🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa - Đới Tư Kiệt full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo BALZAC VÀ CÔ BÉ THỢ MAY TRUNG HOA Đới Tư Kiệt Dịch giả Phạm Văn Nguồn: http://vnthuquan.net LỜI NÓI ĐẦU Đới Tư-Kiệt sinh năm 1954 tại Trung Hoa. Từ 1971 tới 1974 ông bị đi học tập cải tạo như mọi thanh niên khác trong thời Cách mạng Văn hoá. Ông rời Trung Hoa sang Pháp năm 1984 và sống ở đó cho tới nay. Balzac et la Petite Tailleuse chinoise là tiểu thuyết đầu tay của ông, do Gallimard xuất bản năm 2000 tại Pháp, và trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong năm với 5 giải thưởng, và đã được quay thành phim do chính ông đạo diễn. Bản tiếng Việt Balzac và Cô Bé Thợ May Trung Hoa sau đây dịch theo bản tiếng Anh, Balzac and the Little Chinese Seamstress, của Ina Rilke, Alfred A. Knopf xuất bản năm 2001 tại New York. Người dịch Chương 1 Trưởng làng khoảng năm mươi, ngồi khoanh chân giữa phòng, cạnh đống than cháy trong lò sưởi lõm xuống nền nhà, ông đang xem xét cây vĩ cầm của tôi. Trong số những vật sở hữu hai "thiếu niên thành phố" mang đến ngôi làng miền núi này - họ nhìn Lạc và tôi như thế - cây vĩ cầm là món duy nhất toát vẻ ngoại lai, vẻ văn minh, và do đó đáng ngờ. Một nông dân cầm đèn dầu tiến tới để nhận dạng vật lạ. Trưởng làng giơ thẳng cây vĩ cầm, nhìn săm soi trong thùng đàn tối, như nhân viên quan thuế nhiễu sự tìm ma túy. Tôi thấy mắt trái ông có ba đốm máu, một đốm lớn và hai đốm nhỏ, cùng một sắc đỏ tươi. Nâng cây vĩ cầm lên ngang tầm mắt, ông lắc nó, như tin chắc sẽ có vật gì trong lỗ âm thanh rơi ra. Ông xét hăng tới nỗi tôi sợ đứt dây đàn. Hầu như cả làng đến ngôi nhà sàn trên núi để chứng kiến thiếu niên thành phố tới. Đàn ông, đàn bà và trẻ con nhung nhúc trong căn phòng chật cứng, bám vào cửa sổ, chen lấn nơi cửa ra vào. Không có gì trong cây vĩ cầm của tôi rơi ra, trưởng làng dí mũi vào lỗ âm thanh hít mạnh một hơi dài. Vài sợi lông cứng bên mũi trái thòi ra rung nhẹ. Vẫn chẳng có manh mối gì. Ông vuốt đầu ngón tay chai sần trên một dây đàn, rồi dây khác… Tiếng vang kỳ lạ khiến đám đông sững lại như thể âm thanh đã gây được sự kính nể nào đó. Trưởng làng long trọng nói: "Đồ chơi." Phán quyết này khiến chúng tôi cứng họng. Lạc và tôi liếc trộm nhau bồn chồn. Sự thể không khá. Một nông dân nhận "đồ chơi" từ tay trưởng làng, đấm nắm tay vào lưng đàn, rồi đưa cho người kế cận. Cây vĩ cầm của tôi chuyền qua đám đông một lúc, và chẳng ai để ý đến chúng tôi - hai thiếu niên thành phố yếu đuối, gầy gò, mệt lả và tức cười. Cả ngày chúng tôi lặn lội qua rặng núi, áo quần, mặt mũi, tóc tai bết bùn đất. Trông chúng tôi như bọn lính phản động thảm hại trong phim tuyên truyền sau khi bị đám công nhân nông nghiệp cộng sản bắt giữ. Một bà khàn khàn bình phẩm: "Đồ chơi vớ vẩn." Trưởng làng chỉnh bà: "Không phải, đồ chơi tư sản." Tôi lạnh tới xương mặc dù lửa sáng rực giữa phòng. Trưởng làng nói tiếp: "Đồ chơi thành phố, thôi, đốt nó đi!" Lịnh ông kích động đám đông. Mọi người đồng loạt lên tiếng, la hét và vói lấy món đồ chơi để được vinh hạnh ném nó vào đống than. Lạc nói, cố lấy vẻ hững hờ: "Thưa đồng chí, đó là nhạc cụ, và bạn cháu đây là một nhạc công khá. Thật đấy." Trưởng làng bảo mang cây vĩ cầm đến soát một lần nữa, rồi đưa tôi. Tôi lúng túng nói: "Xin lỗi đồng chí, cháu không khá lắm." Tôi thấy Lạc lén nháy mắt. Bối rối, tôi nhận cây đàn và bắt đầu lên dây. Lạc tuyên bố, vẫn ung dung như trước: "Đồng chí sắp nghe là bản sonata của Mozart." Tôi chết lặng người. Nó điên hay sao? Tất cả nhạc của Mozart, hay thật ra của bất cứ nhạc sĩ phương tây nào khác đều bị cấm từ lâu. Chân tôi biến thành nước đá trong đôi giầy ướt sũng. Tôi run rẩy, cái lạnh bấu chặt lấy tôi. Trưởng làng ngờ vực hỏi: "Sonata là cái gì?" Tôi ngập ngừng: "Cháu không biết. Tiếng tây phương." "Bài hát à?" Tôi nói lảng: "Gần như vậy." Ngay lập tức con người cộng sản cảnh giác lại xuất hiện trong cặp mắt trưởng làng, giọng ông đổi sang thù nghịch: "Tên bài hát này của mày là gì?" "À, giống như bài hát, nhưng thật ra là bản sonatạ " Ông ngắt lời, trừng mắt nhìn tôi: "Tao hỏi tên là gì!" Một lần nữa tôi lại sợ ba đốm máu trong mắt trái ông. Tôi lầm bầm: "Mozart…" "Mozart cái gì?" Lạc chen vào: "Mozart Tưởng Nhớ Mao Chủ Tịch." Đồ cả gan! Nhưng được việc: trưởng làng như nghe được phép lạ, vẻ nhìn đe doa. của ông dịu lại. Ông sung sướng cười tít mắt. Ông nói: "Mozart lúc nào cũng tưởng nhớ đến Mao chủ tịch." Lạc tán đồng: "Đúng vậy, lúc nào cũng nhớ." Tiếng hoan hô bật lên khi tôi siết dây cung, nhưng tôi vẫn lọ Tuy nhiên, khi các ngón tay sưng vù chạy trên dây đàn, dòng nhạc Mozart tràn về như bao nhiêu người bạn trung thành. Khuôn mặt nông dân mấy phút trước còn dữ tợn đã dịu lại dưới tiếng nhạc trong sáng của Mozart, như mặt đất khô nẻ dưới cơn mưa, và trong ánh bập bùng của ngọn đèn dầu, họ nhoà đi thành một. Tôi đàn một lát. Lạc đốt thuốc, lặng lẽ hút như người lớn. Chúng tôi nếm mùi cải tạo đầu tiên như thế. Lạc mười tám tuổi, tôi mười bảy. ❃ ❖ ❊ Vài lời về học tập cải tạo: cuối năm 1968, Người Thuyền Trưởng Vĩ Đại của Cách mạng Trung Hoa, Mao chủ tịch, phát động một chiến dịch làm biến đổi đất nước tận gốc rễ. Đại học đóng cửa, tất cả "trí thức trẻ", nghĩa là bọn con trai con gái tốt nghiệp trung học, bị đưa về thôn quê để được "cải tạo bởi bần nông". (Vài năm sau tư tưởng không tiền khoáng hậu này gây cảm hứng cho một nhà cách mạng khác ở Á châu, lần này là Cam Bốt, để thực hiện một kế hoạch thậm chí tham vọng và triệt để hơn: ông ta đày toàn bộ dân thủ đô, già cũng như trẻ, "về nông thôn"). Không ai rõ lý do thật đằng sau quyết định của Mao Trạch Đông. Có phải là thủ đoạn gạt bỏ Vệ binh Đỏ đang tuột khỏi vòng kiểm soát của ông? Hay là ảo tưởng của một nhà cách mạng hoang tưởng vĩ đại muốn tạo một thế hệ mới? Không ai biết động cơ thực của ông. Hồi đó Lạc và tôi thường bí mật bàn bạc như hai kẻ âm mưu. Chúng tôi kết luận rằng tất cả chỉ vì Mao ghét giới trí thức. Chúng tôi không phải là kẻ đầu tiên bị dùng làm vật thí nghiệm trong cuộc thí nghiệm vĩ đại bằng người này, cũng chẳng phải là kẻ cuối cùng. Đầu năm 1971, chúng tôi đến ngôi làng ở xó núi, và tôi chơi vĩ cầm cho trưởng làng. So với bạn đồng lứa, chúng tôi không đến nỗi tệ lắm. Hàng triệu thanh niên đã đi trước, và hàng triệu sẽ theo sau. Nhưng hoàn cảnh chúng tôi thật mỉa mai, vì cả Lạc và tôi chưa đứa nào xong trung học. Chúng tôi chưa được may mắn theo học ở một trường cấp cao. Khi bị gửi lên miền núi như tiểu trí thức, chúng tôi mới có ba năm cấp hai theo luật định. Khó mà thấy làm sao hai đứa tôi có thể đủ tư cách là trí thức, trong hoàn cảnh kiến thức chúng tôi học được ở trường cấp hai là số không. Giữa tuổi mười hai và mười bốn, chúng tôi phải đợi Cách mạng Văn hoá lắng xuống trước khi trường mở cửa lại. Và rốt cuộc khi được nhập học, chúng tôi cay đắng thất vọng: môn toán bị loại khỏi giáo trình, cũng như vật lý và hoá học. Từ đó, các bài học giới hạn vào những khái niệm cơ bản về kỹ nghệ và nông nghiệp. Bìa sách giáo khoa vẽ hình công nhân, cánh tay to như Sylvester Stallone, đội mũ kết và vung cây búa khổng lồ. Bên cạnh là chị nông dân, hay đúng hơn, một đảng viên Cộng sản trong lớp vỏ chị nông dân, đội khăn đỏ (theo câu nói đùa tục tĩu trong bọn học trò chúng tôi, chị thắt khăn vệ sinh quanh đầu). Trong nhiều năm, các cuốn sách giáo khoa đó và Sách Đỏ của Mao là nguồn kiến thức duy nhất của chúng tôi. Mọi sách khác đều bị cấm. Thoạt tiên, chúng tôi không được nhận vào trung học, rồi vai trò trí thức trẻ khoác lên chúng tôi, vì lý do cha mẹ bị dán nhãn hiệu "kẻ thù trong nhân dân". Cha mẹ tôi là bác sĩ. Cha tôi chuyên về phổi, mẹ tôi là cố vấn về bịnh ký sinh trùng. Cả hai làm việc tại bịnh viện ở Thành Đô, một thành phố có bốn triệu dân. Tội của họ là "chuyên gia khoa học thối tha", tiếng tăm khiêm nhường ở cấp tỉnh. Thành Đô là thủ phủ của Tứ Xuyên, một tỉnh có dân số một trăm triệu. Xa Bắc Kinh, nhưng rất gần Tây Tạng. So với cha mẹ tôi, cha Lạc là một nha sĩ nổi tiếng khắp Trung quốc, một danh nhân thực sự. Một hôm, trước khi Cách mạng Văn hoá, ông kể cho sinh viên rằng ông đã chữa răng Mao Trạch Đông cũng như bà Mao và Tưởng Giới Thạch, tổng thống nền Cộng hoà trước khi Cộng sản tiếp quản. Có kẻ bao nhiêu năm ngắm chân dung Mao mỗi ngày, để ý răng ông rất ố, nếu không nói là vàng, nhưng chẳng ai nói ra. Nhưng đây là một nha sĩ xuất sắc, công khai nói Người Thuyền Trưởng Vĩ Đại của Cách mạng trồng răng giả, khơi khơi như thế. Không thể tin nổi, một tội ác điên rồ không thể tha thứ, tệ hơn tiết lộ bí mật quốc gia. Nặng tội hơn nữa là đã dám nhắc tên Mao và vợ Ông cùng một hơi với thứ cặn bã tệ hại nhất trên trái đất: Tưởng Giới Thạch. Gia đình Lạc sống nhiều năm trong căn chung cư cạnh chúng tôi, trên từng ba và sân thượng một toà nhà gạch. Lạc là con thứ năm của ba nó, và là con duy nhất của mẹ nó. Tôi không nói quá khi bảo rằng Lạc là bạn thân nhất của mình. Chúng tôi cùng lớn lên, cùng chia sẻ mọi kinh nghiệm, thường là khó khăn. Chúng tôi ít khi cãi nhau. Tôi không bao giờ quên một lần chúng tôi ẩu đả, hay đúng hơn lần nó đánh tôi hè năm 1968. Nó mười lăm, tôi vừa lên mười bốn. Chiều hôm đó có mít tinh lớn ở sân thể thao của bịnh viện nơi cha mẹ chúng tôi làm việc. Cả hai đứa đều biết cha Lạc là đối tượng của cuộc biểu tình, một buổi đấu tố công khai nữa đang đợi ông. Gần năm giờ chưa ai về, Lạc rủ tôi cùng đi với nó tới bịnh viện. Nó nói: "Mình sẽ ghi xuống mọi đứa tố giác hay đánh ba tao, để khi lớn lên mình sẽ trả thù." Sân vận động nhấp nhô đầu đen. Hôm đó rất nóng. Loa phóng thanh oang oang. Cha Lạc đang bò trước khán đài. Một phiến xi măng lớn đeo quanh cổ bằng sợi dây thép cắt sâu vào da, ghi tên và tội của ông: PHẢN ĐỘNG. Thậm chí từ chỗ đứng cách ba mươi thước, tôi có thể thấy mồ hôi trán ông nhỏ xuống thành đốm đen trên mặt đất. Một giọng nam gầm lên trong loa: "Hãy thú nhận là mày đã ngủ với y tá!" Cha Lạc gục đầu, thấp tới nỗi mặt ông như chôn trong phiến xi măng. Micro dí vào miệng ông, một tiếng "có" yếu ớt run rẩy phát ra. Giọng kẻ tra khảo quát lên trong loa: "Kể cho rõ! Ai khởi sự?" "Tôi." "Rồi gì nữa?" Vài giây im lặng. Rồi cả đám đông đồng thanh hét lên: "Rồi gì nữa?" Tiếng thét của hai ngàn người, như tiếng sấm nổ trên đầu chúng tôi. Cha Lạc thú nhận: "Tôi khởi sư... " "Rồi sao! Kể chi tiết!" "Nhưng vừa sờ tới cô ấy, tôi... mờ mịt." Chúng tôi về khi đám đông cuồng tín tiếp tục màn tra khảo tập thể. Trên đường về, bất chợt tôi thấy nước mắt tràn xuống má, và hiểu rằng mình mến ông nha sĩ biết bao. Ngay lúc đó, không nói một lời, Lạc đấm tôi. Tôi sửng sốt tới nỗi gần mất thăng bằng. ❃ ❖ ❊ Năm 1971, hai chúng tôi - một đứa là con của chuyên gia về phổi, đứa kia là con của kẻ thù giai cấp lừng danh vì đã được đặc ân đụng tới răng Mao chủ tịch - không khác lắm với hơn trăm đứa "trí thức trẻ" bị đày tới vùng núi có tên Phụng Hoàng. Cái tên là một cách nên thơ cho biết độ cao kinh khủng của nó. Lũ se sẻ tồi tàn và loài chim tầm thường của đồng bằng chẳng bao giờ bay nổi lên đỉnh núi, vì đó là nơi giành riêng cho loài có cánh trời: hùng dũng, thần thoại và vô cùng đơn độc. Không có đường lên núi, chỉ một lối đi hẹp len lỏi dốc qua những vách đá lớn hiểm trở. Muốn thấy xe hơi, tiếng còi xe, hơi thức ăn nhà hàng, thật ra bất kỳ dấu hiệu văn minh nào, phải lặn lội hai ngày qua vùng núi lởm chởm. Sau một trăm cây số sẽ tới bờ sông Nhã và thị trấn nhỏ tên Vĩnh Kính. Người phương tây duy nhất từng đặt chân đến đó là nhà truyền giáo Pháp, cha Michel, khi thử tìm đường khác đến Tây Tạng hồi thập niên 1940. Tu sĩ dòng Tên chép trong sổ tay của ông: "Huyện Vĩnh Kính không thiếu hấp dẫn. Một ngọn núi, tên địa phương là Phụng Hoàng, rất đáng chú ý. Nổi tiếng nhờ đồng, từ cổ xưa đã được khai thác để đúc tiền, thiên hạ nói một hoàng đế nhà Hán tặng ngọn núi cho sủng thần của ông, vốn là một trong các trưởng thái giám trong cung. Nhìn lên sườn dốc chóng mặt quanh mình, tôi chỉ nhận ra một lối mòn từ khe vực mờ lên tít tận trời, rồi dường như tan vào sương mù. Tôi thấy một toán cu li đang xuống lối đó, gồng gánh như bầy thú với những sọt đồng lớn buộc lên lưng. Nghe nói sản xuất đồng đã giảm từ nhiều năm nay, chủ yếu vì vận chuyển khó khăn. Hiện nay, điều kiện địa lý núi non khác thường đã khiến dân địa phương trồng thuốc phiện. Người ta khuyên đừng lên, vì dân trồng á phiện đều có vũ khí. Sau khi thu hoạch, họ để thì giờ tấn công bất cứ ai tạt ngang. Vì thế tôi đành từ xa quan sát vùng đất hoang dã và vắng vẻ, có đại thụ rậm rạp che phủ, dây leo chằng chịt và thảo mộc xum xuê khiến ta nghĩ sẽ gặp cướp trong bóng râm nhảy ra bất cứ lúc nào". Phụng Hoàng gồm khoảng hai mươi làng rải rác dọc lối mòn độc đạo quanh co, hoặc ẩn sâu trong các thung lũng âm ụ Bình thường, mỗi làng nhận năm hay sáu thiếu niên thành thị. Nhưng làng tôi tít trên đỉnh và nghèo nhất, chỉ có thể nhận hai: Lạc và tôi. Bọn tôi được xếp chỗ ở ngay trong căn nhà sàn, nơi trưởng làng đã kiểm tra cây vĩ cầm của tôi. Ngôi nhà này là tài sản của làng, và không xây để ở. Bên dưới, giữa cột gỗ chống sàn, là chuồng heo nhốt một con heo nái lớn mập mạp - cũng là tài sản chung. Khung nhà làm bằng ván thô, tường không sơn và lộ rầm, giống kho chứa bắp, gạo và dụng cụ cần sửa chữa hơn. Nó cũng là chỗ hẹn hò lý tưởng cho các cặp ngoại tình. Suốt những năm cải tạo của chúng tôi, ngôi nhà sàn vẫn hầu như hoàn toàn không có đồ đạc. Thậm chí không bàn ghế, chỉ có hai cái giường tạm đẩy sát tường, trong một gian nhỏ không cửa sổ. Tuy nhiên, nhà chúng tôi chẳng bao lâu trở thành tâm điểm của làng, nhờ một con phụng hoàng khác, một tiểu bản gần như tí hon và rất trần tục, chủ nó là Lạc bạn tôi. ❃ ❖ ❊ Thật ra, nó không hẳn phụng hoàng mà là con gà trống tự đắc, lông như lông công, lóng lánh màu lục điểm mấy vết xanh thẫm. Dưới lớp kính bụi mờ của cái đồng hồ báo thức của Lạc, cái mỏ nhọn đen như mun của nó mổ nền nhà vô hình, trong khi kim