tốt bao nhiêu thì nhân dân càng đần độn bấy nhiêu.”
Dù rất nóng nảy, nhưng Ayrs là một trong số hiếm hoi nhân vật ở châu Âu mà tôi muốn có ảnh hưởng đến sự sáng tạo của mình. Về mặt âm nhạc, lão là một Janus hai đầu[17]. Một Ayrs ngoái nhìn cơn hấp hối của Chủ nghĩa Lãng mạn, Ayrs còn lại thì nhìn tới tương lai. Đây là Ayrs mà tôi nhìn theo. Quan sát cách lão dùng đối âm và phối các sắc điệu với nhau đã định hình lại ngôn ngữ âm nhạc của tôi theo những cách thật kỳ diệu. Khoảng thời gian ngắn ngủi ở Zedelghem đã dạy cho tôi nhiều hơn ba năm trên ngai vàng của Mackerras Khốn kiếp cùng Ban nhạc Thủ dâm Vui vẻ của lão.
Bằng hữu của Ayrs và phu nhân Crommelynck thường xuyên đến thăm. Trung bình một tuần chúng tôi có thể đón khách đến hai hoặc ba đêm.
Những nghệ sĩ độc tấu trở về từ Brussels, Berlin, Amsterdam hoặc những nơi xa hơn; người quen từ thuở thiếu thời ở Florida hay Paris; và vợ chồng người bạn thâm niên Morty Dhondt. Dhondt sở hữu xưởng kim cương ở cả Bruges lẫn Antwerp, nói chuyện bằng ngôn ngữ khó hiểu nhưng biết nhiều thứ tiếng, ưa nghĩ ra nhiều câu chơi chữ phức tạp, đa ngôn ngữ, cần phải giải thích rất dài dòng, tài trợ cho các lễ hội và chơi những trận cầu siêu hình với Ayrs. Phu nhân Dhondt giống như phu nhân Crommelynck nhưng hơn gấp mười lần – kỳ thực, đây là một sinh vật đáng sợ đứng đầu Hội Cưỡi Ngựa Bỉ, tự lái chiếc Dhondt Bugatti, và nâng niu một chú chó Bắc Kinh nùi bông thoa phấn tên là Wei-wei. Anh chắc chắn sẽ còn gặp lại bà ta trong những lá thư sau. Bà con họ hàng không có nhiều: Ayrs là con một, còn gia tộc Crommelynck một thời lừng lẫy chứng tỏ biệt tài chọn sai khi chọn phe mà ủng hộ vào những thời khắc quyết định trong suốt cuộc chiến. Khi Ayrs và vợ quay về từ Scandinavia, những người trong họ tộc không chết trong lúc làm nhiệm vụ thì phần lớn đều trở nên bần cùng và ốm đau. Một số khác thì qua đời sau khi bỏ trốn ra nước ngoài. Bà giáo cũ của phu nhân Crommelynck và một số cô dì già yếu khác thỉnh thoảng có ghé thăm, nhưng họ thường ngồi lặng lẽ trong góc nhà như những giá móc nón cũ kỹ.
Tuần trước nhà chỉ huy dàn nhạc Tadeusz Augustowski, một vệ thần vĩ đại của Ayrs ở quê hương Cracow, bất ngờ ghé qua vào Ngày thứ hai của cơn đau nửa đầu. Phu nhân Crommelynck không có ở nhà, thế là bà Willems tìm đến tôi đầy căng thẳng, năn nỉ tôi tiếp đón vị khách lừng danh. Tôi không thể gây thất vọng. Tiếng Pháp của Augustowski cũng khá cỡ tiếng Pháp của tôi, và chúng tôi đã dành ra cả buổi chiều câu cá và tranh luận về những người sáng tác theo hệ mười hai âm. Ông ta nghĩ họ là những kẻ bất tài, còn tôi thì không nghĩ vậy. Ông ta kể cho tôi nghe những câu chuyện chiến tranh bằng nhạc, và một truyện cười tục không thể tả có kèm theo cử chỉ bằng tay, vì vậy phải đợi đến khi chúng ta gặp lại nhau tôi mới kể anh nghe được. Tôi câu được một con cá hồi dài ba tấc còn Augustowski thì vớ được một con cá đác khổng lồ. Chúng tôi trở về nhà lúc trời chạng vạng,
Ayrs đã thức và ông bạn người Ba Lan nói với lão rằng lão thật may mắn khi có tôi làm việc cùng. Ayrs làu bàu một câu gì đó nghe như, “Phải rồi.” Quả là lời khen rộng rãi đấy, Ayrs. Bà Willems thì không hào hứng lắm với chiến lợi phẩm có vảy của chúng tôi, nhưng vẫn mổ ruột chúng, nấu với muối và bơ, rồi chúng tan chảy dưới chiếc nĩa dùng để ăn cá. Augustowski đưa danh thiếp cho tôi khi ra đi vào sáng hôm sau. Ông ta có một căn hộ ở Langham Court mỗi khi đến London, và mời tôi đến ở cùng vào mùa lễ hội năm sau. Ò ó o o o!
