🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bạn Chính Là Bác Sỹ Tốt Nhất Của Mình - De Agostini full prc pdf epub azw3 [Sức Khỏe]
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, sự phát triển với tốc độ nhanh chóng của thế giới đã khiến cho vấn đề sức khỏe trở nên nổi cộm, sức khỏe đã trở thành điểm nóng và là tiêu điểm quan tâm của công chúng. Sức khỏe là gì?
Sức khỏe là tiết kiệm, sức khỏe là sự hài hòa, sức khỏe là trách nhiệm, sức khỏe là vàng. Sức khỏe không những thuộc về bản thân chúng ta mà còn thuộc về những người thân trong gia đình và xã hội, quan tâm đến sức khỏe là trách nhiệm của mỗi con người.
Làm thế nào để có được sức khỏe?
Rất nhiều người trên thế giới không phải chết vì bệnh tật mà chết vì không hiểu biết. Bởi vậy tri thức đem lại sức khỏe. Muốn thực sự có được sức khỏe và hạnh phúc thì điều quan trọng nhất là phải hiểu được bản thân. Vậy làm thế nào để hiểu được bản thân?
Cuốn sách này sẽ giúp bạn hiểu được nguyên nhân phát sinh các căn bệnh thông thường như cảm cúm, táo bón, đau dạ dày… giúp bạn phòng tránh bệnh có hiệu quả; giúp bạn thêm hiểu về bản thân để có thể sớm phát hiện ra những tín hiệu của bệnh, tránh để lỡ mất thời cơ chữa trị.
Sức khỏe là vốn quý, chúc các bạn có được một sức khỏe như mong muốn!
1. TÁO BÓN
KIỂM TRA SỨC KHỎE (CHÚ Ý NHỮNG TRIỆU CHỨNG DƯỚI ĐÂY).
- Số lần đi đại tiện ít hơn 2 lần/tuần?
- Tuy mỗi ngày đều đi đại tiện nhưng vẫn có cảm giác muốn đi? - Lượng phân quá ít, hoặc ở dạng cục, cứng?
- Quy luật đi đại tiện đột nhiên bị phá vỡ?
- Ăn uống thất thường?
- Hấp thụ một lượng lớn mỡ hoặc thịt?
- Uống quá ít nước?
- Lúc muốn đi đại tiện thì luôn nhịn không đi?
Ở phần kiểm tra trên, nếu bạn phù hợp với mục nào trong 4 mục đầu thì có khả năng bạn đã mắc bệnh táo bón; Nếu chưa đến mức như 4 mục đầu nhưng cũng có tồn tại tình trạng khác thì khả năng mắc bệnh táo bón của bạn sẽ tăng lên.
Cái gọi là táo bón tức là chỉ lượng phân trong ruột bị giữ lại quá lâu, làm cho lượng nước trong phân giảm đi, phân trở nên cứng, lượng phân ít đi. Thông thường, cứ 24 – 72 tiếng đi đại tiện 1 lần, nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ, nhưng không ảnh hưởng đến cuộc sống thường nhật.
Phân ở trong ruột quá lâu, dưới tác dụng của nhân khuẩn dạng sợi trong ruột có thể bị lên men quá mức, khiến cơ thể bị ngộ độc. Protein trong quá trình phân giải có thể sản sinh ra những chất có hại, sau khi được đưa đến gan, nếu gan không kịp giải độc thì sẽ có thể xuất hiện các triệu chứng trúng độc như đau bụng, buồn nôn…
Bụng dưới có cảm giác đầy hơi là triệu chứng điển hình của bệnh táo bón. Bụng đầy hơi, hơi tích ở trong ruột ép lên ống ruột, có thể có cảm giác đau bụng, hoặc cũng có thể cảm thấy buồn nôn.
Nếu chứng táo bón gây ảnh hưởng đến dây thần kinh thì có thể còn xuất hiện hiện tượng căng cơ ở vai và cổ, xơ cứng, dẫn đến đau
vai, đau đầu... Ngoài ra, do quá trình trao đổi chất bị ảnh hưởng, da sẽ dễ xuất hiện mụn hoặc bong da, mất đi vẻ mịn màng. Khi bụng ấm ách khó chịu, đau vai, đau đầu, con người sẽ dễ bị mệt mỏi dẫn đến mất ngủ.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÂN Phân được hình thành ở đại tràng. Đại tràng không tiêu hóa, hấp thụ thức ăn, chức năng chủ yếu của nó là hấp thụ nước và chất điện giải, hình thành ra phân và bài tiết ra ngoài. Chỗ to nhất của đại tràng có đường kính từ 5 – 8cm, dài khoảng 1.5m, chia làm 3 đoạn: ruột thừa, kết tràng và trực tràng. Thức ăn sau khi được tiêu hóa và hấp thụ, phần còn thừa lại dưới dạng bột hồ được chuyển từ ruột non vào đại tràng. Ruột già sẽ vận động, hấp thụ nước và chất điện giải, chất bột hồ được chuyển thành dạng cố định, tức là phân. Thức ăn cần khoảng 5 – 10 tiếng để được hấp thụ, tiêu hóa và đưa đến phần cuối của ruột non, sau khi đến đại tràng cần từ 9 – 16 tiếng để hấp thụ nước và chất điện giải. Các vi khuẩn trong ruột sẽ lên men thức ăn hoặc làm cho thối rữa để tạo ra phân. Phân sau khi hình thành thường được tích lại ở trong kết tràng, khi được di chuyển đến trực tràng, bộ phận cảm ứng của trực tràng sẽ bị kích thích, dẫn đến cảm giác muốn đại tiện.
CÁC KIỂU TÁO BÓN VÀ TRIỆU CHỨNG BỆNH:
- Táo bón cấp tính do thay đổi môi trường sống
- Táo bón đơn thuần mang tính tạm thời
Ở những người có chế độ đại tiện bình thường hay gặp phải tình trạng táo bón tạm thời. Thông thường bệnh phát sinh ở nhóm người không ăn sáng, ăn quá ít, hoặc kén ăn. Ngoài ra, công việc quá bận rộn, uống ít nước, môi trường sống thay đổi, suy nghĩ, kinh nguyệt, mang thai… cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng táo bón. Chỉ cần loại trừ những nguyên nhân trên thì tình trạng sẽ trở lại bình thường.
- Táo bón cấp tính
Chủ yếu là do các bệnh cấp tính về đường ruột và dạ dày gây ra. Triệu chứng đặc trưng của nó là kèm theo đau bụng quằn quại, nôn mửa… nên kịp thời đến ngay bệnh viện để điều trị.
- Táo bón mãn tính do không có cảm giác buồn đi đại tiện trong một thời gian dài.
Có thể chia thành 2 loại: táo bón theo thói quen do chức năng của ruột kém và táo bón bệnh tính do các bệnh về đường ruột. Táo bón bệnh tính chủ yếu là do các bệnh mãn tính ở các cơ quan nội tạng ở phần bụng ví dụ như vách đại tràng tự nhiên lồi ra, tạo thành kết cấu dạng túi, dù không gây ra đau đớn nhưng lại cản trở hoạt động của ruột, dẫn đến táo bón.
Táo bón do thói quen, dựa vào nguyên nhân lại có thể chia thành 3 loại: táo bón kết tràng, táo bón trực tràng và táo bón co giật. Ăn nhiều thức ăn có chất xơ có lợi cho việc loại trừ táo bón. Bệnh táo bón nên tự tìm cách giải quyết, không nên lệ thuộc vào thuốc. Chỉ cần hàng ngày chú ý một chút là có thể loại trừ bệnh táo bón. Để phòng tránh táo bón và ung thư đại tràng, nên ăn nhiều thức ăn có chứa chất xơ.
Tác dụng của thức ăn có chứa chất xơ:
Chất xơ là thành phần trong thức ăn mà cơ thể người không thể tiêu hóa được. Chất xơ có nhiều trong thức ăn thực vật và trong một số loại thức ăn động vật, được chia thành hai loại: chất xơ không dễ tan trong nước và chất xơ dễ tan trong nước.
Thức ăn có chất xơ qua miệng vào trong cơ thể, giống như các chất dinh dưỡng khác, nhưng nó đi qua các cơ quan tiêu hóa như thực quản, dạ dày, ruột mà vẫn không bị tiêu hóa hấp thu, cuối cùng trở thành thành phần chính của phân, thải ra bên ngoài cơ thể.
Rất nhiều người cho rằng, thức ăn có chứa chất xơ trong dinh dưỡng gần đây mới được chú ý đến. Trên thực tế, thời đại Hi Lạp cổ đại, ở thế kỷ thứ 4 TCN, đã biết rằng bánh mì có đường mạch nha có thể phòng tránh được bệnh táo bón.
Nói thì như vậy nhưng sự quan tâm của con người đến mối quan hệ giữa thức ăn và chất xơ thì mấy chục năm gần đây mới bắt đầu. Trong Đại chiến Thế giới lần thứ hai, đoàn bác sỹ người Anh đến hoạt động ở khu vực thuộc địa Châu Phi đã phát hiện ra biểu hiện bệnh của người Châu Phi khác với người Châu Âu, từ đó họ bắt đầu quan tâm đến thức ăn có chứa chất xơ.
Khi đó, tỉ lệ người mắc bệnh táo bón, xơ cứng động mạch, đái đường, ung thư đại tràng… ở Châu Âu tăng cao, nhưng ở Châu Phi lại rất ít người mắc các chứng bệnh đó. Các bác sỹ cho rằng, sự khác biệt này không phải bắt nguồn từ yếu tố môi trường hay di truyền, mà là sự khác biệt trong thói quen ăn uống, đặc biệt là sự khác biệt về lượng thức ăn chứa chất xơ được đưa vào cơ thể.
Năm 1971, có người chỉ ra rằng, những người ít ăn những thức ăn có chứa chất xơ sẽ dễ mắc bệnh ung thư đại tràng. Thế là con người bắt đầu quan tâm hơn đến các loại thức ăn có chứa chất xơ.
Người phương Đông cũng như vậy, đến giai đoạn cuối của những năm 60 của thế kỷ XX, lượng thực phẩm có xuất xứ từ động vật và mỡ được đưa vào cơ thể ngày càng tăng lên, lượng thực phẩm có xuất xứ từ thực vật và động vật có vỏ được đưa vào cơ thể theo đó mà giảm đi.
Cùng với sự thay đổi của đời sống ẩm thực, tỉ lệ người mắc bệnh ung thư đại tràng, đái đường, tắc cơ tim… ngày càng tăng lên, tác dụng sinh lí của thức ăn chứa chất xơ vì thế mà đã trở thành đề tài nóng bỏng được nhiều người quan tâm.
Thực phẩm chứa chất xơ có tác dụng chứa nước, tăng cường lượng phân, kích thích thành ruột, thúc đẩy quá trình bài tiết phân, từ đó mà có thể thải được các chất gây ung thư đại tràng ra bên ngoài, giảm bớt nguy cơ mắc bệnh.
Những thực phẩm có nhiều chất xơ:
Những thực phẩm có chứa nhiều chất xơ thường gặp trong cuộc sống thường nhật bao gồm các loại ngũ cốc, các loại khoai, đậu, rau xanh, nấm, tảo biển…
Đặc biệt là vỏ của những loại ngũ cốc như tiểu mạch, đại mạch... chứa rất nhiều chất xơ nhưng trong quá trình chế biến, đa phần đều đã bị làm sạch vỏ. Các loại đỗ, khoai, rau xanh đều có nhiều chất xơ.
HỎI ĐÁP
Hỏi: Nghe nói đại mạch chứa nhiều chất xơ hơn gạo, điều đó có đúng không?
Đáp: Chất xơ trong đại mạch nhiều gấp 10 lần trong gạo nhưng về tính chất của hai loại thì gần như là giống nhau. Hiện nay lượng chất xơ con người đưa vào cơ thể thiếu hụt, nguyên nhân chủ yếu là do lượng ngũ cốc đưa vào cơ thể quá ít. Lượng chất xơ có trong gạo không nhiều bởi vậy nếu chỉ dựa vào lượng chất xơ có trong gạo thì sẽ phải ăn rất nhiều cơm.
Hỏi: Mỗi ngày cần cung cấp cho cơ thể bao nhiêu chất xơ?
Đáp: Chất xơ không phải cứ đưa vào cơ thể càng nhiều càng tốt, nó chỉ cần một lượng thích hợp. Trên thực tế, nếu ăn quá nhiều thực phẩm có chứa chất xơ trong một thời gian dài thì sẽ dễ mắc bệnh ỉa chảy, khi đó rất nhiều khoáng chất cần cho cơ thể sẽ bị đào thải ra ngoài. Lượng chất xơ cần thiết mỗi ngày, đối với người lớn là 20 – 25g, nhưng trung bình hiện nay mọi người mới chỉ đạt được khoảng 16g/ngày. Những người có tỉ lệ đường trong máu cao phải đạt mức 30 – 35g/ngày.
2. UNG THƯ ĐẠI TRÀNG
Mắc bệnh táo bón thường xuyên mà không kịp thời chữa trị, số lượng vi khuẩn có hại trong ruột sẽ tăng lên. Những người khỏe mạnh, vi khuẩn có ích trong cơ thể chiếm ưu thế, nhưng nếu tình trạng táo bón kéo dài, sự cân bằng về số vi khuẩn có ích và có hại sẽ bị phá vỡ. Ăn quá nhiều thức ăn từ thịt, chất protein có trong phân dưới tác dụng của các vi khuẩn làm thối rữa sẽ sản sinh ra nhiều loại vi khuẩn có hại, chúng tuần hoàn trong cơ thể cùng với máu, sẽ gây ra hiện tượng đau đầu, đau vai, cao huyết áp… đáng sợ nhất là khả năng mắc bệnh ung thư cũng sẽ tăng cao.
Ăn nhiều mỡ động vật sẽ thúc đẩy cơ thể bài tiết ra nhiều dịch mật, trong dịch mật có chứa chất gây ung thư. Chất gây ung thư và phân cùng ở trong đại tràng, kích thích lên thành ruột, có thể làm phát sinh bệnh ung thư đại tràng.
Ung thư đại tràng được chia thành hai loại: ung thư kết tràng và ung thư trực tràng. Trước đây số lượng người mắc ung thư trực tràng chiếm đa số, gần đây, tỉ lệ ung thư kết tràng đang có chiều hướng tăng lên.
Độ tuổi mắc bệnh thường vào khoảng 60 – 69 tuổi, chiếm hơn 50% số người mắc bệnh, tiếp đến là độ tuổi 50 – 59 tuổi. Trước đây nam giới mắc bệnh nhiều hơn, những năm gần đây, tỉ lệ nữ mắc bệnh có xu hướng tăng lên. Vì vậy để có thể kịp thời điều trị, nên đi khám sức khỏe định kỳ.
TRIỆU CHỨNG CHÍNH CỦA BỆNH UNG THƯ ĐẠI TRÀNG LÀ ĐI ĐẠI TIỆN RA MÁU
Bệnh ung thư đại tràng phát triển chậm. Giai đoạn đầu gần như không có biểu hiện của bất kỳ triệu chứng gì, rất khó phát hiện. Còn khi xuất hiện triệu chứng thì đa phần bệnh đã phát triển đến một mức độ nhất định. Ngoài ra, triệu chứng bệnh cũng khác nhau tùy
từng người. Có một số người mặc dù bệnh đã phát triển đến giai đoạn muộn nhưng cũng không có biểu hiện gì của bệnh. Triệu chứng thường gặp nhất ở bệnh ung thư đại tràng là đại tiện ra máu. Nếu khối u ở những vị trí gần ruột non như ruột thừa hoặc phần trên kết tràng, phân sẽ có màu đen, nếu khối u ở phần cuối kết tràng hoặc trực tràng thì phân sẽ có màu máu tươi.
Về điểm này không giống với hiện tượng chảy máu ở bệnh trĩ. Hiện tượng chảy máu ở bệnh trĩ thường là máu và phân không lẫn vào nhau, sau khi phân ra ngoài thì máu mới chảy từng giọt ra, còn ở bệnh ung thư đại tràng thì máu và phân lẫn với nhau, bởi vậy chỉ cần quan sát kỹ một chút là sẽ phát hiện ra. Tuy nhiên, người bình thường khó có thể phân biệt được rõ, bởi vậy, nếu có nghi ngờ hãy đến bệnh viện để kiểm tra.
Ngoài chảy máu, ung thư đại tràng còn xuất hiện tình trạng đại tiện bất thường. Nếu có các hiện tượng như đại tiện không theo giờ, khi đại tiện có cảm giác đau thì có thể là có khối u ở kết tràng hoặc trực tràng.
Nếu ở trực tràng có u, có thể xuất hiện các triệu chứng ỉa chảy, hình dạng phân trở nên nhỏ đi… ngoài ra, ung thư đại tràng đôi khi còn xuất hiện triệu chứng thiếu máu, gầy đi trông thấy, bụng sờ thấy cục cứng, đầy bụng, da có chỗ đen đi, sần sùi... nhất là ở người già, nếu xuất hiện tình trạng thiếu máu mà nguyên nhân không rõ ràng thì nên cảnh giác với bệnh ung thư đại tràng hoặc ung thư ở hệ thống tiêu hóa.
PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐƠN GIẢN VÀ THUẬN TIỆN NHẤT LÀ KIỂM TRA PHÂN
Đầu tiên tiến hành kiểm tra trực tràng. Bác sỹ đưa ngón tay trỏ vào hậu môn, trực tiếp kiểm tra phần trong của trực tràng và hậu môn, 90% bệnh ung thư đại tràng có thể được phát hiện thông qua phương pháp kiểm tra này.
Tiếp đó là kiểm tra phân để xem phân có bị lẫn máu hay không. Trước đây, do không thể phân biệt được máu của các loại cá, thịt có trong thức ăn với máu của người bệnh nên khi kiểm tra phải nhịn ăn trước. Tuy nhiên, những năm trở lại đây, phương pháp kiểm tra miễn dịch học chỉ phản ứng với máu người nên trước khi kiểm tra không cần phải nhịn ăn. Nhưng phương pháp kiểm tra này cũng phản ứng với những bộ phận khác bị chảy máu như răng, dạ dày.
Tuy nhiên, người bệnh có bị mắc ung thư đại tràng, cũng không nhất thiết là hay đại tiện ra máu, bởi vậy, những người khi đại tiện thấy có hiện tượng bất thường hoặc thấy có bất thường ở phần bụng hoặc có những triệu chứng bất thường khác thì cũng nên chú ý, đừng thấy kết quả kiểm tra là âm tính mà mất cảnh giác.
UNG THƯ ĐẠI TRÀNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ
Phương pháp điều trị cơ bản là cắt bỏ phần bị bệnh, bao gồm 2 cách là cắt bằng gương nhìn trong và phẫu thuật ngoại khoa. Thông thường không sử dụng phương pháp hóa trị trong điều trị ung thư đại tràng. Tuy nhiên, những năm gần đây, đã có bệnh viện tiến hành thử điều trị bằng phương pháp điều trị kết hợp hóa trị và điều trị miễn dịch đối với những bệnh nhân không thể tiến hành phẫu thuật. Ngoài ra, trong việc điều trị ung thư trực tràng, có thể tùy theo tình trạng bệnh mà áp dụng phương pháp điều trị chạy tia phóng xạ. Phương pháp này chủ yếu áp dụng đối với những bệnh nhân mà tình trạng bệnh không cho phép tiến hành phẫu thuật hoặc bệnh tái phát, hoặc được sử dụng như một phương pháp điều trị nhằm phòng tránh bệnh tái phát. Phương pháp điều trị phóng xạ không tốt cho việc điều trị ung thư kết tràng, bởi vậy, phương pháp điều trị ung thư kết tràng thông thường không sử dụng phương pháp này.
PHƯƠNG PHÁP CẮT BỎ U THỊT
Cấu tạo của thành ruột ở đại tràng bao gồm các tầng như niêm mạc, tầng dưới niêm mạc, tầng hữu cơ cố định…
Khối u nằm ở niêm mạc hoặc tầng dưới niêm mạc gọi là ung thư giai đoạn đầu. Phần nhô lên hình nấm từ niêm mạc hướng ra khoang ruột được gọi là u thịt. Những khối u thịt có đường kính dưới 1cm đa phần thuộc loại u lành tính, những u thịt có đường kính lớn hơn 1cm rất có khả năng là u ác tính một phần hoặc toàn bộ.
