🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bãi Săn Người - Lương Kha & Tuệ Tâm (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo ebook♥vctvegroup Lời dẫn Tôi là Diệp Tứ Minh, mọi người thường gọi là anh Tứ. Tôi cảm thấy biệt danh này khắc mình, vì tôi phát hiện mình buộc phải kết liễu sinh mạng trong vòng bốn ngày, nếu không chờ đợi tôi phía trước chính là “sống không bằng chết”. Giờ nghĩ lại, mọi nguồn cơn của sự việc đều bắt đầu từ chiếc sofa năm năm về trước. Chiếc sofa đỏ bọc vải, khó có thể mô tả màu sắc của nó một cách chính xác, nhưng có lẽ lúc mới mua thì nó màu trắng. Lại gần sẽ ngửi thấy một hỗn hợp mùi quái lạ: mùi thức ăn thừa, mùi mồ hôi, mùi thuốc lá… Khi đó tôi mặc chiếc áo sơ mi trị giá ít nhất hai ngàn tệ, nhưng tôi cũng không thể vì tiếc của mà không ngồi xuống đống rác đó. Vì ngay sau gáy tôi là một họng súng lạnh ngắt. “Từ đầu đến giờ mày luôn bình tĩnh.” Kẻ cầm súng tên là Đảng Siêu. Hắn không nói to, nhưng giọng nói sắc nhọn như muốn xuyên thủng màng nhĩ. “Mày là thằng nào? Cớm hả?!” “Cớm” là tiếng lóng, ám chỉ “cảnh sát”. Nhiều người không thích cảnh sát, nguyên nhân rất đa dạng. Đảng Siêu không thích cảnh sát thuần túy vì lý do nghề nghiệp. Hắn buôn lậu súng ống, thuốc phiện và hắn giết người. Các bó cơ toàn thân tôi cứng ngắc, nội tạng như thể biến mất trong phút chốc. Lẽ ra tôi phải đổ mồ hôi như tắm mới phải, nhưng trán tôi lại khô rang như sa mạc Gobi. Có lẽ tôi nên phản bác hoặc biện giải đôi câu, nhưng tôi quyết định không mở miệng. Bởi vì tôi có thể cảm thấy giọng mình sẽ căng thẳng đến mức hụt hơi, chỉ cần mở miệng là để lộ nỗi sợ hãi đang dâng trào. Trong phòng lặng phắc, chỉ có tiếng tích tắc của đồng hồ treo tường. Bàng Tam nhìn tôi, mồ hôi vã đầm đìa khắp mặt. Điều này rất dễ hiểu, tôi mà chết thì cậu ta cũng khó mà sống sót nổi. Nghĩ đến đây, tôi quyết định phải làm gì đó. “Có lý đấy! Dẫu nói thì lũ nghèo kiết xác bọn mày cũng không hiểu…” Tôi chậm rãi đứng dậy, đồng thời tận dụng chút thời gian ít ỏi nhanh chóng nuốt nước bọt để dây thanh quản khôi phục chức năng đôi chút, “Nếu tao muốn làm trò thì còn phải ngày nào cũng tự mua dây buộc mình sao?” Không ai đáp lời, không ai phụ họa. Bọn chúng đều nhìn tôi chằm chằm. Không còn lựa chọn nào khác. “Không mang!” Tôi vứt thuốc lá và bật lửa lên bàn đánh “xoạch” một tiếng, cố cất cao giọng, “Ai cho mượn chút?” Tên nào đó quẳng một gói bột trắng nho nhỏ lên bàn. Bàng Tam đưa cho tôi miếng giấy bạc. Tôi thành thục lấy thuốc lá cuộn thành điếu, đổ bột trắng ra giấy bạc, dùng bật lửa hơ nóng. Một mùi quái dị mà quen thuộc xộc thẳng vào mũi. Thứ đó bắt đầu hóa lỏng, sủi bọt rồi biến thành màu cam nhạt ghê tởm, nom nó giống nham thạch trong miệng núi lửa vẫn thường thấy qua tivi. Tôi bần thần giây lát, rồi nhắm mắt, hít mạnh một hơi. Họng súng rời khỏi gáy tôi. Đảng Siêu ngồi xuống bên cạnh, đưa cho tôi cốc nước. Tôi uống một ngụm liền phun hết ra ngoài. Bọn chúng cười phá lên. “Hít mạnh quá cơ…” Bàng Tam đứng bên cạnh cười xiểm nịnh, đế vào một câu. “Giỡn chơi ấy mà, anh Tứ đừng kích động thế!” Đảng Siêu vỗ vai tôi, “Hít gấp quá hại người lắm, ngay cả anh Thương cũng không dám nữa là.” “Giỡn gì thế hả?” Tôi đẩy hắn một cái, “Lẫn cả phân ngựa à? Để lần sau mang cho bọn mày hàng nguyên chất, cho bọn mày mở mang tầm mắt.” Đảng Siêu cuời, sau đó hạ giọng nói chuyện với tôi. Nói thật, phần lớn chuyện chúng kể, tôi chẳng nghe thấy gì. Khi đó, tôi nằm trên sofa, cảm giác cơ thể mình trôi bồng bềnh, mí mắt như công tắc ngàn cân, liên tục nhắm lại, mở ra. Đầu tôi biến thành cái lồng, mọi thông tin từ thế giới bên ngoài đi vào não qua tai và mắt, rồi chảy ra tứ tán khắp nơi như bị rò nước. Tuy nhiên, câu nói dưới đây thì ngoại lệ, “Anh cần bao nhiêu bánh? Ngắn hay dài?” Tôi cười. Thế giới trước mắt bắt đầu trở nên méo mó, xoay chuyển. Mọi thứ trong phòng đều tan chảy, nguội dần, rồi đúc thành chiếc huân chương khảm huy hiệu của ngành cảnh sát. Đó là lần đầu tiên tôi hít thuốc phiện. Quả thật tôi là cảnh sát. Chẳng biết đó là lần thứ bao nhiêu tôi phải xâm nhập vào hang ổ của tội phạm. Khi ấy, tôi không hề cảm nhận được một lần hít thuốc phiện sẽ khiến bản thân ra sao. Trên thực tế, khi ấy tôi cảm thấy không gì mình không thể làm được và mình sẽ mãi mãi “siêu sao” thế này. Nếu cho tôi một cơ hội, tôi muốn trở lại thời điểm nhìn thấy cửa hang ngày hôm đó. Tôi muốn khuyên bản thân đừng tò mò, càng đừng nên xuống dưới ấy… Như thế, có thể tôi sẽ không rơi vào hoàn cảnh hiện tại, bị nhốt ở đây, và trước mặt là quái thú… (Trích: Hang động) Chương 1: TAY GIẢ Năm năm sau. Phía Nam ngoại ô thành phố Cửu An. Ông Điền bắt đầu hơi hối hận vì mình nhận chạy cuốc xe này. Thông thường chẳng tài xế nào muốn dừng xe cho hai thanh niên kéo theo chiếc va li to đùng vẫy tay gọi xe vào lúc quá nửa đêm ở đường ngoài vành đai như thế này. Nhưng ông lại dừng xe. Nguyên nhân là do buổi tối đã không có khách, giờ còn không chịu dừng xe thì có lỗi với nồi canh dê trong bữa tối của mụ vợ quá. Ông hỏi, hai người họ bảo muốn đến hồ chứa nước. Thông thường vào giờ này không tài xế nào chịu lái xe đến nơi vắng vẻ như thế. Nhưng ông Điền vẫn để họ lên xe. Nguyên nhân vì tháng này kiếm được ít tiền quá, trong khi tháng sau con trai ông lại phải thay đồng phục mới. Tuy nói là vậy, nhưng khi xe chạy đến Đường vành đai 4 thì ông bắt đầu hối hận. Dưới ánh đèn xe, con đường núi khúc khuỷu, ngoằn ngoèo, tiếng mèo kêu từ cánh rừng văng vẳng vọng tới. Hai vị khách ngồi phía sau chẳng nói chẳng rằng, vẻ mặt vô cảm khiến sống lưng ông gai lạnh. “Hai cậu định đến đó làm gì?” Ông Điền thu hết can đảm, cố nặn ra nụ cười, hỏi vị khách phía sau. Đổi lại là sự im lặng kéo dài còn khiến người ta thấy đáng sợ hơn. Qua gương chiếu hậu, ông nhìn thấy hai người nọ đưa mắt nhìn nhau đầy ẩn ý. “Đến đó bơi.” Mười mấy giây sau, một trong hai người họ mới trả lời. Vào mùa này, giờ này, đến hồ nước hoang phế để bơi? Ông Điền túa mồ hôi lạnh. Ông bắt đầu đoán già đoán non xem trong chiếc va li to kia chứa thứ gì: To thế này… liệu có phải chứa người chết chăng… Càng nghĩ càng sợ, ông chẳng muốn chạy xe tiếp nữa. Nhưng muốn trốn cũng chẳng biết trốn đi đâu, ông đành tự an ủi bản thân: Khi hai người họ chuyển va li lên xe, ông cũng không thấy xe đầm hơn bao nhiêu, không khéo đó chỉ là chiếc va li rỗng… Đợi chút! Một ý nghĩ rùng rợn chợt ập đến, muốn né cũng không né kịp: Nếu chiếc va li kia rỗng… thì liệu có phải nó dùng để đựng mình không?! Chính lúc đó, một bàn tay chợt vỗ lên vai ông. Khoảnh khắc ấy, tất cả các thông tin giết tài xế cướp taxi mà ông từng nghe trên kênh giao thông đều dội thẳng vào não bộ. Ông vội vàng thắng gấp. Cảnh tượng duy nhất hiện ra trong đầu ông lúc bấy giờ là hình ảnh vợ con đang đợi mình về nhà… Ngày đầu tiên, khoảng 5 giờ 30 phút sáng. Anh Tứ ngồi trên thành cầu bằng đá, vòng hai tay ôm lấy cơ thể, mắt thất thần nhìn về phía trước. Sắc trời còn chưa sáng hẳn, bên bờ sông phía xa thấp thoáng bóng người đi tập thể dục buổi sáng, trông chập chờn ẩn hiện như những hồn ma bóng quế. Khí lạnh khiến sương mù trên mặt sông vấn vít như làn khói, làm anh nhớ đến miếng giấy bạc đã đưa đẩy cuộc đời mình vào ngõ tối. Anh không nhịn được, bắt đầu tưởng tượng xem chết chìm dưới sông sẽ có cảm giác gì. Anh rùng mình, rồi vứt đầu mẩu thuốc lá đi, móc chai rượu đế trong túi xách ra, tu liền một mạch hết nửa chai. “Không ngờ lại đi đến bước đường này…” Đương nhiên anh Tứ biết tự sát sẽ mang đến bao nhiêu phiền phức cho người thân, nhưng nếu anh không chết, e rằng sẽ còn gây ra nhiều phiền phức hơn. Hai đời nhà anh đều làm cảnh sát, bạn bè, người thân cũng toàn là cảnh sát. Nếu chuyện này bị công bố vào thứ Hai thì mặt mũi anh còn biết để vào đâu? Người ta sẽ bình phẩm thế nào về anh? Bại hoại? Mất mặt? Anh cũng xứng làm cảnh sát?! “Mình là cảnh sát!” Một giọng nói không cam lòng len lỏi chui ra từ huyệt đan điền, rồi thoát khỏi đôi môi đang mím chặt. Anh ném mạnh chai rượu ra xa, “Ông đây chính là cảnh sát!” Choang! Bờ sông đột nhiên bừng sáng, một luồng ánh sáng rọi thẳng đến chỗ anh. Lúc này, anh mới nhìn rõ chiếc máy xúc đang đậu sừng sững ở đó. Từ xa có bóng người hớt hải chạy đến gần, anh ta chạy lên cầu, nắm lấy tay anh. “Ôi chà! Chất lượng phục vụ của cảnh sát Cửu An tốt thật đấy, vừa mới báo cảnh sát xong mà cảnh sát đã kịp thời chạy đến đây luôn rồi sao?” Đến hồ nước, ông Điền ngây người nhìn tờ một trăm tệ trên ghế phụ lái. Không ngờ hai người khi nãy vứt lại tiền rồi xuống xe. Họ đứng trên bờ, cách hồ nước không xa, châm đèn cacbua, lấy bộ quần áo màu đen và một vài thiết bị sáng loáng trong va li ra, giúp nhau mặc quần áo, rồi sau đó là tiếng nhảy xuống nước đánh “ùm”. Thì ra là đi lặn. “Đồ thần kinh!” Ông Điền cười thầm, không rõ đang mắng hai người kia hay mắng chính mình khi nãy thần hồn nát thần tính. Cất tờ tiền một trăm tệ đi, ông mỉm cười thỏa mãn, xoay chìa khóa khởi động xe, chuẩn bị lái về nhà. Cuối cùng đêm nay cũng không hoài công vô ích. Tiếng động cơ vang lên khô khốc từng hồi. Xe không khởi động được. Ông Điền chửi đổng một câu, rồi nổ máy lần nữa, nhưng vẫn thất bại. Ông bắt đầu thấy quái lạ. Khởi động đến lần thứ ba, thứ tư mà xe vẫn không nhúc nhích. “Gặp ma à? Vừa mới bảo dưỡng xong mà…” Ông không thể không thừa nhận mình nhát gan. Giữa cảnh tắt lửa tối đèn ở nơi rừng sâu núi thẳm thế này mà xe lại không khởi động được, điều này khiến ông không khỏi liên tưởng tới những vị khách không mời mà đến… Chợt những tiếng đập cửa dồn dập vang lên từ bên ngoài. Ông quay đầu lại thì thấy một bóng người ướt sũng đang hoảng hốt đập ầm ầm lên cửa kính xe. Ông Điền hét thất thanh, hồn bay phách lạc. Ông chắc mẩm đây chính là con ma chết đuối trong truyền thuyết đang lừa gạt người phàm đến bên bờ hồ, rồi đẩy người ta xuống nước đòi mạng đây mà. Sắc mặt ông trắng bệch như tờ giấy, ông bất giác lùi về sau, bàn tay vốn dĩ đang nắm chặt cửa xe, giờ ma xui quỷ khiến thế nào lại chạm vào nút điều khiển cửa sổ hạ xuống. Toàn thân ông Điền run lẩy bẩy, trơ mắt nhìn cánh cửa sổ xe ô tô đang từ từ hạ xuống… “Bác tài!” Kết cục này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của ông, “Mau báo cảnh sát!” Giờ đây, ông Điền thấy vị hành khách này hoàn toàn không còn vẻ trấn tĩnh và thần bí như lúc mới lên xe. Anh ta hoảng sợ đến mức mất hồn mất vía, mặt cắt không còn giọt máu, toàn thân run rẩy. Không rõ anh ta run rẩy vì nhiệt độ dưới nước quá lạnh hay vì cảnh tượng vừa nhìn thấy khi nãy: trong dòng nước xanh sẫm, chân anh ta móc phải vật gì đó, anh ta cố sức giãy giụa, một chất lỏng đặc sệt màu đen liền túa ra, tiếp đó là mẫu xương trắng ởn, thứ bọt khí rùng rợn không ngừng chảy ra ùng ục. Hai người họ nhìn thấy xung quanh mình có vô số chiếc túi như thế, túi nào cũng bị buộc dây thừng thả thõng xuống, trôi nổi theo dòng nước, nom chẳng khác nào một khu rừng chết chóc. “Xác chết.”, giọng anh ta run run, “nhiều xác chết lắm…” Một tiếng sau, cảnh sát đã bao vây toàn bộ khu vực hồ nước nhân tạo. Họ dựng một cột đèn pha rất lớn bên bờ hồ. Các thành viên đội lặn liên tục nhảy xuống hồ rồi lại trồi lên, trục vớt những “di vật” không lành. Cuối cùng, vào lúc sáng sớm, đội pháp y xác nhận họ đã phát hiện có tới sáu mươi mốt thi thể ở trong hồ chứa nước. “Mấy năm nay, ngành xây dựng làm ăn khó khăn quá!” Ông chủ thầu họ Lương vội vàng rút thuốc mời anh Tứ, ông ta đang đi theo anh Tứ đến hiện trường xảy ra vụ án, “Mãi mới trúng được một gói thầu thì không đủ vốn, không đủ nhân công. Mãi mới huy động được đầy đủ nguồn lực thì vừa xúc xẻng đầu tiên, công nhân lại phát hiện ra thứ này. Anh nói xem, thế chẳng phải là tôi… Đồng chí cảnh sát, vụ này mất khoảng bao lâu?” “Khó nói lắm”, anh Tứ xua tay, rút thuốc lá trong túi ra, “có phải điện thoại di động đâu cơ chứ? Không thể có chuyện vứt nó ở đây rồi cứ thế về nhà được, đúng không? Còn phải tìm các bộ phận khác nữa…” “Anh xem áng chừng mất khoảng bao lâu?” Mặt ông chủ Lương liền chảy dài. “Phải xem đã.” Anh Tứ bước đến bên cạnh chiếc máy xúc, chỉ xuống phía dưới hồ, hỏi, “Ở đây hả?” “Đúng vậy! Chính là ở đây! Anh thấy không.” Anh Tứ nhận chiếc đèn pin từ tay ông chủ thầu, chiếu đèn về phía mặt sông. Ánh đèn pin xua tan các nguồn sáng khác, mặt sông đục ngầu và tối thui như mực. Quầng sáng của đèn pin quét qua quét lại trên mặt nước, quét qua rác rưởi nổi lềnh phềnh, quét qua những phiến đá đứng sừng sững, qua những cọng lá của đủ các loài thực vật, cuối cùng dừng lại. Anh Tứ đại khái đã nhìn rõ đó đúng là cánh tay người, nó chìm trong dòng nước nông ở ven bờ, vướng phải các cành