giây chầm chậm bò quanh mặt đồng hồ. Rồi nó ngửng đầu, ngoác mỏ, rũ lông, hài lòng thấy rõ, thoa? mãn với những hạt gạo tưởng tượng. Cái đồng hồ tí hon, hiển nhiên nhờ nhỏ đã thoát sự chú ý của trưởng làng hôm chúng tôi đến. Nó vừa với lòng bàn tay, và phát tiếng leng keng duyên dáng khi chuông báo thức. Trước khi chúng tôi đến, trong làng chưa bao giờ có đồng hồ báo thức, thật ra chẳng có cái đồng hồ nào. Người ta xem giờ bằng mặt trời lên xuống. Chúng tôi ngạc nhiên thấy cái đồng hồ báo thức đã gợi trí tưởng tượng của nông dân như thế. Nó hầu như trở thành một vật đáng kính. Mọi người đến thỉnh giáo đồng hồ, như thể căn nhà sàn của chúng tôi là ngôi đền. Mỗi sáng đều cùng một nghi lễ: trưởng làng đi tới lui, hút điếu cày dài như khẩu súng trường kiểu cổ, mắt không rời cái đồng hồ. Đúng chín giờ, ông sẽ rít một hồi còi điếc tai gọi dân làng ra ruộng. Ông hét, nhắm vào các căn nhà chung quanh: "Tới giờ! Nghe không? Tới giờ nhấc lưng lên, quân lười biếng, đồ bò thiến đẻ! Tụi bay đợi gì nữa?" Lạc và tôi chẳng đứa nào hăng hái với lao động cưỡng bách trên ngọn núi có những lối đi khúc khuỷu lên cao mãi đến khi khuất trong mây, những lối đi thậm chí không đủ rộng cho xe cút kít, vì thế thân người là phương tiện vận chuyển duy nhất. Chúng tôi sợ nhất phải mang thùng phân trên lưng. Thùng gỗ hình bán trụ, làm để chuyên mang mọi loại phế thải của người và thú. Mỗi ngày chúng tôi phải đổ đầy phân và nước vào "thùng lưng", vác lên vai và leo lên sườn núi tới cánh đồng, nhiều chỗ trên độ cao chóng mặt. Mỗi bước chúng tôi đều nghe tiếng nước thải lõm bõm trong thùng ngay sau tai mình. Chất sền sệt thấm qua nắp, nhỏ xuống thân chúng tôi đến khi ướt đẫm. Bạn đọc thân mến, tôi sẽ không kể chi tiết mỗi bước chân loạng choạng, chỉ nói rằng mỗi sẩy chân là một tai hoa. chết người. Một hôm chúng tôi thức dậy, nghĩ đến những thùng lưng đợi mình cũng đủ nản tới mức không ngồi lên nổi. Khi nghe bước chân trưởng làng tới gần, chúng tôi vẫn nằm trong giường. Gần chín giờ, nhìn con gà trống đầy trách nhiệm mổ thóc, Lạc động não: ngón út nó xoay kim đồng hồ ngược lại một giờ. Chúng tôi quay về giường để hưởng thú nằm nướng, càng thú hơn khi biết trưởng làng đang đi tới lui, hút điếu cày bên ngoài. Trò táo bạo đã giúp dằn nỗi uất ức của chúng tôi đối với những kẻ ngày xưa trồng thuốc phiện, nay được chế độ cộng sản cải sang "bần nông" đang chịu trách nhiệm cải tạo chúng tôi. Sau buổi sáng lịch sử đó, chúng tôi có thói quen điều chỉnh giờ trên đồng hồ báo thức. Hoàn toàn tùy theo chúng tôi cảm thấy thế nào, cả thể xác lẫn tinh thần. Đôi khi, thay vì xoay ngược đồng hồ, chúng tôi vặn lên một hay hai giờ để sớm xong ngày làm việc. Cuối cùng chúng tôi vặn kim đồng hồ nhiều lần tới nỗi không còn biết giờ thực nữa. ❃ ❖ ❊ Núi Phụng Hoàng hay mưa. Hầu như cứ ba ngày có hai ngày mưa. Hiếm khi bão hay mưa tầm tã, thay vào đó mưa phùn đều đều, âm ỉ dường như không dứt. Các đỉnh núi và vực thẳm quanh căn nhà sàn của chúng tôi liên miên che phủ trong chướng khí dầy đặc. Bức toàn cảnh hư ảo khiến chúng tôi nản. Khí ẩm triền miên trong căn chòi và ẩm thấp ngột ngạt giữa các bức tường tệ hơn sống trong hầm. Đôi khi Lạc mất ngủ. Nó ngồi dậy, thắp đèn dầu, và bò dưới gầm giường tìm đầu thuốc lá còn quên đâu đó. Từ bóng tối ngoi lên lại, nó ngồi khoanh chân trên giường và chất đống đầu thuốc ẩm ướt trên mẩu giấy (thường là lá thư quí giá của gia đình nó) và hong khô trên ngọn đèn dầu. Rồi nó gom những sợi thuốc, chính xác như thợ đồng hồ, không mất một sợi nào. Sau khi quấn xong thuốc, nó tắt đèn và ngồi hút trong bóng tối, nghe tiếng đêm yên lắng chỉ có tiếng ủn ỉn nghèn nghẹn của con heo nái đang đứng chôn chân trong vũng bùn bên dưới. Thỉnh thoảng mưa kéo dài nhiều ngày không dứt, và thiếu thuốc càng lúc càng trở nên khó chịu. Một lần Lạc thức tôi dậy nửa đêm. "Tao tìm không ra đầu thuốc nào." "Thì sao?" "Tao xuống tinh thần. Sao mày không chơi vĩ cầm đỉ" Tôi làm theo lời nó. Vừa buồn ngủ vừa nâng cây vĩ lên, bỗng nhiên tôi nghĩ về bố mẹ nó và tôi: phải chi bố mẹ thấy ánh đèn dầu heo hắt trong căn nhà sàn, phải chi bố mẹ nghe nhạc điệu tiếng vĩ cầm của tôi giữa tiếng heo nái ủn ỉn... Nhưng chẳng có ai nghe. Ngay cả một dân làng. Láng giềng gần nhất của chúng tôi ở xa ít nhất một trăm thước. Bên ngoài trời mưa. Không phải cơn mưa phùn thường lệ, mà là trận mưa như trút gõ lên mái ngói. Chả trách khiến Lạc buồn thêm: chúng tôi tưởng như mình phải chịu đọa đầy cải tạo cả đời. Bình thường con cái gia đình trung bình, công nhân hay trí thức cách mạng, miễn là tránh xa rắc rối, có thể bảo đảm sẽ được đoàn tụ với gia đình sau chỉ hai năm cải tạo. Đó là đường lối chính thức của Đảng. Nhưng với con cái các gia đình bị liệt vào loại kẻ thù nhân dân, cơ hội về cực nhỏ: ba phần ngàn. Theo thống kê, Lạc và tôi thuộc loại vô vọng. Chúng tôi thấy một viễn ảnh buồn nản, già hói trong căn nhà sàn, và chết ở đó nữa, sau đó chúng tôi sẽ được bọc trong vải liệm trắng theo phong tục của vùng. Có rất nhiều lý do để chán ngán và mất ngủ. Tối hôm đó, tôi chơi một đoạn của Mozart, vài khúc của Brahms, và cuối cùng bản sonata của Beethoven, nhưng dù vậy vẫn không làm bạn tôi phấn chấn. Nó nói: "Thử bài gì khác đị" "Có ý kiến gì không?" "Cái gì vui hơn." Tôi ngẫm nghĩ, lục hết vốn nhạc phẩm ít ỏi trong đầu của mình, nhưng không tìm được gì. Lạc bắt đầu ngân nga một điệu cách mạng. Nó hỏi: "Mày thấy sao?" "Mê mẩn." Tôi lập tức đệm vĩ cầm theo. Bài hát Tây Tạng đặt lại lời Hoa để biến thành bài ca ngợi Mao chủ tịch. Nhưng cải biên lời ca không làm hỏng khúc hát lắm: vẫn nâng cao tinh thần. Hào hứng, Lạc bò lên và bắt đầu nhảy tưng tưng trên giường, theo tiếng mưa tí tách đều đều nhỏ qua mái ngói vỡ. "Ba phần ngàn", óc tôi thoáng nghĩ mình có ba phần ngàn cơ hội, và tên nghiện thuốc u sầu của chúng tôi đang đội lốt diễn viên múa còn ít cơ hội hơn. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ là một tay vĩ cầm tài năng. Một ủy ban tuyên truyền khiêm tốn của địa phương hay vùng - trong huyện Vĩnh Kính chẳng hạn - mở cửa nhận tôi, và thậm chí có thể thuê tôi kéo bản hoà tấu Đỏ cho vĩ cầm. Nhưng tôi nhớ Lạc không biết chơi vĩ cầm, và nó cũng chẳng giỏi môn bóng rổ hay bóng đá. Thật ra nó không có một tài mọn nào có thể giúp nó trở thành một trong ba phần ngàn. Thậm chí nó không thể mơ tới. Điều duy nhất Lạc thật sự giỏi là kể chuyện. Một tài năng đáng mến, nhưng ngoài lề, không mấy tương lai. Con người hiện đại đã vượt qua thời Ngàn Lẻ Một Đêm, và xã hội tân tiến khắp nơi, bất kể xã hội hay tư bản, đã bỏ rơi người kể chuyện xưa - chưa nói là thương hại. Kẻ duy nhất trên thế gian thực sự thưởng thức tài năng của nó, tới mức trọng thưởng nó, là trưởng làng của chúng tôi, kẻ hâm mộ trịch thượng cuối cùng của tài kể chuyện. Phụng Hoàng sơn xa cách văn minh tới nỗi hầu hết dân cư chưa bao giờ có dịp xem phim, đừng nói tới chuyện đến rạp chiếu bóng. Lạc và tôi có vài dịp tiêu khiển trưởng làng bằng những truyện phim chúng tôi đã xem, và ông càng háo hức muốn nghe thêm. Một hôm, biết tháng sau có phim chiếu ở Vĩnh Kính, ông quyết định gửi Lạc và tôi tới xem. Chúng tôi được hai ngày nghỉ cho chuyến đi xuống thị trấn, và hai ngày để trở về, và chúng tôi sẽ phải xem buổi chiếu vào tối hôm đến nơi. Về làng, chúng tôi phải kể lại phim từ đầu đến cuối cho trưởng làng và mọi người, và kể câu chuyện kéo dài đúng như phim bản. Chúng tôi hân hoan nhận lời, và để yên chí chúng tôi ngồi xem hai lần liên tiếp. Sân bóng rổ trường trung học thị trấn tạm biến thành rạp chiếu bóng ngoài trời. Con gái địa phương tuyệt đẹp, nhưng chúng tôi buộc lòng phải tập trung vào màn ảnh, chú ý kỹ đối thoại, trang phục và động tác của diễn viên, bố cục từng cảnh, ngay cả âm nhạc. Về đến làng, chúng tôi làm một "buổi diễn xi nê nói" chưa từng thấy. Toàn thể dân làng chen chúc vào khoảng trống trước nhà sàn của chúng tôi. Trưởng làng ngồi giữa ở hàng trước, một tay cầm điếu cày, tay kia cầm con "phụng hoàng đất" của chúng tôi để tính khoảng thời giờ trình diễn. Tôi hoảng sân khấu, và chỉ nhận vai thuật lại phân cảnh một cách máy móc. Nhưng nơi đây, thiên tài kể chuyện của Lạc phát hiện. Nó lược sơ phần miêu tả, nhưng lần lượt đóng vai từng nhân vật, điều chỉnh giọng nói và cử chỉ đúng cách. Nó kiểm soát hoàn toàn buổi kể, giữ cho hồi hộp, chất vấn khán giả, bắt họ đáp và sửa câu trả lời của họ cho đúng. Lúc chúng tôi, đúng hơn là nó, tới màn kết, đúng trong giờ quy định, khán giả của chúng tôi mê ly. Trưởng làng tuyên bố với nụ cười hống hách: "Tháng sau tao sẽ gửi bay coi một phim nữa. Bay sẽ được tính công như làm việc ngoài đồng." Thoạt đầu, chúng tôi nghĩ chỉ là trò thay đổi không khí, chẳng bao giờ chúng tôi tưởng tượng đời mình, nhất là Lạc, sẽ hoàn toàn thay đổi. Chương 2 Công chúa núi Phụng Hoàng đi giầy vải bố màu hồng nhạt, vừa bền chắc vừa mềm, có thể thấy ngón chân uốn éo khi cô đạp bàn máy maỵ Đôi giầy may lấy, rẻ tiền, không có gì đặc biệt, nhưng ở một nơi hầu như mọi người đi chân lấm, nó gây chú ý, có vẻ thanh tao và sành điệu. Bàn chân xinh xắn và mắt cá chân cô càng đẹp nhờ đôi vớ ny lông trắng. Bím tóc rộng ba bốn phân từ gáy dài xuống eo, đuôi tóc buộc dải lụa đỏ mới tinh. Khi cô cúi xuống máy may, bàn kim loại sáng loáng phản chiếu cổ áo trắng, khuôn mặt trái xoan và ánh mắt lấp lánh, rõ là cặp mắt đáng yêu nhất huyện Vĩnh Kính, nếu không nói là cả vùng. Thung lũng dốc ngăn cách làng cô và chúng tôi. Cha cô là thợ may độc nhất trên núi, thường vắng nhà, ngôi nhà cũ và rộng vừa là cửa tiệm vừa là chỗ ở. Nghề may của ông rất đắt hàng. Mỗi khi gia đình cần áo quần mới, trước tiên người ta xuống tận Vĩnh Kính mua vải, sau đó họ đến thăm thợ may hỏi kiểu, giá và ngày thuận tiện để ông đến maỵ Tới ngày hẹn, một đoàn hộ tống đến đón ông vào sáng tinh mơ, cùng vài người khoẻ mạnh thay nhau vác máy may trên lưng. Ông thợ có hai cái máy maỵ Cái cũ ông mang theo từ làng này sang làng khác, hiệu và tên nhà sản xuất đã mờ. Cái thứ hai còn mới, Made in Shanghai, ông để ở nhà cho con gái, "cô bé thợ may". Ông không bao giờ dẫn con theo, và quyết định này khôn ngoan nhưng độc địa, gây bao đau khổ cho tất cả bọn thanh niên muốn cô để mắt xanh tới. Bác phó may sống như vuạ Nơi nào ông đến cũng có cảnh náo nhiệt như hội làng. Nhà của khách hàng chan hoà tiếng máy may, trở thành trung tâm của đời sống thôn làng, là dịp cho gia đình chủ nhà khoe giầu. Ông sẽ được mời thức ăn ngon nhất, và đôi khi, nếu năm hết Tết đến, họ thậm chí có thể mổ thịt một con heo. Ông thường ở một hay hai tuần mỗi làng, trọ lần lượt với từng khách hàng đủ loại của mình. Lạc và tôi lần đầu gặp ông thợ may lúc chúng tôi đi thăm Bốn Mắt, một bạn cũ bị gửi tới một làng khác. Trời mưa, chúng tôi phải bước cẩn thận theo lối đi dốc trơn trợt khuất trong sương mù trắng đục. Dù thận trọng chúng tôi cũng ngã lăn xuống bùn mấy bận. Bất chợt tới khúc quẹo, bọn tôi thấy đám rước đi hàng một về hướng mình, tháp tùng cái kiệu khiêng một ông trung niên ngồi chễm chệ. Sau đoàn rước vương giả này là anh phu buộc máy may trên lưng. Ông cúi xuống nói với phu khiêng kiệu, và hình như hỏi về chúng tôi. Ông có khổ người mảnh khảnh, nhăn nheo, nhưng tràn đầy năng lực. Cái kiệu buộc vào hai thanh tre chắc, đặt trên vai hai người khiêng, một phía trước và một phía sau. Chúng tôi nghe tiếng kiệu và đòn kẽo kẹt nhịp theo bước đi nặng nề, chậm chạp của phu khiêng. Khi bọn tôi sắp đi ngang kiệu, ông thợ may chồm trên tôi, gần tới nỗi tôi cảm thấy hơi thở của ông. Ông ồm ồm, bắt chước tiếng Anh: "Oai- Ô-lin!" Giọng ông như sấm nổ khiến tôi giật mình, và ông cười rộ. Ông đúng là hình ảnh của một lãnh chúa thất thường. Một người khiêng kiệu hỏi: "Chú mày có biết trên núi này ông thợ may của mình là người đi nhiều nhất không?" Nhà đại lữ khách tuyên bố trước khi chúng tôi kịp trả lời: "Hồi nhỏ, thậm chí tôi tới tận Nhã An cách Vĩnh Kính hai trăm cây số. Lúc tôi còn trẻ, thầy tôi có cây đàn như của chú treo trên tường nhà thầy để gây ấn tượng với khách hàng." Rồi ông im lặng, và đoàn rước lại lên đường. Trước khi khuất bóng, ông quay lại hô một lần nữa: "Oai- Ô-lin!" Phu khiêng và mười nông dân hộ tống chậm rãi ngửng đầu kêu một tiếng dài "Oai- Ô-lin!", âm thanh méo mó tới nỗi nghe như tiếng than đau khổ hơn là tiếng Anh. Họ cười như một đám trẻ tinh nghịch, rồi cúi đầu tiếp tục đi. Chẳng bao lâu đám rước chìm vào sương mù. Vài tuần sau, chúng tôi mạo hiểm vào sân nhà ông, nơi có con chó mực lớn nhìn chúng tôi đăm đăm nhưng không sủa. Chúng tôi vào cửa hàng. Ông cụ vắng nhà đi may, con gái ông, cô bé thợ may, chào chúng tôi. Chúng tôi nhờ cô nới quần của Lạc thêm năm phân. Thiếu ăn, mất ngủ, và khắc khoải lo âu về tương lai vẫn không ngăn nó lớn. Lạc tự giới thiệu mình với cô bé thợ may, kể chuyện gặp cha cô trong mưa và sương mù. Nó không cưỡng được phải bắt chước và cường điệu cách phát âm tiếng Anh tức cười của ông cụ. Cô phá lên cười. Lạc là đứa nhại vai bẩm sinh. Lúc cô cười, tôi để ý vẻ hoang dại trong mắt cô, giống các cô gái hoang dã bên triền núi của chúng tôi. Mắt cô có ánh của viên ngọc chưa gọt, của kim loại chưa đánh bóng, càng tôn lên nhờ hàng mi dài và mi mắt xếch thanh tú. Cô nói: "Các anh đừng để ý tới ổng. Ông cụ hài đồng ấy mà." Mặt cô bỗng sầm lại, mắt hạ thấp. Cô dùng móng tay cạo mặt bàn máy may. "Mẹ tôi mất sớm. Từ đó, ông thích gì thì cứ làm thôi." Nước da cô rực rỡ, và nét xinh xắn gần như quí phái. Khuôn mặt có nét đẹp gợi cảm, hấp dẫn, làm chúng tôi muốn ở lại xem cô đạp cái máy Made in Shanghai. Căn phòng dùng làm cửa hiệu, vừa là nơi làm việc vừa là phòng ăn. Sàn gỗ đầy bụi và đờm dãi vàng và đen vì khách hàng khạc nhổ. Có thể nói sàn nhà không được chùi mỗi ngày. Áo quần may xong treo lên mắc áo móc trên sợi dây căng giữa phòng. Xó nhà chất đống các bó vải và áo quần đã gấp, kiến vây hàng đàn. Gian nhà không chút gọn gàng hay thẩm mỹ, và toát một không khí hoàn toàn thân mật. Tôi ngạc nhiên thấy một quyển sách