🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Bài Học Thành Công Của Singapore Ebooks Nhóm Zalo Lời tựa Đảo quốc thiên đường Ngày 5 tháng 1 năm 2004. Dường như chỉ vài phút sau khi đáp xuống phi trường Changi, tôi đã nhận được hành lý của mình và nó nhanh chóng được một người lái taxi ân cần đón lấy. Xe chúng tôi hòa vào làn đường tràn đầy những chiếc xe mới bóng lộn trang bị tiện nghi điều hòa không khí đang lưu thông tấp nập, những luống hoa trồng dọc hai bên đường cũng đang nở bung sắc thắm của những bụi hoa móng tay, như thể hiện lời chào đón bất tận của một đất nước thuộc vùng nhiệt đới, giữa biết bao cây lá xanh tươi và những tia nắng lấp lánh phản chiếu từ biển cả. Phía xa là bến cảng vận chuyển hàng hóa nhộn nhịp nhất thế giới. Gần hơn nữa, tòa nhà chọc trời đầy vẻ tráng lệ của thủ đô Singapore với khung thép lộng kiếng – đại bản doanh của hơn 6000 tập đoàn đa quốc gia – đang mở rộng cửa, vừa khi các chuyên gia trẻ của nơi chốn làm việc vô cùng sang trọng và bao gồm nhiều thành phần đa sắc tộc này bắt đầu bước vào giờ nghỉ ăn trưa của mình. Đó là cảm nhận trong ngày đầu tiên khởi đầu nhiệm kỳ hai năm cuối của tôi trong ban điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Sau 25 năm làm việc ở rất nhiều quốc gia khác nhau và đại đa số đều có mức thu nhập thuộc loại thấp, thì nơi chốn này trông giống như một Miền Đất Hứa. Hứa hẹn bởi ai? Không lẽ bởi các giám sát viên cùng làm việc với tôi trong ban điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế, những người đã từng đón nhận rất nhiều sự ân thưởng dành cho bao nỗi khó nhọc của họ khi thực hiện công trình chiết xuất khí oxy La Paz, công trình quét lọc cát Nouakchott, hay công trình làm lạnh gia tốc Kyiv? Không hề. Vì mỗi một nhiệm vụ ở thời kỳ đầu này đều mang lại cho chúng tôi một sự tưởng thưởng riêng, đặc biệt là sự hài lòng mãn nguyện trong tác nghiệp khi được bắt tay làm việc cùng các viên chức chính phủ luôn tỏ ra vô cùng tâm huyết trong việc cố gắng thúc đẩy nền kinh tế đầy cam go của đất nước họ. Không, đây là một đích đến do các đồng nghiệp của tôi trong cộng đồng phát triển quốc tế và tôi vạch ra trong suốt 25 năm qua. Ẩn chứa đằng sau những đề xuất về các sách lược kinh tế mà chúng tôi đưa ra chính là một tiền đề hết sức căn bản: hãy thi hành các chính sách kinh tế đúng đắn – một cách kiên định – rồi đất nước các anh sẽ gặt hái một thành quả kinh tế rất cao, theo sau đó là việc chấm dứt hoàn toàn mọi sự nghèo đói. Lời khuyên sách lược của chúng tôi, dù có làm tổn thương nhức nhối, nhưng luôn phác thảo một đích đến cuối cùng cho tiềm năng kinh tế mỗi đất nước: nhà ở khang trang và dễ sở hữu dành cho tất cả mọi người cùng với một cảnh quan môi trường trong lành, hiệu quả chất lượng trong nền tảng giáo dục và trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng, việc làm đầy đủ và mọi cơ hội tiến bước vào đời dành cho trẻ em – như Singapore kiểu mẫu đã từng thực hiện. Quốc gia độc lập này, như tuyên bố của vị Thủ tướng đầu tiên Lý Quang Diệu "đã từ một đất nước thuộc Thế giới thứ ba phát triển thành một quốc gia thuộc Thế giới thứ nhất chỉ trong vòng thời gian của một thế hệ" (Lee, 2000) Giúp mang lại những nhận thức đúng đắn về những đặc thù của một chính sách kinh tế tốt đẹp là mục đích lưu lại của tôi ở Singapore. Trong suốt hai năm làm việc trên cương vị Giám đốc Trung tâm huấn luyện khu vực thuộc Quỹ Tiền tệ Quốc tế – Singapore, một tổ chức hợp tác điều hành giữa chính phủ Singapore và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, đã có gần 2000 viên chức chính phủ và viên chức đại diện các ngân hàng quốc gia thuộc khu vực châu Á – Thái Bình dương đến Singapore trong các khóa học ngắn hạn từ hai đến ba tuần. Thành viên tham dự khoảng chừng 40 quốc gia, từ Afghanistan cho đến Tonga, đến trung tâm này nhằm nghiên cứu xem làm thế nào mà các chính sách kinh tế vĩ mô và các nguyên tắc tài chính đúng đắn có thể góp phần tạo nên một nền kinh tế tăng trưởng bền vững cho chính đất nước mình. Đối với nhiều người trong số họ, đây là chuyến xuất ngoại đầu tiên ra khỏi quê nhà. Ngồi trên xe và lưu thông qua mọi nơi chốn của thành phố vô cùng sạch đẹp và hiện đại này, nhiều người có lẽ đang băn khoăn tìm kiếm một chiếc chìa khóa dường như bí ẩn có khả năng mở toang mọi cánh cửa tiềm năng kinh tế của chính đất nước họ. Việc phát hiện chiếc chìa khóa đó chính là sự tìm tòi ẩn chứa đằng sau nội dung sách: điều gì giải thích cho những thành tựu kinh tế vô cùng rực rỡ này của Singapore? Không hề có một nền kinh tế nào khác có thể tăng trưởng nhanh hơn trong giai đoạn 40 năm liên tục, kết thúc vào thời điểm năm 2000. Những bài học kinh nghiệm nào của Singapore mà các quốc gia khác có thể vận dụng, hay là cứ tiến hành thực hiện các bước phát triển và tăng trưởng giống như Singapore vậy? Du khách đến đây thường tỏ ra kinh ngạc trước mạng lưới giao thông phát triển hoàn hảo và vẻ đẹp lộng lẫy thăng hoa của quốc gia độc lập nhỏ bé này. Nhưng rất nhiều trong số họ, kể cả những người đến từ các quốc gia phát triển, khi tìm hiểu về các chính sách kinh tế và cơ cấu quản lý điều hành của Singapore, đều không ít ngạc nhiên về mô hình thượng tầng kiến trúc của đất nước này. Lời cảm tạ Tôi mặc nhiên bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc khi liên hệ sử dụng các phần chú thích được trích dẫn từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau và các bộ sách tham khảo. Tôi xin chân thành cảm ơn khi sử dụng các biểu đồ được sao chụp lại từ cuốn sách tham khảo hết sức giá trị của ông David Weil. Những lời biết ơn chân thành của tôi xin được gởi tới các vị Luc De Wulf, Anita Doraisami, Joshua Green, Khor Hoe Ee, Jerome La Pittus, Lim Chong Yah, David Orsmond, Euston Quah, Leo Van Houtven và Peter Wilson, về việc đã đọc bản thảo, gợi ý chỉnh sửa, và đưa ra nhiều lời phê bình nhạy bén nhằm làm cho bản gốc được hoàn thiện hơn. Sự thẳng thắn góp ý cùng sự động viên khích lệ đã làm cho các ý kiến phê bình của họ thêm sâu sắc hơn. Xin được gởi lời cảm ơn tới ông Ernesto Zedillo, nguyên Tổng thống Mexico, nay đang giữ cương vị điều hành Trường đại học Yale, dù lịch làm việc khít khao vẫn dành thời gian đọc cuốn sách này. Tôi rất vui khi được làm việc với bà Elizabeth Daniel, cùng hai cộng sự Paul Tan và Pauline Lim của nhà xuất bản Thomson Learning, đã nhiệt thành biên tập hết sức kỹ lưỡng để bản thảo gốc trở thành một tác phẩm hoàn hảo. Rất nhiều cảm nhận ẩn chứa đằng sau nội dung sách, đã được thu thập trong suốt 27 năm tôi làm việc với tổ chức Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Đồng nghiệp và các giám sát viên tiền nhiệm, cũng như các viên chức chính phủ và nhiều người khác, kể cả các viên chức Ngân hàng Thế giới mà tôi có dịp tiếp xúc thường xuyên, đã tận tình hướng dẫn tôi rất nhiều. Khi viết sách, tôi có lợi thế của một người đứng ngoài cuộc phát hiện ra những nét quyến rũ độc đáo của Singapore. Và tôi thấy cần phải nhanh chóng học hỏi nhiều điều. Những cảm nhận riêng được bộc lộ trong một số bài viết của các giáo sư Gavin Peebles, Peter Wilson, Lim Chong Yah, Linda Low, Diane Maury, R.S. Milne, và của các viên chức Quỹ Tiền tệ Quốc tế từng làm việc ở Singapore nhiều năm, là hết sức giá trị đối với tôi. Nhưng tôi cần nhấn mạnh rằng mọi quan điểm nhận thức trình bày trong cuốn sách này hoàn toàn là cảm nhận của riêng tôi, chứ không hề là của bất kỳ một tổ chức nào khác mà tôi đã từng, hoặc đang cộng tác làm việc. Mọi nhầm lẫn về sự kiện, về diễn dịch, hay phán đoán, nếu có, đều là do sai sót của cá nhân tôi. Cuốn sách đầu tiên Giữa Chốn thiên đường và Nơi không tưởng – Sự phát triển ở Đông Nam Á, xuất bản năm 1976, tôi viết dành cho lớp người trẻ trong khu vực này, những người mà đối với họ, phát triển cũng có nghĩa là một thách thức duy nhất đối với tài năng và tài lãnh đạo. Thành công Singapore xin được dành tặng cho Mike, vợ tôi, với lòng biết ơn chân thành vì đã hỗ trợ tôi trong suốt quá trình thực hiện. Cuốn sách này, cũng như nhiều thứ khác trong đời sống chúng tôi, nếu không có cô sẽ không bao giờ trở thành hiện thực. Phần mở đầu THÀNH CÔNG SINGAPORE CÓ THỂ CHUYỂN GIAO ĐẾN CÁC NƠI KHÁC? Thành công của Singapore, như một số chuyên gia nhận định, là không thể mô phỏng. Quốc gia này có những lợi thế riêng biệt. Sự tập trung 4,3 triệu dân trên một quần đảo có diện tích chưa đến 800 km2 đã tạo thuận lợi cho việc tiết giảm chi phí khi phân bố các phúc lợi xã hội, cơ sở hạ tầng và công tác điều hành quản lý, theo một cách thức mà các quốc gia lục địa rộng lớn như Ấn Độ hay Brazil đều không thể có được. Không giống thủ phủ ở các quốc gia khác, chính quyền thủ đô được luật pháp tối cao nhà nước Singapore trao quyền kiểm soát việc nhập cư từ các vùng nội địa. Hải cảng với mực nước sâu tự nhiên và vị thế chiến lược có nhiều ưu điểm, đã mang đến cho Singapore một sự khởi đầu đầy thuận lợi trong thương mại và giao dịch quốc tế mà những quốc gia nằm sâu trong lục địa như Nepal chỉ có thể mơ tới. Và liệu các quốc gia khác, điển hình là Campuchia, nơi nền nông nghiệp cổ truyền vẫn còn chiếm ưu thế, sẽ học hỏi được những gì khi xuất phát từ một nền kinh tế đất nước mà khu vực hạ tầng chỉ khoanh lại trong việc trồng hoa lan và nuôi cá, làm thu hẹp đi bức tranh kinh tế tổng thể? Tuy nhiên vẫn còn những quốc gia khác phải học hỏi Singapore. Quyết định hết sức quan trọng của Trung Quốc vào năm 1978 nhằm thay đổi năm thế kỷ cô lập về kinh tế đã chịu ảnh hưởng phần nào từ chuyến viếng thăm Singapore của ông Đặng Tiểu Bình vào năm đó. Giấc mơ "xây dựng một ngàn Singapore tại Trung Quốc" của ông Đặng đã thúc đẩy nhiều phái đoàn đại diện Trung Quốc đến đảo quốc này với mục đích tham quan nghiên cứu. Hàn Quốc cũng hết sức ấn tượng trước thành tích đẩy lùi nạn tham nhũng của Singapore. Việc điều hành chặt chẽ lưu lương xe cộ giao thông nội thị của đất nước này đã làm ngẩn ngơ các viên chức chính phủ đến từ nhiều quốc gia khác nhau, và chương trình nhà ở của Singapore cũng đang được nhiều chuyên gia kế hoạch từ khắp thế giới nghiên cứu. Dubai liên tục dõi mắt theo Singapore. Việc nghênh đón các tập đoàn đa quốc gia của Singapore, với những chính sách ưu đãi cùng nhiều khích lệ và chính sách một cửa – vào thời điểm mà các quốc gia khác còn đang né tránh – đã được rất nhiều nước noi theo. Những chính sách về nền công nghiệp định hướng ưu tiên xuất khẩu giờ đây không còn gây ngạc nhiên nữa. Năm 1970, trong cuộc viếng thăm Istana – Dinh Tổng thống Singapore – nguyên Thủ tướng Malaysia, ngài Mahathir Mohamad, đã tỏ ý ngạc nhiên, quan tâm hỏi han đến việc làm cách nào mà những khu vườn rộng mênh mông trong dinh lại xanh tốt đến như vậy. Phép lịch sự ngoại giao có thể đã làm cho các viên chức cao cấp khi đi tham quan thường hay bày tỏ những nhận xét tỉ mỉ, nhưng ở trường hợp này không hề là sự xã giao tâng bốc. Mỗi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều có thể học hỏi lẫn nhau. Vào thế kỷ thứ 19, nước Đức đã học hỏi kinh nghiệm cuộc cách mạng công nghiệp Anh Quốc; nước Nhật sau Công cuộc khôi phục Meiji (Minh Trị) giai đoạn 1867- 1868 cũng đã nhận thức rõ sự vực dậy của nền kinh tế Đức; Singapore cũng chịu tác động thành công của Nhật; và Đảng Lao Động Anh mới đây đã thực hiện một chuyến tham quan nghiên cứu mạng lưới chăm sóc sức khỏe của Singapore, kết thúc một chu trình học hỏi lẫn nhau. Việc học hỏi không nhất thiết là phải cấy ghép một cách mù quáng những sách lược dù đã thành công ở đâu đó lên một mảnh đất lạ. Việc mô phỏng chính xác khuôn mẫu của một quốc gia khác sẽ gặp nhiều tác dụng hạn chế, thậm chí còn có thể gây nhiều tác hại. Tuy nhiên, ở mức thấp nhất, mỗi quốc gia hay từng doanh nghiệp của quốc gia đó, đều có thể tiếp thu ý tưởng sáng tạo từ các quốc gia khác. Nội dung sách nhằm nêu lên sự khác biệt giữa những nguyên tắc chung đã được ứng dụng rộng khắp và việc thực hiện cụ thể những nguyên tắc đó trong bối cảnh Singapore. Làm thế nào mà Singapore, với những hoàn cảnh đặc thù của đất nước mình, lại có thể thực hiện được những nguyện tắc căn bản đó? Thêm nữa, nếu kinh nghiệm của Singapore có thể chứng tỏ sự hợp lý của những nguyên tắc căn bản này, thì đến lượt các quốc gia khác, dù tiên tiến hay đang phát triển, đều có thể rút ra nhiều ích lợi khi nghiên cứu xem làm cách nào có thể ứng dụng những yếu tố căn bản này vào từng hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình. Có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm mà không nhất thiết phải nâng Singapore lên thành một "kiểu mẫu" để mô phỏng. CHIẾN LƯỢC CỦA SINGAPORE LIỆU CÓ QUÁ KHẢ NĂNG? Ngay cả những người thán phục thành tựu kinh tế của Singapore cũng chỉ ra được những điều chưa thật hoàn hảo. Dù có ấn tượng mạnh đến thế nào, thì những chính sách phát triển của đất nước này cũng đã bộc lộ những khiếm khuyết mà các quốc gia khác đều mong muốn tránh khỏi. Singapore là một trong số rất ít các quốc gia rất khó thuyết phục, nơi mà các viên chức Quỹ tiến tệ quốc tế đã từng đặt vấn đề rằng liệu mức tiết kiệm quốc gia không đạt ở mức cao, có phải là do sự ưa thích tiêu thụ của các thế hệ trẻ đã làm hao hụt đi mức dự trữ hiện tại[1]. Thành tích phát triển kinh tế của Singapore thường được nôm na so sánh như hình ảnh một chiếc cốc lớn chỉ chứa đầy 85% dung tích, nhưng các nhà phê bình thường có khuynh hướng chú trọng đến cái phần 15% còn thiếu. Nhiều viện nghiên cứu danh tiếng từng bày tỏ mối quan ngại về chủ trương của Quỹ dự phòng quốc gia Singapore, theo đó, một kế hoạch lập quỹ tiết kiệm bắt buộc của mỗi cá nhân khởi điểm chính là thu nhập về hưu của cá nhân đó. Theo nhận xét của họ, việc định hướng lại sau này đối với các kế hoạch tài trợ trên diện rộng cho quyền sở hữu nhà ở có thể dẫn đến hậu quả lượng tiền mặt dự trữ không đủ và nguồn tiền dự trữ dành chi trả cho những người về hưu có khả năng thiếu hụt. Một số người khác còn nhấn mạnh rằng vai trò thống lĩnh của các doanh nghiệp nhà nước cùng sự chỉ đạo của nhà cầm quyền trong nền kinh tế có thể gây cản trở cho các doanh nghiệp cá thể địa phương đang có nhiều đổi mới, mà yếu tố này lại chính là động lực then chốt tạo nên đà tăng trưởng trong các nền kinh tế đã phát triển như Singapore. Nhiều quan sát viên cũng phàn nàn và cho rằng việc quá xem trọng các bài thi viết dựa theo truyền thống phong kiến cổ xưa, rất có thể làm thui chột đi tính sáng tạo trong giáo dục. Những thiếu sót về mặt chính sách trong bối cảnh Singapore có thể xem như là những thách thức mới không thể không nảy sinh khi hoàn cảnh phát triển tự nhiên. Các khuyết điểm bộc lộ phát đi tín hiệu cho thấy cần phải xác định lại các sách lược một cách lâu dài. Chính phủ không thể tập trung nỗ lực vào tất cả mọi vấn đề cùng một lúc, mà cần phải tuần tự tiếp cận từng vấn đề một. Thật ra, chính quyền Singapore, hầu như luôn bị ám ảnh với chính vị thế tranh đua của mình khi tìm cách điều chỉnh các sách lược phát triển đã đưa ra nhằm đối phó với những thách thức mới đang bắt đầu ló dạng. Thành tựu của quá khứ có thể trở thành chướng ngại của tương lai là như vậy. Cho nên, những thay đổi về mặt chính sách mang tính thực tiễn sẽ giải quyết được mọi vấn đề, trừ phi thời gian tiên quyết cần phải có lại quá dài lâu – giống như một con tàu chở nặng dầu, cần phải chạy hàng hải lý để lấy đà đổi hướng lộ trình. Thêm một liên tưởng nữa, liệu vị giáo sư có thể nào ngủ ngon giấc khi đứng trước thực trạng là một câu hỏi do ông đặt ra sẽ không chỉ có một câu trả lời hay mà là nhiều câu trả lời cũng hay như thế? Trong sách, chúng tôi xem xét yếu tố thời gian, tiến trình thưc hiện và quá trình phát triển các chính sách của nhà nước Singapore