Khi tiến hành kiểm tra bằng cách đưa kính chiếu trong vào hậu môn, nếu phát hiện ra u thịt hoặc u ác tính giai đoạn đầu ở tầng dưới niêm mạc, đôi khi có thể tiến hành cắt trực tiếp. Đẩy từ đầu gương chiếu trong ra một vòng dây thép mảnh, thòng vòng dây qua u thịt hoặc u ác tính rồi cho dòng điện có bước sóng cao chạy qua để đốt đứt u thịt.
U ác tính có thể không có dạng hình nấm mà là u hình dẹt. Nếu gặp phải tình huống này, thông thường nước muối sinh lí sẽ được tiêm vào niêm mạc tại vùng xung quanh khối u để làm phồng lên rồi tiến hành cắt.
Có một điểm khác biệt với dạ dày là những u lành tính ở đại tràng cũng có khoảng 10% khả năng biến thành u ác tính. Bởi vậy, chỉ cần phát hiện ra u thịt thì cũng nên tiến hành cắt bỏ. Nếu u ác tính được phát hiện sớm, phạm vi nhiễm bệnh nhỏ, thì dù phát hiện ra nhiều khối u cũng đều có thể áp dụng phương pháp cắt u thịt để điều trị.
Phương pháp này có thể vừa tiến hành kiểm tra vừa tiến hành điều trị đồng thời, không mất nhiều thời gian, bộ phận bị thương chỉ hạn chế ở niêm mạc ruột nên bệnh nhân sẽ ít cảm thấy đau đớn.
PHƯƠNG PHÁP PHẪU THUẬT NGOẠI KHOA
Nếu u ác tính đã ăn đến tầng dưới niêm mạc hoặc tình trạng trở nên nghiêm trọng hơn thì phải tiến hành phẫu thuật ngoại khoa để cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ đại tràng. Dù đại tràng bị cắt bỏ gần hết thì cũng không có ảnh hưởng quá lớn đến việc hấp thụ và tiêu hóa.
Phẫu thuật trong ung thư kết tràng không tạo ra trở ngại về chức năng, bởi vậy có thể áp dụng phương pháp cắt bỏ rộng, ví dụ như kết tràng bên phải bị ung thư thì cắt một nửa kết tràng bên phải, nếu kết tràng bên trái bị ung thư thì cắt bỏ một nửa kết tràng bên trái.
Nhưng ở ung thư trực tràng thì lại có điểm khác, tùy vào vị trí mọc và mức độ bệnh mà sau khi phẫu thuật sẽ xuất hiện các triệu chứng khó tránh khỏi như gặp khó khăn ở các chức năng đại tiện, tiểu tiện, tình dục…
Những năm gần đây, tuy đã tìm ra được những phương pháp phẫu thuật có thể duy trì những chức năng trên một cách tối đa nhưng đôi khi cũng không thể áp dụng những chức năng đó, đồng thời phải đặt hậu môn nhân tạo.
3. VIÊM DẠ DÀY
KIỂM TRA SỨC KHỎE (CHÚ Ý NHỮNG TRIỆU CHỨNG DƯỚI ĐÂY)
- Có cảm thấy buồn nôn không?
- Có cảm thấy đau ở phần bụng trên không?
- Có cảm thấy khó chịu ở phần bụng trên không?
- Có cảm thấy không thèm ăn không?
- Có cảm giác muốn nôn không?
- Có thường xuyên ợ hơi không?
- Có từng bị nôn ra máu không?
- Phân có bị chuyển màu đen và có tia máu không?
- Có cảm giác đầy bụng không tiêu không?
Nếu xuất hiện những triệu chứng như trên thì bạn rất có khả năng đã bị mắc bệnh dạ dày. Dạ dày nằm ở phía trái, bên trong khoang bụng, đau dạ dày là biểu hiện đặc trưng của bệnh. Rất nhiều bệnh về dạ dày có thể làm đau dạ dày, trong đó bệnh thường gặp nhất là viêm dạ dày.
Viêm dạ dày, tức là viêm niêm mạc thành dạ dày, có thể chia thành 2 loại cấp tính và mãn tính, là loại bệnh thường gặp trong cuộc sống, gần như ai cũng đều từng mắc phải, hơn nữa số lượng những người bị viêm dạ dày mãn tính cũng không phải là ít.
Viêm dạ dày cấp tính chỉ triệu chứng viêm cấp tính phát sinh ở niêm mạc thành dạ dày, thông thường, chỉ cần loại bỏ nguyên nhân gây bệnh, sau vài ngày là bệnh sẽ khỏi. Viêm dạ dày mãn tính thì lại do viêm niêm mạc thành dạ dày nhiều lần dẫn đến làm phá vỡ, giảm ít hoặc làm mất tổ chức tuyến dạ dày tiết ra dịch dạ dày, rất khó chữa khỏi.
Trong điều trị bệnh viêm dạ dày, ngoài việc uống thuốc, việc hạn chế ăn uống, rèn luyện thói quen ăn uống điều độ, tránh áp lực, nghỉ ngơi đầy đủ, ngủ đủ giấc cũng rất quan trọng.
Một số người cho rằng đầy bụng, đau dạ dày chỉ là chuyện nhỏ, nhưng họ không biết rằng đằng sau những triệu chứng đó có thể ẩn chứa mầm mống gây bệnh không lường. Nếu không chữa trị triệt để bệnh có thể còn phát triển thành ung thư dạ dày.
NGUYÊN NHÂN PHÁT BỆNH CỦA BỆNH VIÊM DẠ DÀY CẤP VÀ MÃN TÍNH KHÔNG GIỐNG NHAU
Triệu chứng thường thấy dẫn đến viêm dạ dày cấp tính là do ăn uống vô độ.
Viêm dạ dày cấp tính do nguyên nhân từ bên ngoài được chia thành 2 loại: viêm dạ dày cấp tính đơn thuần và viêm dạ dày cấp tính ăn mòn.
Viêm dạ dày cấp tính đơn thuần thường do mấy nguyên nhân sau:
- Ăn quá nhiều thức ăn, đồ uống quá nóng hoặc quá lạnh - Ăn quá nhiều các chất kích thích như ớt, cà phê, uống quá nhiều rượu
- Tác dụng phụ của thuốc đôi khi cũng dẫn đến viêm dạ dày cấp tính đơn thuần.
Ngoài những nguyên nhân trên, những áp lực về tinh thần, sinh lí, quá mệt mỏi hoặc mất ngủ, chụp chiếu phóng xạ… đôi khi cũng gây ra viêm dạ dày cấp tính đơn thuần.
Viêm dạ dày cấp tính ăn mòn thường là do uống thuốc sâu, hoặc do uống những loại thuốc có tính axít và tính kiềm cao. Viêm dạ dày cấp tính do nguyên nhân bên trong.
Viêm dạ dày cấp tính do nguyên nhân bên trong được chia thành 3 loại: viêm dạ dày nhiễm trùng cấp tính, viêm dạ dày sinh mủ cấp tính và viêm dạ dày dị ứng cấp tính.
Viêm dạ dày cấp tính do vi khuẩn hoặc virút gây ra gọi là viêm dạ dày cấp tính nhiễm trùng. Kiểu viêm dạ dày này thường do bệnh cảm cúm gây ra.
Viêm dạ dày sinh mủ cấp tính thường do các loại vi rút được sản sinh từ những cơ quan bên cạnh, di chuyển đến tầng dưới niêm mạc dạ dày gây ra hiện tượng sinh mủ.
Ngoài ra, viêm dạ dày cấp tính do ăn uống còn gọi là viêm dạ dày dị ứng.
Bệnh viêm dạ dày mãn tính có liên quan đến nhiều yếu tố. Nguyên nhân gây viêm dạ dày mãn tính:
- Do mắc nhiều lần chữa không khỏi dứt điểm
- Do thuốc hoặc thức ăn kích thích
- Do yếu tố miễn dịch
- Do nhiễm trùng
PHÒNG TRÁNH VÀ ĐIỀU TRỊ VIÊM DẠ DÀY CHỦ YẾU LÀ ĐIỀU CHỈNH CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG
Phương pháp nhịn ăn là một phương pháp rất hiệu quả trong điều trị viêm dạ dày cấp tính.
Phương pháp nhịn ăn tức là nhịn ăn trong vòng 1 ngày chỉ uống nước. Nếu bệnh nhẹ thì với phương pháp này, bệnh sẽ giảm nhẹ đáng kể. Sau khi triệu chứng bệnh đã hết có thể ăn chút cháo hoặc những thức ăn dễ tiêu hóa, bắt đầu khoảng ngày thứ 3 là có thể ăn trở lại như bình thường.
Nếu nguyên nhân gây bệnh là do tác dụng phụ của thuốc, đầu tiên phải tạm ngừng sử dụng thuốc, đồng thời phải chú ý ăn những thức ăn không chứa chất kích thích và dễ tiêu hóa. Như vậy, triệu chứng bệnh sẽ tự biến mất. Tuy nhiên, nếu không được dừng việc dùng thuốc thì nên hỏi ý kiến của bác sỹ. Có thể giảm liều lượng thuốc, thay loại thuốc khác hoặc uống thêm loại thuốc bảo vệ niêm mạc dạ dày… Nếu là viêm dạ dày ăn mòn cấp tính thì phải lập tức đến bệnh viện để rửa dạ dày. Nếu không kịp thời cứu chữa, có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Viêm dạ dày nhiễm trùng cấp tính nhất thiết phải dùng thuốc kháng sinh, viêm dạ dày sinh mủ cấp tính phải tiến hành phẫu thuật. Nguyên nhân dẫn đến viêm dạ dày dị ứng cấp tính là do thể chất của từng người, bởi vậy, nên kiêng ăn những đồ ăn dẫn đến những phát sinh bệnh.
VIÊM DẠ DÀY MÃN TÍNH
Niêm mạc dạ dày một khi đã co lại thì khó có thể trở về hình dạng ban đầu. Vì vậy, đầu tiên nên loại bỏ nguyên nhân gây ra bệnh, loại bỏ tất cả các yếu tố có khả năng gây ra bệnh.
Tránh hoặc kiêng ăn các loại thức ăn gây kích thích cho dạ dày như thuốc lá, rượu, quản lí chặt chẽ chế độ ăn uống, ăn những thức ăn nhiều dinh dưỡng nhưng lại dễ tiêu, không ăn uống quá độ.
Đảm bảo đầy đủ thời gian nghỉ ngơi, ngủ đủ giấc, tránh căng thẳng thần kinh và mệt mỏi quá mức, duy trì thái độ lạc quan.
HỎI ĐÁP
Hỏi: Tại sao phải ăn sáng?
Đáp: Trong nhóm người là học sinh và công chức, có một số người quen không ăn sáng, thói quen này có ảnh hưởng không tốt đến dạ dày. Khi ngủ, lượng dịch vị được tiết ra ít, nhưng sau khi tỉnh dậy, lượng dịch vị tiết ra nhiều hơn. Nếu không ăn sáng, tức là không cung cấp thứ gì để tiêu hóa, như vậy, dịch vị sẽ kích thích trực tiếp lên niêm mạc dạ dày, làm tổn thương dạ dày.
Hỏi: Nếu tình trạng dạ dày không được tốt, liệu có thể có thai được không?
Đáp: Nếu quá nghén, sẽ không ăn được, như vậy những người mà dạ dày vốn đã không tốt, có thể sẽ lo lắng rằng mình không thích hợp để có thai. Trên thực tế, dù có mắc bệnh gì về dạ dày thì cũng
sẽ không gây ảnh hưởng gì xấu đến quá trình mang thai. Chỉ cần trước khi mang thai nên đề cập trước với bác sỹ sản khoa để họ có thể áp dụng các biện pháp thích hợp.
4. GAN NHIỄM MỠ
Kiểm tra sức khỏe (chú ý những triệu chứng dưới đây). - Có cảm thấy dễ mệt mỏi không?
- Có thường cảm thấy toàn thân mệt mỏi, không có sức lực? - Bên phải phía trên vùng bụng có cảm giác nặng không? - Sau khi ăn xong có thường cảm thấy đầy bụng?
- Có thường xuyên táo bón không?
- Có béo phì không?
- Có phải cân nặng dần dần tăng lên không?
- Có hay uống rượu hay không?
- Đường máu có hơi cao không?
Nếu bạn có những triệu chứng trên thì phải cẩn thận, bạn rất có thể đã mắc bệnh gan nhiễm mỡ.
Những người bình thường lượng mỡ ở trong gan chiếm 3% - 5% trọng lượng của gan, nếu lượng mỡ vượt 10% trọng lượng của gan thì sẽ hình thành gan nhiễm mỡ. Bệnh gan nhiễm mỡ thường gặp ở những người trưởng thành ở độ tuổi 30 tuổi trở lên, chủ yếu là nam giới. Trong đó, nam giới thường phát bệnh sau 40 tuổi, phụ nữ thường phát bệnh sau 45 tuổi.
Nguyên nhân gây bệnh có liên quan đến việc ăn uống quá độ, uống rượu nhiều. Giai đoạn đầu thường không có triệu chứng gì nhưng khi lượng mỡ gan đã trở nên nghiêm trọng thì sẽ xuất hiện các triệu chứng bệnh như: dễ mệt mỏi, mất ngủ, kém ăn, chức năng của dạ dày, ruột rối loạn, đau gan… ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cơ thể.
Nếu không kiểm soát được tình trạng bệnh, gan nhiễm mỡ sẽ phát triển thành xơ gan, gan khi đã bị xơ thì không thể chữa chạy được, người mắc bệnh sẽ chết do chức năng của gan suy kiệt.
Bởi vậy, nói gan nhiễm mỡ không phải là bệnh là hoàn toàn sai lầm. Chúng ta nên phòng tránh bệnh, phát hiện sớm bệnh, sớm chữa trị, ngăn ngừa gan nhiễm mỡ chuyển sang xơ gan. Gan có ý nghĩa rất quan trọng đối với sức khỏe của con người.
Gan nằm ở vị trí bên phải, phía trên của khoang bụng, nằm ngang ở phía trên, chia thành 2 phần: lá trái và lá phải. Gan chủ yếu do tế bào gan cấu thành ngoài ra trong gan còn có động mạch gan, tĩnh mạch gan, tĩnh mạch cửa, ống mật…
Gan là một trong những cơ quan quan trọng nhất của con người, có chức năng sinh lí sinh hóa rất phức tạp. Các chức năng của gan gồm có: tạo ra dịch mật, tạo ra và tích trữ chất dinh dưỡng, xử lí các chất độc, tạo ra chất làm đông máu, là kho chứa máu, xử lí hồng cầu, xử lí những kích thích tố không cần thiết, xử lí những dị vật đưa vào trong cơ thể.
GAN NHIỄM MỠ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG THÓI QUEN SINH HOẠT XẤU Gan chỉ là nơi hợp thành, vận chuyển và tận dụng mỡ chứ không phải nơi tích trữ mỡ. Khi sự phân giải và hợp thành của mỡ trong gan bị rối loạn, hoặc sự vận chuyển gặp phải trở ngại, mỡ sẽ được tích lại trong tế bào gan, tạo thành gan nhiễm mỡ.
Có rất nhiều yếu tố tạo nên gan nhiễm mỡ, trong đó yếu tố thường gặp nhất là quá thừa dinh dưỡng, cồn và bệnh tiểu đường, mà những nguyên nhân gây bệnh này đều có liên quan mật thiết đến những thói quen sinh hoạt xấu.
DINH DƯỠNG QUÁ THỪA
Thường xuyên ăn những thức ăn chứa nhiều mỡ, nhiều đường, nhiều tinh bột không những làm tăng trọng lượng cơ thể mà còn có thể làm tăng lượng mỡ trong gan, dẫn đến gan nhiễm mỡ. Những người có trọng lượng cơ thể vượt 20% so với tiêu chuẩn, hơn một nửa trong số đó có khả năng mắc bệnh gan nhiễm mỡ.
NGHIỆN RƯỢU
Cồn sau khi vào trong cơ thể, chủ yếu được phân giải và lọc trong gan, độc tính của cồn tác động lên hồng cầu khiến cho hồng cầu cản trở việc phân giải mỡ trong gan, làm cho mỡ bị kết tủa lại và tạo thành gan nhiễm mỡ. Uống càng nhiều rượu, thì gan nhiễm mỡ càng nghiêm trọng. Những người mỗi ngày uống 80 – 120 ml rượu, liên tục trong 8 - 10 năm thì 90% mắc bệnh gan nhiễm mỡ sau chuyển sang xơ gan.
ĐÁI ĐƯỜNG
Khoảng một nửa số người mắc bệnh đái đường tuýp 2 thường mắc cả bệnh gan nhiễm mỡ, đó là bởi vì đường glucô và axít lipit trong cơ thể người bệnh không được tận dụng triệt để, quá trình hợp thành lipoprotein cũng gặp trở ngại, đa phần đường glucô và axít lipit được chuyển hóa thành mỡ, tích tụ lại trong gan dẫn đến gan nhiễm mỡ.
MỘT SỐ LOẠI THUỐC VÀ CHẤT ĐỘC HÓA HỌC
Một số chất hóa học có thể làm gây ra bệnh mỡ gan bởi vì chúng có khả năng cản trở sự hợp thành và vận chuyển lipoprotein, triglyceride trong gan không được giải phóng, tích lại trong gan dẫn đến phát bệnh.
DINH DƯỠNG KHÔNG TỐT
Nhịn đói trong một thời gian dài hoặc gặp khó khăn trong việc tiêu hóa, do cơ thể thiếu protein làm thiếu nguyên liệu vận chuyển lipoprotein dẫn đến việc triglyceride bị tích lại phát sinh ra bệnh gan nhiễm mỡ.
CÁC NGUYÊN NHÂN KHÁC
Các bệnh viêm, hạch, viêm phổi do vi khuẩn, hoặc chứng bại huyết phá vỡ tính hoàn chỉnh của màng tế bào gan, dẫn đến quá trình trao đổi mỡ trong gan trở nên không bình thường hoặc tế bào gan thiếu ôxy dẫn đến gan nhiễm mỡ.
CHỈ KHI BỆNH PHÁT TRIỂN NẶNG THÌ MỚI CẢM THẤY CÓ TRIỆU CHỨNG BỆNH
Nếu trong tế bào gan chứa đầy mỡ, tế bào sẽ bị phình to, ép lên mạch máu trong gan, dẫn đến tuần hoàn máu trong gan kém, từ đó làm giảm chức năng của gan, cả cơ thể sẽ trở nên mệt mỏi, không có sức. Tuy nhiên, đa phần những người mắc bệnh gan nhiễm mỡ giai đoạn đầu đều không cảm thấy được triệu chứng của bệnh, rất nhiều người chỉ sau khi kiểm tra sức khỏe hoặc tiến hành kiểm tra các bệnh khác mới ngẫu nhiên phát hiện ra.
Khi bệnh đã ở vào giai đoạn nặng, sẽ xuất hiện các triệu chứng như: đầy bụng, toàn thân mệt mỏi, ăn không ngon, chóng mặt, bạch cầu tăng cao, khó chịu hoặc đau ở vùng bụng phải trên…
Nếu bệnh tình tiếp tục phát triển, tế bào gan sẽ bị hoại tử, tổ chức xơ tăng lên, hình thành hiện tượng xơ gan. Triệu chứng của bệnh xơ gan giai đoạn đầu cũng giống với bệnh mỡ gan, ở giai đoạn cuối sẽ xuất hiện các triệu chứng như: phù nước ở bụng, vàng da, tĩnh mạch thực quản co lại, chảy máu, hôn mê… cuối cùng dẫn đến tử vong do suy kiệt chức năng gan.
PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA CHÍNH XÁC ĐẦU TIÊN LÀ SIÊU ÂM
Siêu âm không có hại gì đối với cơ thể người, có thể siêu âm nhiều lần, giá rẻ, 95% những bệnh nhân mắc bệnh gan nhiễm mỡ có thể chẩn đoán bệnh qua siêu âm. Nếu siêu âm không chẩn đoán được bệnh thì có thể tiến hành chụp CT.
Nguyên tắc trong việc điều trị và phòng tránh bệnh là điều chỉnh chế độ ăn uống, bỏ rượu và phải thường xuyên vận động.
ĐIỀU CHỈNH CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG Đối với bệnh gan nhiễm mỡ do dinh dưỡng quá thừa hoặc do béo phì thì trọng điểm của phương pháp điều chỉnh chế độ ăn uống là phải giảm lượng.
Lấy trọng lượng cơ thể nhân với 25kcal thì có thể tính được lượng nhiệt lượng thích hợp đưa vào cơ thể mỗi ngày, lấy chiều cao 1.70m làm ví dụ.