trên bàn, vì dân sơn cước phần lớn mù chữ. Đã lâu lắm tôi chưa sờ đến trang sách. Lập tức tôi đi đến xem, nhưng thất vọng: đó là cuốn danh mục thuốc nhuộm. Tôi hỏi: "Cô đọc được không?" Cô đáp không bối rối: "Chả mấy. Nhưng đừng nghĩ tôi dốt, vì tôi thích trò chuyện với người biết đọc biết viết - thanh niên thành phố chẳng hạn. Anh không thấy con chó không sủa khi các anh đến à? Nó biết tính tôi." Hình như cô chưa muốn chúng tôi về. Cô rời ghế đứng lên, nhóm bếp gang ở giữa phòng, đặt chảo lên và đổ đầy nước. Lạc theo dõi mọi động tác của cô và hỏi: "Cô định mời chúng tôi uống trà hay nước sôi?" "Nước sôi." Đó là dấu hiệu cô thích chúng tôi. Trên núi này, mời uống nước nghĩa là chủ nhà sẽ đập vài quả trứng vào nước sôi và thêm đường để làm súp. Lạc nói: "Cô bé thợ may này, cô có biết cô và tôi có điểm chung không?" "Hai đứa mình à?" "Ừ, đánh cuộc không?" "Cuộc cái gì?" "Bất cứ cái gì cô thích. Chắc chắn tôi có thể chứng minh chúng ta có điểm chung." Cô hơi nghĩ ngợi. "Nếu tôi thua, tôi sẽ nới quần cho anh khỏi lấy tiền." Lạc nói: "Được. Bây giờ cởi giầy và vớ trái của cô rạ" Sau một thoáng lưỡng lự, tính tò mò của cô bé thợ may thắng thế. Bàn chân bẽn lẽn hơn cô, nhưng không kém gợi cảm, dần dần lộ ra. Bàn chân nhỏ, sạm nắng, trong mờ, gân xanh, với những móng chân lóng lánh. Lạc đặt bàn chân xương xẩu lấm bùn của nó dọc theo chân cô, và đúng, có điểm giống: ngón thứ hai dài hơn các ngón kia. ❃ ❖ ❊ Đường về xa, vì thế chúng tôi lên đường khoảng ba giờ chiều để tới làng trước khi đêm xuống. Trên đường tôi hỏi Lạc: "Mày mê cô bé thợ may hả?" Nó cúi đầu lê bước, suy nghĩ trước khi trả lời. Tôi gặng: "Mày yêu cô nàng chưa?" "Cô ta không văn minh, ít nhất là không đủ văn minh đối với tao!" ❃ ❖ ❊ Chấm sáng leo lét trong bóng tối ở cuối đường hầm dài. Đốm sáng nhỏ chập chờn, rơi xuống rồi lại ngoi lên, và tiếp tục đường tiến gian nan của nó. Thỉnh thoảng, nền có chỗ trũng, đốm sáng biến mất vài giây. Im lặng chỉ mất khi có tiếng giỏ nặng kéo kèn kẹt trên mặt đất, và tiếng cằn nhằn của một kẻ đang cố hết sức. Tiếng động trong đường hầm tối như mực vang một khoảng rất xa. Khi ánh sáng chợt xuất hiện lại, nó lơ lửng trên không như mắt loài thú trong cơn ác mộng bị nuốt chửng thân hình trong bóng tối. Lạc đeo đèn dầu trên trán, làm việc trong cái gọi là "mỏ than nhỏ". Nơi nào lối đi quá thấp nó phải bò xuống. Nó trần truồng, ngoại trừ sợi đai da cắt sâu vào thịt. Bộ đai kinh khủng này giúp nó kéo từng giỏ lớn, trĩu những khúc than. Khi nó tới, tôi đổi phiên cho nó. Tôi cũng trần truồng, thân phủ một lớp bụi than hõm vào từng vết ngấn trên dạ Tôi ưa đẩy giỏ hơn kéo phía sau như nó. Gần miệng hố có đoạn dốc đáng kể, nhưng trần ở đó cao hơn. Lạc hay giúp tôi mang giỏ tới đỉnh và ra khỏi đường hầm. Bọn tôi kiệt sức gục trong đám bụi bốc lên vì nghiêng giỏ trút vào đống than. Ngày xưa, như chúng ta đã thấy, núi Phụng Hoàng nổi danh nhờ các mỏ đồng (và đi vào lịch sử như món quà hậu hĩnh của vị hoàng đế đồng tính luyến ái đầu tiên của Trung Hoa). Tuy mỏ đồng đã bỏ phế và đổ nát, khai thác than vẫn tiếp tục trong tầm vóc nhỏ và thủ công. Mỏ than là sở hữu tập thể của dân sơn cước, và được khai thác để đáp ứng nhu cầu chất đốt địa phương. Vì thế không có gì ngạc nhiên Lạc và tôi, cũng như bao thiếu niên thành phố, phải làm dưới hầm trong hai tháng như một phần của việc học tập cải tạo. Ngay cả trò diễn xi nê miệng thành công cũng không giúp chúng tôi thoát khỏi mệnh trời. Nói thật, chúng tôi chấp nhận thử thách đoa. đày này, vì quyết tâm ở trong cuộc đua bằng mọi giá, dù cơ hội trở về thành phố không hơn ba phần ngàn nhỏ nhoi. Chúng tôi không biết phần việc trong mỏ than sẽ để lại dấu ấn suốt cuộc đời còn lại của mình, về thể xác và nhất là tinh thần. Thậm chí đến nay câu nói đáng sợ "mỏ than nhỏ" vẫn lạnh sống lưng tôi. Trừ lối vào có một đoạn dài khoảng hai mươi thước, trần thấp chống đà cột ráp nối tạm bợ làm bằng thân cây đẽo sơ sài, suốt đường hầm bảy trăm mét không có bất cứ phòng hộ nào. Nguy hiểm thường trực vì đá rơi, và ba nông dân thợ mỏ già cuốc vỉa than cứ kể mãi cho chúng tôi những tai nạn chết người hồi trước. Mỗi giỏ đầy chúng tôi xoay xở lôi suốt từ cuối đường hầm trở thành một trò may rủi chí mạng. Một hôm, lúc bọn tôi đang cố kéo giỏ than đầy lên đoạn dốc cuối, tôi nghe Lạc nói: "Tao không biết tại sao, nhưng từ khi mình tới đây, tao có ý nghĩ cứ dính trong đầu là tao sẽ chết trong cái mỏ này." Nghe thế, tôi hụt hơi. Bọn tôi tiếp tục leo, nhưng tôi bỗng toát mồ hôi lạnh. Tôi bị lây ý nghĩ như Lạc: từ đó tôi có cùng nỗi kinh hoàng, sợ không còn sống để rời khỏi nơi này. Suốt thời gian ở mỏ, Lạc và tôi ngủ trong lán của nông dân, túp lều khiêm tốn cheo leo trên sườn núi, dưới gờ đá. Buổi sáng thức dậy tôi nghe tiếng mưa nhỏ giọt từ đá xuống mái lán phủ vỏ cây, và tự an ủi với ý nghĩ ít nhất mình còn sống. Nhưng mỗi sáng khi rời lán, tôi sợ đến tối mình sẽ không trở về đó. Sự kiện tầm thường nhất, chẳng hạn một câu nói bâng quơ của ai đó hoặc một câu đùa rùng rợn, hay chỉ thay đổi thời tiết, trong mắt tôi trở thành một điềm xấu, một tiên đoán tử thần. Đôi khi tôi thấy ảo ảnh lúc đang làm việc trong mỏ. Mặt đất trở nên mềm, tôi khó thở và cảm thấy đang bên bờ sự chết, sau đó tôi thấy thời thơ ấu của mình vút nhanh qua trước mắt, như cách người sắp chết thấy cuộc đời họ trôi qua trong ánh chớp. Nền đất dẻo trải dài, đàn hồi theo mỗi bước chân tôi, rồi có tiếng gầm điếc tai trên đầu, như thể mái hầm sắp sập. Điên vì sợ, tôi khuỵu xuống bò trong bóng tối, khuôn mặt cha mẹ lờ mờ trước mắt. Ảo ảnh kéo dài vài giây rồi chợt biến mất như lúc đến, để lại tôi trong hầm mỏ tiêu điều, trần như nhộng, phấn đấu đẩy gánh nặng của mình tới lối ra. Tôi dán chặt mắt vào nền đất dưới chân: trong ánh ngọn đèn mỏ bập bùng, tôi bắt gặp một con kiến lạc đàn. Nó tiến tới từ từ và đều đặn, thúc đẩy bằng ý chí sống còn. Một hôm, trong tuần lễ thứ ba ở đó, tôi nghe tiếng khóc trong đường hầm, nhưng không thấy ánh đèn. Không như tiếng sầu khổ, hay tiếng rên của người bị thương, mà giống tiếng khóc oà đáng thương. Tiếng dội lên vách, vang tới cuối đường hầm trước khi lắng vào bóng đen. Tôi chắc chắn Lạc đang khóc trong bóng tối. Lạc ngã bịnh vào cuối tuần thứ sáu. Sốt rét. Buổi chiều, khi cả bọn chúng tôi ngồi ăn cơm dưới gốc cây đối diện lối vào hầm, nó than lạnh. Vài phút sau tay nó run tới nỗi không cầm được đũa. Nó lảo đảo đứng lên về lán nằm, nhưng không bước nổi. Mắt nó đờ đẫn. Đứng trước cửa lán mở, nó kêu lên, chẳng nói rõ với ai: "Cho tôi vào!" Thợ mỏ đang ăn dưới gốc cây cười ồ. Họ muốn biết: "Mày nói với ai đó? Không có ai trong lán đâu." Tối hôm đó trong lán nó vẫn than lạnh, dù đắp mấy lớp chăn và than cháy trong lò lớn. Các ông rì rầm thảo luận hồi lâu. Họ bàn có nên đem Lạc xuống sông nhúng nó vào nước đá mà không bảo nó trước. Họ nghĩ cú sốc sẽ chữa cho nó. Tuy nhiên, đề nghị đó bị bác, vì sợ thấy nó chết chìm giữa đêm khuya. Một người trong bọn ra ngoài mang vào hai cành cây. Ông bảo tôi: "Một cành đào, một cành liễu." Chỉ có hai cây này chữa được. Ông lôi Lạc dậy, tuột hết áo quần trong ngoài, và bắt đầu lấy hai nhánh cây quất tấm lưng trần của nó. Những người kia vừa đứng ngoài xem vừa quát: "Mạnh nữa! Nếu không quất mạnh, mày không đuổi được bịnh ra đâu." Nhánh cây quật vun vút trên không, nhánh nọ tới nhánh kia. Trận roi để lại vết bầm tím trên da thịt Lạc, nhưng bạn tôi dửng dưng chịu đựng. Dù còn tỉnh, nhưng nó như trong mơ thấy chuyện xảy ra cho kẻ khác. Tôi không rõ nó nghĩ gì, nhưng rất nôn nóng, và nhớ lời nó nói trong mỏ vài tuần trước, vang dội trong tiếng roi quật tàn nhẫn: "Tao có ý nghĩ cứ dính trong đầu là tao sẽ chết trong cái mỏ này". Người quất roi đã mệt và bảo kẻ khác tiếp taỵ Nhưng không ai nhận. Mệt mỏi, họ đã vào giường và muốn ngủ. Tôi thấy mình cầm nhánh đào và liễu. Lạc ngửng đầu. Mặt nó tái, trán lấm tấm mồ hôi. Ánh mắt nó xa xăm nhìn mắt tôi. Nó thì thào gần như không nghe thấy: "Tiếp tục đị" Tôi hỏi: "Mày có nên nghỉ chút không? Tay mày run lên kìa. Có tê không?" Nó giơ một tay lên xem và nói: "Tệ Mày nói đúng, tao lạnh run, như lão già trước cửa tử thần." Tôi tìm một đuôi thuốc lá trong đáy túi mình, châm lửa và đưa nó. Nhưng đuôi thuốc trượt khỏi tay nó và rơi ngay xuống đất. Nó nói: "Nặng khiếp." "Mày có muốn tao tiếp tục quất mày thật không?" "Ừ, như thế giúp tao ấm người." Trước khi theo ý nó, tôi nghĩ mình hãy nhặt điếu thuốc rơi cho nó hút một hơi trước. Tôi cúi nhặt mẩu thuốc còn cháy. Bất chợt tôi bắt gặp một vật trăng trắng nằm trên sàn cạnh chân giường: bao thư. Tôi nhặt lên. Phong bì gửi cho Lạc, chưa mở. Tôi hỏi các ông thư từ đâu đến. Một người nằm trong giường đáp có người tới mua than sớm nay để lại. Tôi mở ra. Lá thư bên trong viết bằng bút chì. Chữ viết không đều trên trang giấy, vài chữ viết xấu, nhưng câu viết vụng về toát vẻ dịu dàng nữ tính, thành thật như con trẻ. Tôi chậm rãi đọc cho Lạc: Gửi Lạc người kể chuyện phim. Đừng cười chữ viết của tôi. Không như anh, tôi chưa học cấp hai. Anh cũng biết trường gần nhất nằm trong thị trấn Vĩnh Kính, đi từ núi tới phải mất hai ngày. Ba tôi dạy tôi đọc và viết. Anh có thể xếp tôi vào loại "đã xong tiểu học". Cách đây không lâu, tôi nghe nói anh và bạn anh kể phim rất haỵ Tôi đã gặp trưởng làng tôi, và ông đồng ý gửi hai công nhân nông nghiệp tới mỏ than nhỏ để thay các anh hai ngày. Bây giờ các anh có thể tới làng tôi kể một phim. Tôi muốn lên mỏ để tự mang tin tới cho anh, nhưng nghe nói đàn ông nơi đó đều ở trần, và chỗ đó cấm con gái. Nghĩ tới mỏ than, tôi khâm phục lòng can đảm của anh. Tôi cầu xin nó đừng sụp. Các anh sẽ có hai ngày nghỉ: ít nhất lúc đó các anh sẽ không gặp rủi ro. Hẹn gặp các anh sớm. Gửi lời chào bạn anh, anh kéo đàn. Cô bé thợ may 08.07.1972 Tái bút: Tôi vừa nhớ chuyện tức cười muốn kể cho anh: từ bữa anh tới thăm, tôi tình cờ gặp mấy người có ngón chân thứ hai dài hơn ngón cái như mình. Tôi thất vọng, nhưng đời là vậy. Chúng tôi chọn chuyện Cô Bé Hàng Hoa. Cho tới nay chúng tôi đã xem ba phim ở sân bóng rổ Vĩnh Kính. Dạo này, phim tình cảm sướt mướt của Bắc Hàn có vai chính là "Cô hàng hoa" được ưa chuộng nhất. Chúng tôi đã kể trong làng mình, và khi tới đoạn diễn cuối, tôi nhái tiếng thuyết minh khàn khàn đa cảm nghe được ở thị trấn: "Tục ngữ nói: một tấm lòng chân thành có thể làm đá nở hoa. Nói xem, tấm lòng cô hàng hoa không đủ chân thành sao?" Kết quả hùng tráng hệt như có màn ảnh. Toàn thể khán giả nhỏ lệ, ngay cả trưởng làng cục cằn cũng không cầm được nước mắt nóng hổi chảy xuống từ mắt trái lúc nào cũng có ba đốm máu. Tuy cơn sốt tái phát, Lạc tuyên bố đủ khoẻ để đi tới làng cô bé thợ maỵ Nó ra đi với lòng tự tin của kẻ đi chinh phục. Tuy nhiên, dọc đường nó gục vì một cơn sốt rét nữa. Dù mặt trời chói chan, nó cảm thấy cơn lạnh len lỏi vào thân. Tôi xoay xở nhóm lửa với mấy cọng cây và lá khô, và bắt nó đến ngồi cạnh, nhưng thay vì ấm nó càng cảm thấy lạnh hơn. Nó gắng gượng đứng lên, răng đánh lập cập: "Thôi dấn lên." Suốt dọc đường chúng tôi nghe tiếng sơn khê chảy siết, và tiếng vượn cùng các loài thú hoang kêu hú. Lạc khổ sở vì lúc nóng lúc lạnh khôn kham. Thỉnh thoảng nó lảo đảo sát vực núi tới nỗi làm lở đất đá. Tiếng đá rơi tới đáy hẽm núi, mãi lâu mới đến tai chúng tôi. Những lúc như thế tôi khuyên nó nghỉ một lát đến khi cơn sốt thuyên giảm. Khi đến nhà cô bé thợ may, chúng tôi hài lòng được biết cha cô đi vắng. Như lần đầu, con mực đến khịt khịt chân chúng tôi nhưng không sủa. Mặt Lạc đỏ bừng: nó mê sảng. Cô bé thợ may sửng sốt thấy nó lên cơn sốt thảm hại. Cô lập tức cho hủy bỏ buổi diễn xi nê nói, và đưa Lạc vào phòng cô, lên giường quây màn muỗi trắng. Cô cuộn bím tóc dài thành búi cao trên đỉnh đầu. Rồi cô cởi đôi giầy hồng, chạy chân lấm ra ngoài. Cô gọi tôi: "Đi với tôi chứ? Tôi biết liều thuốc rất hay cho anh ấy." Liều thuốc là một loại cây thường, mọc ở bờ lạch không xa làng. Rậm rạp, cao chưa tới ba tấc, hoa màu hồng tươi, cánh hoa giống hoa đào quá khổ, soi dưới dòng nước cạn trong của con lạch. Chất thuốc tập trung trong lá có khía giống chân vịt. Cô bé thợ may hái một đống lá lớn. Tôi hỏi: "Cây này tên gì?" "Cây mảnh-bát." Cô giã lá trong cối đá trắng đến khi thành chất sệt màu lục, rồi bôi lên cổ tay trái của Lạc. Dù vẫn sốt, nó đã tỉnh và chịu để cô đắp thuốc. Cô buộc thuốc bằng một dải vải trắng. Đêm xuống, hơi thở Lạc có phần dịu lại, và nó thiếp ngủ. Cô bé thợ may ngần ngừ hỏi tôi: "Anh có tin thứ đó không?" "Thứ gì?" "Mấy thứ không giải thích tự nhiên được." "Có lúc tôi tin, có lúc không." "Anh nói như thể anh nghĩ tôi sắp tố cáo anh." "Không đâu." "Vậy thì sao?" "Theo ý tôi, mình không thể tin chúng hoàn toàn, nhưng cũng không thể chối bỏ hoàn toàn." Cô dường như chấp thuận câu trả lời của tôi. Liếc mắt nhìn Lạc đang ngủ trên giường mình, cô hỏi: "Cha của Lạc là gì? Phật tử à? " "Tôi không biết. Nhưng ông ấy là nha sĩ lừng danh. " "Nha sĩ là gì?" "Cô không biết nha sĩ là gì à? Nha sĩ chữa răng cho cộ" "Thật sao? Anh nói họ có thể giết mấy con sâu chui vào răng làm mình đau hả?" Tôi đáp, không cười: "Ừ. Tôi sẽ kể cho cô một bí mật, nhưng phải thề là không bao giờ nói cho ai." "Tôi thề... " Tôi thấp giọng: "Ba nó bắt hết sâu trong răng Mao chủ tịch." Sau một lúc im lặng kính nể, cô hỏi: "Nếu tôi mời bà bóng tới canh giường bịnh của con ổng tối nay thì ổng có phiền không?" Tới nửa đêm, bốn bà già từ ba làng khác nhau đến. Họ mặc áo dài lam và đen, cài hoa trên tóc và đeo vòng ngọc ở cổ taỵ Các bà bóng tụm bên Lạc đang co rúm trong giấc ngủ. Rồi họ ngồi xuống bốn góc giường, nhìn nó qua màn muỗi. Khó mà nói ai là người ghê rợn nhất có thể làm ma quỉ sợ. Một trong các bà bóng, bà nhăn nhúm nhất, cầm cung tên trên taỵ Bà bảo tôi: "Ta cam đoan hồn ma mỏ than nhỏ, con ma đang gây bịnh cho bạn cháu đây, tối nay không dám tới đâu. Cây cung của ta từ Tây Tạng, mũi tên bọc bạc. Khi ta bắn, mũi tên huýt trên không trung như sáo diều, và chưa từng