theo từng thời kỳ. Hình ảnh chiếc cốc Singapore chỉ chứa đầy 85% dung tích, như được liên tưởng, có thể mang lại cho các quốc gia khác một sự chiêm nghiệm thú vị. THÀNH TỰU KINH TẾ SINGAPORE - CÁI GIÁ PHẢI TRẢ QUÁ CAO? Theo quan điểm của những người không tán thành, kỳ tích tăng trưởng của Singapore không nên vượt lên quá sức, chỉ do một nguyên nhân hết sức khác biệt: các nguyên tắc đạo đức xã hội từng góp sức định hình nên sách lược phát triển của đất nước nay đang dần trở nên đối lập với khuynh hướng nghiêng về các hình thái đạo đức xã hội khác, đồng thời cũng là khuynh hướng của nhiều người dân Singapore hiện nay. Nhiều người không thuộc quốc gia này thường phản ứng trước các bản án tử hình đối với những tội danh như buôn bán ma túy hay sát nhân. Họ cũng bày tỏ sự phẫn nộ với chính sách gia trưởng hà khắc trong các chiến dịch giáo dục cộng đồng và cho rằng chính phủ đang vượt quá quyền hạn hoạt động chính trị. Nhiều người cho rằng, chính quyền – chứ không phải một cá nhân nào khác hay gia đình của họ – phải thực thi trách nhiệm hỗ trợ tài chính cho người thất nghiệp và người có tuổi. Mọi sự câu thúc đối với tự do báo chí đều bị phản đối. Các nghiệp đoàn lao động phải được vòng tay chính quyền nâng đỡ. Nhiều người tỏ ra không hài lòng trước các phương cách mà chính quyền đang sử dụng nhằm đạt tới một chính thể, mà theo họ, trên thực tế chỉ là nền dân chủ một đảng. Những sự phẫn nộ vì bất đồng ý kiến được bày tỏ công khai đã làm phát sinh một nền văn hóa từng được mô tả là "cằn cỗi" cho dù Singapore đang ngày càng cởi mở và đầy sức sống hơn. Tuy nhiên, khi bàn đến yếu tố thành tích đạt đến đỉnh cao – vấn đề mà các hình thái xã hội dân chủ thường mong đạt được – thì Singapore đang ghi điểm rất cao. Quyền sở hữu tài sản được đảm bảo. Mọi cá nhân đều được chính quyền, nhân viên công quyền, và cộng đồng xã hội che chở không để bị bóc lột. Tỷ lệ tội phạm thấp trong khi tính trung thực trong lĩnh vực cộng đồng lại cao. Những biểu hiện đặc quyền đặc lợi dựa dẫm vào sự ưu đãi hay vị thế xã hội giờ đây ít bộc lộ. Mọi cá nhân đều được tạo nhiều cơ hội vươn lên tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Bình đẳng giới tính đạt mức trung bình so với tiêu chuẩn chung. Việc trọng dụng nhân tài được chú trọng trong tuyển dụng và đề bạt. Mức thuế thấp nếu so với các quốc gia có mức thu nhập tương tự. Sự phân biệt chủng tộc, sắc tộc hay tôn giáo, trên thực tế đều bị lên án về mặt luật pháp và bị hạn chế, mặc dù có thể không hoàn toàn bị loại trừ. Chính quyền luôn tuân theo các điều luật đã được ban hành rộng rãi – do chính quyền soạn thảo lúc đầu, sau đó các thành viên nội các bổ sung – và các điều luật này được đưa ra đệ trình vào các cuộc bầu cử theo định kỳ mà chính quyền luôn biết là sẽ chiếm ưu thế đắc cử, cho dù không biết tỷ lệ chính xác là bao nhiêu, và cũng thừa biết là những người theo chủ nghĩa thực tế sẽ chống đối. Nhược điểm là ở chỗ đó. Sách lược phát triển của Singapore từng được sự ổn định chính trị làm hậu thuẫn. Trật tự chính trị đã thành hình trong khuôn khổ một nền dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng chính trị duy nhất – Đảng Nhân dân Hành động (PAP), lên cầm quyền từ năm 1959. Các cuộc bầu cử đa đảng theo định kỳ đã diễn ra, quyền tự do ngôn luận và tự do chống đối đều được thông qua, dù chỉ trong khuôn khổ giới hạn, đã cho thấy việc củng cố một chính quyền mạnh mẽ, có khả năng dẫn dắt dân chúng đi đến một sự đồng thuận đối với các chính sách đúng đắn. Đối với những người phương tây, những người đã từng dấn mình vào một quá trình phản kháng nhằm chống lại quyền lực của một chế độ độc tài, thì quyền tự quyết và phát ngôn bằng cách công khai tập hợp thành nhiều nhóm trong xã hội là những giá trị rất được yêu chuộng. Theo truyền thống đất nước Trung Quốc – nơi 78% dân chúng Singapore có mối liên hệ huyết thống – nơi chính phủ về mặt lịch sử đã định hình một đường lối chính trị, áp dụng quyền kiểm soát, và trông đợi vào sự tuân phục của dân chúng thay vì ra lệnh, thì mặt được (hay nói cách khác là những lợi ích) và mặt chưa được (hay nói cách khác là cái giá phải trả) của sự thống trị một đảng tỏ ra hết sức chênh lệch, không chỉ do những người cầm quyền, mà cũng còn do đại bộ phận dân chúng, nếu nhìn vào các biểu hiện xã hội đang diễn ra. Liệu có chăng mối tương quan giữa thành tựu kinh tế và một nền dân chủ tự do? Tầng lớp chóp bu cầm quyền tin rằng điều này là có thể. Theo quan điểm của họ, "chủ nghĩa độc đoán mềm dẻo" và kỷ luật tự giác tập thể đã góp phần tạo nên một thành tựu kinh tế lớn mạnh cùng sự tăng tốc nhanh chóng để đuổi kịp các nước phương Tây, và cho rằng điều này không hề gây cản trở cho nền tự do dân chủ, nhưng thực tế này khó có khả năng diễn ra trong bối cảnh lịch sử đặc thù của Singapore. Nội dung sách cho thấy các yếu tố đặc thù của Singapore như thành quả kinh tế, các chính sách, cơ cấu chính trị và kinh tế, mọi quan điểm, mọi nguyên tắc đạo đức xã hội cùng sự lãnh đạo của chính quyền, tất cả là một sự hòa quyện hết sức chặt chẽ. Đoàn kết nội bộ vô cùng mạnh mẽ và sự củng cố mang tính bổ sung lẫn nhau, trải qua một thời gian dài, đã giải thích cho những thành quả đầy ấn tượng mà đất nước này gặt hái được. Một số người bị ám ảnh bởi thành tựu trên và cho rằng đó cũng chính là sách lược chặt chẽ mà Đảng Nhân dân Hành động (PAP) đã và đang ra sức bảo vệ. Mỗi hình thái xã hội khác nhau sẽ tạo ra thế cân bằng xã hội một cách khác nhau. Thế hệ trẻ tuổi hơn ở Singapore có lẽ cũng phải làm như vậy. Khi Singapore bắt kịp với mức thu nhập của các quốc gia tiên tiến, thì đất nước này càng lúc càng phải đối mặt với mức độ công khai dân chủ đang phổ biến ở các quốc gia đó. Một điều chắc chắn, mọi người dân Singapore đều cảm thấy được quyền tự do quyết định tốc độ và phương hướng phát triển nào mà họ cảm nhận là phù hợp với xã hội của mình. Nhưng các giá trị đạo đức xã hội và mọi khát vọng của người dân Singapore, đặc biệt là ở thế hệ trẻ tuổi hơn, cùng sự giàu có sung túc và nền tảng giáo dục đất nước, tất cả dường như đang có chiều hướng thay đổi. Thành tựu kinh tế rực rỡ đối lập với nghịch cảnh nghèo khó diễn ra trong thời kỳ nhiều biến động của thế hệ cha ông, giờ đây đang chìm dần vào quá khứ xưa cũ, theo cách nhìn của lớp người trẻ hiện nay. Đối với họ, một xã hội văn minh ít cấm đoán và một trật tự xã hội bền vững đều có thể cùng tồn tại ở đất nước Singapore vào thế kỷ thứ 21. Bên cạnh đó, tính chất cấp bách đòi hỏi sự đổi mới và tính sáng tạo – mà nhờ đó nền kinh tế phát triển kéo theo tăng trưởng kinh tế liên tục – sẽ đặt ra những yêu cầu cụ thể đòi hỏi phải có nhiều sự công khai hơn nữa. Càng có nhiều cuộc tranh luận xã hội bày tỏ bất đồng ý kiến diễn ra công khai hơn thì lại càng làm gia tăng nội lực cho đất nước Singapore hơn. Chính quyền đã từng hoài nghi rằng sự tiết lộ quá nhiều về khả năng tài chính quốc gia, hay nói khác đi, chính chủ nghĩa cơ hội của tầng lớp báo giới thích gây khó khăn, dường như đang làm xói mòn đi sự nghiệp dài lâu của chính quyền trong việc huấn thị cho quần chúng biết hướng đến những nguyên tắc chấp hành kỷ luật và các chính sách chỉ đạo. Tuy nhiên, kỳ tích phát triển kinh tế vô cùng ngoạn mục của Singapore, trong bối cảnh vừa phải gìn giữ các mối dung hòa xã hội vừa phải xây dựng chính sách thuế và chi tiêu để có thể dễ dàng đối đầu với các thách thức tài chính luôn chực chờ đe dọa – một đường lối tỏ ra ưu việt so với bối cảnh những xã hội khác nơi mà lớp người có tuổi gia tăng nhanh chóng và đất nước thì không có sẵn nguồn lợi xuất khẩu dầu hỏa – đã chứng tỏ sự sáng suốt của các nhà lãnh đạo quốc gia. Người dân Singapore, ngay cả những công dân trẻ tuổi, đều nhận thức được thế yếu về mặt kinh tế của nước nhà trong cuộc cạnh tranh toàn cầu hết sức gay gắt và cũng hiểu rằng đất nước cần phải có những sách lược tài chính đúng đắn. Giống như nhiều bậc cha mẹ của những người đang độ tuổi trưởng thành, chính quyền Singapore có thể sẽ ngạc nhiên về việc dân chúng cứ yêu sách về việc được biết thêm những thông tin về khả năng tài chính của quốc gia và muốn sự công khai được nhiều hơn. ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN TẠO CHO SỰ THỊNH VƯỢNG Một sự thịnh vượng có định hướng là vấn đề tâm huyết của Singapore. Đây là một nhận định mạnh mẽ của cá nhân tôi. Chúng ta không thể lãng quên bao khát vọng của dân tộc Malaysia, dân tộc Ấn Độ, và cộng đồng người dân Trung Hoa đã góp phần tạo nên một đất nước Singapore, cũng không thể quên đi bề dày văn hóa và di sản đầy tính đặc thù của các dân tộc này, cũng như bản thân tôi không thể gièm pha mọi giá trị tinh thần, văn hóa, hay những giá trị đạo đức đầy tính nhân văn của các gia tộc người Singapore. Tuy nhiên, sự phát triển mang tính sáng tạo bền bỉ chính là tính cách tiêu biểu mà một xã hội như Singapore luôn phản ánh ra với thế giới bên ngoài. Hãy cùng điểm qua lĩnh vực kinh tế. Một mục tiêu chung nhằm đạt tới sự phồn thịnh đã thôi thúc mọi nỗ lực của dân chúng Singapore nhiều hơn so với trường hợp các quốc gia khác. Một số người dân Singapore có thể không hài lòng về việc tôi hay nhấn mạnh đến động lực làm giàu của đất nước họ. Nhưng cuối cùng, thành công rất đáng ghi nhận là mọi nỗ lực lớn lao của người dân đều tập trung vào việc vun đắp nên một mối liên kết xã hội chặt chẽ mà ở đó mỗi cá nhân đều luôn thấm nhuần tinh thần trách nhiệm cùng ý thức về bổn phận công dân. Phát triển trong lĩnh vực sân khấu, âm nhạc và nghệ thuật của đất nước này cũng gây được nhiều ấn tượng. Nội dung sách không chủ ý đánh đồng và quy mọi giá trị thành tựu mà Singapore đang có là do bị yếu tố tiền bạc chi phối. Thay vào đó, tôi đưa ra một cách nhìn là chính sự chú trọng quá mức vào việc phải đạt cho bằng được sự thịnh vượng bền vững đã tự nó hàm chứa một sức mạnh duy lý trí trong công cuộc xây dựng quốc gia và các mục tiêu phát triển khác của đất nước này. Nhà cầm quyền Singapore luôn ra sức huấn thị cho mọi người dân một lòng tin sùng bái hết sức thế tục trong việc đua nhau chạy theo sự giàu có thịnh vượng. Lộ trình đi đến thiên đường được vạch ra với một nền công nghiệp ưu tiên cho xuất khẩu bằng việc đón mời các tập đoàn đa quốc gia đến hoạt động tại Singapore. Và bây giờ, đến lượt sự ổn định cần thiết về mặt xã hội và chính trị đòi hỏi sự hỗ trợ ngược lại của sự hòa hợp tôn giáo và sắc tộc, cùng sự phân chia đồng đều các phúc lợi xã hội thông qua việc tạo ra những cơ hội bình đẳng. Các chính sách đúng đắn đã mang đến nhiều sự động viên khích lệ và tạo cơ hội cho việc đạt tới thành tựu ở một mức cao hơn, cho phép tầng lớp cao cấp và đại bộ phận người dân Singapore cùng tồn tại và phát triển. Ngành kỹ thuật là trọng tâm của Singapore. Không chỉ vì đây là một trong những quốc gia công nghiệp điện tử kỹ thuật cao hàng đầu có mối liên kết hợp tác với phần lớn các nước trên thế giới, mà đây còn là nơi các sách lược kinh tế được áp dụng theo một khuôn mẫu luôn ổn định[2]. Lòng đam mê theo đuổi mục tiêu thịnh vượng chung của tầng lớp có thế lực chính trị đòi hỏi phải có một sự liên kết chặt chẽ giữa các yếu tố cấu thành mang đầy tính đặc thù: yếu tố chính sách và cơ cấu quản lý đi cùng với yếu tố quan điểm và hiểu biết chính trị, nhằm thiết lập một cơ chế hoạt động tinh vi đạt hiệu quả cao, và thêm nữa lại luôn đòi hỏi sự hoàn thiện không ngừng. Ý thức kỷ luật sẵn có trong đạo đức nghề nghiệp đi kèm sự vui lòng tự nguyện hạn chế mức tiêu dùng của người dân, sự đột phá cạnh tranh thị trường, việc trọng dụng nhân tài trong khoa cử và các ngành dân sự, tính trung thực trong cộng đồng, một nền luật pháp và các điều luật ban hành, tất cả mọi yếu tố này đều là những tác nhân bôi trơn cần thiết. Đây chính là một sách lược sáng suốt: học thuyết và cách ngôn cùng song hành trong các chính sách phát triển, trong cơ cấu quản lý; và việc thực thi một nền kinh tế chính trị cùng các giá trị hiện hữu của nó đã được xem xét một cách thấu đáo, được tiếp nhận, được điều chỉnh theo đúng thực tiễn, và được theo dõi nhằm đúc kết ra một qui trình phát triển hợp lý, căn cứ vào những hoàn cảnh đặc thù của Singapore và những thành quả thật sự có được. THÀNH CÔNG CỦA SINGAPORE LÀ ĐỘC NHẤT? Nhiều người có thể cho rằng thành công của Singapore không phải là duy nhất. Một số không nhiều các nền kinh tế quốc gia khác, như Nhật Bản và các nước thuộc địa trước đây của nước Nhật là Đài Loan và Hàn Quốc, cũng từng đạt được nhiều thành quả kinh tế không kém rực rỡ. Thành quả phát triển của Malaysia, của Chile, hay Boswana, và các quốc gia khác, không kể Trung Quốc và Ấn Độ, cũng xứng đáng được đưa ra nghiên cứu cặn kẽ. Cách nhìn nhận này không gây phản cảm. Trên thực tế, một nghiên cứu mở đường của Ngân hàng Thế giới vào năm 1993 đăng tải trong tập "Phép mầu Đông Nam Á", đã ghi nhận rất nhiều trường hợp các quốc gia thành công vì đã biết tìm ra cách thức để có thể đưa vào ứng dụng một số nguyên tắc căn bản, cho dù nhũng nguyên tắc này đôi khi hoàn toàn khác biệt về mặt hình thái. Các quốc gia đạt mức tăng trưởng cao và bền vững thường áp dụng các biện pháp khác nhau. Tương đồng về mức thu nhập không có nghĩa là các chính sách và cơ cấu quản lý mang tính đặc trưng của mỗi nước cũng đòi hỏi phải giống nhau. Nghệ thuật sáng tạo nên những sách lược tăng trưởng hiệu quả, như Ngân hàng Thế giới từng nhấn mạnh, nằm ở chính sự cân nhắc hết sức cẩn trọng các yếu tố đặc thù của quốc gia mình, mọi vận hội, và cả sự phản kháng, nhất là trong phạm vi chính trị. Không có con đường nào duy nhất dẫn đến thành công[3]. Singapore chỉ là một trường hợp duy nhất làm nên lịch sử. NỘI DUNG SÁCH Chương 1 phác họa sơ nét thành tích phát triển của Singapore, đồng thời dựa trên phương pháp phân tích mức tăng trưởng, để phân tích tỷ lệ tăng trưởng đạt mức bình quân 8% hàng năm trong suốt bốn thập niên vừa qua, theo năm nguyên nhân có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thứ nhất: tầm quan trọng của việc hình thành nguồn vốn vật chất lúc ban đầu nhưng về sau vai trò này càng giảm dần cùng với sự gia tăng năng suất, sẽ được đề cập trong chương này. Thứ hai: tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán ghi nhận khoản ngân sách thiếu hụt trong suốt hai thập niên đầu sau khi giành độc lập vẫn duy trì ở mức ổn định. Thứ ba: mức dự trữ quốc gia không ngừng gia tăng theo những mức độ phi thường. Thứ tư: nguồn tài sản tích lũy từ nước ngoài gia tăng một cách mau chóng trong hai thập niên cuối đã mang đến cho Singapore nguồn thu nhập bổ sung đáng kể từ nước ngoài. Thứ năm: nền kinh tế quốc nội trong thời gian này vẫn tiếp tục có những bước chuyển biến mới. Chương 2 đưa ra phân tích những hoàn cảnh tự nhiên mà Singapore phải đối mặt vào thời điểm năm 1965 khi đất nước giành được độc lập. Điều kiện tự nhiên về mặt địa lý và hoàn cảnh lịch sử đã mang lại cho đất nước này những thế mạnh và trở ngại gì? Có phải Singapore đã khởi đầu ở một vị thế tương đối thuận lợi? Hoặc đất nước này đã chơi rất hay một ván bài được chia thông qua các sách lược kinh tế nhạy bén và một cơ cấu quản lý hoạt động hiệu quả? Chương 3 nghiên cứu các chính sách làm hậu thuẫn cho nguồn lực tăng trưởng kinh tế gần đây của Singapore, đồng thời trình bày bốn nguyên tắc căn bản trong việc thiết lập nên các chính sách tăng trưởng kinh tế đúng đắn, phần nào giúp cho các quốc gia khác có thể liên hệ vận dụng trong nền kinh tế riêng của đất nước mình. Chương này cũng cho thấy các chính sách đa dạng ở Singapore (về thuế quan, mức dự trữ bắt buộc, về tiền tệ và tỷ giả hối đoái, về lương bổng, giáo dục, y tế và giao thông) có thể góp phần làm sáng tỏ vai trò quan trọng của bốn nguyên