(170 - 100) x 0.9 = 63kg (cân nặng tiêu chuẩn)
63 x 25 = 1575kcal
Nên ăn các loại thức ăn nhiều protein, nhiều vitamin, ít đường, ít mỡ; không ăn hoặc hạn chế ăn nội tạng động vật, lòng đỏ trứng, gạch cua… nên ăn nhiều rau xanh và hoa quả có chứa nhiều chất xơ; sữa chua, tỏi, hành tây, nấm hương, mộc nhĩ, sơn trà, đậu xanh… đều có tác dụng làm giảm mỡ.
Ngoài ra, các loại đường có thể chuyển hóa thành mỡ trong cơ thể, làm bệnh nặng thêm, bởi vậy, không nên ăn hoặc ăn ít những đồ ăn ngọt (kể cả các loại nước ngọt). Ngoài ra còn phải chú ý đến thói quen ăn uống, không nên ăn vặt, trước khi đi ngủ không nên ăn đêm.
PHƯƠNG PHÁP VẬN ĐỘNG
Khi điều trị bệnh, ngoài việc kiểm soát chế độ ăn uống, đồng thời cũng phải tiến hành vận động để tiêu hao nhiệt lượng. Tuy nhiên, phải duy trì vận động trong một thời gian dài và không được nóng vội.
Cách tận dụng nhiệt lượng của cơ thể có thứ tự nhất định. Thứ được tiêu hao trong giai đoạn vận động đầu tiên chính là đường chứa trong gan. Muốn tiêu hao hết số đường đó, cần khoảng 20 phút, tiếp đó mới tiêu hao đến lượng mỡ chứa dưới da hoặc ở trong
gan. Bởi vậy, phải vận động ít nhất là 30 – 40 phút thì mới có tác dụng.
Có thể nói, đi bộ là hình thức vận động phù hợp nhất, nếu có thể bước nhanh, chỉ cần mỗi ngày hoặc hai ngày đi bộ trên 8.000 – 10.000 bước, lượng mỡ trong gan sẽ dần dần giảm đi, cứ duy trì như vậy thì chỉ cần 1 tháng là bệnh đã có thể được chữa khỏi.
HỎI ĐÁP
Hỏi: Bệnh viện chẩn đoán tôi bị mắc bệnh gan nhiễm mỡ do béo phì, bình thường thì không thấy có triệu chứng gì gây khó chịu. Nếu không điều trị thì có hậu quả gì xảy ra không?
Đáp: Bản thân căn bệnh gan nhiễm mỡ do béo phì không phải là bệnh gì nguy hiểm, không giống như gan nhiễm mỡ do cồn, dễ dẫn đến xơ gan. Tuy nhiên, khi gan đã chứa một lượng mỡ lớn thì có nghĩ là dưới da và ở các bộ phận nội tạng khác và huyết quản cũng đã có chứa mỡ. Bởi vậy, nếu không điều trị, nguy cơ mắc các bệnh như xơ cứng động mạch, bệnh tim, tắc mạch máu não… sẽ tăng cao.
5. CẢM CÚM
KIỂM TRA SỨC KHỎE (CHÚ Ý NHỮNG TRIỆU CHỨNG DƯỚI ĐÂY)
- Có sổ mũi không?
- Có tịt mũi không?
- Có thường xuyên hắt hơi không?
- Có đau họng không?
- Có đờm trong họng không?
- Có sốt không?
- Có đau đầu không?
- Có cảm thấy toàn thân mệt mỏi không?
- Có cảm thấy lạnh không?
Các biểu hiện trên đều là triệu chứng của bệnh cảm cúm. Bệnh cúm mà bình thường chúng ta đề cập đến trên thực tế là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính. Đa phần bệnh cảm cúm là do vi rút gây ra, ngoài bệnh cảm cúm thông thường, còn có viêm họng, viêm khí quản… Về việc điều trị, ngoài việc dùng thuốc, còn phải kết hợp nghỉ ngơi đầy đủ, bổ sung dinh dưỡng và bổ sung nước.
Có một số người cho rằng cảm cúm chỉ là bệnh nhẹ, có thể tự khỏi, thực ra, sau khi khỏi cúm, sức đề kháng của con người rất thấp, nếu không kịp thời kiểm soát tình hình bệnh thì các vi rút khác hoặc vi khuẩn khác sẽ nhân cơ hội mà xâm nhập vào cơ thể gây ra các bệnh khác như viêm cơ tim, viêm thận… gây nguy hại đến sức khỏe con người bởi vậy, bệnh cảm cúm phải được chữa trị kịp thời.
Đa phần bệnh cúm là do vi rút gây ra.
NGUYÊN NHÂN GÂY RA CẢM CÚM
80% - 90% bệnh cúm là do vi rút gây ra. Đó là những vi sinh vật chỉ có thể nhìn thấy được qua kính hiển vi, xâm nhập vào tế bào của cơ thể người hoặc động vật rồi sinh sôi nảy nở, dẫn đến các chứng bệnh khác nhau.
Trong số những vi rút gây ra bệnh cảm cúm, đã xác định được 9 loại bao gồm: vi rút mũi, vi rút dạng mào, vi rút bệnh cúm lưu hành, vi rút bệnh cúm lưu cảm phụ, vi rút RS, vi rút tuyến, vi rút coxsackie, vi rút echo, vi rút hợp bào đường hô hấp.
Mỗi loại vi rút lại có thể chia thành nhiều loại nhỏ, tổng cộng có tới hơn 200 loại, mỗi loại vi rút lại có những triệu chứng bệnh khác nhau.
Con đường lây nhiễm và nguyên nhân phát bệnh: Con đường lây nhiễm thông thường nhất là người mắc bệnh ho hoặc hắt hơi làm bắn các vi sinh vật mang mầm bệnh ra không khí, những người khác hít phải không khí đó và bị nhiễm bệnh. Bởi vậy, ở những nơi đông người rất dễ bị mắc bệnh cảm cúm. Ngoài ra, vi sinh vật sau khi từ trong không khí hạ xuống mặt đất, nó sẽ theo bụi cát bay lên trong không khí, người hít phải sẽ mắc bệnh. Bởi vậy, những nơi bụi bặm cũng dễ mắc bệnh cảm cúm. Nguyên nhân dẫn đến mùa đông dễ bị cảm cúm: Mỗi năm, vào mùa đông lại có rất nhiều người bị cảm cúm. Nguyên nhân thì nhiều nhưng nguyên nhân chủ yếu là do không khí lạnh.
Mùa đông, nhiệt độ hạ thấp, vi rút bắt đầu phát triển mạnh, do nhiễm lạnh, con người dễ hắt hơi, sổ mũi, tỉ lệ truyền nhiễm bệnh càng cao. Ngoài ra, môi trường mùa đông thường hanh khô, nhiều bụi, những vi rút ở trên mặt đất theo bụi bay vào không khí, người nào hít phải sẽ bị nhiễm bệnh.
Đương nhiên, mùa hè cũng có nhiều người bị mắc bệnh cảm cúm, chủ yếu là do những vi rút như vi rút tuyến, vi rút coxsackie, vi rút echo… gây ra, đặc điểm của những vi rút này là khả năng lây nhiễm rất mạnh trong môi trường nhiệt độ cao.
CẢM CÚM Ở TRẺ NHỎ
Trẻ nhỏ cảm cúm đa phần đều do vi rút gây ra, kiểu vi rút, vị trí bị lây nhiễm trên đường hô hấp và những triệu chứng của bệnh thì rất khác nhau.
Khi trẻ bị cảm cúm, phải đặc biệt chú ý kiểm tra tình trạng hô hấp của trẻ, bởi vì, đôi khi có thể xuất hiện hiện tượng khó thở, có thể nguy hiểm đến tính mạng. Nếu phát hiện thấy trẻ có tình trạng khó thở phải đưa ngay đến bệnh viện cấp cứu.
Phương pháp điều trị chủ yếu là uống thuốc kết hợp nghỉ ngơi.
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ TẠI NHÀ Để phát huy được sức đề kháng của bản thân, nên giành nhiều thời gian ở nhà nghỉ ngơi, duy trì sự yên tĩnh, ngủ đủ giấc, tránh tiêu hao thể lực, bổ sung nước và dinh dưỡng cũng rất quan trọng. Khi bị cảm cúm, cảm giác thèm ăn và khả năng tiêu hóa giảm xuống, bởi vậy, nên ăn những thứ đồ ăn có nhiều nước, dễ tiêu như cháo, canh… Để bổ sung chất điện giải, có thể uống những thức uống vận động để bổ sung lượng nước.
Cần chú ý cả nhiệt độ và độ ẩm trong phòng. Nhiệt độ và độ ẩm trong phòng thấp, vi rút cúm càng hoạt động mạnh. Hơn nữa, không khí lạnh sẽ kích thích lên niêm mạc của mũi và họng, gây ra viêm.
Nếu không sốt, thông thường có thể tắm. Nhưng để tránh làm tiêu hao thể lực, không nên tắm lâu, hơn nữa, phải chú ý không để bị lạnh sau khi tắm. Khi sốt không nên tắm. Khi đi ra ngoài, nên tránh những nơi đông người, nên về nhà sớm để nghỉ ngơi, đảm bảo ngủ đủ giấc.
Hút thuốc sẽ kích thích niêm mạc ở cổ họng, bởi vậy, khi bị cảm cúm không nên hút thuốc.
Ngoài ra, nếu mắc bệnh vài hôm mà cứ sốt cao không hạ sốt, xuất hiện hiện tượng khó thở hoặc đau ngực hoặc tình trạng bệnh kéo dài hơn 1 tuần mà không đỡ thì phải đi bệnh viện để khám và điều trị.
CÁCH DÙNG THUỐC
Khi bị sổ mũi, tắc mũi, có thể dùng các loại thuốc chống dị ứng hoặc nhỏ thuốc mũi. Thuốc nhỏ mũi có tác dụng phụ nên khi nhỏ thuốc không nên lái xe.
Khi toàn thân mệt mỏi, sốt, nên dùng thuốc hạ sốt.
Sốt là phản ứng phòng vệ của cơ thể trước vi sinh vật mang mầm bệnh. Khi nhiệt độ cơ thể tăng lên, vi rút và vi khuẩn không còn khả năng sinh sôi và sẽ chết đi. Bởi vậy, không nên tùy tiện uống thuốc hạ sốt.
Thông thường, khi sốt làm cho cơ thể mệt mỏi, tiêu hao sức lực quá nhiều, không còn khả năng phát huy tác dụng sức đề kháng tự nhiên thì nên uống thuốc hạ sốt. Nhưng thuốc hạ sốt có nhiều tác dụng phụ, nên uống theo sự chỉ dẫn của bác sỹ.
Khi ho nhiều và cơ thể mệt mỏi, nên uống thuốc ho. Nếu nhiều đờm có thể uống thuốc long đờm.
10 điểm cần chú ý khi bị cúm:
1. Nên nghỉ ngơi tĩnh dưỡng
2. Uống đúng thuốc
3. Giữ nhiệt độ phòng ở khoảng 200C
4. Giữ độ ẩm trong phòng ở khoảng 70%
5. Khi ăn không ngon miệng, không nên ép ăn, cố gắng ăn những thức ăn bổ dưỡng, dễ tiêu hóa.
6. Bổ sung nước
7. Trước khi bệnh đỡ không nên ra ngoài
8. Khi sốt không được tắm
9. Những người đang mắc các bệnh khác trước khi bị cúm, trẻ em và phụ nữ có thai, khi dùng thuốc phải hết sức thận trọng. 10. Nếu xuất hiện tình trạng sốt liên tục phải lập tức đến bệnh viện kiểm tra.
PHÒNG TRÁNH CẢM CÚM
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG TRÁNH THÔNG THƯỜNG
Muốn phòng tránh cảm cúm, trước tiên không nên đến những nơi dễ phát sinh lây nhiễm bệnh. Tuy nhiên, trên thực tế, điều đó là rất khó bởi trong cuộc sống thường ngày, những nơi dễ phát sinh lây nhiễm nhất như nhà vệ sinh công cộng, xe buýt, trường học, nơi làm việc… lại là những nơi mà ta thường xuyên phải lui tới.
Chú ý đến cân bằng dinh dưỡng, ăn nhiều protein và vitamin, ngủ đủ giấc, không làm việc quá mệt mỏi, tránh dồn nén nhiều áp lực. Nên thường xuyên tập thể dục, rèn luyện thân thể, tăng cường sức đề kháng của cơ thể. Đó là những cách phòng tránh cảm cúm rất hiệu quả. Khi đi đâu về nhà nên rửa tay bằng nước ấm, súc miệng sạch sẽ.
Khi ở nhà, nên chú ý nhiệt độ, độ ẩm trong phòng, nhà phải thông gió, thoáng mát. Môi trường hanh khô là môi trường rất thích hợp đối với vi rút cúm. Bởi vậy, cần tăng thêm độ ẩm cho căn phòng bằng thiết bị làm ẩm.
Vi rút cúm có thể luồn qua các khe của khẩu trang, bởi vậy, đeo khẩu trang không có nghĩa là đã an toàn. Tuy nhiên, người mắc bệnh đeo khẩu trang có thể ngăn được vi rút phát tán ít, không làm khô cổ họng, cũng có tác dụng trong việc phòng tránh bệnh.
HỎI ĐÁP
Hỏi: Sắp làm mẹ mà bị cúm thì phải làm thế nào? Đáp: Theo các chuyên gia, dùng thuốc trong thời kỳ mang thai không phải là tuyệt đối an toàn cho thai nhi, bao gồm cả một số loại thuốc bắc. Dùng thuốc trong thời kỳ mang thai phải tuân thủ theo sự chỉ dẫn của bác sỹ. Nguyên tắc khi quyết định phụ nữ mang thai có thể uống thuốc chữa cảm cúm hay không, đó là: những loại thuốc có lợi nhiều cho bà mẹ và ít nguy hiểm cho thai nhi mới nên cân nhắc sử dụng, nếu có thể, trong 3 tháng đầu không nên dùng bất kỳ một loại thuốc nào.
Hỏi: Bị cúm rồi có thể đi xông hơi được không? Đáp: Có một số người mắc bệnh cúm muốn đi xông hơi để cho ra nhiều mồ hôi nhằm loại bỏ một cách nhanh chóng các vi rút và vi khuẩn gây bệnh. Nghiên cứu chỉ ra rằng, làm như vậy sẽ làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể. Tốt nhất là nên nghỉ ngơi hoặc vận động nhẹ nhàng.
Hỏi: Trẻ nhỏ khi bị cúm có thể ăn nhiều ngọt không? Đáp: Trẻ em khi bị cúm, sốt, không nên ăn nhiều đồ ngọt. Bởi vì, khi cơ thể không được khỏe thì dịch tiêu hóa tiết ra ít, hoạt động của dạ dày chậm lại, chức năng tiêu hóa thất thường nên ăn không ngon miệng. Ăn nhiều đồ ngọt sẽ làm tiêu hao đi lượng vitamin trong cơ thể, cơ thể nếu thiếu vitamin thì miệng sẽ tiết ít nước bọt, gây cảm giác chán ăn. Đặc biệt là khi ăn nhiều đồ ngọt trước bữa ăn sẽ làm lượng đường trong máu tăng cao. Hơn nữa, ăn nhiều đồ ngọt cũng không có lợi cho việc nâng cao sức đề kháng của cơ thể. Trẻ nhỏ khi cảm cúm nên uống nhiều nước, vừa có tác dụng hạ nhiệt, vừa đào thải được những chất có hại trong cơ thể ra bên ngoài, chủ yếu ăn những thức ăn bổ dưỡng, dễ tiêu hóa.
6. VIÊM PHỔI
Viêm phổi là một bệnh rất nặng của hệ thống hô hấp và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra cái chết ở con người. Theo điều tra của Tổ chức Y tế thế giới, tỉ lệ người chết vì bệnh viêm phổi chiếm 75% tỉ lệ người chết vì các bệnh về đường hô hấp.
Do sự tiến bộ của y học hiện nay, có rất nhiều người bệnh đã được chữa khỏi thông qua điều trị bằng thuốc và các phương pháp điều trị mang tính bổ trợ. Tuy nhiên, do nguyên nhân gây bệnh khá phức tạp nên tỉ lệ tử vong là khá cao ở nhóm người già, trẻ sơ sinh và những người có sức đề kháng kém.
NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH
Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra bệnh viêm phổi. Thông thường, đường hô hấp bên trong cơ thể có cơ chế phòng ngự khá mạnh, mầm bệnh sau khi xâm nhập vào cơ thể không nhất định là phải phát bệnh. Nhưng vì một lí do nào đó mà khả năng đề kháng của cơ thể bị giảm sút thì nguy cơ phát bệnh sẽ cao. Nguyên nhân gây bệnh bao gồm:
1. Đường hô hấp trên bị nhiễm vi rút.
2. Nhiễm lạnh đột ngột, đói, mệt, say rượu… giảm sức đề kháng, giảm khả năng miễn dịch.
3. Dùng các thuốc gây mê, gây tê, thuốc an thần quá liều. 4. Mắc các bệnh khác như hệ thống miễn dịch khiếm khuyết, đái đường, thận….
Các biểu hiện thường gặp ở bệnh viêm phổi:
Nguyên nhân gây bệnh khác nhau thì bệnh sẽ có những biểu hiện khác nhau, nhưng về cơ bản đều sốt, ho, thở gấp, đôi khi có thể ho khan nhưng đa phần là ho có đờm. Nếu sốt cao, người bệnh thường cảm thấy lạnh.
VIÊM PHỔI DO VI RÚT SONG CẦU Bệnh thường phát cấp tính, sốt cao và lạnh. Khi ho có thể có đờm màu xanh lá cây, hoặc trong đờm có máu. Trước khi phát bệnh, người bệnh thường hay viêm đường hô hấp do vi rút.
VIÊM PHỔI DO THỰC KHUẨN Khác với viêm phổi do vi rút song cầu, bệnh thường phát triển chậm, nên thường người bệnh không cảm nhận thấy, triệu chứng chính là ho khan, sốt không cao quá, ít lạnh, người trẻ dễ mắc nhất, người già và trẻ nhỏ cũng dễ mắc bệnh.
VIÊM PHỔI VIÊM PHỔI DO VI KHUẨN CẦU NHO
Tình trạng bệnh thường khá nặng. Người bệnh thường phải nằm viện do một căn bệnh phức tạp khác, chức năng phòng ngự của cơ thể bị tổn thương, hoặc gần đây có sử dụng kháng sinh.
VIÊM PHỔI QUÂN ĐOÀN
Bệnh thường rất nghiêm trọng, không những hệ thống hô hấp gặp trở ngại mà còn xuất hiện tình trạng khó thở, ngoài ra, còn có thể xuất hiện các hiện tượng khác thường ở ruột, dạ dày, thần kinh trung ương, gan, thận…
VIÊM PHỔI DO VI RÚT
Bệnh phát triển chậm, biểu hiện của bệnh là đau đầu, người yếu, cơ bắp đau nhức, sốt, ho, ho khan hoặc có ít đờm. Trong vòng 12 – 36 tiếng, xuất hiện hiện tượng thở gấp, khó thở, thậm chí không thở được.
PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA DỰA VÀO CÁC TRIỆU CHỨNG ĐẶC TRƯNG, CHỤP X QUANG VÀ KIỂM TRA HÓA NGHIỆM
CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG
Trước tiên, phải xác định xem có phải là bị viêm phổi hay không. Thông thường, nếu bệnh nhân ho, ho có đờm, sốt cao, đau ngực và phim chụp X quang phần ngực cho hình ảnh bất thường thì có thể chẩn đoán là bị viêm phổi.
Sau khi chứng thực được đúng là bị viêm phổi thì phải nhận định xem là thuộc dạng nào.
CHỤP X QUANG
Đây là phương pháp đơn giản nhất để chẩn đoán bệnh viêm phổi, không những có thể xác định được rõ bệnh nhân có bị viêm phổi hay không, phương pháp này còn có thể cho biết phạm vi và sự phân bố của bệnh.
KIỂM TRA ĐỜM VÀ KIỂM TRA MÁU Việc kiểm tra đờm là rất quan trọng. Đối với đa số các vi khuẩn gây ra viêm phổi, kiểm tra đờm qua kính hiển vi có thể phát hiện được một số lượng lớn vi khuẩn và tế bào hạt trung tính. Ngoài ra, còn có thể tiến hành nuôi vi khuẩn đờm, kiểm tra máu. Điều trị bệnh sớm có thể phòng tránh được các bệnh kéo theo. Người mắc bệnh viêm phổi phải kịp thời đến bệnh viện để điều trị, đa phần đều phải nhập viện để điều trị. Nếu không được điều trị sớm, có thể tránh được mắc các bệnh khác như giãn khí quản, xơ hóa phổi, viêm màng não, viêm màng tim, viêm khớp… Bởi vậy, khi
phát hiện ra bệnh phải tiến hành điều trị ngay, trong quá trình điều trị cũng phải chú ý đến những bệnh kể trên.