cây nên mắc cạn tại đó. Nhìn độ lớn nhỏ, có thể phỏng đoán đó là tay của phụ nữ, nhưng không nhìn rõ màu sắc móng tay nên không thể đưa ra phán đoán chính xác 100%. Anh chợt thấy buồn nôn, vội đứng thẳng người. “Đồng chí cảnh sát!” Ông chủ Lương lại đưa điếu thuốc cho anh Tứ, “Tôi ấy à, cũng từng xem trên tivi, nên hiểu đôi chút về công tác phá án, chúng ta không được phá hủy hiện trường vụ án, đúng không? Bởi vậy mấy thứ này, có phải anh sẽ tự mình… à ừm… thế…” “Anh giục tôi chỉ tổ tốn nước bọt.” Anh Tứ nhanh chóng dập tắt ý muốn để công trình sớm hoạt động trở lại của ông chủ Lương, “Phải đợi bác sĩ pháp y xuống trục vớt, tôi mò xuống đó cũng sẽ làm hiện trường vụ án bị xáo trộn.” “Vậy khi nào bác sĩ pháp y mới đến?” “Bác sĩ pháp y đến cũng đã xong đâu, phải phong tỏa đường sông, lúc nào vớt hết thì lúc đó mới xong…” Ông chủ Lương không nói gì, nhưng bước chân thể hiện rõ nỗi sốt ruột. Anh Tứ ngồi trên máy xúc, lẳng lặng hút thuốc, cố gắng đè nén cảm khó chịu đang dâng trào. Vài phút sau, cảm giác buồn nôn cũng hết, nhưng đầu anh lại bắt đầu đau. “Đến rồi kìa!” Vừa nghe ông chủ Lương kêu lên, anh Tứ đã thấy đèn của cảnh sát chiếu sáng cả bờ sông. Anh nhìn thấy hai bóng người bước lại gần. “Anh Tứ? Sao anh lại ở đây?” Người đi trước tên là An Tái Vinh, thường gọi là Tiểu An, ở Đội 1. “Đang đi lòng vòng quanh đây thì vừa hay gặp vụ này…” Anh Tứ đáp hàm hồ cho qua chuyện. “Tình hình cụ thể thế nào?” Người đi phía sau là anh Dương bác sĩ pháp y. Anh Tứ đưa cho anh Dương điếu thuốc, hỏi, “Hôm nay anh trực à?” “Đừng nhắc chuyện này nữa! Hội anh Lưu hôm nay đi hiện trường cả rồi nên họ đành gọi tôi thế chân.” Anh Dương liên tục lắc đầu, “Cậu hết ca trực rồi sao không về nhà mà ngủ, còn quanh quẩn ở đây làm gì?” “Không ngủ được…” “Hôm nay người trên Cục tìm cậu có chuyện gì thế?” Anh Dương rít hai hơi thuốc, rồi đột nhiên hỏi. “Vẫn là chuyện xét nghiệm nước tiểu lần trước ấy mà…” Anh Tứ gượng gạo trả lời. “Cậu phải giải thích đâu ra đấy cho người ta, chớ động tí là mắng ầm lên, cái tính của cậu ấy à…” Anh Dương càm ràm hồi lâu, anh Tứ chỉ gật đầu lắng nghe, không đáp lời. Mãi đến khi nói mỏi miệng, anh Dương mới ho một tiếng, rồi dụi tắt thuốc lá, bảo, “Thôi, mau bắt tay vào việc nào, tình hình ra sao?” “Thấy một cánh tay, bị chặt ở đoạn này…” Anh Tứ vừa nói vừa chỉ lên cánh tay mình. “Nổi hay chìm?” “Chìm…” Anh Dương nhíu mày, bật đèn pin, đến ven sông quan sát một lát, sau đó cúi người xuống, chậm rãi dò dẫm từng bước. Cuối cùng, anh cầm thứ đó lên. “Tôi biết ngay mà!” Anh Dương vứt nó xuống mặt đất, rồi nói, “Nếu là tay thật thì đã trương phềnh lên từ lâu rồi.” Anh Tứ vừa nhìn liền đỏ mặt. Hóa ra chỉ là cánh tay giả. “Lần sau, trước khi báo cảnh sát thì phải tìm hiểu kỹ sự việc đã nhé!” Tiểu An liếc nhìn anh Tứ, rồi quay sang giáo huấn ông chủ Lương, “Lãng phí công sức của cảnh sát!” “Vâng! Vâng!” Ông chủ Lương cười tươi rói, “Chắc chắn sẽ về nghiêm khắc dạy dỗ lại cấp dưới, lần sau tuyệt đối không để xảy ra tình trạng này nữa…” “Cũng tại tôi không nhìn kĩ…” Anh Tứ không biết giấu mặt vào đâu, lên tiếng xin lỗi anh Dương. “Thôi thôi!” Anh Dương xua tay, “Tất cả về nghỉ đi, không ai chết là may rồi…” “Nặng thật đấy!” Tiểu An cầm cánh tay giả lên ước lượng, “Món này mà dám vứt lung tung lại chẳng dọa người ta sợ chết khiếp mới lạ. Tôi mà tóm được đứa thất đức đó thì nhất định phải dạy cho nó một bài học mới được.” Bỗng nhiên, anh Tứ nhìn chằm chằm vào một điểm. Anh cầm cánh tay giả lên, thần người quan sát hồi lâu. Cánh tay giả này được chế tạo rất tinh xảo, da làm bằng cao su tổng hợp mà sờ vào giống hệt da thật, trên cánh tay còn khắc hình bông hoa hồng. “Người này…”, anh Tứ lẩm bẩm tự nói với mình “hình như mình quen…” “Hả?” Anh Dương nhướng mày, “Quen thế nào?” “Cũng không dám chắc lắm, có khi nhớ nhầm…” Anh Tứ định thần trở lại, ngượng ngùng lắc đầu, “Tôi đem nó về chỗ tôi được không?” “Được! Dĩ nhiên là được…” Tiểu An gật đầu đồng ý mà không hiểu vì sao anh Tứ lại muốn mang “của nợ” này về. Máy xúc phát ra tiếng động ầm ầm. Ông chủ Lương được phép tiếp tục xây dựng công trình đúng như ông ta mong muốn. “Đúng là anh Tứ trong lời đồn…” Bước đến gần xe cảnh sát, Tiểu An lắc đầu. “Làm sao?” Ngẩng đầu lên, cậu ta phát hiện anh Dương đang nhìn mình chằm chằm. “Chú Dương, chú đã nghe người ta nói gì chưa…” “Cậu bớt hóng hớt đi!” Tiểu An đang định khua môi múa mép thì bị anh Dương lập tức chặn họng khiến cậu ta không dám ho he gì nữa, lẳng lặng bước lên xe. Chiếc xe cảnh sát nhanh chóng rời khỏi hiện trường. Dưới lùm cây cạnh đó, anh Tứ nhìn chằm chằm theo bóng họ, hai tay nắm chặt, toàn thân run lẩy bẩy. Mãi lâu sau, anh mới thở dài, rồi lặng lẽ mất hút vào bóng tối. Đèn trên phố bắt đầu tắt dần, nhưng mặt trời vẫn chưa lên. Các cửa tiệm ăn sáng rục rịch mở cửa phục vụ thực khách, chủ quán hắt cả nước bẩn ra ngoài đường. Công nhân vệ sinh uể oải quét nốt những nhát chổi cuối cùng. Anh Tứ luồn hai tay vào ống áo giao nhau trước ngực, bước trên đường dành cho khách bộ hành. Điếu thuốc trong tay đã cháy hết, anh tiện tay vứt đi, rồi lại châm một điều khác. Cơn đau đớn phía sau eo giống như rễ cây đâm từ da, xuyên sâu vào thịt, rồi cắm thẳng vào xương. Trán anh rịn mồ hôi lạnh. Lúc Đảng Siêu bị bắt, mọi thứ tưởng chừng đã kết thúc, vụ án khép lại, tội phạm bị xử tử. Bản thân anh được phong tặng Huân chương Quân công hạng hai. Nhưng anh Tứ hoàn toàn không thể ngờ rằng, đối với anh, mọi thứ chỉ mới bắt đầu. Một buổi sáng, anh thức dậy, thấy toàn thân không còn chút sức lực, đầu óc quay cuồng giống như bị cảm cúm, nhưng để ý kỹ một chút thì lại thấy không giống triệu chứng của bệnh cúm lắm. Ban đầu anh không mấy quan tâm, vẫn đi làm như thường ngày. Khi lên xe buýt, tim anh đập nhanh liên hồi, bắp chân giống như bị chuột rút, chỉ muốn đá về phía trước. Anh thở hổn hển, ngẩng đầu lên thì phát hiện một vài hành khách trên xe nhìn mình với ánh mắt khác thường. Anh lấy tay sờ lên mặt mới phát hiện nước mũi mình đã chảy ra từ bao giờ. Anh vội vàng lấy khăn tay ra, soi vào cửa kính xe, lau lấy lau để, một ý nghĩ vụt qua não, gây ra cơn dư chấn khe khẽ nhưng đủ làm thế giới ngày hôm qua của anh hoàn toàn sụp đổ: Mình đang lên cơn nghiện… Cuối cùng, anh cũng đến Bệnh viện số 2. Ánh mặt trời trong hành lang khoa Cấp cứu chói sáng đến lóa mắt. Một vài bệnh nhân ngồi trên hàng ghế dài hai bên hành lang bệnh viện, ôm bụng nhăn nhó kêu đau. Anh Tứ ho khẽ một tiếng, một vài người trong số họ nhìn anh chằm chằm, rồi từng người len lén lánh đi chỗ khác. Trong phút chốc, ô cửa đăng ký lấy số của khoa Cấp cứu vắng ngắt không một bóng người. “Anh lại đến à?” Một giọng nữ hơi khàn vọng ra từ sau ô cửa. Anh Tứ đáp “ừm” một tiếng, rồi mới chợt nhớ mình cần giả bộ như bất ngờ lắm, anh vờ hỏi, “Ô? Sao lại là cô trực ban thế?” “Không phải anh tính trước cả rồi sao?” Nữ bác sĩ gỡ khẩu trang ra, để lộ gương mặt mang nụ cười chế giễu, “Biết tôi dễ tính chứ gì?” “Bác sĩ Giang, cô cũng thật là…” Anh Tứ cười nịnh, lấy bệnh án trong túi ra, đưa cho cô, “Tại chẳng ai chịu tiêm cho tôi thôi, cô bớt ăn dưa bở đi…” Bác sĩ Giang mở cửa cho anh Tứ vào phòng Cấp cứu. “Lại đau à?” “Ừm, không chịu nổi nữa…” Mồ hôi chảy đầm đìa khắp đầu anh Tứ. Đây không hề là lời nói dối. Triệu chứng mỗi lần lên cơn nghiện đều giống nhau: nước mắt, nước mũi thi nhau chảy, tim đập nhanh, răng va vào nhau lập cập, hô hấp khó khăn… Những triệu chứng vừa rồi anh đều đã trải qua. Tiếp sau đó, nó sẽ bốc lên đầu, đầu đau đến mức chỉ muốn đập mạnh vào tường, nếu nó chạy vào nội tạng thì gan hoặc thận sẽ đau đến mức không biết nên nằm hay nên ngồi mới giảm được cơn đau, cả đêm không thể ngủ nổi. Đương nhiên điều diễn ra thường xuyên nhất là cơn đau này còn kéo theo cơn đau của những vết thương do trúng đạn trước kia. Cứ như thể, tấm lưng anh giống như bị chiếc bàn là nóng giãy áp thẳng vào da thịt… “Anh phẫu thuật lâu thế rồi cơ mà, về mặt lý thuyết thì lẽ ra phải…” Bác sĩ Giang kiểm tra vết thương của anh Tứ. “Tôi đâu phải bác sĩ mà biết… Có lẽ vết thương do súng đạn nó vậy…” Anh Tứ đã viện lý do này suốt hơn một năm qua, cũng chẳng buồn kiếm lý do khác, bởi vì nói cho cùng, có mấy bác sĩ tiếp xúc với vết thương do súng đạn đâu? “Tôi thấy…”, bác sĩ Giang đứng dậy, “miệng vết thương đang hồi phục rất tốt, nên cơn đau mà anh cảm thấy, tám phần là do tác động của tâm lý thôi, anh nên cố gắng chịu đựng.” “Tôi đau thật mà!” Anh Tứ bắt đầu cáu, những lúc thế này, anh thường rất dễ nổi nóng, “Cứ cho cô một phát đạn xem cô có cố gắng chịu đựng được không?” Bác sĩ Giang không tức giận, cũng không trả lời, chỉ ngồi nghịch móng tay của mình, đợi anh Tứ bỏ đi. Anh Tứ không còn cách nào khác, đành móc một tờ giấy trong túi áo ra, đập mạnh xuống bàn. “Cần để phục vụ cho việc phá án, cô tiêm cho tôi đi!” Đây là lần thứ ba, anh Tứ phải dùng đến bảo bối này. Đó là thư giới thiệu của Đội Cảnh sát, nội dung đại khái là: Đồng chí Diệp Tứ Minh đang trong quá trình thi hành nhiệm vụ phá án, đề nghị các quý đơn vị phối hợp! Đơn vị viết thư giới thiệu là Trung đội Tình báo, đó chính là đơn vị quản lý cảnh sát ngầm và người chỉ điểm. Anh Tứ không rõ bác sĩ Giang có hiểu được từ này có ý nghĩa gì không, miễn sao mang ra có thể dọa người là được. Mà anh đoán chắc bác sĩ Giang cũng chẳng hề hay biết Trung đội Tình báo giờ đây đã bị giải thể. Quả nhiên, bác sĩ Giang thở dài, sau đó đứng dậy, nhanh nhẹn đi lấy thuốc, chuẩn bị tiêm cho anh. Anh Tứ móc điếu thuốc ra định hút, nhưng bị người đứng xếp hàng phía sau trừng mắt, anh liền cười cầu hòa, cất điếu thuốc đi. “Công việc dạo này thế nào?” Anh Tứ hơi ngại vì khi này lỡ nổi nóng với bác sĩ Giang, nên giờ gắng tìm chủ đề bắt chuyện trở lại. “Bận lắm, toàn phải trực thay đồng nghiệp.” Bác sĩ Giang tìm ngược tìm xuôi thứ gì đó, “Không thể bì với anh được, chẳng lo mất việc, suốt ngày ngồi bàn giấy, lại còn được ra oai, đâu có ai sướng bằng…” Anh Tứ cười ngại ngùng. “Bọn trẻ thì sao?” “Vẫn thế thôi, tuần trước cháu nó bị cảm cúm.” Bác sĩ Giang lấy ngón trỏ búng ống tiêm, “Bố nó không biết chăm sóc con cái, mùa đông cũng chẳng chịu mua cho nó thêm mấy cái áo dày dặn một tí…” Mũi kim cắm vào da thịt, anh Tứ hơi nhếch miệng. “Còn anh thì sao?” “Cũng vẫn thế thôi. Đầu năm ngoái, mẹ thằng cu lấy chồng… lần trước tôi kể với cô rồi nhỉ… Nó đã lên lớp ba, thành tích học tập cũng bình thường. Nghĩ mà rầu…” Bác sĩ Giang rút mũi kim ra, vứt vào thùng rác. Anh Tứ cảm thấy một luồng ấm áp lan tỏa khắp cơ thể, mọi cảm giác khó chịu đều tan biến, toàn thân thoải mái như đang được ngâm mình trong bồn nước nóng. “Anh nên ít tiêm thì hơn”, bác sĩ Giang ghi gì đó vào bệnh án của anh Tứ, “anh nghiện không nhẹ đâu.” “Cái gì mà nghiện với không nghiện, cô nói quá lời rồi đấy!” “Đây là Pethidine.” Bác sĩ Giang nghiêm mặt ngắt lời anh, “Nếu anh muốn nửa đời còn lại phải đi lừa lấy thuốc giống như khi nãy thì không cần nghe lời khuyên của tôi làm gì.” Anh Tứ không hề tức giận, đứng lên định đi. Vừa đặt tay lên túi xách, anh đột nhiên vỗ vào gáy. “Đầu óc tôi đúng là chẳng ra gì.” Anh ngồi xuống, lấy cánh tay giả trong túi ra, hỏi “Gần đây bệnh nhân này có đến chỗ cô không?” Anh Tứ bắt đầu đến Bệnh viện số 2 kể từ khi anh bị điều chuyển từ bên tình báo sang nội vụ. Nói điều chuyển công tác thì cũng chưa hoàn toàn chính xác, trên thực tế, cả Trung đội Tình báo đều bị biên chế giải thể. Cấp trên giải thích rằng, “Thời đại mới cần áp dụng nhiều phương pháp khoa học kĩ thuật mới để phá án, cần trao đổi các thông tin tình báo sao cho các đơn vị khác đều có thể sử dụng. Để đội tình báo tác chiến riêng lẻ như một bộ phận độc lập không còn hợp thời nữa.” Anh Tứ cũng có ý kiến về vấn đề này, nhưng anh không muốn đào sâu suy nghĩ. Nói chính xác hơn, anh không còn tâm trí dành cho việc đó, tâm trí anh giờ đây đều tập trung cho việc cai nghiện. Anh gần như đã thử hết mọi cách: cai nghiện tự nhiên, cai nghiện nhờ thuốc, trị liệu thay thế…, nhưng chẳng có mấy biện pháp hữu hiệu, đã thế còn khiến khoản tiền tiết kiệm ít ỏi của anh gần như không cánh mà bay. Cuối cùng, anh chỉ dùng được một phương pháp, đó là ăn cam thảo. Trong cam thảo chứa lượng nhỏ bột thuốc phiện, có thể làm giảm nhẹ phản ứng lúc cai nghiện. Ban đầu anh Tứ chỉ ăn một vài lát, nhưng khi anh phải ăn đến ba trăm lát một ngày thì anh hiểu ra rằng mình bắt đầu cần cai món này… Cuối cùng, thứ có thể cứu anh chỉ còn Pethidine. Anh Tứ nhìn thấy cô trong một lần xếp hàng đợi tiêm. Đứng giữa dòng người tiều tụy, gầy gò, trông cô nổi bật hẳn nhờ vẻ trẻ trung và dáng dấp cao ráo. Huống hồ, lần cuối