bắn hụt ngực con ma dù cho nó mạnh cỡ nào." Không những các bà bóng rất già, mà trời đã rất khuya, và lát sau họ bắt đầu ngáp. Và dù trà đặc cô chủ nhà của chúng tôi tiếp mãi, họ ngủ gà ngủ gật, bà nọ đến bà kia. Chủ nhân cây cung cũng chịu thua cơn buồn ngủ, để vũ khí lên giường, mi mắt sơn uể oải rũ xuống và nhắm lại. Cô bé thợ may bảo tôi: "Thức họ dậy. Kể cho họ một phim." "Phim loại nào?" "Phim gì cũng được. Chỉ cốt giữ họ thức... " Thế là tôi lao vào buổi diễn lạ lùng nhất đời mình. Trong ngôi làng hẻo lánh đó, chen giữa hẻm núi nơi bạn tôi đang mê sảng, tôi ngồi trong ánh đèn dầu leo lét, và kể phim Bắc Hàn cho một cô gái xinh xắn và bốn bà phù thủy già. Tôi hết sức tự xoay xở. Sau vài phút, khán giả say mê câu chuyện cô hàng hoa đáng thương. Thậm chí họ còn hỏi, và tôi kể càng dài, họ càng ít chớp mắt để khỏi buồn ngủ. Tuy vậy, ma thuật cũng không như lúc Lạc chủ động. Tôi không có khiếu kể chuyện. Chúng tôi khác nhau. Nửa giờ sau cô hàng hoa đã làm đủ mọi cách kiếm tiền, rồi chạy đến bịnh viện để thấy rằng quá trễ: mẹ cô đã chết, tuyệt vọng gọi con gái trong hơi thở cuối cùng. Một phim tuyên truyền như bất cứ phim nào khác. Bình thường mà nói, cảnh giường bịnh là cao điểm đầu tiên trong câu chuyện. Khán giả bao giờ cũng khóc lúc ấy, bất kể họ xem phim hay nghe chúng tôi kể. Có lẽ các bà phù thủy thuộc tạng khác. Họ chăm chú nghe, nhập chuyện có chừng mực - thậm chí tôi có thể cảm thấy họ hơi rùng mình cảm động - nhưng không nhỏ một giọt nước mắt. Thất vọng vì biểu diễn của mình, tôi nấn ná miêu tả bàn tay run rẩy không ngừng của cô gái hàng hoa và tờ bạc rơi khỏi các ngón tay cô... Nhưng các bà bóng không xúc động. Thình lình, từ trong màn muỗi trắng, một giọng nói như từ đáy giếng phát ra. Lạc ngâm: "Tục ngữ nói rằng tấm lòng chân thực có thể làm đá nở hoa. Nói xem, tấm lòng cô hàng hoa không đủ chân thực sao?" Tôi sửng sốt, vì Lạc đã thốt câu kết vang dội trước khi chuyện kết thúc, hơn là vì nó tỉnh dậy thình lình. Nhưng thật ngạc nhiên, tôi liếc quanh phòng: bốn bà phù thủy đang khóc! Nước mắt họ đổ ra tràn trề, chảy xuống gò má vênh váo nứt nẻ của họ. Tài nghệ của Lạc thật tuyệt! Nó có thể kích động khán giả bằng lời thuyết minh đúng lúc, ngay cả khi nó đang vật nhau với cơn sốt rét. Khi tôi kể tiếp, tôi cảm thấy cô bé thợ may có vẻ gì khang khác, và nhận ra rằng cô thả lửng những lọn tóc dầy, một bờm tóc tuyệt vời chảy xuống vai. Tôi đoán Lạc đã thò tay khỏi màn, gỡ bím tóc bằng những ngón tay sốt rét của nó. Một ngọn gió lùa bất chợt làm ngọn đèn chập chờn rồi tắt, lúc đó tôi ngỡ mình thấy cô bé thợ may vén một góc màn, và cúi trên Lạc trao một nụ hôn trộm trong bóng đêm. Một bà bóng thắp lại ngọn đèn dầu, và tôi tiếp tục kể nốt câu chuyện buồn của cô gái Triều Tiên. Các bà bóng khóc nức nở, nước mắt hoà lẫn nước mũi, và tiếng sụt sịt của họ tiếp tục đến đêm khuya. Chương 3 Bốn Mắt có cái va li bí mật nó giấu rất kỹ. Nó là bạn chúng tôi. (Nhớ không? Chúng tôi trên đường tới gặp nó lúc tình cờ gặp ông thợ may trên sơn đạo). Làng Bốn Mắt đi cải tạo trên núi Phụng Hoàng ở dốc thấp hơn làng chúng tôi. Lạc và tôi thường qua nhà nó vào chiều tối để nấu ăn, nếu chúng tôi xoay được miếng thịt, chai rượu địa phương, hay rau tươi từ vườn của nông dân. Chúng tôi chia sẻ chiến lợi phẩm, như thể mình là tam nhân bang. Nó không thở một lời với bọn tôi về cái va li bí ẩn của nó khiến chúng tôi hoàn toàn ngạc nhiên. Gia đình nó sống cùng thành phố với cha mẹ chúng tôi. Cha nó là văn sĩ, mẹ nó là thi sĩ. Gần đây, bị nhà chức trách ruồng bỏ, họ để lại cho đứa con trai yêu quí cũng một gánh nặng đáng sợ như Lạc và tôi: ba phần ngàn khủng khiếp. Vì thế chúng tôi đồng hội đồng thuyền, nhưng Bốn Mắt lúc đó mười tám tuổi sống trong lo sợ triền miên. Với nó, mọi thứ nhuốm màu nguy hiểm. Ở nhà nó, chúng tôi cảm thấy như ba phạm nhân đang hội ý âm mưu quanh ngọn đèn dầu. Bữa ăn chẳng hạn: một tiếng gõ cửa cũng đủ làm nó sợ mất khôn giữa mùi thơm ngon ngạt ngào của đĩa thịt bọn tôi đã nấu xong (mùi nấu nướng làm cả ba đứa chết đói chúng tôi điên cuồng). Nó sẽ nhảy dựng, giấu vội cái chảo vào góc như đồ lậu, và thay vào đó là đĩa rau xào sền sệt gớm ghiếc: ăn thịt đối với nó là tội ác điển hình của giai cấp tư sản nhà nó. Sau hôm trình diễn của tôi cho bốn bà phù thủy, Lạc thấy đỡ hơn. Nó nói nó đủ khoẻ để đi về, và cô bé thợ may không nài nỉ giữ chúng tôi. Tôi tưởng tượng cô kiệt lực. Sau bữa điểm tâm, chúng tôi lên đường dọc sơn đạo vắng vẻ. Không khí ban mai ẩm dễ chịu làm tỉnh táo bộ mặt nóng bừng của chúng tôi. Lạc vừa đi vừa hút thuốc. Lúc đầu con đường dẫn xuống một lối nhỏ, rồi lại lên dốc. Khi dốc ngược, tôi nắm cánh tay của đứa bạn bịnh hoạn. Mặt đất mềm và ướt, cây cối giao cành trên đầu. Băng qua làng Bốn Mắt ở, chúng tôi bắt gặp nó đang làm việc trong cánh đồng lúa. Nó đang cày với con trâu. Chúng tôi không thấy các luống cày của nó, vì lớp đất màu dầy ngập trong nước tù. Trần tới lưng, bạn chúng tôi tiến chậm chạp, vì mỗi bước ngập bùn đặc tới đầu gối, trong lúc con trâu đen gắng sức kéo cày. Tia nắng sớm chiếu nghiêng lấp lánh trên đôi kính của nó. Con trâu cỡ trung bình, nhưng cái đuôi dài ngoại khổ, vẫy mạnh như cương quyết vấy bùn lên ông chủ nhút nhát thiếu kinh nghiệm của nó, càng bẩn càng tốt. Dù cố tránh những cú quất không ngừng, chỉ một khoảnh khắc vô ý là đủ cho Bốn Mắt nhận một cú đuôi trâu ngay mặt làm văng cặp kính lên không. Nó chửi rủa, thả cương khỏi tay phải và buông cày khỏi tay trái. Giơ tay che mặt, nó tuôn một tràng chửi bới, như thể bị mù. Nó giận tới mức không nghe tiếng gọi vui mừng của chúng tôi. Nó cận thị nặng, không phân biệt nổi chúng tôi với các nông dân đang chế nhạo ở ruộng lúa gần đó. Nó cúi xuống, thọc tay vào nước, mò trong bùn. Vẻ thất thần trong cặp mắt lồi của nó luống cuống. Bốn Mắt rõ ràng đã đánh thức bản năng tàn ác của con trâu. Con vật ngừng lại, rồi kéo sang hai bên, hết sức giẫm ruộng bùn, như định xéo nát cặp kính chìm trong đó bằng móng hay lưỡi cày lắc lư. Tôi cởi giầy, vén quần bước xuống ruộng lúa, để Lạc ngồi bên vệ đường. Bốn Mắt không muốn tôi giúp tìm kính, vì sợ tôi gây cản trở, nhưng cuối cùng chính tôi vô ý đạp lên cặp kính lúc mò trong bùn. May mắn là nó còn nguyên vẹn. Khi nhìn lại rõ như cũ, Bốn Mắt sửng sốt vì tình trạng của Lạc. Nó nói: "Mày ốm như con chó!" Vì Bốn Mắt không thể bỏ việc, nó đề nghị chúng tôi đến chỗ nó nghỉ tới khi nó về. Nó trú ở giữa làng, với vài vật dụng cá nhân, và nóng lòng muốn chứng tỏ lòng tin cậy hoàn toàn vào nông dân cách mạng nên nó chả bao giờ khoá cửa. Căn nhà sàn như nhà chúng tôi, là kho lương thực cũ, nhưng có hiên nhô ra chống bằng cột tre vững chắc để phơi ngũ cốc, rau hay gia vị. Lạc và tôi ngồi trên hiên hưởng nắng. Lát sau, mặt trời khuất sau đỉnh núi và không khí lạnh buốt. Khi đã ráo mồ hôi, Lạc lạnh như nước đá. Tôi tìm một cái áo len chui đầu cũ của Bốn Mắt đắp lên lưng nó, buộc ống tay qua cổ như khăn quàng. Dù trời nắng lại, nó tiếp tục than lạnh. Tôi lại vào trong lấy chăn trên giường, và chợt nghĩ có thể còn cái áo len nữa nằm đâu đó. Tôi nhìn dưới gầm giường, thấy một rương gỗ lớn. Chất đống bên trên là mớ giầy cũ và dép đứt lấm bùn. Kéo rương tới vệt nắng lốm đốm bụi, tôi mở ra và thấy chứa nhiều áo quần. Tôi lục lọi hy vọng tìm cái áo len nhỏ vừa với thân thể khẳng khiu của Lạc. Ngón tay tôi bỗng chạm một vật mềm, dẻo và láng, khiến tôi nghĩ ngay đến chiếc giầy da nai của phụ nữ. Nhưng không phải là chiếc giầy mà là một cái va lị Tia sáng phản chiếu trên nắp bóng loáng. Cái va li tao nhã, hơi sờn nhưng làm bằng da tốt, và toát ra một mùi văn minh. Nó có vẻ khá nặng so với kích thước, nhưng tôi không đoán được bên trong có gì. Va li có khoá ở ba chỗ. Tôi nôn nóng đợi đến tối, lúc Bốn Mắt sẽ được giải thoát khỏi việc vật nhau hàng ngày với con trâu, để hỏi thứ kho báu gì nó cất kỹ trong chỗ giấu bí mật của nó. Nó không trả lời câu hỏi của tôi làm tôi ngạc nhiên. Suốt lúc bọn tôi nấu ăn nó im lặng khác thường, và khi nói nó thận trọng không nhắc tới cái va li. Lúc ăn tối, tôi khơi lại đề tài. Nhưng nó vẫn không nói. Lạc phá tan im lặng: "Tao chắc là sách. Cách mày khoá va li cất đi đủ tiết lộ bí mật của mày: mày giấu sách cấm." Một tia hốt hoảng trong đôi mắt thằng bạn cận thị, rồi biến mất sau cặp kính lúc nó trấn tĩnh dưới mặt nạ tươi cười. Nó nói: "Mày nằm mợ" Nó đưa tay sờ trán Lạc. "Trời ơi, sốt quá! Vì vậy mày mới có ý điên khùng, nó làm mày sảng. Nghe nè, mình là bạn, có những lúc vui chung, cũng tốt, nhưng nếu tụi mày tiếp tục chuyện tào lao như sách cấm, thì tiên sư nó... " Sau đó không lâu, Bốn Mắt mua ổ khoá đồng của hàng xóm, và từ đó nó luôn luôn khoá kỹ cửa nhà bằng sợi xích. Hai tuần sau, món "Mảnh chén" của cô bé thợ may chứng tỏ có hiệu quả, chứng sốt rét của Lạc thuyên giảm. Lúc gỡ băng khỏi cườm tay, nó thấy một vết giộp cỡ trứng chim, bóng loáng và trong suốt. Rốt cuộc nó xẹp đến khi chỉ còn vết sẹo đen nhỏ, và cơn sốt rét ngưng hẳn. Chúng tôi nấu một bữa ở nhà Bốn Mắt để mừng Lạc hồi phục. Tối hôm đó, cả ba chúng tôi ngủ chen chúc trên giường. Lúc sờ dưới gầm giường, tôi thấy rương vẫn còn đó, nhưng cái va li da đã mất. ❃ ❖ ❊ Bốn Mắt để lộ ngờ vực và cảnh giác cao độ, bất kể tình bạn giữa chúng tôi, dường như chứng minh cho giả thuyết của Lạc, và chúng tôi càng tin cái va li quả thực đầy sách cấm. Lạc và tôi thường thảo luận riêng chuyện này, đoán mò loại sách gì trong đó. (Dạo ấy, mọi sách vở đều bị cấm, ngoại lệ duy nhất là những cuốn do Mao hay thân cận của ông viết, và các tác phẩm thuần khoa học). Chúng tôi lập một danh sách dài những đề tựa có thể có: toàn bộ truyện cổ từ Tam Quốc Chí tới Hồng Lâu Mộng và Kim Bình Mai, vốn nổi tiếng là dâm thự Trong danh mục chúng tôi cũng có thơ đời Đường, Tống, Minh, Thanh, và tác phẩm của các nghệ sĩ cổ điển như Chu Đạt, Sử Đào, Đổng Kỳ Thường... Thậm chí chúng tôi nghĩ tới Thánh Kinh cũng như Ngũ Thánh Thư, tác phẩm bị cấm hàng thế kỷ, trong đó ngũ đại tiên tri đời Hán trên thiên sơn đỉnh tiết lộ chuyện sẽ xảy ra trong hai ngàn năm tới. Thông thường, sau khi tắt ngọn đèn dầu trong nhà sàn, bọn tôi nằm trên giường hút thuốc trong bóng tối. Tựa sách tuôn ra trên môi, những cái tên thần bí và lạ kỳ gợi lên thế giới vô danh. Như trầm hương Tây Tạng, chỉ cần nói tên Tàng Hương là ngửi mùi phảng phất, tinh khiết, và thấy nén hương nhỉ các hạt thơm dưới ánh đèn, như giọt vàng lỏng. Một hôm Lạc hỏi tôi: "Mày có biết gì về văn chương tây phương không?" "Chả mấy. Mày biết ba má tao chỉ chú ý tới công việc. Ngoài y khoa ra ổng bả không biết gì nhiều." "Ba má tao cũng vậy. Nhưng một bà dì của tao có mấy cuốn sách nước ngoài dịch sang Hoa văn. Hồi đó trước Cách mạng Văn hoá. Tao nhớ bả đọc cho tao nghe cuốn sách tên Don Quixote, về một hiệp sĩ già lang thang, truyện rất haỵ" "Sách của bả giờ ra sao?" "Thành khói. Vệ binh Đỏ tịch thu, rồi lập tức đốt trước công chúng, ngay trước toà chung cư của bả." Kế đó, chúng tôi bập thuốc lá trong bóng đêm, nhụt chí và câm nín. Nói chuyện văn chương thế này làm tôi nản. Chúng tôi thật bất hạnh. Lúc biết đọc thì không còn gì để đọc. Trong nhiều năm, khu "Văn học Tây phương" trong các hiệu sách dành hết cho toàn tập của nhà lãnh đạo cộng sản Albany, Enver Hoxha: hết bộ này tới bộ khác bìa mạ vàng mang chân dung ông già đeo cà vạt loè loẹt, tóc bạc chỉnh tề, cặp mắt nghiêm khắc mòng mọng - mắt trái màu nâu, mắt phải hơi nhỏ và bóng nâu nhạt hơn đổi sang hồng ở viền mắt. Tôi hỏi Lạc: "Cái gì làm mày nghĩ tới văn chương tây phương?" "Ôi dào, tao chỉ muốn biết. Rất có thể Bốn Mắt có mấy thứ đó trong va lị" "Có thể mày đúng. Ba nó là văn sĩ, má nó là thi sĩ, nhà họ phải có nhiều sách, cũng như nhà mày với nhà tao có nhiều sách tây ỵ Nhưng làm sao mà cả một va li đầy thoát khỏi sự chú ý của Vệ binh Đỏ?" "Có lẽ ba má nó biết giấu đúng lúc." "Họ giao cho Bốn Mắt giữ cũng liều thật." "Như ba má mày và tao luôn mơ ước tụi mình là bác sĩ như ổng bả. Ba má thằng Bốn Mắt có thể muốn con họ là nhà văn. Họ nghĩ nó nên đọc sách, dù phải đọc trong bí mật." ❃ ❖ ❊ Một bữa sáng rét mướt đầu xuân, bông tuyết rơi dầy và nhanh suốt hai giờ, mặt đất chẳng mấy chốc phủ một tấc tuyết xốp. Trưởng làng cho chúng tôi nghỉ hôm đó. Lạc và tôi lập tức lên đường đi thăm Bốn Mắt. Chúng tôi nghe nói nó gặp xui: chuyện phải xảy ra, tròng kính của nó bị bể. Tuy nhiên, tôi tin chắc nó không để rủi ro này ảnh hưởng tới công việc. Nếu nông dân cách mạng coi tật cận thị của nó là dấu hiệu kém cỏi về thể xác, họ sẽ nghĩ nó là đứa lười biếng. Nó sống trong kinh hoàng triền miên vì ý kiến của nông dân, tùy họ quyết định nó có cải tạo tốt hay chưa, và do đó, về mặt lý thuyết, tương lai nó nằm trong tay họ. Trong trường hợp này, ngay cả khiếm khuyết nhỏ nhất về chính trị hay thể chất cũng là tai hoạ. Không như làng tôi, dân trong làng bạn chúng tôi phải làm việc dù trời tuyết, họ phải vác các sọt gạo đầy tới kho của huyện cách đó hai mươi cây số, trên bờ sông bắt nguồn từ Tây Tạng. Đang lúc góp thuế làng hàng năm, trưởng làng chia tổng số gạo theo số dân, phần mỗi người vác khoảng sáu mươi ký. Chúng tôi đến thấy Bốn Mắt đang đổ đầy sọt, sẵn sàng cho chuyến đi tới kho gạo. Chúng tôi ném tuyết vào nó, nhưng nó nhìn quanh quất mà không thấy chúng tôi. Không có kính, cặp mắt lồi của nó khiến tôi nhớ cái nhìn đờ đẫn, mê mụ của con chó Bắc Kinh. Dường như nó lạc lõng và nhụt chí, ngay cả trước khi nhấc sọt gạo lên lưng. Lạc bảo nó: "Mày điên. Không có kính mày không xoay xở nổi trên đường núi đó đâu." "Tao đã viết thư cho má tao. Bả sẽ gửi cặp kính mới ngay, nhưng tao không thể ngồi đợi kính. Tao ở đây là để lao động. Ít ra là ông trưởng làng nói vậy." Nó nói rất nhanh, như không muốn phí thì giờ với chúng tôi. Lạc nói: "Khoan. Tao có ý này: tụi tao sẽ giúp mày mang sọt tới kho gạo, khi về mày cho tụi tao mượn mấy cuốn sách mày giấu trong va lị Chịu không?" Bốn Mắt gầm lên: "Đồ quỷ. Tao không biết mày nói gì. Tao không có sách cất