Người bệnh ngoài dùng thuốc phải nằm trên giường nghỉ ngơi, ăn những thức ăn thanh đạm dễ tiêu hóa, ăn nhiều đồ ăn có chứa nhiều vitamin như hoa quả, rau xanh, khi bị sốt nên uống nhiều nước để bổ sung nước cho cơ thể.
NGƯỜI BỆNH KHÔNG NÊN ĂN QUÁ NO
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ, việc ăn quá no rất có hại đối với người mắc bệnh viêm phổi, có thể dẫn đến tình trạng khó thở, thở đứt quãng, thậm chí có thể làm cho tim ngừng đập, nguy hiểm đến tính mạng.
Nguyên nhân là do, khi người bệnh ăn quá no, dạ dày quá đầy sẽ đẩy lên phía trên, ép vào phổi. Bản thân người bệnh đã không lấy được đủ ôxy, nếu phổi bị ép, sẽ làm cho quá trình hô hấp gặp khó khăn, làm bệnh nặng thêm.
Mặt khác, khi ăn quá no, việc tiêu hóa thức ăn sẽ cần một lượng ôxy rất lớn, từ đó sẽ gây ra ảnh hưởng đến nhu cầu thông thường về ôxy của các bộ phận trong cơ thể như tim, não…
7. CAO HUYẾT ÁP
KIỂM TRA SỨC KHỎE (CHÚ Ý NHỮNG TRIỆU CHỨNG DƯỚI ĐÂY).
- Có đau đầu, chóng mặt, tê chân không?
- Có khó thở, tim đập rối loạn, ngực cảm giác bị ép không? - Có đi tiểu nhiều lần không?
- Mắt có lúc không nhìn được rõ không?
- Có thích ăn đồ ăn mặn không?
- Có hay uống rượu không?
- Có xuất hiện tình trạng thở gấp ngay cả khi không vận động không?
- Có bị đau đầu, đau vai không?
- Có bị phù chân không?
- Có cảm thấy toàn thân mệt mỏi không?
Nếu bạn có những triệu chứng trên thì rất có thể bạn đã mắc bệnh cao huyết áp.
Cao huyết áp là một căn bệnh mãn tính thường gặp, ở giai đoạn đầu, thường không có triệu chứng gì rõ rệt, dễ bị mọi người bỏ qua. Bởi vậy, bệnh cao huyết áp được giới y học đặt cho một cái tên là “sát thủ không lời”.
Người ta đã tiến hành một cuộc nghiên cứu như sau: bị mắc bệnh cao huyết áp, không điều trị, không uống thuốc, để bệnh tự phát triển, vài năm sau đã xuất hiện hiện tượng tim, não, thận bị tổn thương, bệnh tình phát triển xấu đi, xuất hiện triệu chứng xơ cứng động mạch, đau tim, mắc bệnh thận… Trong nghiên cứu này, độ tuổi trung bình của những người mắc bệnh cao huyết áp là 32 tuổi, tuổi thọ trung bình là 51 tuổi, tức là, chỉ sống được 19 năm sau khi mắc bệnh.
Bởi vậy, không nên coi thường bệnh cao huyết áp, nên cố gắng phát hiện bệnh sớm, kịp thời điều trị, tránh mắc thêm các bệnh khác, đảm bảo sức khỏe của bản thân.
TẠI SAO LẠI MẮC BỆNH CAO HUYẾT ÁP?
LỰC CO GIÃN
Lực ép của máu trong mạch máu lên thành mạch máu được gọi là huyết áp, thông thường chỉ lực ép lên thành động mạch. Khi tim co lại, máu được đẩy tới động mạch, lượng máu bên trong động mạch tăng lên làm tăng lực ép lên thành động mạch. Lúc này, huyết áp gọi là lực co hay cao áp. Khi tim giãn ra, một phần máu quay lại tim, lượng máu trong động mạch giảm, lực ép lên thành động mạch yếu. Lúc này, huyết áp được gọi là lực giãn hay thấp áp.
Thông thường, động mạch có lực đàn hồi, nhưng khi những động mạch nhỏ trong cơ thể vì một lí do nào đó bị co giật thì lực đàn hồi của nó sẽ yếu đi, lực cản khi máu đi qua động mạch sẽ tăng lên, gây ra hiện tượng cao huyết áp.
Nguyên nhân gây ra bệnh cao huyết áp là sự kết hợp của yếu tố di truyền và yếu tố môi trường.
Bệnh cao huyết áp được chia thành cao huyết áp nguyên phát và cao huyết áp tiếp phát, thường gặp nhất là cao huyết áp nguyên phát, chiếm 90 – 95% số người mắc bệnh cao huyết áp. Cao huyết áp tiếp phát do một căn bệnh khác gây ra hiện tượng huyết áp tăng cao, sau khi bệnh chữa khỏi, huyết áp lại trở lại bình thường. Khi mắc các bệnh như viêm thận mãn, hẹp động mạch thận… đều xuất hiện triệu chứng huyết áp tăng cao.
Nguyên nhân gây ra bệnh cao huyết áp nguyên phát tuy chưa được làm rõ nhưng người ta vẫn cho rằng, chính yếu tố di truyền và yếu tố môi trường đã khiến cho hệ thống điều tiết huyết áp bị rối loạn, gây ra co giật các động mạch nhỏ, dẫn đến hiện tượng huyết áp tăng cao. Trong đó, yếu tố di truyền bẩm sinh chiếm 50 – 60%
khả năng mắc bệnh. Còn yếu tố môi trường chủ yếu bao gồm: béo phì, chế độ ăn uống không hợp lí, thiếu vận động, uống rượu, hút thuốc, áp lực…
BÉO PHÌ
Nghiên cứu chỉ ra rằng, khả năng mắc bệnh cao huyết áp ở người béo phì cao gấp 1.5 lần so với người bình thường. Thông thường, mọi người cho rằng, do cơ thể béo phì nên lượng máu cần thiết chuyển ra từ tim càng nhiều, tạo ra áp lực lớn mãn tính lên thành mạch máu.
CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG KHÔNG HỢP LÍ Ăn quá nhiều muối cũng gây ra bệnh cao huyết áp. Khi ăn quá mặn, các tế bào trong cơ thể sẽ chuyển nước ra để cân bằng, lượng nước thừa sẽ được thải ra ngoài qua thận, nhưng ở những người mắc bệnh cao huyết áp, ở một chỗ nào đó trong quá trình này xuất hiện vấn đề.
Ngoài ra, ăn nhiều đồ ăn có nhiều mỡ cũng gây ra xơ cứng động mạch và béo phì, là nguyên nhân gián tiếp gây ra bệnh cao huyết áp.
THIẾU VẬN ĐỘNG
Vận động có khả năng kiểm soát được chất làm tăng huyết áp trong máu, tăng cường chất hạ áp. Ngoài ra, nghiên cứu đã chỉ ra rằng, vận động thúc đẩy quá trình phân giải đường, giảm nguy cơ béo phì.
UỐNG RƯỢU
Những người uống rượu quá nhiều dễ mắc bệnh cao huyết áp hơn so với những người không uống rượu.
HÚT THUỐC
Những người hút thuốc có tỉ lệ mắc các bệnh về tim mạch cao gấp 2 – 3 lần so với những người không hút thuốc.
ÁP LỰC
Dây thần kinh tự chủ đóng vai trò quan trọng trong việc điều khiển huyết áp. Dây thần kinh tự chủ bao gồm dây thần kinh giao cảm và dây thần kinh phó giao cảm, trong đó, dây thần kinh giao cảm có tác dụng làm tăng huyết áp. Khi con người đối mặt với áp lực, dây thần kinh giao cảm tiết ra một chất đặc biệt làm cho mạch máu co lại.
CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH CAO HUYẾT ÁP
Bệnh cao huyết áp không có triệu chứng đặc trưng, các triệu chứng thường gặp là chóng mặt, đau đầu, khó chịu, mất ngủ, mất tập trung, trí nhớ giảm sút… có một số người còn có các triệu chứng khác như tê đầu ngón tay hoặc có người còn có cảm giác như kiến bò trên tay hoặc có cảm giác lạnh ở hai bắp chân. Tuy nhiên, khi huyết áp tăng quá cao, sẽ xuất hiện triệu chứng đau đầu hoặc chóng mặt rõ rệt.
Các biểu hiện lâm sàng của bệnh không giống nhau ở từng người và từng giai đoạn bệnh. Một số người khi bệnh ở giai đoạn đầu thường không có biểu hiện gì của bệnh, nếu không đo huyết áp thì không thể biết được tình hình bệnh. Điều đặc biệt cần chú ý là các triệu chứng của người bệnh không nhất thiết phải căn cứ vào mức độ cao thấp của huyết áp, có một số người huyết áp không quá cao, nhưng lại có rất nhiều triệu chứng của bệnh, một số người khác tuy huyết áp rất cao nhưng lại không có triệu chứng gì rõ rệt.
KIỂM TRA VÀ CHẨN ĐOÁN BỆNH CAO HUYẾT ÁP
TIÊU CHUẨN CỦA BỆNH CAO HUYẾT ÁP
Nếu đo huyết áp trong 3 ngày khác nhau mà chỉ số đo được cao hơn mức bình thường thì có thể khẳng định đó là cao huyết áp. Để xác định tình trạng sức khỏe có thể căn cứ vào bảng dưới đây: PHÂN LOẠI LỰC CO LỰC GIÃN
Huyết áp lí tưởng 120 80
Huyết áp bình thường 120 - 129 80 - 84
Huyết áp cao bình thường 130 – 139 85 – 89
Huyết áp cao cấp 1 (nhẹ) 140 – 159 90 - 99
Huyết áp cao cấp 2 (trung) 160 – 179 100 – 109
Huyết áp cao cấp 3 (nặng) 180 110
DỰA VÀO MỨC ĐỘ TỔN THƯƠNG CỦA TIM, THẬN, NÃO CŨNG CÓ THỂ CHIA BỆNH CAO HUYẾT ÁP THÀNH 3 GIAI ĐOẠN:
Giai đoạn 1: không có tổn thương đối với não, tim, thận. Giai đoạn 2: có tổn thương đối với não, tim, thận nhưng chức năng vẫn hoạt động (hoạt động không được như bình thường nhưng chưa biểu hiện ra những triệu chứng bệnh một cách rõ nét). Giai đoạn 3: có các hiện tượng xuất huyết não, yếu tim, chức năng thận suy yếu.
CÁC CHỨNG BỆNH KÉO THEO BỆNH CAO HUYẾT ÁP CÓ THỂ LÀM TUỔI THỌ GIẢM ĐI.
Bệnh cao huyết áp tuy ở giai đoạn đầu không biểu hiện triệu chứng gì nhưng nếu không điều trị thì tim và mạch máu cũng sẽ dần dần phát bệnh, cuối cùng sẽ dẫn đến bệnh xơ cứng động mạch, bệnh tim, thận… Ngoài ra, mắt cũng sẽ xuất hiện hiện tượng động mạch trở nên mảnh, vỡ hoặc chảy máu… Những người có huyết áp quá cao hoặc bị cao huyết áp trong một thời gian dài thì tỉ lệ phát các bệnh đó càng cao, tỉ lệ tử vong càng cao.
XUẤT HUYẾT NÃO
Huyết áp tăng cao, vách mạch máu trong não sẽ trở nên rất dễ bị tổn thương, gây ra hiện tượng tắc máu hoặc u động mạch, làm tắc mạch máu hoặc làm các mạch máu có thành mạch máu yếu dễ bị vỡ, xuất huyết… cao huyết áp là nhân tố nguy hiểm nhất gây ra xuất huyết não. Xuất huyết não được chia thành các loại như não xuất huyết, tắc máu não và thiếu máu não tạm thời. Các triệu chứng thường gặp là vận động gặp trở ngại, tư duy ngôn ngữ gặp trở ngại như không nói được, giảm trí nhớ, liệt…
BỆNH TIM
Khi huyết áp tăng cao, tim vì muốn đưa máu đến các bộ phận trong cơ thể sẽ gia tăng sự co bóp. Như vậy, sức ép lên tim sẽ rất lớn, cơ tim sẽ ngày càng to ra. Nếu trạng thái này cứ tiếp tục kéo dài, tim sẽ không chịu được, dẫn đến suy tim.
Ngoài ra, nếu việc vận chuyển oxy và chất dinh dưỡng bị ảnh hưởng do xơ cứng động mạch, không đảm bảo được lượng máu cần thiết, sẽ xuất hiện hiện tượng đau tim hoặc tắc máu.
BỆNH THẬN
Thận do nhận một lượng máu lớn nên có liên quan mật thiết đến huyết áp. Cao huyết áp sẽ dẫn đến bệnh thận và ngược lại, bệnh thận cũng là nguyên nhân gây ra bệnh cao huyết áp.
Nếu huyết áp vẫn tiếp tục tăng, các mạch máu nhỏ của thận sẽ bị xơ cứng, không thể nhận được lượng máu đầy đủ. Như vậy, chức năng lọc máu, hấp thụ và đào thải chất độc của tiểu cầu thận sẽ mất đi, ảnh hưởng đến chức năng của thận. Động mạch nhỏ trong thận khi bị tắc, máu bị cản lại cũng sẽ phát sinh ra tình hình tương tự.
ĐIỀU TRỊ VÀ PHÒNG NGỪA BỆNH CAO HUYẾT ÁP
Khi mắc bệnh cao huyết áp nguyên phát, nên tiến hành chẩn đoán mức độ nặng nhẹ của bệnh. Đối với những bệnh nhân mắc bệnh ở vào giai đoạn 2, 3 nên uống thuốc để điều trị. Đa số những người bệnh khi được chẩn đoán mắc bệnh cao huyết áp thì đều ở vào giai đoạn 1, nên áp dụng các phương pháp điều trị như: điều chỉnh chế độ ăn uống, áp dụng chế độ vận động phù hợp. Nếu tình hình không được cải thiện thì hãy dùng thuốc.
ĐIỀU CHỈNH CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG Trước tiên, nên giảm lượng muối trong bữa ăn. Những người mắc bệnh cao huyết áp mỗi ngày chỉ nên ăn 6g muối, nhiều nhất cũng không được vượt quá 10g. Mục đích của việc giảm lượng muối đưa vào cơ thể là giảm lượng muối xuống còn một nửa so với trước, đồng thời, các món ăn nên nấu nhạt hơn một chút. Cảm thấy có ngon hay không ngon hoàn toàn là do thói quen, bởi vậy, nên tập ăn thanh đạm một chút. Ngoài ra, nên ăn những loại rau xanh có chứa nhiều kali, những loại ngũ cốc có chứa nhiều vitamin như: các loại rễ rau và các loại tảo biển.
PHƯƠNG PHÁP VẬN ĐỘNG
Duy trì một chế độ vận động phù hợp không những có thể cải thiện được tình trạng bệnh cao huyết áp mà còn có thể phòng tránh và điều trị một số căn bệnh khác.
Tốt nhất, nên vừa vận động vừa cười nói với người bên cạnh, đi bộ nhanh là một hình thức vận động phù hợp nhất, bơi lội hoặc đạp xe cũng là những cách vận động tốt. Những kiểu vận động như cử tạ, chạy nhanh… là không phù hợp.
Nên vận động hàng ngày, mỗi lần 30 phút hoặc mỗi tuần vận động 3 lần, mỗi lần 60 phút. Sau 2 – 6 tháng mới thấy được kết quả. Vận động ở chế độ thích hợp có thể làm giảm huyết áp, tuy nhiên, có một số người sau khi vận động thì huyết áp lại tăng lên. Những người như vậy mắc bệnh cao huyết áp mang tính di truyền khá mạnh.
RÈN LUYỆN MỘT LỐI SỐNG LÀNH MẠNH
Có khoảng 10% những người mắc bệnh cao huyết áp là do uống rượu. Đối với những người uống rượu ở mức độ vừa, sau khi cai rượu hoặc hạn chế rượu, huyết áp giảm xuống rõ rệt. Kết quả điều tra cho thấy, lượng cồn đưa vào cơ thể mỗi ngày nên khống chế ở mức khoảng 20g, tương đương với 1 chai bia hoặc 1 li rượu vang đỏ.
Về nguyên tắc, không nên hút thuốc. Tuy nhiên, đối với những người không thể bỏ được thuốc thì nên giảm bớt lượng thuốc hút trong ngày. Những chất độc có trong khói thuốc có thể làm tổn hại đến màng trong động mạch, gây xơ cứng động mạch, đồng thời, kích thích thần kinh giao cảm làm các động mạch nhỏ co lại, làm cho huyết áp tăng cao.
Cho dù con người không bao giờ có thể trốn khỏi được áp lực, nhưng có thể học được cách kiểm soát chúng. Những nhà nghiên cứu cho rằng, con người khi có nhiều việc phải làm chưa chắc đã cảm thấy áp lực, chỉ khi bạn không biết làm thế nào để giải quyết
công việc thì lúc đó bạn mới cảm thấy sự tồn tại của áp lực. Bởi vậy, khi bạn cảm thấy bị áp lực, hãy tự hỏi bản thân tại sao lại như vậy, sau đó tập trung tinh thần để giải quyết vấn đề.
CAO HUYẾT ÁP ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC
Bản thân tính phức tạp của bệnh cao huyết áp quyết định tính phức tạp của việc dùng thuốc, đặc biệt là khi còn mắc thêm những bệnh khác thì càng phải có những yêu cầu đặc biệt đối với việc lựa chọn thuốc hạ huyết áp. Sở dĩ như vậy là vì có một số loại thuốc hạ huyết áp tuy có thể làm hạ huyết áp nhưng lại ảnh hưởng đến việc điều trị các bệnh khác hoặc làm tổn thương đến các cơ quan tương quan. Khi lựa chọn thuốc phải căn cứ vào tình hình bệnh của người bệnh, triệu chứng bệnh, thói quen sống của người bệnh.
Nguyên tắc điều trị bệnh cao huyết áp
1. Tích cực tiến hành điều chỉnh chế độ ăn uống, áp dụng chế độ vận động phù hợp; khi uống thuốc cũng cần phải chú ý đến chế độ ăn uống và vận động.
2. Lựa chọn loại thuốc hạ huyết áp sao cho phù hợp; sau khi huyết áp ổn định, có thể thử giảm liều lượng thuốc.
3. Kiểm soát các nhân tố nguy hiểm gây ra các bệnh về tim mạch ngoài bệnh cao huyết áp.
4. Để người bệnh tích cực tham gia vào quá trình điều trị, cần coi trọng việc cân nhắc đến lối sống của người bệnh.
5. Đối với những bệnh nhân còn mắc các bệnh khác, phải tiến hành điều trị để hạ huyết áp ngay.
NHỮNG LOẠI RAU QUẢ CÓ CHỨA NHIỀU KALI
Bột khoai tây xào khô: 1200mg
Đậu đỏ chín: 460mg
Nho khô: 740mg
Chuối tiêu: 360mg
Dưa hấu: 120mg
KHI NÀO BẮT ĐẦU SỬ DỤNG THUỐC HẠ HUYẾT ÁP
1. Lực co trên 160 và lực giãn trên 95
2. Mắc các triệu chứng như to cơ tim, các bệnh về tim mạch, bệnh thận, béo phì, mỡ trong máu… đồng thời lực co trên 140 và lực giãn trên 90
3. Những người già trên 70 tuổi, lực co trong khoảng 160 – 170, lực giãn trên 90.
KHI TRONG NHÀ CÓ NGƯỜI GIÀ MẮC BỆNH CAO HUYẾT ÁP
Những người cao tuổi có thể quên uống thuốc hạ huyết áp, bởi vậy, người nhà phải thường xuyên nhắc nhở về vị trí để thuốc, thời gian uống thuốc… Đồng thời phải theo dõi thật chặt chẽ những tác dụng phụ của thuốc.
Những người cao tuổi thường không hay để ý đến cảm giác khát. Khi cơ thể thiếu nước, máu sẽ trở nên đặc hơn, huyết áp dễ tăng lên, máu dễ bị ngưng tụ. Bởi vậy, nên nhắc nhở việc bổ sung lượng nước.
Khi bị táo bón, do phải dùng sức trong lúc đại tiện nên huyết áp sẽ tăng lên, khiến cho rất nhiều người già bị não trung phong trong nhà vệ sinh. Bởi vậy, về chế độ ăn uống, phải chú ý ăn nhiều đồ ăn có chứa chất xơ, nhà vệ sinh nên dùng loại hố xí bệt là tốt nhất.