cùng xuất hiện ở đây, cô còn đeo cánh tay giả khắc hình hoa hồng. “À, cô gái có cánh tay giả khắc hoa hồng chứ gì? Nửa cánh tay trên xăm nửa bông hồng, rồi trên cánh tay giả khắc nửa bông còn lại, hai nửa bông hồng ghép lại vừa vặn trùng khít nhau, phải không?” Không cần anh Tứ gợi ý, bác sĩ Giang đã nhớ lại, “Ở đây có bao nhiêu bệnh nhân, nhưng chỉ có anh và cô ấy là ít gây phiền nhiễu cho tôi nhất…” Nói rồi, bác sĩ Giang cười gian, chờ anh Tứ thanh minh mình hoàn toàn khác với dân nghiện, nhưng anh không hề phản ứng lại. “Cô ấy còn mạnh mẽ hơn anh, người ta bị từ chối tiêm thuốc cũng chẳng la mắng hay khóc lóc gì, chỉ im lặng bỏ đi…” Nhớ lại vẻ thất thế khi nãy của mình, anh Tứ không biết giấu mặt vào đâu. Có điều anh cảm thấy bác sĩ Giang khen cô gái kia cũng hơi quá lời. Mấy lần đầu, đúng là cô còn giữ được lòng tự trọng, nhưng sau đó thì chẳng chịu nổi nữa. Anh Tứ từng nhìn thấy cô khổ sở cầu xin mấy tên lưu manh cho mình chen ngang hàng. Có lần, anh còn nhìn thấy cô đập đầu vào tường ở góc khuất. Còn có lần anh Tứ đưa giấy chứng nhận đi công tác để xin bác sĩ thêm mấy ống thuốc mang về nhà tự tiêm, cô trông thấy liền lập tức lao đến, quỳ mọp xuống đất cầu xin. “Cầu xin chú! Tiêm cho tôi một mũi đi! Chỉ một mũi thôi…” Anh Tứ không nỡ nhìn cô như vậy nên chia cho cô một ống. Kết quả là từ đó về sau, anh toàn bị cô chặn đường xin xỏ, cuối cùng anh đành trở mặt với cô. “Vậy chú cho tôi mượn ít tiền.” Sắc mặt cô gái tái xanh, cơ thể không ngừng run rẩy, nước mũi không kiểm soát được chảy dài ra ngoài. “Chú… anh… đại gia, cho tôi mượn ít tiền đi! Chắc chắn tôi sẽ hoàn trả, kiểu gì cũng sẽ trả, nếu không tôi ngủ với chú nhé…” Nói đoạn, cô quỳ sụp xuống. Anh Tứ vừa xấu hổ vừa kinh sợ, lại đúng lúc cơn nghiện kéo tới khiến cảm giác khó chịu phút chốc bốc lên tận đầu, anh Tứ thấy hoa mắt chóng mặt, ôm chặt lấy đầu, rồi tìm đường lao ra ngoài cửa. Từ đó trở đi, anh không gặp lại cô lần nào nữa. “Đúng vậy! Chính là cô ấy.” Anh Tứ chỉ vào cánh tay giả, “Nếu lần sau cô ấy đến đây, nhờ cô đưa giúp vật này cho cô ấy và bảo cô ấy rằng đừng chà đạp đồ vật, nếu muốn chà đạp nó cũng đừng vứt lung tung…” “Chà chà! Anh này”, bác sĩ Giang như cười như không, lắc đầu, “tự anh đưa cho cô ấy chẳng phải xong việc sao? Định coi tôi là bưu điện à?” “Tôi… không biết cô ấy ở đâu.” Anh Tứ luôn cảm thấy bác sĩ Giang là người phụ nữ rất khó dò đoán, chẳng bao giờ biết câu nào cô nói đùa, câu nào cô thực sự để ý, “Không phải cô ấy thường xuyên đến đây sao?” “Ai bảo vậy? Lâu lắm không đến đây rồi!” Anh Tứ hơi nhíu mày. “Bao lâu không đến rồi?” “Phải mấy tháng rồi! Chẳng phải mấy lần trước anh cũng không gặp cô ấy sao?” “Tôi cứ nghĩ sau đó tôi và cô ấy không gặp mặt là do không đến đây cùng thời điểm.” Anh Tứ ngẩng đầu nhìn trần nhà như đang ngẫm ngợi điều gì, rồi nói, “Thế cô hỏi giúp tôi xem liệu có phải cô ấy đến đây vào giờ bác sĩ khác trực ban không?” Bác sĩ Giang kiểm tra lại lịch trực ban, sau đó bấm điện thoại hỏi từng đồng nghiệp, cuối cùng nhìn anh Tứ và lắc đầu. “Liệu có phải cô ấy đến bệnh viện khác chăng.” Anh Tứ hỏi. “Không thể có chuyện đó. Cô ấy đã xin đơn thuốc ở đây một lần thì những bệnh viện khác sẽ không đưa thuốc cho cô ấy. Chắc hẳn cô ấy phải biết điều đó. Nói không chừng người ta cai được rồi cũng nên.” Anh Tứ không trả lời, chỉ “hừ” một tiếng, rồi lắc đầu. Cánh cửa đột nhiên bật mở, ai đó không chào hỏi đã xông vào. Anh Tứ ngẩng lên nhìn, hóa ra là người quen. Người mới đến là bác sĩ ở khoa Phục hồi chức năng, tên là Hạ gì đó Kiếm. “Bác Khương, bác đi từ từ thôi!” Bác sĩ Hạ bước chân vào phòng trong khi nửa thân trên vẫn còn ở ngoài hành lang, nhiệt tình chào tạm biệt người kia. Qua ô cửa sổ bằng kính khá lớn, anh Tứ nhìn thấy một người đàn ông lớn tuổi vẫy vẫy tay với bác sĩ Hạ, rồi tập tễnh bước đi. “Giang Nguyệt, có thuốc lá không?” Bác sĩ Hạ oang oang cất giọng, vừa nhìn thấy anh Tứ cũng ở đó, anh ta liền chào hỏi, “Ô? Sao anh lại đến đây?” “Lại xin xỏ à?” Giang Nguyệt không nể mặt. “Tôi vốn là đang cai thuốc mà, nào ngờ thần tài lại viếng thăm, hầu hạ ông ấy vã cả mồ hôi, thành ra không hút điếu thuốc không sao chịu nổi…” “Lại nhắm trúng con gái rượu nhà người ta rồi chứ gì? Bảo sao trông cậu gian thế!” “Đúng là suy nghĩ của đàn bà! Người ta là nhà văn lớn, là đại phú hào, đến bệnh viện chúng ta khám chân… Nhanh lên! Cho tôi điếu thuốc! Đừng ki bo thế!” “Hút thuốc của tôi này!” Anh Tứ móc một điếu thuốc trong bao đưa cho bác sĩ Hạ. “Úi trời, đồ tốt đây!” Bác sĩ Hạ vừa nhìn thấy cánh tay giả đặt trên bàn liền cầm lên quan sát, “Tay điện cơ!” “Tay điện cơ?” “Anh thấy chỗ này không?” Bác sĩ Hạ chỉ vào vòng đen làm bằng cao su cuốn quanh đầu cánh tay giả, rồi giảng giải, “Chỉ cần chụp nó lên đoạn tay gãy là có thể dùng cơ thịt truyền tín hiệu… Bố khỉ, cao cấp thật đấy, còn có cả bluetooth nữa chứ!” Bác sĩ Hạ lôi nhẹ, chiếc vòng liền tách ra khỏi cánh tay giả. Bác sĩ Hạ đặt nó vào lòng bàn tay quan sát hồi lâu, chậc lưỡi khen tấm tắc. “Nghe nói món đồ này do người Mỹ chế tạo, không ngờ bây giờ nước ta cũng có bán…” Nói đoạn, bác sĩ Hạ đeo chiếc vòng lên bắp tay mình, bật công tắc trên cánh tay giả, âm thanh “ro ro” vang lên, rồi cánh tay giả bắt đầu nắm vào, duỗi ra. “Ôi chà, tay không tàn tật cũng có thể dùng được này…” Không những kinh ngạc vì sự tân tiến của khoa học kỹ thuật, anh Tứ còn phục lăn chất lượng của món hàng này. Không biết nó bị ngâm dưới nước bao lâu mà giờ chẳng hề hư hại. “Chỉ cần có cơ thịt là được…” Bác sĩ Hạ cười đắc ý, đặt bàn tay giả xuống phần thân dưới, rồi quay sang nhìn bác sĩ Giang. “Cút!” Bác sĩ Giang đẩy anh ta ra xa. Bác sĩ Hạ cuời hinh hích, nghe rất hạ lưu. Anh Tứ đột nhiên nhận ra một điều, quen biết bác sĩ Hạ đã lâu, nhưng anh không hề biết tên đệm của bác sĩ Hạ là gì, bởi vì mọi người đều tự động bỏ qua tên đệm, mà gọi thẳng tên bác sĩ Hạ là Hạ Kiếm. “Anh có muốn thử không?” Bác sĩ Hạ giúp anh Tứ đeo vòng lên cẳng tay. Sau khi thử vài lần, anh Tứ cũng học được cách điều khiển bàn tay giả. “Hay đấy! Thú vị thật!” Anh Tứ cười. Bác sĩ Giang đứng bên cạnh nhìn hai người, lắc đầu ngao ngán. Đàn ông luôn là những cậu bé không bao giờ lớn, bất kể ở độ tuổi nào, họ đều tìm thấy món đồ chơi mà mình yêu thích. “Món đồ này… khoảng bao nhiêu tiền?” Anh Tứ đột nhiên nhớ đến điều gì đó. “Còn phải xem mua qua nguồn nào”, bác sĩ Hạ nói, “áng chừng một trăm đến một trăm năm mươi ngàn gì đó.” Anh Tứ đột nhiên đứng bật dậy, va đổ chiếc ghế, chạy ra ngoài, bỏ mặc hai vị bác sĩ đứng ngây người vì giật mình. Trực giác nghiệp vụ mách bảo anh cần phải điều tra lai lịch của cô gái đó. Ngày đầu tiên, thứ Năm, 7 giờ sáng. Khi anh Tứ đến Đội Cảnh sát hình sự thì trời đã sáng rõ. Anh đứng trước cửa, châm điếu thuốc, hút hết mới lấy dũng khí bước vào trong. Từ lúc phát hiện mình nghiện ma túy, anh luôn cảm thấy mất tự nhiên trước đồng nghiệp, đặc biệt là sau sự cố đó. Kể ra thì số anh cũng nhọ. Anh Tứ biết bất kể Pethidine hay cam thảo đều không phải biện pháp lâu dài, bởi vậy anh mới lén lút đến bệnh viện tư nhân kiểm tra và xin tư vấn. Anh không biết bệnh viện nào trong số các bệnh viện tư nhân không có giấy phép, lại càng chẳng hay đúng ngày hôm đó Thanh tra Bộ Y tế lại đến kiểm tra đột xuất. Không ngờ hôm nay đồn cảnh sát vắng tanh, anh Tứ thở phào nhẹ nhõm. “Sao anh Tứ lại đến thế?” Tiểu Tề, một lính mới vào ngành, cất giọng chào hỏi anh. “Ồ, tôi có chút việc.” Anh Tứ gật đầu, trả lời qua quýt, “Mọi người đi đâu cả rồi?” “Đội 1 và Đội 2 đến hồ chứa nước, không rõ ở đó xảy ra vụ gì, còn những người khác đều đến sân bay.” “Ra sân bay làm gì?” “Anh không biết sao?” Tiểu Tề hào hứng nói, “Thì vì chương trình nhạc rock gì đó còn gì, Tần Minh cũng đến…” “Lại đến nữa à?” Vừa lúc đó, Tiểu Hạ bước vào. Tiểu Hạ là bác sĩ pháp y, anh hỏi, “Chẳng phải cậu ta vừa mới đến tuần trước đó sao?” “Ai mà biết được, tóm lại giờ cậu ta đang ở sân bay và vừa ra tay đánh phóng viên.” “Lại đánh à?” Tiểu Hạ tặc lưỡi ngạc nhiên. “Thằng cha đó toàn thế còn gì… Có điều lần này đám phóng viên cũng không vừa, họ đánh trả luôn, thế là Tần Minh cùng vệ sĩ của cậu ta đánh lộn với đám phóng viên ngay giữa sân bay, loạn hết cả lên, kết quả là Đội 3 phải đến đó giải quyết.” Anh Tứ không thích nói chuyện tào lao, nên bỏ sang bàn làm việc của mình, mở máy tính, đăng nhập vào kho dữ liệu. Anh Tứ khá hứng thú với các sản phẩm công nghệ, nhưng trình độ có hạn nên anh nhập điều kiện sàng lọc mãi mới thành công. Kết quả hiển thị cho thấy, trong dữ liệu về các đối tượng bị truy bắt gần đây thì căn bản không hề có người tàn tật. Anh Tứ cau mày, bắt đầu tìm kiếm danh sách các đối tượng trong trại giam, trại tạm giam, tạm giữ, nhưng tìm suốt hơn hai mươi phút mà vẫn chẳng được gì. Anh tựa đầu vào lưng ghế, ngẫm nghĩ một hồi, rồi đứng dậy ra khỏi văn phòng, lên tầng ba, đẩy của bước vào Tổ Truy quét ma túy. “Anh Tứ! Sao khách quý lại đến chơi nhà thế này?” Nhân viên đang trực ban tên là Trương Minh Quốc. Hai người họ quen nhau đã lâu. Nhân viên tình báo hay còn gọi là cảnh sát ngầm, ngoài đời khác hẳn trong phim. Tình huống cảnh sát ngầm nằm vùng vài năm trời trong các tổ chức xã hội đen như Lương Triều Vỹ vẫn diễn trong phim về cơ bản không thể xảy ra. Lấy anh Tứ làm ví dụ, công việc thường ngày của anh là quản lý người chỉ điểm, nếu quả thực có băng nhóm nào mà người chỉ điểm không thể chui vào được, chẳng hạn như băng đảng của Đảng Siêu, thì cùng lắm anh cũng chỉ trà trộn vào nhóm bọn chúng dưới vai kẻ buôn thuốc phiện hoặc dân chơi lắm tiền, sau đó thỉnh thoảng đi ăn uống, vui chơi và liên lạc với chúng để xây dựng mối quan hệ, chờ đợi cơ hội. Thời gian còn lại, anh vẫn đi làm như bình thường, chỉ có điều không cần điểm danh chấm công mà thôi. Đội cần anh thực hiện nhiều nhiệm vụ tình báo nhất chính là Tổ Truy quét ma túy. Anh thường hóa trang thành người mua hoặc kẻ bán để thực hiện các giao dịch, sau đó diễn vở kịch quen thuộc như “đập chén làm tín hiệu”, “bắt người tịch thu hàng” là xong. Anh Tứ cũng chẳng nhớ rõ mình đã bao nhiêu lần thực hiện nhiệm vụ này. Bởi vậy, hôm anh bị người trên Cục Công an thành phố bắt đi thẩm vấn, anh rất không phối hợp. Anh không thể chấp nhận được việc mình bị đối đãi giống như kẻ phạm tội. Ai cũng biết những kẻ phạm tội là những kẻ cam tâm sa đọa, vô phương cứu chữa, mà đa số bọn chúng đều không ra gì. “Đây là anh phải không?” Đối phương chỉ vào màn hình, bắt đầu thẩm vấn. Anh Tứ liếc một cái, thấy hình ảnh mình ngồi trên ghế dài chờ đợi kết quả xét nghiệm nước tiểu. Anh gật đầu. Đối phương vứt cho anh một tờ giấy. Anh Tứ không cần nhìn cũng biết kết quả. Lại dương tính. “Mời anh giải thích chuyện này!” Hôm đó, anh Tứ đã tranh cãi kịch liệt với họ. Cuối cùng, Trương Minh Quốc phải nhập cuộc can thiệp. Nhưng ngay cả cậu ta cũng tỏ vẻ gượng gạo khi nghe anh Tứ giải thích về chuyện những miếng cam thảo. Anh Tứ biết rõ vì sao tất cả con nghiện đều nói vậy khi bị bắt. Cuối cùng, anh đã hiểu rõ hoàn cảnh hiện tại của mình Dính phải thứ này sẽ chẳng còn ai tin bạn cả! Mà nếu anh là họ, anh cũng sẽ không tin. “Dạo này bận không?” Anh Tứ gật đầu chào Trương Minh Quốc, rồi đưa cho cậu ta điếu thuốc. “Cũng không bận lắm…” “Thế thì giúp tôi tìm một người.” “Được thôi”, Trương Minh Quốc cầm điếu thuốc hỏi, “ai vậy?” “Một cô gái, hai mươi tuổi, thiếu nửa cánh tay phải… Giúp tôi tìm xem gần đây cô ấy có bị bắt giữ không?” Trương Minh Quốc hơi ngẩn người. “Người tàn tật à… chưa thấy bao giờ…” Trương Minh Quốc lắc đầu. “Liệu có phải ở đồn cảnh sát khác hoặc dân phòng gì đó bắt giữ nên không nhập liệu?” Anh Tứ hỏi. “Cũng có thể, có điều làm vậy không hợp quy…” Trương Minh Quốc trầm ngâm, rồi cậu ta nhấc điện thoại gọi sáu, bảy cuộc đến các đơn vị khác, sau đó bỏ ống nghe xuống, lắc đầu. Anh Tứ nhíu mày. Đây không phải tin tốt. Rõ ràng cô không biến mất vì bị bắt. Cám ơn Trương Minh Quốc, anh Tứ trở lại phòng làm việc, do dự một lát, cuối cùng anh Tứ phải mở công cụ cuối cùng: kho dữ liệu về các đối tượng mất tích. Nhấn phím “enter”, lòng anh đầy mâu thuẫn. Một mặt, anh hy vọng sẽ thu thập được thông tin gì đó; mặt khác, anh lại hy vọng tên cô không có trong danh sách này… Thanh tiến độ chầm chậm chạy trên máy tính. Cuối cùng, kết quả tìm kiếm là khoảng trắng. Anh Tứ ngồi bần thần. Thói quen nghề nghiệp thúc giục anh phải làm điều gì đó, nhưng mặt khác lại có giọng nói luôn âm vang trong đầu khiến anh không thể suy nghĩ tiếp. Một cô gái nghiện ma túy như thế thì chuyện gì chẳng có thể xảy ra? Mình còn tâm trí để lo cho cô ấy sao? Quả là vậy, phiền phức mà bản thân anh đang gặp