giấu." Lắp bắp giận dữ, nó vác sọt gạo nặng lên lưng và bước đi. Lạc gọi theo: "Một cuốn thôi. Được không?" Không trả lời, Bốn Mắt dấn bước. Bất lợi thể xác ngăn trở nó. Chả mấy chốc, nó vướng vào thế khó xử thô bạo: tuyết khiến lối đi trơn trợt hơn thường lệ, ở vài chỗ nó lún chân tới mắt cá. Nó dán chặt cặp mắt lồi xuống mặt đất phía trước, nhưng không thấy các hòn đá nhô lên để đặt chân vào. Nó mù mờ tiến tới, lảo đảo và lắc lư như gã saỵ Tới chỗ lối đi hụt mất, nó thò chân tìm chỗ, nhưng chân kia oằn xuống không đỡ nổi sức nặng sọt gạo trên lưng, nó ngã khuỵu. Nó cố chống đỡ ở vị trí đó để không đổ sọt gạo trên lưng, dùng tay gạt tuyết để thấy đường, từng mét từng mét, tới khi nó xoay xở lồm cồm đứng lên lại. Từ xa chúng tôi nhìn nó đi quanh co xuống con đường, chỉ mấy phút sau lại trượt chân. Lần này sọt va vào đá lúc nó ngã làm gạo vãi ra. Chúng tôi đi xuống giúp nó hót gạo vãi. Không đứa nào mở lời. Tôi không dám nhìn vào mắt nó. Nó ngồi xuống cởi giầy, đổ tuyết ra, rồi xoa mạnh đôi chân sưng vù cho ấm Đầu nó cứ lắc lư như thể quá nặng. Tôi hỏi nó: "Nhức đầu hả?" "Không, tai tao ù. Không sao." Khi chúng tôi hót xong hết gạo vào sọt, cánh tay áo tôi bám đầy tinh thể tuyết. Tôi hỏi Lạc: "Mình nên tiếp cho nó chứ?" Nó nói: "Ừ, phụ tao một tay với cái sọt được không? Tao thấy lạnh, có sức nặng trên lưng làm tao ấm. Lạc và tôi cứ mỗi năm mươi mét lại thay nhau gùi sáu mươi ký gạo. Khi tới kho chúng tôi hoàn toàn kiệt sức." Về lại đến nhà, Bốn Mắt đưa chúng tôi một cuốn sách - một cuốn mỏng, sờn cũ. Tên tác giả là Balzac. ❃ ❖ ❊ "Ba-nhị-trát-khắc". Dịch sang Hoa văn, tên tác giả Pháp gồm bốn ký hiệu. Dịch thuật thần sầu! Hai âm tiết nặng cũng như âm rung hung hãn kiểu phát âm xưa của cái tên biến mất. Giờ đây bốn chữ - rất thanh tao, mỗi chữ chỉ vài nét - hợp lại tạo thành một vẻ đẹp khác thường, nức mùi ngoại lai, gợi cảm như mùi rượu vang nồng cất hàng thế kỷ trong hầm. (Nhiều năm sau tôi biết dịch giả cũng là một nhà văn lớn. Bị cấm xuất bản tác phẩm của mình vì lý do chính trị, ông dùng cả cuộc đời còn lại dịch tiểu thuyết Pháp). Bốn Mắt có đắn đo nghĩ ngợi sẽ cho chúng tôi mượn cuốn sách nào không? Hay chỉ là ngẫu nhiên? Có lẽ nó nhặt cuốn đó chỉ vì so với cả kho tàng trong va li quý giá của nó, cuốn đó mỏng nhất, và nát nhất. Liệu nó có động cơ kín đáo nào chúng tôi không dò được? Bất kể nguyên do gì, lựa chọn của nó có ảnh hưởng sâu sắc trên cuộc đời chúng tôi. Cuốn sách mỏng tựa đề Ursule Mirouët. Lạc đọc cuốn sách ngay tối hôm Bốn Mắt cho chúng tôi mượn, và tới đoạn kết lúc trời hừng đông. Nó tắt ngọn đèn dầu và đưa sách cho tôi. Tôi nằm trên giường đến khi đêm xuống, không ăn, hoàn toàn cuốn vào câu chuyện Pháp về tình yêu và phép lạ. Hãy hình dung một đứa mười chín, còn mơ màng trong tuổi niên thiếu, cả đời chưa từng nghe gì ngoài những câu cách mạng rỗng tuếch về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa cộng sản, ý thức hệ và tuyên truyền, nay lao đầu vào một câu chuyện đánh thức lòng khao khát, cảm xúc, hành động thôi thúc, tình yêu, tất cả những đề tài cho tới lúc đó nó bị giấu. Dù hoàn toàn không biết gì về vùng đất xa xôi gọi là Pháp đó (tôi có nghe cha tôi nhắc tới Napoléon vài lần thế thôi), chuyện của Ursule cũng thật như chuyện hàng xóm. Những rối rắm về thừa kế và tiền bạc xảy đến cho cô khiến câu chuyện càng đáng tin hơn, vì thế càng tăng sức mạnh của lời văn. Đến cuối ngày, tôi đã khá quen thuộc với Nemours, hình dung mình đứng cạnh lò sưởi trong phòng khách nhà nàng cùng với các bác sĩ và cha xứ... Ngay cả đoạn về nam châm và mộng du đối với tôi cũng đáng tin và mê hoặc. Tôi không ra khỏi giường trước khi lật xong trang cuối. Lạc chưa trở về. Lúc nó lên đường khi trời vừa sáng, tôi chắc chắn nó đi thăm cô bé thợ may để kể cho cô câu chuyện tuyệt vời này của Balzac. Tôi đứng ở ngưỡng cửa nhà sàn một lát, vừa gặm mẩu bánh bắp vừa ngắm bóng đỉnh núi tối tăm lờ mờ phía trước. Làng cô bé thợ may ở quá xa không thể thấy đèn trong nhà, nhưng trong tâm trí mình, tôi có thể hình dung Lạc đang kể chuyện cho cộ Bất chợt tôi thấy nhói lên ghen tị, một cảm xúc cay đắng trước kia tôi chưa từng có. Trời lạnh buốt, tôi run rẩy trong chiếc áo khoác ngắn da cừu. Dân làng ăn, ngủ hay làm việc riêng trong hoàng hôn. Nhưng phía trước căn nhà sàn của chúng tôi lặng lẽ. Tôi thường lợi dụng sự yên bình ngự trị trên núi vào giờ này để tập vĩ cầm, nhưng lúc này dường như việc đó gây nản lòng. Tôi bước vào nhặt cây đàn, nhưng khi chơi, âm thanh chói tai và bất đồng, như thể tôi đã quên cách đàn. Rồi tôi chợt nghĩ: mình sẽ chép lại những đoạn ưa thích trong Ursule Mirouët, từng chữ từng chữ. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy khát khao chép lại những câu trong sách. Tôi lục khắp phòng tìm giấy, nhưng chỉ thấy vài tờ định dùng viết thư cho cha mẹ. Tôi quyết định viết thẳng lên mặt trong áo khoác da cừu của mình. Cái áo khoác ngắn, tặng vật của dân làng lúc tôi đến, làm bằng da, sợi len dài ngắn đủ cỡ đủ loại bên ngoài, bên trong là lớp da trần. Khó tìm những đoạn thích hợp trong sách vì chỗ trống trên áo có giới hạn, càng ít chỗ hơn vì da đã nứt quá nhiều. Tôi chép lại chương Ursule mộng dụ Tôi ao ước như nàng: lúc nằm ngủ trên giường có thể nhìn thấy mẹ tôi đang làm gì trong căn chung cư cách năm trăm cây số, nhìn cha mẹ ăn tối, quan sát cử chỉ của họ, các món ăn trên bàn, màu bát đĩa, hít mùi thức ăn, nghe họ trò chuyện... Hơn thế nữa, như Ursule, trong giấc mộng tôi sẽ thăm những nơi mình chưa từng để mắt tới... Viết trên tấm da con cừu già vùng sơn cước không dễ: mặt da ráp và gấp nếp, và để viết càng nhiều câu càng tốt vào chỗ có thể viết, tôi phải dùng chữ nhỏ, đòi hỏi hết sức tập trung. Lúc phủ kín hết bên trong áo, kể cả tay áo, ngón tay tôi nhức như gẫy xương. Cuối cùng tôi thiếp ngủ. Tiếng chân của Lạc đánh thức tôi. Ba giờ sáng. Tôi ngủ chưa lâu, vì ngọn đèn dầu vẫn còn sáng. Tôi thấy bóng nó lẻn vào phòng. "Mày ngủ hả?" "Không hẳn." "Tao cho mày xem cái này." Nó đổ đầy dầu vào đèn, khi ngọn bấc cháy sáng, nó cầm đèn trong tay trái, tới ngồi xuống mép giường tôi. Mắt nó sáng rực và tóc nó rối bù. Nó rút trong túi áo khoác ra một vuông vải trắng gấp gọn ghẽ. "À, cô bé thợ may cho mày cái khăn taỵ" Nó không đáp. Lúc nó từ từ mở ra, tôi thấy miếng vải xé từ cái áo, chắc là của cô bé thợ may - trên đó có một mảnh vá taỵ Bên trong có vài cái lá khộ Tất cả cùng một dạng đẹp, như cánh bướm, từ màu cam thẫm tới nâu sọc vàng nhạt, nhưng tất cả đều ố máu đen. Lạc hổn hển nói: "Lá bạch quả. Một cây cao chót vót lộng lẫy, mọc trong thung lũng kín đáo phía đông làng cô bé thợ maỵ Tụi tao làm tình ở đó, dựa vào gốc cây. Cô nàng là trinh nữ, máu nhỏ xuống lá lác đác bên dưới." Tôi không nói nên lời. Tôi cố hình dung: cái cây, thân cây quí phái, cành cây hùng vĩ, thảm lá cánh bướm, rồi tôi hỏi: "Đứng?" "Ừ, như ngựa. Có lẽ vì vậy sau đó cô nàng cười, tiếng cười chói tai, hoang dại, và vang xa ngay cả chim chóc cũng cất cánh vì hoảng sợ." ❃ ❖ ❊ Khi đã mở mắt, chúng tôi giữ lời trả lại Ursule Mirouët cho ông chủ chính đáng của nàng: Bốn Mắt, hay đúng hơn bây giờ là Hai Mắt vì đã mất kính. Chúng tôi ảo tưởng rằng nó sẽ cho mượn thêm sách trong cái va li bí mật, để đổi lấy những việc chúng tôi làm hộ nó vì mắt kém không làm được. Nhưng nó không nghe. Chúng tôi thường tới nhà nó mang theo thức ăn, giúp vui cho nó, chơi vĩ cầm cho nó... Cuối cùng cặp kính mới mẹ nó gửi tới, nó không còn là đứa mù dở, và hy vọng của chúng tôi lúc này chấm dứt. Bọn tôi cay đắng hối tiếc đã trả sách. Lạc cứ lập đi lập lại: "Đáng lẽ mình đừng trả. Đáng lẽ tao đã có thể đọc từng trang cho cô bé thợ may để cô nàng tinh tế hơn, văn hoá hơn, tao tin chắc như vậy." Nó bảo đoạn chép lại lên mặt trong áo khoác của tôi đã cho nó ý đó. Lạc và tôi có thói quen dùng chung áo quần, và một hôm nhằm ngày nghỉ, nó mượn áo da cừu của tôi để mặc lúc đi gặp cô bé thợ may ở gốc cây bạch quả trong thung lũng tình yêu. Nó giải thích: "Sau khi nghe tao đọc từng chữ đoạn văn Balzac, cô nàng cầm áo mày lặng lẽ đọc lại hết. Âm thanh duy nhất là tiếng lá rì rào trên cao, và tiếng nước chảy nghe thoảng từ con thác xạ Trời đẹp, bầu trời thiên thanh, tươi và trong. Đọc xong cô nàng ngồi đó rất yên, miệng mở. Áo mày nằm trên lòng tay, như linh vật trong bàn tay tín đồ." Lạc nói tiếp: "Anh chàng Balzac này là phù thủy. Hắn chạm đầu cô sơn nữ này bằng ngón tay vô hình, và cô nàng biến đổi, cuốn đi trong mợ Mất một lúc cô nàng mới tỉnh. Cuối cùng cô nàng mặc cái áo tã của mày vào (phải nói là rất đẹp). Cô nàng nói có chữ của Balzac sát da thịt làm cô nàng cảm thấy thích, và cũng thông minh hơn." Hưởng ứng sôi nổi của cô bé thợ may khiến chúng tôi càng bực hơn vì đã trả sách. Thật vậy, chúng tôi phải đợi tới đầu hè mới có cơ hội khác. Hôm đó Chủ nhật. Bốn Mắt đốt lửa trong sân nhà để nấu vạc nước đặt trên hai hòn đá. Lạc và tôi ngạc nhiên thấy nó loay hoay quanh nhà. Thoạt tiên nó không nói tiếng nào với chúng tôi. Dường như nó mệt và chán ngán. Khi nước sôi, nó cởi áo khoác với vẻ chán ghét, bỏ vào vạc và lấy khúc cây dài dìm xuống. Hơi nước cuồn cuộn, nó cứ khuấy cái áo khốn khổ trong lúc bọt tăm đen, sợi thuốc lá và mùi hôi hám nổi lên mặt nước. Tôi hỏi: "Giết rận hả?" "Ừ, tao bị Ở Vực Ngàn Thước." Chúng tôi đã nghe về vách núi này, nhưng chưa từng đặt chân đến. Nó khá xa làng chúng tôi, ít nhất nửa ngày đi bộ. "Mày làm gì ở đó?" Nó không đáp. Rất có phương pháp, nó cởi sơ mi, áo lót, quần và vớ, và ném vào nước sôi. Khắp thân hình xương xẩu của nó điểm những vết sưng đỏ, da rách chảy máu và đầy dấu gãi. Bốn Mắt kể: "Rận ở cái vực đá trời đánh đó, khổng lồ. Thậm chí tụi nó xoay xở đẻ trứng ở đường may trên áo quần tao." Nó vào nhà tìm quần đùi, giơ ra cho chúng tôi xem trước khi bỏ vào vạc. Trời hỡi! Dọc theo đường khâu là hàng dãy trứng đen, lóng lánh như những hạt thủy tinh bé tí. Chỉ liếc nhìn cũng đủ làm tôi nổi da gà từ đầu tới chân. Lạc và tôi ngồi bên nhau đốt đống lửa, trong khi Bốn Mắt đứng chồm trên vạc, khuấy áo quần bằng khúc cây dài. Từng chút từng chút, nó tiết lộ cho chúng tôi bí mật đằng sau chuyến đi tới Vực Ngàn Thước. Hai tuần trước nó nhận thư mẹ, nhà thơ một thời lừng danh trong tỉnh chúng tôi vì những bài ngợi ca sương mù, mưa và hoài niệm thẹn thùng của mối tình đầu. Bà báo rằng một người bạn cũ của bà được chỉ định làm tổng biên tập tạp chí chuyên về văn chương cách mạng, tuy tình thế ông cũng bấp bênh, ông hứa sẽ cố tìm chỗ trong tạp chí cho con bà. Thật ra mà nói, để tránh vẻ thiên vị, ông đề nghị sẽ đăng trong tạp chí của ông lời một số ca khúc phổ thông, những bài dân ca chính gốc, đầy tính hiện thực lãng mạn mà Bốn Mắt sẽ gom góp từ các nông dân vùng sơn cước. Sau khi nhận tin này, Bốn Mắt sướng như tiên. Nó cảm thấy thay đổi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong đời, nó tràn ngập hạnh phúc. Nó không chịu ra lao động ngoài đồng. Thay vào đó, nó để hết trí óc và tâm hồn vào việc một mình tìm kiếm các bài dân ca miền núi. Nó tin chắc sẽ gom góp thành công một sưu tập lớn, khiến người thưở xưa ngưỡng mộ mẹ nó giữ lời hứa. Nhưng cả tuần trôi qua, nó vẫn chưa có một câu hát nào đáng để đăng trong một tạp chí nhà nước. Lau nước mắt vỡ mộng, nó viết thư kể cho mẹ về nỗi khó khăn của mình. Đúng lúc nó đưa bao thư dán kín cho ông bưu tá, ông nhắc tới một cụ già sống ở Vực Ngàn Thước. Ông cụ này là thợ xay nghèo, biết tất cả các bài hát trong vùng, và tuy mù chữ, ông nổi danh là ca sĩ vô địch. Bốn Mắt xé thơ cho mẹ ngay tại chỗ, và lập tức lên đường làm một chuyến thám hiểm mới. Nó kể: "Lão già nát rượu và rất nghèo. Trong đời tao chưa bao giờ thấy ai nghèo như vậy. Mày biết lão nhắm rượu với cái gì không? Sỏi! Tao thề trên đầu mẹ tao là thật. Lão nhúng sỏi vào nước muối, bỏ vô miệng mút rồi nhổ ra lại. Lão nói món này là "bánh bao ngọc chấm sốt máy xay". Lão mời, nhưng tao từ chối. Tao đâu biết mình đã chạm tự ái lão, nhưng sau đó lão rất khó chịu. Tao cố hết sức gạ lão hát, thậm chí đưa tiền, nhưng lão ngậm miệng như hến. Tao ở với lão hai ngày tại nhà máy xay cũ, hy vọng moi được lão. Tao ngủ trong giường lão, quấn trong cái chăn mười năm chưa giặt... " Hình dung cảnh tượng chẳng khó: Bốn Mắt nằm trên cái giường lúc nhúc rận, cố thức, phòng khi trong giấc ngủ ông cụ bỗng hát những đoạn dân ca chân thực, trong khi chấy rận nhung nhúc từ hang hốc bò ra tấn công trong bóng tối, hút máu nó, trượt trên tròng kính trơn mà nó không tháo ra để đi ngủ. Mỗi cái trở mình nhẹ nhất, mỗi tiếng ậm ừ nhỏ nhất của ông cụ, thằng bạn Bốn Mắt của chúng tôi nín thở, sẵn sàng bật đèn pin bỏ túi và ghi chép như gián điệp. Nhưng sau một thoáng hồi hộp ngắn ngủi, mọi thứ trở lại bình thường, ông cụ ngáy đều theo nhịp guồng nước quay vô tận. Lạc hờ hững nói: "Tao có ý này. Nếu tụi tao gạ được ông thợ xay của mày hát mấy bài dân ca cho tụi tao, mày có cho tụi tao mượn thêm sách của Balzac không?" Bốn Mắt không trả lời ngaỵ Nó chăm chú cặp kính mờ hơi nước vào vạc nước đen đang sủi bọt, như bị thôi miên vì lũ rận chết lộn nhào giữa bọt tăm và vụn thuốc lá. Cuối cùng nó ngửng đầu hỏi Lạc: "Mày định bắt tay vào việc thế nào?" Chương 4 Nếu thấy tôi trên đường tới Vực Ngàn Thước vào ngày hè năm 1973, bạn sẽ ngỡ rằng tôi bước ra từ tấm ảnh chính thức của đại hội Đảng Cộng sản, hay từ chân dung đám cưới của một cán bộ cách mạng. Tôi mặc áo khoác xanh lính thủy, cổ áo xám sậm, do cô bé thợ may may chọ Nó đúng y cái áo khoác Mao chủ tịch mặc, từ cổ xuống tới dáng túi và đường viền trên tay áo: ba cái cúc đồng lấp lánh mỗi khi tôi cử động cánh taỵ Để ngụy trang vẻ trẻ trung của mái tóc mất trật tự dựng đứng trên đầu tôi, cô thiết kế y phục của bọn tôi : che đầu tôi bằng cái nón kết cũ màu lục như nón sĩ quan của cha cộ Không may là đối với tôi cái nón nhỏ ít nhất một số. Còn Lạc, để đúng với vai thư ký, nó mặc quân phục bạc màu chúng tôi mượn ngày hôm trước của một nông dân trẻ vừa xong nghĩa vụ quân sự trở