HỎI ĐÁP
Hỏi: Tại sao có một số người dù đã hạn chế lượng muối đưa vào cơ thể nhưng vẫn không hạ được huyết áp? Đáp: Những người mắc bệnh cao huyết áp dễ bị ảnh hưởng của chất muối thuộc nhóm mẫn cảm với muối, những người không dễ bị ảnh hưởng của chất muối thuộc nhóm không mẫn cảm với muối. Còn nguyên nhân tại sao có sự khác biệt trên thì chưa được làm rõ. Những người có chức năng thận kém, chỉ cần ăn nhiều muối thì huyết áp sẽ tăng lên. Tuy nhiên cũng có người cho rằng biểu hiện này có liên quan đến di truyền nhưng cũng có nghiên cứu đã chỉ ra, khi các nguyên nhân như môi trường sống thay đổi, yếu tố tuổi tác dẫn đến chức năng của thận giảm sút, đôi khi, những người thuộc nhóm không mẫn cảm có thể chuyển thành mẫn cảm.
Hỏi: Điều trị bệnh cao huyết áp bằng thuốc có phải uống lâu dài không?
Đáp: Không nhất thiết phải như vậy. Nếu các phương pháp khác như vận động, cải thiện chế độ ăn uống tỏ ra có hiệu quả rõ rệt, huyết áp hạ xuống và ổn định thì có thể cân nhắc việc dừng uống thuốc và theo dõi tình hình. Nếu huyết áp không tăng thì không cần phải uống thuốc nữa. Tuy nhiên, dù huyết áp đã giảm, duy trì sự ổn định, tự mình phán đoán và dừng uống thuốc có thể làm cho huyết áp tăng đột ngột. Bởi vậy, không nên tự mình dừng uống thuốc mà nên tuân thủ theo chỉ dẫn của bác sỹ.
8. XƠ CỨNG ĐỘNG MẠCH Xơ cứng động mạch tức là thành mạch máu trở nên dày, cứng do có mỡ kết tủa, khoang bên trong mạch máu trở nên hẹp lại, làm cho máu khó lưu thông.
Sau 40 tuổi, động mạch sẽ bắt đầu xơ cứng, tuy nhiên, nếu mắc bệnh cao huyết áp thì tốc độ xơ cứng động mạch sẽ nhanh hơn, mạch máu sẽ trở nên hẹp và mất đi tính đàn hồi, huyết áp vì thế mà sẽ càng tăng cao.
Cùng với sự thay đổi của tuổi tác, chứng xơ cứng động mạch cũng tăng theo, mức độ nặng nhẹ có khác nhau. Tuy nhiên, các yếu tố như cao huyết áp, mỡ máu cao, hút thuốc, đái đường, béo phì, vận động không đủ, thể chất yếu… đều là những nhân tố nguy hiểm làm đẩy nhanh tốc độ xơ hóa, có thể nói, những người có càng nhiều yếu tố trên thì càng dễ mắc bệnh xơ cứng động mạch.
Xơ cứng động mạch là nguyên nhân gây ra các bệnh về tim, não và mạch máu.
Động mạch vận chuyển máu đến khắp nơi trên cơ thể, giữ vai trò cung cấp ôxy và chất dinh dưỡng. Bởi vậy, khi động mạch xơ cứng, trong quá trình lưu thông máu sẽ gặp phải rất nhiều vấn đề như não trung phong, đau tim… gây nguy hiểm đến tính mạng.
KIỂM TRA VÀ CHẨN ĐOÁN
Xơ cứng động mạch không có biểu hiện gì rõ rệt, thông thường, các triệu chứng bệnh thường có liên quan đến các căn bệnh khác. Ngoài ra, còn phải tiến hành kiểm tra nước tiểu, huyết áp, chụp X quang, làm điện tâm đồ, CT hoặc MRI.
Đối với các kết quả kiểm tra này, ngoài phát hiện ra bệnh xơ cứng động mạch thì còn có thể phát hiện ra các bệnh khác như u động mạch, tắc mạch máu não…
ĐIỀU TRỊ VÀ PHÒNG TRÁNH
Mục đích của việc điều trị là làm chậm lại tiến trình phát triển, không có loại thuốc nào có thể chữa được triệt để, bởi vậy, khi uống thuốc phải cùng áp dụng các phương pháp vận động và ăn uống, cải thiện thói quen sống như hút thuốc đây là một nhân tố nguy hiểm gây ra xơ cứng động mạch, những người mắc bệnh béo phì nên áp dụng các biện pháp để giảm béo.
CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG
Đầu tiên, phải chú ý đến nhiệt lượng đưa vào cơ thể trong 1 ngày, chú ý, không ăn uống quá nhiều. Béo phì không chỉ là nhân tố nguy hiểm gây ra xơ cứng động mạch mà cũng là nhân tố nguy hiểm gây ra cao huyết áp, đái đường, mỡ trong máu cao, những người béo phì nên áp dụng các biện pháp giảm cân.
Tiêu chuẩn nhiệt lượng trong 1 ngày, ở nam giới là 30 kcal/1kg thể trọng, ở phụ nữ là 25 kcal. Thể trọng tiêu chuẩn có nhiều cách tính, lấy chiều cao trừ đi 100 rồi nhân với 0.9, sẽ cho một tiêu chuẩn tương đối. Đối với nam cao 170cm, thể trọng tiêu chuẩn là 63kg, năng lượng cần mỗi ngày là 1890 kcal.
Thịt mỡ, mỡ bò, bơ tươi có chứa rất nhiều axít béo no, thúc đẩy quá trình xơ cứng động mạch, ngược lại, dầu thực vật hoặc mỡ cá có chứa nhiều axít béo không no có tác dụng phòng ngừa bệnh xơ cứng động mạch.
Axít béo không no có vài loại, loại có trong cá là loại axít béo không no đa. Trong dầu hoa hồng, dầu hướng dương, dầu đậu nành, dầu trám có chứa nhiều loại axít béo không no đơn.
Lượng muối cũng cần phải được chú ý. Nếu ăn quá nhiều muối, ngoài việc sẽ làm cho huyết áp tăng cao, xơ cứng động mạch nhỏ, còn có thể gây ra xuất huyết não, ung thư dạ dày, bệnh thận. Tốt nhất, nên ăn uống thanh đạm, cố gắng hạn chế ăn các loại thức ăn ngâm mặn. Thức ăn chế biến sẵn.
Ăn quá nhiều đường sẽ làm giảm lượng HDL trong máu, gây mắc bệnh tiểu đường. Ngoài bánh ngọt, trong các loại nước uống giải khát cũng có chứa rất nhiều thành phần đường.
Uống một lượng rượu thích hợp có thể làm tăng HDL, 1 chai bia to, 1 cốc rượu gạo nhỏ được coi là lượng phù hợp, tuy nhiên, những người mắc bệnh đái đường về nguyên tắc không nên uống rượu.
PHƯƠNG PHÁP VẬN ĐỘNG
Vận động ở mức độ thích hợp có tác dụng phòng ngừa xơ cứng động mạch, đối với các bệnh dễ gây xơ cứng động mạch như cao huyết áp, đái đường, mỡ trong máu cao… cũng có tác dụng phòng tránh cao.
Khi vận động, mạch đập ở mức 110 – 120/phút là tốt nhất, đi bộ thì ai cũng làm được, có thể tự điều chỉnh tốc độ nhanh chậm, phương pháp vận động thích hợp nhất. Mỗi ngày đi bộ khoảng 30 phút là được. Tốt nhất nên vận động vào thời điểm sau khi ăn 20 phút – 1 tiếng. Tuy nhiên, đối với những người bị bệnh về tim thì phải vận động theo sự chỉ dẫn của bác sỹ.
DÙNG THUỐC
Không có loại thuốc nào có thể chữa khỏi bệnh xơ cứng động mạch, bởi vậy, khi sử dụng thuốc phải tiến hành cùng với điều chỉnh chế độ ăn uống và chế độ vận động. Thuốc làm giãn mạch máu có thể được sử dụng thường xuyên, nếu tùy tiện dừng uống thuốc sẽ làm cho bệnh tái phát.
HỎI ĐÁP
Hỏi: Bị chẩn đoán đau tim, có thể tiến hành liệu pháp vận động được không?
Đáp: Đối với những người mắc bệnh về tim mạch, vận động có tính nguy hiểm nhất định, bởi vậy, khi tiến hành liệu pháp vận động cần chú ý áp dụng phương pháp vận động phù hợp, lượng và mức độ vận động như thế nào đều phải tuân thủ theo chỉ dẫn của bác sỹ,
phải tiến hành thử nghiệm về khả năng chịu mức vận động như: kiểm tra điện tâm đồ, huyết áp, nhịp tim…
Hỏi: Xơ cứng động mạch có liên quan đến di truyền không?
Đáp: Có tính tương quan nhất định. Khi trong nhà có người mắc bệnh xơ cứng động mạch mà chết thì cũng nên liệt bản thân vào nhóm những người dễ mắc bệnh xơ cứng động mạch, nên chú ý giảm bớt các nhân tố nguy hiểm khác. Ngoài ra, nam giới dễ mắc bệnh xơ cứng động mạch hơn phụ nữ, đây là do sự khác nhau trong bài tiết hócmôn. Tuy nhiên, phụ nữ sau khi mãn kinh, lượng hócmôn nữ tiết ra giảm rõ rệt nên nguy cơ mắc bệnh xơ cứng động mạch cũng giống với nam giới.
9. ĐÁI ĐƯỜNG
KIỂM TRA SỨC KHỎE (CHÚ Ý NHỮNG TRIỆU CHỨNG DƯỚI ĐÂY)
- Có đi tiểu nhiều lần không?
- Có hay cảm thấy khô miệng không?
- Có hay cảm thấy bụng rỗng không?
- Có dễ bị mệt và cảm thấy toàn thân mệt mỏi không? - Có bị tê chân không?
- Có bị chóng mặt khi đứng dậy không?
- Có thường bị đi ngoài hoặc táo bón không?
- Mắt có bị mờ không?
- Mặt hoặc chân tay có bị phù không?
Nếu có những triệu chứng trên thì bạn đi kiểm tra, bởi vì, có thể bạn đã bị mắc bệnh đái đường được mệnh danh là “bệnh văn minh hiện đại”.
Những năm gần đây, tỉ lệ mắc bệnh đái đường luôn tăng cao, theo điều tra cho thấy, trong số những người ở độ tuổi 40 trở lên, cứ 10 người thì lại có 1 người mắc bệnh đái đường. Số người mắc bệnh đái đường đã tăng hơn 10 lần so với cách đây 30 năm.
Tuyến tụy trong cơ thể tiết ra một chất gọi là insulin, nhưng những người mắc bệnh đái đường không thể tiết ra đủ lượng insulin cần thiết, hoặc hoạt động của insulin không tốt (sức đề kháng của insulin), bởi vậy, không thể tận dụng có hiệu quả lượng đường được đưa vào trong cơ thể qua thức ăn, làm cho lượng đường trong máu vượt qua mức bình thường, dẫn đến hiện tượng tăng cao mang tính thường xuyên.
Để tình trạng lượng đường trong máu cao kéo dài quá lâu, sẽ phát sinh các triệu chứng như đi tiểu nhiều, uống nhiều nước, ăn nhiều và giảm cân… gây ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống bình thường.
Bệnh đái đường còn có thể biến chứng thành các bệnh như thần kinh, thận… Người bệnh sẽ có các triệu chứng như tê hoặc đau chân tay, nhiễm vi rút, mắt mờ… khi đã ở vào mức độ đó mới tiến hành điều trị thì bệnh đã ở vào giai đoạn muộn.
Bởi vậy, những người mắc bệnh đái đường phải được sớm điều trị để khống chế đường máu, ngăn ngừa các bệnh khác phát sinh.
NHỮNG NGƯỜI DỄ MẮC BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG
- Có người nhà mắc bệnh đái đường
- Có thói quen hay ăn thật no
- Thích ăn và ghét ăn nhiều loại thức ăn
- Ăn không theo quy luật
- Hay ăn bên ngoài
- Thích những thức ăn từ thịt hoặc nhiều mỡ
- Hay uống nước giải khát có đường
- Uống nhiều rượu
- Béo phì
- Ít vận động
- Áp lực về tinh thần
- Hay thức đêm
- Cao huyết áp
- Mỡ máu cao
NGUYÊN NHÂN PHÁT BỆNH CÓ LIÊN QUAN MẬT THIẾT ĐẾN CHỨC NĂNG CỦA TUYẾN TỤY
Tuyến tụy dài khoảng 15cm, nặng khoảng 70 – 100g, trông giống như 1 chiếc sáo, đỉnh nối liền với ruột tá. Tuyến tụy có hai chức
năng là bài tiết ngoại và bài tiết nội, bài tiết ngoại là chỉ chức năng bài tiết dịch tụy đến đường tiêu hóa, giúp tiêu hóa thức ăn, chức năng bài tiết nội là chỉ chức năng bài tiết các kích thích tố như insulin.
Chức năng có liên quan đến bệnh đái đường là chức năng bài tiết nội. Trong tuyến tụy có tập đoàn tế bào phân bố giống như những hòn đảo nhỏ, gọi là đảo dịch tụy. Tế bào trong đảo dịch tụy có thể sản sinh ra một loại protein, gọi là insulin, là loại kích thích tố duy nhất trong cơ thể người có thể làm giảm lượng đường trong máu.
Trong tình trạng bình thường, khi lượng đường trong máu lên cao, lượng insulin của tế bào tiết ra nhiều hơn và ngược lại sẽ giảm đi khi lượng đường trong máu. Như thế, lượng đường trong máu luôn được giữ ở một mức cân bằng tương đối.
Tuy nhiên, khi cơ thể gặp phải những ảnh hưởng của các kiểu nhân tố môi trường trong và ngoài, gây ra tình trạng insulin bài tiết ra không đủ hoặc chất lượng của insulin bài tiết ra giảm xuống, lượng đường trong máu sẽ tăng cao. Khi lượng đường trong máu tăng cao quá giới hạn cho phép nhất định, đường glucô sẽ bị thải ra ngoài theo nước tiểu, đây chính là bệnh đái đường.
BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG CHỦ YẾU DO YẾU TỐ DI TRUYỀN VÀ THÓI QUEN SỐNG GÂY RA
Bệnh đái đường được chia thành hai loại: loại thứ nhất là do dừng bài tiết insulin (IDDM), loại thứ hai là do insulin có bài tiết nhưng không đủ hoặc không có đủ tác dụng (NIDDM), còn một số ít các trường hợp mắc bệnh là do các nguyên nhân khác gây ra.
NIDDM
Có đến 95% người mắc bệnh đái đường thuộc loại này, bởi vì, những người mắc bệnh đái đường do yếu tố di truyền, nếu lại có thêm các nhân tố khác ảnh hưởng như: ăn uống quá mức, béo phì,
vận động không đủ lượng, áp lực tinh thần quá lớn… thì sẽ làm cho chức năng của đảo dịch tụy dần dần giảm sút, độ nhạy cảm của cơ thể đối với insulin cũng giảm xuống, cuối cùng dẫn đến bệnh đái đường. Do những người mắc bệnh thuộc loại này đa phần đều ở độ tuổi trung niên và người già nên còn được gọi là bệnh đái đường kiểu người trưởng thành. Tuy nhiên, những năm gần đây, số bệnh nhân mắc bệnh đái đường là thanh niên và trẻ nhỏ có chiều hướng gia tăng.
IDDM
Bệnh đái đường thuộc loại này thường xuất hiện đột ngột, thường gặp ở trẻ em và thanh niên. Do một nguyên nhân nào đó mà chức năng của tế bào đảo dịch tụy gặp trở ngại, làm dừng việc bài tiết insulin, kết quả là lượng đường trong máu tăng cao đột ngột. Sau khi xuất hiện tình trạng này, nếu không kịp thời áp dụng các biện pháp xử lí sẽ dẫn đến tình trạng hôn mê, thậm chí có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng gặp trở ngại của tế bào đảo dịch tụy có thể là do nhiễm vi rút hoặc phản ứng miễn dịch của cơ thể xuất hiện tình trạng khác thường.
BÉO PHÌ VÀ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG - Ăn quá nhiều và vận động ít sẽ dễ dẫn đến béo phì, có thể gây ra bệnh đái đường. Bản thân béo phì là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh đái đường.
- Nguyên nhân chính dẫn đến béo phì là năng lượng quá thừa, tế bào mỡ dưới da của những người béo phì sẽ tích lũy mỡ một cách nhanh chóng, tế bào trở nên béo và to, lượng insulin mà các tế bào mỡ này hấp thụ sẽ giảm đi, làm cho insulin không thể phát huy hết tác dụng, từ đó dẫn đến bệnh đái đường.
- Đối với bệnh béo phì, ngoài kiểu mỡ dưới da tăng lên còn có kiểu mỡ trong nội tạng, tức là chỉ trạng thái các cơ quan nội tạng bị
mỡ bao bọc, những người béo phì sau tuổi trung niên đa phần đều thuộc loại này, hiệu ứng sinh lí của insulin đều giảm thấp.
TRIỆU CHỨNG ĐIỂN HÌNH CỦA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LÀ “3 NHIỀU 1 ÍT”. Bệnh đái đường thuộc kiểu NIDDM thường không có triệu chứng rõ rệt, bởi vậy, người bệnh ở giai đoạn đầu đa phần không cảm nhận được mình mắc bệnh, tuy nhiên, sau khi bệnh tiến triển đến một mức độ nhất định, các triệu chứng sẽ dần dần xuất hiện. Triệu chứng điển hình là “3 nhiều 1 ít”, tức là, đi tiểu nhiều, uống nhiều nước, ăn nhiều và thể trọng giảm.
Đầu tiên, lượng nước tiểu sẽ tăng lên, số lần đi tiểu cũng tăng lên, cảm giác luôn thấy khát nước, uống nhiều nước. Khi lượng đường trong máu tăng lên, lực thẩm thấu máu cũng theo đó tăng lên, lượng nước có trong các tế bào bên trong cơ thể sẽ chạy vào trong mạch máu, quá trình trao đổi nước tiểu sẽ bị ảnh hưởng, sản sinh ra một lượng lớn nước tiểu, từ đó dẫn đến triệu chứng mất nước.
Ngoài ra, lượng đường lưu trong cơ thể không thể chuyển hóa thành năng lượng, bởi vậy, sẽ có cảm giác đói bụng, sẽ ăn nhiều lên, nhưng kết quả chỉ là lượng đường trong máu tăng cao, lại không thấy béo lên, ngược lại trọng lượng cơ thể lại giảm đi. Tình trạng đó là do cơ thể không thể tạo ra đủ năng lượng gây nên bởi vậy, người lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi.
Khi bệnh tiến triển xấu đi, sẽ xuất hiện những trở ngại về hệ thần kinh như: tê chân tay, đau chân tay, chuột rút bắp chân, khi đứng bị chuột rút… nếu không tích cực điều trị còn có thể dẫn đến các triệu chứng nặng hơn như mờ mắt, yếu thận…
Những người bệnh thuộc loại IDDM khi mắc bệnh thường có các biểu hiện bệnh lí như: đột nhiên khát nước, chán ăn, nôn ọe, đau bụng, mệt mỏi, thậm chí đột nhiên hôn mê, phải điều trị tiêm insulin ngay.
BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG Ở TRẺ EM
- Bệnh đái đường ở trẻ em không giống với người lớn, thường là loại IDDM, trung bình cứ 5000 trẻ em mới có 1 em mắc bệnh. - Khi trẻ phát bệnh, đa phần thường có những biểu hiện tự giác như: khát nước, đi tiểu nhiều lần… đôi khi có thể đái dầm. Nếu không điều trị, cân nặng sẽ giảm, nghiêm trọng có thể dẫn đến tình trạng hôn mê.
- Bệnh đái đường loại IDDM ở trẻ em cần phải điều trị bằng tiêm insulin, chỉ cần duy trì cách điều trị này, trẻ có thể sống bình thường như những trẻ em khác. Nên nói cho trẻ biết điều đó, giải tỏa những lo lắng về tâm lí cho trẻ. Ngoài ra, ngoại trừ trẻ quá béo, bằng không không cần khống chế nghiêm ngặt nhiệt lượng như người lớn, cần phải để cho trẻ có đầy đủ dinh dưỡng.