phải hiện giờ còn lớn hơn nhiều. Hôm qua, người trên Cục đã gọi anh đến nói chuyện, anh ta bảo thứ Hai tuần tới sẽ công bố kết quả xử lý. Anh hỏi kết quả như thế nào, anh ta không chịu nói. Anh Tứ dò la tin tức thì được biết nếu làm việc này thật chặt thì anh chỉ có hai sự lựa chọn: Hoặc là cách chức, cưỡng chế cai nghiện, hoặc là xin nghỉ không lương, tự nguyện cai nghiện. Ngay chiều hôm đó, anh phải vào trại cai nghiện. Hàng rào thép, giường tầng, áo đánh số, camera giám sát gắn trên tường… Khác gì trại giam đâu chứ? Khác chăng là thiếu cái còng tay. Lúc đó, anh Tứ đã đưa ra quyết định: Dẫu chết cũng không vào đó… Có người vỗ vai làm anh giật thót, anh quay đầu lại. Thì ra là Lý Kinh Vũ, Đội trưởng Đội 1. “Nhanh lên! Vào họp thôi!” Một nhóm người huyên náo kéo nhau vào phòng họp. Nhìn họ có vẻ vừa từ nơi nào đó trở về. “Tôi cũng vào họp sao?” Anh Tứ nặn ra nụ cười kì cục. “Đội trưởng Hùng bảo mọi người đều vào cả.” Anh Tứ bước vào phòng họp, rất ngạc nhiên khi hôm nay không ai vắng mặt. Nét mặt mọi người đều nghiêm nghị khác thường như thể đang tham gia lớp học chính trị vậy. “… Tình hình là vậy”, xem chừng bác sĩ pháp y Dương không được nghỉ ngơi nên trông rất mệt mỏi, anh bơ phờ ngồi bên cạnh Đội trưởng Hùng, nói như hụt hơi, “hai thanh niên thuộc câu lạc bộ lặn đến hồ chứa nước núi Ngọa Hổ để luyện kỹ thuật lặn trái phép vào ban đêm, họ phát hiện ra xương cốt của các nạn nhân. Hai người họ đã được loại trừ khỏi diện tình nghi, cảnh sát chỉ phê bình và răn đe họ về hành vi xuống hồ lặn trái phép vào ban đêm… Các thi thể được đựng trong túi nilon buộc kín, tất cả chỉ còn xương, rất khó phán đoán thời gian tử vong cụ thể… Đáy túi buộc dây thừng và vật nặng…” Anh Dương và anh Lưu tường thuật sự việc suốt hơn một tiếng đồng hồ mới kết thúc. Tuy anh Tứ gật gù ngủ suốt quá trình hai bác sĩ pháp y diễn giải, nhưng anh vẫn nắm bắt được đại thể tình tiết vụ án. Sáu mươi mốt thi thể được đựng trong túi nilon. Nguyên nhân tử vong chưa xác định. Không rõ đã chết bao lâu. “Mọi người nghĩ thế nào về vụ này?” Đội trưởng Hùng nhíu mày hỏi. Cả phòng họp im phăng phắc trong giây lát rồi bắt đầu phát biểu ý kiến của mình, có điều người nào cũng chỉ nói được nửa chừng rồi trầm mặc. Nếu là giết hơn sáu mươi người rồi vứt xác tại cùng một chỗ thì đúng là không thể giải thích nổi. Thứ nhất, từ trước đến nay, thành phố Cửu An chưa bao giờ tiếp nhận vụ án mất tích nào với số lượng người nhiều như thế. Thứ hai, nếu nói hung thủ giết người ở nơi khác, rồi tập hợp thi thể vứt xác ở đây thì khả năng này quả thật quá thấp. Toàn tỉnh cũng đâu có nhiều vụ án giết người chưa được phá giải như thế. Lúc này, có một suy đoán mới mẻ thu hút sự chú ý của mọi người: Liệu đây có phải vụ án giết người thật không? “Tôi đề nghị liên hệ với bệnh viện tỉnh, theo như tôi được biết thì với những thi thể không dùng cho mục đích khoa học nữa, bệnh viện sẽ phân mảnh trước khi tiêu hủy. Chưa biết chừng lại giống vụ việc xảy ra vào năm kia, bệnh viện giao cho công ty môi trường xử lý, kết quả công ty đó lại làm ẩu khiến người dân sợ hết hồn…” Các đồng nghiệp bắt đầu bàn luận sôi nổi về luận điểm này. Không ít người thể hiện ý kiến tán đồng. Nhưng Đội trưởng Hùng lại khẽ lắc đầu. Ông đoán bệnh viện không có gan làm việc đó, làm bừa cũng phải có mức độ. “Quả thực không thể xác định được thời gian tử vong sao?” Lý Kinh Vũ hỏi. Anh Dương lắc đầu, “Có thể dùng phương pháp đồng vị, nhưng quá trình này rất chậm, chỗ chúng ta không có thiết bị, hơn nữa cũng không chắc chắn sẽ hóa nghiệm ra được kết quả chính xác…” “Liệu có khả năng thời gian tử vong từ rất lâu rồi không? Ví dụ nạn nhân chết từ những năm 60, 70?” Lý Kinh Vũ vừa nói vừa mở điện thoại di động tìm kiếm thông tin gì đó trên mạng, lát sau, anh ta chỉ vào màn hình nói, “Đúng rồi, tôi vẫn có ấn tượng về vụ này. Trước đây thành phố Cửu An có nhà ngục của quân Nhật, không chừng…” “Tôi không đồng ý với quan điểm này.” Một giọng nói bỗng cất lên dõng dạc như tiếng chuông đồng. Mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía phát ra âm thanh, phát hiện người vừa nói chính là anh Tứ. “Cửu An có hơn ba trăm công xưởng, số công nhân ngoại tỉnh lên đến mấy trăm ngàn người, nếu có vài chục công nhân mất tích thì chắc hẳn chẳng ai để ý. Nếu người chết là nhân khẩu ngoại tỉnh, thì mất tích nhiều như thế mà không bị phát hiện cũng là điều hoàn toàn có thể xảy ra.” “Năm nào cũng làm công tác điều tra nhân khẩu rất nghiêm, chúng ta điều tra rõ ràng rồi, không có nhiều nhân khẩu ngoại tỉnh không rõ tung tích như thế…” Lý Kinh Vũ phản bác. “Đó là hiện giờ, thế trước đây thì sao? Ví như hai mươi năm trước chẳng hạn?” “Hai mươi năm trước làm sao?” “Hai mươi năm trước, có khoảng thời gian người ta truyền tai nhau khắp đầu làng cuối xóm rằng trong núi Ngọa Hổ có thủy quái, mọi người từng nghe thấy thông tin này chưa?” Một vài cảnh sát lâu năm trong nghề ngồi đây liền khẽ gật đầu. Lý Kinh Vũ hơi mất tự nhiên, vì anh ta là người ngoại tỉnh. “Có người nói hồ chứa nước nổi bọt khí và phát ra âm thanh kì lạ, phải thông tin này không?” Đội trưởng Hùng cũng nhớ lại, “Còn nói quái vật đó đầu rắn, có sừng. Không phải anh định nói vụ án này do thủy quái gây ra đấy chứ?” Mọi người phá lên cười. Anh Tứ biết trong tiếng cười của họ ẩn chứa hàm ý giễu cợt, nhưng anh không bận tâm “Vào tháng Mười năm 1998…”, anh Tứ chắp tay sau lưng, dáng vẻ như đại thi hào ngâm thơ, đáng tiếc đang đọc hùng hồn thì quên câu sau, “ngày… mấy thì quên rồi, một công nhân họ Trương làm việc ở nhà máy rượu gần Anh Hùng Quan - cũng là đồn cảnh sát gần núi Ngọa Hổ nhất hồi ấy - đến báo án. Anh ta nói phát hiện thấy sinh vật bí ẩn đang nhả khí khi anh ta câu cá ở hồ chứa nước lúc chiều muộn…” Mấy cảnh sát trẻ đưa mắt nhìn nhau, muốn cười mà không dám. “Tháng Hai năm 1999, một người họ Lưu ở thôn Bảo An gọi điện đến trung tâm trị an báo án. Anh ta nói nghe thấy tiếng một sinh vật rất lớn nhảy vọt lên khỏi mặt nước lúc nửa đêm ở hồ chứa nước… Đây là hai lần báo án sớm nhất về loạt các vụ án kiểu này. Trong hai năm tiếp theo, chúng ta liên tiếp nhận được các vụ báo án tương tự như thế. Cuối cùng, khắp đầu làng cuối xóm đều đồn đại về chuyện này. Qua lời mọi người hình ảnh thủy quái ngày càng hiện ra rõ nét hơn: đầu rắn, có sừng, có vảy, dài hơn mười mét, thường lảng vảng ở khu vực hồ chứa nước về đêm, đầu to như chậu rửa mặt, phát ra âm thanh nghe như tiếng sóng…” Mọi người đều không còn tâm trạng cười giễu, lời anh Tứ nói càng lúc càng giống như lời lẩm bẩm của bệnh nhân tâm thần. “Tôi còn nhớ báo Buổi tối đã đính chính về thông tin này rồi còn gì.” Cuối cùng, anh Dương muốn kết thúc sự việc ồn ào, “Họ nói Cửu An chưa từng nuôi rắn nước, mà trên mặt đất cũng không thể có loài rắn nào dài trên một mét…” “Tôi biết chứ!” Anh Tứ đưa mắt nhìn một vòng tất cả những đồng sự có mặt trong phòng họp, rồi chợt nghiêm giọng, “Nhưng liệu có khả năng bọt khí mà những nhân chứng đó nhìn thấy chính là bọt khí phát ra từ các thi thể đang phân hủy không? Và âm thanh mà họ nghe thấy chính là tiếng động phát ra khi hung thủ vứt thi thể xuống nước?” Không ai ngờ sau khi huyên thuyên một hồi, cuối cùng trở lại trọng điểm vấn đề, anh Tứ lại hạ màn hoàn hảo như thế. Tuy cách giải thích này khá li kì, nhưng không ai có thể phủ nhận khả năng tồn tại của nó. “Diệp Tứ Minh, trí nhớ của cậu tốt đấy nhỉ!” Vẻ mặt Đội trưởng Hùng vẫn lạnh lùng và nghiêm túc như cũ. “Lúc trong phòng hồ sơ lưu trữ, tôi chưa từng để mình rảnh rỗi…” Khi nói câu này, anh Tứ cảm thấy hơi hả hê vì mình được xả giận, cùng lúc đó, ngọn lửa trong cơ thể anh cũng bùng cháy. Đương nhiên anh biết những phân tích của mình không thể chính xác như phân tích của Lý Kinh Vũ, nhưng chẳng sao cả, cái anh cần chỉ là viên gạch lót đường để bước chân vào Tổ Chuyên án. Đội trưởng Hùng nhỏ giọng bàn bạc với những người khác. Mọi người rì rầm trao đổi. Đủ loại liên tưởng hiện ra trong đầu anh Tứ. Vụ án thế này rõ ràng Đội Cảnh sát hình sự không đủ nhân lực. Cơ hội dành cho anh không hề nhỏ. Nếu quả thật đây là vụ án giết người thì đó chính là vụ án giết người lớn nhất xảy ra ở Cửu An, không, phải nói là vụ án giết người quy mô lớn nhất trong phạm vi toàn tỉnh… Nếu mình có thể phá được vụ án này thì không chừng… Nghĩ đến đây, anh Tứ không kìm được muốn ôm tia hy vọng mong manh này… Thời gian gần đây, anh bị giày vò đến mức sắp trầm cảm đến nơi. Anh đi gặp bác sĩ tâm lý, bác sĩ nói anh cần hạ thấp kỳ vọng của mình xuống mới được. Cho dù không thể lấy công chuộc tội cũng chẳng sao, hi sinh trong quá trình truy bắt hung thủ của vụ hung án liên hoàn lớn nhất trong lịch sử vẫn vinh dự biết bao! Những ảo tưởng bắt đầu hiện lên rõ nét hơn trong đầu anh. Trước di ảnh của anh là vòng hoa, thảm gấm, trong tiếng nhạc truy điệu hùng tráng và bi ai, các đồng nghiệp lần lượt cúi người cung kính tiễn biệt linh hồn người quá cố. Chẳng còn ai nhắc đến những lời đồn đại và sỉ nhục trước kia nữa, danh hiệu liệt sĩ sẽ giúp anh cáo biệt hành trình đầy đau khổ này… Tiếng ho hắng giọng khiến anh Tứ giật mình bừng tỉnh, thoát khỏi ảo tưởng. Mọi người đều ngồi ngay ngắn, đó là tín hiệu cho thấy Đội trưởng Hùng sắp phát biểu. “Cao Lôi, cậu tìm thêm hai người nữa cùng đến bệnh viện điều tra một chút, sau đó đến phòng lưu trữ hồ sơ của thành phố kiểm tra lại các ghi chép về sự kiện nhà tù của quân Nhật. Minh Hải, cậu cùng Tiểu Điền, Lý Mảnh, thêm Triệu Bình nữa, các cậu dẫn theo người đến khu vực xung quanh hồ chứa nước thu thập thông tin xem có nhân chứng nào không. Cậu Dương, phiền cậu dẫn Đội Pháp y nới rộng phạm vi giám định hiện trường nơi xảy ra vụ án, tìm kiếm các manh mối một cách thật cẩn thận. Cậu Lưu, cậu mang tất cả túi đựng thi thể, cả dây thừng và các vật chứng khác nữa đi hóa nghiệm tỉ mỉ từng thứ một…” Đội trưởng Hùng không cao giọng ra lệnh, nhưng ông bố trí nhân sự đâu ra đấy. Lý Kinh Vũ gượng gạo khoanh tay lại, ngón tay vô thức gõ vào cánh tay. Một người ở vị trí trọng yếu như anh ta mà giờ đây lại chưa được phân công nhiệm vụ. “Kinh Vũ”, rõ ràng Đội trưởng Hùng đã để ý thấy tâm trạng của Lý Kinh Vũ, “Đội 1 có hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ thứ nhất là kiểm tra tất cả các camera có liên quan, nhiệm vụ còn lại là làm theo lời Tứ Minh nói, xem có thể tìm thấy những người báo án năm đó không…” Thoáng chốc, anh Tứ thấy niềm khoan khoái muốn cười trên tai họa của người khác lan tỏa khắp người, cho đến khi anh nhận ra mình cũng chưa hề được phân công bất cứ nhiệm vụ nào. “Sở cảnh sát tỉnh rất coi trọng vụ án này, nên mọi người cần chuẩn bị tinh thần tác chiến trường kỳ.” Anh Tứ ngượng ngùng tột độ. Đội trưởng Hùng không muốn anh tham gia vụ án quan trọng như thế này, quyết định đó hoàn toàn hợp lý. Cho dù không nhắc đến việc anh từng ngủ gật trước mặt lãnh đạo mấy lần, không nhắc đến việc anh phát biểu câu trước một đằng câu sau một nẻo, ngồi ngây người tại chỗ mấy lần, lúc lên cơn nghiện còn lao ra khỏi phòng họp mấy lần để nôn thì mấy năm gần đây, tình trạng sức khỏe của anh cũng thực sự khó làm người ta yên tâm cho được. Sắc mặt anh tái nhợt, huyết áp cao bất thường, năm ngoái còn phát hiện gan của anh cũng có vấn đề. Khi đồng nghiệp tụ tập nhậu nhẹt, anh vừa nhấp rượu là say, chân mềm nhũn, mới đi mấy mét đã phải ngồi nghỉ. Dần dần, những lời đồn đại về anh ngày càng lan truyền rộng khắp nơi… Đây là cơ hội cuối cùng! Cơ hội giúp anh gột rửa mọi sự sỉ nhục và mọi điều nuối tiếc! Lòng anh Tứ nóng như lửa đốt. “Tứ Minh”, cuối cùng, Đội trưởng Hùng cũng chú ý đến ánh mắt khẩn thiết của anh, “nghe Tiểu An nói sáng nay cậu nhận được một vụ án hả?” Tiếng cười trộm rinh rích vang lên. Mặt anh Tứ đỏ như gấc. Chắc chắn vụ cánh tay giả đã lan truyền khắp đơn vị. “Thực ra sự việc đó cũng có điểm nghi vấn. Tôi nghi ngờ, nhiều khả năng đó là vụ án mất tích…” Đương nhiên anh Tứ biết suy đoán của mình thiếu căn cứ, nhưng chuyện đã đến nước này cũng không thể bó tay chờ chết. Anh bắt đầu thao thao bất tuyệt kể mọi tình hình liên quan đến cô gái mang cánh tay giả. Sau khi nói xong, anh phát hiện ánh mắt của mọi người nhìn mình có gì đó không đúng lắm. “Đối tượng không bị bắt giữ, cũng không có tên trong danh sách nhân khẩu mất tích.” Chưa bao giờ Lý Kinh Vũ biết đến cụm từ “làm mất mặt người khác” viết như thế nào, nên ngay sau khi anh Tứ vừa nói xong, anh ta liền nêu thắc mắc với vẻ mặt khó hiểu, “Những khả năng còn lại nhiều vô kể, sao anh lại cho rằng cô ấy đã xảy ra chuyện?” “Cánh tay giả đó có giá hơn một trăm ngàn tệ, cô ấy không rảnh đến mức vứt xuống sông chơi…” Anh Tứ trừng mắt đáp lại. “Anh không loại trừ trường hợp cô ấy hít thuốc phiện, phê quá nên tự mình vứt nó xuống sông sao? Mà chờ đã, sao anh lại phán đoán được cô ấy hít thuốc phiện?” Anh Tứ không đáp. “Anh có thể loại trừ trường hợp cô ấy đến thành phố khác với ai đó không? Hoặc đơn giản hơn, cô ấy đã về quê chẳng hạn?” Lý Kinh Vũ vẫn tiếp tục dồn ép đến cùng. “Tôi cảm thấy không giống thế lắm…” Anh Tứ lí nhí biện giải. “Lý do gì khiến anh cảm thấy không giống thế?” Bởi vì đi khỏi thành phố này sẽ không tìm được ma túy nữa chứ sao! Một khi đã dính vào ma túy thì căn bản không thể nào cai nổi! Anh Tứ mím chặt môi, thầm hét trong đầu. Lý Kinh Vũ không hỏi tiếp nữa. Anh Tứ biết rõ mình đã đánh mất cơ hội. “Tứ Minh…” Cuối cùng, Đội trưởng Hùng cũng lên tiếng. Anh Tứ không nhìn Đội trưởng. Giờ phút này, anh chỉ muốn nhắm mắt chấp nhận số phận. Có điều, kết quả mà anh đón nhận lại hoàn toàn bất ngờ. “Trước tiên, cậu hãy điều tra rõ ràng vụ án này, sau đó tham gia vào vụ án hồ chứa nước. Buổi họp kết thúc ở đây!” Ngày đầu tiên, thứ Năm, khoảng 10 giờ sáng. Ra khỏi phòng cảnh sát rẽ sang hướng Bắc, đi chưa tới ba trăm mét là đến một quán ăn nhỏ. Hai cánh cửa kính loang lổ luôn mở quanh năm, một cánh dán hàng chữ: Các món xào bình dân, cánh còn lại dán: Cần tuyển nhân viên phục vụ. Mấy cánh cửa kính cỡ lớn đã ngả vàng, mỗi lần có người ra vào là cánh cửa lại không thể khép chặt, chính vì vậy thường ngày không có khách ngồi ở vị trí đối diện với cửa. Trên chiếc bàn nhỏ nằm gần cửa sổ có một vỏ bia và bát mì vằn thắn chỉ còn lại nước dùng. Anh Tứ hút thuốc, ngây người nhìn tấm khăn trải bàn bằng nhựa màu vàng. Thực ra nhiệm vụ mà anh được giao lần này rất đơn giản: chỉ cần điều tra rõ lai lịch của cô gái đó, đến nhà cô ấy xem rốt cuộc cô còn sống hay đã chết. Nhưng hiện giờ, ngay cả tên cô anh cũng không biết. Vừa rồi, anh đã gọi điện đến tất cả các bệnh viện lớn nhỏ trong toàn tỉnh, nhưng không ai nhìn thấy cô gái đó. Anh còn nhờ bác sĩ Hạ Kiếm hỏi các nhà máy xí nghiệp sản xuất chân tay giả trong thành phố, nhưng họ đều nói không bán loại sản phẩm này. Tất cả những gì anh biết chỉ là: cô tàn tật và nghiện hút. Đối với anh Tứ, chuyện này cũng không khó khăn gì, số dân nghiện mà anh quen biết nhiều không đếm xuể. Ngoại trừ những kẻ bị anh quẳng vào trại giam thì số còn lại chính là những kẻ chỉ điểm. Nhưng anh không muốn tìm gặp những đối tượng đó. Anh biết rất nhiều người có khả năng cai nghiện thành công, họ cố gắng không động đến ma túy trong một thời gian, có thể là một năm, hai năm, thậm chí có người không động đến ma túy suốt năm, sáu năm. Nhưng hễ tiếp xúc với bạn nghiện trước đây thì họ sẽ lập tức hút trở lại. Chuyện này gần như không có ngoại lệ. Có điều với hoàn cảnh hiện tại, anh không tìm cũng không được. Muốn phá án cũng chỉ có chừng ấy phương pháp mà thôi: thu thập thông tin, kẻ chỉ điểm, sử dụng công nghệ cao. Thông tin về cô gái đó quá ít nên không thể sử dụng phương pháp thu thập thông tin. Mà anh lại không giỏi sử dụng công nghệ… Đầu anh đau ngâm ngẩm, tim đập mỗi lúc một nhanh, hô hấp cũng gấp gáp trông thấy. Anh Tứ cảm thấy trong đầu như có âm thanh ra sức khuyên mình đừng giãy giụa, giằng co nữa… Đúng lúc này, điện thoại di động của anh vang lên. “Anh Tứ, tôi đã hỏi được rồi.” Trương Minh Quốc ngập ngừng trong điện thoại, “Người mà sáng nay anh hỏi có mối quan hệ như thế nào với anh?” “Chỉ là kẻ chỉ điểm thôi…” Giọng anh Tứ thể hiện rõ thái độ thiếu thân thiện. Sự tò mò của người khác luôn khiến anh cảm thấy bất an. “Ồ! Không phải người thân, bạn bè chứ gì?” Trương Minh Quốc thở phào nhẹ nhõm, “Thế thì tốt… thế thì tốt… Tôi đang nghĩ có khi anh nên liên lạc với Đội Trật tự trị an xem thế nào.” Anh Tứ vừa nghe câu đó liền thầm mắng mình ngu. Đàn bà với ma túy, thông thường sẽ cho ra kết quả là “gái điếm ngầm”. Khi truy quét các hang ổ mại dâm, nếu tình hình bán dâm không nghiêm trọng thì cảnh sát chỉ chụp ảnh, yêu cầu họ nộp phạt rồi thả ra. Mà việc này thuộc phạm vi xử phạt của Đội Trật tự trị an nên không thể tìm thấy hồ sơ lữu trữ về các cô gái bán dâm trong các kho dữ liệu khác. Anh gác máy, lập tức chạy như bay đến Đội Trật tự trị an. Sau khi trình bày rõ sự tình, đồng chí Đội phó đang trực ban dẫn anh vào phòng máy. “Vì đây không thuộc phạm trù các vụ án chính thức nên chỉ ghi chú ngày tháng, tên họ lên ảnh rồi lưu vào ổ cứng, không thể tra trên mạng được, anh phải tự tìm thôi…” “Được”, anh Tứ gật đầu, “tôi có kinh nghiệm tìm dữ liệu…” Anh giở từng trang ảnh, màn hình lúc sáng lúc tối. Anh Tứ ngồi đến nỗi lưng mỏi nhừ, mắt hoa lên. Nhìn điện thoại di động, anh thấy một tiếng rưỡi đã trôi qua. Vì nhìn quá nhiều khuôn mặt nên anh nghi ngờ nếu giờ đây cô gái đó đứng trước mặt mình, e rằng anh cũng không thể nhận ra. Anh ngừng lại, dụi mắt. Cả thân thể và tinh thần đều mệt mỏi, rệu rã, cảm giác khó chịu lại ập đến. Anh bắt đầu tự hỏi sao mình phải giày vò mình thế này? Cho dù tìm ra cô thì liệu Đội trưởng Hùng có nói lời giữ lời không? Cho dù Đội trưởng Hùng giữ lời thì sau khi tham gia, liệu anh có phá được án không? Cho dù phá được án thì liệu mọi người có nhìn anh với con mắt khác không? Tâm trạng anh toàn màu xám xịt. Anh cảm thấy chết còn dễ dàng hơn nhiều so với việc sống mà không có hy vọng. Trong một khoảnh khắc, anh Tứ muốn từ bỏ. Nhưng hình ảnh cậu con trai trên hình nền điện thoại khiến anh không cho phép mình từ bỏ hy vọng nhỏ nhoi đến đáng thương này. “Tìm thêm một năm nữa! Nếu không có thì đành thôi vậy!” Cuối cùng, sau nửa tiếng, anh Tứ đã tìm thấy ảnh cô gái đó. Thông tin về cô như sau: Họ tên: Bàng Hiểu Yến Tuổi: 22 Địa chỉ: Số 9, ngõ Đinh Tử, khu Khải Mộc Viên Ngày đầu tiên, thứ Năm, 12 giờ trưa. Ngõ Đinh Tử nằm trong khu phố cổ của thành phố Cửu An. Tuy nơi này hiện giờ rác rưởi tràn lan khắp nơi, mặt tường bong tróc, nhưng mặt đường lại lát từng phiến đá lớn như muốn ngầm khoe một thời vàng son dưới vương triều Càn Long. Hiện giờ khu phố này đang bị phá dỡ, các hộ dân sống ở đây đã chuyển đi quá nửa, chỉ còn một vài người già yếu, bệnh tật và các khách thuê tham rẻ ở lại. Nhà số 9 nằm ở tận cùng con ngõ, sau khi ông chủ nhà họ Trương qua đời, ngôi nhà này thuộc quyền thừa kế của cậu con trai ông ta. Nhưng cậu con trai này không thể chịu được điều kiện sống tồi tệ của căn nhà cũ nên chẳng bao giờ về đây. Anh ta cho người khác thuê. Khách đến thuê nhà không phải kẻ nghèo kiết xác thì cũng là loại kỳ quái, dị hợm, phần lớn là dân chơi nhạc rock hoặc dân bán hàng rong ở vỉa hè. Trong số những người khách đến thuê nhà, trước đây có một khách trọ để lại ấn tượng sâu sắc nhất, chính là Bàng Hiểu Yến. “Trước đây?” Mắt anh Tứ mở lớn, “Ý anh là cô ấy đã chuyển đi rồi sao?” “Chuyển đi từ lâu rồi.” Nhắc đến cô, vẻ mặt chủ nhà thể hiện rõ vẻ bất mãn, “Mang tiếng là sinh viên Học Viện Nghệ thuật mà hành xử chẳng ra gì, chuyển đi cũng không nói với tôi một tiếng, tự dưng thấy chiếc xe tải to đến kéo hết đồ đạc đi…” Chủ nhà không ngừng càm ràm, trách móc. Anh Tứ quay người định bỏ đi, nhưng chủ nhà níu lại không cho đi. “Anh là cảnh sát phải không? Thế thì anh phải đứng ra giải quyết việc này giùm tôi. Mấy lần tôi đến đồn cảnh sát yêu cầu giải quyết, nhưng cảnh sát nói giá trị tài sản mà tôi bị mất quá nhỏ, không đủ điều kiện để lập thành án. Cái giường to như thế, lại làm bằng gỗ thịt, cao ơi là cao, nhét tủ lạnh bên dưới cũng vừa, giờ khó mua lắm đấy, thế mà cô ta dám lấy đi, làm sao có thể để cô ta lấy không đồ của tôi thế chứ? Tôi đã chụp ảnh cái xe tải của công ty chuyển nhà đó rồi, bằng chứng rành rành ra đấy, anh phải ra mặt xử lý giúp tôi…” Anh ta vừa nói vừa giật tay áo anh Tứ. Đột nhiên anh Tứ quay phắt người lại, trừng mắt nhìn anh ta. Chủ nhà bất giác giật lùi về sau một bước, miệng lúng búng, “Thực ra cũng chẳng đáng giá là bao…” “Anh vừa nói…”, anh Tứ gấp gáp hỏi, “công ty chuyển nhà sao?” Ngày đầu tiên, thứ Năm, khoảng 1 giờ chiều. Anh Tứ đứng trước cổng khu chung cư nơi Bàng Hiểu Yến đang ở. Để đến được đây, đầu tiên anh phải cảm ơn bà cụ nhiệt tình sống ở ngõ Đinh Tử cùng cô. Bà cụ phát hiện có chiếc xe tải lạ hoắc chuyển đồ từ trong nhà số 9 ra ngoài trong khi chủ nhà không có mặt ở đó. Bà vội gọi đứa cháu mang máy ảnh ra chụp lại, rồi gửi cho chủ nhà. Anh Tứ không mất bao nhiêu công sức đã tìm ra công ty chuyển nhà nọ. Vừa kiểm tra các ghi chép, anh liền biết điểm đến của chuyến vận chuyển đó là số nhà 2808, tòa nhà số 7 khu chung cư Kiến An. Khu chung cu Kiến An là một trong những khu chung cư mới xây dựng, mục đích là để bố trí nơi ăn chốn ở cho người dân khu di dời đến định cư. Nhưng đa phần người dân khu di dời đều không muốn ở đó, họ cho người khác thuê. Anh Tứ vừa đến nơi đã lập tức hiểu ra tại sao họ làm vậy. Khu chung cư chỉ cách một loạt công xưởng lớn nhỏ chưa đến ba trăm mét. Âm thanh máy móc hoạt động ầm vang đến mức đứng trong thang máy vẫn nghe rõ mồn một. “Người ta sản xuất gì thế bác?” Anh Tứ không nén được tò mò, quay sang hỏi ông cụ cùng đi thang máy. “Nghe âm thanh thì chắc là tiếng rèn sắt ở nhà máy số 2, chút nữa chắc máy phun bi sẽ chạy đấy…” Ông cụ lắc đầu. Đến tầng 8, ông cụ bước ra ngoài. Anh Tứ tiếp tục lên tầng cao hơn, trong đầu không khỏi mường tượng xem chút nữa chuyện gì sẽ xảy ra. Rốt cuộc Bàng Hiểu Yến bị làm sao? Thực ra trong lòng anh cũng thầm rõ. Dính vào ma túy, quỹ đạo của đa số dân nghiện đều giống nhau. Hút hít, thành nghiện, tiêm chích, cuối cùng chết vì dùng thuốc quá liều. Anh Tứ cảm thấy chắc đến tám phần, chút nữa kiểu gì cũng phải làm phiền anh Dương. Tiếng “tinh” vang lên, thang máy đã đến tầng hai mươi tám. Bước ra ngoài, anh Tứ lập tức thấy tiếng ồn tăng thêm một cấp độ. Nghe kĩ thì còn thấy tiếng sửa nhà của căn hộ tầng dưới, tiếng máy khoan làm anh bức bối, khó chịu. Anh Tứ bước trên nền xi măng bẩn thỉu trong hành lang dài hun hút. Bụi bay tán loạn giữa không khí, bờ tường dán đầy quảng cáo thông cống, đánh chìa khóa. Trước cửa mỗi căn hộ chất đầy cải thảo tích trữ cho mùa đông hoặc những hũ dưa muối. Căn hộ số 2080 yên tĩnh trấn giữ nơi tận cùng của hành lang. Dường như trên cánh cửa có đánh dấu gì đó nhưng anh không nhìn rõ. Tim anh đập thình thịch. Anh bỗng phát hiện, thì ra không phải mình hoàn toàn không bận tâm đến sự sống chết của Bàng Hiểu Yến. Anh không dám tin có một ngày, số phận của mình lại bị quyết định bởi một kẻ cặn bã hút ma túy mà mình vốn coi thường. Cuối cùng, anh Tứ cũng đến trước cửa. Sau đó anh nhìn thấy một thứ mà anh chưa từng ngờ tới. Một tờ giấy A4. Trên đó viết mấy câu như sau: Có việc gấp phải về quê, chưa kịp báo cho anh. Sau Tết dương lịch sẽ trở lại thanh toán tiền thuê nhà. Rất xin lỗi! Mặt anh Tứ đỏ lên, rồi tái đi. Anh đạp mạnh vào tường, vội vàng bỏ đi. Anh Tứ không biết mình xuống lầu bằng cách nào, chỉ cảm thấy như có ai nhét tổ ong vào đầu mình, đầu óc kêu ong ong, đau buốt. Sự phủ nhận cái tôi cuộn trào đã nhấn chìm anh và cả chút tự tin cuối cùng còn sót lại. Khả năng đơn giản như thế, mọi người đều nghĩ ra, sao mình lại không nghĩ đến? Ngay cả những cảnh sát mới ra trường cũng không gây ra chuyện nực cười thế này, lẽ nào mình thực sự không thích hợp làm cảnh sát nữa? Não mình đúng là hỏng hẳn rồi sao? Lục phủ ngũ tạng của anh đảo lộn như dời non lấp bể, anh Tứ gập mạnh người xuống, bắt đầu nôn khan dữ đội. Tuy không nôn ra thứ gì nhưng anh biết mình buộc phải tìm nơi nào đó trốn tạm. Tình trạng hiện giờ chưa bao giờ xảy ra trước đây… Anh lảo đảo bước về phía trước. Tim đập nhanh như trống trận, mọi thứ trước mắt trở nên mờ nhạt. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu khiến anh Tứ cảm thấy sợ hãi. Mình muốn hít một hơi… Các tòa nhà hai bên rung chuyển như đang trong cơn động đất. Anh lắc đầu thật mạnh nhưng không thể nào rũ bỏ được ý nghĩ tồi tệ đó. Khách đi đường trở nên méo mó trông vô cùng dị hợm, họ trừng đôi mắt to như mắt trâu nhìn anh chằm chằm. Anh Tứ cảm thấy mặt mình hơi ngưa ngứa, lại hơi nong nóng. Anh biết mình đang chảy máu mũi. Anh ôm mặt, lao vào tòa nhà đầu tiên đang mở cửa đón khách mà mình nhìn thấy. “Chứng minh thư…” Tiếng hét gọi của nhân viên quán internet bị bỏ lại phía sau. Anh Tứ loạng choạng bước qua từng dãy bàn vi tính, rồi lao thẳng vào nhà vệ sinh. Anh đóng cửa lại, cởi áo khoác, cắn chặt răng, thầm gào thét. Mặt anh vặn vẹo, mắt mở trừng trừng, nhịp tim lúc nhanh lúc chậm, sắc mặt lúc tím tái, lúc trắng bệch. Phải gắng gượng! Phải gắng gượng! Anh Tứ đấm mạnh vào tường xi măng, nhưng không hề cảm thấy cơn đau giảm nhẹ chút nào. Mỗi kẽ xương toàn thân đều đau nhức, không một tư thế nào có thể khiến cơn đau dịu đi. Anh liên tục đập đầu vào tường. Chỉ một hơi thôi! Chỉ hít một hơi cuối cùng thôi! Khi anh Tứ tỉnh táo lại, anh bắt gặp một luồng sáng chói mắt, hóa ra có người mở cửa phòng vệ sinh. Anh lấy tay che mắt, mơ hồ nhớ ra vừa rồi mình quên chốt cửa. Người mở cửa nhìn thấy cảnh tượng trước mắt liền giật mình hoảng sợ, chửi đổng một câu rồi bỏ đi. Anh Tứ ngồi dậy, không thể nhớ nổi mình đã ngất đi như thế nào, có thể do anh đập đầu vào tường mạnh quá, cũng có thể không phải. Toàn thân anh vẫn đau đớn như trước, anh cũng vẫn buồn nôn như trước, có điều tình hình đã có vẻ biến chuyển, bằng chứng là anh bắt đầu cảm thấy mất mặt, bắt đầu biết nghĩ rằng mình nên len lén rời khỏi đây. Đúng lúc đó, lại có người vào phòng vệ sinh. “Diệp Phi, chứng minh thư của ai thế?” “Của mẹ tôi, nhưng bọn quán internet không để ý đâu.” “Lỡ nhà trường gọi điện về nhà chúng ta thì sao?” “Không đâu! Tôi bắt chước chữ ký mẹ tôi cực giống luôn…” Anh Tứ như hóa đá, sau đó đẩy mạnh cửa xông ra ngoài, tức giận bừng bừng đứng trước mặt hai đứa trẻ. Một trong hai đứa tỏ vẻ sợ sệt, khẽ gọi “Chú ạ!”, sau đó đánh bài chuồn. Đứa còn lại tròn mắt á khẩu, ngạc nhiên đến mức quên cả chạy trốn. “Bố? Sao bố lại ở đây?” “Con… cái thằng này sao không đi học hả?” Anh Tứ giáng thẳng một cú đấm vào ngực con trai ngay trong nhà vệ sinh quán internet, rồi đanh giọng quát mắng, giống như trước kia anh vẫn làm vào mỗi lần hiếm hoi trở về nhà, “Học kỳ sau là thi lên cấp hai rồi mà con không thấy lo lắng gì à?” Diệp Phi cúi đầu không nói, vẻ mặt không hề có ý hối lỗi. “Con trốn học à? Lại giả chữ ký của mẹ xin nghỉ học nữa? Rồi còn lấy trộm chứng minh nhân dân của mẹ? Bố nói cho con biết, con đừng cho rằng đó chỉ là lỗi nhỏ, tích cóp nhiều lỗi nhỏ lại, con sẽ…” Đột nhiên, Diệp Phi cười lạnh một tiếng, ngẩng đầu lên. “Mày nhìn cái gì mà nhìn?” Anh Tứ tức giận, đổi giọng đe dọa, “Tao không được quyền nói mày chắc?!” “Ông có tư cách gì nói tôi?” Diệp Phi đáp trả. Anh Tứ lặng người, tay anh bất giác run lên. “Sao đây? Muốn đánh tôi à?” Anh Tứ không chỉ thấy tức giận, mà còn thấy sợ hãi, vì trong mắt Diệp Phi lấp loáng ánh nước, “Vậy thì ông đánh tôi đi! Cũng đâu phải chưa đánh bao giờ.” Anh Tứ định nói gì đó, nhưng không biết nên nói gì. “Giờ ông cũng biết cần quan tâm đến tôi rồi à? Trước đây ngày nào ông cũng không về nhà, mỗi lần về nhà lại dẫn theo đám bạn chẳng ra gì. Đám người ấy vừa gọi điện thoại đến, ông liền đi ngay, bất kể đang lúc nửa đêm. Nhưng khi tôi và mẹ cần ông, thì chẳng bao giờ thấy bóng dáng ông đâu!” Nước mắt Diệp Phi bắt đầu chảy giàn giụa, “Khi có kẻ ném gạch vào nhà, ông ở đâu? Khi có người đập vỡ hết than tổ ong nhà chúng ta, ông ở đâu? Khi có kẻ gọi điện thoại đến nhà dọa giết tôi, ông ở đâu? Mẹ sợ đến mức suy sụp tinh thần, lúc đó ông ở đâu?” Mặt anh Tứ tím lại, rồi trở nên tái nhợt. Anh cảm thấy nếu cảnh này diễn ra trong phim thì có lẽ đây chính là lúc mình nên vung tay tát con. Nhưng hiện thực rõ ràng không giống như trong phim. Nó lạnh lùng, tàn khốc hơn nhiều, cũng vô lý hơn nhiều. Khi ngồi trước tivi xem phim, người ta có thể cười, có thể khóc. Nhưng khi đối mặt với hiện thực, ngoại trừ giơ tay đầu hàng đầy bất lực, ta chẳng còn lựa chọn nào khác. “Con được lắm… Con được lắm…” Mọi thứ trước mắt anh trở nên mơ hồ, anh giơ tay chỉ về phía con trai, môi run rẩy lẩm bẩm lặp đi lặp lại ba từ đó. Cuối cùng, anh chỉ biết trơ mắt nhìn con trai quay người bỏ đi. Nhìn bóng lưng của nó, anh không thốt nên được lời nào. Cảm giác lúc này tựa như nhìn thấy lưỡi mình bị rớt xuống nước, càng lúc càng trôi xa. Anh Tứ đứng thần người trong nhà vệ sinh rất lâu mới ra ngoài. Anh đến chỗ nhân viên quán internet đăng ký thuê một máy, sau đó anh bật máy tính lên và bắt đầu gõ chữ. Mắt anh hoe đỏ. Mở đầu là hai chữ viết lớn: Di chúc. Anh đã chán thực sự rồi, anh quyết định không kéo dài thêm nữa. Kéo dài để làm gì? Còn hy vọng gì nữa đâu? Cho dù được tham gia vào vụ án lớn này, thì với tình trạng sức khỏe hiện tại của bản thân, anh có thể phá án nổi sao? Không làm cảnh sát thì còn gì đáng sống nữa? Vợ cũ đã tái giá, con trai không nhận cha. Đồng nghiệp ai ai cũng coi thường, hàng xóm thì thầm bàn tán những tin đồn thất thiệt sau lưng anh. Hết rồi! Hết tất cả rồi! Anh Tứ gõ bàn phím rất mạnh, như thể muốn trút xả hết nỗi phẫn uất và không cam lòng. Anh thấy mình hận tất thảy mọi người, bởi vậy anh không hề viết tên người nhận trong bản di chúc, mà đi thẳng vào vấn đề chính. Trong thẻ ngân hàng còn năm ngàn tệ, mật mã là… Nếu kết quả thi lên cấp hai của Diệp Phi không ổn thì đi cậy nhờ Đội trưởng Hùng. Đội trưởng Hùng có người quen làm trong trường Trung học Cửu An. Giấy tờ nhà để ở ngăn kéo thứ hai của tủ ngăn kéo, thò tay sờ phía trên là thấy… Anh Tứ vừa viết vừa dừng, những việc anh dặn dò người ở lại hết sức vụn vặt, đều phải dừng lại để nghĩ. Viết hồi lâu, anh ngồi đọc lại mới phát hiện ra mình mới viết chưa hết một trang. Anh Tứ thấy những con chữ màu đen hiện trên màn hình ít ỏi đến mức đáng thương, đột nhiên anh cảm thấy thật hoang đường. Cuộc đời anh dài như thế, bỏ ra bao nhiều tâm huyết như thế, trải qua bao nhiêu niềm vui và nỗi buồn như thế, mà sao cuối cùng chỉ còn sót lại chừng này thứ? Anh không cam tâm nên lại viết tiếp. Lần này, anh muốn nói vài điều khác ngoài chuyện tiền bạc. Dẫu sao cũng từng là vợ chồng, tôi nợ mẹ Diệp Phi rất nhiều. Nghĩ lại những ngày đã qua, trong những lần chúng ta cãi nhau thì phần lớn mẹ Diệp Phi đều nói có lý, chỉ trừ lần đó… Anh Tứ càng viết càng thấy nôn nóng. Tuy đã sớm biết khả năng gõ máy tính của mình kém, nhưng không ngờ tốc độ đánh máy lại chậm đến mức ngay bản thân cũng không thể chịu nổi… Lúc này, anh mới để ý tay trái của mình đang chảy máu. Có lẽ khi nãy đập tay vào tường mạnh quá nên bị thương, thảo nào nhấn phím máy tính lại khó khăn như thế. Đột nhiên, một ý nghĩ chợt xẹt qua đầu anh: Mình chỉ bị thương nhẹ mà gõ chữ còn mất sức thế này, trong khi Bàng Hiểu Yến có một cánh tay giả, liệu cô ấy có thể gõ chữ được không? Lần này, anh Tứ đã rút kinh nghiệm từ bài học lần trước, trước tiên gọi điện đến Bệnh viện số 2, xin số điện thoại của bác sĩ Hạ để nhờ tư vấn. Kết quả, đối phương lại cho anh câu trả lời nước đôi: về mặt kỹ thuật thì chắc không có vấn đề gì, cái chính là xem mức độ luyện tập của từng người. “Vậy thông thường cần luyện tập bao lâu mới gõ được máy tính bằng tay giả?” “Khoảng một năm đến hai năm…” Anh Tứ ngắt điện thoại, ngẩng đầu lên ngẫm nghĩ một lát, sau đó đứng dậy, đi về phía quầy thu ngân. “Khởi động lại máy là được…” Nhân viên quán internet trả lời mà không buồn ngẩng đầu lên nhìn khách. Anh Tứ rút thẻ cảnh sát đập xuống bàn. Nhân viên quán internet vừa ngẩng đầu liền nhảy dựng lên như bị giật điện. “Quán chúng tôi không có trẻ vị thành niên, chúng tôi đã kiểm tra tất cả các chứng minh thư rồi mà…” Trong tay anh Tứ có ngay một trường hợp vi phạm: Diệp Phi. Có điều giờ anh không còn tâm trạng để truy cứu việc này. “Tôi muốn hỏi thăm thông tin một người…” Anh miêu tả hình dáng của Bàng Hiểu Yến, nhân viên quán internet liền gật đầu xác nhận. “Đúng rồi! Cô ấy từng đến đây, hay ngồi ở góc nhỏ đằng kia kìa… Cô ấy khá xinh đẹp, có điều tay lại…” “Cô ấy đến đây làm gì?” Anh Tứ phấn chấn hỏi. “Tôi không đặc biệt chú ý đến cô ấy.” Cậu nhân viên nhìn trước ngó sau rồi nói, “Nhưng tôi nhớ mỗi lần cô ấy đến đều thích ngồi ở góc nhỏ đằng kia, không gọi đồ uống gì cả, ngồi khoảng hai, ba tiếng là đi…” “Thế mà gọi là không đặc biệt chú ý à?” Anh Tứ hỏi vặn lại theo thói quen nghề nghiệp. “Vì cô ấy thường xuyên đến đây mà. Gần như ngày nào cũng đến xem phim, trò chuyện, lướt web. Chắc nhà cô ấy không có máy tính… Hầy, nhưng dạo này không thấy cô ấy đến nữa, chẳng rõ có phải đã chuyển đi nơi khác rồi không?” Trò chuyện… Anh Tứ thấy thất vọng tràn trề. Xem ra cô có thể gõ chữ trên máy tính. Lại phỏng đoán sai rồi. “Anh tìm cô ấy có việc sao?” Cậu nhân viên thận trọng hỏi dò. “Không có gì!” Anh Tứ lắc đầu, “À… vậy… tôi có một văn bản cần in ra, máy số 15…” “Ngại quá”, cậu nhân viên cười nịnh, “máy in chỗ chúng tôi hỏng rồi.” “Hỏng rồi?” “Không giấu gì anh, thực ra nó không dùng được từ lâu rồi.” Cậu nhân viên nói nhỏ, “Một số khách thao tác sai, gửi nhầm đến máy in, có lần không để ý đã in ra hơn trăm trang. Ông chủ bực mình nên đã tháo hộp mực máy in ra rồi.” Đột nhiên, anh Tứ thấy một suy nghĩ thấp thoáng ẩn hiện trong đầu, nhưng nhất thời chưa nắm bắt được. “Thế quanh đây có quán nào có máy in không?” “Khó đấy! Quanh đây không có quán nào đâu, anh phải ngồi xe buýt tới trạm tiếp theo, đến trung tâm thương mại mới có…” Cậu nhân viên nghĩ một lát mới nói tiếp với vẻ không chắc chắn, “Nơi này vắng vẻ lắm, trước kia có một cửa hàng bán điện thoại ở gần đây, họ có máy photocopy và máy in, nhưng năm ngoái cửa hàng đó đóng cửa rồi…” “Khi nãy cậu bảo là ‘cô ấy trò chuyện’…” Anh Tứ chăm chú suy ngẫm hồi lâu, mãi mới chậm rãi nói, giọng điệu như thể vừa uống say, “Sao cậu biết lúc đó cô ấy đang trò chuyện?” “Tôi…” Cậu nhân viên lơ mơ không hiểu hàm ý trong câu hỏi của anh. “Cô ấy cười to như thế, còn bị người khác phàn nàn, đương nhiên là tôi phải biết cô ấy đang trò chuyện chứ…” “Không phải cô ấy trò chuyện thông qua gõ chữ sao?“ “Không, cô ấy toàn trò chuyện thông qua Voice Chat thôi, đâu có gõ chữ… Tôi chưa thấy cô ấy gõ chữ bao giờ.” Tim anh Tứ đập dữ dội. Mang tâm lý đánh cược, anh đưa ra câu hỏi cuối cùng. “Máy in của quán các cậu bị hỏng bao lâu rồi?” “Hai năm rồi.” Anh Tứ quay người lao ra khỏi quán internet, chạy về phía nhà của Bàng Hiểu Yến. Cô không thể gõ chữ, nhà cô không có máy tính, quanh khu chung cư không có máy in… Nếu cô cần về quê gấp thì sao không để lại giấy nhắn viết tay? Như thế chẳng phải sẽ tiện hơn nhiều sao? Vậy tờ giấy dán trên cửa nhà cô từ đâu mà có?! Ngày đầu tiên, thứ Năm, khoảng 3 giờ chiều. Cánh cửa phòng 2808 mở rộng, mùi hôi thối quen thuộc xộc thẳng vào mũi, khiến chủ nhà cầm chìa khóa đứng cạnh anh Tứ suýt nôn thốc nôn tháo. “Mùi gì vậy?” “Mùi máu.” Anh Tứ đáp. Vẻ mặt bác sĩ pháp y Tiểu Hạ rất mệt mỏi, anh không buồn đeo khẩu trang, đi thẳng vào trong phòng. Anh Tứ nối gót theo sau. Thật không hiểu khu chung cư này thông qua khảo sát về ánh sáng nhà ở bằng cách nào, anh thấy mấy tòa nhà này còn kín mít hơn cả gia trang. Ban ngày ban mặt mà trong phòng khách tối lờ mờ như lúc chiều muộn. “Có vẻ đây là hiện trường đầu tiên của vụ án.” Tiểu Hạ chỉ xuống sàn nhà. Anh Tứ thấy có vết máu kéo lê. Dấu vết này dừng lại ở chính giữa phòng khách, xoay tròn, rồi lại tiếp tục kéo dài. Đẩy cửa phòng ngủ ra, một mùi thối còn nồng nặc hơn cả ở phòng khách xộc tới khiến anh suýt tắt thở. “Bật đèn lên!” Tiểu Hạ bình thản nói. Dưới ánh sáng trắng chói mắt, cảnh tượng trước mắt khiến anh thảng thốt. Trên tường, dưới sàn nhà ngập tràn vết máu, góc tường chỗ cánh cửa bị nhuộm thành màu đỏ cam của máu. Trên bức tường, nơi cách sàn nhà chừng một mét có một hàng số viết bằng máu rất rõ ràng: 666666. Ai cũng từng chần chừ khi đứng ở bìa khu rừng bí mật. Lau mồ hôi, nhìn bầu trời, tính toán khoảng cách giữa mặt trời và đường chân trời. Để rồi cuối cùng họ vẫn quả quyết bước vào rừng. Bởi vì với phần lớn đàn ông, do dự không dám bước vào bóng tối là hành vi hèn nhát, đáng sỉ nhục. (Trích: Bãi săn người) Chương 2: TRUY BẮT Ngày đầu tiên, thứ Năm, 3 giờ chiều. Anh Tứ đứng trước tủ quần áo, bần thần nhìn vào chiếc gương nhỏ gắn trên tủ. Trong gương hiện ra hình ảnh một người lạ hoắc với sắc mặt tái nhợt, phù thũng, nom già hơn tưởng tượng của chính mình cả chục tuổi. Anh Tứ lắc đầu. Anh không ngờ mình phải giương mắt nhìn bản thân bị thời gian nuốt chửng trong khi còn đang sống. Không phải cảnh sát nào cũng được cấp phát tủ quần áo giống như anh, trước đây, chỉ có thành viên Trung đội Tình báo mới có được đãi ngộ này, bởi vì họ thường xuyên phải cải trang để nằm vùng, thâm nhập vào các băng nhóm cần theo dõi. Giờ đây, Trung đội tình báo không còn nữa, nhưng mọi người cũng ngại nhắc anh Tứ thu dọn đồ dùng cá nhân trong tủ. Thực ra họ nên làm vậy, bởi vì trong tủ là những tư trang đáng giá nhất của anh Tứ. Anh Tứ lấy chiếc hộp gỗ nhỏ trong tủ, mở nó ra, quả nhiên bên trong có ba món đồ lấp lánh ánh vàng chói mắt - sợi dây chuyền vàng, nhẫn vàng và đồng hồ vàng. Đây là các món trang sức cơ bản của nhân viên tình báo. Không có mấy món này thì trông chẳng giống người lăn lộn trong giới giang hồ. Trong ba món này, chỉ có đồng hồ là mạ vàng, còn hai món kia đều là hàng thật, không những vậy còn do anh tự bỏ tiền túi ra mua. Đương nhiên