tắc căn bản này như thế nào. Các chính sách được thi hành đã cho thấy một điều hết sức cần thiết là phải kịp thời ra tay trấn áp mọi biểu hiện chống đối một khi chúng manh nha xuất hiện. Sự quản lý khắt khe của chính quyền về mặt kinh tế, như một tính cách đặc thù của Singapore, sẽ được đề cập ở một chương riêng. Chương 4 đặt vấn đề tìm hiểu xem các chính sách đúng đắn đã được thực thi như thế nào ở đất nước Singapore. Rất nhiều quốc gia đã từng vạch ra các chính sách hết sức tốt đẹp, đôi khi được sự trợ giúp từ bên ngoài, nhưng lại gặp nhiều thất bại khi đưa ra thực hiện. Các chính sách ở Singapore đã có một cơ cấu quản lý thích hợp đứng làm hậu thuẫn: một bộ máy điều hành đạt hiệu quả, những điều luật ban hành nghiêm ngặt, và một guồng máy xã hội vận hành đúng chức năng, tất cả đã góp phần mang lại một nền tảng chính trị hết sức ổn định. Và rồi đến lượt các cơ cấu tổ chức chính quyền này quay lại tiếp nhận những giá trị đạo đức xã hội hết sức quý giá, cũng chính là vấn đề mà chính phủ luôn quan tâm khuyến khích. Chương 5 đưa ra nghiên cứu một nền kinh tế chính trị đã góp phần hình thành nên các cơ cấu quản lý chính quyền ủng hộ cho sự tăng trưởng. Tại sao và làm thế nào mà Singapore lại thành công trong việc thiết lập nên các chính sách quản lý tăng trưởng đạt nhiều hiệu quả, trong khi các quốc gia khác lại gặp thất bại? Một lời giải đáp có thể gợi nhiều chú ý, đó chính là vì tầng lớp lãnh đạo cao cấp đã nhận thức được rằng việc phân bố rộng khắp các nguồn phúc lợi có được từ sự tăng trưởng kinh tế cũng chính là quyền lợi của chính họ. Những nguyên tắc sách lược và chiến lược nào đang được chính quyền Singapore theo đuổi, và những quốc gia khác có thể liên hệ vận dụng những nguyên tắc căn bản này hay không? Chương 6 cùng lúc đưa ra trình bày những chiều hướng tác động khác nhau đồng thời nhấn mạnh đến những triển vọng và thách thức đối với thành tích tăng trưởng sau này của Singapore. Những mặt khiếm khuyết của một nền dân chủ tự do đang làm các nhà phân tích phương Tây quan ngại, nhưng việc gìn giữ được sự dung hòa các chủng tộc và đối phó với tình trạng nhập cư mới thật sự đang là mối quan tâm hiện nay của nhiều người dân Singapore. Chúng tôi kết thúc chương này bằng việc rút ra những bài học kinh nghiệm mà các quốc gia khác có thể vận dụng xem xét. Tôi luôn cố gắng làm cho nội dung sách trở nên hấp dẫn hơn đối với số đông độc giả khi phải đề cập đến những khái niệm mang tính chuyên môn. Do đó, những nội dung chi tiết nặng tính học thuật sẽ được bổ sung về mặt ngữ nghĩa ở phần chú dẫn. Những đề mục chú thích này cũng đồng thời cung cấp một lượng thông tin hữu ích, là một công cụ tham khảo đắc dụng nhằm hỗ trợ cho quý độc giả trong những công việc nghiên cứu khác, kể cả việc đúc kết ra những bài học kinh nghiệm cụ thể khi so sánh thành quả kinh tế của Singapore và của những quốc gia khác. Sau khi nghiên cứu sách, độc giả có thể dễ đi đến một nhận xét rằng Singpore là một nơi chốn hết sức độc đáo và khác thường. Tôi gieo một niềm hy vọng là nơi chốn này sẽ ngày càng được mọi người hiểu biết rõ hơn, khi nó đang thể hiện ra với thế giới bên ngoài tất cả những giá trị nội tại lớn lao của đất nước mình. [1] Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2005), trang 15. [2] Năm 2005, báo cáo của tờ Công nghệ thông tin toàn cầu thuộc Diễn đàn kinh tế thế giới đã xếp Singapore đứng đầu trong 115 quốc gia đưa vào ứng dụng các thành tựu phát triển Công nghệ thông tin và truyền thông. Xem trang web http://www.wereform.org/site/homepublic.nsf/ content. [3] Ngân hàng Thế giới (1993) và Ngân hàng Thế giới (2005b), trang 78. Chương một: Nguyên nhân tăng trưởng kinh tế ở Singapore NỀN TẢNG KHỞI ĐẦU Năm 2005, Singapore chào đón 40 năm kỷ niệm ngày ra đời và trở thành một quốc gia độc lập. Trong suốt bốn thập niên vừa qua, dân số của quốc gia nhỏ bé này, nằm ở đầu phía nam bán đảo Malay, đã đạt ở mức 4,35 triệu dân, tăng hơn gấp hai lần so với năm 1965. Trong khi đó, nền kinh tế quốc gia, dựa trên Tổng sản phẩm quốc nội thực (GDP) đã tăng lên hơn 20 lần[4]. Những nhân tố nào làm hậu thuẫn cho thành tựu kinh tế quá ngoạn mục của Singapore kể từ năm 1965 đến nay, và quốc gia này đã làm cách nào để kiến tạo nên một nền kinh tế phát triển hết sức rực rỡ chỉ trong vòng 40 năm? Hãy thử ngược dòng thời gian trở lại thời điểm khởi đầu vào năm 1959 để nghiên cứu nền kinh tế của đất nước này từ đó đến nay. Năm 1959, người Anh đã dần nhượng bỏ quyền kiểm soát phần lớn các hoạt động cai trị thuộc địa, từng được áp đặt ở Singapore từ năm 1819 vì giá trị to lớn của vùng hải cảng với mực nước sâu tự nhiên và vị trí chiến lược thuận lợi của quốc gia này. Đảng Nhân dân Hành động (PAP) giành thắng lợi trong cuộc bầu cử vào năm 1959 và lãnh đạo Singapore từ đó đến nay. Ông Lý Quang Diệu trở thành vị thủ tướng đầu tiên của đất nước và tồn tại ở cương vị này trong suốt 31 năm sau đó. Từ năm 1990, ông tiếp tục giữ vai trò là thành viên nội các tối cao. Bộ máy quản lý then chốt nắm giữ vai trò trọng tâm của thành tựu kinh tế Singapore như Ủy ban Phát triển Kinh tế (EDB), Ủy ban Phát triển Chương trình nhà ở (HDB) được thành lập ngay trong năm 1961, qua việc chuyển đổi các cơ cấu ban ngành chưa hoàn thiện chức năng hoạt động đã tồn tại từ giai đoạn thuộc địa trước đây. Giai đoạn 1963-1965, Singapore là một phần lãnh thổ của Liên bang Malaysia. Chính quyền Singapore lên tuyên bố nhậm chức để điều hành đất nước, chủ yếu là vì lý do kinh tế. Liên minh kinh tế và chính trị với liên bang Malaysia đã làm gia tăng gấp hai lần quy mô thị trường, tính theo Tổng sản phẩm quốc nội. Quy mô thị trường ngày càng mở rộng hơn đã tạo điều kiện thuận lợi cho Singapore trong việc tiết giảm chi phí sản xuất ra các mặt hàng cho đến thời điểm đó vẫn còn phải nhập khẩu. Bên cạnh đó còn có thêm một nguyên nhân hỗ trợ nữa là nguồn nguyên liệu lại hết sức dồi dào. Nền chính trị cũng có những yếu tố thuận lợi tương đồng, người Malaysia và người Anh trong liên minh đã tìm ra một đường lối ủng hộ ông Lý, và chính hai quốc gia này đã tìm mọi cách ngăn chặn không cho Singapore bị biến thành một nước Cuba kiểu châu Á, khi sự khích động quần chúng của phe cộng sản có nguy cơ manh động. Tuy nhiên, lúc ban đầu, sự căng thẳng sắc tộc giữa hai vùng lãnh thổ cũng đã diễn ra. Chính quyền Malaysia, dưới thời lãnh đạo của ông Tunku Abdul Rahman, ngày càng gia tăng sự bất bình trước việc đòi quyền khẳng định của Đảng Nhân dân Hành động trong nền chính trị liên bang, và cho rằng đây là một nước bài của Trung Quốc nhằm mục đích thách thức nền chính thể của Malaysia. Bất bình ngày càng leo thang đã dẫn đến cuộc bạo động chủng tộc diễn ra quy mô vào năm 1964, đặt một nền móng khởi đầu cho việc tách Singapore ra khỏi liên bang Malaysia một năm sau đó, đánh dấu sự ra đời hết sức gian truân của một quốc gia. THÀNH TÍCH TĂNG TRƯỞNG Singapore đã đạt được một thành tích tăng trưởng về kinh tế hết sức ngoạn mục trong vòng 40 năm kể từ ngày giành độc lập. Tổng sản phẩm quốc nội với mức giá ổn định đã tăng với tỷ lệ trung bình hàng năm là 8% trong suốt giai đoạn 1965-2005. Với mức tăng trưởng dân số 2,1%, Tổng sản phẩm quốc nội tính theo bình quân đầu người tăng ở mức 5,8% trung bình hàng năm. Năm 2004, Tổng thu nhập quốc dân (GNI), bổ sung vào khoản thực thu nhập nước ngoài Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) từ các cá nhân và các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Singapore, là 41.819 đô la Singapore tính trên bình quân đầu người, tương đương 24.741 đô la Mỹ, dựa trên tỷ giá hối đoái hiện hành của đồng đô la Singapore vào năm đó. Để tiện so sánh, thu nhập bình quân đầu người ở Mỹ là 39.640 đô la Mỹ vào năm 2004[5]. Tuy nhiên, khi so sánh đối chiếu giữa nước này và nước khác, phương pháp thích hợp phổ biến hiện nay là sử dụng một tỷ giá hối đoái thiết lập ảo nhằm điều chỉnh sự khác biệt về sức mua giữa 1 đô la Mỹ ngay tại nước Mỹ và 1 đô la Singapore ở nước Singapore[6]. Theo cách tính ngang giá về sức mua này (purchasing power parity – PPP), thì thu nhập bình quân tính trên đầu người ở Singapore năm 2004 đã tăng nhẹ ở mức 26.590 đô la PPP.[7] Mức thu nhập quốc gia, biểu thị qua đồng đô la PPP, cũng có thể được dùng để so sánh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia khác nhau. Biểu đồ 1.1 đưa ra so sánh thành tích tăng trưởng kinh tế của 107 quốc gia trong giai đoạn 1960-2000. Singapore là quốc gia duy nhất đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm 7-7,5% (dựa theo tính toán chung, lấy tổng số, không dựa trên mức tính bình quân đầu người); số liệu đưa ra để dễ so sánh, có 16 quốc gia đạt mức tăng trưởng 2,5-3%, bao gồm Mỹ, Pháp và Ấn Độ. Nhiều nghiên cứu quan sát đã được thực hiện. Thứ nhất, cùng với Đài Loan, Hàn Quốc và Hồng Kông, Singapore đã nhanh chóng đạt được một thành tích tăng trưởng rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, việc đứng thứ nhất trong biểu đồ xếp hạng thế giới này tự thân nó là một điều không hề quan trọng, may thay, đây không hề là cuộc đọ sức mà "người thắng cuộc sẽ được tất cả". Hơn nữa, sẽ không rõ ràng nếu cuộc thi đấu này được ấn định theo một cách thức như thế, nghĩa là xem những mặt hạn chế về số liệu biểu thị của Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) như là một thước đo tổng thể của sự thịnh vượng. Thêm nữa, việc đem ra so sánh ở giai đoạn gần đây nhất có thể sẽ tiếp tục đẩy Singapore xuống hàng cuối bảng xếp hạng và đưa những quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ lên vị trí đầu bảng. Biểu đồ 1.1 Bảng phân bố các tỷ lệ tăng trưởng, 1960-2000 ![][10] Điều thật sự quan trọng ở đây là sự khác biệt đáng kể giữa các tỷ lệ tăng trưởng được duy trì qua một giai đoạn dài đã dẫn đến việc các mức thu nhập giữa các quốc gia sẽ chênh lệch vô cùng lớn do tăng theo cấp số nhân. Thứ hai, những nền kinh tế đã phát triển như Hoa Kỳ và Anh Quốc, đã đạt mức tăng trưởng chậm hơn trong thời kỳ 1960-2000, vì không đặt ra vấn đề thụ hưởng lợi nhuận từ kết quả của việc phát triển tăng tốc. Thứ ba, thành tích phát triển của Singapore cho thấy một sự tương phản rõ rệt giữa đất nước này và các quốc gia khác thuộc khu vực châu Phi với tỷ lệ tăng trưởng thu nhập luôn đứng ở mức âm. Sự bùng nổ dân số hết sức mau chóng đã làm các quốc gia châu Phi phải gánh chịu một sự tuột dốc hoàn toàn không vực dậy được trong mức thu nhập tính theo bình quân đầu người của đất nước. Thứ tư, khi vấn đề tăng trưởng dân số được đưa vào bức tranh kinh tế toàn cảnh, thì thu nhập tính theo bình quân đầu người ở Singapore đạt mức tương đương như ở Mỹ, tăng từ mức dưới 16% vào năm 1965 lên mức 67% năm 2004 theo mức tính ở Mỹ [8]. Đồng thời, thành tích tăng trưởng của Singapore cũng cho thấy những chuyển biến cực nhanh với điểm xuất phát từ mức thu nhập căn bản của các quốc gia thuộc diện nghèo nhất – điển hình như Zambia, đã từng là một nước có mức thu nhập trung bình, hay như trường hợp Nigeria và Venezuela với nguồn tài nguyên dầu mỏ dồi dào – điều đó là một minh chứng cho thấy tầm quan trọng của việc tận dụng yếu tố thời cơ. GIÁ TRỊ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Tăng trưởng sản lượng của Singapore luôn giữ ở mức ổn định qua nhiều thập niên liên tiếp. Tỷ lệ tăng trưởng dao động không đáng kể theo từng giai đoạn. Một phần thành công của Singapore, cũng như nhiều quốc gia khác, xuất phát từ việc đất nước này đã tránh được những thời kỳ tăng trưởng chậm hoặc không tăng trưởng. Phát triển kinh tế là hệ quả của một quá trình phát triển ổn định, chỉ bị gián đoạn tạm thời bởi các cuộc suy thoái ngắn kỳ diễn ra vào các năm 1985, 1998 và năm 2001 (xem biểu đồ 1.2). Sau mỗi kỳ suy thoái như vậy, thì mức tăng trưởng sản lượng lại khôi phục hết sức mạnh mẽ. Biểu đồ 1.2 Những chỉ báo kinh tế tiêu biểu, 1965-2005 ![][11] Mức tăng trưởng nhanh cũng đồng nghĩa với sự thịnh vượng giàu có. Chất lượng cuộc sống được nâng cao cho đại bộ phận dân chúng. Singapore đã tạo được thành công trong một bối cảnh không chỉ bao gồm mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn có cả mục tiêu phát triển xã hội. Quốc gia này theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế cùng với một sự điều tiết không quá chênh lệch về mặt xã hội. Lợi nhuận thu được từ sự phát triển thịnh vượng được phân chia tương đối hợp lý cho tất cả mọi người. Hệ số Gini, một chỉ số thông dụng dùng để tính toán mức chênh lệch thu nhập cá nhân theo tỷ lệ từ 0 (hoàn toàn bằng nhau) đến 1 (hoàn toàn chênh lệch), đạt ở mức 0,42 ở Singapore vào cuối thập niên 1990.9 Chỉ số biểu thị này cho thấy tính bình đẳng ở Singapore là ít hơn nhiều so với các quốc gia thuộc khối Scandinavian, tiêu biểu là nước Bỉ, nơi các chính sách tái phân phối được thực hiện đã góp phần giữ chỉ số Gini đạt ở mức thấp là 0,25, cũng là chỉ số tương đương ở nước Nhật. Nhưng nguồn thu nhập ở Singapore được phân phối đồng đều hơn so với Brazil và nhiều quốc gia Nam Mỹ khác, là những nơi mà chỉ số Gini lên gần đến 0,60. Thêm nữa, Singapore đã mang lại nhiều cơ hội bình đẳng hơn cho mọi người dân nhằm giúp họ có điều kiện vươn lên tầng lớp thượng lưu trong xã hội nếu so sánh với các vùng nông thôn đất nước Ấn Độ, nơi luôn diễn ra sự phân hóa sâu sắc giữa các tầng lớp xã hội. Ngoài ra, nguồn tài sản cố định cũng được sử dụng rộng khắp: chương trình trợ cấp nhà ở của chính phủ Singapore đã mang lại kết quả với 93% người dân được quyền sở hữu nhà. Ngay cả 20% số hộ dân cư nghèo nhất cũng nhận được trung bình mỗi hộ một số tiền tương đương 80.000 đô la Mỹ trong chính sách công bằng về nhà ở của chính phủ, đây thật sự là một thành tích đáng được ghi nhận.[9] Mất cân đối về mức thu nhập ở Singapore, tính theo chỉ số Gini, đã hơi tăng cao trong những năm gần đây. Nguyên nhân chính là do mức chênh lệch thu nhập giữa những ngành nghề khác nhau, điều này cũng cho thấy sức mạnh của chủ nghĩa toàn cầu.[10] Từ thập niên 1980, việc nâng cao hoạt động sản xuất và sự phát triển các dịch vụ giá trị gia tăng đã góp phần làm giảm bớt nhu cầu đối với lao động thiếu tay nghề và làm gia tăng mức lương của người lao động có kỹ năng và được đào tạo. Với những công việc đòi hỏi tính chuyên môn, tiền lương kiếm được luôn ở mức cao do thị trường ngoài nước có nhu cầu rất lớn đối với những lao động giỏi chuyên môn, trong khi ở một mặt khác của thị trường lao động, lương trả cho những lao động phổ thông luôn ở mức thấp do nguồn nhân công thiếu chuyên môn được thuê làm những công việc chân tay từ nước ngoài đều đặn đổ vào. (xem phần "Thị trường lao động linh hoạt" ở chương 3)[11]. Đây quả là một sự thách thức mà chính quyền luôn phải đối mặt vì chủ trương của nhà nước luôn khuyến khích việc tái đào tạo nguồn nhân lực, ngay cả với lao động lớn tuổi có trình độ học vấn hạn chế. Lương bổng, kể cả của nhóm lao động có thu nhập ở mức thấp nhất, đều đặn được tăng lên trong bốn thập niên vừa qua. Mức lương trung bình thực nhận của người lao động gia tăng hàng năm, đã phần nào cho thấy một sự gia tăng năng suất ở mức cao hơn. Nhu cầu công việc ngày càng lớn đã góp phần giảm thấp đi một cách đáng kể tỷ lệ thất nghiệp, với mức trung bình 3,0% kể từ năm 1973, và dao động từ 5,7% năm 1986 xuống dưới 2% trong suốt nhiều năm của thập niên 1990 (xem Biểu đồ 1.2). Mức độ nghèo khổ của người dân cũng giảm đều và sự nghèo khó cùng cực hầu như hoàn toàn bị loại trừ. Có những dấu hiệu cho thấy có sự phát triển đáng kể về yếu tố con người[12]. Tuổi thọ trung bình đã tăng từ 66 tuổi vào năm 1965 lên 78 tuổi vào năm 2003. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em đã giảm từ 27 trên 1000 trường hợp trẻ sơ sinh xuống ít hơn 3 trên 1000 trường hợp, mức thấp nhất trên thế giới cùng với Nhật Bản và Thụy Điển. Tiêu chuẩn vệ sinh cao trong môi trường sinh hoạt, và nguồn nước sạch luôn có đủ dành cho tất cả mọi người. Việc phát triển về cảnh quan môi trường luôn được duy trì thực hiện. Mặc dù mật độ dân số dày đặc nhưng Singapore vẫn được ghi nhận là rất xanh và sạch, xứng đáng với danh hiệu được ban tặng "Thành phố cây xanh của châu Á". Đây cũng là một trong những nơi tốt nhất thế giới không có biểu hiện ô nhiễm nguồn nước qua chất thải công nghiệp[13]. Nhưng tình hình không phải lúc nào cũng được như vậy. Vào thập niên 1960, thức ăn được chuẩn bị và bày bán ngay trên đường phố đông người qua lại, sức nóng lan tỏa và độ ẩm dẫn đến hậu quả đường phố bị hư nát và đầy bụi bẩn, gia súc thỉnh thoảng chạy rông ở ngay trung tâm thành phố, chất thải do chăn nuôi heo, có lúc lên tới tổng số 900.000 con, đã làm cho tất cả mọi con sông đều nhiễm một mùi hôi độc hại. Đến thời điểm năm 1977, khi các công trình kỹ thuật quy mô được khởi công xây dựng, với những kiến thức chuyên môn, và một quá trình làm việc cống hiến liên tục hàng nhiều năm trời của biết bao công sức con người, mới góp phần tạo nên một sự biến đổi tuyệt vời và hết sức ngoạn mục như bây giờ.[14] Singapore đã tránh được vấn nạn ô nhiễm không khí mà các đại thủ phủ thuộc vùng châu Á, như thủ đô Bắc Kinh, thường hay phải đối mặt; ngoại trừ thỉnh thoảng vào những ngày hè khô nóng, những làn khói bụi và sương mù bốc lên từ những đám cháy rừng ở đất nước láng giềng Sumatra và thổi thốc vào Singapore theo hướng tây nam, gợi lại cho người dân nước này nhớ lại tình trạng yếu kém vệ sinh môi trường trước đây, đồng thời cũng là lời nhắc nhở dành cho tất cả mọi người đang sống trong một thế giới phát triển phụ thuộc lẫn nhau. Từ khi độc lập đến nay, Singapore đã có nhiều nỗ lực rất đáng ghi nhận về vấn đề tín ngưỡng tôn giáo và dung hòa sắc tộc. Tội phạm hình sự ở tỷ lệ thấp đã góp phần tạo nên mức độ an toàn cá nhân cao. An ninh công cộng và tinh thần tương ái cộng đồng luôn hiện hữu mọi nơi – tất cả điều này đã tạo cho mọi người một cảm giác thân thuộc khi đến nơi này. Vào năm 1972, vương quốc Bhutan, một quốc gia Phật giáo chính thống nằm trên dãy núi Hymalaya, đã khởi xướng cách tính một chỉ số biểu trưng khác ngoài chỉ số GDP, chỉ số "Tổng hạnh phúc toàn dân" (Gross National Happiness), với mục đích nhắc nhở mọi người hãy lưu ý đến nền tảng di sản văn hóa, đến việc gìn giữ cảnh quan môi trường và một tinh thần tương thân tương ái xã hội. Singapore rõ ràng không phải là cõi thiên đường – vì trẻ em ở đất nước này bao giờ cũng bận tâm lo lắng về những điểm số không tuyệt đối ở trường học và người lớn lúc nào cũng hướng đến một cuộc sống luôn hối hả, vội vã với quá nhiều nhu cầu – do vậy sự tăng trưởng kinh tế của một đất nước cần phải song hành với một cuộc sống thực sự với chất lượng cao xét trên nhiều phương diện. Singapore hiện đang giữ một vai trò mang ý nghĩa xây dựng và liên kết quốc tế. Là một trong những thành viên sáng lập Tổ chức các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đất nước này đang đóng một vai trò then chốt có tầm ảnh hưởng quyết định trong khu vực, đang ra sức vun đắp cho những mối quan hệ hòa bình của khu vực châu Á, một khi đã nhận thức rõ tầm quan trọng của những mối quan hệ này, và cũng nỗ lực rất nhiều cho việc vun đắp một nền kinh tế phồn thịnh của khu vực. Singapore không những tán thành mạnh mẽ quyền tự do thương mại đa phương mà còn ký kết nhiều Hiệp định Tự do Thương mại Song phương (FTAs) từ năm 2000 với các nước bao gồm Mỹ, Nhật và Chile, với nhiều thỏa ước còn đang tiến hành đàm phán. Một khi Hiệp định Tự do Thương mại song phương giành được quyền biệt đãi thì Singapore xem những hiệp định này là một tác nhân bôi trơn giúp đẩy nhanh việc tự do mậu dịch giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. PHÂN TÍCH SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Những yếu tố nào đã quyết định những thành tựu đáng kể của Singapore? Để có thể trả lời rốt ráo câu hỏi này, biện pháp thông thường được sử dụng là phân tích sự tăng trưởng thông qua các yếu tố đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong sản xuất, thí dụ như lao động và vốn vật chất. Lao động thường được chia ra thành những phần mang tính định lượng: tổng số giờ lao động trong hệ thống kinh tế, và chất lượng của lực lượng lao động, thường được diễn giải như một hình thức vốn nhân lực. Nguồn vốn nhân lực được xây dựng thông qua một hệ thống chăm sóc và cải thiện sức khỏe, nhưng chủ yếu là thông qua giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, sự phát triển ở sản lượng đầu ra không thể diễn giải một cách đầy đủ thông qua ba yếu tố đầu vào nêu trên. Yếu tố còn lại – điều không thể diễn giải thông qua sự kết hợp của các yếu tố như vốn vật chất, nhân lực và thời gian làm việc – phản ánh tổng yếu tố năng suất (total factor productivity – TFP), có nghĩa là tính hiệu quả trong việc chuyển yếu tố đầu vào thành sản lượng đầu ra. Sự phát triển của tổng yếu tố năng suất (TFP) đến từ những phát triển công nghệ – những kiến thức giúp tạo ra những sản phẩm mới hoặc những phương pháp mới trong việc sản xuất lại những sản phẩm cũ – và từ tính hiệu quả nâng cao, trong việc kết hợp những yếu tố thuộc hai mảng sản xuất và công nghệ.[15] Trong khi sự phát triển công nghệ có liên quan một cách đặc biệt tới lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D) hoặc tới việc đưa ra phổ biến rộng rãi những kỹ thuật sử dụng công nghệ tiên tiến, thí dụ như những phần mềm mới hoặc các loại điện thoại di động, hay như Cuộc cách mạng Xanh (Green Revolution) trong nông nghiệp vào thập niên 70, thì việc đạt được một hiệu quả cao lại đến từ rất nhiều những tác động hết sức đa dạng về mặt xã hội. Những tác động đó có thể bao gồm: mọi sự cải thiện cho hoạt động của bộ máy quản lý, ví dụ như giảm bớt thời gian lãng phí cho các thủ tục hành chánh; thực hiện những phương án làm việc thông minh hơn để cắt giảm mức chi phí ở cấp độ doanh nghiệp cá thể; cải cách luật pháp nhằm giảm bớt những bất ổn của thị trường vốn; tăng chế độ đãi ngộ, hoặc giảm những trở ngại trong việc tái phân phối lao động sao cho đạt hiệu quả lao động tốt hơn, thí dụ như đưa ra những quyết định về chế độ trả lương linh động hơn hoặc hạ thấp thuế nhập khẩu; cạnh tranh gia tăng kéo theo việc buộc phải nhanh chóng áp dụng những công nghệ mới; điều tiết cân bằng trong hiệu quả kinh tế; giảm bớt những hoạt động tuy mang lại lợi ích cá nhân nhưng vô tác dụng về mặt lợi ích xã hội – dù với mục đích tái phân phối thu nhập trong cộng đồng nhưng không hữu dụng cho việc tăng sản lượng đầu ra – như các hoạt động tranh chấp dân sự, vận động hành lang, hay những hoạt động "lợi dụng đặc quyền kinh tế" (rent seeking)[16]. Tổng yếu tố năng suất (TFP) có thể âm ở cấp độ một doanh nghiệp cá thể khi thua lỗ xảy ra, cũng như ở cấp độ toàn thể một nền kinh tế sau một thời kỳ khô hạn, đình trệ kéo dài hay khi sự suy thoái kéo theo tình trạng sản xuất dư thừa đáng kể. Ba nguồn yếu tố sản xuất và hai nguồn nâng cao năng suất là biểu hiện toàn diện của sự phát triển một nền kinh tế. Bằng cách xác định yếu tố thứ năm – tính hiệu quả – như là yếu tố còn lại, chúng ta nhận ra rằng bất kỳ một sự tăng trưởng nào trong mức thu nhập của một quốc gia đều tùy thuộc vào việc tăng một hoặc nhiều hơn trong năm yếu tố mang tính quyết định này. Thêm nữa, còn phải kể đến những yếu tố đóng góp đa dạng khác. Như vậy là thành tích tăng trưởng kinh tế của một quốc gia có thể được đưa ra phân tích, cho thấy sự tập hợp của khá nhiều nguyên nhân đơn lẻ đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế này. Sử dụng thuật ngữ Pentathlon (cuộc thi năm môn phối hợp) của Olympic Games, chúng ta có thể nói rằng Pentathlon của năm yếu tố riêng biệt này quyết định mức độ phát triển tổng thể của nền kinh tế. GIẢI THÍCH MỨC TĂNG TRƯỞNG CỦA SINGAPORE Những kết quả của việc áp dụng mô hình nêu trên được tóm tắt trong sơ đồ 1.3. Mức phát triển Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Singapore trong thời kỳ từ 1960 đến 2003 trung bình là 7,8% hàng năm so với 6,7% của 7 nền kinh tế đang phát triển rất nhanh ở khu vực Đông và Đông Nam châu Á, và 3,5% của 21 quốc gia đã công nghiệp hóa.[17] ![][12] Những phát hiện chính trong giai đoạn 1960-2003: Thứ nhất, vốn vật chất (stock of physical capital) gia tăng chiếm hơn nửa mức tăng trưởng kinh tế diễn ra ở Singapore trong giai đoạn suốt 43 năm (4% trong tổng số 7,8%)[18]. Từ 1960 đến 2003, nguồn vốn (capital stock) của Singapore – hiện nay bao gồm nhà máy, thiết bị, bất động sản phòng ốc – có mức tăng là 11,3% một năm, trung bình cứ 6 năm lại tăng gấp đôi. Đây là tốc độ phát triển cực cao nếu so sánh với tốc độ chuẩn từ trước đến nay. Tốc độ phát triển này nhân với 0,35 dựa trên giả thuyết là vốn chiếm tỷ lệ 1/3 và lao động chiếm tỷ lệ 2/3 tổng sản lượng thì sẽ cho ra con số 4% nói trên (xem chương "Mức độ quan trọng tương đối gia tăng của TFP" để biết thêm về phương pháp này). Thứ hai, yếu tố lao động đầu vào gia tăng – thể hiện qua tổng số giờ lao động và do vậy không thể điều chỉnh để cải thiện chất lượng – chiếm tỷ lệ hơn 1/4 (mức 2%) trong tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1960-2003. Mức tăng trưởng này cao hơn chút ít so với các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á và cao hơn rất nhiều so với các quốc gia đã phát triển. Trung bình tổng số giờ làm việc tăng 3% một năm, so với mức tăng trưởng dân số vào khoảng 2%. Một lý do giải thích cho việc tăng trưởng này là sự thu hút số lao động thất nghiệp lúc đầu chiếm một tỷ lệ khá cao. Công việc lắp ráp các thiết bị điện tử theo dây chuyền ngày càng phát triển ồ ạt tại rất nhiều các công ty, điển hình như National Semiconductors, đến Singapore vào cuối thập niên 60. Những loại hình công việc đơn giản, lặp đi lặp lại và thao tác bằng tay này đã tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn các lao động thiếu kỹ năng và chưa qua trường lớp đào tạo tại Singapore. Quan trọng hơn nữa là lực lượng lao động như thế lại tăng nhanh ở đảo quốc này. Điều đó phần nào cũng cho thấy việc tăng dân số theo quy luật tự nhiên vì số người trẻ được tuyển dụng đông hơn hẳn số lượng người vừa về hưu. Việc khan hiếm nhân công trên thị trường cũng đã tạo điều kiện cho số đông phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động này và tỷ lệ phụ nữ tham gia vào thị trường lao động đã tăng từ 28% năm 1970 lên 54% vào năm 2004. Vấn đề nhập cư và nhu cầu cho những người làm việc tạm thời đến từ các quốc gia kế cận cũng khiến số lượng người lao động gia tăng. Số lượng người xa xứ và làm việc ở nước ngoài ngày càng nhiều cũng góp phần vào việc tăng nhanh lực lượng lao động trong nước, tuy nhiên điều đó cũng không đáng kể nếu so với tốc độ phát triển cao hơn nhiều về vốn vật chất. Tỷ lệ giữa vốn và lao động tăng khoảng 28 lần trong giai đoạn 1960-2003. Thứ ba, phần đóng góp của 3 yếu tố còn lại chiếm tỷ lệ chưa đến 1/4 trong tăng trưởng kinh tế. Trong đó vấn đề phát triển nguồn vốn nhân lực, xác định thông qua số năm trung bình để hoàn tất việc học tại trường, chiếm 0,4%. Cải thiện đáng kể về chất lượng của lực lượng lao động, đánh giá thông qua trình độ học vấn, đã đáp ứng được phần nào sự khan hiếm lao động. Đáng lưu ý, đây chính là nguồn lực đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế mà các quốc gia phát triển khác ở Đông Nam Á có phần nào mạnh hơn Singapore. Những tiêu chuẩn nghiêm ngặt dựa trên giá trị đích thực đã chi phối việc tiếp tục học lên cao ở Singapore, và kết quả là tốc độ tăng trưởng về số năm trung bình để hoàn tất việc học đã có phần nào chậm hơn một số quốc gia khác ở châu Á, nơi mọi người thường chú trọng nhiều đến cơ hội để tiếp tục học lên cao. Ngược lại, khi so sánh về số năm học trung bình ở lứa tuổi 15 và lớn hơn, thì các quốc gia khác trên thế giới đã bỏ qua những tiêu chuẩn cao mà Singapore áp dụng – chính nhờ những tiêu chuẩn này mà Singapore đã đạt được những kết quả cao nhất trong các kỳ thi quốc tế về các môn toán và khoa học[19]. Ngoài ra, chương trình đào tạo tại chức (vừa học, vừa làm) cũng được khai triển mở rộng, và nhiều người trưởng thành đang có việc làm đã đăng ký tham dự các chương trình học ban đêm. Thứ tư, tăng trưởng tổng yếu tố năng suất (TFP) chiếm chưa đến 1/5 trong tăng trưởng kinh tế của Singapore. Những khó khăn trong việc đánh giá thông qua thực nghiệm khiến việc xác định phần đóng góp riêng của các yếu tố như phát triển công nghệ và tính hiệu quả là không thể được. Do vậy, biện pháp thông thường được sử dụng là kết hợp phần đóng góp chung của các yếu tố đó vào một điểm duy nhất gọi là "mức tăng trưởng năng suất". Tăng trưởng tổng yếu tố năng suất (TFP) ở Singapore, được xem như yếu tố còn lại, phản ánh những mức độ ảnh hưởng khác nhau. Việc diễn giải nhấn mạnh đến vấn đề áp dụng những kỹ thuật tiên tiến trong khâu sản xuất và cải thiện chất lượng của những thiết bị (một hình thức vốn) nhập khẩu – những máy móc thiết bị này tiêu biểu cho thứ công nghệ tinh vi mà các nước khác sử dụng. Việc cắt giảm chi phí cũng đóng một vai trò trong vấn đề này – cắt giảm chi phí thực hiện được là nhờ vào việc tăng sản lượng theo quy mô khi các tập đoàn đa quốc gia mở rộng hoạt động. Do bắt tay khởi sự từ việc hạn chế những lệch lạc trong chính sách kinh tế vi mô, nên ở Singapore, vấn đề tái sắp xếp các thành phần kinh tế sao cho đạt hiệu quả cao hơn – một thành quả của quá trình cải cách trong chính sách quản lý tổ chức – đã làm giới hạn mức tăng trưởng tổng yếu tố năng suất (TFP) ở một phạm vi hẹp hơn so với những nền kinh tế lệch lạc như Trung Quốc sau năm 1978. Tóm lại, mức tăng trưởng của Singapore cao hơn nhiều so với các quốc gia đã công nghiệp hóa, xuất phát từ việc đất nước này đã tích lũy nguồn vốn vật chất nhiều hơn và tăng tổng số giờ lao động. Một sự khác biệt tương tự cũng sẽ tách các quốc gia Đông Á khác ra khỏi nhóm các nước công nghiệp. TẦM QUAN TRỌNG TƯƠNG ĐỐI GIA TĂNG CỦA TFP Tăng trưởng kinh tế của Singapore và mức độ quan trọng mang tính tương đối của 5 yếu tố nguyên nhân luôn có tính chất thay đổi theo thời gian. Mức tăng trưởng có chiều hướng chậm lại, giảm từ 8,6% của giai đoạn 1970-80 xuống một tỷ lệ kéo dài lâu hơn là 6,2% trong giai đoạn 1990-2003 (xem biểu đồ 1.3). Những tác động nằm phía sau sự phát triển của nền kinh tế cũng thay đổi: yếu tố vốn vật chất và số giờ lao động tăng đã giải thích tại sao vào những thập niên đầu tỷ lệ tăng trưởng lại cao hơn nhiều so với những năm gần đây. Sản lượng ở đầu ra tăng vọt vào những năm đầu cũng chủ yếu là do việc tăng đáng kể yếu tố đầu vào tại các tập đoàn đa quốc gia của nước ngoài chuyên về hoạt động xuất khẩu. Đầu tư quy mô trong lĩnh vực xây dựng căn hộ chúng cư cũng góp phần vào sự tăng trưởng này. Tuy nhiên, những khó khăn về lâu dài trong việc tăng yếu tố đầu vào của bất kỳ một nền kinh tế nào, chính vì điều này không thể nào kéo dài vô thời hạn được. Cuối cùng thì tất cả những lao động thặng dư sẽ được chuyển đến những bộ phận làm việc hiệu quả hơn. Có một giới hạn về tỷ lệ những người làm việc trong độ tuổi từ 15 đến 64. Yếu tố vốn ở đầu vào xem như là một nguồn lực của tăng trưởng kinh tế cũng có một giới hạn: khi dự trữ vốn tăng thì việc giảm tỷ lệ thu hồi trên mỗi đơn vị sản phẩm làm thêm sẽ đẩy năng suất biên tế xuống gần như bằng 0. Ngoài ra, dự trữ vốn tăng đòi hỏi phải tăng mức tiết kiệm của một quốc gia để có thể thay thế phần dự trữ không còn giá trị do sự hao mòn hay do đã lỗi thời.