Những năm gần đây, tỉ lệ bệnh đái đường loại IDDM ở trẻ em có chiều hướng gia tăng, bởi vậy, ngoài việc chú ý đáp ứng nhu cầu về dinh dưỡng của trẻ, cũng nên tiến hành điều chỉnh chế độ ăn uống và vận động cho trẻ.
CĂN CỨ CHẨN ĐOÁN CHÍNH CỦA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LÀ XÉT NGHIỆM MÁU
Bệnh đái đường loại NIDDM khi ở giai đoạn đầu không thể tự phát hiện được các triệu chứng, bởi vậy, thường chỉ phát hiện được bệnh khi đi kiểm tra sức khỏe.
XÉT NGHIỆM TIỂU ĐƯỜNG
Là kiểm tra xem có đường glucô trong nước tiểu hay không. Khi lượng đường trong máu tăng quá 160mg/phút, trong nước tiểu sẽ xuất hiện đường. Khi xét nghiệm nên tiến hành vào buổi sáng lúc chưa ăn, đó là lúc lượng đường trong máu thấp nhất trong ngày, nếu tối hôm trước ăn muộn thì dù không bị tiểu đường cũng xuất hiện hiện tượng tiểu đường. Bệnh đái đường khi ở giai đoạn đầu sẽ không xuất hiện tiểu đường. Bởi vậy, kết quả xét nghiệm tiểu đường
chỉ mang tính chất tham khảo, chứ không thể lấy làm căn cứ xem có mắc bệnh đái đường hay không.
XÉT NGHIỆM ĐƯỜNG TRONG MÁU Là kiểm tra nồng độ đường glucô trong máu. Những người được kiểm tra thấy có đường trong nước tiểu xét nghiệm đồng thời trong quá trình khám có nghi ngờ mắc bệnh đái đường đều nên tiến hành xét nghiệm đường trong máu. Có thể xét nghiệm vào buổi sáng khi chưa ăn và xét nghiệm bất kỳ. Khi lượng đường trong máu đạt mức 110mg/phút vào buổi sáng khi chưa ăn thì có khả năng đã mắc bệnh đái đường, nên xét nghiệm chi tiết hơn, nếu trên mức 126mg/phút thì có thể chẩn đoán là bệnh đái đường. Khi làm xét nghiệm bất kỳ mà lượng đường trong máu ở mức 200mg/phút thì cũng có thể chẩn đoán là bị bệnh đái đường.
Một cách khác để kiểm tra là phương pháp OGTT. Phương pháp này có thể chẩn đoán chính xác hơn nữa bệnh đái đường. Phương pháp này được tiến hành như sau: buổi sáng trước khi ăn, pha 75g đường glucô với 250 – 300ml nước, rồi uống, sau 2 tiếng kiểm tra lượng đường máu ở tĩnh mạch. Nếu lượng đường trong máu ở mức 200mg/phút trở lên có thể chẩn đoán là bệnh đái đường, những người ở mức > 139mg/phút được coi là bình thường, 140 – 199mg/phút được coi là bất thường. (IGT)
KIỂM TRA SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ INSULIN TRONG MÁU
Những người mắc bệnh đái đường ở mức độ nhẹ, sau khi uống 1 cốc nước đường glucô khoảng 30 phút có thể thấy tốc độ tăng insulin trong máu chậm hơn so với người bình thường. Nếu sự bài tiết insulin không có gì bất thường nhưng lượng đường trong máu vẫn tăng cao thì nên cân nhắc xem liệu có phải mình đã mắc về gan hoặc tuyến giáp hay không.
Bệnh đái đường sẽ kéo theo nhiều căn bệnh nghiêm trọng khác.
BỆNH VỀ THẦN KINH
Khi xuất hiện các triệu chứng như tê chân tay, đầu ngón chân lạnh, đau… đó có thể là bệnh biến thần kinh liên quan đến bệnh đái đường. Đây là triệu chứng thần kinh, cảm giác xuất hiện trở ngại, đặc trưng của nó là xuất hiện đều cả bên trái bên phải, cảm giác mạnh nhất là vào ban đêm.
Vào giai đoạn đầu, chỉ cần khống chế lượng đường trong máu là có thể ổn định được tình trạng bệnh, nhưng nếu cứ để vậy mà không chú ý đến tình trạng bệnh thì bệnh sẽ phát triển đến mức đau không ngủ được cả đêm. Nếu bệnh phát triển đến mức độ đó mà vẫn không tiến hành điều trị thì khi bạn bị đứt chân tay hoặc bị bỏng sẽ không còn có cảm giác đau, nếu như để bệnh phát triển đến mức này thì quả là rất phiền phức. Bệnh đái đường rất dễ gây ra nhiễm khuẩn, chỉ cần 1 vết thương nhỏ cũng có thể làm nhiễm trùng, sưng tấy… thậm chí có thể làm nguy hiểm đến tính mạng.
Mặt khác, khi thần kinh tự chủ gặp phải trở ngại, sẽ xuất hiện các triệu chứng như chuột rút, ra mồ hôi bất thường, viêm bàng quang, viêm thận… còn có thể bị đi ngoài, táo bón xen kẽ nhau.
BỆNH VỀ VÕNG MẠC
Nguyên nhân thường gặp đối với bệnh mù ở người trưởng thành là bệnh biến võng mạc do bệnh đái đường gây ra. Giai đoạn đầu, bệnh không có biểu hiện gì, rất nhiều người chỉ phát hiện ra tình trạng bất thường khi kiểm tra mắt trong quá trình kiểm tra sức khỏe.
Đây chính là bệnh do các vi mạch máu của võng mạc gặp trở ngại do tình trạng lượng đường trong máu tăng cao được duy trì, khi bệnh phát triển đến một mức độ nhất định, người bệnh sẽ cảm thấy mắt nhìn không còn được rõ.
BỆNH VỀ THẬN
Tiểu cầu thận được cấu thành từ những mạch máu nhỏ cuốn vào nhau tạo thành dạng cầu bên trong thận, tiểu cầu thận có thể lọc
máu, bài tiết những chất không cần thiết mà cơ thể sản sinh ra và lượng nước thừa ra ngoài, cũng tức là hình thành ra nước tiểu. Khi lượng đường trong máu không được khống chế, các mạch máu nhỏ của tiểu cầu thận gặp phải trở ngại, sẽ xuất hiện các hiện tượng như: trong nước tiểu có chứa protein hoặc không thể đi tiểu được… gọi là suy thận.
Bệnh thận do đái đường gây ra thường gặp ở những bệnh nhân đã mắc bệnh đái đường trên 10 năm, biểu hiện đầu tiên là huyết áp hoặc cholesterol tăng, dẫn đến cơ thể bị phù. Nếu nghiêm trọng hơn, có thể xuất hiện triệu chứng chức năng thận suy giảm, phải tiến hành lọc máu nhân tạo, hay còn gọi là rửa thận. Theo những nghiên cứu gần đây cho thấy, những người mắc bệnh thận do đái đường gây ra, trong nước tiểu được thải ra ngoài có thể kiểm tra thấy sự tăng lên của protein, căn cứ vào đó có thể phát hiện được bệnh ở giai đoạn đầu.
XƠ CỨNG ĐỘNG MẠCH
Sau khi mắc bệnh đái đường, do insulin không phát huy đủ tác dụng, làm cho quá trình trao đổi mỡ trở nên không bình thường, dẫn đến tình trạng mỡ trong máu cao. Những người có lượng đường trong máu cao, máu rất dễ đông, bởi vậy những người mắc bệnh đái đường rất dễ bị xơ cứng động mạch. Sau khi bị xơ cứng động mạch rất dễ bị mắc các bệnh gây nguy hiểm đến tính mạng như não trung phong…
Vận dụng tất cả các liệu pháp điều trị để khống chế lượng đường trong máu, phòng tránh các bệnh phát sinh do đái đường. Trọng điểm của việc điều trị bệnh đái đường là khống chế lượng đường trong máu, để phòng tránh việc phát sinh các bệnh kéo theo. Sau khi mắc bệnh đái đường sẽ rất khó điều trị tận gốc, bởi vậy, phải có biện pháp để sống chung với nó.
Phương pháp điều trị chủ yếu đối với bệnh đái đường loại NIDDM là liệu pháp ăn uống, liệu pháp vận động và liệu pháp dùng thuốc. Đặc biệt, ở giai đoạn đầu của bệnh đái đường, nếu kiểm soát chế độ ăn uống kết hợp với thay đổi thói quen sinh hoạt, vận động ở mức
độ thích hợp… thì có thể đạt được mục đích trị liệu, thậm chí không cần phải dùng thuốc.
Đối với loại IDDM thì phải tiêm insulin. Do ngày nào cũng phải tiêm nên phải áp dụng phương pháp tự mình tiêm. Mỗi người dùng thuốc không giống nhau, lượng thuốc, số lần tiêm, và thời gian… đều phải dựa vào chỉ dẫn của bác sỹ, phải tuân theo một cách nghiêm túc. Hiện nay, giới y học đang tích cực phát triển phương pháp không phải tiêm thuốc hàng ngày.
Bước đầu tiên để điều trị bệnh đái đường là liệu pháp ăn uống. Liệu pháp ăn uống khác với hạn chế ăn uống, trong quá trình điều trị, không phải kiêng ăn món gì, quan trọng là phải chú ý cân bằng dinh dưỡng và năng lượng đưa vào cơ thể.
Thỏa thuận cùng bác sỹ rồi quyết định lượng nhiệt lượng cần thiết cho 1 ngày, tùy vào độ tuổi, giới tính, mức độ béo, gầy, nghề nghiệp mà nhiệt lượng cần thiết sẽ khác nhau, nhất là đối với trẻ em đang trong giai đoạn phát triển càng phải chú ý đến vấn đề dinh dưỡng.
Thứ hai, phải chú ý đến vấn đề cân bằng dinh dưỡng, thành phần dinh dưỡng lí tưởng nhất là đường chiếm 60%, protein chiếm từ 15% – 20%, chất béo chiếm từ 20% - 25%.
Đường không chỉ đường cát, những thực phẩm như bột mì, kẹo… có thể tiêu hóa thành đường glucô trong cơ thể đều được tính là đường. Các đồ ăn như cơm, bánh mì, các loại mì, các loại khoai, các loại đỗ, bí đỏ, hoa quả… đều có chứa đường.
Protein không thể tích trữ được trong cơ thể, nếu ăn quá nhiều sẽ biến thành mỡ tích lại trong cơ thể, bởi vậy, mỗi ngày chỉ nên ăn một lượng vừa đủ.
Chất béo chia thành axít béo no và axít béo không no, ăn quá nhiều những thức ăn có chứa nhiều axít béo no như những thức ăn có nhiều bơ và thịt là nguyên nhân chính dẫn đến bệnh xơ cứng động mạch. Bởi vậy nên ăn ít những thức ăn loại này.
Ngoài ra, nên chú ý đến việc cân bằng các chất như vitamin, khoáng chất, chất xơ… ngoài các loại rau xanh, nên ăn nhiều hải đới, các loại đậu, hoa quả… Chất xơ có tác dụng làm chậm sự hấp thụ đường của ruột, rất có lợi cho việc điều trị bệnh đái đường. Tốt nhất nên lên kế hoạch chi tiết về số bữa ăn và lượng ăn trong mỗi
bữa, món điểm tâm và rượu cũng phải tính vào trong tổng nhiệt lượng cần cho một ngày.
LIỆU PHÁP VẬN ĐỘNG
Là một liệu pháp không thể thiếu trong điều trị bệnh đái đường. Khi vận động, cơ thể sẽ tiêu hao năng lượng, nhất là vận động với một mức thích hợp sẽ làm tiêu hao lượng đường tích trữ trong cơ thể trước tiên, sau đó mới đến đường glucô trong máu. Có nghĩa là vận động có thể làm giảm lượng đường trong máu.
Nhưng khi vận động quá mạnh, gan sẽ tiết ra đường để bổ sung, bởi vậy, sau khi vận động mạnh, lượng đường trong máu sẽ tăng cao. Hơn nữa, căn cứ vào tình hình bệnh hoặc các bệnh kéo theo, vận động quá sức đôi khi có thể làm cho bệnh càng trở nên nặng hơn. Bởi vậy, liệu pháp vận động nên tiến hành phù hợp theo chỉ dẫn của bác sỹ.
Phương pháp vận động đơn giản nhất là đi bộ. Đi bộ hơi nhanh một chút để có thể ra mồ hôi là tốt nhất. Mỗi ngày hai lần, mỗi lần 20 – 30 phút, tốc độ đi khoảng 80m/phút là thích hợp.
Ngoài ra, khi tập thể thao, bơi lội hoặc chạy chậm, chỉ cần chú ý không nên tập quá mức, sẽ có ích cho các bệnh nhân mắc bệnh đái đường. Theo tiêu chuẩn thì mạch đập trên 100 lần/phút, số lần đập nhiều nhất trong 1 phút không được vượt quá. Ví dụ 180 lần/phút bạn 40 tuổi, mạch đập không được vượt quá 140 lần/phút
LIỆU PHÁP DÙNG THUỐC
Bệnh đái đường loại NIDDM khi không thể khống chế lượng đường trong máu bằng liệu pháp vận động hoặc liệu pháp ăn uống thì phải áp dụng liệu pháp khống chế bằng thuốc. Thuốc gồm hai loại: thuốc uống để giảm đường và thuốc tiêm insulin, nhưng cho dù là loại nào thì đều phải kết hợp với liệu pháp ăn uống và liệu pháp vận động.
PHỤ NỮ CÓ THAI VÀ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG
Những phụ nữ mắc bệnh đái đường vẫn có thể sinh đẻ như những người bình thường, tuy nhiên, trước khi có thai phải bắt đầu theo dõi lượng đường trong máu một cách nghiêm ngặt dưới sự chỉ dẫn của bác sỹ.
Những người đang dùng thuốc uống, khi có thai nên chuyển sang thuốc tiêm, bởi vì, thuốc uống có thể đi qua nhau thai, thuốc tiêm thì không.
Khi mang thai, ngoài việc kiểm tra nước tiểu định kỳ, kiểm tra máu và võng mạc, trọng lượng cơ thể chỉ nên tăng 8kg, không được vượt quá 10kg. Nếu trọng lượng cơ thể tăng quá nhiều, lượng đường trong máu sẽ dễ tăng cao, bởi vậy, việc khống chế thể trọng là hết sức quan trọng.
Có một số người, khi mang thai mới bị mắc bệnh tiểu đường, gọi là bệnh đái đường thai sản. Đái đường thai sản đa phần sẽ khỏi sau khi sinh nhưng nếu không chú ý đến thói quen sinh hoạt thì sau khi bước vào tuổi trung niên, nguy cơ mắc bệnh đái đường là rất cao.
CẤP CỨU HÔN MÊ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG Những người mắc bệnh đái đường nếu bình thường không chú ý sinh hoạt và dùng thuốc có quy luật thì tình trạng bệnh có khả năng đột ngột xấu đi, nghiêm trọng nhất là hôn mê. Khi xuất hiện tình trạng này phải xử lí ngay, nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Bình thường, người bệnh và người nhà cần phải chú ý đến những triệu chứng đột ngột xuất hiện, kịp thời áp dụng các biện pháp đúng đắn. Nguyên nhân dẫn đến hôn mê được chia thành hai loại: hôn mê do lượng đường trong máu cao và hôn mê do lượng đường trong máu thấp (hay còn gọi là hạ đường huyết).
HÔN MÊ DO LƯỢNG ĐƯỜNG TRONG MÁU CAO
Bệnh đái đường khi phát triển đến một mức độ nhất định, bắt buộc phải uống thuốc hạ đường và tiêm insulin, nếu ngừng dùng thuốc một cách tùy tiện, insulin trong cơ thể thiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hôn mê. Thiếu insulin, đường glucô mà cơ thể hấp thụ sẽ không thể chuyển hóa thành nhiệt lượng, bởi vậy, không thể phân giải được chất béo và protein tích trữ trong cơ thể, dẫn đến thể axeton tính axít được sinh ra trong máu, tích lại trong cơ thể tạo ra tình trạng trúng độc, đại não thiếu năng lượng, dẫn đến tình trạng buồn ngủ thậm chí là hôn mê.
Tuy hiện nay đã có thể khống chế lượng đường trong máu qua việc dùng thuốc nhưng vẫn có khoảng 4% người bệnh chết vì bị hôn mê, bởi vậy phải nghiêm cấm người bệnh tự thay đổi liều lượng thuốc hoặc dừng uống hoặc tiêm thuốc.
Ngoài ra, khi ăn uống quá nhiều hoặc quá mệt mỏi, khi mắc các bệnh truyền nhiễm như viêm phổi, làm vô hiệu thuốc hạ đường cũng dễ xuất hiện tình trạng hôn mê. Bởi vậy, người bệnh phải rất chú ý đến chế độ ăn uống và tình trạng sức khỏe, khi xuất hiện hiện tượng bất thường phải kịp thời liên lạc với bác sỹ.
HÔN MÊ DO HẠ ĐƯỜNG HUYẾT Hôn mê do hạ đường huyết còn nghiêm trọng hơn hôn mê do lượng đường trong máu cao, nguyên nhân thường là do sử dụng lượng insulin hoặc thuốc hạ đường quá nhiều, đôi khi cũng có thể là do bệnh gan hoặc là do ngộ độc thuốc gây ra.
Năng lượng của não có được gần như toàn bộ đều do lượng đường trong máu cung cấp, nếu đường trong máu hạ do dùng thuốc, não sẽ ngay lập tức bị tổn thương và xuất hiện những trở ngại về ý thức. Hạ đường huyết cấp có thể xuất hiện các triệu chứng như: dạ dày bị lạnh, sợ hãi, ra mồ hôi… nếu không chú ý đến tình hình bệnh thì có thể dẫn đến triệu chứng buồn ngủ, hôn mê, co
giật… Dù lượng đường trong máu không bị hạ cấp thì cũng có thể xuất hiện triệu chứng đau đầu, mờ mắt…
Nếu xuất hiện các triệu chứng trên thì phải kịp thời bổ sung đường hoặc nước hoa quả, nếu không kịp thời xử lí, có thể để lại các di chứng, bởi vì các tế bào thần kinh não nếu bị tổn thương thì không thể nào khôi phục lại được.
HỎI ĐÁP
Hỏi: Người bị bệnh đái đường cần bao nhiêu nhiệt lượng 1 ngày?
Đáp: Tùy vào độ tuổi, cân nặng, nghề nghiệp… mà lượng nhiệt lượng cần thiết cho 1 người trong ngày cũng khác nhau. Sau tuổi trung niên, ví dụ, 1 người cân nặng 60kg làm những công việc nhẹ nhàng như ngồi văn phòng hoặc những bà nội trợ, mỗi ngày cần 1500 – 1800 kcal, những người làm các công việc lao động hơi nặng thì cần 1800 – 2000 kcal, những người làm các công việc nặng thì cần từ 2100 kcal trở lên.
Hỏi: Bị mắc các bệnh do đái đường gây ra, cần phải có chế độ ăn uống như thế nào?
Đáp: khi đã xuất hiện hiện tượng huyết áp cao, ngoài việc duy trì liệu pháp ăn uống đối với bệnh đái đường, còn phải khống chế lượng muối đưa vào cơ thể hàng ngày ở mức dưới 7g, khi ăn mì, cố gắng không nên uống canh, không nên ăn các loại đồ ăn ngâm mặn… khi mắc bệnh mỡ trong máu cao, ngoài việc chú ý đến vấn đề ăn uống, người bệnh nên ăn ít các loại thức ăn có chứa nhiều cholesterol như trứng, thịt mỡ… Khi có vấn đề về thận, nếu bệnh tình nhẹ, có thể giảm lượng muối và protein đưa vào trong cơ thể hàng ngày, nếu nghiêm trọng thì phải điều trị theo liệu pháp ăn uống đối với bệnh thận, bởi vì, liệu pháp ăn uống ở bệnh thận khác với bệnh đái đường, bởi vậy, nên bàn bạc với bác sỹ.
10. THIẾU MÁU
Kiểm tra sức khỏe (chú ý những triệu chứng dưới đây) - Có thường xuyên cảm thấy toàn thân mệt mỏi, không có sức không?
- Có cảm thấy lo sợ hoặc thở đứt quãng không?
- Có hiện tượng mặt trắng bệch, môi và móng tay trắng không? - Có chán ăn và có cảm giác buồn nôn không?
- Có bị hoa mắt chóng mặt không?
- Có hay bị sốt nhẹ không?
- Móng tay có bị dòn và biến dạng không?
Nếu có những triệu chứng trên thì bạn rất có khả năng mắc bệnh thiếu máu.