anh cũng có thể chọn cách không cần tự móc ví mình, mà viết đề xuất xin sử dụng những món đồ phi pháp chưa rõ nguồn gốc do sở cảnh sát đang thu giữ. Nhưng tất cả những người làm nghề này đều chê làm vậy sẽ mang lại vận rủi, nên họ thà nghiến răng bỏ tiền túi ra mua còn hơn. Anh Tứ cởi áo, đeo ba món trang sức lên người, đeo thêm cặp kính râm, trong gương hiện ra rõ ràng hình ảnh của một gã trọc phú mới nổi rất điển hình. Điểm không giống duy nhất chính là những vết thương chằng chịt khắp cơ thể anh. Những vết dao chém với độ nông sâu khác nhau vắt ngang dọc khuôn ngực, mạng sườn và cánh tay. Anh Tứ không kìm được, giơ tay vuốt ve từng vết thương. Phần lớn các vết thương đều giống như nham thạch đã đông cứng, sờ vào không còn cảm giác. Nhưng một vài vết thương vẫn đau buốt, tê ngứa giống như cảm giác lúc anh điều tra vụ án Bàng Hiểu Yến hồi ban chiều. Một tòa nhà lớn như vậy mà hàng xóm trái phải đều không hề có ấn tượng gì về cô. Thậm chí họ còn không hề có ấn tượng ngôi nhà bên cạnh có người ở hay không. “Anh hỏi xong chưa? Tôi còn phải đi làm ca tối.” Đó là câu trả lời dài nhất mà anh nhận được. Anh Tứ cũng không thể giải thích nổi vì sao mình lại muốn tiếp nhận vụ án này. Vốn là Lý Kinh Vũ đã cử Tiểu Tề và Tiểu An đến đón mình, nhưng anh cứ khăng khăng đòi ở lại tiếp tục điều tra vụ án Bàng Hiểu Yến như bị ma nhập. Bất kể cân nhắc thế nào thì đây vẫn là quyết định không có lợi cho anh. Người chết là một cô gái hít ma túy, phá được vụ án này cũng chẳng thể lập nên công trạng lớn lao gì, rất có thể không giúp anh thay đổi được số phận. Nhưng trong sâu thẳm nội tâm anh lại nảy sinh một thôi thúc khiến anh không thể không đưa ra lựa chọn này. Một cô gái đang yên đang lành bỗng nhiên lại chết, hơn nữa còn chết ngay trong chính nhà mình. Máu cô chảy cạn, hòa trộn với bụi bẩn trên sàn nhà thành bùn, rất có thể thi thể đã bị phân tách, ném ở bãi rác nào đó chẳng ai biết đến, rồi từ từ phân hủy, mặc cho dòi bọ làm tổ. Tất cả những điều này đã xảy ra bao lâu rồi mà chẳng ai hay biết, chẳng ai bận tâm. Nhiều khả năng là người nhà đã bỏ mặc cô, không ai đến tìm cô. Bạn bè cũng bỏ mặc cô, không một ai đi trình báo cô mất tích. Cô cũng không hề qua lại với hàng xóm. Thú vui duy nhất của cô là vào các trang mạng rẻ tiền, người quen duy nhất của cô là các nhân viên quán internet Nguyện vọng duy nhất của cô là được hít một hơi thuốc phiện hoặc tiêm một mũi Pethidine. Ước mơ duy nhất của cô là cai nghiện thành công, nhưng dẫu trong mơ cô cũng biết điều này không thể xảy ra… Cô biến mất khỏi thế giới này như thể chưa từng tồn tại, chẳng một ai quan tâm. Anh Tứ biết rõ tâm trạng của anh lúc này được gọi là “mèo khóc chuột”. Một người đang sống khỏe mạnh bỗng dưng nghiện ma túy, lúc sống luôn phải đứng thấp hơn mọi người một bậc, đây gọi là tự làm tự chịu, nhưng lẽ nào chết rồi cũng vẫn phải chịu phận nằm thấp hơn mọi người một bậc sao? Anh Tứ chìm đắm trong suy nghĩ hồi lâu, đột nhiên anh bừng tỉnh: Mình cởi áo làm gì nhỉ? Chiếc áo phông màu đỏ luôn được giặt sạch sẽ treo trong tủ đã nói cho anh biết đáp án - đây là thói quen mà anh nhiễm từ vợ cũ. Cô ấy nói khi đi làm nhiệm vụ thì nên mặc màu đỏ cho may mắn, hơn nữa vào thời khắc then chốt sẽ giúp anh được bình an. Anh Tứ cười thảm, vứt chiếc áo trở lại, đóng tủ đánh “rầm” một tiếng thật mạnh như muốn thể hiện quyết tâm sẵn sàng tử vì nghiệp. Tôi sống, các người có thể coi thường tôi, nhưng khi chết rồi, tôi muốn các người phải ngước mắt lên mà nhìn tôi. Anh cúi đầu do dự hồi lâu, rồi lại mở tủ ra. Lần này, anh khóa cả hộp súng lại. Ngày đầu tiên, thứ Năm, 6 giờ tối. Lúc anh Tứ đến Học viện Nghệ thuật thì trời đã ngả về chiều. Giữa cái lạnh buốt giá của mùa đông, một số cô gái vẫn “kiên cường” mặc váy khiến quang cảnh trường học trông mơn mởn sắc xuân. Không có nhân chứng, còn vật chứng chỉ là những dấu vân tay mờ nhạt và hàng chữ bằng máu viết trên tường. Camera của khu chung cư chỉ lưu giữ được dữ liệu trong vòng mười ngày. Trong mười ngày này, ngoại trừ bốn ngày đầu camera bị hỏng, thời gian còn lại chỉ thấy nhân viên chuyển phát và nhân viên phát tờ rơi xuất hiện ở cửa chung cư. Họ dừng lại một chút rồi vội vã rời đi, hệt như sinh mệnh ngắn ngủi của Bàng Hiểu Yến vậy. Thứ duy nhất giúp ích cho anh Tứ chính là một số đặc trưng cơ bản tại hiện trường. Không có dấu vết phá cửa, cửa sổ nguyên vẹn, khóa cũng không bị hư hỏng, khu vực gần cánh cửa không có dấu vết vật lộn. Rất có khả năng hung thủ là người quen của nạn nhân. Mà đối tượng duy nhất có mối quan hệ xã hội với nạn nhân chính là những người thuộc Học viện Nghệ thuật. Vì anh Tứ đã gọi điện trước khi đến nên Chủ nhiệm khoa đón tiếp anh rất nhiệt tình, mời anh ngồi, bắt tay, rót trà, sau đó cẩn trọng hỏi anh lí do chuyến viếng thăm. “Bàng Hiểu Yến?” Chủ nhiệm khoa tỏ vẻ hơi bất ngờ khi nghe thấy tên này, “Em ấy thế nào?” “Không có chuyện gì nghiêm trọng cả.” Anh Tứ nhấp ngụm trà, nói tiếp, “Có vài chuyện muốn tìm cô ấy để hiểu thêm tình hình thôi.” “Em ấy không còn liên quan gì đến trường chúng tôi nữa.” Chủ nhiệm khoa vội vàng rũ bỏ mối quan hệ, “Em ấy bị đuổi học từ lâu rồi.” “Cô ấy bị đuổi từ khi nào? Sao lại bị đuổi?” Chủ nhiệm khoa cầm tập hồ sơ, lật tìm một lát. “Anh xem, ở đây có ghi lại này, gần ba năm rồi.” Chủ nhiệm khoa đưa tập hồ sơ cho anh Tứ, tháo kính lão ra, thở dài, “Thật tiếc cho em ấy! Em ấy vốn là người thật thà, thành tích học tập cũng khá, điểm chuyên cần rất tốt, không như các nữ sinh khác… lúc ở ngoài trường toàn… Anh cũng hiểu đấy… Nhưng một hôm, khi giáo viên hướng dẫn gặp em ấy để bàn về chuyện xin tiền trợ cấp, em ấy đột nhiên gào thét như phát điên, rồi lăn ra ngất xỉu. Đưa vào bệnh viện kiểm tra thì phát hiện là ma túy đá…” Anh Tứ giở hồ sơ. Xuất thân từ nông thôn, sinh viên khoa Diễn xuất, trọ ở ký túc xá. “Làm sao liên lạc được với người nhà của cô ấy?” “Đáng tiếc chính là ở chỗ đó.” Chủ nhiệm khoa gõ nhẹ lên mặt bàn, “Bố em ấy mất sớm, mẹ đột nhiên mắc bệnh tâm thần khi em ấy bước vào năm thứ nhất. Bởi vậy, khi làm thủ tục đuổi học, chúng tôi cố gắng làm kín đáo nhất có thể. Chúng tôi nói với các sinh viên khác là em ấy xin thôi học để đi chữa bệnh.” Anh Tứ buông hồ sơ xuống, suy nghĩ điều gì đó. “Có phải em ấy… à… ừm… đã phạm phải tội gì không?” Chủ nhiệm tươi cười dò hỏi, “Khi công bố với công chúng, liệu có thể đừng nêu tên học viện của chúng tôi ra không? Quả thực em ấy không còn…” “Cô ấy không còn liên quan gì đến quý nhà trường nữa”, anh Tứ nhìn Chủ nhiệm khoa với vẻ mặt vô cảm, “có điều những bạn học cùng ở ký túc xá với cô ấy chắc hẳn vẫn chưa tốt nghiệp đâu nhỉ?” Hai mươi phút sau, cánh cửa văn phòng được đẩy ra, vài cô gái bước vào. Cô nào cũng trang điểm đậm, xinh đẹp như hoa như ngọc. Anh Tứ đột nhiên nảy sinh suy nghĩ nếu họ phải kết thúc sinh mệnh ngay lúc thanh xuân phơi phới thế này thì quả là đáng tiếc. “Bàng Hiểu Yến à? Khi còn ở ký túc xá, cậu ấy là người khá thành thật.” Cô gái thứ nhất lên tiếng với giọng Bắc Kinh chuẩn, “Hồi học năm nhất, cậu ấy rất hướng nội, ít nói. Khi chúng tôi bàn tán về mỹ phẩm, về bạn trai, cơ hội đóng phim này nọ thì cậu ấy chỉ lẳng lặng lắng nghe, không bao giờ xen lời…” “Đúng đúng, khi chúng tôi xem phim Hàn, cậu ấy cũng chẳng mảy may hứng thú.” Một cô gái khác nhuộm tóc màu hồng tiếp lời, “Cậu ấy chỉ thích ôm điện thoại lên mạng thôi.” “Lên mạng trò chuyện sao?” Đột nhiên anh Tứ thấy hứng thú với đề tài này. “Không phải”, cô gái nhuộm tóc hồng đáp, “cậu ấy đọc tiểu thuyết, tiểu thuyết online.” “Có một bộ tiểu thuyết đang rất thịnh hành hồi đó, trang bìa tối thui, lại rất nhiều tập, tên là gì ấy nhỉ…” Cô gái có gương mặt bự phấn góp chuyện. “Đúng rồi! Cậu ấy còn thức đêm xem suốt một học kỳ, đến nỗi phải thay cặp kính cận khác.” “Cô ấy có mối quan hệ đặc biệt tốt với ai không? Có mở lòng tâm sự với ai không?” Anh Tứ hỏi. Các cô gái đều lắc đầu. “Khoa chúng tôi là khoa Diễn xuất mà”, các cô gái lại nhao nhao thừa nhận, “nên có mấy ai thích đọc sách đâu… Cũng chẳng có đề tài nào chung mà nói chuyện với cậu ấy cả.” “Thế bạn trai thì sao?” Mấy cô gái lại đưa mắt nhìn nhau, lần lượt lắc đầu. “Chưa bao giờ thấy cậu ấy nhắc đến bạn trai.” Cô gái mặt bự phấn nói, “Thỉnh thoảng chúng tôi cũng trêu chọc, khuyên cậu ấy tìm một bạn trai thật nhiều tiền hay tìm cơ hội giành được vai diễn trong bộ phim nào đó đi, nhưng cậu ấy chỉ ngồi nghe, không thể hiện thái độ gì cả. Hình như chưa bao giờ cậu ấy đi qua đêm, không về ký túc xá.” Cô gái mặt bự phấn nghiêng đầu nhớ lại, sau đó đưa mắt ra hiệu với mấy cô gái còn lại, cuối cùng bất lực thừa nhận. “Nói thật, chúng tôi không hiểu nhiều về chuyện của cậu ấy.” “Cậu ấy không… không mấy thân thiết với chúng tôi.” Anh Tứ nhìn trần nhà, im lặng hồi lâu. Chủ nhiệm khoa đành ho một tiếng tỏ ý nhắc nhở. “Đồng chí cảnh sát, đồng chí còn vấn đề nào muốn hỏi nữa không?” Vừa nghe thấy hai từ “cảnh sát”, mặt các cô gái đều biến sắc. “Bàng Hiểu Yến… cậu ấy xảy ra chuyện rồi sao?” “Không… không có chuyện gì hết.” Anh Tứ buột miệng đáp lấy lệ, rồi đứng dậy, cáo biệt ra về. Anh Tứ lơ đễnh thả bước trong khuôn viên trường. Dưới ánh hoàng hôn vàng vọt dễ khiến người ta tuyệt vọng của ngày giữa đông này, các sinh viên cúi đầu hối hả rảo bước. Đa số họ đều hướng về phía nhà ăn. Khí lạnh quả thực ẩm thấp đến mức có thể vắt ra nước, hoặc cũng có thể vì trời đang bắt đầu lây phây mưa. Anh Tứ ngồi bên vườn hoa, trong đầu toàn nghĩ về cô gái mà anh vừa biết tên Bàng Hiểu Yến. Xuất thân nông thôn, tính cách hướng nội, nhỏ nhẹ, thích đọc sách. Chưa có bạn trai. Điều gì có thể khiến một người như thế đi đến bước đường nghiện ma túy được chứ? Anh Tứ bước vào phòng bảo vệ, ký tên vào sổ đăng ký rồi bước ra khỏi trường. Màn đêm bắt đầu buông xuống. Trong không khí phảng phất mùi khói xe hòa lẫn mùi thịt nướng, anh Tứ nhìn xe cộ đi lại như mắc củi trên đường phố, bắt giác không biết mình nên đi đâu về đâu. “Ấy!” Chợt có tiếng gọi với sau lưng. Anh Tứ quay người lại, thấy một cô gái mặc áo lông màu xanh đang đi về phía mình, anh không chắc cô ấy gọi mình nên chỉ tay vào ngực tỏ ý hỏi: Tôi sao? “Đúng vậy! Tôi muốn gặp chú.” Có vẻ cô gái đó vừa mới chạy xong nên giờ trán còn lấm tấm mồ hôi, “Tôi là Tiểu Hàn, bạn cùng phòng với Bàng Hiểu Yến.” “Ồ!” Anh Tứ bắt tay cô gái, “Sao khi nãy tôi không nhìn thấy cô nhỉ?” “Tôi ra ngoài đóng phim, vừa mới về. Sinh viên năm tư mà, chuyện thường ngày…” Chắc Tiểu Hàn chạy một mạch đến đây nên lúc này đang thở dốc, chống hai tay vào hông cho đỡ mỏi, “Các cậu ấy nói chú là cảnh sát phải không? Chú muốn tìm Hiểu Yến? Có chuyện xảy ra với cậu ấy rồi sao?” “Cô biết chuyện gì đó và muốn nói với tôi sao?” Anh Tứ không trả lời mà hỏi vặn lại, “Thật ra Bàng Hiểu Yến có bạn trai phải không?” “Hả? Ai bảo vậy? Không phải đâu!” Tiểu Hàn lắc đầu “Chuyện là thế này… Hồi học năm nhất, có một dạo được nghỉ học mấy ngày, các sinh viên khác đều về quê hoặc đi chơi, chỉ còn mình tôi và Hiểu Yến ở lại ký túc xá. Buổi tối hôm ấy, cậu ấy trở về nói với tôi rằng cậu ấy rất sợ hãi vì phát hiện có người bám theo mình…” Anh Tứ lập tức dỏng tai lắng nghe. “Ai vậy? Cô ấy có nói không?” “Có, một nhân viên bảo vệ. Đó là một gã khốn, thường nhìn chằm chằm con gái người ta, hình như còn lấy máy ảnh chụp trộm nữa. Chúng tôi đều ghét gã…” “Sau đó thì sao? Anh ta có làm chuyện gì quá đáng hơn không?” Anh Tứ hỏi. “Gã mà dám?!” Tiểu Hàn tỏ vẻ khinh thường, “Khi đó, tôi liền gọi bà quản lý ký túc xá đến, rồi cùng Hiểu Yến đi tìm gã đó, mắng cho gã một trận. Đương nhiên gã đó không dám thừa nhận, nhưng chắc chắn gã cũng tởn chúng tôi, từ đó về sau không dám quấy rối Hiểu Yến nữa.” “Hiện giờ anh ta ở đâu?” Cuối cùng cũng tìm ra nghi phạm đáng quan tâm, anh Tứ hơi kích động. “Không rõ, sau khi xảy ra chuyện này một thời gian ngắn thì gã bị đuổi việc.” Tiểu Hàn chợt hạ giọng, “Chú phải hỏi Chủ nhiệm khoa ấy. Người ta đồn rằng gã là người nhà ở quê của Chủ nhiệm. Hiểu Yến và các bạn cùng phòng đều biết chuyện này, nhưng không dám nói trước mặt Chủ nhiệm…” “Cô không sợ sao?” “Tôi không sợ, gã dám động vào tôi thử xem… Tôi sẽ nói với cậu tôi… Có điều chú cũng đừng nói cho ông ấy biết tôi kể với chú chuyện này…” “Yên tâm”, anh Tứ mỉm cười, “ông ấy cũng không rảnh quan tâm đến chuyện này đâu.” Khi trời tối hẳn, cuối cùng mưa cũng đổ xuống như trút. Những giọt nước nặng hạt rơi lộp độp trên mui xe, nghe chẳng khác nào tiếng trống trận vang lên giữa khu rừng âm u. Thông thường, người ta không thích những đêm mưa mùa đông, nhưng anh Tứ là trường hợp ngoại lệ. Đối diện với ánh mặt trời rạng rỡ, anh lại tự