[20] Từ năm 1990, phát triển giáo dục và sản xuất cũng đã góp phần đẩy mạnh mức tăng trưởng kinh tế lên đến gần 40% (mức tăng 2,4%). Mức đóng góp vào sự gia tăng của cả hai yếu tố là dự trữ vốn và lao động đầu vào đã có dấu hiệu chựng lại, và giữ một tỷ lệ không đổi tương tự như ở các quốc gia có nền kinh tế đã phát triển. Tỷ lệ giữa vốn và sản lượng của Singapore tăng từ 1 trong những năm 60 vượt lên mức 3 vào năm 2000. Khi mức tăng trưởng giảm xuống một tỷ lệ có thể tồn tại lâu hơn, thì sự gia tăng tập trung nơi đầu vào đã được thay thế bằng một yếu tố khác – đó là tăng chất lượng gặt hái từ những thành quả đạt được trong giáo dục và trong tổng yếu tố năng suất (TFP), khi những khoản đầu tư khổng lồ vào cơ sở hạ tầng ở thời kỳ đầu đã bắt đầu mang lại kết quả. Giai đoạn suy thoái 1985-1986, lần đầu tiên kể từ năm 1964, đã làm bùng nổ những thay đổi chủ yếu trong nền kinh tế Singapore, một nền kinh tế hướng đến sự tăng trưởng dựa trên chất lượng. Trong thời kỳ suy thoái này, nền kinh tế của vùng đảo quốc đã bị tổn thương khi mức cầu sút giảm ở thị trường Hoa Kỳ, cùng những tác động dây chuyền của nó trên toàn cầu, cũng như khi các tập đoàn đa quốc gia chuyển địa bàn hoạt động từ Singapore sang các quốc gia có chi phí đầu tư thấp hơn trong khu vực. Những yếu tố có tác động khác bao gồm mức cung dư thừa trong lĩnh vực xây dựng, một phần là do việc xây dựng nhà ở nhiều quá mức và việc thất bại trong chính sách đãi ngộ cao (xem chương 3: Hiệu chỉnh và áp dụng những chính sách thực dụng). Chính phủ đã phản ứng với những thách thức này bằng cách chuyển hướng nền công nghiệp của đất nước mình ra khỏi cung cách làm việc theo kiểu dây chuyền lắp ráp và nâng cấp nó thành một nền công nghiệp giá trị gia tăng. Ngân hàng và những bộ phận cung cấp dịch vụ khác được ưu tiên phát triển. Giáo dục và công nghệ đỉnh cao trở nên ngày càng quan trọng. Vào thập niên 90, Singapore quyết định biến đổi nền kinh tế đất nước trở thành một nền kinh tế dựa trên tri thức và luôn sẵn sàng đổi mới. Tại Singapore, những thành tựu trong lĩnh vực giáo dục cũng như lĩnh vực nghiên cứu và phát triển được xem là hai nhân tố quan trọng hàng đầu mang tính quyết định trong khả năng cạnh tranh về công nghệ, và đất nước này đã vượt lên cả Đài Loan, Hong Kong, cũng như Hàn Quốc. Rất nhiều những nỗ lực phối hợp thực hiện nhằm hướng đến việc hình thành nguồn vốn nhân lực và năng suất lao động. Vào đầu thập niên 90, một cuộc tranh luận mang tính học thuật đã diễn ra, thôi thúc chính phủ cần phải duy trì được mức tăng trưởng kinh tế bằng cách đặt niềm tin nhiều hơn nữa vào vấn đề đổi mới và nâng cao sản lượng. Một tài liệu gây tranh luận của Alwyn Young (1992) và Paul Krugman (1994), trong đó nghiên cứu những kết quả tính toán về sự tăng trưởng, đã chỉ ra rằng tỷ lệ tăng vốn vật chất thậm chí còn lớn hơn tỷ lệ đã nêu trong biểu đồ 1.3. Young nhận thấy là tổng yếu tố năng suất (TFP) – yếu tố còn lại, và rất nhạy với những sai sót – gần như là bằng 0. Phát hiện này cũng ám chỉ rằng sự tăng trưởng của Singapore chắc chắn sẽ sụt giảm trầm trọng bởi vì không một yếu tố nào khác ngoài tổng yếu tố năng suất (TFP) có thể đảm bảo duy trì mức tăng trưởng trong thời gian dài hạn[21]. Hơn 10 năm qua, cuộc tranh luận vẫn còn tiếp tục và trong khi những vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ, thì phương pháp luận được sử dụng làm cơ sở cho biểu đồ 1.3 vẫn còn có thể giúp mang lại những nhận thức đúng đắn và có giá trị.[22] ĐẦU TƯ VÀ DỰ TRỮ Việc gia tăng nhanh chóng nguồn vốn vật chất của Singapore cho thấy nguồn vốn bổ sung dồi dào hàng năm thông qua mức thực đầu tư rất cao. Tuy nhiên sự hình thành tổng số vốn cố định, bao gồm cả sự khấu hao, lại là một biểu thị tiếp theo thông dụng hơn khi xem xét đến tình trạng bất ổn đáng kể của tỷ lệ hằng năm về mức độ hao mòn và lạc hậu của nguồn vốn hiện có. Những thay đổi diễn ra nhiều hơn trong việc bổ sung vào nguồn vốn dự trữ sẽ mang lại sự hình thành tổng số vốn quốc nội hay còn gọi vốn đầu tư. Tỷ lệ đầu tư của Singapore đã tăng hơn gấp đôi, từ 20% Tổng thu nhập quốc dân vào năm 1963 đến hơn 40% vào đầu thập niên 1980.24 Những hoạt động đầu tư quy mô trong khu vực kinh tế tư nhân thường tập trung vào lĩnh vực máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, xây dựng nhà máy sản xuất, cùng những hạng mục đòi hỏi kinh phí đầu tư lớn như các tổ hợp liên doanh khai thác hóa dầu và dầu khí. Đầu tư trong khu vực kinh tế nhà nước kết hợp với họat động đầu tư trong khu vực kinh tế tư nhân đã làm gia tăng đáng kể nguồn thu lợi nhuận bằng cách tập trung vào việc xây dựng căn hộ chúng cư trong những năm đầu và tiếp theo đó là việc xây dựng cơ sở hạ tầng, gồm một cầu cảng hiện đại hoạt động hiệu quả, phi trường, hệ thống đường bộ, phương tiện giao thông công cộng và hệ thống viễn thông. Tỷ lệ đầu tư tiếp tục vượt quá 30% trong thập niên 1990 (xem Biểu đồ 1.4). Sau đó giảm xuống dưới mức 20% vào năm 2003 và 2004 do nền kinh tế đất nước trải qua thời kỳ suy thoái từ ảnh hưởng nặng nề của cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ và căn bệnh Hội chứng Suy hô hấp cấp tính (SARS) năm 2003 đã gây nhiều hoang mang lo lắng, và kết quả là một sự đình trệ trong những hoạt động xây dựng cũng như sự sụt giảm đáng kể nguồn vốn dự trữ.[23] Tuy nhiên, giai đoạn 1965-2004, tỷ lệ đầu tư của Singapore vẫn ở mức cao một cách đáng kể so với nhiều quốc gia khác, kể cả các nước thuộc khu vực Đông Á. ![][13] Mức đầu tư cao ở Singapore là do thuận lợi từ mức dự trữ cao. Phần ngân quỹ dự trữ không sử dụng tới của Tổng thu nhập quốc dân (GNI), đã gia tăng đều đặn, có khi vượt quá 50% vào thập niên 1990. Trong quá trình 40 năm thực hiện với sự cân nhắc điều chỉnh, Singapore đã đạt được thành tích có mức tỷ lệ dự trữ cao nhất thế giới. Kể từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ này luôn đạt mức trung bình 43%, một thứ hạng có tầm cỡ mà Singapore chỉ chịu xếp ngang hàng với Trung Quốc và với một vài quốc gia xuất khẩu dầu mỏ như Ả Rập Saudi. Cho đến năm 1985, đầu tư quốc nội của Singapore đã vượt quá dự trữ quốc gia. Tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán cũng ghi nhận mức thâm hụt ngân sách tương ứng. Nguồn vốn tài chính từ nước ngoài đổ vào đã bổ sung vào dự trữ quốc nội với mục đích tài trợ cho đầu tư quốc nội. Nguồn vốn chảy vào đó được thực hiện chủ yếu theo hình thức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (foreign direct investment – FDI) khi các tập đoàn đa quốc gia tiến hành xây dựng nhà máy và trang bị phương tiện sản xuất hoặc tiến hành việc hợp nhất và sáp nhập với nhau. Những khoản nợ vào những năm khởi đầu do chính quyền Singapore vay mượn từ các tổ chức đa quốc gia như Ngân hàng Thế giới chẳng hạn, đã nhanh chóng được thanh toán hết. Như vậy là trong nhiều thập niên gần đây, Singapore đã không còn khoản nợ vay nước ngoài chính thức nào nữa. MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ RA NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE Năm 1985 là thời điểm then chốt. Sau hậu quả suy thoái tạm thời trong năm này, chính phủ đã đưa ra một quyết định mang tính chiến lược là khuyến khích mọi cư dân – thuộc cả thành phần kinh tế nhà nước lẫn thành phần kinh tế tư nhân – tham gia đầu tư ra nước ngoài. Do nền kinh tế đã phát triển và rơi vào tình trạng buộc phải hạ mức thuế nhằm khuyến khích đầu tư, đã mở ra những cơ hội vàng cho việc đầu tư ra nước ngoài ở những quốc gia đang khan hiếm vốn, điều đó sẽ tạo ra một nguồn thu nhập bổ sung dồi dào cho đất nước Singapore. Cũng tương tự như vậy, nguồn vốn thực đầu tư ra sẽ góp phần làm giảm đi áp lực tăng giá đồng đô la Singapore. Thặng dư tài khoản vãng lai tăng nhanh sẽ bổ sung thêm vào vốn ngân sách, khi xuất khẩu tăng nhanh hơn nhập khẩu. Từ vị thế là một tổ chức thuần sử dụng vốn dự trữ từ nước ngoài, Singapore đã chuyển sang vị thế là một tổ chức thuần cung ứng vốn. Quá trình này được thực hiện bằng rất nhiều phương cách. Thứ nhất, chính phủ Singapore, chủ yếu thông qua các tổng công ty, có thể kể đến Temasek Holdings và Tập đoàn Đầu tư Nhà nước Singapore (GIC), sẽ tiến hành đầu tư một phần thặng dư ngân sách chính phủ vào các dự án nước ngoài. Điển hình như các dự án Công viên công nghệ thông tin ở thành phố Bangalore thuộc Ấn Độ, hệ thống các khách sạn tại Việt Nam, phương tiện vật chất cho hệ thống cầu cảng và kỹ thuật viễn thông ở Bỉ. Thứ hai, khi thặng dư tài khoản vãng lai dồi dào hơn, đủ sức cung cấp cho dòng vốn thuần đầu tư ra nước ngoài thì Ủy ban Giám sát Tiền tệ Singapore (MAS) và ngân hàng trung ương đã tích lũy được một cách đáng kể nguồn quỹ dự trữ ngoại hối chính thức hàng năm. Thứ ba, rất nhiều tập đoàn công nghệ cao đang đóng tại Singapore đã khuếch trương hoạt động ra nước láng giềng Malaysia do chi phí lao động và chi phí đất đai ở đây thấp hơn. Các tập đoàn này tiến hành xây dựng các quy trình hoạt động sản xuất tại Malaysia trong khi vẫn duy trì trụ sở chính và cơ sở vật chất dành cho bộ phận nghiên cứu và phát triển tại Singapore, tận dụng mọi thuận lợi từ cả hai phía mang tính bổ sung cho nhau.[24] Đồng thời, dòng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) vào Singapore vẫn tiếp tục tăng mạnh vì đất nước này đã gầy dựng thành công một nền khoa học kỹ thuật phát triển cao với nhiều tiềm năng đổi mới, nguồn vốn này góp phần làm tăng thêm thặng dư tài khoản vãng lai. Với dự trữ vượt quá đầu tư quốc nội kể từ năm 1985, tất cả cư dân Singapore – từ thành phần thuộc khu vực nhà nước đến thành phần thuộc khu vực tư nhân, từ tập thể cho đến các hộ gia đình, đều có lượng tài sản thuần bằng ngoại tệ đáng kể gởi nước ngoài. Tính trung bình từ hơn 10 năm qua, thặng dư tài khoản vãng lai nước ngoài đã vượt quá 18% tổng thu nhập quốc dân, tăng đến mức 29% trong năm 2005 (xem Biểu đồ 1.4). Dựa theo nguyên tắc tính toán lũy tiến, thì điều này cho thấy một sự tích lũy dự trữ không ngừng. Cứ xem như là nguồn tài sản thuần gởi nước ngoài từ một mức dưới 0 vào năm 1985 của Singapore đã tăng nhanh, nhưng xét về thành tích tăng trưởng kinh tế, thì mức thặng dư trong thập niên vừa qua đã lớn hơn rất nhiều so với mức thâm hụt ngân sách phải gánh chịu trước năm 1985. Nguồn vốn dự trữ nước ngoài chính thức của Singapore đã lên đến 184 tỷ đô la Singapore vào thời điểm cuối năm 2004, tương đương với 105% Tổng thu nhập quốc dân trong năm này. Mức thực đầu tư nước ngoài của quốc gia vào cuối năm 2004 theo báo cáo chính thức là tương đương 85% Tổng sản phẩm quốc nội, thấp một cách đáng ngạc nhiên nếu căn cứ vào mức thăng dư tài khoản vãng lai tích lũy rất cao trong nhiều năm qua, điều đó có thể cho thấy giá trị không đổi của nguồn tài sản.[25]Có thể thấy trước, tình hình thực đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng của Singapore đang có nhiều triển vọng tạo ra một nguồn thu nhập bổ sung đáng kể. Sự chuyển mình của đất nước bắt đầu vào thời điểm năm 1985 trở đi, từ vị thế là một tổ chức thuần sử dụng vốn dự trữ từ nước ngoài, Singapore đã chuyển sang vị thế là một tổ chức thuần cung ứng vốn, đã làm nảy sinh nhiều ý kiến tranh luận đáng chú ý. Thứ nhất, sách lược tăng trưởng vào thời kỳ đầu từ việc phải gánh chịu thâm hụt ngân sách tài khoản vãng lai, đã được chứng minh là hoàn toàn đúng đắn: đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã mang lại nguồn vốn ngân sách ổn định góp phần thúc đẩy cho chiến lược tăng trưởng kinh tế ưu tiên xuất khẩu. Chua bao giờ đất nước này trải qua tình trạng cán cân thanh toán có nguy cơ mất cân đối.[26] Thứ hai, tương tự các quốc gia khu vực Đông Nam Á khác, đường lối chính sách của Singapore trong suốt 20 năm qua có thể cho thấy đất nước này đi theo thứ "chủ nghĩa trọng thương" (mercantilism), phản ánh một quá trình tích lũy dài lâu nguồn tiền gởi nước ngoài qua mức thặng dư tài khoản vãng lai nước ngoài hiện đang có một tỷ lệ rất cao. Việc thực hiện một đường lối chính sách như thế sẽ phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí hợp tác của các quốc gia khác và vào khả năng duy trì mức thâm hụt ngân sách nước ngoài tương ứng. Từ khả năng có thể bị tác động, bị ảnh hưởng, Singapore đã đạt tới ngưỡng mà ở đó quy mô của mức thặng dư đạt mức cực kỳ lớn và được ước định trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu mất cân bằng đang cần ổn định, cân đối lại. Thứ ba, mặc dù thặng dư tài khoản vãng lai nước ngoài tăng cao nhưng Singapore vẫn duy trì cán cân thu nhập ròng âm. Trong suốt thập niên 1990, Tổng thu nhập quốc dân đã vượt quá Tổng sản phẩm quốc nội, nhưng chiều hướng chênh lệch này đã được chuyển đổi từ năm 2000. Từ đó đến nay, lợi nhuận chuyển về nước cũng như những khoản tiền chuyển về của những người lao động Singapore tại nước ngoài đã vượt quá mức thu nhập có được từ việc đầu tư ra nước ngoài của Singapore. Chiều hướng thay đổi này thể hiện qua một tỷ lệ lãi suất thấp trong môi trường đầu tư quốc tế, song song đó cũng cho thấy sự lệ thuộc vào tầng lớp lao động phổ thông và chuyên nghiệp của Singapore đang sống tha hương ở nước ngoài. Việc mức thặng dư tài khoản vãng lai và tỷ lệ thu hồi lợi nhuận dựa trên nguồn tiền gởi nước ngoài của Singapore đang tiếp tục gia tăng vượt trội hơn nguồn thu nhập có được từ các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Singapore, có lẽ sẽ tiếp tục ban thưởng cho những nỗ lực không biết mệt mỏi của đất nước này trong việc gia tăng mức dự trữ đến mức cực cao với nguồn thu nhập thuần luôn được bổ sung từ nước ngoài trong những năm sắp tới. MỨC DỰ TRỮ CỰC CAO Tỷ lệ dự trữ cao ở mức đáng ngạc nhiên của Singapore là một vấn đề đang gây nhiều chú ý của giới quan sát. Các nghiên cứu kinh tế học đã nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của yếu tố tăng trưởng nhân khẩu trong việc thúc đẩy gia tăng tỷ lệ dự trữ của Singapore trong suốt giai đoạn từ 1970 đến 1983. [27] So với tổng dân số quốc gia thì tỷ lệ người dân trong độ tuổi lao động ở Singapore (từ 15 đến 64 tuổi) luôn gia tăng đều đặn từ 56% trong năm 1968 lên đến 70% năm 1983, trong khi tỷ lệ người chưa thành niên và người có tuổi đang sống lệ thuộc lại có chiều hướng suy giảm. Tỷ lệ sinh sản thấp và phụ nữ được quyền tham gia lao động. Việc mau chóng tạo ra công ăn việc làm đã góp phần mang lại sự gia tăng đáng kể một lực lượng lao động hùng hậu. Các gia đình ngày càng ít con hơn, nên họ đã có thể cắt giảm một phần chi phí dành cho tiêu dùng hàng ngày trong mức thu nhập của mình, và như vậy cũng có nghĩa là tăng thêm khoản tiền tiết kiệm được. Đây là một giả thuyết có tính thuyết phục, dựa trên lý thuyết tiêu thụ theo chu kỳ của Modigliani, và điều này cũng đã được chứng minh ở nhiều nền kinh tế của các quốc gia Đông Á khác. Vấn đề này hàm chứa một ẩn ý sâu xa: đối với Singapore, một tỷ lệ dự trữ thấp hơn đang nằm chờ ở phía trước một khi độ tuổi dân số tăng nhanh trong những thập niên sắp tới. Ngược lại, nền kinh tế các quốc gia khác như Ấn Độ và Pakistan, với mức tăng trưởng dân số trước đây luôn rất cao nay đang chậm lại, giờ đây đang tiến vào những thập niên với mức dự trữ sẽ gia tăng nhanh chóng. Ở Bangladesh, khoảng 35% dân số đất nước ở độ tuổi 15 hoặc nhỏ hơn đang sẵn sàng tham gia vào lực lượng lao động. Với tỷ lệ sinh sản đang giảm từ 6 xuống còn 3 trẻ em trong vòng một thế hệ, có nghĩa là số lượng trẻ em mà người lao động ở thời kỳ sau này phải chăm lo sẽ ít hơn, do vậy tạo điều kiện cho đất nước được thụ hưởng phần thu nhập chia cho nhân khẩu, với điều kiện phải có các chính sách hỗ trợ đúng đắn đi kèm. Trái lại, Trung Quốc đã được thụ hưởng phần thu nhập chia cho nhân khẩu như vậy. Trường hợp Singapore cũng tương tự, tỷ lệ những người sống phụ thuộc đã luôn ở mức ổn định kể từ năm 1983. Những sự thay đổi nhanh chóng khác trong mức tỷ lệ dự trữ sau năm 1983 có một mối liên hệ chặt chẽ với mức tăng trưởng thu nhập, đây là một biến số dùng để giải thích thứ hai[28]. Dự trữ đã tạo những điều kiện thuận lợi cho đầu tư và tăng trưởng, và sau đó đến lượt một mức tăng trưởng cao hơn sẽ có xu hướng làm gia tăng tỷ lệ dự trữ trong những quốc gia có nền kinh tế có mức thu nhập trung bình. Sự gia tăng tỷ lệ dự trữ cũng đã diễn ra đối với cả chính quyền trung ương lẫn các khu vực kinh tế thuộc sở hữu nhà nước trong suốt những thời kỳ có mức tăng trưởng cao ở Singapore khi mức thu nhập ròng của họ luôn vượt xa chi phí tiêu dùng. Việc hạn chế đưa ra công bố các số liệu cụ thể đã gây nhiều khó khăn cho các nhà nghiên cứu kinh tế học khi họ muốn phân chia, tách biệt mức dự trữ ở khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, trong nhiều năm kể từ 1998 trở đi, theo một phân tích thống kê tiêu biểu về mức tỷ lệ dự trữ quốc gia đạt 45%, thì dường như trong đó 18% mức dự trữ Tổng thu nhập quốc dân là thuộc về các cơ sở kinh tế tư nhân, và khoảng chừng 9% là thuộc về mỗi bộ phận trong ba thành phần kinh tế còn lại bao gồm chính quyền trung ương, các hộ gia đình và các khu vực kinh tế thuộc sở hữu nhà nước.