về. Ngực nó lóng lánh một huy hiệu đỏ chói, hình nổi đầu Mao mạ vàng, tóc chải lật ra sau đâu vào đấy. Vì trước đó chưa bao giờ phiêu lưu vào vùng núi hoang dã và heo hút này, chúng tôi suýt lạc trong rừng tre rậm rạp. Tre chót vót khắp nơi, lóng lánh hạt mưa, chùm lá giao nhau trên đầu và vây lấy chúng tôi. Mùi hăng của thú vật vô hình, thỉnh thoảng nghe tiếng tách nhẹ của mầm măng mới lớn và đang đâm chồi. Những loại tre mạnh hơn dường như có thể mọc thêm ba tấc mỗi ngày. Máy xay chạy bằng nước của người ca sĩ già giạng chân trên dòng nước lũ từ vách đá cao đổ xuống. Trông nó như một di vật thời quá khứ, với những guồng đá trắng vân đen, khổng lồ, quay theo nhịp đều đều thôn dã. Bên trong, phiến gỗ sàn nhà tầng trệt rung lên. Nhìn qua khe ván cong cũ kỹ có thể thấy nước chảy xiết giữa các tảng đá. Tiếng đá nghiến vang dội trong tai. Ông cụ mình trần đứng giữa phòng, đổ ngũ cốc vào lỗ xaỵ Ông ngừng việc lúc chúng tôi vào, và nghi ngại lặng lẽ nhìn chúng tôi. Tôi chào ông, không bằng tiếng Tứ Xuyên của mình, mà bằng tiếng quan thoại như thể mình là tài tử xi nê. Ông cụ ngạc nhiên hỏi Lạc: "Nó nói tiếng gì vậy?" Lạc đáp: "Tiếng chính thức. Tiếng Bắc Kinh. Cụ không nói tiếng quan thoại à?" "Bắc Kinh ở đâu?" Chúng tôi sửng sốt vì câu ông hỏi, nhưng khi nhận ra ông nói thật, bọn tôi không khỏi cười ồ. Trong thoáng chốc, tôi hầu như ganh với sự mù tịt về thế giới bên ngoài của ông. Lạc hỏi: "Bắc Bình, cụ có thấy quen quen không?" Ông cụ nói: "Bách Bình à? Quen, thành phố lớn ở phía bắc! " Lạc giải thích: "Tên đổi hai mươi năm trước rồi, bố ạ. Và ông này đây, ổng nói tiếng chính thức ở Bách Bình như cụ gọi." Ông cụ nhìn tôi kính nể. Ông nhìn đăm đăm cái áo Mao của tôi, rồi dán mắt lên ba cái khuy trên cánh tay áo. Ông thò đầu ngón tay sờ chúng. Ông hỏi: "Mấy cái thứ xinh xắn này để làm gì?" Lạc dịch câu hỏi cho tôi. Tôi trả lời bằng tiếng quan thoại ngập ngừng của mình. Nhưng thông dịch viên của tôi bảo cụ già xay cối rằng tôi nói chúng là dấu hiệu của cán bộ cách mạng thứ thiệt. Lạc nói tiếp bằng giọng khéo léo của tên đại bợm: "Ông này tận Bắc Kinh tới để sưu tập các bài dân ca của vùng này, và công dân nào biết đều có nhiệm vụ truyền lại cho ông tạ" Ông cụ nghi ngờ liếc về phía tôi và hỏi: "Bài ca miền núi của chúng tôi à? Anh cũng biết, không thích hợp đâu, toàn mấy bài ngắn, cổ lỗ sĩ ấy mà." "Ông này tìm đúng mấy bài đó: mấy lời hát chính gốc, nguyên thủy, thô thiển trong các đoản khúc xưa." Cụ thợ xay ngẫm nghĩ yêu cầu rất cụ thể này. Rồi ông cười toe toét nhìn tôi với ánh mắt tinh quái lạ lùng. "Anh có thật... ?" Tôi cương quyết đáp: "Thật." "Ông ấy thật muốn tôi hát mấy bài thô lỗ nhảm nhí cho ông ấy à? Vì, ông thấy, mấy khúc hát của chúng tôi, như mọi người biết là... " Ông ngừng lại vì một toán nông dân vác những sọt nặng trên lưng đi vào. Tôi rất lo, gã "thông dịch viên" cũng lo không kém. Tôi thì thầm vào tai nó: "Chuồn hả?" Nhưng ông cụ quay sang chúng tôi và hỏi Lạc: "Ông ấy nói gì?" Tôi thấy đỏ mặt, và để giấu vẻ bối rối, tôi vội ra phụ các nông dân hạ sọt xuống. Họ có sáu người. Hình như chưa ai tới làng chúng tôi, và khi biết chắc họ không rõ chúng tôi là ai, tôi cảm thấy yên tâm hơn. Họ để trên sàn những sọt bắp nặng mang tới xay. Cụ thợ xay bảo các nông dân: "Tới đây nào, để tôi giới thiệu anh thanh niên từ Bách Bình đến cho các ông. Thấy ba cái cúc trên ống tay áo chưa?" Hớn hở, ông già ở ẩn nắm cổ tay tôi giơ lên vẩy trước mặt nông dân, cho họ say ngắm những cái cúc vàng vớ vẩn. Ông reo lên, rượu phì khỏi miệng: "Các ông biết là gì không? Dấu hiệu của cán bộ cách mạng đấy." Tôi sửng sốt vì bàn tay chai sạn mạnh mẽ của ông cụ khẳng khiu này. Cái nắm chặt trên cổ tay tôi muốn dập xương. Thằng bịp Lạc đứng cạnh dịch lời ông thợ xay ra tiếng quan thoại với tất cả vẻ trang trọng của một thông dịch viên chính thức. Tôi thấy mình gật chào, và bắt tay mọi người như nhà lãnh tụ trong phim thời sự, cùng lúc lắp bắp những câu lịch sự bằng tiếng quan thoại rất nghèo nàn. Đời tôi chưa bao giờ cư xử như thế. Tôi ân hận chuyến viếng thăm giả danh này, đảm nhận sứ vụ bất khả một cách thiếu suy nghĩ vì Bốn Mắt, chủ nhân độc địa của cái va li da. Tôi gật đầu hăng hái tới nỗi cái mũ xanh của mình, hay đúng hơn là mũ ông thợ may, rơi xuống đất. Rốt cuộc các nông dân ra về, để lại một núi bắp đợi xay. Tôi cảm thấy kiệt quệ, đầu nhức vì cái nón chật càng lúc càng như vòng sắt siết lên xương sọ. Ông cụ thợ xay dẫn chúng tôi tới thang gỗ ọp ẹp, thiếu hai ba thanh ngang lên tầng trên. Ông lục giỏ mây lôi ra bầu rượu đầy và ba cái chén nhỏ. Ông nhe miệng cười: "Ở đây ít bụi. Nào mình uống." Sàn nhà rộng, tối tăm và rải rác những hòn sỏi, chúng tôi ngờ là "bánh bao ngọc" mà Bốn Mắt đã kể. Như nhà dưới, không một mảnh đồ đạc gì ngoại trừ cái giường lớn. Trên tường treo tấm da beo hay báo đen lốm đốm, và cây đàn, một thứ đàn cò bằng tre có ba dây. Cụ thợ xay mời chúng tôi ngồi xuống giường. Đúng cái giường đã cho Bốn Mắt một kỷ niệm đau đớn. Tôi liếc gã thông dịch của mình, rõ ràng nó cũng e sợ như tôi. Lạc lắp bắp, nó bắt đầu sờn lòng: "Ngồi bên ngoài không thích hơn sao? Trong này tối quá." "Đừng lo, cứ để tôi." Ông cụ thắp đèn dầu đặt xuống giữa giường. Bình gần cạn, vì thế ông bỏ đi tìm dầu. Phút sau ông quay lại với bầu dầu đầy. Ông đổ thêm vào cây đèn, và đặt nửa bầu dầu cạnh bầu rượu. Chúng tôi ngồi xổm trên giường uống rượu quanh ngọn đèn dầu. Cạnh tôi, một bó áo quần bẩn cuộn trong cái chăn thộ Vừa nhấp rượu tôi vừa cảm thấy lũ rận tí ti đang bò lên một chân mình. Tôi quyết định từ bỏ lễ nghi cán bộ và kín đáo thò tay vào quần, nhưng lập tức thấy chân kia cũng bị tấn công. Tôi tưởng tượng thân mình là bãi tập họp của đoàn quân chấy rận đang say máu mới, cồn cào vì món hẩu trên gân máu khốn khổ của tôi. Tôi hình dung Bốn Mắt khuấy một vạc lớn áo quần cuồn cuộn, chìm đắm, quay cuồng - chỉ khác đó là cái áo khoác mới kiểu Mao của tôi sôi sục giữa đám bọt tăm đen. Lát sau ông cụ thợ xay bỏ đi, phó mặc chúng tôi cho chấy rận. Ông quay lại mang theo đĩa, cái chén nhỏ và ba đôi đũa, để hết trên chăn cạnh cây đèn. Rồi ông lại leo lên giường. Cả Lạc lẫn tôi đều không giây phút nào nghĩ ông cụ lại trơ tráo mời chúng tôi cùng một món như đã mời Bốn Mắt. Nhưng muốn lảng ông ta đi thì đã quá muộn. Cái đĩa đầy những hòn sỏi nom bình thường, đủ màu xám và lục, cái chén đựng nước trong lóng lánh dưới ánh đèn dầu. Những hạt muối dưới đáy cho chúng tôi biết đây phải là sốt máy xaỵ Trong khi đó, bọn tấn công đang tiến tới giới hạn bành trướng lãnh thổ của chúng: chúng chui vào nón, và tôi thấy tóc mình dựng đứng lúc chúng xâm lăng da đầu tôi. Ông cụ bảo: "Xin mời. Đây là món nhắm thông dụng của tôi: bánh bao ngọc với sốt mặn." Ông cầm đũa gắp một hòn sỏi trong đĩa và từ từ chấm vào nướt sốt như đang làm lễ. Rồi ông đưa viên sỏi lên môi mút ngon lành. Ông ngậm trong miệng một lúc lâu. Tôi thấy nó lăn giữa hàm răng sâu của ông, nhưng đúng lúc như sắp nuốt, nó lại trồi lên từ sâu trong cuống họng. Ông cụ mím môi, từ khoé miệng phun hòn sỏi ra trượt trên sàn nhà. Sau một thoáng lưỡng lự, Lạc cầm đũa và nếm món bánh bao ngọc đầu tiên trong đời, vẻ mặt lịch sự tán thành pha lẫn thương hại. Ông khách từ Bách Bình là tôi theo sau. Nước sốt không mặn lắm, và viên sỏi có vị chua ngọt. Ông cụ cứ rót đầy chén rượu và ép chúng tôi cùng ông nâng chén. Ba cái miệng phun sỏi bay cầu vòng khắp không gian. Có viên đập những viên đã rơi vãi trên sàn thành tiếng lách cách vui tai. Ông cụ đang hứng. Ông cũng biết duyên cớ hôm naỵ Trước khi hát những sơn khúc ngắn, ông xuống nhà ngưng cối xay đang quá ồn. Rồi ông ra đóng cửa sổ để âm thanh tốt hơn. Ông vẫn cởi trần, và cẩn thận sửa lại sợi dây lưng bện rơm trước khi gỡ cây đàn ba dây trên tường xuống. Ông đề nghị: "Các chú muốn nghe mấy bài hát xưa hả?" Lạc nói bằng giọng tin cẩn: "Thưa phải, cho một tạp chí quan trọng của nhà nước. Chúng tôi tin nơi cụ. Chúng tôi cần những bài chính gốc, chân thực, điểm nét hiện thực lãng mạn." "Anh bảo lãng mạn nghĩa là gì?" Lạc ngẫm nghĩ câu hỏi, rồi đặt tay lên ngực như đang làm chứng trước quyền năng siêu nhiên: "Cảm xúc và tình yêu." Ông cụ khảy nhẹ dây đàn như cầm cây ghi tạ Sau vài nốt, ông bật hát hầu như không nghe rõ. Chúng tôi chú ý ngay tới cái bụng méo mó của ông, kỳ lạ tới nỗi khoa? lấp giọng hát, giai điệu và mọi thứ. Gầy gò, ông gần như không có bao tử, chỉ một lớp da nhăn vô số nếp trên bụng. Lúc ông khởi sự hát, lớp nhăn cuồn cuộn lên, tạo thành những đợt sóng nhỏ lăn tăn trên thân thể sạm nắng bóng loáng. Sợi dây lưng bện rơm cũng bắt đầu nhấp nhộ Thỉnh thoảng nó biến mất vào trong cuộn da, nhưng ngay lúc tưởng như chìm hẳn trong dòng thủy triều nó lại trồi lên, nghễu nghện và tinh khôi. Một cái thắt lưng thần kỳ. Giọng cụ thợ xay lập tức đổi sang khàn và trầm, mỗi lúc mỗi lớn. Khi hát, mắt ông đảo không ngừng từ mặt Lạc sang tôi, vẻ nhìn từ thân thiện đồng loã sang đăm đăm hoang dại. Đây là bài hát của ông: Hãy kể cho tôi: Con rận già, Nó sợ gì? Nó sợ nước sôi, Nước sôi là nước sôi. Còn cô tiểu nhỏ, Hãy kể cho tôi, Cô sợ gì? Cô sợ sư cụ, Sư cụ là sư cụ, Bọn tôi ôm bụng cười. Tất nhiên, chúng tôi cố kìm mình, nhưng tiếng khúc khích ngầm càng lúc càng tăng tới khi nổ bùng. Cụ thợ xay cũng mỉm cười và hát tiếp, trong lúc làn da cứ cuộn trên bao tử. Lạc và tôi lăn ra sàn, bật cười rũ rượi. Lạc lau mắt đứng dậy. Nó cầm bầu rót đầy ba chén trong khi chúng tôi đợi người ca sĩ già hát hết bài ca sơn cước chân chất, chính gốc, lãng mạn này. Lạc đề nghị: "Nâng chén chúc mừng cái bao tử khó tin của cụ." Vung vẩy chén rượu, người ca sĩ của bọn tôi mời bọn tôi đặt tay lên bụng ông. Ông hít hơi thật sâu, không hát, mà chỉ làm trò dợn sóng trên bao tử. Rồi chúng tôi cụng chén uống một hơi cạn. Trong vài giây, cả ba chúng tôi ngồi chết sững. Rồi thình lình cổ tôi ứ lên một vị kinh khủng tới nổi tôi quên vai của mình, và buột miệng bằng tiếng Tứ Xuyên lộ liễu: "Cái món rượu lậu của cụ nấu bằng gì?" Tôi hỏi vừa xong, cả ba lập tức phun hết những gì trong miệng ra hầu như đồng loạt: Lạc đã cầm lộn bầu. Nó không rót rượu mà rót dầu đèn. ❃ ❖ ❊ Tôi nghĩ từ khi tới núi Phụng Hoàng chắc đây là lần đầu tiên Bốn Mắt mới thật sự nhìn một người nào với vẻ mãn nguyện sâu xa như thế. Trời nóng. Mặt nó đổ mồ hôi, cặp kính cứ trượt trên cái mũi nhỏ. Trong lúc nó cắm đầu trên những mẩu giấy vấy muối, rượu và dầu đèn, trên đó chúng tôi ghi mười tám bài hát của cụ thợ xay, Lạc và tôi để nguyên giầy áo bò lên giường nó. Bọn tôi mệt đứt hơi: lặn lội gần suốt đêm băng qua núi, và sau khi xuyên rừng tre, tiếng thú hoang vô hình theo chúng tôi mãi tới bình minh. Bất chợt nét mỉm cười tan biến trên mặt Bốn Mắt, nhường chỗ cho vẻ cáu kỉnh. Nó quát tháo: "Đồ chết tiệt! Tụi mày ghi được toàn mấy câu tục tĩu!" Giọng nó sắc cạnh như sĩ quan quân đội. Tôi giật lùi vì cơn thịnh nộ của nó, nhưng không nói. Chúng tôi chỉ muốn nó cho mượn hai cuốn sách để đổi lấy cố gắng của mình. Lạc bồn chồn nhắc cho nó nhớ: "Mày nói mày muốn bài hát miền núi chính gốc." "Trời ơi! Tao muốn, mà tao cũng nói tụi mày là tao muốn những câu hát tích cực đượm chất hiện thực lãng mạn." Vừa nói Bốn Mắt vừa nhón ngón tay giơ một trang lên vẫy vào mặt chúng tôi. Tiếng giấy sột soạt lẫn với giọng thầy giáo mắng nhiếc của nó. "Hai đứa mày sao vậy, chỉ toàn kiếm thứ bị cấm hả?" Lạc nói: "Đừng cường điệu." "Mày nghĩ tao cường điệu? Mày muốn tao trình cái này cho ủy ban xã không? Lão thợ xay của tụi mày sẽ bị kết tội phổ biến thứ dâm ô, thậm chí có thể đi tù. Tao nói thiệt." Bỗng nhiên tôi ghét nó. Nhưng tôi không tỏ ra. Tốt hơn nên đợi tới khi nó giữ lời hứa cho bọn tôi mượn thêm sách. Lạc nói: "Thì cứ đi báo cáo ông cụ đi! Tao nghĩ ổng hay - bài hát, giọng ca, cái bụng dợn sóng quái đản, và những thứ ổng kể. Tao sẽ trở lại đó biếu ổng ít tiền vì lòng ân cần của ổng." Ngồi ở mép giường, Bốn Mắt gác cái cẳng khẳng khiu của nó lên bàn và đọc tiếp những tờ ghi chép của chúng tôi. "Làm sao tụi mày phí bằng ấy thời giờ chép thứ ngớ ngẩn này? Tao không tin nổi. Tụi mày nghĩ tạp chí nhà nước sẽ tính chuyện đăng đồ cứt này hả? Họ sẽ cho tao việc nhờ cái này hả? Tụi mày mất trí rồi." Từ khi nhận được thư mẹ, nó thay đổi thật khác thường. Vài ngày trước khó mà nghĩ nó quạt chúng tôi như thế này. Tôi không ngờ một tia hy vọng nhỏ xíu cho tương lai có thể hoàn toàn biến đổi một con người. Nó kiêu căng một cách điên rồ, giọng nó sôi lên khao khát và căm hờn. Nó không nhắc gì đến cuốn sách đáng lẽ cho bọn tôi mượn. Nó đứng bật dậy, ném những tờ ghi chép của chúng tôi lên giường rồi đi vào bếp. Chúng tôi nghe nó vừa thái rau vừa lầu bầu. "Tao đề nghị tụi mày gom hết mấy tờ giấy của tụi mày cất vào túi, hay tốt hơn nên đốt ngay đi. Tao không muốn đồ bị cấm đó nằm vạ vật , nhất là trên giường tao!" Lạc vào bếp gặp nó: "Cho tao mượn hai cuốn sách rồi tụi tao sẽ về." "Sách gì?" Tôi nghe Bốn Mắt vừa lải nhải, vừa tiếp tục thái bắp cải và củ cải. "Sách mày hứa với tụi tao." "Mày nghĩ tao điên hay sao? Mày đem về cho tao thứ rác rưởi vô dụng, chỉ tổ làm tao bị rắc rối! Rồi mày còn trơ mặt giả bộ... " Nó ngưng giọng và lao lại vào phòng, tay vẫn cầm con dao bếp. Nó chộp mớ giấy trên giường, rồi chạy ra cửa sổ đọc lại lần nữa dưới ánh mặt trời ban mai. Nó thốt: "Trời đất! Tao thoát rồi. Tao chỉ cần đổi chút xíu. Tao có thể thêm đúng lời chỗ này chỗ kia, và cắt bỏ mấy chỗ tục tĩu... Đồ ngu, tụi mày đúng là ngu. Ít nhất tao còn nghĩ đúng được, hơn cả hai đứa mày." Không chút khó khăn, nó đọc lớn bài hát đầu tiên với các câu cải biên, hay nói đúng hơn là bóp méo của nó: Hãy kể cho tôi: Lũ chí rận tư sản, Chúng sợ gì? Chúng sợ làn sóng vô sản sục sôi. Tôi chồm lên lao vào nó. Trong cơn phẫn nộ, tôi chỉ muốn giật những tờ giấy khỏi tay nó, nhưng khi vung tay, tôi vô tình đấm vào hàm nó khiến nó lảo đảo. Ót nó đập vào tường, con dao rơi khỏi tay, và mũi nó chảy máu. Tôi cố giật giấy ghi chép của mình để xé thành từng mảnh vụn