cảm thấy hổ thẹn, e dè, cảm thấy hồn lìa khỏi xác. Chỉ khi trời âm u, mưa lớn, anh mới cảm thấy mình hòa hợp với thế giới bên ngoài, tinh thần mới phấn chấn hơn đôi chút, mới dám đi lang thang. “Trước đây, hồi còn ở nông thôn, bố tôi nợ ân tình người ta, giờ cuối cùng tôi đã trả được món nợ ân tình này rồi…” Người nói câu này là Chủ nhiệm khoa của Học viện Nghệ thuật. Ông ta đang ngồi ở ghế phụ lái, mặt mũi ỉu xìu. Trước đó một lúc, anh Tứ quay lại phòng Chủ nhiệm khoa khiến ông ta suýt hết hồn, ông ta đã khai thật mọi chuyện. “Tôi thề với trời đất, tôi không hề quen biết cậu ta, cậu ta gây ra chuyện mất mặt như thế ở trường, tôi đã trực tiếp đuổi cổ cậu ta ra khỏi trường.” Chủ nhiệm khoa quay đầu về phía anh, lặp đi lặp lại câu đó vô số lần. Anh Tứ lạnh nhạt nghe ông ta nói. Anh nhìn qua cửa kính xe, thầm đánh giá về thế giới tối thui và ẩm ướt bên ngoài. Khu chung cư này cách nơi ở của Bàng Hiểu Yến khá xa, nhưng thế cũng chưa nói lên được điều gì… “Cùng tôi đi nhận diện anh ta nào!” Anh Tứ mở cửa xe. Chẳng ngờ Chủ nhiệm khoa lại nhảy dựng lên. “Không được! Không được! Chẳng phải tôi vừa nói rồi đấy sao? Nhà cậu ta có ơn cứu mạng với bố tôi, chuyện tôi đưa anh đến đây mà để cậu ta biết thì không ổn chút nào. Hơn nữa hai nhà chúng tôi đều biết gốc rễ ngọn nguồn của nhau, lỡ cậu ta muốn báo thù thì nhà tôi…” Đầu anh Tứ bắt đầu đau buốt. Anh Tứ xua tay, ngăn những lời biện bạch của Chủ nhiệm khoa. “Anh đợi ở đây.” Nói đoạn, anh Tứ xuống xe một mình. Nước mưa táp mạnh vào mặt, dội lên đầu, chảy xuống cổ, luồn sâu vào trong áo. Đường phố quạnh quẽ, chỉ có cột đèn đường bị hỏng, chập chờn lúc sáng lúc tối. Phía trước không xa có ánh đến yếu ớt tỏa ra từ phòng thường trực của bảo vệ. Anh Tứ kéo vạt áo chặt hơn, chầm chậm bước về phía đó. Cửa kính của phòng bảo vệ dán giấy bóng kính mờ nên anh chưa nhìn rõ trong phòng có người hay không. Anh Tứ gõ cửa mấy lần nhưng chẳng thấy ai trả lời, thế là anh đẩy cửa bước vào. Căn phòng này không lớn lắm, nhưng vẫn tốt chán so với phòng bảo vệ ở đồn cảnh sát mà anh từng làm trước đây, ít nhất tường xi măng dày dạn hơn, cửa sổ kín hơn. Dưới ánh sáng của bóng đèn treo vàng nhợt, anh thấy trong phòng có một chiếc bàn, một chiếc ghế xoay, một chiếc sofa cũ và một chiếc tủ nhỏ. Trên bàn đặt màn hình tivi hiển thị các hình ảnh ghi lại qua camera. Ngoại trừ đồ đạc, trong phòng tịnh không một bóng người. Có lẽ nhân viên bảo vệ đang đi vệ sinh hoặc đi mua cơm. Anh Tứ nghĩ vậy. Đầu anh trở nên đau dữ đội. Anh Tứ bước đến bên cạnh sofa, ngồi thụp xuống, vùi đầu vào giữa hai gối, nhắm mắt nghỉ ngơi. Sau đó, anh nghe thấy tiếng động nhỏ. Tách! Tách! Anh Tứ đưa tay lên sờ, quả nhiên máu mũi đang tuôn ra như vòi nước. Triệu chứng này cho anh biết “bạn cũ lại viếng thăm”. Một dòng dịch lỏng nóng bỏng như đang quằn quại chui ra từ trong tim, mang theo nỗi đau đớn phun trào khắp tứ chi bách hài. Anh thấy chỉ trong chốc lát, mọi thứ đều trở nên tròng trành, mờ ảo. Anh cắn chặt môi đến chảy máu để cố kiềm chế phát ra tiếng rên rỉ. Đầu óc gần như không thể suy nghĩ được gì, điều duy nhất vang vọng trong não anh chính là câu nói đơn giản đó. Một hơi… chỉ hít một hơi thôi! Giữa lúc đang vật vã trong cơn đau đớn, anh nghe thấy tiếng chân vọng đến ngày một gần. Có người! “Anh làm gì ở đây?” Anh ngẩng phắt lên, nhìn thấy người đang nói chuyện với mình có dáng vẻ giống như nhân viên bảo vệ. Anh Tứ cảm thấy hơi hoảng. Đột nhiên anh cảm thấy mình đã hiểu ra nguyên nhân khiến các đồng đội, đồng chí lại không tin tưởng mình. Nếu là anh, thì e rằng anh cũng không dám giao việc lớn cho một người có thể chuyển sang trạng thái co giật bất cứ lúc nào. “Cảnh sát!” Anh Tứ vã mồ hôi lạnh, cảm giác khó chịu càng rõ nét hơn. Cuối cùng anh cũng khống chế được bàn tay đang run rẩy, chìa thẻ cảnh sát ra trước mặt anh ta, “Anh là Lưu Trường Thắng phải không?” Đối phương không đáp. Lúc này, anh Tứ mới phát hiện có thứ gì đó trượt ra khỏi túi mình, rơi xuống đất trong lúc anh lên cơn nghiện. Đó là những bức ảnh chụp cảnh hiện trường và ảnh thẻ học sinh được gài trên tập ảnh của Bàng Hiểu Yến bằng kẹp ghim. Nhân viên bảo vệ nhìn chằm chằm vào mấy bức ảnh đẫm máu. Anh Tứ vội vàng cúi xuống nhặt xấp ảnh lên. “Tôi trực ca tối cùng Lưu Trường Thắng, tôi họ Hà…” Bấy giờ, anh ta mới sực tỉnh. “Có người nói với tôi anh ta trực tối nay.” Anh Tứ nghiêm mặt, “Chẳng lẽ tối nay anh ta không đến trực ban sao?” “Anh ấy đi tuần rồi, chủ căn nhà số 10 phàn nàn… Hay anh đến đó tìm anh ấy?” Anh Tứ lập tức lắc đầu, ở nơi tối lửa tắt đèn mà lại không thông thuộc đường đi lối lại khu chung cư này sẽ rất dễ đi ngang qua nghi phạm mà không biết. “Các anh không có bộ đàm à?” Anh bảo vệ họ Hà lắc đầu. Ánh mắt anh ta dừng lại nơi chiếc điện thoại bàn. “Anh có muốn tôi gọi điện thoại cho anh ấy không?” Anh bảo vệ họ Hà hỏi. Anh Tứ gật đầu, anh ta liền bấm nút gọi. “Nói đơn giản vài câu là được.” Anh bảo vệ họ Hà bấm một số điện thoại, nhưng trong ống nghe chỉ vọng ra chuỗi âm thanh đơn điệu “tút…tút… tút…”. Đợi một lúc lâu, cuối cùng anh ta lắc đầu, buông ống nghe xuống. “Hay là để tôi đi gọi anh ta về…” Nói xong, anh ta định rảo bước ra ngoài. Anh Tứ liền kéo cổ tay anh ta lại. Anh bảo vệ họ Hà ngạc nhiên quay đầu nhìn anh. Chớ rời khỏi tầm mắt của tôi, có chuyện gì thì nói ngay trước mặt tôi đây! Anh thấy càng lúc càng nặng đầu, anh thực sự không nghĩ ra cách nào để biểu đạt hai ý trên mà không để lộ thần sắc. Cuối cùng, anh đành cố gắng giả vờ thân thiện, lắc đầu. Anh bảo vệ không hiểu hành động của anh, nhưng anh ta cũng không dám đi ra ngoài. Hai người cứ ngồi đối diện nhau như vậy, chờ Luu Trường Thắng về. Căn phòng lặng phắc, chỉ có tiếng mưa gõ vào cửa sổ như có như không. “Ờm… người trên bức ảnh đó…”, anh bảo vệ họ Hà không nhịn được cất tiếng hỏi, “chết rồi sao?” Anh Tứ gật đầu. Lẽ ra anh không nên tiết lộ các tình tiết của vụ án, nhưng lúc này đầu anh đau muốn vỡ, anh chỉ muốn nhanh chóng khiến gã đối diện ngậm miệng lại. “Anh nghĩ… Lưu Trường Thắng làm?” Anh Tứ trừng mắt nhìn anh ta. Anh bảo vệ họ Hà vội vàng ngậm miệng. Nhưng chưa đến mười phút sau, anh ta lại bắt đầu lảm nhảm. “Thời gian gần đây, khu chung cư này liên tục xảy ra chuyện, chủ căn hộ số 10 phản ảnh bị mất đồ, một cô gái sống ở căn hộ số 12 nói buổi tối lúc đi làm về có người bám theo cô ấy…” “Anh nghĩ do anh ta làm sao?” Anh Tứ cảm thấy hứng thú với manh mối này. Anh bảo vệ họ Hà ngẩn người, rồi vội vàng lắc đầu. “Anh ấy… thực ra là người khá thật thà… Hơn nữa anh ấy còn là người bị hại… có một tối nọ, anh ấy bị ai đó phang một gậy vào đầu, phải khâu mấy mũi.” “Thế mà cũng gọi là lý do à? Chưa biết chừng là khổ nhục kế…” Anh Tứ hừ một tiếng tỏ vẻ xem thường. Anh bảo vệ họ Hà không nói thêm gì nữa. Tiếng đồng hồ treo tường chạy tích tắc nghe rõ mồn một. Anh Tứ cảm thấy vô vị và yên lặng đến mức không thể chịu đựng nổi. Anh đứng dậy, bước về phía điện thoại để bàn, nhấn nút gọi lại. Tiếng “tút” kéo dài hồi lâu vẫn không thấy có người nghe máy. “Chẳng lẽ phải đi tìm anh ta thật sao?” Anh Tứ trầm ngâm, chậm rãi bỏ ống nghe xuống. Chính vào khoảnh khắc cuối cùng trước khi điện thoại ngắt máy, anh nghe thấy một âm thanh vọng lại. Đúng vậy, đó chính là tiếng vọng. Tiếng vọng “rẹt rẹt” rất khẽ vọng lại từ chính căn phòng này. Nếu không phải tiếng mưa đã nhỏ lại thì chắc chắn không nghe thấy được. Anh Tứ giơ ngón tay lên môi, ra hiệu cho anh bảo vệ họ Hà im lặng, đồng thời vô thức đưa tay sờ hông. Lúc đó, anh mới nhớ ra mình không mang theo súng. “Tôi hiểu rồi! Chắc anh ấy để điện thoại ở đầu giường.” Anh bảo vệ chợt nhớ ra, “Ở trong này!” Nhìn theo hướng tay anh ta chỉ, anh Tứ mới phát hiện ở góc tường phía sau chiếc tủ có một cánh cửa nhỏ. Mở cánh cửa ra, anh Tứ đi vào trong. Căn phòng tối lù mù, ẩm thấp và chật chội đến ngột ngạt. Các ống kim loại và các cánh cửa dựng quanh bốn bức tường. Có vẻ đây là phòng chứa đồ, sau này mới sửa thành phòng nghỉ qua đêm cho nhân viên bảo vệ. Ở gần cửa có một chiếc đèn bàn đơn giản, cuối phòng có chiếc giường sắt, trên giường rất bừa bộn, một chiếc điện thoại màu bạc đặt ở đầu giường. Anh Tứ bước lại gần, cúi đầu xuống quan sát. Chiếc điện thoại chạm vào ống kim loại ở cạnh đó, có vẻ mấy lần chuông rung khiến nó dịch chuyển dần về phía ống kim loại, cuối cùng chạm vào ống, tiếng vọng mà anh nghe thấy chính là tiếng thân điện thoại gõ vào ống kim loại. Anh Tứ đứng thẳng người, muốn tìm xem trong căn phòng này có đồ vật nào có giá trị cho vụ án không. Đột nhiên, ánh mắt anh bị thu hút bởi một vật thể màu trắng ở trên tường. Đó là chiếc bảng nhỏ màu đen với hàng phấn trắng ghi rõ tên người trực ban. Trên đó viết rõ ràng: Nhân viên trực ban (1 người): Lưu Trường Thắng. Ngày tháng trực ban chính là ngày hôm nay. Không có anh bảo vệ họ Hà nào cả. Gã chính là Lưu Trường Thắng. Đột nhiên, một tiếng “tách” rất nhỏ vang lên. Đèn điện vụt tắt. Trong bóng tối giơ bàn tay lên không nhìn thấy ngón, anh Tứ cảm nhận thấy có luồng gió vụt lướt qua gáy. Trong không khí dường như lan tỏa nhiệt độ cơ thể người. Anh Tứ vội xoay người theo phản xạ có điều kiện, hai tay đè xuống nhanh như điện xẹt. Trong bóng tối, dường như có sợi dây câu lạnh buốt sượt qua lòng bàn tay anh. Là dao! Anh Tứ lập tức cảm thấy hối hận với phản ứng bản năng của mình. Một cơ hội tốt biết bao mà lại bỏ lỡ! Lần sau mình phải tận dụng! Vậy mà đúng khoảnh khắc đó, một khuôn mặt khác đột ngột hiện ra ngay trước mặt anh. Bàng Hiểu Yến. Một Bàng Hiểu Yến hướng nội, yên tĩnh, thích đọc sách. Một Bàng Hiểu Yến giống như bông hoa lan mọc lên giữa bùn lầy, cuối cùng lại bị bùn lầy nuốt chửng. Cô cam nguyện sa đọa, sa đọa nhanh đến ngỡ ngàng. Anh Tứ vốn cho rằng cái chết của cô là tự làm tự chịu, nhưng không ngờ nguyên nhân cái chết lại bởi vì sắc đẹp. Vì đẹp nên cô bị kẻ biến thái chụp trộm, rồi tên biến thái đó mất việc nên quay lại báo thù cô. Tất cả những điều đó đều không phải lỗi của cô! “Ít nhất tôi cũng phải có nơi chôn thây đàng hoàng một chút chứ?” Anh Tứ như nghe thấy tiếng khóc than của cô. Luu Trường Thắng áp sát đến gần, lại vung dao lên. Lưỡi dao quét một vòng lớn giữa không trung phát ra âm thanh “u u…”. Đối với anh Tứ mà nói thì đây chẳng khác nào ngọn nến được châm lên đúng lúc. Anh hét to, cúi gặp người, hai tay nắm chặt lấy cổ tay gã. “Không còn cơ hội nào tốt hơn cơ hội này nữa rồi!” Khoảnh khắc này như đông cứng lại, một âm thanh đánh thẳng vào não bộ khiến anh Tứ chấn động đến điếc tai. Anh cảm thấy máu toàn thân bùng cháy, cuộn trào men theo huyết quản thiêu đốt linh hồn mình sục sôi. Trong khoảnh khắc đó, anh quên sợ hãi, quên đớn đau, tựa như con thiêu thân nhìn thấy lửa, bất chấp tính mạng điên cuồng lao đầu vào. Bàng Hiểu Yến, xin lỗi cô. Đợi đồng đội của tôi đến thay tôi báo thù cho cô nhé! “Chết!” Anh Tứ rống lên, nắm chặt lấy cổ tay của đối phương, dùng hết sức bình sinh, nhắm thẳng vào bụng mình đâm tới. Trong bóng tối chợt vang lên tiếng “keng” của kim loại rơi xuống sàn nhà, liền sau đó là tiếng “chát” nghe rất nặng nề, trán anh Tứ đập vào trán của đối phương. Cả người đối phương mềm nhũn, choáng váng tại trận. Sau cảm giác kích thích vì tìm được đường sống trong chỗ chết, anh Tứ ngồi thở hổn hển hồi lâu, sờ soạng tìm bật lửa. Lúc bấy giờ, anh mới phát hiện, vũ khí mà đối phương sử dụng là con dao thái rau. “Cái bộ dạng này của anh mà dám ám sát tôi sao?” Sau khi còng tay Lưu Trường Thắng vào ống kim loại, anh Tứ tức giận mắng kẻ “sắt không luyện được thành thép” này, “Lấy dao nhọn đâm vào người mới có thể một nhát lấy mạng chứ! Lấy dao thái rau mà chém thì khác nào trò đùa của trẻ con, muốn chém chết người thì cũng phải chém đến mấy chục nhát. Mẹ kiếp, đồ ngu xuẩn, lần đầu tiên anh đi giết người hả? Tức chết đi được!” “Ai cũng không tin tôi… Ai cũng nói do tôi làm… Mãi mãi không có hồi kết…”, Lưu Trường Thắng không ngừng lẩm nhẩm trong miệng, cuối cùng gã khóc rống lên. “Đồ vô dụng!” Anh Tứ bất lực lắc đầu, “Lá gan làm chuyện đồi bại vứt đi đâu rồi hả?” “Tôi sai rồi, nhưng tôi đâu còn cách nào khác?” Lưu Trường Thắng gào lên, “Tôi chỉ là thằng lông bông thấy con gái ăn mặc diêm dúa hở hang thì tôi…tôi không khống chế được bản thân… Thế là tôi…” “Anh làm sao?” “Tôi liền dùng điện thoại di động chụp trộm vài tấm hình…”, Lưu Trường Thắng xấu hổ cúi đầu. “Còn gì nữa không?” “Không chỉ chụp mình cô ấy, cứ thấy con gái đẹp là tôi chụp… Khi còn làm bảo vệ ở trường, tôi thường chụp trộm ở cổng. Nhà trường không cho phép người lạ vào trong trường nên các cô gái thường ôm ấp, hôn hít bạn trai ngay ở cổng…” “Còn gì nữa?”