[29] Các chính sách nhà nước, chủ đề của chương 3, và cũng được coi là yếu tố thứ ba hết sức quan trọng có tác dụng khuyến khích sự gia tăng mức dự trữ và được xem như là một phần của chiến lược phát triển kinh tế toàn diện. Chính nhà nước đã tạo ra dự trữ dưới hình thức thặng dư tài khoản vãng lai trong ngân sách quốc gia, và gián tiếp nâng cao mức dự trữ thông qua thặng dư của các công ty liên doanh với nhà nước (GLCs) và các công ty độc quyền nhà nước, đồng thời thông qua một kế hoạch dự trữ bắt buộc phải có nhằm bảo trợ cho cuộc sống của hơn 80% dân số. Thêm nữa, các sách lược kinh tế của chính phủ bằng nhiều cách đã góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng thu nhập và tăng trưởng dự trữ như đã trình bày. Một môi trường hoạt động kinh tế với các chính sách vĩ mô đúng đắn và đặt dưới sự giám sát rất đáng tin cậy đã khích lệ các nhà đầu tư dự trữ về một triển vọng hoạt động dài lâu nơi đây, đồng thời cũng gieo niềm tin đối với các tổ chức hoạt động tài chính tại đất nước này.[30] TÓM TẮT • Singapore đã đạt một thành quả tăng trưởng cao hết sức ổn định, chỉ bị gián đoạn tạm thời bởi vài cuộc suy thoái ở mức độ tương đối, nhưng cũng chính từ đây mà nền kinh tế đất nước lại khôi phục nhanh chóng, nhờ vào các chính sách khắc phục khủng hoảng rất tài tình của nhà nước (xem chi tiết chương 3). • Mức thu nhập luôn gia tăng đều đặn, những thành công mà Singapore đã đạt được cũng xuất phát từ một bối cảnh phát triển về mặt xã hội. • Tăng trưởng kinh tế được định hướng nhờ sự tập hợp của rất nhiều yếu tố, đặc biệt là sự gầy dựng nhanh chóng nguồn vốn vật chất, được phản ánh qua một mức đầu tư rất cao, chủ yếu là từ các tập đoàn đa quốc gia. Chính điều này cũng góp phần tạo nên việc làm cho một lực lượng lao động ngày càng tăng. • Những quan ngại xuất phát từ học thuyết kinh tế tân cổ điển (neoclassical economics) về việc giảm tỷ lệ thu hồi lợi nhuận, đã không cho ra một kết quả tệ hại như nhiều người dự báo, dù kết quả tăng trưởng đã chững lại ở mức ổn định hơn (5,2%) trong thập niên vừa qua. Nguồn vốn hình thành cố định luôn được bổ sung lại tiếp tục đóng góp vào mức tăng trưởng. Tuy nhiên, theo thời gian, vai trò đóng góp của nguồn vốn nhân lực, của các tiến bộ công nghệ, cùng với việc gia tăng năng suất ngày càng trở nên quan trọng hơn. • Dự trữ của Singapore luôn gia tăng đều đặn từ mức thấp đến mức cực cao, đã cho thấy vai trò đóng góp của các yếu tố về nhân khẩu, về mức tăng trưởng thu nhập cao và các chính sách điều hành kinh tế của nhà nước. Mức thâm hụt ngân sách tài khoản vãng lai nước ngoài đến thời điểm năm 1985 đã chứng tỏ một chiến lược tăng trưởng kinh tế đúng đắn và hiệu quả. Nguồn ngân sách dưới hình thức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài dành cho tăng trưởng xuất khẩu luôn giữ ở mức ổn định, và Singapore không hề vay mượn từ bên ngoài cho các mục đích tiêu dùng. • Sau năm 1985, mức dự trữ cao cho phép Singapore tích lũy đáng kể khoản tiền thực gởi nước ngoài. Điều này góp phần mang lại một nguồn thu nhập bổ sung hết sức phong phú trong những năm sắp tới. [4] Ngoại trừ những thông tin trích dẫn khác, thì trong chương này, nguồn dữ liệu về dân số Singapore, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và các số liệu liên quan, nhân lực lao động, tình trạng thất nghiệp đều được trích dẫn từ trang web Cục thống kê Singapore, http://www.singstat.gov.sg. [5] Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Thống kê tài chính quốc tế, số liệu tính toán trích từ các trang vùng của nước Mỹ [6] Các tỷ giá hối đoái trên thị trường có thể bị sai lệch khi được dùng để so sánh mức thu nhập giữa các nước với nhau vì thường không phản ánh được mức sống ở các quốc gia nghèo khó hơn. Nguyên do là giá sinh hoạt ở các nước nghèo thường thấp hơn nhiều so với các nước giàu có, ví dụ hãy so sánh giá hớt tóc ở thủ đô New Delhi của Ấn Độ và thủ đô New York của Mỹ khi dựa vào tỷ giá hối đoái thị trường. Sự chênh lệch khác biệt này có thể được điều chỉnh khi sử dụng một tỷ giá hối đoái thiết lập ảo nhằm phản ánh đúng hơn sức mua tại chỗ của các đơn vị tiền tệ quốc gia khác nhau [7] Ngân hàng Thế giới, (2005a), Những chỉ báo phát triển thế giới, bảng biểu 1.1. Tuy nhiên, cần phải thận trọng với cách tính đồng đô la ngang giá về sức mua này. Số liệu của Ngân hàng Thế giới năm 1999 đã xếp hạng Singapore là quốc gia giàu có thứ ba trên thế giới, chỉ đứng sau hai nước là Thụy Sĩ và Hoa Kỳ. Thu nhập bình quân tính trên đầu người ở Singapore trong năm này đã vượt quá 27.000 đô la PPP. Chỉ số 24.180 đô la PPP rớt xuống vào năm 2003 đã đẩy Singapore xuống vị trí thứ 30. Sự rớt hạng đã diễn ra mặc dù tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội tính trên bình quân đầu người ở Singapore đã thực tăng ở mức 8% trong suốt bốn năm sau đó với những biến động không đáng kể trong lạm phát giá tiêu dùng và tỷ giá hối đoái thị trường dựa trên đồng đô la Mỹ [8] Ngân hàng Thế giới (2005a) [9] Thủ tướng Lý Hiển Long, trong Báo cáo ngân sách 2006 của ông, tháng 3 năm 2006 [10] Mukhopadhaya và Rao (2002), trang 101 [11] Peebles và Wilson (2002) trang 263 [12] Ngân hàng Thế giới, Những chỉ báo phát triển thế giới, bảng biểu 2.19 [13]NgânhàngThếgiới(2005),Nhữngchỉbáopháttriểnthếgiới,bảng biểu3.6 [14] Lý Quang Diệu (2000), chương 13 [15] Weil (2005), trang 504. Lưu ý rằng khái niệm tổng yếu tố năng suất (TFP) muốn nói đến một sự phân tích được tập trung rõ ràng vào ít nhất 2 yếu tố sản xuất. Nó khác với khái niệm năng suất thông thường vẫn được sử dụng, khái niệm này được định nghĩa như là sản lượng đầu ra tính trên mỗi giờ làm việc – chỉ là một yếu tố sản xuất mà thôi – và do đó nó thể hiện phần đóng góp của việc hình thành vốn vật chất tăng thêm khi năng suất cao hơn. Tương tự như vậy, tổng yếu tố năng suất (TFP) cũng khác với sự phân tích ICOR (hệ số giá trị sản phẩm gia tăng), ICOR được tính toán bằng cách chia tỷ lệ giữa đầu tư và Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho tỷ lệ tăng trưởng GDP. Hệ số giá trị sản phẩm gia tăng (ICOR) thấp có nghĩa là năng suất vốn tăng, do đó nó thể hiện ảnh hưởng của việc gia tăng lượng lao động, đây là điều mà tổng yếu tố năng suất (TFP) không thể hiện [16] Weil (2005), trang 283, thuật ngữ 'đặc quyền kinh tế cho thuê' (Economic rent) nghĩa là tiền trả cho một yếu tố sản xuất nào đó vượt quá mức cầu để có thể nhận được sự cung cấp yếu tố sản xuất nêu trên. Việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể dẫn đến việc 'thuê' (nói nôm na là 'chạy chọt') này. Thí dụ: dầu sản xuất ở mức dưới $10 một thùng và được bán ra ở mức $60. Tìm kiếm 'thuê kinh tế' (hay có thể nói là những hoạt động lợi dụng thế mạnh tìm cách kiếm lợi tức quá mức thị trường) sẽ gia tăng khi chính sách của nhà nước tạo ra một sự khan hiếm giả tạo, thí dụ như việc cấp giấy phép hoặc bảo hộ độc quyền [17] Biểu đồ này dựa trên tài liệu Eggetsson (2004), trang 7-8. Những giá trị mẫu của các nước châu Á tiêu biểu gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan. Các quốc gia đã công nghiệp hóa bao gồm: Úc, Áo, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Iceland, Ý, Nhật, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Anh và Hoa Kỳ [18] Các nhà kinh tế phân biệt giữa 'stock' xác định vào một thời điểm, và 'flow' thí dụ như đầu tư, xảy ra và kéo dài trong một giai đoạn. 'Stock' có nguồn gốc từ 'livestock' kết hợp với 'capital'– từ 'capital' này có nguồn gốc từ tiếng Latin 'caput' giống như 'đầu' của gia súc, một hình thức xưa nhất của tài sản và yếu tố sản xuất [19] Singapore đạt điểm số cao nhất trong 46 quốc gia tham dự kỳ thi toán và khoa học dành cho học sinh lớp 8. Xem http://nces.ed.gov/pubs2005/ timss03 [20] Tỷ suất lợi nhuận biên giảm dần và khấu hao (Diminishing Returns and Depreciation) là hai khái niệm chính của mô hình phát triển 'tân cổ điển' do Robert Solow đưa ra vào năm 1952, đoạt giải Nobel Kinh Tế năm 1987 [21] Nhiều số liệu không mấy lạc quan về sự tăng trưởng tổng yếu tố năng suất (TFP) đã được các nhà kinh tế ở Singapore tính toán và đưa ra, trong số đó có ông Tsao Yuan (1986), đã sử dụng các số liệu được công bố chính thức. Xem Peebles và Wilson (1996), trang 200-9 [22] Sự tranh luận đến từ một loạt các vấn đề thuộc về phương pháp luận: (i) đặc tính của chức năng sản xuất, không nhất thiết là phải duy trì mãi một mức sản lượng theo quy mô. (ii) khó khăn trong việc ước tính độ co giãn đầu ra của vốn từ các yếu tố sản xuất do có những hạn chế trong việc cung cấp dữ liệu về các yếu tố này và trong môi trường có sự cạnh tranh không hoàn hảo; và (iii) những sự cố trong việc đo lường mức tăng trưởng vốn dựa trên những dữ liệu đầu tư thuần tích lũy liên quan đến những thời kỳ và chất lượng khác nhau (xem Eggertsson (2004), trang 6; Ngân hàng Thế giới (2005b), trang 47; và Peebles và Wilson (2002), trang 58-66). Nếu độ co giãn đầu ra của vốn cao không bình thường ở Singapore – đạt mức 0,5 như Young và Krugman nêu ra – so sánh với 0,35 trong một nền kinh tế tiêu biểu khác, dưới những giả thuyết đơn giản của phương pháp này thì hầu hết tăng trưởng của Singapore phải được quy cho sự tăng vốn vật chất. Hàm ý rằng, những đóng góp trong việc tăng năng suất, được xem như yếu tố còn lại, là không đáng kể. Những tranh luận vẫn tiếp tục là do sự diễn giải lại những số liệu thống kê đối với Singapore, một đất nước đã chứng minh hay hơn những giả thuyết thông thường về một mức co giãn vào khoảng 0,35 như trong những tính toán làm nền tảng cho những số liệu của biểu đồ 1.3 (xem Wu và Thia (2002) và Hsieh (2002) [23] Nguồn vốn dự trữ liên quan đến Tổng thu nhập quốc dân (GNI) đã giảm 9% vào năm 2003 và giảm thêm 6% vào năm 2004, nhiều một cách bất thường so với nền kinh tế các quốc gia khác. Điều này có thể liên quan tới sự kiện là mức xuất khẩu hàng hóa 'nội địa', không tính việc tái xuất khẩu quá cao, lên đến 105% Tổng sản phẩm quốc nội trong năm 2005. Việc tái xuất khẩu hàng hóa, được nhập khẩu vào Singapore nhưng bỏ qua qui trình 'xử lý, chế biến' trong nước (cho dù hoàn toàn có khả năng thực hiện các công đoạn như phân chia mặt hàng theo từng lô, xếp loại, hoặc phân hạng), lên đến 92% Tổng sản phẩm quốc nội, mang lại tổng giá trị xuất khẩu đạt mức 197% Tổng sản phẩm quốc nội trong năm 2005 [24] Theo Peebles và Wilson (2002), trang 188 [25] Bộ trưởng tài chính, ông Richard Hu (1999) đã thừa nhận thực trạng diễn biến này trước Quốc Hội. Xem thêm Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Thống kê Tài chính Quốc tế, tháng 11 năm 2005, trang 864. Theo báo cáo vào cuối năm 2004, tổng giá trị thực vào 2 năm vừa qua đã giữ nguyên không đổi dựa trên giá trị đồng đô la Mỹ, cho dù mức thặng dư tài khoản vãng lai lớn, cùng với tác động tăng giá của các đơn vị tiền tệ mạnh khác so với đồng đô la Mỹ, và chiều hướng ngày càng gia tăng của thị trường vốn quốc tế [26] Khoản thâm hụt ngân sách tài khoản vãng lai nước ngoài ở mức 4-6% Tổng sản phẩm quốc nội có thể chấp nhận được trong những điều kiện cho phép một mức tăng trưởng hợp lý và còn tùy thuộc vào hình thức và cách sử dụng nguồn vốn ngân sách thu vào. Hàn Quốc là một ví dụ tiêu biểu với khoản nợ vay nước ngoài vượt quá mức cho phép, với thực vốn thu vào đạt mức trung bình 9% Tổng sản phẩm quốc nội trong suốt giai đoạn 1953-1980 [27] Bercuson (1995), chương 7 [28] Ủy ban Giám sát Tiền tệ Singapore (2004), trang 8 [29] Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2005), trang 13 và Ủy ban Giám sát Tiền tệ Singapore (MAS) (2004), trang 8. Phân tích thống kê này dựa trên một phần tính toán nội bộ của các nhà kinh tế học thuộc Ủy ban Giám sát Tiền tệ Singapore. Bảng phân tích thống kê cũng đã xác định rõ khu vực kinh tế sở hữu nhà nước là bao gồm các công ty độc quyền nhà nước và một bộ phận các công ty không tư hữu hóa liên doanh với nhà nước. Cổ phần thuộc sở hữu tư nhân trong các công ty liên doanh với nhà nước được phân loại là thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Khởi đầu vào cuối thập niên 1980, tình trạng tỷ lệ dự trữ đạt ở mức thấp hơn đã xảy ra ở cấp khu vực nhà nước và đã được bổ sung thêm nhờ vào khu vực tư nhân vì các công ty độc quyền nhà nước và các công ty liên doanh với nhà nước đã tư hữu hóa một phần hoặc toàn phần, và thành phần của cả hai khu vực này đã có những thay đổi [30] Yếu tố văn hóa của đất nước đôi khi còn được đề cập đến như là yếu tố thứ tư. Theo như các thông tin ghi nhận được thì tại Singapore, các doanh nghiệp theo kiểu gia đình được tổ chức rất chặt chẽ và thường có khuynh hướng dựa vào thu nhập dành dụm được để đầu tư kinh doanh thay vì phải vay mượn ngân hàng. Một cách giải thích khác lại đề cập đến giá trị của các nguyên tắc đạo đức xã hội đã tiềm ẩn lâu đời từ bao lớp thế hệ đi trước. Landes (1999), trang 383, đã viện dẫn một mối liên hệ giữa mức dự trữ cao có tính hệ thống ở Nhật Bản với các giá trị đạo đức tiềm tàng nơi tầng lớp nông dân lao động thời xa xưa, 'người ta sống để làm việc, và công việc lao động mang đến cho người ta tài sản sở hữu, và đó chính là lý do tồn tại của bản thân.' Chương hai: Hoàn cảnh tự nhiên ban đầu của Singapore Mỗi quốc gia, ở bất kỳ thời điểm nào, cũng đều phải đối mặt với thực tế hiện hữu của các yếu tố địa lý, lịch sử, xã hội và chính trị. Chính sách phát triển của mỗi quốc gia, do vậy, đều phải xuất phát từ những thực trạng ban đầu này. Có phải những yếu tố hoàn cảnh mà Singapore xác định vào năm 1965 đã góp phần thuận lợi cho sự phát triển kinh tế mạnh mẽ sau này? Hay những yếu tố hoàn cảnh này lại chính là những trở ngại? NỀN TẢNG KHỞI ĐẦU Vị trí địa lý, được xem như yếu tố quyết định đến sự phát triển đất nước, có một lịch sử lâu dài và gây nhiều tranh cãi. Sức nóng và độ ẩm của vùng đất thuộc khí hậu nhiệt đới bước đầu được xem như là một vấn đề thách thức đối với lực lượng lao động chân tay và trí óc. Triết gia người Pháp Montesquieu vào năm 1748 đã nhận xét rằng "con người sẽ trở nên kém mạnh mẽ hơn trong những vùng khí hậu nóng nực[31]. Tuy vậy, sau Thế chiến thứ hai, có lẽ người ta không ngạc nhiên lắm khi tầng lớp trí thức ở các vùng thuộc địa trước đây nay vừa mới giành được độc lập đã lên tiếng phản bác chiều hướng nhận định này. Theo họ, chính những học thuyết mang tính tiền định và bi quan về mặt địa lý này và do sự kém phát triển của người dân bản xứ đã làm nảy sinh những lập luận hợp lý trong các chính sách cai trị thuộc địa của tầng lớp có thế lực thống trị trước đây. Theo lập luận hiện nay thì yếu tố địa lý đóng một số vai trò đáng kể trong việc phát triển kinh tế.