Lâu đài Zedelghem không phải là mê cung của dòng họ Usher[18] như thoạt nhìn. Đúng là cánh phía tây, lúc nào cũng kín như bưng và phủ đầy bụi, tương phản với vẻ hiện đại của phía đông, đang ở trong tình trạng thê thảm, và chẳng bao lâu nữa sẽ cần được tháo dỡ mà thôi. Đã khám phá các phòng trong đó vào một buổi chiều ẩm ướt. Ẩm thấp thảm hại; vôi vữa rơi rồi vương lủng lẳng trong mạng nhện; phân chuột, phân dơi chất thành đống trên những phiến đá mòn; những mặt huy hiệu đắp thạch cao phía trên các lò sưởi đóng bụi thời gian. Bên ngoài cũng tương tự - những bức tường gạch cần được trét vữa, mái ngói thủng lỗ chỗ, gạch viền rơi xuống đất chất thành đống, nước mưa chảy thành dòng giữa lớp sa thạch xửa xưa. Gia tộc Crommelynck làm ăn phát đạt nhờ đầu tư ở Congo, nhưng không một người con trai nào còn sống sau chiến tranh, và những lính Đức “ở trọ” tại Zedelghem đã móc ruột có chọn lọc bất cứ món gì đáng hôi của.
Ngược lại, cánh phía đông là một tổ ấm nhỏ tiện nghi, dù xà nhà bằng gỗ kêu kẽo kẹt như con tàu mỗi khi có gió lớn. Có một hệ thống sưởi trung tâm mưa nắng thất thường và đường điện thô sơ giật bất kỳ ai chạm vào các công tắc điện. Ông thân sinh của phu nhân Crommelynck thật biết nhìn xa trông rộng khi dạy cho con gái kinh doanh địa ốc, giờ đây bà đang cho các nông dân xung quanh thuê lại đất đai và làm cho những mảnh đất ấy sinh lời, theo như thông tin tôi thu thập được. Một thành tựu không thể khịt mũi xem thường trong thời đại ngày nay.
Eva vẫn là một cô nàng đỏng đảnh, khó ưa hệt như những đứa em gái
của tôi, nhưng có trí thông minh không thua kém thái độ kiêu kỳ của mình. Ngoài con ngựa cưng Nefertiti, thú vui của nàng còn gồm động tác chu môi và tỏ vẻ tử vì đạo. Nàng thích làm cho những người hầu yếu đuối phải bật khóc, rồi vung tay múa chân đi vào và leo lẻo, “Bà ta lại khóc lóc nữa rồi, mẹ ơi, mẹ không dạy dỗ bà ta đàng hoàng được hay sao?” Nàng đã xác định tôi không phải là kẻ dễ bắt nạt, và khai mào một cuộc chiến dài hơi: “Bố ơi, Frobisher ở nhà chúng ta bao lâu?”; “Bố à, bố trả cho Frobisher bằng với trả cho Hendrick không?”; “Ô, con chỉ hỏi thăm thôi mẹ à, chứ con đâu có biết chuyện ăn ở của Frobisher là chuyện tế nhị.” Nàng khua khoắng chọc tức tôi, tôi rất ghét phải trả miếng, nhưng là thế đấy. Lại chạm trán lần nữa – “đối đầu” thì đúng hơn – vào thứ Bảy. Tôi lấy quyển sách Ayrs coi như Kinh Thánh, Zarathustra đã nói như thế, đem đến cây cầu đá trên hồ dẫn đến đảo liễu. Một buổi chiều nóng như thiêu đốt; ngồi trong bóng râm mà mồ hôi đổ như tắm. Sau mười trang tôi có cảm giác như Nietzsche đang đọc tôi, chứ không phải tôi đọc ông ta, thế là tôi đưa mắt ngắm những người chèo thuyền và một con sa giông trong lúc dàn nhạc tưởng tượng đang chơi bài Air and Dance của Fred Delius. Một bản mượt mà ngọt quá mức, nhưng tiếng sáo uể oải trong đó khá thành công.
Rồi tôi thấy mình đang nằm trong một cái mương rất sâu đến nỗi bầu trời chỉ còn là một dải ở tít trên cao, chiếu sáng chói lòa. Những kẻ độc ác dạng chân khổng lồ bước qua trên mương, những con chuột nâu răng nhọn hoắt ngửi ra những con người thuộc giai cấp lao động rồi xẻ thịt họ. Bước đi, cố gắng làm ra vẻ bình thản và ngăn mình không bỏ chạy vì hoảng sợ, thì gặp phải Eva. Tôi hỏi, “Cô đang làm cái quái gì ở dưới này?”
Eva trả lời đầy giận dữ! “Ce lac appartient à ma famille depuis cinq siècles! Vous êtes ici depuis combien de temps exactement? Bien trois semaines! Alors vous voyez, je vais où bon me semble!” (Hồ này thuộc về gia đình tôi năm thế kỷ nay rồi! Chính xác thì anh đã ở đây được bao lâu chứ? Ba tuần là cùng chứ gì! Anh xem, tôi muốn đi đâu thì đi!) Cơn giận của Eva thật khủng khiếp, như một cú đá vào mặt kẻ viết thư khiêm tốn của anh