Máu do tế bào máu và huyết tương tạo thành, tế bào máu chia thành 3 loại: hồng cầu, bạch cầu và platelet. Hồng cầu đảm nhiệm việc vận chuyển ôxy đến tất cả các cơ quan tổ chức ở khắp cơ thể, ôxy kết hợp với hemoglobin (một loại protein có chứa sắt trong hồng cầu) đi vào máu và chuyển đến khắp nơi trên cơ thể.
Thiếu máu là chỉ triệu chứng thiếu hồng cầu hoặc hemoglobin trong máu. Nếu hồng cầu hoặc hemoglobin (huyết sắc tố) bị thiếu hụt, không thể cung cấp ôxy đến toàn bộ cơ thể, sẽ dẫn đến triệu chứng thiếu ôxy ở các tổ chức, xuất hiện nhiều triệu chứng khác nhau.
Nguyên nhân gây ra bệnh thiếu máu rất phức tạp, hiện nay, những nguyên nhân thường gặp là dinh dưỡng không tốt, các bệnh truyền nhiễm, u, do thuốc, bệnh mang tính miễn dịch, bệnh thận, bệnh dạ dày…
Bệnh thiếu máu cũng có nhiều loại, thiếu máu do thiếu sắt, thiếu máu do quá trình tái sinh gặp trở ngại, thiếu máu kiểu Địa Trung Hải… thường gặp là thiếu máu do thiếu sắt. Phương pháp điều trị tùy thuộc vào từng loại thiếu máu.
Bệnh thiếu máu là bệnh thường gặp trong cuộc sống hàng ngày, hơn nữa, ở giai đoạn đầu, bệnh thường không có triệu chứng rõ rệt, bởi vậy rất dễ bị mọi người bỏ qua. Thiếu máu không phải là bệnh
độc lập, có thể là biểu hiện quan trọng của một loại bệnh nào đó (đôi khi có thể là một bệnh khá phức tạp) bởi vậy, khi phát hiện ra bệnh thiếu máu, phải đi kiểm tra, tìm hiểu rõ nguyên nhân để kịp thời điều trị.
CÓ NHIỀU NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN BỆNH THIẾU MÁU:
Hồng cầu có trong máu do tủy xương tạo ra, sau đó được phóng vào trong máu. Tế bào khô tạo máu trong tủy xương có thể biến thành hồng cầu non, dưới tác dụng bổ trợ của vitamin B12, sắt… tế bào tách ra, hình thành nên hồng cầu trưởng thành, hợp thành hemoglobin trong quá trình này.
Khả năng sống bình quân của hồng cầu là khoảng 120 ngày. Hồng cầu không thể tích trữ được, khi số lượng hồng cầu bị phá vỡ tăng lên hoặc xuất hiện trở ngại hoặc bị mất quá nhiều, sẽ xuất hiện hiện tượng thiếu hồng cầu. Trong đó thường gặp nhất là thiếu sắt, dẫn đến thiếu máu.
RẤT NHIỀU NGƯỜI MẮC BỆNH THIẾU MÁU KHÔNG CÓ NHỮNG TRIỆU CHỨNG RÕ RỆT.
Số lượng hồng cầu và sự ổn định của nồng độ hemoglobin tùy thuộc vào lượng hồng cầu mà tủy xương tạo ra và sự cân bằng của lượng hồng cầu bị phá vỡ ở lá lách, gan. Nếu một nguyên nhân nào đó làm phá vỡ sự cân bằng này, làm giảm số lượng hồng cầu thì sẽ xuất hiện hiện tượng thiếu máu.
Triệu chứng của bệnh thiếu máu và mức độ nặng nhẹ sẽ khác nhau tùy vào mức độ giảm thiểu của hemoglobin và nguyên nhân gây ra thiếu máu. Nhưng do bệnh thiếu máu thường là diễn ra rất chậm, cơ thể sẽ sản sinh ra phản ứng thích nghi, bởi vậy, đôi khi bệnh thiếu máu đã phát triển đến mức độ nghiêm trọng nhưng người bệnh vẫn không ý thức được.
Do khi thiếu máu sẽ xuất hiện hiện tượng thiếu ôxy, để duy trì sự sống, cơ thể sẽ sản sinh ra một loạt các phản ứng bổ trợ, ví dụ, vì để cho các cơ quan nội tạng có đủ tuần hoàn máu mà hạn chế được lượng máu chảy trong mạch máu, làm cho da trông nhợt nhạt, thiếu hemoglobin nên phải bổ sung bằng cách tăng số lần vận chuyển ôxy, làm tăng nhanh tốc độ tuần hoàn máu, xuất hiện cảm giác tim đập nhanh, thở gấp.
Niêm mạc khoang miệng, mắt, tay, móng… đều sẽ phản ánh tình trạng thiếu máu. Thiếu máu ở mức độ vừa, khi vận động cơ thể sẽ cảm thấy khó thở hoặc đau ngực, hơn nữa, do cơ thể thiếu ôxy, sẽ xuất hiện hiện tượng đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, khó tập trung, mệt mỏi, buồn ngủ, kém ăn, sốt nhẹ, tê chân tay…
Nếu không tiến hành điều trị kịp thời, thậm chí sẽ có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng hơn nguy hiểm đến tính mạng. Chẩn đoán thiếu máu chủ yếu dựa vào RBC, Hb và Ht. Mức độ thiếu máu thường biểu thị qua nồng độ hemoglobin. Sau khi kiểm tra số lượng hồng cầu (RBC), nồng độ hemoglobin (Hb) và Ht, rồi đưa ra chẩn đoán.
Với người lớn, Hb ở nam giới thấp hơn 12g/dl, phụ nữ thấp hơn 11g/dl, tức là đã mắc bệnh thiếu máu. Hb từ 9 – 11g/dl là thiếu máu nhẹ, 6 – 9g/dl là thiếu máu vừa, 3 – 6g/dl là thiếu máu nặng, thấp hơn 3g/dl là thiếu máu nghiêm trọng.
Để chẩn đoán là thiếu máu thuộc loại nào, cần phải tiến hành một số các kiểm tra như thể tích hồng cầu, bình quân hồng cầu, nồng độ hemoglobin, kiểm tra tủy xương…
ĐẶC ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CỦA TỪNG LOẠI BỆNH THIẾU MÁU:
Đối với bệnh thiếu máu tùy vào nguyên nhân gây bệnh có thể được chia thành 3 loại lớn, mỗi loại lại có thể phân thành vài loại nhỏ, đặc điểm và phương pháp điều trị của chúng cũng không giống nhau.
THIẾU MÁU DO CHỨC NĂNG SINH SẢN HỒNG CẦU GIẢM SÚT
Bao gồm hai trường hợp là thiếu nguyên liệu để tạo ra hồng cầu và chức năng sản xuất hồng cầu của tủy xương giảm sút. Biểu hiện chính của hiện tượng thiếu nguyên liệu là thiếu máu do thiếu sắt.
THIẾU MÁU DO THIẾU SẮT
Do thiếu sắt để hợp thành hemoglobin gây ra, chiếm khoảng 50% số bệnh nhân bị mắc bệnh thiếu máu, là loại thường gặp nhất. Thiếu sắt có 3 nguyên nhân chính: lượng sắt đưa vào cơ thể không đủ, nhu cầu về sắt tăng cao và lượng sắt thải ra tăng cao. Lượng sắt cần thiết và đào thải ra bên ngoài ở phụ nữ thường nhiều hơn nam giới, phụ nữ bởi vậy dễ xuất hiện hiện tượng thiếu sắt hơn nam giới.
Sắt có trong thức ăn sẽ biến thành sắt 2 trong dạ dày, chủ yếu được hấp thụ ở tá tràng. Những người sau khi tiến hành phẫu thuật cắt dạ dày, viêm dạ dày hoặc hấp thụ không tốt, việc hấp thụ sắt sẽ gặp phải trở ngại, rất dễ xuất hiện triệu chứng thiếu máu do thiếu sắt.
Phụ nữ mỗi kỳ kinh nguyệt mất khoảng 30mg sắt, thêm vào đó khi mang thai, sắt bị thai nhi hấp thụ, sau khi sinh, sắt theo sữa chảy ra, bởi vậy, phụ nữ cần nhiều sắt hơn nam giới cùng độ tuổi. Những trẻ em đang trong giai đoạn phát triển, cùng với sự phát triển của cơ thể, lượng máu sẽ tăng lên, cũng dễ xuất hiện hiện tượng thiếu sắt.
Thiếu máu do thiếu sắt có những triệu chứng thông thường của bệnh thiếu máu và còn có thể xuất hiện các triệu chứng như niêm mạc ở đầu lưỡi co lại, trở nên thô ráp, nuốt khó…
Khi điều trị thiếu máu do thiếu sắt, đầu tiên nên điều trị bắt đầu từ nguyên nhân dẫn đến thiếu máu, đồng thời áp dụng phương pháp bổ sung sắt bằng thuốc, nếu có xuất huyết ở hệ thống tiêu hóa, có thể tiêm thẳng vào tĩnh mạch. Thông thường, sau khoảng 2 tháng là tình trạng thiếu máu sẽ được cải thiện, nồng độ hemoglobin sẽ khôi
phục lại trạng thái bình thường, bởi vậy cần bổ sung liên tục trong vài tháng.
Yếu tố vô cùng quan trọng là phải cân bằng dinh dưỡng trong chế độ ăn uống, ăn nhiều các loại thực phẩm có chứa nhiều sắt.
NHỮNG THỰC PHẨM CÓ CHỨA NHIỀU SẮT
Đó là các loại thực phẩm như: gan lợn, máu động vật, hải đới, long nhãn, rau cần, rau chân vịt, anh đào, sơn trà, thịt, dừa tươi, mía, đào, lê, tương vừng…
SẮT HỮU CƠ VÀ SẮT VÔ CƠ Sắt có trong thực phẩm như thịt, cá các loại chủ yếu là sắt hữu cơ, sắt vô cơ có trong các loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật. Tuy sắt hữu cơ chỉ chiếm khoảng 1/6 lượng sắt được đưa vào cơ thể nhưng tỉ lệ hấp thụ của nó lại cao.
Sắt vô cơ có tỉ lệ hấp thụ thấp, sẽ hấp thụ tốt hơn nếu đi kèm với các loại thực phẩm có protein động vật hoặc vitamin C.
THIẾU MÁU DO TRỞ NGẠI TRONG VẤN ĐỀ TÁI SINH
Tủy xương tạo ra hồng cầu gặp phải trở ngại, nguyên nhân có thể được phân thành tế bào khô xuất hiện triệu chứng bất thường hoặc quá trình tế bào khô phân hóa đến các cấp tế bào gặp phải trở ngại, môi trường để tủy xương hình thành nên tế bào khô xuất hiện triệu chứng bất thường… Biểu hiện là: số lượng hồng cầu, bạch cầu và platelet giảm thiểu rõ rệt.
Ngoài những triệu chứng thông thường của bệnh thiếu máu còn có các triệu chứng như chảy máu chân răng, da, lượng kinh nguyệt tăng nhiều, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm… Các triệu chứng
thường diễn biến rất chậm. Việc điều trị bệnh thiếu máu do trở ngại trong vấn đề tái sinh khá khó khăn.
THIẾU MÁU DO HỒNG CẦU NON LỚN Hay còn gọi là thiếu máu ác tính, nguyên nhân là do thiếu dinh dưỡng, vitamin B12 hoặc axít folic cần thiết cho hồng cầu trưởng thành. Khi thiếu những dinh dưỡng này sẽ hình thành nên những tế bào hồng cầu non lớn. Hồng cầu non lớn không thể trở thành hồng cầu trưởng thành thông thường và sẽ vỡ ra, từ đó xuất hiện hiện tượng thiếu máu.
Vitamin B12 tồn tại trong các loại thực phẩm có nguồn gốc động vật, những người có chế độ ăn uống bình thường thường không bị thiếu. Tuy nhiên, những người đã tiến hành cắt bỏ toàn bộ dạ dày hoặc những người già chức năng dạ dày đã suy yếu, không thể hấp thụ vitamin B12 một cách thuận lợi, sẽ rất dễ bị thiếu.
Axít folic tồn tại trong rau xanh, nấm, gan, những người kén ăn thường rất dễ bị thiếu.
Vitamin B12 và axít folic đều là những vitamin cần thiết hợp thành DNA trong tế bào. Khi bị thiếu, toàn bộ cơ thể sẽ có những ảnh hưởng không tốt, đặc biệt ảnh hưởng lớn nhất là ở tủy xương.
Ngoài các triệu chứng thiếu máu thông thường, bệnh còn có các triệu chứng khác về hệ tiêu hóa như: khoang miệng và đầu lưỡi bị đau, ăn không ngon, táo bón, đi ngoài… các triệu chứng về hệ thần kinh gặp trở ngại như: tay chân đau buốt và tê, đi bộ khó khăn…
Bạch cầu và platelet cũng sẽ giảm thiểu rất dễ bị nhiễm trùng hoặc chảy máu.
Những người bị thiếu vitamin B12 và axít folic có thể uống thuốc hoặc tiêm để bổ sung.
THIẾU MÁU DO THẬN
Do bị bệnh thận mãn tính, thiếu kích thích tố sản sinh ra hồng cầu – chất tạo ra hồng cầu gây ra. Khi bị suy thận nghiêm trọng, triệu chứng thiếu máu sẽ khá rõ rệt.
Phương pháp điều trị chủ yếu là cung cấp chất tạo hồng cầu. Nếu mắc cả chứng thiếu máu do thiếu sắt thì phải sử dụng cả thuốc sắt.
THIẾU MÁU DO TẾ BÀO NON HẠT SẮT Đây là bệnh thiếu máu do 1 loại tế bào non hạt sắt đặc biệt gây ra. Nguyên nhân gây ra bệnh là di truyền, uống thuốc hoặc ngộ độc
chì… cũng có những nguyên nhân không rõ do bẩm sinh. Những người mắc bệnh thiếu máu kiểu này, lượng sắt tích trữ trong cơ thể sẽ tăng lên, thường phát sinh những những triệu chứng bệnh do lượng sắt tăng cao như: trở ngại chức năng gan, sức khỏe suy kiệt, nghiêm trọng hơn còn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, bệnh còn có khả năng chuyển biến thành bệnh máu trắng cấp tính. Thiếu máu do thuốc gây ra thì phải dừng sử dụng thuốc ngay. Nếu là tính di truyền thì điều trị bằng vitamin B6, axít folic… đôi khi cũng cần phải truyền máu nhưng do người bệnh quá thừa sắt trong cơ thể nên việc truyền máu cần hạn chế ở mức thấp nhất.
THIẾU MÁU ĐỊA TRUNG HẢI
Đây là bệnh mang tính di truyền. Bệnh này chủ yếu ở các khu vực từ bờ biển Địa Trung Hải đến Ấn Độ, Đông Nam Á… nên gọi là bệnh thiếu máu Địa Trung Hải. Những người mắc bệnh ở mức độ nhẹ chỉ hơi thiếu máu, không có triệu chứng gì đặc biệt, những người mắc bệnh ở mức độ nặng thì ngay khi còn nhỏ đã có thể phát bệnh.
Ngoài các triệu chứng thiếu máu thông thường, còn có thể có các triệu chứng nghiêm trọng khác như quá thừa sắt, nghiêm trọng hơn còn có thể làm suy chức năng thận.
Do sắt quá thừa nên khi truyền máu phải hạn chế ở mức độ thấp nhất. Đôi khi cần phải tiến hành cắt bỏ lá lách.
THIẾU MÁU DO HỒNG CẦU BỊ PHÁ HỦY QUÁ NHIỀU
Hồng cầu sẽ bị phá hủy sau 120 ngày và được thay thế bởi những tế bào hồng cầu mới. Khi số lượng bị phá hủy nhiều hơn số lượng được tạo ra, cơ thể cảm thấy thiếu hồng cầu, tủy xương tạo ra máu để bổ sung. Nếu không kịp bổ sung hoặc bổ sung không đủ, sẽ xuất hiện hiện tượng thiếu máu, thiếu máu do tan máu.
THIẾU MÁU DO TAN MÁU BẨM SINH Chủ yếu phát bệnh ở giai đoạn khi còn nhỏ. Bệnh có mức độ nặng nhẹ khác nhau, biểu hiện cũng khác nhau tùy từng người bệnh nhưng thường đi kèm với triệu chứng vàng da. Khi hồng cầu được đưa vào xử lí ở các cơ quan như lá lách… hemoglobin sẽ tạo ra bilirubin. Khi xuất hiện hiện tượng thiếu máu do tan máu, hồng cầu bị phá hủy quá nhiều, lượng bilirubin tăng lên, vượt quá khả năng xử lí của gan, bilirubin chưa được xử lí sẽ tích lại trong máu và xuất hiện hiện tượng vàng da.
Khi mắc bệnh viêm gan hoặc sỏi mật thì dễ bị vàng da mà bệnh thiếu máu do tan máu đôi khi lại kéo theo cả bệnh sỏi mật. Bệnh sỏi mật cũng liên quan đến sự tăng lên của bilirubin.
Sự xuất hiện của bệnh vàng da hoặc sỏi mật thường hay bị chẩn đoán nhầm là những bệnh về gan chứ không được chẩn đoán là do thiếu máu.
Bởi vậy, khi có xu hướng mắc bệnh thiếu máu mà lại xuất hiện triệu chứng vàng da, sỏi mật mãn tính thì nên cân nhắc đến khả năng mắc bệnh thiếu máu do tan máu.
THIẾU MÁU DO TAN MÁU Ở TRẺ SƠ SINH
Nguyên nhân là do nhóm máu giữa mẹ và con không tương dung. Được chia thành hai loại: có nhóm máu ABO không tương dung và có nhóm máu Rh không tương dung. Triệu chứng của nó là sau khi sinh không lâu, trẻ xuất hiện triệu chứng vàng da và thiếu máu nghiêm trọng.
Có thể tiến hành điều trị chiếu tia, uống thuốc hoặc truyền máu.
THIẾU MÁU DO TAN MÁU MANG TÍNH TỰ MIỄN DỊCH
Là bệnh thiếu máu do các kháng thể của bản thân hồng cầu gây ra. Nguyên nhân gây ra bệnh đa phần không rõ ràng. Ngoài các triệu chứng của bệnh thiếu máu thông thường còn có thể xuất hiện các triệu chứng cấp tính như: sốt, đau bụng, đau eo, chảy máu, các triệu chứng thường lặp đi lặp lại, lúc phát bệnh lúc bình thường, diễn biến thành mãn tính.
Phương pháp điều trị thường là uống thuốc chống dị ứng hoặc áp dụng phương pháp điều trị ức chế miễn dịch. Khi bệnh tan máu xuất phát ở lá lách có thể phải tiến hành phẫu thuật cắt bỏ lá lách.
THIẾU MÁU DO HỒNG CẦU LỌT RA NGOÀI MẠCH MÁU.
Là bệnh thiếu máu do ở chỗ nào đó trên cơ thể bị chảy máu, lượng hồng cầu mất đi nhiều hơn so với lượng hồng cầu mà tủy xương tạo ra, gọi là thiếu máu do chảy máu.
Khi bị chảy máu nhiều do bị thương hoặc do bệnh, sẽ xuất hiện triệu chứng thiếu máu cấp tính do chảy máu. Các bệnh chảy máu mãn tính của hệ tiêu hóa như: xuất huyết do viêm dạ dày, ung thư dạ dày, ung thư trực tràng, trĩ… cũng có thể gây ra thiếu máu.
Ngoài ra, khi bị chảy máu tại cơ quan sinh sản như: bệnh u tử cung, ung thư tử cung… ở phụ nữ cũng có thể gây ra bệnh thiếu máu do thiếu sắt.
HỎI ĐÁP
Hỏi: Làm thế nào để phòng tránh thiếu máu? Đáp: Chỉ cần chú ý điều chỉnh thói quen sinh hoạt và ăn uống, bệnh thiếu máu có thể phòng tránh được. Phải cung cấp đủ chất tạo máu cho tủy xương. Sắt là một nguyên liệu chủ yếu để tạo ra hemoglobin. Bình thường, 1 người đàn ông trưởng thành cần 1mg sắt mỗi ngày, phụ nữ trong thời kỳ sinh sản cần 1.5 – 2mg sắt mỗi ngày, thời kỳ mang thai và cho con bú, lượng sắt cần càng nhiều. Bởi vậy, hàng ngày nên ăn nhiều thực phẩm có chứa nhiều sắt như thịt nạc, gan lợn, lòng đỏ trứng, hải đới, mộc nhĩ, nấm hương… Nên chú ý cơ cấu bữa ăn hợp lý, ví dụ như, sau bữa ăn nên ăn ít hoa quả. Trong hoa quả có chứa nhiều vitamin C, có khả năng thúc đẩy quá trình hấp thụ sắt. Sau khi ăn cơm xong, uống trà đặc sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ sắt. Ngoài ra, dùng nồi sắt để nấu thức ăn cũng có lợi cho việc phòng tránh thiếu sắt.