[32] Trong trường hợp đất nước Singapore, mọi yếu tố về mặt địa lý bao gồm vị trí vùng nhiệt đới, địa thế vùng ven biển và tình trạng khan hiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ được đưa ra xem xét. Những vùng lãnh thổ thuộc khí hậu nhiệt đới thường phải đối mặt với nhiều điều kiện bất lợi. Như David Landes đã từng nhận định, để tồn tại, con người bắt buộc phải làm việc với nhịp độ chậm hơn trong một vùng khí hậu nóng bức và ẩm thấp[33]. Để vận hành hiệu quả, cơ thể con người phải tiêu thụ nhiệt năng sản sinh từ cơ bắp, do đó họ bắt buộc phải ngưng làm việc khi mồ hôi không thể tiết ra được nữa. Trong khi nhiều loại cây trồng vùng ôn đới như dầu cọ đang bước vào mùa bội thu, thì khí hậu vùng nhiệt đới lại thường tỏ ra khắc nghiệt đối với nền nông nghiệp gieo trồng: những cơn mưa như thác đổ luân phiên xen kẽ với những mùa khô hạn kéo dài đã làm xói mòn đất trồng; không có đặc ân của vùng thời tiết buốt giá với những loài côn trùng tự nhiên vừa gieo mầm bệnh vừa giúp phát triển thực vật; cùng với một vùng khí hậu nóng ẩm luôn tồn tại dai dẳng dẫn đến việc lây lan các bệnh truyền nhiễm gây hại cho mùa màng và sức khỏe con người. Hơn nữa, sự lây lan bệnh tật ở vùng khí hậu nhiệt đới đòi hỏi thời gian chữa trị lâu hơn so với khu vực khí hậu ôn đới. Mặc cho những điều kiện bất lợi như thế, Singapore vẫn ra sức nỗ lực tiêu diệt căn bệnh sốt rét bằng việc tiến hành làm tiêu thoát nước ở các vùng đầm lầy và thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh tật khác; tuy một số bệnh như sốt đậu mùa vẫn còn tồn tại. Địa thế vùng ven biển, trái lại, từng được đánh giá là yếu tố thuận lợi cho sự phát triển kinh tế dù không nhiều lắm. Adam Smith đã từng nêu rõ "vận chuyển đướng thủy rẻ hơn rất nhiều so với vận chuyển đường bộ, cho nên sẽ không là điều ngạc nhiên khi các đô thị trung tâm và mọi nền văn minh đều nằm ở vùng ven biển hoặc dọc theo những con sông có đường thủy thông thương".[34]Chi phí vận chuyển thấp hơn sẽ góp phần khuyến khích việc giao thương, trao đổi thông tin, việc chuyên môn hóa, và mua bán đủ mọi chủng loại hàng hóa khác nhau, từ đó tạo điều kiện cho thị trường phát triển. Giao thương thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao kỹ thuật và các ý tưởng sáng tạo, góp phần hỗ trợ cho các thành phần kinh tế đạt được giá trị trao đổi hàng hóa cao hơn và hoạt động hiệu quả hơn. Những chứng minh dựa vào thực nghiệm đã cho thấy mối tương quan khá chặt chẽ giữa mức thu nhập của một quốc gia và vị trí lùi sâu vào trong của quốc gia đó so với đường xích đạo (xem Biểu đồ 2.1). Các vùng khí hậu khác nhau là một minh chứng cho thấy sự khác biệt giữa các khoảng cách lùi sâu vào trong so với đường xích đạo, cho dù là một minh chứng sơ nét vì chưa được đưa ra khảo sát về mặt cao độ hay hiện tượng; điển hình như Dòng nước nóng Gulf Stream chảy từ vịnh Mexico qua Đại tây dương đã tạo thuận lợi rất nhiều cho phần lãnh thổ phía tây châu Âu khi đổ về đây.[35] Một điều tương tự là các vùng ven biển cũng tỏ ra có mối tương quan với mức thu nhập bình quân (xem Biểu đồ 2.2). ![][14] ![][15] Trong phạm vi các quốc gia rộng lớn như Trung Quốc, các khu vực ven biển của nước này đều phát triển tốt hơn so với các vùng lãnh thổ nằm sâu trong nội địa. Nhưng mối tương quan này tỏ ra không chặt chẽ lắm, đã phần nào cho thấy tầm quan trọng của các tác động biến đổi khác đã bị bỏ sót trong quá trình nghiên cứu. Trong biểu đồ 2.1, đất nước Singapore biểu thị cho một trường hợp ngoại lệ hết sức đặc biệt. Tuy nhiên, thêm một lần nữa, khi đề cập tới những vấn đề phát triển kinh tế, thì việc đưa ra phân tích nguyên nhân – hệ quả phải được thực hiện theo cùng một hướng hết sức rõ ràng. Việc có sẵn nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ giữ vai trò quan trọng ra sao đối với sự phát triển kinh tế? Theo như kết luận dựa trên những bằng chứng thực nghiệm thì một nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào sẽ góp phần thúc đẩy việc phát triển nền kinh tế, nhưng vấn đề này chưa phải là một điều kiện cần và đủ.[36] Giữa hai yếu tố trên có một mối tương quan mật thiết, nhưng nếu tiến hành phân tích thống kê thì vẫn còn nhiều trường hợp ngoại lệ đã khiến cho điều kiện này không đủ sức thuyết phục: Nhật Bản đạt một mức thu nhập rất cao nhưng lại có rất ít nguồn tài nguyên thiên nhiên, ngược lại điều kiện này lại tỏ ra là đúng đối với trường hợp của Venezuela. Sự dồi dào nguồn đất đai trồng trọt màu mỡ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia như Úc, Mỹ, Argentina vào thế kỷ thứ 19. Tuy nhiên, ngược lại sự có sẵn nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thực tế có thể làm cản trở sự phát triển về mặt kinh tế. Vấn đề được coi là "mối hiểm họa tài nguyên thiên nhiên" này có thể biểu hiện ở nhiều hình thái. Thứ nhất, sự phát hiện dầu mỏ hay việc leo thang tăng giá xuất khẩu dầu mỏ có thể dẫn đến hậu quả nhiều quốc gia muốn ứng trước khoản tiền vay mượn để sử dụng do dựa vào doanh thu của nguồn dầu mỏ khai thác sau này, nhưng sau đó kết cuộc không xảy ra đúng như mong đợi, và điều này đã để lại cho nhiều quốc gia một gánh nặng nợ vay chính thức khó thể xóa hết. Thứ hai, nếu việc xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên mang lại một tỷ giá hối đoái đạt giá trị cao, thì việc đưa ra xuất khẩu một lượng lớn nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể làm kềm hãm sự phát triển nền sản xuất công nghiệp và nguồn lợi nhuận kèm theo. [37]Thứ ba và có lẽ là điều quan trong hơn hết, về mặt kinh tế, việc vay mượn dựa vào cơ sở có sẵn nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể gây một tác động xấu cho hệ thống chính trị khi nó sẵn sàng mang đến một sự tha hóa về mặt chính trị, dẫn đến những cuộc tranh đấu nhằm nắm quyền kiểm soát chính quyền, có thể làm chuyển hướng nguồn ngân sách chung thông qua vay mượn từ các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước để có kinh phí thực hiện việc cấu kết phe đảng; tất cả các điều này đã dẫn đến những hậu quả như một món nợ trễ hạn (ở đất nước Venezuela), một cuộc nội chiến (ở Sudan, Angola), hay nạn ngoại xâm (ở Congo). Một nghiên cứu mới đây đã góp phần làm tăng thêm giá trị thực tiễn của điều phân tích nêu trên. Rodrik và Subramanian đã chứng minh được rằng hai yếu tố lịch sử và địa lý đã thật sự tác động một cách gián tiếp lên mức thu nhập thông qua hiệu quả hoạt động của cơ cấu tổ chức chính quyền[38]. Hai tác giả đã tiến hành những khảo sát hết sức thận trọng nhằm đi đến xác định rõ nguyên lý vận hành của quan hệ nhân – quả giữa các biến số có xu hướng tác động lẫn nhau. Họ đã nhìn ra được bản chất của sự việc mà Duran Acemoglu từng nhấn mạnh[39]. Ở những vùng lãnh thổ thuộc địa, nơi còn nhiều đất đai với dân cư thưa thớt và ảnh hưởng của khí hậu phần nào hạ thấp tỷ lệ tử vong (tiêu biểu như vùng đông nam nước Mỹ), thì những người châu Âu đến định cư dài lâu ở đây đã mang theo cùng với hành trình của mình những mô hình tổ chức nhà nước theo kiểu châu Âu. Ngược lại, ở những vùng lãnh thổ thuộc địa nơi ảnh hưởng khí hậu có thể gây ra tỷ lệ tử vong cao, nơi mật độ dân cư dày đặc và có sẵn nguồn tài nguyên thiên nhiên để khai thác (như khu vực vùng Caribbean và châu Mỹ La tinh), thì người châu Âu, sẽ tham gia vào việc khai thác nguồn tài nguyên dư thừa ở nơi đây và sẽ tiến hành thay đổi mô hình tổ chức ở những thuộc địa này, sau đó làm băng hoại những bộ máy quản lý chính quyền do chính họ tạo ra để có thể đạt được mục đích khai thác kia. Những bộ máy quản lý do những thế lực cầm quyền thuộc địa thiết lập thường có chiều hướng chuyển sang cai trị thời kỳ hậu thuộc địa sau này, cái mà họ mang đến cho các vùng thuộc địa chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới trước đây chỉ là những bộ máy tổ chức chính quyền vô cùng tệ hại, sẵn sàng quay lại bóp nghẹt sự phát triển về mặt kinh tế ở các nơi này. Theo các tác giả, các quốc gia thuộc vùng khí hậu nhiệt đới sẽ không phải chịu những tác động tiêu cực của khí hậu hay của nguồn tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng đối với sự phát triển kinh tế, nếu họ tìm cách cải tiến lại bộ máy tổ chức chính quyền của chính quốc gia mình (xem Biểu đồ 2.3). Biểu đồ 2.3 Mối tương quan giữa yếu tố địa lý và mức thu nhập. ![][16] Thông qua hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền thì việc mở mang về mặt kinh tế cũng tạo một ảnh hưởng tích cực. Trường hợp của Singapore đã minh chứng cho kết luận của hai tác giả. ĐIỀU KIỆN KHỞI ĐẦU TỆ HẠI - ĐIỂM YẾU CỦA SINGAPORE Tại Singapore, các dữ liệu nghiên cứu đã cho thấy rõ những viễn cảnh phát triển không thuận lợi mà một đất nước non trẻ vừa độc lập đã phải đối mặt. Sự non nớt yếu đuối, cả về mặt đối nội lẫn đối ngoại, là một điềm bất lợi vô cùng. Nền độc lập đất nước bị cuốn vào tình trạng căng thẳng với Malaysia và trong thời kỳ "Konfrontasi" (cuộc chiến tranh giai đoạn xung đột giữa Malaysia và Indonesia) (1963-1966) do Tổng thống Indonesia Sukarno phát động nhằm cổ vũ cho sự thành lập nhà nước Malaysia. Chi phí quốc phòng xem như là điều kiện bắt buộc, cho dù mức thu nhập ngân sách không đáng kể. Singapore phải lệ thuộc các nước bên ngoài về nguồn lương thực, chất đốt và nguồn nước sạch. Sự tác động mạnh về việc tăng giá nhập khẩu hàng hóa được cảm nhận một cách rõ rệt. Đất nước không hề có nguồn nguyên liệu công nghiệp và nông nghiệp. Không có thị trường nội địa rộng lớn. Vào lúc này, hai nước Malaysia và Indonesia đã tìm mọi cách xuất khẩu trực tiếp từ các hải cảng trong nước họ các mặt hàng như dừa khô, thiếc và các nguồn nguyên liệu khác, không qua Singapore – khi mà đất nước này áp dụng chủ nghĩa dân tộc trong các vấn đề kinh tế với mô hình "trục trọng tâm – nan hoa" (hub-and-spoke) – một mô hình thương mại trung chuyển truyền thống. Nội tình đất nước thì luôn tiềm tàng mối đe dọa của chủ nghĩa đối lập và các liên minh quân đội. Tỷ lệ thất nghiệp ít nhất là 10%, vấn đề thiếu hụt nhà ở diễn ra hết sức nghiêm trọng. Bộ máy chính quyền mới thành lập và thiếu kinh nghiệm phải đối mặt với một trọng trách to lớn trong việc cố gắng tạo dựng một sự nhận thức đúng đắn về thể chế quốc gia đối với dòng người nhập cư đa thành phần. Trình độ dân trí hết sức nghèo nàn. Tình trạng rối loạn về sản xuất công nghiệp tăng cao vào thập niên 1950 trong một bối cảnh hướng về độc lập nhưng lại mang nặng tính tranh chấp quyền lực chính trị. Nghiệp đoàn lao động chỉ gồm những người cộng sản, binh lính và những người đối lập. Họ ra sức o ép giới chủ doanh nghiệp mà không hề quan tâm đến khả năng hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Không như Hồng Kông, Singapore không có những nhà tư bản công nghiệp bản xứ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất. Bạo động chủng tộc gieo nỗi khiếp sợ cùng khắp đất nước. Mọi triển vọng dường như tỏ ra u ám đối với Singapore sau sự việc tách đất nước này ra khỏi Liên bang Malaysia, dẫn đến sau đó Bộ trưởng Ngoại giao, ông S. Rajaratnam đã phát biểu rằng cơ hội sống còn của đất nước Singapore về mặt chính trị, kinh tế, quân sự coi như gần bằng con số không.[40] NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI BAN ĐẦU Nếu xét trên một bối cảnh dài lâu hơn, thì vị trí chiến lược thuận lợi và hải cảng với mực nước sâu tự nhiên của Singapore đã ban tặng cho đất nước này một hoàn cảnh phát triển mang tính quyết định vào thời điểm năm 1965. Với vị tri địa lý giữa Ấn Độ dương và Thái Bình dương, nằm trên lộ trình thương mại Đông-Tây nổi tiếng thế giới, Singapore đã bước đầu trở thành một trung tâm gia công chế biến các hàng hóa nhập khẩu như cao su, thiếc và dầu cọ từ các quốc gia láng giềng nhằm mục đích tái xuất khẩu sau này. Các chính sách tự do thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước trở thành một trung tâm buôn bán trung chuyển với quy mô hoạt động rất sầm uất. Khoảng thập niên 1950, những ngành công nghiệp phụ như đóng tàu, bảo hiểm, ngân hàng và cơ sở giao thông hạ tầng đều rất phát triển. Khởi đầu từ những làng chài xa xôi hẻo lánh được Raffles phát hiện vào năm 1819, mãi đến năm 1960, cho dù vẫn còn ở trong tình trạng rất hoang sơ nhưng đất nước Singapore đã dần dần phát triển mở mang thêm cho tới hôm nay. Truyền thống kinh doanh của Singapore đã góp phần ủng hộ rất nhiều cho triết lý kinh doanh đề cao lợi ích cho cả hai bên mua bán, dễ dàng và thoải mái trong giao lưu văn hóa khi tiếp xúc với mọi người thuộc các sắc tộc khác nhau, nhạy bén và có năng khiếu trong việc khai thác mọi cơ hội nhằm tạo ra lợi nhuận từ giao thương mua bán và từ các mối quan hệ khác với các nước láng giềng. Truyền thống này cũng góp phần nuôi dưỡng khát vọng và tính năng động trong kinh doanh, ở một nơi mà bối cảnh nền sản xuất nông nghiệp vẫn còn ở trong tình trạng hoang sơ, với những chu kỳ mùa màng còn phải lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên và còn tồn tại khuynh hướng phân hóa xã hội cùng sự trì trệ, có lẽ cảnh tượng như thế này ít thấy hiện hữu ở một nơi nào khác. Cho dù những tuyên bố đòi độc lập ngày càng tăng cao mạnh mẽ vào thập niên 1950, Singapore vẫn thụ hưởng mọi phúc lợi của một nền di sản thuộc địa hùng mạnh Anh Quốc. Đất nước này đã từng là trung tâm hành chánh, thương mại và quân sự của vương triều Anh ở vùng Đông Nam Á. Nền di sản thuộc địa này bao gồm các ban ngành dân sự hoạt động đúng chức năng, một cơ cấu chính trị và luật pháp nhằm mục đích hỗ trợ cho các điều luật ban hành, một hệ thống trường học hoàn hảo trong khu vực nơi những người tốt nghiệp sẽ được gởi sang học tiếp tại các trường Đại học Cambridge và Oxford. Tiếng Anh giữ vai trò độc tôn trong tất cả mọi lĩnh vực. Được truyền bá và trở thành ngôn ngữ giao tiếp phổ biến trong công việc, tiếng Anh đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư vào trong nước và đặt Singapore vào một vị trí thuận lợi đối với vấn đề toàn cầu hóa sau này. Chủ nghĩa thuộc địa ở Singapore không hề kết thúc bằng một cuộc chiến tranh giành độc lập đầy cay đắng và phân chia, cũng như không cho thấy việc khai thác đến kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên có nguy cơ dẫn đến những cơ chế kềm hãm tăng trưởng như ở những quốc gia khác. Địa vị xã hội ở mức tương đối trong thời gian gần đây của phần lớn người dân nhập cư Singapore vào thời điểm độc lập cũng được xem là một điều kiện thuận lợi. Là một quốc gia trẻ với phần lớn dân nhập cư đều thuộc thế hệ thứ hai hoặc thứ ba, mặc dù người Malaysia có đặc quyền đến định cư sớm một cách hợp pháp nhưng ở Singapore không có hiện tượng chia rẽ cộng đồng bắt nguồn từ những lề thói bất công xưa cũ. Cứ coi như nguồn nhân lực thiếu chuyên môn đã bị khai thác tận cùng ở Singapore vào thế kỷ thứ 19, nhưng điều này không trở thành một sự thù địch giai cấp kéo dài dai dẳng. Không có đấu tranh giành độc lập như ở Việt Nam, Indonesia hay Algeria. Không có những di chứng khủng hoảng tinh thần đối với quá khứ hay quá trình khủng bố tinh thần diễn ra sau đó. Singapore đã tỏ ra dễ dàng hơn nhiều trong việc tìm ra một quan điểm chung hết sức tiến bộ, so với trường hợp các quốc gia vùng Caribbean, nơi người châu Phi bị đưa đến qua con đường buôn bán nô lệ. Sự thiếu vắng bề dày kinh nghiệm lịch sử truyền thống ở Singapore cùng với những bất ngờ đầy ấn tượng trong việc giành độc lập có lẽ đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái định hướng quyền lãnh đạo nhà nước độc lập Singapore. Sự tôn trọng quyền lực và tầng lớp phong kiến vương triều ảnh hưởng từ truyền thống Trung Quốc cũng góp phần làm cho nhà cầm quyền định hướng cho một quốc gia vừa mới độc lập đi theo con đường đã chọn. Tương tự như một tiền đồn mở rộng thuộc Trung Quốc, đối với Singapore, một đất nước đã từng biết rõ tầm quan trọng của sự thỏa hiệp giữa các sắc tộc và các chủng tộc, thì việc chấp nhận các ảnh hưởng thuận lợi khi mở cửa đón mời các tập đoàn đa quốc gia và nguồn nhân lực nước ngoài có lẽ là một điều dễ dàng hơn bất cứ một trường hợp nào khác. Mọi quan điểm có vẻ trở nên dễ thay đổi hơn và việc sẵn sàng thay đổi cơ cấu quản lý nhà nước sẽ tỏ ra mạnh mẽ hơn trong những xã hội có nhiều ổn định. Dân nhập cư, những người đã ra đi rời bỏ quê nhà, đang rất sẵn lòng muốn từ bỏ những lề thói xưa cũ, họ thường ít có xu hướng bài ngoại hay vọng ngoại, và luôn tỏ ra nhanh nhạy và nhiệt tình hơn trong việc đón bắt các thời cơ kinh doanh nhằm vượt lên mọi sự nghèo khổ nghiệt ngã ngày xưa. NHỮNG ĐIỀU KIỆN BÌNH THƯỜNG BAN ĐẦU Có nhiều yếu tố mang tầm ảnh hưởng vừa thuận lợi vừa bất lợi, dẫn đến việc khó nhận định kết quả tác động thực trong việc cân bằng các yếu tố này. Thu nhập bình quân tính trên đầu người đạt mức cao vào lúc khởi đầu Singapore đã có thuận lợi bước đầu. Thu nhập bình quân tính trên đầu người của quốc gia này vào năm 1965 gấp 2,5 lần so với Malaysia – mức cao nhất đứng thứ hai trong khu vực hiện nay – và gần 10 lần mức hiện hành ở Indonesia và Ấn Độ, dựa trên tỷ giá hối đoái thị trường[41]. Điều này cho thấy vị thế của một quốc gia với một thương cảng xuất nhập hàng hoạt động quy mô và vai trò của một trung tâm hành chánh quân sự. Tuy nhiên, mức thu nhập cao, do những điều kiện thuận lợi ban đầu về cơ cấu quản lý góp phần đưa tới, tự bản thân nó không hề là một yếu tố tỏ ra thuận lợi đối với tỷ lệ tăng trưởng sau này. Cứ sau một thời kỳ, khi mức thu nhập ban đầu càng cao bao nhiêu, thì sau này việc duy trì tỷ lệ tăng trưởng đó lại càng khó khăn bấy nhiêu. Những trường hợp khác cũng tương tự như vậy. Đối với các nền kinh tế đã phát triển, họ sẽ không có được những cơ hội tăng trưởng dễ dàng nhờ vào việc mô phỏng các ứng dụng công nghệ mới nhất và vào các phương thức tổ chức sản xuất mang lại nhiều hiệu quả. Thêm nữa, khi mức dự trữ vốn tăng, thì giá trị hiệu năng của một đơn vị đồng vốn bổ sung sẽ gỉảm bớt đi, và một tỷ lệ cao hơn của tổng dự trữ ngân sách buộc phải sử dụng vào để thay thế cho đồng vốn hiện hành đang giảm đi giá trị, và do đó không thể đóng góp vào sản lượng chung nữa. Điều này đã góp phần giải thích vì sao tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng của Singapore vào thời điểm hiện nay, khi dự phóng về tương lai từ 10 đến 15 năm tới, được hoạch định ở mức thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia khác như Ấn Độ hay Việt Nam. Đồng thời, không thể phủ nhận mức thu nhập của Singapore vào năm 1965 là một tác nhân tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và dự trữ nhiều hơn mức có thể trong những nền kinh tế luôn phải đấu tranh để có thể tồn tại. Diện tích nhỏ hẹp Diện tích đất đai nhỏ hẹp của Singapore vừa có yếu tố thuận lợi lẫn bất lợi. Về mặt thuận lợi, kích thước nhỏ như đô thị của quốc gia này cho phép hạ thấp đơn giá chi phí trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và những ngành phục vụ công cộng. Mật độ dân số tập trung đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc phân bố dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng và các tiện ích phúc lợi xã hội khác, đồng thời dễ dàng hơn trong việc đạt được tính nhất quán và tính hiệu quả cao trong quản lý so với một quốc gia lớn với các vùng đất đai phân chia rộng khắp. Các tiện ích về mặt đô thị làm cho việc thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài hay việc kêu gọi nhân lực lao động nước ngoài có nhu cầu đóng góp đầu tư được thuận lợi hơn. Những khu vực mật độ dân cư dày đặc thường tạo điều kiện dễ dàng hơn trong quan hệ giao dịch và trao đổi các vấn đề chuyên môn. Ở Singapore, người lao động cần kiệm không nhất thiết phải chuyển nhà đến một nơi nào khác trong phạm vi đất nước khi mạng lưới giao thông công cộng dày đặc cho phép họ nhận công việc làm ở bất cứ nơi nào mà không cần thiết phải dời nhà đi. Ngoài ra, một khi các tập đoàn đa quốc gia đến đây, tình trạng thất nghiệp sẽ nhanh chóng giảm thiểu do quy mô hoạt động của các tập đoàn này cho phép thu hút tỷ lệ 10% nguồn lực lao động vào năm 1973, con số vẫn còn là ít trong điều kiện tuyệt đối như thế nếu so sánh với các quốc gia rộng lớn hơn. Thêm nữa, các quốc gia có diện tích nhỏ thường có khuynh hướng tập trung vào khai thác lĩnh vực dịch vụ khi việc khan hiếm nguồn đất đai xem ra là điều bất lợi cho việc theo đuổi các mục tiêu kinh tế nông nghiệp. Về mặt bất lợi, diện tích đất nước nhỏ hẹp cũng bao hàm ý nghĩa diện tích đất đai khan hiếm, làm cho việc xây dựng nhà ở bước đầu đều vượt ngoài khả năng của hầu hết dân chúng. Hơn nữa, hiện vẫn còn đang có nhiều ý kiến cho rằng dân số Singapore hiện nay đang ở dưới mức tối ưu cho phép. Một số nhận xét cho rằng con số các nhà khoa học của Singapore hoạt động trong lĩnh vực chuyên sâu không nhiều lắm để có thể cùng góp sức tạo nên những tổ chức mà ảnh hưởng của nó vô cùng lớn, như kiểu thung lũng Silicon vậy. Vấn đề nhân lực hạn chế đặt ra những yêu cầu đòi hỏi đất nước phải có chính sách phân bổ người có năng lực hay có bằng cấp chuyên môn rộng khắp hơn cho các vùng lãnh thổ. Thêm một yếu tố nữa, diện tích nhỏ hẹp của thị trường tiêu thụ, theo lập luận truyền thống, sẽ dẫn đến những mặt hạn chế trong việc thay đổi chính sách nhập khẩu. Đi liền theo vấn đề này là việc thiếu hụt nguồn tài nguyên thiên nhiên đối với một diện tích đất đai nhỏ hẹp như vậy. Điều khá quan trọng, những quốc gia nhỏ bé thường có khuynh hướng tỏ ra yếu thế về mặt kinh tế đối với sự phát triển mang tính toàn cầu và thường dễ bị tác động từ những khủng hoảng kinh tế từ phía bên ngoài. Thật ra vấn đề diện tích dường như cho thấy không đóng một vai trò nào dù bằng cách này hay cách khác. Những mặt hạn chế của một thị trường tiêu thụ nhỏ vẫn có thể được khắc phục bằng việc mở rộng thương mại. Nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể được chuyển đến từ các quốc gia láng giềng, do đó vấn đề diện tích nhỏ hẹp đã chứng tỏ không hề là yếu tố bất lợi đối với Singapore. Nhưng yếu tố vùng lãnh thổ nhỏ hẹp không phải là một điều kiện cần và đủ cho sự phát triển tăng tốc. Đỉnh cao đột phá của Trung Quốc kể từ thời điểm năm 1978 đã chứng tỏ là vẫn có khả năng thực hiện, dù chẳng dễ dàng chút nào, việc phát triển tăng tốc đối với một quốc gia có diện tích đất đai quá rộng lớn. Tương tự như vậy, các quốc gia nhỏ bé khác đang trên đà phát triển cũng khó có thể đạt được thành quả tương đồng với các thành tích tăng trưởng của Singapore. Quyền lực quốc gia Việc trở thành một quốc gia độc lập và có chủ quyền phải chăng là một điều kiện thuận lợi tư nhiên? Là một quốc gia độc lập có chủ quyền, Singapore có thể thiết lập các chính sách riêng của đất nước theo một đường lối linh hoạt nhằm thích ứng với yêu cầu của từng hoàn cảnh. Trong một chừng mực nào đó thì những chính sách này được vạch ra để thúc đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Do đó, khả năng thiết kế được một viễn cảnh kinh tế chính trị riêng của đất nước hướng về tương lai, cũng chính là một điều kiện hết sức thuận lợi. Là một quốc gia có chủ quyền, Singapore có khả năng đối phó nhanh chóng với những thách thức mới và luôn tôi luyện ý chí. Các chính sách được luật pháp hậu thuẫn. Không giống các đô thị khác, chính quyền thủ đô Singapore nắm quyền kiểm soát vấn đề nhập cư từ các vùng nội địa thuộc khu vực, kể cả về mặt tình trạng chất lượng và số lượng của người lao động, đồng thời cũng kiểm soát vấn đề phúc lợi xã hội của những lao động tạm thời. Singapore cũng thực hiện việc chuyển nguồn thu nhập đến những khu vực phụ cận nghèo khó hơn dưới hình thức chuyển tiền của người lao động, không bằng hình thức thông qua ngân sách nhà nước như chính phủ vẫn thường phải sử dụng đối với những vùng chưa phát triển trong nước. Chính vì lý do này, có nhiều quan điểm cho rằng nền độc lập đối với Singapore chỉ là một niềm ân sủng khéo được che đậy. Trong chừng mực nào đó thì Singapore đã thụ hưởng rất nhiều thuận lợi từ việc tách ra khỏi Malaysia, trong đó phải kể đến việc chuyển thu nhập ra ngoài ở mức thấp hơn trước đây đồng thời lại tiếp nhân dòng chảy nhân tài và nguồn vốn từ Malaysia đổ vào. Nhưng thành tích tăng trưởng của Malaysia dường như cũng không vì thế mà chịu nhiều hậu quả, dù có sư hao hụt đáng kể trong việc chuyển nguồn thu nhập (Một nhận định khách quan bên lề nội dung sách đã từng nêu ra vấn đề liệu thành tích tăng trưởng kinh tế của Malaysia sẽ trở nên mạnh hơn hay yếu đi nếu xảy ra sự kiện đất nước Singapore vẫn còn ở lại trong nền chính thể Liên bang). Kiến tạo được vị thế của một đất nước có quyền lực dù vậy không hề là một thang thần dược đối với các quốc gia nhỏ bé. Phải nỗ lực rất nhiều cho điều kiện đạt được này. Nước Bỉ thường được liệt kê là một đất nước có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới. Điều này góp phần tạo nên vị thế cho quốc gia này, một phần nhờ vào sự chuyên biệt của thị trường tài chính dựa trên những điều kiện thuận lợi về thuế và mức thuế điều chỉnh, và cũng còn nhờ vào chỗ đứng của quốc gia này trong cơ cấu điều hành khối châu Âu. Nhưng cũng có nhiều đảo quốc nhỏ bé có chủ quyền độc lập lại không phát triển thành công. Các đảo quốc Dominica và Saint Lucia thuộc vùng Caribbean với diện tích đất đai tương tự như Singapore nhưng tăng trưởng kinh tế và mức thu nhập lại thấp hơn Singapore rất nhiều; lại thêm một lần nữa cho thấy ngoài vấn đề diện tích đất đai thì những yếu tố thuận lợi cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với đất nước Singapore. Kết luận Hoàn cảnh khởi đầu của Singapore đều bao gồm cả hai yếu tố thuận lợi và bất lợi. Với những thành quả gặt hái được ở tương lai sau này và nhìn lại những thành công đầy ấn tượng đã được thực hiện trong bốn thập niên vừa qua, có thể rút ra kết luận rằng có một yếu tố cân bằng hết sức thuận lợi giữa các hoàn cảnh tự nhiên thiên phú ban đầu. Nhưng đối với đất nước này thì một vị trí địa lý thuận lơi, một di sản lịch sử ôn hòa và là điểm đến của người nhập cư trong thời gian gần đây, tất cả chưa phải là những điều kiện bảo đảm cho các mục tiêu phát triển kinh tế sau này. Điều rõ ràng nhận thấy là Singapore đã biết nắm bắt mọi vận hội để trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, biết khai thác đến cùng những cơ hội trời cho vào thời điểm khởi đầu đầy thuận lợi, đồng thời cũng ra sức lao động miệt mài và sáng tạo để có khả năng vượt qua được những khó khăn nội tại và ngoại tại. Dựa vào thế mạnh của những yếu tố thuận lợi, Singapore đã tìm cách chế ngự những điểm bất lợi về mặt lich sử và địa lý bằng việc mau chóng định hướng tăng trưởng kinh tế ưu tiên cho xuất khẩu thông qua hình thức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Đất nước này đã thiết lập các chính sách kinh tế mang lại hiệu quả, nạn thất nghiệp, thiếu hụt nhà ở, tình trạng dân trí kém trong tầng lớp nhân dân lao động, tất cả các vấn đề này đều được giải quyết thành công. Các giai đoạn suy thoái là tác nhân thúc đẩy Singapore phải xác định những đường hướng chiến lược mới, tiêu biểu như trường hợp sau tuyên bố rút lui của quân đội Anh vào thời điểm năm 1967. Nhiều cơ hội không phải tự nhiên đến, mà là chờ sẵn để được mở ra. Đầu thập niên 1990, thủ đô Singapore được xếp hạng thứ tư trên thế giới, sau New York, London và Tokyo về mật độ lưu lượng trao đổi ngoại tệ hàng ngày. Những hoàn cảnh khởi đầu của Singapore vào năm 1965 chính là một phương tiện góp phần đưa tới những sự kiện như thế. Đất nước đã có sẵn hệ thống ngân hàng thương mại, một quá trình giao thương trong khu vực và một cơ cấu quản lý về mặt luật pháp làm hậu thuẫn cho thị trường, cùng sự thuận lợi về mặt địa hình khi nằm trong đới địa lý có chu kỳ ổn định. Chính quyền đã phát hiện một cơ hội cung cấp các dịch vụ tài chính quốc tế vào điểm giao thời khi thị trường San Francisco kết thúc giao dịch vào buổi chiều và thị trường Zurich mở cửa giao dịch vào sáng hôm sau, mang lại lần đầu tiên khả năng giao dịch thương mại toàn cầu chỉ trong vòng hai giờ đồng hồ. Vào năm 1968, chính phủ Singapore đã đặt vấn đề mời Ngân hàng Quốc gia Mỹ đặt định một đơn vị tiền tệ riêng của khu vực Đông Nam Á nhằm giao dịch chính thức với đồng đô la Mỹ và các đơn vị ngoại tệ mạnh khác. Theo sau đó, nhà nước cũng cam kết đưa vào thực hiện mọi chính sách bổ sung nhằm thúc đẩy hơn nữa quá trình phát triển của hoạt động giao dịch này, có thể kể đến: một đơn vị tiền tệ có giá trị ổn định bảo đảm độ tin cậy, sự gầy dựng tiếng tăm của một trung tâm tài chính đầy uy tín với những hoạt động thường trực nhằm giám sát và điều chỉnh hoạt động giao dịch ngân hàng, cùng sự hậu thuẫn hỗ trợ của các điều luật ban hành trong trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại. Singapore đã có những mặt thuận lợi và bất lợi đáng kể. Nhưng đất nước đã giải quyết được cả hai vấn đề này. Cho dù máy điều hòa không khí đã được sáng chế từ năm 1902, nhưng phải đến bảy thập niên sau đó, cũng chính nhờ vào sự tăng trưởng kinh tế mà chiếc máy này mới trở nên thông dụng ở Singapore. Việc khắc phục sức nóng và độ ẩm làm cho khí hậu đảo quốc này luôn dễ chịu quanh năm, góp phần nâng cao hiệu năng lao động trong các xưởng máy và văn phòng làm việc. Múc dự trữ cao cho phép việc đầu tư, kể cả việc nới rộng diện tích quần đảo: việc khai phá đất đai đã làm tăng thêm 20% diện tích đất cho Singapore trong giai đoạn 1960-2005, tạo thêm mặt bằng lý tưởng dành cho các hoạt động sản xuất công nghiệp, các dịch vụ vận chuyển hàng không và đường bộ, dành cho xây dựng nhà ở và các công trình hoạt động ngoài trời[42]. Sự giàu có sung túc cũng tạo điều kiện hỗ trợ cho các phương tiện diệt trừ căn bệnh sốt rét, nhờ đó sức khỏe cộng đồng được cải thiện đáng kể. Cũng nhờ vào các sách lược đúng đắn mà Singapore đã biến diện tích nhỏ hẹp của đất nước trở thành yếu tố thuận lợi. Lãnh thổ nhỏ hẹp tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân bố các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng, khi đem điều này so sánh với các quốc gia rộng lớn với những khu vực đất đai dân cư thưa thớt, nhưng chính sách sáng suốt chính là điều kiện tiên quyết giúp Singapore đứng vào vị trí số một với thành tích có tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 và 5 tuổi ở mức thấp nhất thế giới[43]. Vẫn còn tồn tại các mối quan hệ lao động với nhiều bất lợi ban đầu cùng với tình trạng khá bất ổn trong các ngành sản xuất công nghiệp. Như ông Lý Quang Diệu đã từng phát biểu: "Mãi cho đến năm 1962, ở Singapore vẫn không ngừng diễn ra những cuộc đình công". Vào năm 1969, tình trạng trên đã chấm dứt. Trong vòng bảy năm, các mối quan hệ trong nền kinh tế công nghiệp đã có những bước chuyển hóa sâu sắc[44]. Các chính sách sáng suốt và một cơ cấu quản lý hiệu quả đã góp phần chế ngự được một số yếu tố bất lợi, dẫn đến một quá trình hoàn thiện, vấn đề này sẽ được đề cập ở hai chương tiếp theo. [31] Montesquieu (1758), cuốn thứ 14, chương 2 [32] Sachs (2005) đã nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố địa lý đối với những thảm họa của các quốc gia châu Phi như nạn hạn hán và sốt rét, sự thiếu kém cơ sở hạ tầng và căn bệnh HIV/AIDS [33] Landes (1999), trang 7