và nhét vào miệng nó, nhưng nó giữ chặt. Từ lâu tôi không dự vào bất cứ vụ đánh nhau nào, vì thế tôi quá đà, và trong mấy phút tôi chẳng biết chuyện gì xảy ra. Tôi thấy miệng nó mở lớn, nhưng không nghe tiếng nó hét. Ra đến ngoài tôi bình tĩnh lại. Lạc và tôi ngồi ven đường, ở chân một tảng đá. Lạc xỉa ngón tay lên chiếc áo khoác kiểu Mao của tôi, có vết máu Bốn Mắt. Nó nói: "Mày giống người hùng trong phim chiến tranh. Ôi dào, từ nay khỏi có Balzac." ❃ ❖ ❊ Mỗi khi có ai hỏi tôi thị trấn Vĩnh Kính như thế nào, tôi sẽ lập lại điều bạn Lạc nói: nhỏ tới nỗi khi căng tin địa phương nấu thịt bò xào hành, mùi bay tới mũi từng cư dân. Thật vậy, thị trấn không hơn một con lộ độc đạo khoảng hai trăm thước, với bưu điện, thị sảnh, cửa hàng tạp hoá, thư viện và trường học. Cũng có một quán ăn dính với khách sạn mười hai phòng. Ở cuối thị trấn, trên giữa sườn đồi, là bịnh viện huyện. Hè năm đó trưởng làng gửi chúng tôi tới thị trấn vài lần xem phim. Tôi tin rằng lý do chính đằng sau thái độ cởi mở của ông là cái đồng hồ báo thức hết sức hấp dẫn, với con gà trống lông công kiêu căng của chúng tôi: nhà cựu canh tác thuốc phiện cải hoá thành cộng sản mụ người vì nó. Cách duy nhất để chiếm trọn nó cho mình, dù chỉ một thời gian ngắn, là phái chúng tôi đi Vĩnh Kính. Suốt bốn ngày chúng tôi ra đó xem phim rồi quay về làng, ông sẽ là chúa tể và là chủ cái đồng hồ. Tới cuối tháng Tám, một tháng sau khi chúng tôi cãi nhau với Bốn Mắt, từ đó cắt đứt liên hệ, chúng tôi lại lên đường ra Vĩnh Kính, nhưng lần này bọn tôi có cô bé thợ may tháp tùng. Sân bóng rổ kiêm rạp chiếu bóng ngoài trời chật cứng khán giả. Họ vẫn chiếu phim cũ của Bắc Hàn, Cô bé hàng hoa, phim đã làm bốn bà phù thủy ở nhà cô bé thợ may chảy nước mắt. Bộ phim dở, và xem lại lần thứ hai không làm chúng tôi đổi ý. Nhưng không vì thế chúng tôi cụt hứng. Vì chúng tôi mừng được ra thị trấn một lần nữa, ngay cả một thị trấn không lớn hơn chiếc khăn taỵ Hoài niệm về cuộc sống thị thành dồn dập trở về, và xin cam đoan, ngay cả mùi thịt bò xào hành cũng mang hương vị tinh tế. Hơn nữa, Vĩnh Kính có điện thay vì đèn dầu như chỗ chúng tôi. Tôi không nói quá rằng chuyến thăm thị trấn của chúng tôi trở thành nỗi ám ảnh, nhưng phải lê bước qua núi để xem phim nghĩa là ít nhất có bốn ngày khỏi lao động ngoài đồng, từ việc vác phân người và phân thú trên lưng, hay cày bừa trên ruộng lúa với con trâu đuôi dài quất ngang mặt. Lý do lên tinh thần khác của chúng tôi là cô bé thợ may đi cùng. Lúc chúng tôi đến nơi, phim đã bắt đầu, và chỉ còn chỗ đứng sau màn ảnh, nơi hình ảnh lật ngược và mọi người thuận tay trái. Nhưng cô bé thợ may không muốn bỏ lỡ cuộc vui hiếm có này. Còn chúng tôi, chúng tôi hài lòng ngắm khuôn mặt yêu kiều của cô đẫm trong màu sắc rạng ngời từ màn ảnh dội lại. Đôi lúc, màn ảnh tối đi và cặp mắt cô lấp lánh như đốm lân tinh trong bóng đen. Rồi bất chợt, khi đổi cảnh, mặt cô sáng lên, tràn ngập sắc màu, và nở hoa diệu kỳ. Trong số các cô gái giữa ít nhất hai ngàn khán giả, hiển nhiên cô nàng xinh nhất. Niềm hãnh diện nam tính khuấy lên sâu trong lòng chúng tôi, giữa những cái nhìn ganh tị của bọn đàn ông trong đám đông. Khoảng giữa phim, cô quay sang thì thầm vào tai tôi. Lời cô nhói tim tôi. "Anh kể hay hơn nhiều." Khách sạn chúng tôi tới sau đó rất rẻ tiền - năm xu một phòng, chưa tới giá một phần thịt bò xào hành. Trong sân, chúng tôi gặp ông gác đêm đầu hói quen thuộc, đang ngủ gà gật trên ghế. Ông chỉ lên một cửa sổ đèn sáng, và thấp giọng bảo chúng tôi rằng căn phòng đã có một bà đi một mình thuê qua đêm. Ông nói bà ta khoảng bốn mươi và từ thủ phủ của tỉnh đến. Bà sẽ đi Phụng Hoàng sơn sáng mai. Ông nói thêm: "Bả đón con trai. Bả kiếm được việc cho nó ở thành phố." Lạc hỏi: "Con trai bả đang học cải tạo à?" "Ừ, như mấy chú." Thằng có diễm phúc này là ai - đứa đầu tiên trong hơn trăm thanh niên trên núi được thả từ học tập cải tạo về? Câu hỏi làm chúng tôi thao thức ít nhất nửa đêm, nôn nóng vì ganh tị. Giường chúng tôi như lửa đốt không thể ngủ được. Chúng tôi không biết đứa may mắn là ai, dù chúng tôi lược qua tên mọi đứa khả dĩ, loại trừ những đứa như chúng tôi thuộc loại ba phần trăm, vì là con tư sản như Bốn Mắt, hay con kẻ thù giai cấp như Lạc và tôi. Hôm sau chúng tôi trên đường về, tình cờ tôi gặp người đàn bà đến để cứu đứa con. Ngay trước khi lối mòn dốc lên giữa vách đá rồi mất hút trong mây trắng che phủ đỉnh núi, chúng tôi thấy một triền núi lớn điểm những ngôi mộ Tây Tạng và Trung Hoa. Cô bé thợ may muốn chỉ cho chúng tôi nơi chôn cất ông ngoại. Bản thân không thích nghĩa địa, tôi ở lại trong khi cô và Lạc thám hiểm rừng bia mộ, một số bia chìm phân nửa dưới đất, số khác phủ dây leo dầy đặc. Tôi ngồi dưới một mỏm đá nhô ra, và như thường lệ, nhóm lửa với lá khô và cành cây. Tôi lấy hai củ khoai lang trong túi và lùi dưới than hồng, khi nhìn lên tôi thấy người đàn bà ngồi trên ghế gỗ buộc vào vai một thanh niên. Thật ngạc nhiên là trong chỗ ngồi không chút gì vững chắc, bà tỏ vẻ hầu như thanh thản siêu nhân và đang đan áo, như thể đang ngồi trên ban công nhà. Dáng người gầy, bà mặc áo khoác bằng nhung kẻ, màu lá cây đậm, quần nâu và đôi giầy phẳng gót bằng da mềm màu lá mạ. Khi họ đi ngang, người phu quyết định nghỉ và hạ thấp ghế xuống mặt đá phẳng. Người đàn bà cứ tiếp tục đan, không tỏ vẻ bước xuống ghế. Bà chẳng buồn liếc xem tôi làm gì, cũng chẳng nói một lời với người phụ Dùng giọng địa phương, tôi hỏi bà có phải đã trọ qua đêm ở khách sạn Vĩnh Kính. Bà gật đầu xác nhận và tiếp tục đan. Một bà thanh lịch, hẳn là giầu có, không ngạc nhiên trước bất cứ điều gì. Tôi nhặt que đâm một củ khoai giữa than hồng, đập lên đá vài lần để rũ trọ Tôi quyết định đổi cách phát âm. "Mời bà hương vị núi non." Bà reo lên, giọng nhẹ và du dương: "Cậu nói giọng Thành Đô!" Tôi giải thích gia đình tôi ở Thành Đô, đó là quê tôi. Nghe thế bà xuống ghế, tay vẫn cầm que đan, và đến ngồi bên đống lửa của tôi. Hiển nhiên bà không quen ngồi xổm trong tình huống tùy tiện như thế. Bà mỉm cười nhận củ khoai tôi mời và thổi, nhưng tránh không ăn bằng cách hỏi vì sao tôi tới chốn xa xôi này. Tôi bị học tập cải tạo à? Tôi vừa đáp vừa lấy que cời tro tìm củ khoai kia: "Vâng, trên Phụng Hoàng Sơn." Bà kêu lên: "Thật sao? Con trai bác cũng bị cải tạo ở đó. Cháu có thể đã gặp nó. Hình như trên đó nó là đứa duy nhất đeo kính." Đầu que của tôi trượt khỏi củ khoai đâm vào trọ Đầu tôi choáng váng như bị tát vào mặt. "Con trai bác là Bốn Mắt? " "Ừ nó." "Thế ra nó là đứa đầu tiên được thả!" "Ồ, cháu đã nghe rồi à? Ừ, đúng vậy, nó sẽ làm cho tạp chí văn chương." "Con bác là một chuyên gia không ngờ về dân cạ" "Bác biết. Thoạt đầu hai bác sợ nó phí phạm thời giờ trên núi. Nhưng hai bác lầm. Nó sưu tập được nhiều bài ca thôn dã tuyệt vời mà nó đã phỏng theo và cải biên. Ông tổng biên tập rất thích lời bài hát." "Nhờ bác mà nó có thể khảo cứu. Bác đã cho nó nhiều sách để đọc." "Tất nhiên." Bà bỗng im bặt, rồi liếc tôi nghi ngờ. Bà lạnh lùng nói: "Sách à? Chắc chắn là không. Cám ơn cháu về củ khoai." Bà quả thật nao núng. Nhìn bà thận trọng đặt củ khoai giữa than hồng, đứng lên sẵn sàng tiếp tục lên đường, tôi tiếc là đã nhắc tới chuyện sách. Thình lình bà quay lại đặt câu hỏi mà tôi e ngại: "Cháu tên gì? Bác muốn kể cho con bác người bác gặp trên đường." Tôi ngần ngại đáp: "Tên cháu à? Tên cháu là Lạc." Lời nói dối vừa buột khỏi miệng khiến tôi hối hận. Tôi vẫn còn nghe vẻ cảm động trong giọng nói du dương êm dịu đó khi mẹ Bốn Mắt thốt lên: "Vậy cháu phải là con của ông nha sĩ lừng danh! Quả là ngạc nhiên! Có thật như mọi người nói ba cháu chữa răng cho Mao chủ tịch không?" "Ai bảo bác thế?" "Con trai bác kể trong một lá thự" "Cháu không biết." "Ba cháu không kể cho cháu à? Ông thật khiêm tốn! Ông ấy nổi danh là một nha sĩ giỏi, rất giỏi." "Thật ra, ba cháu lúc này đang bị giam. Ông bị liệt vào thành phần kẻ thù của nhân dân." Giọng bà thấp xuống thành tiếng thì thầm: "Bác cũng nghe thế. Ba của Bốn Mắt cũng đang gặp rắc rối tương tự. Nhưng cháu không nên quá lọ Lúc này, dốt nát là thời trang, nhưng một ngày nào đó sẽ lại cần có bác sĩ giỏi. Vả lại, Mao chủ tịch sẽ cần ba cháu nữa." "Lần tới gặp ba cháu, chắc chắn cháu sẽ chuyển lời thông cảm của bác." "Cháu cũng không nên mất hy vọng. Như bác đây, dù có vẻ bận đan cái áo len xanh này, thật ra bác đang làm thơ trong đầu, mà tay vẫn cứ đan." "Hay thật! Loại thơ gì, thưa bác?" "Bí mật, cậu à." Dùng mũi que đan bà đâm củ khoai, lột vỏ và cho củ khoai còn nóng hổi vào miệng. "Con bác thích cháu lắm, cháu biết không? Nó nhắc tới cháu nhiều lần trong thự" "Thế ạ?" "Ừ. Nhưng nó không thích bạn cháu, hình như là anh chàng sống cùng làng với cháu." Thật là một phát hiện. Tôi tự khen mình vì đã giả danh Lạc. Tôi hỏi, cố giữ giọng hững hờ: "Sao nó không thích bạn cháu?" "Bác nghĩ nó hơi ranh. Nó nghi con bác giấu một cái va li, mỗi lần tới chơi nó cứ tìm." "Một va li sách à?" Bà lại ngờ vực: "Bác không biết. Một hôm con bác tức cậu đó tới nỗi con bác đấm nó vào hàm và cho một trận. Bác nghe kể nó chảy máu nhiều lắm." Tôi lầm bầm bực tức, và phải dằn cơn thôi thúc nói cho bà biết trí tưởng tượng sống động của con bà dùng để viết tiểu thuyết thích hợp hơn là giả mạo lời bài hát dân gian. Bà nói tiếp: "Bác không ngờ con bác khoẻ thế. Ngay thư sau, bác khuyên nó tránh xa rắc rối, và đừng bao giờ dính líu trong tình thế nguy hiểm như vậy nữa." "Bạn cháu sẽ rất thất vọng khi nghe con bác từ giã chúng cháu luôn." "Sao thế? Nó muốn trả đũa à?" "Không, cháu không nghĩ thế. Nhưng nó sẽ phải bỏ hy vọng có ngày đặt tay lên cái va li bí mật." "Ôi dào. Chắc là thế." Khi người phu bắt đầu tỏ vẻ sốt ruột, bà từ giã tôi. Chúc tôi may mắn, bà lên ghế, cầm lấy món đan, và đi mất. ❃ ❖ ❊ Mộ tổ của cô bé thợ may ở cách xa đường mòn chính, nằm trên triền dốc hướng về phía nam giữa những ngôi mộ nghèo. Một số không hơn đống đất đủ cỡ. Số khác ở trong tình trạng hơi khá hơn, bia mộ chìm trong cỏ cao, tàn úa. Ngôi mộ tổ rất khiêm tốn, thậm chí tầm thường. Bia là tảng đá xám đậm, có vân xanh, xói mòn vì khí hậu khắc nghiệt nhiều thập kỷ, khắc chỉ một tên và hai ngày tóm lược một cuộc đời không gì đáng nhớ. Lạc và cô bé thợ may đặt những bó hoa dại hái gần đó, những nụ hoa đỏ hình trái tim, lá đủ màu, hoa anh thảo trên cuống cong duyên dáng, hoa bóng nước được dân địa phương gọi là "Phụng Hoàng tiên", và cả một số lan dại hiếm, cánh hoa tinh khiết trắng như sữa vây quanh đài hoa vàng nhạt. Cô bé thợ may gọi lớn: "Sao dài mặt ra thế kiả" Tôi hét trả: "Tôi đang buồn cho Balzac." Tôi xuống triền dốc gặp hai đứa và kể cuộc gặp gỡ mẹ Bốn Mắt, nhà thơ đan áo. Tụi nó hình như không chia sẻ nỗi căm phẫn của tôi về chuyện ăn cắp đáng tởm các bài hát của ông cụ thợ xay, không bị ảnh hưởng gì với tin Bốn Mắt sẽ được rời vùng sơn cước, cũng như viễn ảnh mất Balzac. Nhưng tụi nó rất thú vị khi tôi kể đã giả vờ làm Lạc, con ông nha sĩ, và tiếng cười của chúng vang đầy nghĩa trang lặng lẽ. Một lần nữa, tôi thấy vẻ quyến rũ trên khuôn mặt cô bé thợ maỵ Cô hấp dẫn như đêm trước ở buổi xi nê ngoài trời. Nhưng lúc này cô cười làm tôi say đắm cùng cực muốn cưới cô ngay lập tức, bất kể cô là bạn gái của Lạc. Trong tràng cười của cô, tôi thấy hương xạ của lan rừng, ngát hơn cả mùi hoa dưới chân cô. Lạc và tôi vẫn đứng trong lúc cô quỳ bên mộ Ông ngoại. Cô cúi lạy mấy lần, lẩm bẩm một mình những lời dịu dàng khấn ông. Bất chợt cô quay đầu nhìn chúng tôi. "Mấy cuốn sách đó - hay là mình ăn trộm chúng?" Chương 5 Nhờ cô bé thợ may, chúng tôi có thể theo dõi hầu như từng giờ mọi việc xảy ra trong làng của Bốn Mắt suốt tuần lễ trước khi nó ra đi, dự kiến ngày 4 tháng Chín. Mọi tin đồn ở địa phương đều tới tai cộ Cô chỉ cần nghe tiếng liến thoắng của khách hàng, đàn ông và đàn bà, trưởng làng và trẻ con từ khắp các làng trong vùng. Không thiếu một chuyện gì. Bốn Mắt và nhà thơ mẹ nó dự tính một buổi liên hoan lớn đánh dấu ngày chấm dứt cải tạo của nó. Tin đồn nữ thi sĩ đã hối lộ trưởng làng để được phép làm tiệc tiễn đưa ngoài trời. Tất cả dân làng tham dự, vì thế phải giết một con trâu. Vẫn chưa rõ sẽ giết con trâu nào và giết cách nào, vì giết thú còn lao động trên đồng ruộng là trái luật. Tuy bọn tôi từng là hai đứa bạn duy nhất của Bốn Mắt trên núi, bọn tôi không có trong danh sách khách mời - bọn tôi chẳng màng. Thật ra, bữa tiệc cho chúng tôi một cơ hội tuyệt vời để tiến hành kế hoạch ăn cắp cái va li bí mật. Cô bé thợ may có cái tủ là của hồi môn của mẹ cô, dưới đáy một ngăn kéo Lạc tìm thấy vài cây đinh rỉ lớn. Như một cặp bẻ khoá nhà nghề, chúng tôi tiến hành làm giả chiếc chìa khoá vạn năng bằng một cây đinh cũ. Bọn tôi thật phấn khởi! Tôi chà cây đinh trên đá tới lúc nóng bỏng tay, sau đó chùi vào chiếc quần lấm bùn dầy cộp của mình, và hăng hái đánh bóng tới khi mẩu sắt sáng như mới. Khi giơ lên xem, nó lấp lánh sáng tới nỗi tôi ngỡ thấy mắt mình và bầu trời cuối hè phản chiếu trong đó. Lạc chịu trách nhiệm giai đoạn tinh tế nhất: một tay giữ cây đinh trên hòn đá, tay kia nó giơ búa nện. Đầu búa vung một nhát đẹp trên không, đập xuống miếng sắt, dội lại để sẵn sàng cho một nhát nữa, và cứ thế, tới khi rốt cuộc cây đinh phẳng như ý muốn. Một hay hai ngày trước khi ăn trộm, tôi mơ thấy Lạc giao chìa khoá vạn năng cho mình. Trời mù sương, tôi lén lút tới nhà Bốn Mắt, gần như rón rén. Lạc ngồi gác dưới gốc cây. Bọn tôi nghe dân làng la hét và ca các bài cách mạng lúc tiệc tùng gần đó. Lối vào nhà Bốn Mắt có cửa đôi. Mỗi bên lắp vào hai lỗ, một trên bậc thềm, một trên rầm cửa, chính giữa buộc xích với khoá đồng. Ổ khoá lạnh, lấm tấm ướt, cưỡng lại cố gắng cạy khoá của tôi một lúc lâu. Tôi vặn vẹo chiếc chìa vạn năng, dùng sức uốn cong tới nỗi tôi sợ gẫy tách trong lỗ khoá. Cuối cùng, tôi nắm cánh cửa bên trái, dùng hết sức giật nó ra khỏi chốt bên dưới, nhưng không thành công. Nước cuối phải làm là thử chiếc chìa vạn năng lần nữa, thình lình, một tiếng tách khô khan, ổ khoá mở ra. Tôi đẩy cánh cửa đôi, nhưng chưa bước vào tôi đã lạnh mình vì sợ: chễm chệ trên ghế sau cái bàn là mẹ của Bốn Mắt đang bình thản đan áo. Bà mỉm cười không nói. Tôi ngượng ngùng, tai nóng đỏ, như đứa trẻ hẹn người yêu lần đầu. Hình như bà không chút hoảng hốt. Tôi lắp bắp một câu đưa tin cho con bà, muốn biết nó ở đâu. Bà cứ mỉm cười, nhưng không đáp. Kim đan thoăn thoắt trên ngón tay dài xương xẩu, và tôi thấy vết nám trên lưng bàn tay bà. Tôi bị tiếng kim đan lách cách thật nhanh hớp hồn - vào, vòng, qua, ra - đan hết mũi này tới mũi khác. Tôi bước lùi, lẻn ra, lặng lẽ đóng hai cánh cửa, và khoá lại. Dù trong nhà không một tiếng động, tôi quay đầu bỏ chạy thục mạng. Lúc ấy tôi giật mình thức dậy. Dù quả quyết kẻ trộm lần đầu trong đời sẽ gặp may, Lạc cũng bồn chồn như tôi. Nó ngẫm nghĩ về giấc mơ của tôi một lúc lâu, và rốt cuộc hơi thay đổi kế hoạch. Tới trưa ngày 3 tháng Chín, trước hôm Bốn Mắt và mẹ nó ra đi, chúng tôi nghe tiếng rống điên cuồng của con trâu đau khổ cất lên từ đáy khe núi. Tiếng kêu vang dội vách núi, và vọng tới nhà cô bé thợ maỵ Vài phút sau, một bầy trẻ con chạy đến đưa tin trưởng làng của Bốn Mắt đã cố tình đẩy một con trâu qua vách núi. Cuộc sát sinh giả là tai nạn. Thủ phạm nói con thú sẩy chân ở khúc ngoặt gắt và lao đầu xuống vực. Nó rơi vướng tảng đá lớn nhô ra, từ đó thân xác tơi tả của nó trượt tới khi nghe một tiếng huỵch khô khan trên một tảng đá khác thấp hơn chục mét. Con trâu còn sống. Tôi không bao giờ quên tiếng rống dài ai oán của nó. Trong tình huống bình thường, tiếng trâu rống khàn khàn gắt gỏng, nhưng trong ngày cuối hè yên bình này, tiếng kêu dội suốt dãy núi đá vừa oai nghiêm vừa vang vọng, như tiếng gầm của sư tử trong chuồng. Vài giờ sau, Lạc và tôi tới chỗ xảy ra tai nạn. Tiếng trâu rống đã ngớt. Chúng tôi len qua đám đông tụ tập ở mép vực. Hiển nhiên chủ tịch xã đã ra lịnh chấm dứt cảnh khốn khổ của con thú. Yên tâm vì được cấp trên thoa? thuận, trưởng làng cùng với Bốn Mắt và sáu dân làng leo xuống đáy vực để cắt cổ con thú. Lúc chúng tôi tới, công việc đã làm xong. Dưới khe núi, nơi thi hành bản án, chúng tôi nhận ra Bốn Mắt nép bên cạnh hình khối bất động của con trâu chết: nó đang hứng máu chảy từ một vết đâm vào cái nón lá lớn lật ngược. Sáu dân làng cất tiếng hát và khởi sự leo lên vách đá dốc, gánh theo xác trâu. Bốn Mắt và trưởng làng ở lại bên dưới. Họ ngồi bên nhau, cúi người trên cái nón lá đầy huyết trâu. Tôi hỏi người đứng cạnh: "Họ làm gì dưới đó?" Ông đáp: "Họ đợi cho huyết đông. Đó là thuốc chữa bịnh nhát gan. Muốn có can đảm, phải nuốt nó khi còn ấm và sủi bọt." Lạc bản tính tò mò, đề nghị xuống một đoạn để nhìn cho rõ. Bốn Mắt thỉnh thoảng liếc lên đám đông, nhưng chẳng rõ nó có nhận ra chúng tôi giữa đám người xem hay không. Cuối cùng, trưởng làng lấy con dao mũi nhọn dài lạ lùng của ông ra. Ông dùng đầu ngón tay vuốt lưỡi dao, rồi lạng miếng huyết đông làm hai: một nửa cho Bốn Mắt, một nửa cho ông. Nữ thi sĩ không thấy đâu. Bà sẽ nghĩ gì nếu ở đó với chúng tôi, để nhìn con trai bà ngập mặt vào lòng bàn tay ăn soàm soạp tảng huyết trâu, như con lợn ngập trong vũng bùn? Ăn xong nó mút từng ngón tay, để đoan chắc không phí một giọt nào. Lúc nó leo lên triền dốc, tôi thấy nó vẫn còn chép môi để kéo dài hương vị. Lạc nói: "Cũng may cô bé thợ may không theo mình tới." Đêm xuống. Những cột khói bốc lên từ làng của Bốn Mắt; trên bãi đất trống một vạc lớn đang sôi. Cái vạc thật khổng lồ, và phải là vật truyền tử lưu tôn của làng. Từ vị trí thuận lợi của chúng tôi, quang cảnh gây ấn tượng đồng quê đôn hậu. Chúng tôi ở quá xa để thấy những tảng thịt trâu sôi trong vạc, nhưng mùi nồng gia vị và hơi thô khiến chúng tôi nhỏ dãi. Dân làng tụ tập quanh lửa, đàn bà và trẻ con phía trước. Vài người mang khoai tây bỏ vào vạc; kẻ khác đem khúc gỗ và cành cây để đốt. Dần dần nhiều thứ được thêm vào món hầm: trứng, lõi bắp, trái cây khộ Mẹ của Bốn Mắt là ngôi sao không thể chối cãi của buổi tối. Bà đẹp cách riêng. Bà cài một đoá hoa trên ngực, có lẽ là hoa đinh hương. Nước da bà rực rỡ, tôn thêm nhờ chiếc áo khoác bằng nhung kẻ màu lục, tương phản với bộ mặt đen sạm của dân sơn cước. Bà khoe áo đan với các bà, và tuy chưa xong, vẫn khơi dậy những tiếng reo khâm phục khắp chung quanh. Mùi khoái khẩu phảng phất trong trời chiều càng lúc càng thấm thía. Con trâu chắc già lắm, vì thịt dai nấu lâu hơn thịt chim ưng già khú đế. Với kẻ trộm đạo chúng tôi, đợi đã gay go, nhưng Bốn Mắt, một kẻ vừa cải đạo uống máu, cũng bực chả kém: bọn tôi thấy nó nhấp nhổm kích động, mở nắp vạc, thò đũa vào món hầm, gắp một tảng thịt đang bốc hơi, hít ngửi, xem xét kỹ lưỡng, và nhún vai thất vọng thả lại. Chúng tôi nấp sau bóng tảng đá. Lạc vừa thì thầm vào tai tôi vừa chỉ: "Kìa! Khách danh dự tới!" Khách mới tới là năm bà già héo hắt. Họ mặc áo dài đen lất phất trong gió thụ Tuy ở xa, tôi vẫn nhìn rõ khuôn mặt họ như chị em. Nét mặt như tạc vào gỗ, và tôi nhận ra trong số họ có bốn bà bóng đã tới thức đêm ở nhà cô bé thợ may. Hiển nhiên bà thi sĩ chủ mưu mời họ tới buổi tiệc chia taỵ Họ bàn tính một lúc ngắn, cuối cùng nữ thi sĩ móc ví đưa họ mỗi người một tờ giấy bạc dưới cái nhìn thèm thuồng của dân làng. Lần này không chỉ một bà bóng mang cung tên - cả năm đều trang bị vũ khí. Biết đâu, có lẽ cần dàn binh bố trận lớn hơn để bảo đảm chuyến đi an toàn của một nhân vật có đặc quyền, hơn là bảo vệ linh hồn một đứa mắc bịnh sốt rét. Vả lại, cô bé thợ may không đủ khả năng chi như nữ thi sĩ một thời lừng danh khắp cái tỉnh một trăm triệu dân này. Trong khi cả bọn đợi món thịt trâu hầm đủ nhừ, một bà cầm tay trái Bốn Mắt xem chỉ tay dưới ánh lửa sáng rực. Chúng tôi ở ngoài tầm nghe và không biết bà bóng nói gì, nhưng nhìn rõ mi mắt hạ thấp, cặp môi mỏng mím lại và cái miệng móm của bà lẩm bẩm. Bốn Mắt và mẹ nó nghe say mệ Khi bà bóng ngừng nói, mọi người nhìn bà chăm chăm. Im lặng bứt rứt, tới khi cả làng bắt đầu thi nhau nói. Lạc bảo: "Tao chắc bả đoán gở." "Thí dụ như cái va li quí giá của nó sắp bị mất cắp." "Không, tao cá là chuyện gì như ma quỷ cản đường nó." Lạc có thể đúng, vì sau đó chúng tôi thấy cả năm bà bóng đứng lên, vừa hung hãn giương cung và lắp tên, vừa thét những tiếng chói tai. Rồi họ nhảy trừ tà quanh đống lửa. Thoạt đầu họ múa chậm, hiển nhiên vì tuổi tác, xoay vòng vòng một chỗ, mắt dán xuống đất. Thỉnh thoảng họ ngửng đầu, bồn chồn liếc quanh trước khi lại cúi xuống tụng, như các ông sư, các câu thần chú bí hiểm được đám đông lập lại. Bỗng nhiên, hai bà bóng ném vũ khí xuống và bắt đầu run rẩy toàn thân như dấu hiệu có mạ Rõ ràng thân thể họ trông như bị ma nhập, co quắp gớm ghiếc. Ba bà bóng kia giương cung vờ bắn đồng nghiệp đang run rẩy, nhái tiếng mũi tên vút trong không khí. Họ như ba con quạ. Lúc nhảy múa, áo dài đen cuồn cuộn trong khói, rồi rũ xuống làm tung từng đám bụi nhỏ. Cử chỉ của hai con quỉ đang múa mỗi lúc mỗi nặng, như thể trúng những mũi tên vô hình tẩm thuốc độc, sau một lát họ chậm dần rồi ngừng hẳn. Lạc và tôi bỏ đi trước khi họ chắc chắn sẽ gục xuống đất một cách ngoạn mục. Bữa đại yến sắp bắt đầu. Tiếng tụng kinh lên tới cao điểm lúc chúng tôi lẻn qua làng. Vì không một dân làng nào, trẻ hay già, muốn bỏ lỡ cơ hội đánh chén thịt trâu hầm đinh hương và ớt băm thơm phức, ngôi làng vắng tanh đúng như bạn Lạc đã tiên đoán (một thiên tài về chiến lược cũng như kể chuyện). Bất chợt giấc mơ lại đến với tôi. Tôi hỏi nó: "Tao có nên canh chừng không?" "Không, mình đâu có ở trong mơ của mày." Lạc lấy cây đinh rỉ lúc này đã biến thành chìa khoá vạn năng đưa lên môi thấm nước. Chìa xỏ êm vào ổ khoá, xoay sang trái, rồi sang phải, lại sang trái và một chút sang phải... một tiếng tách giòn, ổ khoá đồng cuối cùng nhượng bộ. Chúng tôi len vào nhà Bốn Mắt, và lập tức đóng hai cánh cửa lại. Căn nhà tối, bọn tôi không nhận rõ mặt nhau. Nhưng không gian phảng phất chuyến ra đi sắp tới khiến chúng tôi ganh tị. Tôi nhìn qua khe cửa: không thấy một bóng người. Để yên chí khỏi kẻ nào vội vã tình cờ đi ngang thấy mất ổ khoá, chúng tôi đẩy cánh cửa ra đủ rộng để Lạc thò một tay qua móc lại dây xích và bấm khoá theo dự tính. Lúc Lạc bật đèn pin, chúng tôi bỗng quên mọi kế hoạch đã sắp sẵn chu đáo của mình, và nhìn đăm đăm sửng sốt, vì ngay trước mắt, trên đống hành lý là cái va li da mềm, rực sáng trong bóng đen như đang kêu gào tiết lộ nội dung. Tôi thốt: "Kia kìa!" Khi hoạch định chiến lược vài ngày trước, chúng tôi kết luận rằng việc đột nhập bất hợp pháp của mình thành công dựa trên một điều: biết nơi Bốn Mắt giấu va lị Làm sao tìm? Lạc ngẫm nghĩ mọi giải pháp, cuối cùng, nhờ Trời, nó có một kế: phải thi hành lúc bữa tiệc từ giã. Một cơ hội độc nhất, dĩ nhiên bà thi sĩ không dại, nhưng bà đã tới tuổi cần phải thu xếp kỹ lưỡng mọi thứ. Không có gì tệ hơn phút cuối cùng sáng hôm lên đường vội vàng đi lấy cái va li từ chỗ giấu: mọi thứ phải sẵn sàng trước, và đúng thứ tự hoàn hảo. Chúng tôi rón rén tới cái va li buộc bằng sợi thừng rơm cột chéo. Chúng tôi tháo dây và im lặng mở nắp. Bên trong, đống sách rực sáng dưới ánh đèn pin: một đoàn văn sĩ tây phương mở vòng tay chào đón chúng tôi. Trên cùng là năm sáu bộ tiểu thuyết của ông bạn cũ Balzac, rồi tới Victor Hugo, Stendhal, Dumas, Flaubert, Baudelaire, Romain Rolland, Rousseau, Tolstoy, Gogol, Dostoyevsky, và cả vài nhà văn Anh: Dickens, Kipling, Emily Brontë... Bọn tôi mừng quýnh. Đầu tôi quay cuồng như say rượu. Tôi cầm từng cuốn lên, mở ra, ngắm chân dung tác giả, và chuyền cho Lạc. Ngón tay tôi vuốt ve sách như cảm thấy bàn tay nhợt nhạt của mình chạm vào những đời người. Lạc nói: "Làm tao nhớ một cảnh trong phim, lúc cái va li ăn trộm hoá ra đầy tiền... " Tôi nói: "Thế mày có sung sướng chảy nước mắt không?" "Không. Tao chỉ thấy ghê tởm." "Tao cũng vậy. Ghê tởm bọn không cho mình biết những cuốn sách này." Nghe chính mình thốt lên câu cuối đó làm tôi sợ, như có kẻ nghe lén núp đâu đó trong phòng. Một câu bâng quơ như thế có thể vài năm tù. Lạc vừa nói vừa đóng va li lại: "Đi thôi!" "Khoan!" "Chuyện gì nữa?" "Tao không chắc... Thử nghĩ lại: Bốn Mắt chắc chắn nghi ngờ mình khi nó thấy va li của nó biến mất. Nếu nó tố cáo thì mình rồi đời. Nên nhớ cha mẹ mình không như người khác." "Tao đã nói rồi, mẹ nó sẽ không bao giờ cho nó tố cáo, nếu không cả thế giới biết con bả tàng trữ sách cấm. Như thế sẽ tiêu tan cơ hội cho nó rời Phụng Hoàng." Sau một thoáng im lặng, tôi lại mở va li: "Hay lấy mấy cuốn thôi? Nó sẽ không biết." Lạc cương quyết: "Nhưng tao muốn đọc hết." Nó lại đóng va li, và đặt tay trên nắp như một người đạo Ky Tô đang long trọng thề, nó tuyên bố: "Với những cuốn sách này tao sẽ biến đổi cô bé thợ maỵ Cô nàng sẽ không bao giờ là cô sơn nữ mộc mạc nữa." Chúng tôi rón rén vào phòng bên cạnh. Tôi cầm đèn đi trước, Lạc xách va li theo sau. Hình như va li rất nặng, vì khi đi, tôi nghe nó đập vào chân Lạc, va vào giường Bốn Mắt và cái chõng tạm bằng ván của mẹ nó, dù nhỏ cũng khiến phòng càng thêm tù túng. Chúng tôi kinh ngạc thấy cửa sổ, theo kế hoạch là nơi tẩu thoát của chúng tôi, bị đóng đinh chặt. Trong lúc hứng chí nhìn cái va li, chúng tôi đã quên kiểm soát cửa sổ khi đến. Chúng tôi cố đẩy, nhưng chỉ nghe kẽo kẹt như tiếng thở dài. Nó không suy suyển. Tình huống không làm chúng tôi thấy là tai hoạ. Chúng tôi lặng lẽ quay lại phòng chính định làm trò cũ: đẩy khe cửa đôi đủ rộng để bàn tay thò qua dùng chìa vạn năng mở ổ khoá đồng. Bất chợt Lạc thì thào: "Xuỵt!" Hoảng hốt, tôi tắt đèn pin ngaỵ Tiếng chân bước nhẹ bên ngoài làm chúng tôi chết đứng. Mất một phút quí giá chúng tôi mới nhận ra bước chân quả thật đang đi về hướng mình. Ngay lúc đó, chúng tôi nghe tiếng thì thầm của một nam và một nữ, nhưng không rõ là Bốn Mắt và mẹ nó hay không. Chuẩn bị cho tình huống xấu nhất, chúng tôi rón rén vào bếp. Lúc đi ngang đống hành lý tôi bật nhanh đèn pin trong khi Lạc cất va li trở lại. Đúng như chúng tôi sợ: Bốn Mắt và mẹ nó ghét chúng tôi và sẽ bắt quả tang bọn tôi. Họ đang nói gần cửa. Thằng con nói: "Con chắc huyết trâu làm con đau bụng. Con cứ ợ cái mùi quỉ quái." Mẹ nó đáp lại: "May là mẹ có đem thuốc tiêu theo." Hoảng vía, chúng tôi không biết núp vào đâu trong bếp. Bóng tối như mực. Tôi đụng Lạc lúc nó đang giở nắp chum gạo. Nó cuống rồi. Nó thì thào: "Nhỏ quá." Tiếng xích loảng xoảng, chúng tôi chỉ đủ thì giờ lao vào phòng bên và rúc dưới giường trước khi cánh cửa bật mở. Họ bước vào nhà và thắp cây đèn dầu. Mọi chuyện không ổn. Thay vì trốn dưới giường Bốn Mắt, vì tôi cao và vạm vỡ hơn Lạc, tôi kẹt trong chỗ rất chật dưới giường mẹ nó, chung với thùng vệ sinh có cái mùi không thể lầm. Ruồi bay từng đàn quanh đầu tôi. Cố không gây tiếng động, tôi duỗi lưng nhưng va phải cái thùng buồn nôn suýt đổ. Tôi nghe tiếng sóng sánh, khiến mùi hôi càng kinh khủng hơn. Tôi giật đầu vì phản ứng, do đó vô tình gây tiếng động lớn đủ gây chú ý và tố cáo chúng tôi. Chúng tôi nghe Bốn Mắt hỏi: "Má nghe tiếng gì không?" "Không." Sau đó im lặng hoàn toàn, dường như kéo dài vô tận. Tôi hình dung họ bất động trong tư thế đầy kịch tính, để gióng tai bắt tiếng động khẽ nhất. Nữ thi sĩ tuyên bố: "Mẹ chỉ nghe bao tử con ùng ục." "Huyết trâu. Con thấy bết lắm. Không biết con có trở lại buổi tiệc nổi không." Bà mẹ khăng khăng bằng giọng độc đoán: "Mẹ không muốn nghe chuyện đó! Mình phải quay lại. Đây, mẹ tìm thấy thuốc đây. Con nên uống hai viên, đủ để chữa đau bụng." Tôi nghe Bốn Mắt ngoan ngoãn đi vào bếp, chắc để lấy nước. Ánh đèn dầu xa dần theo nó. Dù không thấy Lạc trong bóng tối, tôi biết nó cũng thở phào như tôi vì đã không trốn trong bếp. Sau khi uống thuốc, Bốn Mắt quay lại phòng chính. Mẹ nó hỏi nó có chắc đã cột thừng quanh va li sách chưa. "Chắc mà. Lúc nãy con buộc rồi." "Coi kìa! Con không thấy dây thừng nằm trên sàn nhà à?" Thật ngu xuẩn, chúng tôi đã mở va li! Một cơn lạnh chạy dọc sống lưng lúc tôi nép dưới giường. Tôi chửi mình vì đã liều lĩnh. Trong bóng đen tôi cố