Axít folic và vitamin B12 cũng là những khoáng chất không thể thiếu trong quá trình tạo máu. Rau tươi, hoa quả, các loại dưa, các loại đậu và các thức ăn có nguồn gốc từ thịt chứa rất nhiều axít folic, trong nội tạng động vật cũng chứa rất nhiều vitamin B12 nhưng nếu nấu ở nhiệt độ quá cao có thể làm mất trên 50% axít folic và 10 - 30% vitamin B12. Bởi vậy, phải vừa chú ý đến việc đa dạng hóa đồ ăn thức uống, lại phải chú ý cả kỹ năng chế biến, tránh nấu quá chín thức ăn.
Đồng thời, phải bảo vệ tốt “nhà máy sản xuất máu”. Có rất nhiều yếu tố mang tính hóa học hoặc vật lí có thể làm tổn thương tủy xương, bởi vậy, nên nghiêm túc tuân thủ các phương pháp bảo vệ, tuân thủ quy trình thao tác, đặc biệt không nên sử dụng các loại thuốc có hại cho chức năng tạo máu và tránh chụp chiếu X quang nếu không thực sự cần thiết.
Mất máu cũng là nguyên nhân dẫn đến thiếu máu, bởi vậy, đối với những triệu chứng chảy máu do bệnh lí như: trĩ, kinh nguyệt không đều, ung thư tử cung… gây ra, phải tiến hành điều trị tích cực.
Hỏi: Trẻ sơ sinh nếu chỉ uống sữa bò sẽ dễ bị thiếu máu, có đúng như vậy không?
Đáp: Đúng. Trẻ em khi mới sinh có một lượng sắt nhất định lấy từ cơ thể mẹ, nhưng từ 4 – 6 tháng sau, số lượng sắt đó sẽ được dùng hết, cần phải bổ sung lượng sắt qua thức ăn. Nhưng sữa bò bán trên thị trường, mỗi 1lít chỉ chứa 0.5 – 2.0mg sắt, mà một đứa trẻ 1 tuổi mỗi ngày cần hấp thụ 6mg sắt.
Lượng sắt có trong sữa bò chỉ bằng 1/3 lượng sắt có trong sữa mẹ, tỉ lệ hấp thụ sắt trong sữa mẹ có thể đạt trên 50% nhưng tỉ lệ hấp thụ sắt trong sữa bò chỉ đạt 10%. Hơn nữa, hàm lượng canxi, phốt pho, kali trong sữa bò rất cao, những khoáng chất này đều gây ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ sắt.
Bởi vậy, nếu trẻ từ sau 4 – 6 tháng chỉ được uống mỗi sữa bò mà không bổ sung thêm các thức ăn khác thì sẽ dễ xuất hiện tình trạng thiếu máu.
Thông thường, bắt đầu từ tháng thứ 4, phải dần dần cho trẻ ăn thêm bột rau và bột hoa quả. Để bổ sung lượng sắt thiếu phải thêm vào các thức ăn có chứa nhiều sắt.
Hỏi: Dùng nồi sắt để chế biến thức ăn có thể phòng ngừa được bệnh thiếu máu do thiếu sắt, có đúng như vậy không?
Đáp: Đúng. Chế biến thức ăn bằng nồi sắt có thể làm tăng lượng sắt đưa vào cơ thể, thức ăn được chế biến trong nồi sắt sẽ được tăng thêm hàm lượng sắt. Tuy nhiên, khi sử dụng nồi sắt việc khống chế lượng sắt ngấm vào thức ăn là một việc không hề đơn giản. Một mặt không thể tính toán được lượng sắt được đưa vào cơ thể thông qua những thức ăn được chế biến ở nồi sắt. Mặt khác tỉ lệ hấp thụ sắt từ nồi sắt bên trong cơ thể là khá thấp, khó có thể áp dụng làm phương pháp điều trị và phòng tránh bệnh thiếu máu do thiếu sắt.
Bởi vậy, khi chúng ta lựa chọn các phương pháp phòng tránh bệnh thiếu máu do thiếu sắt, tuy có thể cân nhắc đến tác dụng hữu ích của nồi sắt nhưng không nên coi đó là một phương pháp duy nhất. Phòng tránh thiếu máu chủ yếu nên dựa vào việc điều chỉnh chế độ ăn uống và sử dụng những thực phẩm có chứa nhiều sắt.
11. BỆNH MÁU TRẮNG
Bệnh máu trắng là bệnh ác tính về hệ thống tạo máu, hay còn gọi là ung thư máu. Đặc điểm của bệnh là tế bào bệnh máu trắng thuộc một dạng nào đó ở trong tổ chức tạo máu ở tủy xương hoặc trong các tổ chức tạo máu khác phát triển thành ác tính, đồng thời xâm nhập vào các tổ chức khác, các bộ phận nội tạng bên trong cơ thể, dẫn đến tế bào tạo máu bình thường bị khống chế, nảy sinh ra các triệu chứng bệnh. Các triệu chứng đặc trưng là sốt, chảy máu, thiếu máu, nhiễm trùng, phù gan, lá lách, limpha kết.
TRIỆU CHỨNG PHÁT BỆNH CHƯA HOÀN TOÀN RÕ RÀNG
Nguyên nhân gây bệnh và cơ chế phát bệnh máu trắng ở người cho đến nay vẫn chưa được làm rõ. Chỉ biết nguyên nhân gây bệnh có yếu tố truyền nhiễm, do phóng xạ, chất hóa học, yếu tố di truyền và chức năng miễn dịch bất thường.
TỔN THƯƠNG DO PHÓNG XẠ Tác hại của phóng xạ điện li gây ra bệnh máu trắng đã được chứng minh qua những thử nghiệm trên động vật, còn tác hại gây ra bệnh máu trắng ở người cũng đã được nhắc đến thông qua những sự thực dưới đây: những người làm việc trong môi trường phóng xạ không có đồ bảo vệ giai đoạn đầu, tỉ lệ phát bệnh máu trắng cao gấp 8 – 9 lần so với những người khác; những bệnh nhân mắc bệnh viêm cột sống nếu lựa chọn phương pháp điều trị bằng phóng xạ thì tỉ lệ phát bệnh máu trắng cao gấp 10 lần người bình thường; sau khi hai hòn đảo Hiroshima và Nagasaki bị ném bom nguyên tử, tỉ lệ phát bệnh máu trắng giữa vùng bị phóng xạ với những vùng không bị phóng xạ là 30 lần.
NHÂN TỐ HÓA HỌC
Hiện nay, có rất nhiều vật chất hóa học có thể gây ra bệnh máu trắng như chất benzen được dùng rộng rãi trong công nghiệp. Các loại thuốc chống ung thư, thuốc an thần, thuốc diệt côn trùng… đều có thể dẫn đến bệnh máu trắng.
NHÂN TỐ VI RÚT
Nghiên cứu đã chứng minh, bệnh máu trắng ở động vật như: chim, chuột bạch, mèo, bò và khỉ tay dài có liên quan mật thiết đến ảnh hưởng của vi rút, hơn nữa, đã tách ra được loại vi rút máu trắng tương ứng. Tuy nhiên, lâu nay vẫn không có bằng chứng nào có thể chứng minh máu của những người mắc bệnh máu trắng có thể lây nhiễm sang những người khỏe mạnh và gây ra bệnh máu trắng. Năm 1980, từ tế bào bệnh máu trắng, tế bào T ở người đã tách ra được một loại vi rút mới (HTLV) giống như loại vi rút ATLV mà người Nhật phát hiện ra năm 1976. Đây là một bước đột phá mới trong nghiên cứu bệnh máu trắng của con người.
NHÂN TỐ DI TRUYỀN
Trong số những gia đình có người mắc bệnh máu trắng thì, nguy cơ mắc bệnh giữa những người họ hàng cao gấp 4 lần so với những người bình thường; những đứa trẻ sinh cùng trứng, nếu một người mắc bệnh máu trắng thì khả năng người kia mắc bệnh sẽ cao hơn 25% so với người bình thường; những người mắc bệnh tổng hợp di truyền đặc biệt, tỉ lệ phát bệnh máu trắng là rất cao, ví dụ như bị mắc bệnh down, thiếu máu Fanconi…
Dù tồn tại những nhân tố có khả năng gây bệnh nhưng vẫn chưa có một nhân tố nào có thể giải thích toàn bộ tình hình, ví dụ như trong những người tiếp xúc với tia phóng xạ thì số người mắc bệnh máu trắng là rất ít, bởi thế, có thể suy luận rằng, bệnh máu trắng không phải do một nhân tố gây ra, có thể là do nhiều nhân tố kết hợp với nhau gây ra. Người mắc bệnh có thể tồn tại một tố chất bẩm
sinh dễ mắc bệnh nào đó, cộng thêm tác dụng của các nhân tố từ bên ngoài, từ đó gây ra bệnh máu trắng.
BỆNH MÁU TRẮNG ĐƯỢC CHIA THÀNH NHIỀU LOẠI
Thành phần của máu bao gồm tế bào máu và huyết tương, được cấu thành bởi bạch cầu, hồng cầu và platelet. Tế bào máu do tủy xương tạo ra, được tế bào khô tạo máu phân hóa thành tế bào trưởng thành, có cơ năng riêng của nó. Khi mắc bệnh máu trắng, tế bào máu không thể thành tế bào trưởng thành trong quá trình phân hóa, đồng thời do bị ung thư hóa mà nguy cơ ngày càng tăng lên, mất đi cơ năng thông thường vốn có. Dựa vào tình huống phát sinh khác nhau, bệnh máu trắng có thể chia thành nhiều loại.
Dựa vào quá trình bệnh tự nhiên và mức độ trưởng thành của tế bào, bệnh máu trắng được chia thành bệnh máu trắng cấp tính và mãn tính. Bệnh máu trắng cấp tính phát bệnh cấp, bệnh nặng, quá trình bệnh tự nhiên thường trong vòng khoảng 6 tháng, tủy xương và máu trong mạch máu chủ yếu là các tế bào máu non và các tế bào nguyên thủy dị thường; Bệnh máu trắng mãn tính phát bệnh muộn, tiến triển chậm, quá trình bệnh thường trong vòng 1 năm trở lên, trong tủy xương và máu chủ yếu là các tế bào máu tương đối trưởng thành.
Dựa vào loại tế bào, bệnh máu trắng lại được chia thành: kiểu tế bào limpha, kiểu tế bào hạt, kiểu tế bào đơn hạch và một số kiểu ít gặp khác như bệnh máu trắng đỏ, bệnh máu trắng kiểu tế bào dịch…
Dựa vào số lượng bạch cầu trong máu nhiều hay ít, bệnh máu trắng lại được chia thành bệnh máu trắng tăng bạch cầu và bệnh máu trắng không tăng bạch cầu. Loại đầu, lượng bạch cầu tăng lên rõ rệt, đồng thời xuất hiện nhiều tế bào non; Loại sau, lượng bạch cầu không tăng thậm chí giảm hơn mức bình thường, không có hoặc rất khó tìm thấy tế bào non.
BIỂU HIỆN BỆNH CHỦ YẾU LÀ CẢM NHIỄM, CHẢY MÁU, THIẾU MÁU Tế bào bệnh máu trắng sẽ xâm nhập vào hệ thống tạo máu ở tủy xương, khống chế một cách nghiêm trọng chức năng tạo máu, các tế bào tạo máu bình thường giảm đi, dẫn đến thiếu lượng bạch cầu, hồng cầu và platelet trong máu, biểu hiện chính của người bệnh là cảm nhiễm, chảy máu và thiếu máu.
CẢM NHIỄM
Cảm nhiễm là kết quả của việc hạ thấp chức năng miễn dịch của cơ thể. Tế bào bệnh máu trắng trong quá trình sinh sôi nảy nở có thể sản sinh ra một loại protein sắt tính axít, loại này có tác dụng khống chế tế bào khô tủy xương, thêm vào đó là tác dụng của phương pháp trị liệu hóa học và kích thích tố tuyến thượng thận càng làm rối loạn chức năng miễn dịch. Vì thế, người bệnh sẽ dễ mắc các bệnh do vi khuẩn hoặc vi rút gây ra, dễ lan nhanh và khó chữa khỏi hơn người bình thường.
Biểu hiện của bệnh là viêm họng, viêm khoang miệng, viêm phổi, viêm ruột, viêm bàng quang… Đặc biệt là viêm phổi và nhiễm trùng dạ dày đường ruột, có thể dẫn đến chứng bại huyết hoặc mủ máu, làm cho người bệnh phát sốt toàn thân, nhiệt độ cơ thể thường cao ở mức 38.50C, đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tử vong của người bệnh.
CHẢY MÁU
Tỉ lệ chảy máu ở những bệnh nhân máu trắng là 67% - 75%, nguyên nhân chủ yếu của nó là do sự giảm thiểu của platelet, tế bào máu trắng xâm nhập vào tiểu động mạch, tiểu tĩnh mạch làm tổn thương thành mạch máu và thiếu hụt nhân tử làm đông máu và sự gia tăng của chất chống đông máu.
Các hiện tượng chảy máu thường là ứ thành điểm, thành vết trên da, chảy máu chân răng, chảy máu mũi. Phụ nữ khi mắc bệnh, kinh
nguyệt có thể ra nhiều hơn bình thường. Một bộ phận người bệnh có thể còn phát sinh xuất huyết ở các tổ chức hoặc trong nội tạng. Ví dụ, khi đường tiêu hóa xuất huyết, người bệnh có thể xuất hiện triệu chứng phân đen hoặc phân có máu; khi niệu đạo xuất huyết, nước tiểu sẽ có màu máu; khi xuất huyết võng mạc, người bệnh không nhìn rõ được, thậm chí bị mù.
THIẾU MÁU
Có khoảng trên 60% số bệnh nhân mắc bệnh máu trắng mắc chứng thiếu máu. Nguyên nhân dẫn đến thiếu máu là do sự giảm thiểu của hemoglobin. Do hemoglobin là đội quân chủ lực vận chuyển ôxy trong máu, nên khi thiếu máu, người bệnh sẽ xuất hiện một loạt các triệu chứng thiếu máu ở các cơ quan hoặc tổ chức.
Trong giai đoạn đầu, niêm mạc da của người bệnh trở nên nhợt nhạt nhất là ở bàn tay, niêm mạc miệng, môi, kết mạc… người bệnh cảm thấy mệt mỏi, sức yếu, chóng mặt ù tai, trí nhớ giảm sút, không tập trung tinh thần, mạch đập nhanh, thở gấp, ăn không ngon, trướng bụng, đi ngoài, hay đi tiểu, kinh nguyệt không đều, nhu cầu tình dục giảm… Khi thiếu máu một cách nghiêm trọng, người bệnh có thể bị hạ thân nhiệt, phù nước…
PHÙ LIM PHA KẾT, GAN VÀ LÁ LÁCH Có khoảng một nửa số bệnh nhân mắc bệnh máu trắng có thể sờ thấy hạch limpha kết phù lên tại các vị trí như cổ, xương quai xanh… Chẩn đoán sâu hơn, ở phần bụng có thể thấy gan, lá lách phù to.
Đương nhiên, triệu chứng gan, lá lách phù to không phải là triệu chứng đặc biệt của bệnh máu trắng, nếu mắc các bệnh như viêm gan, gan có mủ, ung thư gan… thì cũng có thể xuất hiện triệu chứng phù gan; Bệnh thiếu máu do tan máu, bệnh thương hàn… cũng có triệu chứng lá lách phù to. Khi xuất hiện các triệu chứng này, phải kịp thời đi khám bệnh để loại trừ các khả năng mắc bệnh.
ĐAU ĐẦU DỮ DỘI
Khi tế bào bệnh máu trắng xâm nhập vào tổ chức não và khoang dưới màng não, người bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng bất thường về hệ thần kinh. Màng não là một lớp màng trong suốt, nó có một khoảng cách nhất định với màng mềm che phủ bề mặt tổ chức não, được gọi là khoang dưới màng não. Chất dịch não trong khoang liên tục được tiết ra và ngấm vào máu, tạo ra một vòng tuần hoàn cho chất dịch não.
Khi các tế bào bệnh máu trắng xâm nhập vào màng não, khoang dưới màng não sẽ bị hẹp lại, làm cho quá trình tuần hoàn chất dịch não gặp trở ngại, gây ra triệu chứng não tích thủy. Khi đó, người bệnh sẽ gặp phải những cơn đau đầu như muốn nổ tung đầu, buồn nôn, nôn, thị lực giảm sút… nếu tế bào bệnh máu trắng tập trung tại xung quanh tiểu huyết quản của não thì sẽ gây ra hiện tượng tắc tiểu huyết quản hoặc xuất huyết do tắc, người bệnh sẽ không chỉ đau đầu, mà còn có thể bị tê liệt, thậm chí hôn mê.
NHIỄM TRÙNG PHỔI
60% số bệnh nhân mắc bệnh máu trắng ở giai đoạn nặng, tế bào bệnh máu trắng sẽ xâm nhập vào phổi, gây ra các triệu chứng như: hạ nhiệt, ho nhẹ, viêm họng…
ĐAU XƯƠNG
Biểu hiện rõ nhất là ở những bệnh nhân mắc bệnh máu trắng tế bào limpha cấp tính và ở những bệnh nhân là trẻ em. Nguyên nhân chính là do tốc độ gia tăng của tế bào bệnh máu trắng trong tủy xương vượt quá tốc độ giải phóng hồng cầu vào máu, tế bào bệnh máu trắng tập trung trong tủy xương, làm tăng áp lực lên khoang tủy xương, sản sinh ra cảm giác đau.
Nguồn dinh dưỡng của xương là từ các mạch máu dưới màng cốt, khi màng cốt bị các tế bào bệnh máu trắng xâm chiếm, việc cung cấp máu cho xương bị ảnh hưởng, dẫn đến hiện tượng loãng xương hoặc thậm chí xương bị phân giải, gây ra cảm giác đau đớn.
Khi áp dụng phương pháp hóa trị, vật chất thay thế được sản sinh ra khi một số lượng lớn các tế bào bệnh máu trắng bị giết chết sẽ gây ra triệu chứng đau khớp.
Bệnh nhân mắc bệnh máu trắng có thể có nhiều triệu chứng khác, tùy thuộc vào vị trí xâm nhập của tế bào bệnh máu trắng. Khi cơ thể có các biểu hiện bất thường, nên liên hệ kịp thời với bác sỹ để phát hiện bệnh sớm, áp dụng các biện pháp điều trị.
NHỮNG NGƯỜI MẮC BỆNH MÁU TRẮNG PHÒNG TRÁNH BỊ CẢM CÚM NHƯ THẾ NÀO?
Những bệnh nhân mắc bệnh máu trắng do chức năng miễn dịch bị rối loạn nên sức đề kháng của cơ thể giảm sút, rất dễ bị cảm cúm, hơn nữa, khả năng hồi phục chậm, dễ bị mắc bệnh viêm phổi hơn người bình thường. Phòng tránh cảm cúm đối với người mắc bệnh máu trắng chủ yếu có 6 nguyên tắc sau:
1. Hạn chế những hoạt động ở nơi công cộng. Những nơi công cộng là những nơi tập trung đông người, virút cúm, cầu khuẩn viêm phổi sống ký sinh ở bộ phận khoang mũi và họng của người. Chúng sẽ theo hơi thở và nước bọt của người bay vào không khí.
2. Tránh để quá căng thẳng hoặc mệt mỏi. Việc quá căng thẳng hoặc quá mệt mỏi có thể dẫn đến rối loạn chức năng trao đổi chất của cơ thể. Mệt mỏi và sức đề kháng giảm sút chính là kết quả của sự rối loạn này. Việc kết hợp làm việc và nghỉ ngơi là vô cùng quan trọng.
3. Tăng cường phòng vệ cá nhân: ví dụ như dựa vào sự thay đổi của thời tiết mà kịp thời mặc thêm áo ấm, mỗi ngày nên súc miệng bằng nước muối 3 – 4 lần, bát đũa phải sấy khô tiêu độc, mùa cảm cúm khi ra ngoài nên đeo khẩu trang…
4. Phòng ở phải luôn thông thoáng, mỗi ngày mở cửa cho thông gió khoảng 2 lần, mỗi lần từ 30 phút trở lên, để làm sạch không